Upload
others
View
4
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
hoav
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 15/11)
VN - Index 897,15 0,42%
HNX - Index 101,02 0,18%
D.JONES CK Mỹ 25.289,27 0,83%
STOXX CK C.Âu 3.190,31 0,47%
CSI 300 CK TQ 3.242,37 1,17%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 16/11)
SJC Ng.đ/L 36.600 0,19%
Quốc tế USD/Oz 1212.80 0,41%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.721 0,01%
EUR/USD 1,1330 0,12%
Dầu
WTI USD/th 56,50 0,98%
6
Theo NHNN, sau 15 năm thi hành Quyết
định 130 năm 2003 của Chính phủ về việc
bảo vệ tiền Việt Nam đã bộc lộ một số hạn
chế về cơ sở pháp lý và thực tiễn thi hành
chưa phù hợp với thực tế hiện nay. Trên thực
tế, theo báo cáo của các tổ chức tín dụng và
khảo sát của NHNN, cơ quan công an, ngoại
tệ giả đã xuất hiện trong các giao dịch vãng
lai, có nhiều trường hợp ngoại tệ giả tinh vi,
khó phát hiện và gây thiệt hại cho các tổ
chức được phép giao dịch ngoại tệ, tổ chức
kinh tế và cá nhân. Do đó, NHNN đang đề
nghị xây dựng Nghị định của Chính phủ về
đấu tranh phòng, chống tiền giả và bảo vệ
tiền Việt Nam.
Tin nổi bật
NHNN đề xuất quy định xử lý ngoại tệ giả
Con số 486.000 tỷ đồng đã phản ánh hết
thực trạng của nợ xấu?
Ngân hàng cho vay 'bia kèm lạc'
Phác hoạ bức tranh thu - chi NSNN 2019
IPAF: Việt Nam sẽ trụ vững trong bối cảnh
toàn cầu bất ổn
3 trong 4 nền kinh tế lớn nhất thế giới đang
gặp khó tăng trưởng
Chủ tịch FED: “Kinh tế Mỹ đang rất tốt”
Thứ Sáu, ngày 16/11/2018
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Ngân hàng Nhà nước đề xuất
quy định xử lý ngoại tệ giả
NHNN VN cho biết đang đề nghị xây dựng Nghị định của Chính phủ về
đấu tranh phòng, chống tiền giả và bảo vệ tiền VN. Theo NHNN, sau 15
năm thi hành Quyết định 130 năm 2003 của Chính phủ về việc bảo vệ
tiền VN đã bộc lộ một số hạn chế về cơ sở pháp lý và thực tiễn thi hành
chưa phù hợp với thực tế hiện nay. Do đó, việc ban hành Nghị định thay
thế Quyết định 130 trong bối cảnh hiện nay là cần thiết để khắc phục
những bất cập của quy định pháp luật về công tác đấu tranh phòng,
chống tiền giả và bảo vệ tiền VN, giúp cho công tác này hoạt động đạt
hiệu quả cao hơn, góp phần đảm bảo an ninh tiền tệ quốc gia. Cụ thể,
dự thảo đề xuất bổ sung quy định việc xử lý ngoại tệ giả, ngoại tệ nghi
giả bao gồm việc thu giữ ngoại tệ giả, tạm thu giữ ngoại tệ nghi giả;
giám định ngoại tệ; đóng gói, lưu giữ, bảo quản, vận chuyển ngoại tệ
giả; giao nộp, thu nhận, tiêu hủy ngoại tệ giả; thông tin về ngoại tệ giả.
Thực tế, theo báo cáo của các TCTD và khảo sát của NHNN, cơ quan
công an, ngoại tệ giả đã xuất hiện trong các giao dịch vãng lai, có nhiều
trường hợp ngoại tệ giả tinh vi, khó phát hiện và gây thiệt hại cho các tổ
chức được phép giao dịch ngoại tệ, tổ chức KT và cá nhân. Trước đây,
Thông tư liên bộ số 14/TTLB ngày 04/11/1992 "Về công tác bảo vệ an
ninh và tài sản Nhà nước do ngành NH quản lý và bảo quản" chỉ quy
định trách nhiệm phối hợp giữa ngành NH và Bộ Nội vụ trong việc đấu
tranh kiên quyết với các hoạt động phá hoại tiền tệ, SX, tàng trữ, lưu
hành tiền giả (nội tệ và ngoại tệ giả)...; không quy định cụ thể về xử lý tiền
giả và không còn phù hợp với thực tiễn hoạt động KD ngoại hối hiện
nay. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có văn bản QPPL quy định về công tác
đấu tranh phòng, chống tiền giả tiền VN (QĐ số 130/2003/QĐ-TTg), chưa
có văn bản QPPL quy định việc xử lý ngoại tệ giả, ngoại tệ nghi giả, dẫn
đến ngoại tệ giả vẫn có thể lưu hành ngoài XH, gây khó khăn, lúng túng
cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi gặp phải ngoại tệ giả, ngoại tệ
nghi giả. Thực tế này đòi hỏi phải có quy định về xử lý ngoại tệ giả,
ngoại tệ nghi giả. Vì vậy, NHNN đề xuất bổ sung quy định về xử lý
ngoại tệ giả, ngoại tệ nghi giả vào Nghị định mới thay thế Quyết định số
130/2003/QĐ-TTg. Phương án này đảm bảo tính thống nhất của hệ
Tài chính – Ngân hàng
3
thống văn bản QPPL và đạt được mục tiêu quản lý nhà nước trong lĩnh
vực tiền tệ. Bên cạnh đó, dự thảo Nghị định cũng đề xuất bổ sung các
quy định chi tiết về sao chụp tiền VN, quy định về trách nhiệm của lực
lượng cảnh sát biển và quy định việc tiêu hủy tiền giả, tiền VN bị hủy
hoại trái pháp luật là vật chứng/tang vật trong các vụ án…
Nỗi lo thanh khoản tiền đồng
Nếu như cùng thời điểm này giai đoạn năm trước, LS qua đêm trên thị
trường LNH vẫn ổn định ở mức thấp <1%, thì hiện tại các NH đang phải
vay mượn qua đêm với mức LS ngày càng tiến gần đến vùng 5%. Đây
là một trong những dấu hiệu rõ ràng cho thấy thanh khoản tiền đồng
của hệ thống đã trở nên căng thẳng. Điều đáng lưu ý là dù trong tháng
10, NHNN có 4 tuần bơm ròng liên tiếp, với tổng giá trị lên đến 87,649 tỷ
đồng, riêng trong tuần cuối tháng 10 là 46,414 tỷ đồng, nhưng vẫn
không đủ để giúp LS trên thị trường 2 hạ nhiệt. Không chỉ LS trên thị
trường 2 dâng lên, mà động thái liên tiếp điều chỉnh tăng LS huy động
VNĐ của các NH thời gian qua càng củng cố cho nhận định sự thiếu hụt
thanh khoản tại các NH. Và với nhu cầu vốn mùa cao điểm cuối năm,
thì thanh khoản của hệ thống khả năng sẽ càng đối mặt với căng thẳng
gia tăng từ nay cho đến trước tết Nguyên đán, nếu như nhà điều hành
không có các chính sách hỗ trợ phù hợp cho hệ thống. Theo quy định
thì các DN XK sẽ phải tất toán các hợp đồng vay ngoại tệ chậm nhất
vào cuối năm nay. Điều này dẫn đến việc các DN sẽ cơ cấu các khoản
nợ từ ngoại tệ sang tiền đồng. Do đó, một lượng lớn khoản vay ngoại tệ
cũng sẽ được chuyển thành dư nợ tiền đồng, do đó càng làm tăng nhu
cầu vốn VNĐ. Chẳng những vậy, trong cơ cấu loại tiền cho vay cũng có
sự thay đổi mạnh mẽ, với dư nợ tiền đồng tăng mạnh trở lại, trong khi
dư nợ ngoại tệ giảm dần càng khiến cung cầu vốn tiền đồng của NH
đứng trước khả năng thiếu hụt. Dự trữ ngoại hối cũng 3,5 tỷ USD
trong các tháng gần đây, tương ứng với lượng lớn vốn tiền đồng bị hút
ra khỏi thị trường là >81.000 tỷ đồng. Ngoài ra, các NH cũng có thể đối
mặt với lượng vốn từ NSNN bị rút ra mạnh trong những tháng cuối năm.
Bên cạnh đó, các yếu tố như nhu cầu vốn để đáp ứng những quy định,
tỷ lệ an toàn vốn mới sắp có hiệu lực, áp lực lạm phát hay diễn biến
đồng nhân dân tệ liên tiếp bị phá giá tác động giảm giá tương tự lên tiền
đồng cũng sẽ khiến mặt bằng LS biến động khó lường, bên cạnh những
nỗi lo về thanh khoản từ nay đến hết năm.
4
Con số 486.000 tỷ đồng đã phản
ánh hết thực trạng của nợ xấu?
Ngày 15/11, tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị quốc tế Diễn đàn các Công
ty quản lý tài sản công quốc tế (IPAF) với chủ đề "Củng cố an ninh tài
chính Châu Á và giải pháp thực hiện". Ông Eric Sidgwic, GĐ ADB tại
VN, Chủ tịch luân phiên của IPAF cho rằng chủ đề an ninh tài chính
đang nóng trong những tháng vừa qua, đặc biệt ở châu Á. Những biến
động trên thị trường như đồng USD tăng lên, căng thẳng thương mại,
tăng trưởng KT chậm đã đặt ra vấn đề cần tìm cách tạo bước đệm
chống chọi với những cú sốc bên ngoài. Ông Phạm Mạnh Thường,
PTGĐ Công ty mua bán nợ VN DATC cho biết con số nợ xấu đã có sự
thay đổi đáng kể, giảm từ 7,7% cuối 2017 xuống còn 6,67% cuối tháng
6/2018, #486.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo ông Thường, con số này mới
chỉ phản ánh quy mô nợ xấu trong các TCTD chứ chưa phản ánh hết
mức độ nợ xấu của nền KT. Cần phải tìm cách để hệ thống NH khi duy
trì được tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp từ đó kiểm soát được rủi ro và làm tốt
vai trò kênh truyền dẫn vốn thúc đẩy tăng trưởng KT. Nhiều diễn giả cho
rằng, vẫn còn nhiều nút thắt cần tháo gỡ cho thị trường mua bán nợ ở
VN. Trong đó, ông Phạm Mạnh Thường cho rằng, ở góc độ của DATC,
một trong những vấn đề đặt ra hiện nay là các khoản nợ có tính chất
"Nhà nước" có cơ chế xử lý rất cứng, dẫn đến sự lệch pha với xử lý các
khoản nợ xấu thương mại và nhiều khi gây đổ vỡ phương án tái cơ cấu
DN. Ông kiến nghị Chính phủ nên cho phép áp dụng cơ chế thị trường
khi xử lý các khoản nợ có tính chất "nhà nước" bình đẳng như các
khoản nợ thương mại để tạo sự hài hòa lợi ích giữa thu hồi nợ với bảo
vệ sự sinh tồn của DN. Ông Lê Việt Dũng, Phó trưởng ban phụ trách
Ban Giám sát tổng hợp, NFSC cho rằng, (i) cần chú trọng hình thành
sàn giao dịch mua bán nợ, đây là nơi giới thiệu, cung cấp thông tin
chính thức, đẩy đủ nhất về các khoản nợ đến các NĐT. (ii) đa dạng
hàng hóa trên thị trường mua bán nợ, đồng thời cần xây dựng khuôn
khổ pháp lý cho hoạt động CK hóa các khoản nợ. (iii) phát triển hệ
thống các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đối với chủ nợ và tổ chức định giá
độc lập, giúp cho bên mua và bên bán xác định được giá trị thị trường
của khoản nợ, từ đó xem xét quyết định việc mua bán. (iv) cần tăng
cường năng lực tài chính của các đơn vị tham gia thị trường như VAMC,
DATC và các AMC của TCTD.
5
Ngân hàng cho vay 'bia kèm lạc'
Từng bước giảm cho vay đơn lẻ rời rạc, một số NH bắt đầu tăng cho
vay và cung ứng DV theo hệ sinh thái, chuỗi mà có chuyên gia nói vui là
“cho vay bia kèm lạc”. Mặc dù được cho là an toàn nhưng mô hình này
vẫn xuất hiện rủi ro nếu NH lơ là. Theo ông Nguyễn Trí Hiếu, chuyên
gia tài chính độc lập, hệ sinh thái được hiểu là các liên kết hàng dọc và
hàng ngang. Vai trò của NH là cung ứng vốn và tiện ích NH cho các DN
trong hệ sinh thái, kể cả hàng dọc lẫn hàng ngang. Nhìn nhận về cho
vay theo hệ sinh thái, chuyên gia Nguyễn Trí Hiếu: “Cho vay chuỗi hoặc
hệ sinh thái, NH vừa kiểm soát được vốn khi mà tiền ra, tiền vào đều
nằm trong hệ thống tài khoản NH, giảm đáng kể rủi ro so với cho vay
đơn lẻ. Cùng đó, NH còn bán chéo DV khác để nâng hàm lượng giá trị
gia tăng”. Theo ông Hiếu, trước đây, NH thường cho vay và cung cấp
DV cho tất cả các nhóm đối tượng và thường không quan tâm đến hệ
sinh thái. Kéo theo đó, quan niệm về thị trường ngách, phân khúc khách
hàng chuyên biệt luôn mờ nhạt trong hoạt động NH. Cũng chính vì vậy,
các NH luôn có nhu cầu mở rộng mạng lưới để hút khách. Ở Hà Nội,
TP.HCM và các đô thị lớn, CN, PGD NH san sát cạnh nhau. Dẫn đến
tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh trong việc chèo kéo khách gửi,
khách vay. Sự việc trầm trọng đến mức NHNN phải ban hành quyết
định hạn chế mở CN, PGD ở các thành phố; đồng thời, khuyến khích
mở mạng lưới ở nông thôn. Theo ông Cấn Văn Lực, “KD NH bây giờ
cũng phải theo kiểu bán bia kèm lạc và các đồ nhắm, đóng gói DV cho
khách hàng. Nhờ đó, khách hàng tiện lợi, NH giữ được khách, vừa tăng
giá trị thu được”. Ngoài ra, NH kiểm soát khá tốt dòng tiền bởi lẽ, tiền ra
chỗ này, vào chỗ kia đều theo dõi được. Tuy nhiên, mô hình này vẫn
xuất hiện rủi ro, đó là chỉ cần NH lơ là một khâu, một mắt xích bị ngắt
quãng, sẽ tác động xấu đến nợ vay NH. Do vậy, để tránh rủi ro thì NH
phải nắm được bản chất và nguyên lý hoạt động của chuỗi là gì. Tiếp
đó, phải kiểm soát tốt dòng tiền và hệ thống tài khoản của khách hàng;
thậm chí, ở một số trường hợp phải cần đến tài sản thế chấp. Ngoài ra,
cũng theo ông Lực NH phải có khả năng liên kết với các đối tác thương
mại là bạn hàng lâu năm của khách hàng đang quan hệ với NH. Qua
đó, NH sẽ nắm bắt được thông tin cũng như sự dịch chuyển tài sản (nếu
có) của khách vay để sớm lên phương án ứng phó.
6
Phác hoạ bức tranh thu - chi
NSNN năm 2019
IPAF: Việt Nam sẽ trụ vững trong
bối cảnh toàn cầu bất ổn
Công ty TNNN Mua bán nợ VN (DATC) phối hợp NH phát triển Châu Á
(ADB) tổ chức hội nghị thường niên và Hội nghị quốc tế Diễn đàn các
công ty quản lý tài sản công quốc tế (IPAF) lần thứ 4 với chủ đề "Củng
cố an ninh tài chính châu Á và giải pháp thực hiện". Ông Lê Hoàng Hải,
Chủ tịch Hội đồng thành viên DATC cho biết trong cuộc họp chiều qua
giữa các thành viên IPAF và ADB đã kết nạp thêm thành viên mới là
công ty quản lý tài sản của các TCTD (VAMC). Theo ông Hải, Hội nghị
năm nay thảo luận về chủ đề "Củng cố an ninh tài chính Châu Á và giải
pháp thực hiện" là vấn đề cấp thiết để thị trường tài chính từng quốc gia
thành viên và KV phát triển ổn định và bền vững. Theo giám đốc ADB
VN, 2 thập kỷ vừa qua các nước KV Châu Á có khả năng chống chịu tốt
hơn với khủng hoảng. Các bài học từ khủng hoảng cũng chỉ ra tầm
quan trọng trong việc xây dựng khả năng ứng phó và giải pháp liên
quan đến quản lý tài sản, quản lý về dự trữ ngân sách quốc gia, dự trữ
ngoại hối, điều hành tỷ giá, nợ xấu, giám sát mạnh mẽ, phát triển sâu
sắc thị trường vốn trong nước, có sự kết nối để có thể ứng phó với rủi ro
tài chính mang tính hệ thống bên ngoài. Ông Arief Ramayandi, chuyên
gia kinh tế ADB chia sẻ Châu Á sẽ tăng trưởng vững chắc 6% vào năm
2018 và 2019 tỷ lệ tăng trưởng sẽ #5,8%, điều này được thúc đẩy nhờ
sự tăng trưởng của Trung Quốc và Ấn Độ, nhu cầu nội địa mạnh mẽ
Kinh tế Việt Nam
7
nhờ nhu cầu tiêu dùng tư nhân tăng. Lạm phát được kiểm soát dù giá
nhiên liệu và thực phẩm tăng. Rủi ro lớn nhất bắt nguồn từ leo thang
xung đột giữa Trung Quốc và Mỹ cũng như sự bất ổn của thị trường tài
chính toàn cầu. Lạm phát vẫn được kiểm soát, giá tiêu dùng toàn cầu
vẫn duy trì ở mức 2,8% cho đến năm 2019.
Quản lý nợ công còn nhiều việc
phải làm
Dù nợ công trong những năm gần đây có xu hướng tăng chậm lại và
hiện tỷ lệ nợ công của VN so với GDP đã giảm xuống còn 61,4%,
nhưng các chỉ số nợ vẫn còn cao, áp lực nợ công vẫn rất lớn, nhiều rủi
ro tiềm ẩn. Trong khi đó, VN đã không còn nguồn vay ưu đãi từ WB và
từ đầu 2019 cũng không được vay ưu đãi từ ADB, mà sẽ chỉ còn các
khoản vay với điều kiện thị trường. Nhưng VN vẫn cần tiếp tục vay nợ
để đầu tư, để bù đắp thâm hụt ngân sách. Điều đó cho thấy áp lực
quản lý và sử dụng hiệu quả nợ công ngày càng lớn hơn nhiều. Trước
tình hình này, phải tính toán chặt chẽ hơn khi vay nợ, phải đồng bộ
quản lý nợ với quản lý ngân sách và đầu tư công để có thể quản trị rủi
ro của nợ công. Bộ Tài chính đã phối hợp cùng Nhóm chuyên gia của
WB xây dựng Khung cải cách về quản lý nợ công, hướng đến quản lý
nợ công bảo đảm sự đồng bộ giữa quản lý nợ với quản lý ngân sách và
đầu tư công, kiểm soát các chỉ tiêu an toàn nợ, các trần ngưỡng an
toàn nợ; kiểm soát rủi ro đối với danh mục nợ công. Với mục tiêu như
vậy thì Khung cải cách công tác quản lý nợ công sẽ là một ma trận tổng
thể nhưng bao gồm các hoạt động rất cụ thể, có lộ trình thực hiện rõ
ràng. Áp dụng các mô hình phân tích bền vững nợ, mô hình xây dựng
Chương trình quản lý nợ trung hạn nhằm quản lý nợ, quản lý rủi ro một
cách chủ động; cải thiện công tác huy động vốn thông qua việc đa dạng
hóa các hình thức huy động vốn trong nước của Chính phủ, mở rộng,
tiếp cận các hình thức huy động vốn nước ngoài, thay thế dần cho
nguồn vốn ODA… Theo kinh nghiệm của ông Rodrigo Cabral - Cán bộ
tài chính cao cấp của WB, cần phải có những cải cách về quản lý nợ.
Trong đó, cơ quan quản lý nợ cần phải lựa chọn cách vay cho phù hợp
ở các thời điểm khác nhau; cần tính toán đánh giá mức độ, tính chất
khoản vay có phù hợp với sử dụng không. “Nợ công tới đây sẽ là ít dần
ưu đãi mà vay thương mại nghĩa là tiếp cận nhiều hơn với thị trường. Vì
vậy, ngay từ khâu đàm phán đã phải kiểm soát chặt chẽ. Đồng thời phải
nâng cao năng lực quản lý tài chính và năng lực tiếp cận thị trường và
khả năng tiếp cận vốn trên thị trường quốc tế của Chính phủ”.
8
TS Nguyễn Đình Cung: Gần 70%
điều kiện kinh doanh cắt giảm
chưa thực chất
Ông Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Quản lý KT trung ương
(CIEM), cho biết mới 1/3 số điều kiện KD cắt giảm, bổ sung sửa đổi là
thực chất. Trong đó, lượng điều kiện KD cắt giảm bãi bỏ cũng không
nhiều và chủ yếu là cắt giảm về thời gian, số lượng, địa điểm, chất
lượng nhân sự... 2/3 trong số điều kiện KD trong danh sách cắt giảm
chỉ thay đổi về hình thức như gộp nhiều điều kiện KD làm một, lồng
ghép vào các quy chuẩn, tiêu chuẩn mà không thay đổi một cách thực
chất. Nhiều điều kiện KD được sửa đổi với mục đích tránh gây sự chú ý
và không có ý nghĩa cải cách. Chẳng hạn, điều kiện KD mới bỏ tên bộ
ngành trong câu văn, nhưng về quản lý Nhà nước chỉ có duy nhất một
bộ chịu trách nhiệm. Trưởng ban pháp chế Phòng Thương mại & Công
nghiệp VN (VCCI) Đậu Anh Tuấn cũng cho hay nhiều bộ ngành tuyên
bố cắt giảm 50% điều kiện KD nhưng thực chất chủ yếu là đơn giản
hóa. Nhiều quy định chỉ thay đổi cách diễn đạt, không có ý nghĩa về
mặt cắt giảm. Theo ông Tuấn, trước hết, cần phải có cơ quan thuộc
Chính phủ rà soát và chuẩn hóa các quy định. Chỉ khi tách chức năng
ban hành văn bản với việc cấp phép thì điều kiện KD mới giảm bớt.
Cùng chung quan điểm, TS.Lê Đăng Doanh và TS.Nguyễn Đình Cung
cũng cho rằng cần có một "bộ lọc" đối với các điều kiện KD, cần có một
cơ quan độc lập thẩm định tất cả các văn bản pháp luật nhưng không
chịu chi phối bởi bộ ngành, cơ quan quản lý Nhà nước nào, không điều
hành DN, không cấp phép KD.
9
3 trong 4 nền kinh tế lớn nhất thế
giới đang gặp khó tăng trưởng
Theo CNN Business, nền KT toàn cầu đang giảm tốc và không loại trừ
khả năng sự giảm tốc này có thể lan tới Mỹ vào 2019. Trong Q.III, KT
Nhật và Đức cùng suy giảm, trái ngược với sự tăng trưởng mạnh mẽ
của KT Mỹ. KT TQ xuất hiện ngày càng nhiều những dấu hiệu giảm tốc.
Hiện nay, TQ phải đối mặt với tăng trưởng tiêu dùng yếu đi, niềm tin suy
giảm và TTTD gây thất vọng. TQ có thể sẽ sớm đẩy mạnh các biện
pháp kích cầu để giảm bớt ảnh hưởng của chiến tranh thương mại với
Mỹ. Mặc dù, KT Đức và Nhật có thể hồi phục trong Q.IV nhưng KT toàn
cầu được dự báo sẽ tăng trưởng chậm lại trong 2019. IMF đã dự báo
tăng trưởng KT toàn cầu chỉ đạt 2,5% trong 2019, sv mức 2,9% của
2018. Những "đám mây đen" đang phủ bóng lên triển vọng tăng trưởng
KT toàn cầu bao gồm chiến tranh thương mại và tác động của việc Mỹ
nâng LS đối với các thị trường mới nổi. Italy có thể sẽ là nhân tố châm
ngòi cho một cuộc khủng hoảng nữa ở châu Âu. Theo các chuyên gia
KT: "Hiện tại, chúng tôi không nghĩ đến những khả năng như xảy ra một
cuộc khủng hoảng tài chính nhưng tăng trưởng sẽ giảm nhiều vào năm
tới. Rất có thể là như vậy. Chúng tôi cho rằng dự báo của IMF là quá
lạc quan… Chúng tôi cho là KT Mỹ sẽ giảm tốc đáng kể. Gói kích cầu
tài khóa chỉ là tạm thời, mà FED lại đang nâng LS".
Chủ tịch FED: “Kinh tế Mỹ đang
rất tốt”
Ngày 14/11, chủ tịch FED miêu tả bức tranh KT toàn cầu là tốc độ tăng
trưởng đang "giảm dần một chút" nhưng "không phải là sự giảm tốc tồi
tệ. Tôi rất vui về tình trạng của nền KT Mỹ hiện nay. Chính sách của
chúng tôi là một phần lý do vì sao mà nền KT của chúng ta lại đang tốt
đến như vậy". Sự tin tưởng của ông vào sức khỏe KT Mỹ đã biến thành
cam kết của FED về tiếp tục nâng LS với tốc độ từ tốn. Theo ông, trong
2019, NĐT nên biết rằng việc FED nâng LS hàng quý sẽ không còn là
"thông lệ": "Chúng tôi sẽ phải nghĩ đến việc nâng LS thêm bao nhiêu,
với tiến độ như thế nào. Để làm được điều đó, chúng tôi sẽ theo đõi
thực sự cẩn trọng sự tương tác giữa thị trường và nền KT với chính
sách của chúng tôi.. Sứ mệnh của chúng tôi là vì các điều kiện KT Mỹ:
giá cả ổn định, việc làm tối đa và ổn định tài chính nhưng những gì xảy
Kinh tế Quốc tế
10
ra trên thế giới cũng thực sự quan trọng. Một nền KT Mỹ tốt sẽ tốt cho
KT toàn cầu". Tình hình tài khóa hiện nay của Mỹ rất đáng ngại, khi nợ
công và thâm hụt ngân sách tiếp tục tăng (Nợ quốc gia đã vượt ngưỡng
21.000 tỷ USD, thâm hụt ngân sách đang tiến tới mốc 1.000 tỷ USD/năm).
Chiến tranh Thương mại tiến
triển bất ngờ, Trung Quốc hồi
đáp yêu cầu cải cách thương mại
của Mỹ
Các nguồn tin trong Chính phủ Mỹ cho biết TQ đã chính thức phản hồi
những đòi hỏi cải cách trên diện rộng về thương mại của Mỹ. Động thái
này của TQ có thể là khởi đầu tốt cho các cuộc đàm phán nhằm chấm
dứt cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung. Được biết, phía TQ không chỉ
phản hồi những y/c của Mỹ mà còn đề cập tới các vấn đề khác. Người
phát ngôn Bộ Thương mại TQ cũng cho biết 2 nước đã nối lại đàm phán
cấp cao sau thời gian dài gián đoạn… Những thông tin tiến bộ liên tiếp
về cuộc Chiến tranh thương mại mở ra hy vọng cho việc giải quyết tranh
chấp giữa 2 nền KT lớn nhất thế giới. Cuộc điện đàm "dài và rất tốt"
giữa ông Trump và ông Tập hồi đầu tháng được xem là cú huých mạnh
mẽ với những tiến triển của cả 2 nước. Hiện tại, rất khó để đoán được
được kết quả cuộc gặp giữa 2 nhà lãnh đạo hàng đầu thế giới. Tuy
nhiên, một kết quả bất lợi là điều không nhiều người muốn thấy bởi
Tổng thống Trump từng đe dọa sẽ đánh thuế lượng hàng hóa NK còn
lại từ TQ nếu không đạt được thành tựu sau cuộc gặp ở Argentina.
Campuchia: Các ngân hàng phải
đạt mức tối thiểu 10% cho vay
bằng Riel
Các NHTM Campuchia hiện đang ưu tiên hơn trong việc cho các tổ
chức tài chính vi mô (MFI) vay bằng Riel khi họ đang tăng tốc để nâng tỷ
lệ cho vay bằng Riel trong danh mục cho vay đạt mức tối thiểu 10%
trước thời điểm kết thúc 2019. Động thái này của các NH đồng thời
cũng thể hiện sự tuân thủ của họ theo y/c mới của NHQG Campuchia
(NBC) đã được công bố hồi tháng 12/2016. Cụ thể, tất cả các NH và
MFI phải đạt được mức tối thiểu là 10% tỷ lệ cho vay bằng Riel trong
danh mục cho vay của họ. Thời hạn để các NHTM đáp ứng tỷ lệ tối
thiểu trên là đến cuối năm 2019… Một số NHNNg cho biết, hiện họ mới
đạt được tỷ lệ cho vay bằng Riel trong danh mục cho vay của họ ở mức
dưới 5%. Tuy nhiên, các NH này vẫn tỏ ra lạc quan về khả năng đáp
ứng quy định của NCB trong 2019 khi họ xem các MFI chính là những
khách hàng mục tiêu của mình để gia tăng tỷ lệ cho vay bằng Riel….
11
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH http://vietnamfinance.vn/ngan-hang-cho-vay-bia-kem-lac-20180504224216068.htm
http://cafef.vn/con-so-486000-ty-dong-da-phan-anh-het-thuc-trang-cua-no-xau-
20181115134801548.chn
http://cafef.vn/ngan-hang-nha-nuoc-de-xuat-quy-dinh-xu-ly-ngoai-te-gia-20181115105449269.chn
https://vietstock.vn/2018/11/noi-lo-thanh-khoan-tien-dong-757-638962.htm
Tin KT vĩ mô http://cafef.vn/phac-hoa-buc-tranh-thu-chi-nsnn-nam-2019-20181115134155454.chn
http://ndh.vn/ipaf-viet-nam-se-tru-vung-trong-boi-canh-toan-cau-bat-on-
20181115111646156p145c151.news
http://thoibaonganhang.vn/quan-ly-no-cong-con-nhieu-viec-phai-lam-82083.html
http://ndh.vn/ts-nguyen-dinh-cung-gan-70-dieu-kien-kinh-doanh-cat-giam-chua-thuc-chat-
20181114023820697p145c153.news
Tin KT Quốc tế https://vietstock.vn/2018/11/3-trong-4-nen-kinh-te-lon-nhat-the-gioi-dang-gap-kho-tang-truong-775-
639509.htm
http://cafef.vn/chu-tich-fed-kinh-te-my-dang-rat-tot-20181115155049204.chn
http://cafef.vn/chien-tranh-thuong-mai-tien-trien-bat-ngo-trung-quoc-hoi-dap-yeu-cau-cai-cach-
thuong-mai-cua-my-20181115162206908.chn
https://vietstock.vn/2018/11/campuchia-cac-ngan-hang-phai-dat-muc-toi-thieu-10-cho-vay-bang-
dong-riel-1326-639413.htm
12
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG Lãi suất LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bảo hiểm nhân thọ BHNT Mua bán, sáp nhập M&A
Bất động sản BĐS Ngân hàng NH
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng trung ương NHTW
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng Nhà nước NHNN
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTM CP
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTM NN
Doanh nghiệp nhà nước DNNN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
Doanh nghiệp tư nhân DNTN Ngân sách nhà nước NSNN
Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Tài chính - ngân hàng TC-NH
Khách hàng doanh nghiệp KHDN Tài sản bảo đảm/ Tài sản đảm bảo TSBĐ/ TSĐB
Khách hàng cá nhân KHCN Tăng trưởng tín dụng TTTD
Dự trữ bắt buộc DTBB Tổ chức tín dụng TCTD
Nhà đầu tư nước ngoài/ Nhà đầu tư NĐTNN/ NĐT Tổng tài sản TTS
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Giấy chứng nhận GCN Việt Nam VN
Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ
Thu nhập cá nhân/ Thu nhập doanh nghiệp TNCN/ TNDN Trái phiếu Chính phủ TPCP
Kinh tế vĩ mô KTVM Trái phiếu doanh nghiệp TPDN
Kinh tế KT Thị trường chứng khoán/ Chứng khoán TTCK/ CK
Xã hội XH Vốn điều lệ VĐL
Khu vực KV Vốn tự có VTC
Thế giới TG Xuất nhập khẩu/ Xuất khẩu/ Nhập khẩu XNK/ XK/ NK
Kho bạc Nhà nước KBNN Sản xuất kinh doanh SXKD
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Dịch vụ DV
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Thế giới World Bank Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Thép VN VSA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Liên minh châu Âu EU Tổng cục thống kê GSO (TCTK)