Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
hoav
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 14/12)
VN - Index 952,04 0,85%
HNX - Index 106,65 0,61%
D.JONES CK Mỹ 24.100,51 2,02%
STOXX CK C.Âu 3.092,60 0,63%
CSI 300 CK TQ 3.165,91 1,67%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 17/12)
SJC Ng.đ/L 36.430 0,16%
Quốc tế USD/Oz 1237.00 0,46%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.783 0,02%
EUR/USD 1,1305 0,50%
Dầu
WTI USD/th 51,70 1,82%
6
Thống đốc Lê Minh Hưng cho biết trong
năm 2018, CSTT được điều hành cẩn trọng,
linh hoạt, phối hợp tốt với chính sách tài khóa
và các chính sách KTVM khác. TTTD được
kiểm soát chặt chẽ dưới mức 16%, ưu tiên
tập trung vào các ngành sản xuất, chế biến
chế tạo. Cùng với đó, lượng dự trữ ngoại hối
được tích lũy cao ở mức kỷ lục trong năm
2018 góp phần củng cố, hỗ trợ cho các chính
sách KTVM khác trong thu hút đầu tư nước
ngoài, nâng cao khả năng chống chọi với các
cú sốc của nền kinh tế. Nợ xấu đã giảm
mạnh và được kiểm soát ở mức 2,16%, kỷ
cương kỷ luật trong hoạt động NH được tăng
cường giúp nâng cao lòng tin của người gửi
tiền, ổn định hệ thống tài chính NH.
Tin nổi bật
Thống đốc Lê Minh Hưng: Tăng trưởng tín
dụng năm 2018 dưới mức 16%
Đã đến lúc bỏ trần tăng trưởng tín dụng?
Nợ xấu ám ảnh cạnh tranh chênh lệch LS
Tăng trưởng năm 2018 có thể sẽ cao hơn
mức 6,7%
Các tổ chức dự báo nói gì về triển vọng kinh
tế Việt Nam năm 2019?
Trung Quốc lạc quan về triển vọng thương
mại ổn định trong năm 2019
Thứ Hai, ngày 17/12/2018
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Thống đốc Lê Minh Hưng: Tăng
trưởng tín dụng năm 2018 dưới
mức 16%
Thống đốc Lê Minh Hưng cho biết trong năm 2018, CSTT được điều
hành cẩn trọng, linh hoạt, phối hợp tốt với chính sách tài khóa và các
chính sách KTVM khác. Theo đó, lạm phát BQ 3,59% trong 11th/2018,
cho thấy dấu hiệu tích cực trong việc đảm bảo mục tiêu lạm phát dưới
4% mà Chính phủ đề ra từ đầu năm. LS được duy trì ở mức thấp, tỷ giá
và thị trường vàng được duy trì ổn định, giúp tháo gỡ các khó khăn cho
hoạt động của DN, đặc biệt là KV tư nhân. Đặc biệt, TTTD được kiểm
soát chặt chẽ <16%, ưu tiên tập trung vào các ngành SX, chế biến chế
tạo. Cùng với đó, lượng dự trữ ngoại hối được tích lũy cao ở mức kỷ lục
trong năm 2018 góp phần củng cố, hỗ trợ cho các chính sách KTVM
khác trong thu hút đầu tư nước ngoài, nâng cao khả năng chống chọi
với các cú sốc của nền KT. Bên cạnh việc duy trì ổn định vĩ mô, công
tác tái cơ cấu hệ thống NH và xử lý nợ xấu cũng đã được triển khai tích
cực. NHNN đã tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các chính sách, khuôn
khổ và cơ chế giúp đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu. Kết
quả, nợ xấu đã giảm mạnh và được kiểm soát ở mức 2,16%, kỷ cương
kỷ luật trong hoạt động NH được tăng cường giúp nâng cao lòng tin của
người gửi tiền, ổn định hệ thống tài chính NH. Thống đốc Lê Minh Hưng
nhấn mạnh: “Ổn định tài chính, duy trì huyết mạch của nền KT là điều
kiện then chốt cho ổn định KTVM, tăng trưởng bền vững”.
Đã đến lúc bỏ trần tăng trưởng
tín dụng?
Báo cáo Điểm lại - ấn phẩm bán thường niên về KT VN vừa được WB
công bố đã cho thấy những quan ngại về tình hình TTTD của hệ thống
NH VN. Về chỉ tiêu TTTD cho năm 2019 đối với hệ thống NH Việt, ông
Sebastian Eckardt, chuyên gia KT trưởng WB cho rằng, nên để thị
trường tự xác định nhu cầu tín dụng trong nền KT, nhất là khi tỷ lệ an
toàn vốn của hệ thống NH hiện nay chưa thực sự tốt. Mặc dù cảnh báo
về quy mô tín dụng cao so với GDP, nhưng ông Eckardt vẫn ủng hộ
việc bỏ biện pháp hành chính trong giới hạn trần TTTD từng NH,
chuyển sang kiểm soát bằng các giới hạn an toàn. Đồng quan điểm
không nên giữ trần TTTD trong 2019, TS.Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia
KT phân tích, NHNN nên để mỗi NH tự điều chỉnh kế hoạch KD của
Tài chính – Ngân hàng
3
mình. Trước quan ngại nếu bỏ trần tín dụng các NH sẽ quay lại thời
điểm trước kia, khi có NH đã TTTD lên đến 100% tổng tài sản, TS.Hiếu
cho rằng, trường hợp này khó có thể xảy ra trong thời điểm hiện tại bởi
các lãnh đạo NH đã học được bài học nợ xấu của những năm trước đó,
không đi vào vết xe đổ của “đồng tiền dễ dãi”, mà phải tự điểu chỉnh
một cách cẩn trọng hơn. Bên cạnh đó, NHNN cũng có nhiều công cụ để
kiểm soát hoạt động của các NH. Chẳng hạn, theo đề án tái cơ cấu NH
giai đoạn 2016-2020, các NH phải báo với NHNN về danh mục tín
dụng, cũng như chỉ tiêu TTTD cụ thể... Nhiều lãnh đạo NH cùng chung
quan điểm nên bỏ trần TTTD, bởi chính các NH đã “thấu” được nỗi đau
nợ xấu khi TTTD dễ dàng. Trong nền KT thị trường, NHNN cần điều tiết
bằng chính sách, công cụ chung cho toàn hệ thống, trừ một vài NH
trong diện kiểm soát đặc biệt hoặc quá yếu kém, cần sự can thiệp riêng
của cơ quan quản lý”, theo lãnh đạo cao cấp của một NH.
Nợ xấu ám ảnh cạnh tranh chênh
lệch lãi suất
Cạnh tranh chênh lệch LS huy động đã doãng rộng giữa các NHTM
hiện nay...Nhìn chung, ở nhóm NHTM lớn, nhóm đang nắm >50% thị
phần huy động toàn hệ thống, LS vẫn tương đối bình ổn, thậm chí vẫn
đang thấp hơn vùng 6,9 - 7,2%/năm áp dụng ở các kỳ hạn dài hơn một
năm trước. Theo đó, với việc tăng mạnh ở một số NHTM cổ phần tư
nhân. Nay, bối cảnh của LS đã khác. Lạm phát năm nay tiếp tục được
kiểm soát ở mức thấp. Tăng trưởng tín dụng dự báo có thể ở mức thấp
nhất trong bốn năm trở lại đây. Các chỉ số an toàn hệ thống và năng lực
tài chính nói chung đã cải thiện so với giai đoạn trước. Nhưng cạnh
tranh chênh lệch LS huy động một lần nữa xuất hiện với khoảng cách
lớn. Có những nguyên do khác nhau. Thời điểm cuối năm, yếu tố mùa
vụ cao điểm chi trả và LS hàng năm thường tăng lên đoạn này. Nửa
cuối năm nay, rủi ro tỷ giá bộc lộ, tác động đến sự dịch chuyển nhu cầu
vay ngoại tệ sang vay VND, kích thích yếu tố nguồn. Cuối 2018 một số
NH chịu áp lực huy động để cân đối yêu cầu rút giới hạn sử dụng vốn
ngắn hạn cho vay trung dài hạn; cùng đó một số khoản bị ngoại trừ
trong cơ cấu tính vốn tự có mang tính kỳ hạn cần bù đắp theo quy định
mới… Ngoài ra, nợ xấu có xu hướng gia tăng trở lại, ghi nhận trên báo
cáo tài chính Q.III/2018 của nhiều NHTM. Có thể ngẫu nhiên, nhưng
những thành viên đẩy LS huy động VND lên cao hiện nay đều là những
trường hợp đang có xu hướng nợ xấu tăng lên hoặc đang gặp vấn đề về
nợ xấu. Như trên, nợ xấu là phần vốn đã cho vay nhưng hiện không thu
4
hồi về được, không trở về đúng lịch cân đối. Phần vốn này càng gia
tăng càng thúc đẩy áp lực huy động để có nguồn cân đối chi trả, nhất là
trong thực tế tỷ lệ cho vay so với huy động của hệ thống NH VN thường
xuyên duy trì ở mức cao, quanh 90% những năm vừa qua và hiện nay.
5
Tăng trưởng năm 2018 có thể sẽ
cao hơn mức 6,7%
Ông Lê Quang Mạnh, Thứ trưởng Bộ KHĐT cho biết: Tình hình KT- XH
năm 2018 đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, đạt cả 12 chỉ tiêu
trong đó có 8 chỉ tiêu vượt kế hoạch. “Tính đến giờ phút này có thể
khẳng định tăng trưởng GDP năm 2018 hoàn toàn có thể đạt 6,7%”,
ông Mạnh cho biết. Điều đáng chú ý được ông Mạnh nêu ra là dự trữ
ngoại tệ đạt mức kỷ lục 60 tỷ USD. Cơ cấu chi có chuyển dịch tích cực,
khi chi đầu tư phát triển tăng cao hơn chi thường xuyên. Cụ thể, năm
2017 chi cho đầu tư phát triển chỉ đạt 25% còn năm 2018 đạt 26,8%,
còn chi thường xuyên cũng giảm từ mức 64% xuống còn 63,3%. Nhìn
nhận về chỉ tiêu GDP trong năm 2018 đặt ra ở mức 6,7%, ông Mạnh
cho rằng, nhiều ý kiến nhìn nhận có thể cao hoặc thấp hơn một chút,
nhưng trong bối cảnh hiện nay có nhiều mặt thuận lợi, có thể cao hơn
do đang trong đà chu kỳ tăng trưởng tốt và tăng trưởng của thế giới
đang cao. Tuy nhiên, cũng có nhiều quan ngại về cuộc chiến thương
mại Mỹ-TQ sẽ ảnh hưởng tới cơ cấu SX của TG, trong đó tác động đến
các nước trong KV Đông Nam Á và chưa có dấu hiệu kết thúc. Để đạt
mục tiêu tăng trưởng ở mức 6,7% trong 2018, Chính phủ kiên định cần
củng cố nền tảng KTVM, kiểm soát lạm phát, cải thiện các môi trường
đầu tư KD bởi chỉ có tăng trưởng mới đảm bảo các nguồn lực.
Các tổ chức dự báo nói gì về
triển vọng kinh tế Việt Nam năm
2019?
Nghiên cứu của các tổ chức quốc tế như World Bank, ADB hay trong
nước như NCIF đều cho rằng tăng trưởng của VN trong giai đoạn 2019
– 2020 sẽ từ 6,5% trở lên. ADB duy trì dự báo tăng trưởng cho KV ở
mức 6% cho năm 2018 và 5,8% cho năm 2019. Riêng với VN, ADB đưa
ra hai con số cao hơn mặt bằng chung của KV là 6,9% cho năm nay và
6,8% cho năm 2019. Những con số này đã được ADB điều chỉnh giảm,
bởi hồi đầu năm, ADB đã rất lạc quan khi đưa ra nhận định GDP VN
thậm chí có thể đạt đến 7,1%, cao hơn rất nhiều so với mục tiêu Chính
phủ đề ra. Về tình hình KT trong thời gian tới, ADB bày tỏ quan ngại đối
với những rủi ro có thể đến từ chiến tranh thương mại Mỹ - Trung.
World Bank cho rằng KT VN đã chứng tỏ được sự vững vàng dù có
nhiều trở lực từ bên ngoài. Tuy nhiên, đi theo xu hướng chung của thế
Kinh tế Việt Nam
6
giới, tăng trưởng của nền KT hơn 90 triệu dân sẽ giảm dần ở các năm
2019 – 2020. Cụ thể, GDP 2018 được dự báo ở mức 6,8% nhưng sẽ
giảm dần xuống mức 6,6% và 6,5% trong 2 năm tiếp theo. Khác với
mức dự báo thấp của World Bank hay ADB, Trung tâm Thông tin và Dự
báo KT-XH quốc gia (NCIF) đưa ra mức dự báo cao nhiều. Cụ thể, mức
tăng trưởng theo NCIF sẽ trong khoảng 6,9 – 7,1% trong giai đoạn tiếp
theo. NCIF cho rằng nền KT được hỗ trợ bởi 3 động lực bao gồm phát
triển KV tư nhân, cải cách thể chế và môi trường KD và việc phát triển
khoa học công nghệ, nâng cao năng suất lao động. Tuy nhiên, nền KT
trong nước cũng phải đối diện với một số thách thức. Đơn cử như tăng
trưởng KT ngày càng phụ thuộc vào KV có vốn đầu tư nước ngoài.
TTTD và cung tiền ở mức cao sẽ khiến kéo dài tiềm ẩn rủi ro về nợ
quốc gia và mất ổn định KTVM.
FDI của Hàn Quốc liên tục dẫn
đầu trong 5 năm qua
Theo Thứ trưởng Bộ KHĐT - Vũ Đại Thắng, Hàn Quốc hiện là đối tác
FDI lớn nhất của VN với >62 tỷ USD tổng vốn đầu tư đăng ký. Nếu tính
cả một số dự án quy mô lớn đầu tư qua nước thứ 3, tổng vốn FDI Hàn
Quốc tại VN đạt #70 tỷ USD. Phần lớn các dự án tập trung vào lĩnh vực
công nghiệp chế tạo, góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng của VN. Các NĐT Hàn Quốc luôn nhạy
bén, quyết định nhanh và quyết liệt triển khai nghiêm túc, tuân thủ pháp
luật, thực hiện các dự án đầu tư đúng tiến độ và luôn có trách nhiệm với
người lao động cũng như quan tâm đến các hoạt động XH. Trong 3
năm qua, sự cải thiện mạnh mẽ về môi trường đầu tư của VN cũng như
quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước đã nổi lên của một số thương
vụ M&A quan trọng của các đối tác Hàn Quốc tại VN. Trong đó, riêng
2018, tổng giá trị góp vốn mua cổ phần của DN Hàn Quốc tại VN dự
kiến đạt #1,4 tỷ USD (50% so với 2017). Đây là sự thay đổi quan trọng
về mục tiêu đầu tư của Hàn Quốc tại VN, có sự chuyển dịch từ các dự
án SX đơn thuần sang quan hệ hợp tác theo chiều ngang tiếp cận trực
tiếp đến DN, thị trường trong nước. Điều này chứng tỏ VN đang có sự
chuyển mình tích cực trở thành đối tác và thị trường có độ trưởng thành
đồng thời VN đã cam kết tiếp tục đồng hành cùng DN FDI nói chung,
DN Hàn Quốc nói riêng trong quá trình hợp tác, đầu tư KD tại VN.
7
Trung Quốc lạc quan về triển
vọng thương mại ổn định trong
năm 2019
Báo cáo mới nhất của Bộ Thương mại TQ đưa ra dự báo hoạt động
ngoại thương của nước này sẽ khá ổn định trong năm 2019, khi lĩnh vực
này có thêm nhiều động năng tăng trưởng trong bối cảnh đối mặt với
những thách thức bên ngoài. Theo báo cáo, chất lượng hoạt động ngoại
thương của TQ có thể được nâng cao hơn nữa với các yếu tố cơ bản
của nền KT phù hợp, thị trường cởi mở hơn và Chính phủ có thêm nhiều
chính sách hỗ trợ. Báo cáo nhận định đà hoạt động ngoại thương của
TQ được hưởng lợi từ đà tăng trưởng khá vững chắc của nền KT, với
hoạt động tiêu thụ nội địa dự kiến sẽ trở thành động lực mới cho tăng
trưởng NK. Báo cáo đã viện dẫn những số liệu như hoạt động tiêu dùng
đã đóng góp 78% vào tăng trưởng KT của TQ trong giai đoạn Q.I-
Q.III/2018, và nhóm 400 triệu khách hàng tiêu dùng có thu nhập trung
bình đang có ngày càng nhiều nhu cầu về hàng hóa và DV NK chất
lượng cao hơn. Từ tháng 1-11/2018, thương mại hàng hóa của TQ đã
11,1% so với cùng kỳ 2017 lên 27.880 tỷ CNY (#4.000 tỷ USD). Con số
này đã vượt quá tổng giá trị ngoại thương ghi nhận vào 2017 theo số
liệu của Tổng cục Hải quan TQ. Về việc mở cửa nền KT hơn nữa, Bộ
Thương mại TQ cho hay chính phủ nước này đã ký thỏa thuận hợp tác
với hơn 130 quốc gia và các tổ chức quốc tế về việc cùng hợp tác xây
dựng Sáng kiến “Vành đai - Con đường”. Bên cạnh đó, 17 hiệp định
thương mại tự do với 25 quốc gia và KV cũng đã được Bắc Kinh ký kết.
Ngoài ra, báo cáo cũng đề cập các điều kiện thuận lợi cho ngành
thương mại của TQ, bao gồm một loạt biện pháp thương mại và ưu đãi
thuế cho các công ty trong nước. Theo Cơ quan Thống kê quốc gia TQ
(NBS) tháng trước, trong Q.III/2018, nền KT lớn thứ 2 TG tăng trưởng
thấp hơn dự đoán và chỉ 6,5% so với cùng kỳ 2017, mức thấp nhất kể
từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Các số liệu cho thấy KT
TQ đã tăng chậm lại, khi mà nhiều năm nỗ lực giải quyết các nguy cơ
về nợ đang bắt đầu đè nặng lên đà tăng trưởng và cuộc chiến thương
mại với Mỹ cũng đang đe dọa hoạt động XK.
Kinh tế Quốc tế
8
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH http://ndh.vn/thong-doc-le-minh-hung-tang-truong-tin-dung-nam-2018-duoi-muc-16--
2018121608269921p4c149.news
https://vietstock.vn/2018/12/no-xau-am-anh-canh-tranh-chenh-lech-lai-suat-757-643781.htm
https://tinnhanhchungkhoan.vn/tien-te/da-den-luc-bo-tran-tang-truong-tin-dung-251697.html
Tin KT vĩ mô http://cafef.vn/tang-truong-nam-2018-co-the-se-cao-hon-muc-67--2018121417033451.chn
http://cafef.vn/cac-to-chuc-du-bao-noi-gi-ve-trien-vong-kinh-te-viet-nam-nam-2019-
20181214145730526.chn
http://cafef.vn/fdi-cua-han-quoc-lien-tuc-dan-dau-trong-5-nam-qua-20181216113525854.chn
Tin KT Quốc tế https://www.stockbiz.vn/News/2018/12/16/859241/trung-quoc-lac-quan-ve-trien-vong-thuong-mai-
on-dinh-trong-nam-2019.aspx
9
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG Lãi suất LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bảo hiểm nhân thọ BHNT Mua bán, sáp nhập M&A
Bất động sản BĐS Ngân hàng NH
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng trung ương NHTW
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng Nhà nước NHNN
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTM CP
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTM NN
Doanh nghiệp nhà nước DNNN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
Doanh nghiệp tư nhân DNTN Ngân sách nhà nước NSNN
Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Tài chính - ngân hàng TC-NH
Khách hàng doanh nghiệp KHDN Tài sản bảo đảm/ Tài sản đảm bảo TSBĐ/ TSĐB
Khách hàng cá nhân KHCN Tăng trưởng tín dụng TTTD
Dự trữ bắt buộc DTBB Tổ chức tín dụng TCTD
Nhà đầu tư nước ngoài/ Nhà đầu tư NĐTNN/ NĐT Tổng tài sản TTS
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Giấy chứng nhận GCN Việt Nam VN
Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ
Thu nhập cá nhân/ Thu nhập doanh nghiệp TNCN/ TNDN Trái phiếu Chính phủ TPCP
Kinh tế vĩ mô KTVM Trái phiếu doanh nghiệp TPDN
Kinh tế KT Thị trường chứng khoán/ Chứng khoán TTCK/ CK
Xã hội XH Vốn điều lệ VĐL
Khu vực KV Vốn tự có VTC
Thế giới TG Xuất nhập khẩu/ XK/ Nhập khẩu XNK/ XK/ NK
Kho bạc Nhà nước KBNN Sản xuất kinh doanh SXKD
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Dịch vụ DV
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Thế giới (World Bank) WB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Thép VN VSA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Liên minh châu Âu EU Tổng cục thống kê GSO (TCTK)