13
1 hoav BẢNG CHỈ SỐ Chng khoán (ngày 31/10) VN - Index 914,76 2,93% HNX - Index 105,35 3,57% D.JONES CK Mỹ 25,115,76 0,97% STOXX CK C.Âu 3,197,51 1,60% CSI 300 CK TQ 3,153,82 1,40% Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 01/11) SJC Ng.đ/L 36.480 0,08% Quốc tế USD/Oz 1212.30 0,84% Tgiá USD/VND BQ LNH 22.727 0,00% EUR/USD 1,1326 0,18% Du WTI USD/th 65,00 2,26% 6 Sau Q.III đầy sóng gió, thị trường ngoại hối trong nước hơn 1 tháng trở lại đây đã bình lặng lại, dù một số yếu tố gây áp lực lên tỷ giá như thời điểm trước đó tái xuất hiện. Cung cầu ngoại tệ hiện nay cho thấy cung vẫn đang chiếm ưu thế, trong khi các lực cầu đầu cơ hay lướt sóng đã phần nào suy yếu trong bối cảnh niềm tin gia tăng và tâm lý của thị trường ngoại hối đã tích cực hơn. Điều quan trọng nhất là nhà điều hành vẫn tiếp tục kiên định với mục tiêu ưu tiên ổn định vĩ mô, trong đó biến số tỷ giá được xem là rất quan trọng, do đó việc giữ tỷ giá như cam kết là điều cần thiết. Tin nổi bật Khoảng lặng của tỷ giá? 3 tháng KBNN gửi thêm gần 49.000 tỷ đồng vào 3 ngân hàng lớn PMI Việt Nam tháng 10 đạt 53,9 điểm, mức độ lạc quan dưới mức trung bình của lịch sử Việt Nam tụt 1 hạng môi trường kinh doanh Ngành bán lẻ hàng hóa đạt quy mô 2,7 triệu tỷ đồng Sản xuất TQ tăng chậm nhất hơn 2 năm NHTW Nhật hạ dự báo tỷ lệ lạm phát ThNăm, ngày 01/11/2018 BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH [a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM [t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]

i b - sacombank.com.vn tin Kinh te... · vốn khổng lồ khác từ một số quỹ đầu tư, cổ đông chiến lược lớn lại tiếp tục đổ vào DN trong nước

  • Upload
    others

  • View
    0

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

1

hoav

BẢNG CHỈ SỐ

Chứng khoán (ngày 31/10)

VN - Index 914,76 2,93%

HNX - Index 105,35 3,57%

D.JONES CK Mỹ 25,115,76 0,97%

STOXX CK C.Âu 3,197,51 1,60%

CSI 300 CK TQ 3,153,82 1,40%

Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 01/11)

SJC Ng.đ/L 36.480 0,08%

Quốc tế USD/Oz 1212.30 0,84%

Tỷ giá

USD/VND BQ LNH 22.727 0,00%

EUR/USD 1,1326 0,18%

Dầu

WTI USD/th 65,00 2,26%

6

Sau Q.III đầy sóng gió, thị trường ngoại

hối trong nước hơn 1 tháng trở lại đây đã

bình lặng lại, dù một số yếu tố gây áp lực

lên tỷ giá như thời điểm trước đó tái xuất

hiện. Cung cầu ngoại tệ hiện nay cho thấy

cung vẫn đang chiếm ưu thế, trong khi các

lực cầu đầu cơ hay lướt sóng đã phần nào

suy yếu trong bối cảnh niềm tin gia tăng và

tâm lý của thị trường ngoại hối đã tích cực

hơn. Điều quan trọng nhất là nhà điều hành

vẫn tiếp tục kiên định với mục tiêu ưu tiên

ổn định vĩ mô, trong đó biến số tỷ giá được

xem là rất quan trọng, do đó việc giữ tỷ giá

như cam kết là điều cần thiết.

Tin nổi bật

Khoảng lặng của tỷ giá?

3 tháng KBNN gửi thêm gần 49.000 tỷ đồng

vào 3 ngân hàng lớn

PMI Việt Nam tháng 10 đạt 53,9 điểm, mức

độ lạc quan dưới mức trung bình của lịch sử

Việt Nam tụt 1 hạng môi trường kinh doanh

Ngành bán lẻ hàng hóa đạt quy mô 2,7 triệu

tỷ đồng

Sản xuất TQ tăng chậm nhất hơn 2 năm

NHTW Nhật hạ dự báo tỷ lệ lạm phát

Thứ Năm, ngày 01/11/2018

BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH

[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM

[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]

2

IFC hỗ trợ tài chính giúp khôi

phục giá trị tài sản xấu tại Việt

Nam, Philippines, Indonesia và

Thái Lan

IFC, một thành viên của World Bank cùng Quỹ Phát triển các Định chế

Tài chính của IFC và Quỹ Châu Á Mới Nổi của IFC, hai quỹ do Công ty

Quản lý Tài sản IFC (AMC) quản lý, sẽ đầu tư 65 triệu USD vào Altus

Special Situations Asia 1 LP. Khoản đầu tư sẽ được dùng để hỗ trợ tài

chính cho các công ty tại các thị trường mới nổi ở Đông Á đang gặp khó

khăn nhằm giúp các công ty này có thể thực hiện các nghĩa vụ tài

chính, lấy lại được tín nhiệm tín dụng và duy trì việc làm cho người lao

động. Mặc dù KV này đang có sự tăng trưởng KT mạnh mẽ, các công ty

trong KV vẫn phải đối mặt với một số thách thức. Tại một số thị trường,

sau khủng hoảng KT toàn cầu, nợ xấu trong số các công ty sử dụng

nhiều đòn bẩy tài chính tăng cao, và bong bóng nợ xấu đã chặn dòng

vốn của khối NH. Kết quả là, các công ty gặp khó khăn về tài chính

không thể tiếp cận được các nguồn tín dụng nhằm vực dậy và tái thiết

lập hoạt động vận hành. IFC đã làm việc với các đối tác nhằm xây dựng

các nền tảng mang tính KV và tạo điều kiện cho các NĐT tổ chức đầu

tư vào các tài sản đang bị phân loại là tài sản xấu. Khoản đầu tư này

của IFC sẽ giúp Altus xây dựng một chương trình hỗ trợ tài chính cho

KV nhằm đầu tư vào Philippines, Thái Lan, Indonesia, và VN. Trong số

đó Indonesia và VN là hai thị trường còn non trẻ đối với hoạt động khôi

phục giá trị cho các tài sản xấu. Ông Vivek Pathak, GĐ IFC KV Đông Á

và TBD nhận định: “Khoản hỗ trợ của IFC chắc chắn sẽ thúc đẩy quá

trình hình thành một thị trường rộng lớn hơn cho việc xử lý các tài sản

xấu thông qua xây dựng một nền tảng mang tính KV. Đây sẽ là nền

tảng giúp huy động nguồn vốn KV và quốc tế vốn rất cần thiết để vực

dậy các công ty đang gặp khó khăn về tài chính. Nhờ đó, các công ty

này có thể lập kế hoạch phát triển dài hạn và bền vững, góp phần tăng

các cơ hội việc làm, thúc đẩy tăng trưởng KT trong KV.”

Khoảng lặng của tỷ giá? Sau Q.III đầy sóng gió, thị trường ngoại hối trong nước hơn 1 tháng trở

lại đây đã bình lặng lại, dù một số yếu tố gây áp lực lên tỷ giá như thời

điểm trước đó tái xuất hiện. Thống kê trong tháng 10 cho thấy, tỷ giá

trên thị trường chính thức chỉ tăng nhẹ so với tháng trước, đặc biệt là tỷ

Tài chính – Ngân hàng

3

giá tại các NH ổn định hơn rất nhiều so với những tháng trong Q.III.

Đáng lưu ý là tỷ giá trên thị trường tự do thậm chí còn dao động trong

phạm vi hẹp hơn và có dấu hiệu giảm so với tháng 9. Diễn biến này cho

thấy thị trường ngoại hối đang quay trở lại giai đoạn bình lặng vốn có

như những tháng đầu năm nay. Yếu tố đầu tiên cần phải nhắc đến

chính là niềm tin của thị trường. Sau đợt sóng biến động mạnh trước đó,

những tưởng nhà điều hành buộc phải phá vỡ cam kết giữ ổn định tỷ

giá, tuy nhiên hàng loạt giải pháp linh hoạt đã được thực thi từ bán

ngoại tệ ra thị trường để đáp ứng nhu cầu, tăng giảm giá bán tại Sở

giao dịch NHNN tùy thời điểm, kéo LS vay mượn tiền đồng trên thị

trường LNH lên cao hơn LS USD,… từ đó giúp thị trường sớm ổn định

trở lại. Yếu tố hỗ trợ mạnh mẽ thứ hai là cán cân thương mại hàng hóa

đột ngột xoay chiều trong những tháng qua. Với con số xuất siêu tháng

10 ước tính 100 triệu USD thì tổng thặng dư thương mại hàng hóa trong

10 tháng đã lên tới 6.4 tỷ USD, mức kỷ lục trong nhiều năm qua. Bên

cạnh nguồn cung ngoại tệ dồi dào từ hoạt động thương mại, thì việc

một loạt các NH trong nước đã vay vốn ngoại tệ thành công từ các định

chế tài chính quốc tế cũng giúp cán cân ngoại tệ tiếp tục cải thiện đáng

kể. Trên sàn CK trong nước, tuy khối ngoại vẫn bán ròng nhưng lượng

vốn khổng lồ khác từ một số quỹ đầu tư, cổ đông chiến lược lớn lại tiếp

tục đổ vào DN trong nước. Chính nhờ những phiên mua ròng mạnh tại

một số ít DN đã giúp tổng giá trị mua ròng của NĐTNN tính đến ngày

16/10 vẫn đạt 2.97 tỷ USD, vượt con số vào ròng của cả năm 2017 là

2.92 tỷ USD. Kết quả này là rất tích cực nếu nhìn vào động thái rút vốn

hàng loạt của NĐTNN tại các thị trường mới nổi và cận biên khác. Như

vậy, cung cầu ngoại tệ hiện nay cho thấy cung vẫn đang chiếm ưu thế,

trong khi các lực cầu đầu cơ hay lướt sóng đã phần nào suy yếu trong

bối cảnh niềm tin gia tăng và tâm lý của thị trường ngoại hối đã tích cực

hơn, từ kết quả vẫn giữ được sự ổn định sau những đợt sóng gần đây.

Điều quan trọng nhất là nhà điều hành vẫn tiếp tục kiên định với mục

tiêu ưu tiên ổn định vĩ mô, trong đó biến số tỷ giá được xem là rất quan

trọng, do đó việc giữ tỷ giá như cam kết là điều cần thiết.

3 tháng Kho bạc Nhà nước gửi

thêm gần 49.000 tỷ đồng vào 3

ngân hàng lớn

Theo báo cáo tài chính Q.III của 3 NH TMCP có vốn Nhà nước, giá trị

tiền gửi thanh toán của KBNN đạt 218.562 tỷ đồng, 48.777 tỷ đồng

sau 3 tháng. Trong đó, riêng BIDV nhận thêm >28.700 tỷ đồng. Số tiền

gửi tại VietinBank tăng liên tục 3 quý liên tiếp nhưng vẫn là NH nắm giữ

4

lượng tiền Kho bạc ít nhất. Tại Vietcombank, dù Kho bạc đã gửi thêm

tiền trở lại nhưng so với đầu năm số tiền gửi vẫn giảm đáng kể. Tổng số

dư tiền gửi của Kho bạc tại 3 NH vẫn đang thấp hơn đáng kể so với đầu

năm. Nguồn tiền này đã từng tăng vọt trong năm trước. Khoản tiền thu

được từ thoái vốn, cổ phần hóa DNNN như Sabeco, Vinamilk... cuối

năm 2017 đóng góp đáng kể giúp tiền ngân sách gửi tại các NH dư dả

hơn. Cùng đó, số vốn cho hoạt động đầu tư công tiếp tục dù được giải

ngân tích cực hơn trong 3 tháng gần đây nhưng tiến độ vẫn chậm khi

mới chỉ thực hiện được hơn ½ kế hoạch trong 10th/2018. Thống đốc Lê

Minh Hưng cũng từng đề cập đến vai trò của việc tăng/giảm tiền gửi

KBNN trong việc ổn định thanh khoản và LS. "Điều tiết lượng tiền gửi

KBNN về NHNN để ổn định thanh khoản và LS, không gây sức ép lên

thị trường tiền tệ, lạm phát" là một trong các phương thức phối hợp của

NHNN và Bộ Tài chính trong điều hành chính sách tài khóa và tiền tệ.

Ưu tiên đảm bảo duy trì sự ổn

định và bền vững của thị trường

chứng khoán

Ngày 27/10, Sở GDCK Hà Nội (HNX) đã tổ chức Hội nghị DN thường

niên 2018 với sự tham dự của 400 đại biểu. PCT UBCK Phạm Hồng

Sơn cho biết, qua gần 20 năm ra đời và phát triển, TTCK VN đã đạt

được nhiều kết quả. Quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu, chứng chỉ quỹ

tăng trưởng nhanh đạt >80% GDP, vượt mục tiêu đề ra đến năm 2020.

TTCK đã góp phần quan trọng vào việc cải thiện tính công khai, minh

bạch của cả nền KT. UBCKNN xác định mục tiêu ưu tiên là đảm bảo

duy trì sự ổn định và bền vững của TTCK, phát triển thị trường theo

chiều sâu và kiên trì công tác tái cấu trúc. Do vậy, thời gian tới, Chính

phủ, Bộ Tài chính, UBCKNN sẽ tiếp tục tập trung vào một số giải pháp

như: Đẩy nhanh tiến độ xây dựng Luật CK sửa đổi; tiếp tục đẩy mạnh

tái cấu trúc TTCK trên 4 trụ cột; tăng cung hàng hóa cho thị trường và

5

cải thiện chất lượng nguồn cung; tiếp tục đưa vào giao dịch các sản

phẩm giao dịch mới trên TTCK… Báo cáo tại Hội nghị, PTGĐ HNX

Nguyễn Tuấn Anh cho biết, quy mô thị trường niêm yết trên HNX tương

đối ổn định; giá trị niêm yết trong 2017 tăng so với 2016, từ 100.000 tỷ

đồng lên hơn 118.000 tỷ đồng, #7,6% giá trị vốn hóa. Trong 2017-2018,

với mục tiêu đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa DNNN và thoái vốn nhà

nước, HNX tích cực tham gia vào quá trình xây dựng các văn bản có

liên quan trực tiếp tới chứng khoán và TTCK. Chủ tịch HĐQT HNX, ông

Nguyễn Thành Long cho biết, tiếp nối thành công của chương trình

đánh giá công bố thông tin và minh bạch các năm trước, năm 2018,

HNX đã áp dụng chương trình đánh giá chất lượng chất lượng công bố

thông tin và minh bạch (CBTT&MB) cho các DN đại chúng quy mô lớn

trên UPCoM. Việc lựa chọn các DN ĐKGD quy mô lớn là phù hợp vì các

DN này chiếm tới 80% mức vốn hóa của toàn thị trường UPCoM trong

đó các DN ở nhóm này vẫn còn nhiều sở hữu của nhà nước, hơn nữa

nhiều DN là các DN lớn, là đơn vị đầu ngành của VN, vì vậy việc

khuyến kích các DN này thực hiện tốt chế dộ báo cáo CBTT&MB của

DN sẽ thúc đẩy quản trị công ty tốt hơn, hoạt động KD cũng từ đó trở

nên hiệu quả hơn, sức cạnh tranh của các DN này cũng được cải thiện,

đồng thời giúp các cơ quan quản lý nhà nước thự hiện chức năng giám

sát và chức năng chủ sở hữu hiệu quả hơn.

6

[Infographics] Cả nước xuất siêu

6,43 tỷ USD trong 10 tháng qua

Vì sao dân số Việt Nam lớn mà

GDP lại quá thấp?

Theo số liệu của Cục Quản lý đăng ký KD - Bộ KHĐT, trong giai đoạn

2013 - 2017, số DN thành lập mới ở VN có xu hướng tăng theo từng

năm, từ 76.955 DN năm 2013, lên 94.754 DN năm 2015 và năm 2017

là 126.859 DN. Cùng với đó, số vốn đăng ký của các DN mới cũng tăng

tương ứng trong các năm 2013, 2015 và 2017 lần lượt là 398.681 tỷ

đồng, 601.519 tỷ đồng và 1.295.911 tỷ đồng. So sánh giữa năm

2013 và 2017, có thể thấy, số lượng DN thành lập mới 1,65 lần, số

vốn đăng ký 3,25 lần, tỷ trọng vốn đăng ký BQ/DN 1,96 lần. Riêng

trong 8th/2018, số DN thành lập mới là 87.448, 2,4% so với cùng kỳ

2017, với số vốn đăng ký là 878.627 tỷ đồng.

Kinh tế Việt Nam

7

Nhiều chuyên gia đánh giá, xu hướng này là kết quả của quá trình cải

thiện môi trường KD và nâng cao nhận thức khởi nghiệp, nâng cao tỷ lệ

người trưởng thành ở VN nhận thấy có cơ hội để bắt đầu KD. Theo một

nghiên cứu khác của VCCI, tỷ lệ người có ý định khởi sự KD ở VN là

22,3%, cao hơn mức 18,2% năm 2014 và gần bằng mức 24% năm

2013. Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn còn kém xa so với mức trung bình của

các nước có cùng trình độ phát triển như VN. TS.Phạm Văn Liên khẳng

định, tinh thần khởi nghiệp được khơi dậy mạnh mẽ trong XH có nền KT

phát triển sôi động, có nền giáo dục khởi nghiệp với nhiều trường đại

học và các trung tâm nghiên cứu - phát triển được gắn kết chặt chẽ, có

đội ngũ trí thức trẻ tuổi dám nghĩ, dám làm, có cộng đồng DN năng

động, có sự hỗ trợ tích cực của chính quyền... sẽ tạo nên sự phát triển

thần kỳ. Tại VN, mặc dù, hoạt động khởi nghiệp phát triển nhanh nhưng

phần lớn diễn ra một cách tự phát, chưa có hệ thống và sự kết nối chặt

chẽ. Bên cạnh đó các DN khởi nghiệp còn phải đối mặt với khó khăn về

vốn, sự thiếu hụt kiến thức, kinh nghiệm quản trị KD… Để thúc đẩy tinh

thần khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại VN, cần có cơ chế, chính sách hỗ

trợ hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đồng bộ, nhất quán, đủ

mạnh, có tính đột phá và có quy định cụ thể, tránh mang nặng tính

khuyến khích chung chung; phát triển đồng bộ các loại thị trường trong

nền KT thị trường nhằm tạo điều kiện cho các DNNVV khởi nghiệp đổi

mới sáng tạo hoạt động có hiệu quả.

PMI Việt Nam tháng 10 đạt 53,9

điểm, mức độ lạc quan dưới mức

trung bình của lịch sử

Chỉ số Nhà quản trị Mua hàng Purchasing Managers’ Index (PMI) toàn

phần lĩnh vực SX VN của Nikkei – một chỉ số tổng hợp về kết quả hoạt

động của ngành SX đạt đã tăng từ mức thấp của 10 tháng là 51,5 điểm

trong tháng 9 lên 53,9 điểm trong tháng 10. Điều này thể hiện sự cải

thiện mạnh mẽ nhất của sức khỏe lĩnh vực SX kể từ tháng 7. Tất cả 5

thành phần của chỉ số PMI đều góp phần cải thiện sức khỏe lĩnh vực

SX vào đầu Q.IV/2018. Ngành SX VN phát triển mạnh hơn trong tháng

10 khi tăng trưởng SX, việc làm và hoạt động mua hàng hóa đầu vào

đã gia tăng nhờ số lượng đơn đặt hàng mới tăng mạnh và nhanh. Đồng

thời, tốc độ tăng chi phí đầu vào đã giảm thành mức chậm nhất kể từ

tháng 7/2017 và giá cả đầu ra đã giảm trong 2 tháng liên tiếp. Theo ông

Andrew Harker, PGĐ tại IHS Markit: “Các nhà SX VN đã bớt lo lắng về

sự giảm sút kéo dài trong ngành, khi sản lượng, số lượng đơn đặt hàng

mới và việc làm đều tăng mạnh hơn trong tháng 10. Thành công của

8

các công ty trong việc tiếp tục duy trì mức tăng số lượng đơn đặt hàng

mới mặc dù có các dấu hiệu nhu cầu yếu đi trên thị trường thế giới giúp

họ thuận lợi hơn khi sắp hết năm".

Việt Nam tụt 1 hạng môi trường

kinh doanh

Theo Báo cáo Môi trường Kinh doanh 2019 (Doing Business 2019) của

World Bank ngày 31/10, môi trường KD năm 2018 của VN xếp thứ

69/190 nền KT với 66,77/100 điểm. Năm ngoái, tại Báo cáo Môi trường

KD 2018, VN 14 bậc, xếp hạng thứ 68/190 nền KT được khảo sát, với

số điểm 67,93/100. Như vậy, với kết quả trên, bảng xếp hạng môi

trường KD của VN năm nay đã bị 1 bậc so với năm trước. Mặc dù bị

tụt xếp hạng đánh giá, báo cáo Doing Business 2019 vẫn đánh giá VN

là nền KT có nhiều cải cách. Ở VN, các cải cách giúp thuận tiện hơn

trong thực thi hợp đồng, trả thuế và thành lập DN. Tuy nhiên, so với báo

cáo Doing Business năm 2018, VN được đánh giá có 5 cải cách, thì báo

cáo Doing Business năm 2019, VN chỉ đạt 3 cải cách. Trong khi đó,

Trung Quốc nằm trong nhóm 10 nước có môi trường KD cải thiện nhất

thế giới, >30 bậc, lần đầu tiên đứng trong nhóm 50 nền KT hàng đầu

thế giới với vị trí 46.

Vị trí của Việt Nam so với một

số nền kinh tế trong khu vực

9

Ngành bán lẻ hàng hóa đạt quy

mô 2,7 triệu tỷ đồng

Theo Tổng cục Thống kê, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu DV

tiêu dùng tháng 10/2018 ước tính đạt 378.600 tỷ đồng, 1,3% so với

tháng trước và 12,4% so với cùng kỳ 2017. Doanh thu bán lẻ hàng

hóa đạt 286.900 tỷ đồng; 14,2% so với cùng kỳ 2017, cho thấy đà

tăng trưởng tốt và đầy tiềm năng của thị trường bán lẻ VN. Trong đó,

doanh thu DV lưu trú, ăn uống đạt 44.300 tỷ đồng; doanh thu du lịch lữ

hành đạt 3.300 tỷ đồng; doanh thu DV khác đạt 44.100 tỷ đồng. Tính

chung 10th/2018, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu DV tiêu dùng

ước tính đạt 3,6 triệu tỷ đồng, 11,4% so với cùng kỳ, nếu loại trừ yếu

tố giá 9,31% (cùng kỳ 2017 8,79%). Xét theo ngành hoạt động, doanh

thu bán lẻ hàng hóa 10th/2018 đã đạt con số 2,7 triệu tỷ đồng, #75,3%

tổng mức và 12,2% so với cùng kỳ 2017. Trong đó, ngành hàng lương

thực, thực phẩm 13%; may mặc 12,6%; đồ dùng, dụng cụ, trang

thiết bị gia đình 12%; vật phẩm văn hoá, giáo dục 11,6%; phương

tiện đi lại 11,6%. Doanh thu DV lưu trú, ăn uống 10th ước tính đạt

440.100 tỷ đồng, #12,2% tổng mức và 8,3% so với cùng kỳ. Doanh

thu du lịch lữ hành 10th/2018 ước tính đạt 33.500 tỷ đồng, #0,9% tổng

mức và 15,6% so với cùng kỳ. Doanh thu DV khác 10th ước tính đạt

420.000 tỷ đồng, #11,6% tổng mức và 9,3% so với cùng kỳ 2017…

Nợ đọng thuế gần 83.000 tỷ

đồng, hơn 42% không có khả

năng thu hồi

Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết, công tác thu hồi nợ đọng thuế trong 3

năm qua có những bước tiến tích cực. Năm 2016 thu hồi >40.000 tỷ

đồng, năm 2017 >44.000 tỷ đồng và 9th/2018 thu 25.382 tỷ đồng. Hàng

năm, Bộ Tài chính đã đôn đốc thu hồi các khoản tiền nợ thuế, truy thu,

xử phạt theo kết luận của cơ quan kiểm toán đạt >80% kiến nghị đã thu.

Về tỷ lệ nợ đọng thuế/tổng thu nội địa đã giảm dần qua các năm, theo

đó năm 2016 là 8,5%, cuối năm 2017 còn 7,6% và tính đến cuối tháng

9/2018 còn 7,5%. Ngoài ra, tỷ lệ nợ đọng thuế có khả năng thu/tổng thu

nội địa đã giảm mạnh, năm 2016 là 5,6%, năm 2017 là 4,4% và cuối

tháng 9/2018 là 4,3%. Hiện tỷ lệ đọng thuế/tổng thu nội địa của VN ở

mức khoảng 7,5% trong khi các nước ASEAN BQ là 8,5% và các nước

OECD là 9,2%. Tuy nhiên, tổng số nợ thuế vẫn còn lớn, khoảng 82.961

tỷ đồng, trong đó nợ không có khả năng thu hồi chiếm 42,1%, 11% so

với 2017. Tiền phạt vi phạm hành chính và chậm nộp chiếm tỷ trọng

22%”, nguyên nhân chính do số nợ thuế từ người chết, mất tích, phá

sản, giải thể. Địa phương có số nợ lớn nhất là TP.Hà Nội với >13.530 tỷ

đồng (#1/4 nợ thuế cả nước). Đứng thứ 2 là TP.HCM với >9.890 tỷ đồng.

10

CPTPP bắt đầu có hiệu lực từ

cuối tháng 12

New Zealand vừa đưa ra thông báo Hiệp định CPTPP sẽ bắt đầu có

hiệu lực vào cuối tháng 12 sau khi được 6/11 quốc gia thành viên thông

qua. Australia đã thông báo với New Zealand, quốc gia tập hợp hồ sơ,

rằng họ đã trở thành quốc gia thứ 6 thông qua CPTPP, sau Canada,

Nhật, Mexico, New Zealand và Singapore. “Động thái này kích hoạt 60

ngày đếm ngược tới thời điểm CPTPP có hiệu lực và đợt giảm thuế đầu

tiên được triển khai”, Bộ trưởng Thương mại và Tăng trưởng XK New

Zealand cho biết… Thỏa thuận sẽ giảm thuế giữa các nền KT chiếm

13% tổng GDP thế giới. Nếu Mỹ tham gia, các thành viên CPTPP sẽ

chiếm tổng cộng 40% tổng GDP thế giới. Ngoài hạ rào cản thương mại,

thỏa thuận còn giúp bảo vệ tốt hơn quyền sở hữu trí tuệ và điều chỉnh

những tiêu chuẩn lao động tối thiểu đối với các công nhân tại các nước

thành viên. 5 quốc gia thành viên vẫn đang trong thời gian thông qua

CPTPP là Brunei, Chile, Malaysia, Peru và Việt Nam.

Mỹ chuẩn bị kế hoạch áp thuế

toàn bộ hàng hóa nhập khẩu từ

Trung Quốc

Theo Bloomberg, Mỹ đang chuẩn bị sẵn sàng cho việc công bố vào đầu

tháng 12 một kế hoạch áp thuế quan bổ sung lên phần còn lại trong

lượng hàng hóa mà nước này NK từ TQ mỗi năm, nếu cuộc gặp tháng

11 Mỹ và TQ không thể "hạ nhiệt" cuộc chiến thương mại song phương.

Nếu một kế hoạch đánh thuế như vậy được Mỹ đưa ra vào đầu tháng

12, thì ngày bắt đầu thực thi kế hoạch - sau thời hạn 60 ngày tham khảo

ý kiến công chúng - có thể trùng với thời điểm đón Tết Nguyên đán vào

đầu tháng 2. Danh sách đánh thuế sẽ gồm tất cả những mặt hàng NK

từ TQ mà hiện Mỹ chưa áp thuế quan bổ sung trong 2 chương trình

đánh thuế đang thực thi. Dựa trên kim ngạch NK từ TQ vào Mỹ trong

2017, lượng hàng hóa trong kế hoạch đánh thuế này có thể có trị giá

257 tỷ USD/năm. Tuy nhiên, việc vạch ra một kế hoạch như vậy cho

thấy Mỹ vẫn sẵn sàng đẩy cuộc chiến thương mại với TQ lên ngưỡng

mới, cho dù các công ty phàn nàn về chi phí gia tăng do thuế quan và

thị trường tài chính toàn cầu gần đây biến động mạnh vì mối lo chiến

tranh thương mại gây thiệt hại tăng trưởng.

Kinh tế Quốc tế

11

Sản xuất Trung Quốc tăng chậm

nhất hơn 2 năm

Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng 10 chỉ đạt 50,2, thấp nhất kể

từ tháng 7/2016 và giảm sv 50,8 trong tháng 9. Nguyên nhân là cả nhu

cầu trong nước và nước ngoài chững lại, cho thấy dấu hiệu rạn nứt

trong nền KT do chiến tranh thương mại với Mỹ. Các đơn hàng mới - chỉ

báo về hoạt động trong tương lai, giảm tháng thứ 5 liên tiếp với tốc độ

nhanh nhất trong 1 năm. Chỉ số theo dõi số liệu này chỉ đạt 46,9, thấp

hơn sv 49th trước. Các dấu hiệu trên cho thấy nền KT này ngày càng

tăng trưởng chậm lại, có thể khiến các nhà hoạch định chính sách TQ

tung thêm nhiều biện pháp kích thích. GDP đã tăng chậm nhất một thập

kỷ trong Q.III, do SX và đầu tư vào CSHT giảm tốc. Giới phân tích dự

báo tình hình KT sẽ còn tệ hơn, sau đó mới dần cải thiện. Tháng 10

cũng là tháng đầu tiên thuế NK mới của Mỹ có hiệu lực trong toàn bộ

tháng. Vòng thuế mới nhất mà Mỹ và TQ áp lên nhau là vào ngày 24/9.

Ngân hàng trung ương Nhật hạ

dự báo tỷ lệ lạm phát

Ngày 31/10, BOJ đã hạ dự báo tỷ lệ lạm phát tài khóa 2018 xuống 0,9%

sv mức 1,1% đưa ra hồi tháng 7, trong khi tỷ lệ lạm phát tài khóa 2019

và 2020 được dự báo đều 0,1% xuống các mức tương ứng là 1,4% và

1,5%... Động thái điều chỉnh dự báo này khiến nền KT Nhật khó đạt

được mục tiêu của BOJ là duy trì lạm phát ở mức 2%. BOJ cũng 0,1%

dự báo tăng trưởng GDP của Nhật trong năm tài khóa hiện tại (sẽ kết

thúc vào tháng 3/2019) xuống mức 1,4%. Tuy nhiên, BOJ quyết định giữ

nguyên tỷ lệ LS dài hạn và ngắn hạn ở các mức cực thấp hiện nay và

tiếp tục duy trì chương trình thu mua tài sản trên quy mô lớn trong bối

cảnh các hộ gia đình và DN phải đối mặt với việc tăng thuế tiêu dùng từ

tháng 10/2019. Bên cạnh đó, duy trì LS lợi tức TPCP ở mức 0% và giữ

nguyên cam kết mang tính biểu tượng đối với việc tăng lượng TPCP mà

BOJ nắm giữ hằng năm lên mức 80.000 tỷ JPY (#711 tỷ USD).

12

Tài liệu tham khảo:

Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06

https://hnx.vn/

https://www.bloomberg.com/markets/stocks

http://www.sjc.com.vn/

https://goldprice.org/vi/index.html

https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000

Tin Tài chính - NH https://vietstock.vn/2018/10/khoang-lang-cua-ty-gia-757-636926.htm

https://vietnambiz.vn/ifc-ho-tro-tai-chinh-giup-khoi-phuc-gia-tri-tai-san-xau-tai-viet-nam-philippines-

indonesia-va-thai-lan-106584.html

http://ndh.vn/3-thang-kho-bac-nha-nuoc-gui-them-gan-49-000-ty-dong-vao-3-ngan-hang-lon-

20181030064623499p149c165.news

http://ndh.vn/uu-tien-dam-bao-duy-tri-su-on-dinh-va-ben-vung-cua-ttck-

20181031120025898p4c146.news

Tin KT vĩ mô https://vietstock.vn/2018/10/infographics-ca-nuoc-xuat-sieu-643-ty-usd-trong-10-thang-qua-761-

636946.htm

http://cafef.vn/vi-sao-dan-so-viet-nam-lon-ma-gdp-lai-qua-thap-20181031085357857.chn

https://vietnambiz.vn/pmi-viet-nam-thang-10-dat-539-diem-muc-do-lac-quan-duoi-muc-trung-binh-

cua-lich-su-106920.html

https://vietstock.vn/2018/11/viet-nam-tut-1-hang-moi-truong-kinh-doanh-768-637223.htm

https://vietstock.vn/2018/10/nganh-ban-le-hang-hoa-dat-quy-mo-27-trieu-ty-dong-768-637214.htm

http://ndh.vn/no-dong-thue-gan-83-000-ty-dong-hon-42-khong-co-kha-nang-thu-hoi-

20181031073718569p145c151.news

Tin KT Quốc tế http://cafef.vn/cptpp-bat-dau-co-hieu-luc-tu-cuoi-thang-12-20181031092304138.chn

http://vneconomy.vn/my-chuan-bi-ke-hoach-ap-thue-toan-bo-hang-hoa-nhap-tu-trung-quoc-

20181030080032025.htm

https://vietnambiz.vn/san-xuat-trung-quoc-tang-cham-nhat-hon-2-nam-106884.html

https://tradingeconomics.com/china/business-confidence

https://vietnambiz.vn/boj-ha-du-bao-ty-le-lam-phat-tai-nhat-ban-106900.html

13

Danh mục viết tắt

Bảo hiểm tiền gửi BHTG Lãi suất LS

Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH

Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT

Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST

Bảo hiểm nhân thọ BHNT Mua bán, sáp nhập M&A

Bất động sản BĐS Ngân hàng NH

Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng trung ương NHTW

Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng Nhà nước NHNN

Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTM CP

Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTM NN

Doanh nghiệp nhà nước DNNN Ngân hàng nước ngoài NHNNg

Doanh nghiệp tư nhân DNTN NSNN NSNN

Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Tài chính - ngân hàng TC-NH

Khách hàng doanh nghiệp KHDN Tài sản bảo đảm/ Tài sản đảm bảo TSBĐ/ TSĐB

Khách hàng cá nhân KHCN Tăng trưởng tín dụng TTTD

Dự trữ bắt buộc DTBB Tổ chức tín dụng TCTD

Nhà đầu tư nước ngoài/ Nhà đầu tư NĐTNN/ NĐT Tổng tài sản TTS

Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng sản phẩm quốc nội GDP

Giấy chứng nhận GCN Việt Nam VN

Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ

Thu nhập cá nhân/ Thu nhập doanh nghiệp TNCN/ TNDN TPCP TPCP

KT vĩ mô KTVM Trái phiếu doanh nghiệp TPDN

KT KT Thị trường chứng khoán/ Chứng khoán TTCK/ CK

Xã hội XH Vốn điều lệ VĐL

Khu vực KV Vốn tự có VTC

Thế giới TG Xuất nhập khẩu/ Xuất khẩu/ Nhập khẩu XNK/ XK/ NK

Kho bạc Nhà nước KBNN Sản xuất kinh doanh SXKD

Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Dịch vụ DV

Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP

Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Lương thực VN VFA

Ngân hàng Thế giới World Bank Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA

Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Thép VN VSA

Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE

Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO

Liên minh châu Âu EU Tổng cục thống kê GSO