Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
ĐẠI HỘI THÁNH THỂ
QUỐC TẾ LẦN THỨ 51
24-31.01.2016, CEBU, PHILIPPINES
“Đức Ki-tô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng
đạt tới vinh quang”
Thánh Thể :
nguồn mạch và cùng đích sứ mạng của Giáo Hội
*
Suy tư thần học và mục vụ để chuẩn bị cho
Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 51
tại Cebu, Phi Luật Tân, ngày 24-31/01/2016
2
MỤC LỤC
I. DẪN NHẬP .................................................................................... 5
A. Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế ............................................... 5
B. Ý Nghĩa Của ĐHTTQT Lần Thứ 51 .................................... 6
C. Ảnh hưởng trên đời sống Giáo Hội ...................................... 6
D. Đại Hội tại Cebu và người dân Châu Á ............................... 8
II. THÁNH THỂ: CÔNG CUỘC CỨU ĐỘ CỦA ĐỨC KI-TÔ
ĐƯỢC THỰC HIỆN ...................................................................... 11
A. “Mầu nhiệm... Đức Ki-tô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho
chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1:24-29) ........ 11
B. Mầu nhiệm được loan báo... để mọi người có thể đón nhận
Đức Ki-tô .............................................................................. 12
C. Thánh Thể: Đức Ki-tô hiện diện giữa chúng ta .................. 12
III. THÁNH THỂ: NGUỒN MẠCH VÀ CÙNG ĐÍCH CỦA
SỨ MẠNG CỦA GIÁO HỘI ......................................................... 13
A. Thánh Thể là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây đức ái 13
1. Sự hiện diện của Đức Ki-tô trong Thánh Thể ....................... 13
2. Quyền năng biến đổi của Chúa Thánh Thần ......................... 14
3. Được biến đổi và sai đi để biến đổi ...................................... 15
B. Thánh Thể và sứ mạng truyền giáo .................................... 15
1. Nghi thức nhập lễ .................................................................. 16
2. Phụng vụ Lời Chúa ............................................................... 17
3. Chuẩn Bị Lễ Vật ................................................................... 19
4. Kinh Nguyện Thánh Thể ...................................................... 21
5. Hiệp Lễ ................................................................................. 22
6. Kết lễ: “Ite, Missa Est.” (Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an) .. 24
3
IV. SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI TẠI Á CHÂU,
TRUYỀN GIÁO TRONG ĐỐI THOẠI ....................................... 26
A. Đối thoại như một phương thức truyền giáo ưu tiên ........... 26
B. Những yếu tố đối thoại trong truyền giáo ........................... 28
C. Loan báo và đối thoại ........................................................ 29
D. Thánh Thể, nguồn mạch và cùng đích của đối thoại ........... 30
V. TRUYỀN GIÁO TRONG ĐỐI THOẠI VỚI CÁC DÂN TỘC
VÀ CÁC NỀN VĂN HÓA .............................................................. 32
A. Hội nhập văn hóa và truyền giáo .................................. 33
B. Đạo đức bình dân trong cuộc đối thoại của Giáo Hội với các
nền văn hóa Châu Á ............................................................... 36
C. Thánh Thể trong cuộc đối thoại của Giáo Hội với các nền văn
hóa 39
VI. TRUYỀN GIÁO TRONG ĐỐI THOẠI VỚI CÁC TÔN
GIÁO VÀ CÁC TRUYỀN THỐNG TÔN GIÁO ........................ 40
A. Cuộc đối thoại của sự sống và trái tim ............................... 40
B. Ưu tiên của việc làm chứng ............................................... 42
C. Sự hiệp nhất và niềm hy vọng Ki-tô giáo ........................... 43
D. Thánh Thể trong cuộc đối thoại của Giáo Hội với các nền
văn hóa tôn giáo ..................................................................... 44
VII. TRUYỀN GIÁO TRONG ĐỐI THOẠI VỚI NGƯỜI
NGHÈO ........................................................................................... 45
A. Chọn lựa ưu tiên cho người nghèo ..................................... 45
B. Những hệ lụy và hậu quả ................................................... 46
C. Đáp trả lời kêu gọi: hành động vì người nghèo, cùng đi với
người nghèo ........................................................................... 47
D. Thánh Thể trong cuộc đối thoại của Giáo Hội với người
nghèo 48
4
VIII. SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO TRONG ĐỐI THOẠI VỚI
GIỚI TRẺ ........................................................................................ 50
A. Tương lai và hiện tại của Giáo Hội.................................... 50
B. Giới trẻ và thách đố trở thành ‘mảnh đất tốt’ ..................... 51
C. Huấn luyện giới trẻ ........................................................... 52
D. Những tác nhân và người hoạt động hàng đầu ................... 53
E. Thánh Thể trong cuộc đối thoại của Giáo Hội với giới trẻ . 54
IX. ĐỨC MARIA VÀ THÁNH THỂ TRONG SỨ MẠNG
TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI ................................................ 56
A. Đức Maria, Mẫu Gương và Mẹ của Giáo Hội truyền giáo . 56
B. Đức Maria trong cuộc đối thoại truyền giáo của Giáo Hội . 58
C. Đức Maria và Thánh Thể trong sứ mạng của Giáo Hội ...... 62
X. NIỀM HY VỌNG VINH QUANG (SPES GLORIAE) .......... 64
A. Thánh Thể và “vinh quang Thiên Chúa” ........................... 64
B. Bữa tiệc Mê-si-a ................................................................ 65
C. Tình yêu Thiên Chúa ôm lấy nhân loại .............................. 66
5
“Đức Ki-tô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta
niềm hy vọng đạt tới vinh quang”
Thánh Thể:
nguồn mạch và cùng đích sứ mạng của Giáo Hội
*
Suy tư thần học và mục vụ để chuẩn bị cho
Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế lần thứ 51
tại Cebu, Phi Luật Tân, ngày 24-31/01/2016.
I. DẪN NHẬP
A. Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế
Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế (ĐHTTQT) là một nhà ga – một kiểu
“trạm dừng” trong cuộc hành trình – nơi mà một cộng đoàn Giáo Hội
địa phương tụ họp chung quanh bàn tiệc Thánh Thể để cử hành, tôn
vinh và cầu nguyện trước sự hiện diện của Chúa trong Mầu Nhiệm
Thánh Thể. Giáo Hội địa phương này kêu mời các Giáo Hội địa
phương lân cận và các cộng đoàn Giáo Hội trên khắp thế giới đến tham
dự biến cố thánh thiêng này, bởi vì ĐHTTQT là công việc của toàn thể
Giáo Hội. “Nghi Thức”1 cử hành của Đại Hội đòi hỏi cử hành Thánh
Thể phải thực sự là trung tâm của tất cả những gì diễn ra trong chính
Đại Hội, để mọi sự hướng về và chuẩn bị cho Thánh Thể.
Sự hiểu biết sâu xa và dấn thân mạnh mẽ hơn cho mầu nhiệm Thánh
Thể được nuôi dưỡng qua những buổi học hỏi giáo lý, tôn vinh Lời
Chúa, cầu nguyện chung và những phiên họp khoáng đại. Để những
hoạt động này và những hoạt động khác gắn kết với Đại Hội, một
chương trình sẽ được ấn định trước nhằm xác định rõ những chủ đề
1 Nghi Thức Rô-ma, De Communione et de Cultu Mysterii Eucharistici
extra Missam (1973), 112.
6
cho những nghi lễ, buổi họp, cuộc rước, lời cầu nguyện, và việc tôn
thờ Thánh Thể trong những nhà nguyện thích hợp hay những nơi thờ
phượng khác.
Tất cả những thành tố và chi tiết của Đại Hội phải thể hiện một nhận
thức nền tảng của “Khoa Giáo Hội học về Thánh Thể,” vốn hướng
đến hiệp thông và hiệp nhất trong cộng đoàn Giáo Hội, cũng như tự
bản chất tìm cách đến với mọi người, đặc biệt là những ai sống bên lề
xã hội, lôi kéo họ trở về cho đến khi chỉ có một đoàn chiên dưới
quyền một Đấng Chăn Chiên là Đức Giê-su Ki-tô.2
B. Ý Nghĩa Của ĐHTTQT Lần Thứ 51
Tại “chặng dừng” Thánh Thể ở thành phố Cebu năm 2016, người
hành hương từ khắp mọi nơi trên thế giới sẽ tụ họp cùng với các tín
hữu Phi Luật Tân và đặc biệt là các tín hữu của Cebu. Cuộc tụ họp
toàn thế giới này sẽ là dấu chỉ đích thực của sự hiệp thông trong Đức
Giê-su Ki-tô và sự hiệp nhất trong niềm tin và tình yêu mà Giáo Hội
ở đất nước này dành cho tất cả các tín hữu và tất cả các môn đệ của
Đức Ki-tô từ khắp nơi trên thế giới. Đại Hội nhằm phục vụ toàn thể
Dân Chúa trong cuộc hành hương lịch sử của mình. Đó là một biến
cố trọng đại của Giáo Hội mà qua những kinh nghiệm cử hành bí
tích, giáo huấn và tình huynh đệ, Giáo Hội trên khắp thế giới sẽ được
nhắc nhớ rằng Thánh Thể là “nguồn mạch và chóp đỉnh”3 của đời
sống và hoạt động của Giáo Hội. Thánh Thể sẽ được nêu cao cách
đặc biệt rõ ràng như là sự hiện diện luôn tồn tại và không ngừng được
đổi mới của Mầu Nhiệm Vượt Qua, vốn là “biến cố cánh chung”
tuyệt hảo nhất trong toàn bộ việc thờ phượng và đời sống Giáo Hội
C. Ảnh hưởng trên đời sống Giáo Hội
“Đức Ki-tô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng
đạt tới vinh quang. Thánh Thể, Nguồn Mạch và Cùng Đích của Sứ
Mạng Truyền Giáo” là chủ đề tuyệt vời cho ĐHTTQT lần thứ 51 tại
2 Xc. Vatican II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium (SC), 2; x. Jn 10:16. 3 Ivi, 10. Xc. Vatican II, Hiến Chế Lumen Gentium (LG), 11.
7
Cebu. Phát xuất từ thư Thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-lô-xê (1:24-29),
chủ đề này nhằm soi sáng đầy đủ hơn mối liên kết giữa Thánh Thể,
Truyền Giáo và Niềm Hy Vọng Ki-tô giáo, cả trong thời gian và trong
vĩnh cửu. Ngày nay, có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử thế giới lại thiếu
niềm hy vọng như thế. Do đó nhân loại cần phải lắng nghe sứ điệp hy
vọng của chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô. Giáo Hội ngày nay phải
loan báo sứ điệp này với niềm hăng say mới mẻ, sử dụng những
phương pháp và cách diễn đạt mới.4 Với những đặc điểm của một cuộc
“tân phúc âm hóa,” Giáo Hội phải tìm cách đem sứ điệp hy vọng này
đến với mọi người, đặc biệt là những người “dù đã được rửa tội, nhưng
đã xa lìa Giáo Hội và sống tách biệt khỏi đời sống Ki-tô hữu.”5
ĐHTTQT lần thứ 51 nhằm cung cấp cho mọi người tham dự những cơ
hội trải nghiệm và hiểu biết về Thánh Thể như một cuộc gặp gỡ với
Chúa, cuộc gặp gỡ có sức biến đổi con người trong Lời và trong Hy Lễ
hiến ban sự sống của Người, hầu chúng ta có thể được sống và sống dồi
dào (x. Ga 10:10). Đây là một cơ hội để khám phá và tái khám phá đức
tin – “nguồn mạch ân sủng đem lại niềm vui và niềm hy vọng cho đời
sống cá nhân, gia đình và xã hội.”6 Cuộc quy tụ họp quốc tế này hứa hẹn
sẽ dẫn đến việc thi hành sứ mạng Ki-tô giáo một cách can đảm và dứt
khoát hơn trên thế giới và trong xã hội vốn ngày càng dửng dưng và thù
địch với đức tin và những giá trị của Tin Mừng. Việc gặp gỡ này với
Đức Ki-tô trong Thánh Thể có thể là nguồn hy vọng cho thế giới, một
khi được biến đổi nên giống Đấng chúng ta gặp gỡ nhờ quyền năng của
Chúa Thánh Thần, chúng ta bắt đầu sứ mạng biến đổi thế giới với lòng
nhiệt thành để đem đến cho những người đang rất cần cùng một sự đón
nhận, lòng tha thứ, sự chữa lành, tình yêu và tất cả sự toàn vẹn mà chính
chúng ta đã lãnh nhận và trải nghiệm.
4 Xc. John Paul II, In Portu Principis, ad episcopos Consilii episcopalis Latino-
Americani sodales (9 marzo 1983), số 3, AAS 75, par. 1, 778. 5 Benedict XVI, Homily at the Eucharistic Celebration for the solemn inauguration
of the 13th Ordinary Assembly of the Synod of Bishops (7/10/2012). 6 Ibid.
8
D. Đại Hội tại Cebu và người dân Châu Á
Theo một phương thức hữu hiệu và tỏa sáng đặc biệt, ĐHTTQT lần
thứ 51 nên loan báo mầu nhiệm Đức Ki-tô qua việc lưu tâm đến vị
thế của Đức Tin và Giáo Hội trong lịch sử Phi Luật Tân. Giáo Hội tại
Phi Luật Tân có một ơn gọi được quan phòng cho sứ mạng truyền
giáo đặc biệt tại Châu Á, một ơn gọi luôn được các đời Giáo hoàng
Rô-ma xác nhận.7 Sự hiện diện và dấn thân năng động của giáo dân
Công Giáo trong nhiều lĩnh vực xã hội khác nhau, kể cả công việc
mục vụ của Giáo Hội, có tiềm năng to lớn để ảnh hưởng đến môi
trường kinh tế, chính trị và xã hội như men trong bột. Sự đói nghèo
và thiếu cơ hội cho công ăn việc làm khiến nhiều người Phi phải di
trú đến các nước khác cả bên trong lẫn bên ngoài Châu Á, nhưng
đồng thời họ cũng mang theo đức tin Ki-tô giáo của họ và chia sẻ đức
tin ấy với những người họ cùng làm việc, có lẽ bằng gương sáng và
giá trị của mình hơn là bằng lời nói. Như vậy, một cách đặc biệt,
Giáo Hội Phi Luật Tân là nguồn hy vọng đúng như “Đức Ki-tô đang
ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh
quang” nơi các dân tộc Châu Á, như Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI
khẳng định trong chuyến viếng thăm Phi Luật tân năm 1970.
Năm 1937, thành phố Manila là chủ nhà của ĐHTTQT lần thứ 33,
lần đầu tiên tại Châu Á. Đại Hội, đã thành công đến độ lay động lòng
người, và chắc chắn là biến cố tôn giáo quốc tế quan trọng nhất từng
được tổ chức tại quốc gia này vào thời đó. ĐHTTQT lần thứ 51 sẽ
diễn ra năm 2016 hứa hẹn cũng có tầm quan trọng lớn lao như thế.
Đại Hội nằm trong giai đoạn “chín năm” cầu nguyện mà người tín
hữu Phi đang cử hành để chuẩn bị cho lễ kỷ niệm đầy vui mừng và
mang tính lịch sử diễn ra vào năm 2021, nhân dịp 500 năm Đức Tin
Ki-tô và Giáo Hội Ki-tô đến với đất nước này.
Vào năm 1521, Đức Vua và Hoàng Hậu Cebu được các nhà thừa sai
7 Ơn gọi truyền giáo đặc biệt này của Phi Luật Tân tại Châu Á đã được nói rõ bởi
Đức Giáo hoàng Phao-lô VI trong chuyến viếng thăm mục vụ của ngài đến Phi
Luật Tân vào năm 1970 và bởi Đức giáo hoàng Gioan Phao-lô II trong Đại hội Giới
trẻ Thế giới tổ chức tại Malina.
9
Tây Ban Nha rửa tội.8 Những người bản địa đã đón nhận đức tin Ki-
tô giáo khá dễ dàng và nhiệt tình nhờ lòng mộ đạo tự nhiên và sâu xa
của họ. Đức tin ban đầu của họ được các bí tích, chủ yếu là Thánh
Lễ, nuôi dưỡng, mặc dù Thánh Lễ được cử hành bằng một thứ tiếng
mà đại đa số người không hiểu cho đến thế kỷ thứ 20.
Việc Ki-tô giáo đến với mảnh đất này trong một thời gian khá ngắn
ngủi đã làm cho Phi Luật Tân trở thành đất nước Công Giáo lớn nhất
thế giới – với hơn 80% dân số được rửa tội trong đức tin. Qua nhiều
thế kỷ, người Công Giáo Phi ngày càng mộ mến việc cử hành Thánh
Thể hơn.9 Đời sống và hoạt động của một giáo xứ điển hình, dù thuộc
bình diện thiêng liêng, xã hội, hay phục vụ, đều được tập trung vào
phụng vụ Thánh Thể. Dịp mừng bổn mạng các thị trấn và làng mạc
(barangays) được cử hành với nhiều Thánh Lễ, tiệc mừng dồi dào
lương thực và làm hân hoan lòng người. Hôn nhân, tang lễ và các dịp
kỷ niệm ở đây thường được cử hành trong Thánh Lễ. Quả thực, các
biến cố của cộng đoàn và gia đình người Phi sẽ không trọn vẹn nếu
không được chúc phúc trong Thánh Lễ. Các nhóm Công Giáo hoạt
động xã hội hay tông đồ thường bắt đầu và kết thúc việc tụ họp bằng
Thánh Lễ. Thánh Lễ có lẽ đã trở thành hoạt động tôn giáo quen thuộc
nhất trong xã hội Phi Luật Tân.10
Việc canh tân phụng vụ của Công Đồng Vatican II đã đem đến một
số bước tiến trong cách thức người Phi cử hành Thánh Thể. Bản văn
8 Dựa trên tường thuật của ông Antonio Pigafetta, một quý tộc người Italia, ông giữ
nhật ký hành trình được thực hiện bởi năm con tàu Tây Ban Nha theo lệnh của ngài
Ferdinand Magellan (người Bồ Đào Nha), sau này trở thành vua của nước Tây Ban
Nha với danh hiệu là Charles V: Relazione del primo viaggio al globo terraqueo
(English translation: A. Pigafetta, Magellan's Voyage. A Narrative Account of the
First Circumnavigation, trans. R. Skelton, New York: Dover Publications, Inc.,
1969). 9 Xc. CBCP, Pastoral Letter Landas ng Pagpapakabanal on Filipino Spirituality
(2000), số 62; Episcopal Commission on Catechesis and Catholic Education,
Catechism for Filipino Catholics (1997), số 1669. 10 Xc. Landas ng Pagpapakabanal, số 62; Catechism for Filipino Catholics,
số 1669.
10
Thánh Lễ đã được dịch ra hầu hết mọi ngôn ngữ chính trên khắp quần
đảo này. Việc tham dự của người giáo dân đã cải thiện đáng kể không
những về mặt đối đáp và ca hát tích cực trong Thánh Lễ, mà còn về
việc đảm nhận những công việc phụng vụ khác nhau.11
Tuy vậy, phải thẳng thắn thừa nhận rằng mặc dù có những tia sáng,
nhưng vẫn còn những bóng tối trong cách mà Thánh Thể được định
hình trong đời sống đức tin của người Phi. Vẫn còn rất nhiều điều
đáng mong đợi liên quan đến việc hiểu biết đúng đắn của người tín
hữu về Thánh Thể, cũng như trong nhận thức thích hợp của cộng
đoàn về cử hành Thánh Thể. Nhưng vấn đề, như đã được nêu ra, xét
là cần kíp nhất phải giải quyết, chính là sự tách biệt có thể quan sát
được giữa thờ phượng và đời sống.12
Như thế một sự ghi nhận đặc biệt về lòng cảm tạ trong hân hoan và
khiêm tốn đối với Chúa, hòa nhập với sự kỳ vọng mãnh liệt, sẽ đánh
dấu kỳ Đại Hội này. Đại Hội sẽ đem lại ý nghĩa đặc biệt cho việc
người Phi mừng kính Đức Giê-su Ki-tô trong Thánh Thể, mừng kính
ơn Mình và Máu Thánh của Người vì sự sống cho thế giới và dân tộc
này. Nhưng Đại Hội cũng là một cơ hội đặc ưu đem lại cho tín hữu
Công Giáo Phi sự hiểu biết, cử hành và sống niềm tin Thánh Thể một
cách mới mẻ.
Hiện nay Châu Á đang trở thành một trung tâm mới của lịch sử trong
thế giới đương đại, thì việc tổ chức ĐHTTQT lần thứ 51 tại Châu Á là
một cơ hội biểu lộ rõ ràng ơn gọi độc đáo và đặc biệt của lục địa này
trong tư cách là một Giáo Hội của tình yêu, hiệp thông và truyền giáo.
Trong bối cảnh đa chiều kích mà Giáo Hội Châu Á hoàn thành sứ
mạng của mình, lục địa này đã trở thành một mảnh đất phì nhiêu, nơi
mầu nhiệm Nhập Thể tiếp tục được thể hiện nhờ sự hội nhập văn hóa
đích thực để đem niềm tin Ki-tô giáo vào trong cuộc đối thoại xác thực
với nhiều nền văn hóa, tôn giáo và chủng tộc khác nhau tại Châu Á.
11 Catechism for Filipino Catholics, số 1670. 12 Xc. Acts and Decrees of the Second Plenary Council of the Philippines
(1990), số 103.
11
I. THÁNH THỂ: CÔNG CUỘC CỨU ĐỘ CỦA ĐỨC KI-
TÔ ĐƯỢC THỰC HIỆN
A. “Mầu nhiệm... Đức Ki-tô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho
chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1:24-29)
Khi biết rằng các tín hữu Cô-lô-xê đang “thích nghi” niềm tin Ki-tô
giáo vào nền văn hóa và tín ngưỡng của họ, Phao-lô đã phải khẳng
định với sự chắc chắn là Đức Ki-tô nắm trọn quyền năng cứu độ
(1:19). Mọi sự trên thế giới này được tạo thành là vì Đức Ki-tô. Ngay
từ chương mở đầu của bức thư này, Phao-lô áp dụng đi áp dụng lại từ
ngữ “tất cả” và “mọi sự” cho Đức Ki-tô.13
Giáo huấn quan trọng này của thánh Phao-lô vang vọng rõ ràng trong
Hiến chế về Phụng Vụ Thánh của Công Đồng Vatican II, khi hiến
chế này khẳng định những kỳ công vĩ đại mà Thiên Chúa đã thực
hiện nơi dân Người trong Cựu Ước chỉ là để chuẩn bị cho công việc
mà Đức Ki-tô sẽ hoàn thành để cứu độ nhân loại và đem lại vinh
quang cho Thiên Chúa.14 Mầu Nhiệm Vượt Qua của cuộc thương
khó, cái chết và phục sinh của Người là nguyên nhân trọng tâm của
ơn cứu độ. Chính “Người đã chết để hủy diệt sự chết nơi chúng con,
và sống lại để phục hồi sự sống cho chúng con.”15 Nhờ mầu nhiệm sự
chết và phục sinh của Người, Đức Ki-tô thực sự trở thành niềm hy
vọng vinh quang của chúng ta. Vì Chúa Thánh Thần, Đấng Người đã
trao ban khi trút hơi thở cuối cùng trên Thập Giá (x. Ga 19:30), đã
sinh ra “bí tích kỳ diệu là toàn thể Giáo Hội”16 để như Chúa Cha đã
sai Đức Ki-tô, thì cũng sai Giáo Hội, cộng đoàn các môn đệ Người,
tiếp tục loan báo công cuộc cứu độ của Người.17
13 Xc. đặc biệt trong Col. 1: 15-20. 14 Xc. SC, 5. 15 Kinh tiền tụng I Mùa Phục Sinh. 16 Từ Lời nguyện sau Bài đọc thứ 7 của lễ Vọng Phục Sinh; Xc. SC, 5. 17 Xc. SC, 6.
12
B. Mầu nhiệm được loan báo... để mọi người có thể đón nhận
Đức Ki-tô
Mầu nhiệm này phải được loan báo không ngừng để mọi người có thể
đón nhận Đức Ki-tô và được dẫn đến với Người (x. Cl 1:28). Phao-lô
tự coi mình là người phục vụ Tin Mừng hy vọng, Tin Mừng được rao
giảng cho mọi loài thụ tạo dưới bầu trời này, để hoàn tất việc rao
giảng Lời Chúa, mầu nhiệm đã được giữ kín nhưng nay được tỏ hiện
(x. Cl 1:23, 25-26). Chính Phao-lô đã gánh lấy sứ mạng mà Đức Ki-
tô sai các tông đồ đi thực hiện: “bằng việc rao giảng Tin Mừng cho
mọi thụ tạo, họ có thể tuyên xưng rằng Con Thiên Chúa, bằng cái
chết và sự sống lại, đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực của Sa-tan,
khỏi sự chết và đem chúng ta vào Vương Quốc của Chúa Cha.”18
Tuy nhiên, Tin Mừng phải được rao giảng không chỉ bằng lời nói,
nhưng còn bằng hy sinh và các bí tích, mà toàn bộ đời sống phụng vụ
xoay quanh đó. Thế nên, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, con
người được đắm mình trong Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô.
Nhờ thường xuyên cùng nhau tụ họp để lắng nghe giáo huấn của các
tông đồ và dùng bữa tối của Chúa, họ loan truyền Chúa chịu chết cho
tới khi Người đến. Giáo Hội được xây dựng vững bền trong bí tích
hiệp thông và nên một khi Giáo Hội kiên trì đến với nhau để cử hành
Mầu Nhiệm Vượt Qua: đọc những gì “liên quan đến Người trong tất
cả Sách Thánh” (Lc 24:27), và cử hành Thánh Thể, trong đó “hiện tại
hóa sự vinh thắng và khải hoàn nhờ cái chết của Người.”19
C. Thánh Thể: Đức Ki-tô hiện diện giữa chúng ta
Để Giáo Hội hoàn tất một công việc lớn lao như thế, “Đức Ki-tô luôn
hiện diện trong Giáo Hội của Người, đặc biệt trong các cuộc cử hành
18 Ivi. 19 SC, 6, trích dẫn từ Công đồng Tren-tô, Khóa họp XIII, Sắc Lệnh on the
Holy Eucharist, c. 5 (Denzinger, 1644).
13
phụng vụ.”20 Trong Thánh Thể, Người hiện diện để liên tục đem con
người đến hiệp thông với Người và đến làm bằng hữu với nhau. Nơi
con người thừa tác viên, khi cộng đoàn tụ họp nhau lại, khi công bố
Lời Chúa, và trong hình Bánh và Rượu của Thánh Thể, Đức Ki-tô
tiếp tục hiệp nhất, tha thứ, giáo huấn, hòa giải, dâng hiến bản thân để
chúng ta được cứu độ, và do đó là trao ban sự sống. Chính vì điều
này mà Người thiết lập hiến lễ Thánh Thể là Mình và Máu của Người
– là sự nhập thể và thực hiện kế hoạch cứu độ mà đỉnh cao là hiến tế
Thập Giá, là sự tưởng nhớ sống động cái chết cứu độ và sự sống lại
của Người.
III. THÁNH THỂ: NGUỒN MẠCH VÀ CÙNG ĐÍCH
CỦA SỨ MẠNG CỦA GIÁO HỘI
A. Thánh Thể là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối
dây đức ái21
1. Sự hiện diện của Đức Ki-tô trong Thánh Thể
Những gì Đức Ki-tô đã hoàn tất trong cuộc sống, lời rao giảng, và
trên hết là mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, vẫn tiếp tục hiện diện
trong Giáo Hội, đặc biệt trong các cuộc cử hành phụng vụ. Quả thực
những gì có thể nhìn thấy nơi Người đã được truyền lại cho Giáo Hội
một cách đặc biệt trong các bí tích.22 Nhờ quyền năng Chúa Thánh
Thần, Đức Ki-tô tiếp tục làm chúng ta nên phong phú bằng sức sống
của Người, và nhờ được kết hiệp với Người, chúng ta có thể tiến
dâng việc thờ phượng được Chúa Cha chấp nhận qua những dấu chỉ
mà giác quan có thể cảm nhận được.
Do đó Thánh Thể là sự hiện thân vĩnh viễn của những gì Đức Ki-tô
20 SC, 7. 21 Xc. St. Augustine, Tractatus in Ioannem, VI, số 13, cited in SC, 47. 22 Xc. Leo Magnus, Tractatus LXXIV.2, ed. A. Chavasse (CCL 138A)
Turnhout 1973, 457: “Quod itaque Redemptoris nostri conspicuum fuit in
sacramenta transivit...”.
14
đã trao ban cho Giáo Hội bởi việc hoàn toàn cho đi bản thân mình.23
Thánh Thể trở thành bí tích tình yêu của Người, mà vì tình yêu ấy
Người đã hiến mình chết trên Thập Giá (x. Pl 2:8). Thánh Thể trở
thành dấu chỉ sự hiệp nhất mà Người đã nguyện xin vào đêm trước
khi chịu chết: “Lạy Cha, xin cho tất cả nên một, như Cha và Con là
một” (Ga 17:21). Thánh Thể trở thành mối dây của tình bác ái mà
Người đòi hỏi nơi các môn đệ trong điều răn mới Người đã truyền
cho họ (x. Ga 13:34). Người yêu cầu các môn đệ làm tất cả những
điều này để ‘nhớ đến’ Người. Đức Ki-tô muốn Thánh Thể là Bí Tích
tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây đức ái.
2. Quyền năng biến đổi của Chúa Thánh Thần
Để Thánh Thể trở thành bí tích tình yêu của Đức Ki-tô, dấu chỉ hữu hiệu
của sự hiệp nhất, và mối dây đức ái, chúng ta khẩn cầu Chúa Thánh
Thần xuống trên bánh và rượu để bánh và rượu trở thành Mình và Máu
Đức Ki-tô (lời khẩn cầu thánh hiến). Liền sau đó Chúa Thánh Thần lại
được khẩn cầu xuống trên cộng đoàn để họ có thể trở nên “một thân thể,
một tinh thần trong Đức Ki-tô” (lời khẩn cầu hiệp thông).
Thực cao cả thay mầu nhiệm này! Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần,
hoa màu ruộng đất và lao công của đôi tay con người được biến đổi trở
thành bánh ban sự sống và thức uống thiêng liêng. Cũng nhờ tác động
của Chúa Thánh Thần, những người ăn và uống Mình và Máu Đức Ki-
tô được biến đổi nên một Thân Mình Đức Ki-tô. Sau đó họ được sai đi
để biến đổi gia đình, nơi làm việc, xã hội và thế giới. Thánh Thể biến
đổi cộng đoàn tụ họp thành “hiệp thông sự sống, bác ái và chân lý” để
trở nên “khí cụ cứu chuộc mọi người, và được sai đi vào thế giới như
ánh sáng trần gian và muối đất.”24 Vì nơi Thánh Thể, “Đức Ki-tô mà
Chúa Cha đã sai xuống để thực thi ý Ngài (x. Ga 5:36-38; 6:38-40; 7:16-
18) sẽ kéo chúng ta đến với Người và làm cho chúng ta thành một phần
sự sống và sứ mạng của Người.”25
23 Xc. SC, 47. 24 LG, 9. 25 Benedict XVI, Tông huấn Verbum Domini (VD) (20/9/2010), số 91.
15
3. Được biến đổi và sai đi để biến đổi
Họ được mời gọi trở nên điều họ đã lãnh nhận (Thân Mình Đức Ki-
tô).26 Thánh Thể có một chiều kích truyền giáo nội tại dựa vào chính
việc được thiết lập. Vì trong Bữa Tối Cuối Cùng, Đức Ki-tô không
chỉ cầm lấy bánh và chén rượu để biến thành bánh ban sự sống và
chén cứu độ, Người còn rửa chân cho các môn đệ và truyền cho họ
làm cho nhau như thế (x. Ga 13:14). Việc họ rửa chân cho nhau trong
sự phục vụ yêu thương và khiêm tốn sẽ phải là tấm gương phản chiếu
toàn bộ cuộc đời phục vụ và rao giảng của Đức Ki-tô. Khi đã được
biến đổi thành những con người phục vụ và yêu thương nhờ gặp gỡ
Chúa trong Lời và trong Thân Mình của Người, người tín hữu được
sai đi để biến đổi cộng đoàn của họ trở thành cộng đoàn huynh đệ
sống động và trao ban sự sống. Thánh Thể thể hiện bản chất và mục
đích của mình khi biến đổi môi trường và con người thành những
cộng đoàn yêu thương và phục vụ.
B. Thánh Thể và sứ mạng truyền giáo
Cũng thế, sau khi cảm thấy trái tim mình cháy bỏng lúc nghe những
lời của Đức Ki-tô phục sinh và nhận ra Người “qua việc bẻ bánh”, hai
môn đệ trên đường Em-mau (x. Lc 24:30-32) cảm thấy được thôi
thúc vội vã ra đi chia sẻ với tất cả anh em mình niềm vui được gặp gỡ
Người.27 Dự phần vào việc “bẻ bánh và chia sẻ bánh” khi Hiệp Lễ, cá
nhân và cộng đoàn Ki-tô hữu không thể tiếp tục dửng dưng với lời
kêu gọi chia sẻ và cho đi chính mình để trở thành bánh sự sống cho
thế giới. Vì lý do này, “việc cử hành hy tế Thánh Thể là hành động
26 Xc. St. Augustine, Sermon 272:13-14, trong E. Rotelle (ed.), The Works
of Saint Augustine. A Translation for the 21st Century, part III, vol.7, trans.
E. Hill, New York 1993, 300-301: “Vì thế nếu chính anh em là thân mình
Đức Ki-tô và là chi thể của thân mình này, thân mình mầu nhiệm dành cho
anh em, được đặt ở trên bàn tiệc của Chúa; những gì anh em lãnh nhận
chính là mầu nhiệm dành cho anh em, chính anh em là những gì mà anh em
đáp lại A-men, và bởi vì đáp lại như thế anh em diễn tả sự tán thành của mình”. 27 Xc. John Paul II, General Audience (21/6/2000); Xc. John Paul II, Tông Thư
Dies Domini (DD) (5/7/1998), 45.
16
truyền giáo hiệu quả nhất mà cộng đoàn Giáo Hội có thể thực hiện
trong lịch sử thế giới.”28 Mỗi phần của việc cử hành Thánh Thể tỏ lộ
một mối gắn kết không thể tách rời giữa sự hiệp thông và sứ mạng
truyền giáo, nhờ đó Giáo Hội trở thành dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp
nhất (x. Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội 1). Như vậy, cũng cần xem xét
một số phần của việc cử hành Thánh Thể và sứ mạng truyền giáo
hàm chứa trong đó như thế nào.
1. Nghi thức nhập lễ
“Khi dân Chúa được quy tụ…”29 Từ nhiều nơi, hoàn cảnh và tình
huống khác nhau, nhờ những yếu tố khác nhau của nghi thức nhập lễ,
chúng ta được hợp thành một cộng đoàn phụng tự.30 Cùng đến với
nhau để đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa là sự vận hành đầu tiên do
quyền năng sáng tạo của Thánh Thể nhờ đó chúng ta trở thành Dân
giao ước của Thiên Chúa. Lời chào của vị tư tế “Chúa ở cùng anh chị
em” hay lời chào tương đương là một tuyên bố long trọng rằng bây
giờ chúng ta chính thức là một cộng đoàn phụng tự để tôn thờ Thiên
Chúa, nơi cư ngụ của Người. “Chúa ở cùng anh chị em” đồng thời là
lời tuyên xưng đức tin: Đức Ki-tô, Chúa phục sinh, Đấng sai Chúa
Thánh Thần đến, thực sự hiện diện nơi cộng đoàn đang cử hành
Thánh Lễ. Đó cũng chính là những lời Thiên Sứ chào kính Đức Mẹ
trong biến cố truyền tin khi Mẹ được tuyển chọn để cưu mang “Đấng
Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta” trong cung lòng Mẹ (x. Lc
1:28).
Chúa Thánh Thần, mà Đức Ki-tô, Chúa phục sinh, cử đến trong
Thánh Lễ, là Đấng làm cho chúng ta có thể nhớ lại những ân huệ cao
cả Thiên Chúa đã làm cho chúng ta. Với tâm tình tạ ơn và ca ngợi,
chúng ta được Chúa Thánh Thần ban sức mạnh để nâng tâm hồn lên
chúc tụng và tán dương Thiên Chúa. Cũng như trong ngày Lễ Hiện
28 Ibid. 29 Nghi thức thánh lễ, trong Sách lễ Rô-ma, ấn bản thứ 3, số 1. 30 Xc. R. Cabié, The Order of Mass of Paul VI, trong The Church at Prayer
2: The Eucharist, Collegeville 1986, 193.
17
Xuống, Chúa Thánh Thần hiệp nhất cộng đoàn trong tư cách là Giáo
Hội, ban quyền năng cho Lời Chúa, thánh hiến bánh và rượu thành bí
tích Mình và Máu Đức Ki-tô, và biến đổi chúng ta thành Đức Ki-tô
qua việc Hiệp Lễ.
Vì thế, những lời chào mừng ấy rất an ủi: giúp chúng ta xác tín rằng
việc tụ họp của chúng ta được chúc phúc bằng sự hiện diện của Đức
Ki-tô phục sinh và Chúa Thánh Thần mà Người cử đến. Trong cộng
đoàn Thánh Thể này, Đức Ki-tô gặp gỡ chúng ta nơi con người của vị
tư tế và Người muốn chúng ta nhận ra Người nơi nhau. Người nói với
chúng ta khi Kinh Thánh được công bố. Người hiến mình cho chúng
ta qua dấu chỉ thánh thiêng của bánh và rượu. Để trở thành một cộng
đoàn thờ phượng gặp gỡ Chúa, chúng ta được các nghi thức và kinh
nguyện trợ giúp - một bài hát chung, những chuyển động, tư thế, cử
chỉ, những kinh nguyện chung và thậm chí là những khoảnh khắc
thinh lặng chung.
Những yếu tố khác nhau của Nghi Thức Nhập Lễ nhằm tạo nên sự
hiệp nhất giữa những người đang tụ họp, chuẩn bị cho biết họ lắng
nghe Lời Chúa cách thích đáng và cử hành Thánh Thể cách xứng
đáng, luôn luôn với ý hướng để sai họ đi làm khí cụ hiệp nhất, làm
người rao giảng Lời Chúa và là bánh được bẻ ra và chia sẻ vì sự sống
của thế giới. Nghi Thức Nhập Lễ tạo nên phần khởi đầu của quá trình
tuyển chọn, kêu gọi và hình thành một Giáo Hội (ekklesia), một dân
tư tế mà Thiên Chúa sẽ sai đi “loan truyền những kỳ công vinh quang
của Đấng đã kêu gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng
diệu huyền” (1 Pr 2:9).
2. Phụng vụ Lời Chúa
Sau khi được nghi thức nhập lễ chuẩn bị, người tín hữu bây giờ lắng
nghe công bố Lời Chúa.31 Thiên Chúa và dân Người tham dự vào
31 Xc. General Introduction to the Lectionary for Mass, 2nd ed.,
(21/01/1981), số 6, 7.
18
“cuộc đối thoại mà trong đó công trình cứu độ cao cả được loan báo và
những đòi hỏi của giao ước được liên tục nhắc lại.”32 Thiên Chúa lên
tiếng và mong đợi lời đáp trả. Diễn tiến năng động của việc công bố,
suy niệm, giải thích và hấp thụ Lời Chúa nhằm biến cộng đoàn thành
“những người thực hành Lời Chúa chứ không chỉ nghe suông” (Gc
1:22), những người loan truyền chứ không chỉ đón nhận mạc khải
thánh.33 Vì Lời Chúa có sức mạnh soi sáng cuộc sống con người, thúc
bách người nghe nhìn vào bản thân và nhìn ra thế giới, và khơi động sự
thôi thúc không thể cưỡng lại là phải dấn thân vào thế giới để thực thi
công lý, hòa giải và hòa bình.34 Những bài giảng được chuẩn bị kỹ
lưỡng như người ta mong đợi sẽ trợ giúp cách đặc biệt trong vấn đề
này, và nhờ đó Thiên Chúa tìm đến với dân Người qua vị thuyết giảng
và biểu lộ quyền năng của Chúa qua lời nói con người. Thật vậy, khi
một mục tử biết rõ giáo dân của mình và thành thạo kỹ năng truyền
thông, “bài giảng (của vị ấy) có thể thực sự là một trải nghiệm vui tươi
và mãnh liệt trong Thần Khí, một cuộc gặp gỡ đầy an ủi với Lời Chúa,
một nguồn canh tân và phát triển liên tục.”35
Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho Lời Chúa được loan báo, cũng ban
sức mạnh cho người tín hữu để họ nghe, hiểu và thực hành Lời Chúa
trong cuộc đời mình. Sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần trong bí
tích Rửa Tội và Thêm Sức, họ được kêu gọi uốn nắn lối sống của họ
cho phù hợp với những gì họ cử hành trong phụng vụ. Nhờ đời sống
chứng tá, người tín hữu được sai đi, mang theo Lời Chúa mà họ đã
nghe, để Lời Chúa “có thể được mau chóng loan truyền và tôn vinh
và Danh Chúa được ca tụng giữa muôn dân nước.”36 Quả thực những
lời ban sự sống đời đời mà chúng ta nhận được khi gặp gỡ Chúa
trong Thánh Thể là để dành cho tất cả mọi người.
32 Pope Francis, Tông huấn Evangelii Gaudium (EG) (24/11/2013), 110;
Paul VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi (EN), 22. 33 General Introduction to the Lectionary..., 6. Xc. VD, 91. 34 Ivi, 99. 35 Xc. EG, 135. 36 General Introduction to the Lectionary..., 7.
19
3. Chuẩn Bị Lễ Vật
Tình yêu ưu tiên cho người nghèo. Cuộc cải cách của Công Đồng
Vatican II về Thánh Lễ đã phục hồi một tập quán cổ xưa liên quan
đến việc cộng đoàn dâng tiến bánh rượu cho hy tế Thánh Thể.37 Lời
chứng cuối cùng được ghi nhận về tập quán này là Sách Nghi Thức
Rô-ma thế kỷ thứ bảy,38 sách này cho chúng ta biết rằng vị chủ tế
chọn một ổ bánh trong số lễ phẩm được dâng lên và lấy đủ số rượu
dùng cho việc Hiệp Lễ; phần còn lại đặt trên một bàn phụ để phân
phát cho người nghèo.39 Tập quán ấy bị lãng quên trong nhiều thế kỷ
và được phục hồi do cuộc cải cách của Công Đồng Vatican II, không
chỉ là có thêm cơ hội cho tín hữu tham dự tích cực, mà còn khẳng
định một thực hành đáng ca ngợi của Giáo Hội sơ khai nhằm thể hiện
mối quan tâm đặc biệt đến người nghèo.
Nghi thức tưởng niệm việc thiết lập Thánh Thể trong Thánh Lễ Chiều
mừng Bữa Tối của Chúa vào ngày thứ Năm Tuần Thánh dành chỗ
cho cuộc rước lễ vật của các tín hữu, mà trong đó ngoài bánh rượu
còn có cả những tặng vật dành cho người nghèo đang hiện diện.40 Bài
hát đề nghị đi kèm theo hành động này nêu cao sứ điệp của việc
chuẩn bị lễ vật: “Ubi caritas est vera, Deus ibi est.” [= Đâu có tình
yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời]. Theo nghĩa trên, cuộc cử hành
37 Xc. J. Jungmann, The Mass of the Roman Rite: Its Origin and
Development (Missarum Sollemnia) 2, trans. F. Brunner, New York 1951,
2-3. Jungmann liên kết thực hành cổ xưa này với Irênê, Tertullianô,
Hippolytô thành Rô-ma, và Cyprianô. Một ít bánh và rượu do cộng đoàn
dâng tiến sẽ được dành để sử dụng cho hy tế Thánh Thể, phần còn lại sau
đó được phân phát cho người nghèo. 38 Ordo Romanus I, trong M. Andrieu (ed.) Les Ordines Romani du Haut
Moyen Age II. Les textes (Ordines I - XIII), (Spicilegium Sacrum
Lovaniense. Études et documents 23), số 78-84, 93-94. 39 Xc. Jungmann, The Mass... 2, 6-8. 40 Luật chữ đỏ chỉ dẫn: “Lúc bắt đầu Phụng vụ Thánh Thể, có thể có một
đoàn rước các tín hữu mang theo lễ phẩm cho người nghèo được dâng tiến
cùng với bánh và rượu.”
20
Thánh Thể vào buổi chiều này, với ý hướng tưởng niệm việc thiết
lập, là một mẫu thức hoàn hảo cho tất cả các cuộc cử hành Thánh
Thể. Cuộc cử hành đó dạy chúng ta rằng sứ mạng chăm sóc cho
người nghèo và những người bị thiệt thòi là trung tâm của phụng vụ
Thánh Thể. Khi chúng ta triển nở trong việc chân thành chăm sóc
người nghèo và người thiếu thốn, thì Thánh Thể biểu lộ càng rõ ràng
là một bí tích tình yêu hơn nữa. Sự gắn bó mật thiết giữa Thánh Thể
và sứ mạng chăm sóc người nghèo của Giáo Hội được diễn tả cô
đọng trong những lời lẽ trau chuốt của thánh Gio-an Kim Khẩu. Ngài
hỏi: “Bạn có muốn tôn vinh Thân Mình Đức Ki-tô không? Vậy thì
đừng để cho Thân Mình Đức Ki-tô bị khinh miệt nơi các chi thể, là
những người nghèo không có gì để mặc. Đừng tôn vinh Chúa trong
nhà thờ với lụa là gấm vóc, rồi sau đó lại bỏ lơ Người ở bên ngoài khi
Người lạnh cóng và trần truồng… Đức Ki-tô được lợi lộc gì từ một
bàn lễ vật đầy những chén vàng khi mà Người chết đói nơi những
anh chị em nghèo khó?”41
Quan tâm đến Công Trình Sáng Tạo. Cuộc cải cách của Công
Đồng Vatican II về Thánh Lễ gắn kết các công thức cầu nguyện dựa
theo những kinh nguyện tại bàn ăn của người Do Thái với hành động
đặt lễ vật trên bàn thờ: Chúc tụng Chúa, là Chúa tể càn khôn, vì thiện
hảo của Người, chúng con có bánh (rượu) dâng lên Người, là hoa
màu ruộng đất và lao công của đôi tay con người, để trở thành bánh
ban sự sống (thức uống thiêng liêng) cho chúng con. Những công
thức cầu nguyện này bày tỏ sự ca tụng Thiên Chúa vì công trình sáng
tạo thế giới và con người được cộng tác vào việc làm ra bánh rượu –
những biểu tượng của sự sống và tình bằng hữu – mà sẽ trở thành
phương tiện trong Thánh Thể cho sự hiện diện sống động và ban sự
sống của Đức Ki-tô giữa cộng đoàn quy tụ và trong lòng thế giới.
Nhưng bánh và rượu cũng nói lên một sứ mạng ngôn sứ. Việc thờ
phượng không thể dửng dưng với mối quan tâm đến môi trường và
tài nguyên thiên nhiên. Lời “Chúc tụng Chúa, là Chúa Cả trời đất” là
41 In Matthaeum hom. 50,3-4, PG 58, 508-509.
21
để cảm tạ Chúa về trái đất, thụ tạo của Người, đã nuôi dưỡng chúng
ta. Thế giới không chỉ là thứ nguyên liệu thô được sử dụng chỉ theo ý
muốn của chúng ta – hoàn toàn hủy hoại và hoang phí. Nó dành cho
tất cả con cái Thiên Chúa để sống dựa vào, sao cho hoàn toàn phù
hợp với phẩm giá đó. Lời “Chúc tụng Chúa, là Chúa Cả trời đất” kéo
theo một tiếng nói ngôn sứ chống lại sự tham lam của lòng dạ và bàn
tay con người, để bảo vệ trái đất và những nguồn tài nguyên trong đó,
và bảo vệ những nạn nhân do sự phản kháng của thiên nhiên gây ra
khi bị khai thác vô trách nhiệm.
4. Kinh Nguyện Thánh Thể
Hợp thành Thân Mình Đức Ki-tô: Bánh và Cộng Đoàn. Vào hai
thời khắc đặc biệt của phụng vụ Thánh Thể, một cách minh nhiên,
chúng ta nguyện xin Chúa Thánh Thần. Trong lời khẩn cầu thánh
hiến, Chúa Thánh Thần được nguyện xin xuống trên lễ vật bánh và
rượu để “để trở nên Mình và Máu Ðức Giê-su Ki-tô, Con Chúa, Chúa
chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể III). Trong lời khẩn cầu hiệp
thông, Chúa Thánh Thần cũng được khẩn nguyện xuống trên cộng
đoàn để nhờ dự phần vào Mình Máu Đức Ki-tô, họ “được tràn đầy
Thánh Thần của Người, thì trở nên một thân thể và một tinh thần
trong Ðức Ki-tô” (Kinh Nguyện Thánh Thể III). Không nơi nào
chúng ta có thể nhìn thấy sự ăn khớp rõ ràng hơn giữa Giáo hội và
Đức Ki-tô như trong viễn tượng mầu nhiệm Thánh Thể: Giáo Hội cử
hành Thánh Thể để Giáo hội luôn luôn được xây dựng thành “Thân
Mình Đức Ki-tô”. Bánh và rượu phải trở thành “Thân Mình Đức Ki-
tô” hầu làm cho những người dự phần vào Thánh Thể thành “Thân
Mình Đức Ki-tô.” Như thế, nhờ mầu nhiệm Thánh Thể mà Giáo Hội
đi vào trong lịch sử với tư cách là “Thân Mình Đức Ki-tô,” hiến tế vì
sự sống của thế giới.
Ngay từ hậu bán thế kỷ thứ nhất, chúng ta tìm thấy điều này được bày
tỏ trong một kinh nguyện mà Giáo Hội đã gìn giữ trong kho tàng bản
văn Thánh Thể của mình: “Cũng như chiếc bánh được bẻ ra đây,
22
trước tiên được gieo rắc trên khắp ruộng đồng, giờ đây được thu
lượm và trở thành một tấm bánh, thì xin cho Hội Thánh Cha từ muôn
phương được tụ họp trong nước Cha.”42 Đối với Giáo Hội sơ khai,
điều quan trọng nhất về việc cử hành Thánh Thể là cuộc cử hành đó
“quy tụ họ lại với nhau.” Niềm thâm tín của họ là ở chỗ khi được “tụ
họp lại với nhau” (= ekklesia) thì ơn cứu độ xuống trên họ. Chính khi
coi mình như là “Một Thân Mình Đức Ki-tô” mà những chi thể mạnh
khỏe cảm nhận được nỗi đau thương và khổ sầu của những chi thể
ốm yếu bệnh tật và như thế bắt buộc cảm thấy phải đáp ứng những
nhu cầu của họ. Thánh Thể giao phó cho Giáo Hội một sứ mạng thực
thi công lý trên thế giới bằng cách làm cho các cộng đoàn được quy
tụ này thành “Một Thân Mình Đức Ki-tô,” nơi mà chia rẽ và sự vô
cảm với nỗi khổ đau được đặt thành vấn đề.
Phát sinh từ việc cử hành Thánh Thể, cho nên mỗi một Ki-tô hữu, và
toàn thể Giáo Hội, thực thi sứ mạng gìn giữ nguyên vẹn Thân Mình
Đức Ki-tô và phục hồi sức khỏe cho Thân Mình ấy khi bị đau yếu vì
sự dửng dưng và bất hòa.
5. Hiệp Lễ
Nghi Thức Bẻ Bánh. Trong Bữa Tối Sau Cùng, Đức Giê-su cầm lấy
bánh và bẻ ra. Người đưa các mẩu bánh cho các môn đệ yêu dấu mà
nói: “Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn: vì này là mình Thầy sẽ bị
nộp vì các con.” Trong Thánh Thể, vị tư tế cũng thực hiện cùng một
hành động này của Đức Ki-tô. Người bẻ bánh như dấu chỉ tình yêu
của Đức Ki-tô mà thân xác bị “bể nát” vì chúng ta. Bất cứ khi nào
hành động này diễn ra trong cuộc cử hành Thánh Thể, chúng ta được
nhắc nhở về cái chết đau thương mà Đức Ki-tô phải trải qua vì tình
yêu Người dành cho chúng ta. Khi nhận lấy bánh ấy, chúng ta được
nhắc nhớ rằng Đức Ki-tô đã phải chết để chúng ta được sống. Khi cử
hành Thánh Thể, chúng ta phải “ý thức sâu xa hơn hy tế của Đức Ki-
tô là dành cho mọi người, và Thánh Thể đòi buộc tất cả nhưng ai tin
42 W. Rordorf-A. Tuilier, Didache: La Doctrine des Douze Apôtres
(Sources Chrétiennes 248) Paris2 1998.
23
vào Đức Ki-tô phải trở nên “bánh được bẻ ra” cho người khác, và
phải làm việc để xây dựng một thế giới huynh đệ và chính trực
hơn.”43 Đây là cách Đức Ki-tô khát khao trao ban sự sống cho nhân
loại và cho thế giới qua mọi thời đại: chúng ta làm “việc này” (= bẻ
bánh, chia sẻ, yêu thương) để tưởng nhớ Người. Mỗi người chúng ta
thực sự được kêu gọi để làm tấm bánh, bị bẻ ra vì sự sống của thế
giới, cùng với Đức Giê-su.
Khi nói với người dân Châu Á, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II
đã ca ngợi khả năng phi thường của việc hy sinh và hiến mình –
nghĩa là tử vì đạo – mà nhiều người Châu Á đã biểu lộ qua nhiều thế
kỷ. Tiếp đó ngài kêu gọi những Ki-tô hữu Châu Á ngày nay sẵn sàng
làm y như thế nếu tình huống đòi hỏi.44 Châu lục này đã hiến tặng
cho Giáo Hội và cho thế giới những người con, nam và nữ, đã hùng
hồn chứng minh chân lý đức tin bằng cách can đảm đối mặt với cái
chết tàn bạo nhất và cho thấy vẻ đẹp của đức tin ấy ngay giữa những
hình thức bách hại xấu xa nhất. Thánh An-rê Dũng Lạc và các bạn
đồng hành, thánh An-rê Kim Taegon và các bạn đồng hành, thánh
Augustinô và 119 bạn đồng hành, và thánh Phê-rô Calungsod, tất cả
là người Châu Á, đã biểu lộ một hình thái cụ thể của đức tin trọn vẹn
vào Thánh Thể bằng cách bị bẻ ra như thế.
Bữa Ăn Hiệp Thông. Trong Thánh Thể, “Thân Mình Đức Ki-tô”
được thể hiện nơi cộng đoàn Thánh Thể trở thành lương thực cho
những người khác. Hành động Thánh Thể đó mang vào thân mình
tiêu hao một sự sống, nghĩa là được bẻ ra và cho đi để nuôi dưỡng thế
giới đang đói khát. Thánh Thể sai người Ki-tô hữu bước ra khỏi bản
thân và hiến mình làm lương thực cho thế giới y như thế. Trong
Thánh Thể, hành vi tiêu hao bị đảo ngược và trở thành một hành vi
kenosis, hay tự hủy. Trở nên một phần của Thân Mình Đức Ki-tô là
cùng với Đức Ki-tô gánh lấy thân phận bể nát của con người, và tự
hủy là “mặc lấy thân nô lệ” (Pl. 2:7).
43 Benedict XVI, Tông huấn Sacramentum caritatis (SAC) (22/2/2007), 88. 44 Xc. John Paul II, Tông Huấn Ecclesia in Asia (EA) (6/11/1999), 49.
24
Khả năng tuyệt vời khi hy sinh bản thân, vốn là đặc tính của người
Châu Á, sẽ không có nhiều ý nghĩa nếu không đi kèm theo sự sẵn
sàng chia sẻ. Việc tự hủy chỉ tìm thấy ý nghĩa khi nhờ đó mà người
khác được trở nên trọn vẹn. Đức Ki-tô tự hủy để chúng ta có thể tràn
đầy sự sống của Người một cách dồi dào sung mãn (x. Ga 10:10).
Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II cho chúng ta biết về những lĩnh
vực đặc biệt cần được chia sẻ, nhất là vào thời điểm này, tại nơi này
của thế giới.45 Hoàn cảnh mà trong đó người tị nạn, người tìm nơi
nương náu, di dân và công nhân nước ngoài sống ở những nước tiếp
nhận họ thường gặp phải là thiếu thân thiện, xa lạ về văn hóa, bất lợi
về ngôn ngữ và dễ tổn thương về kinh tế. Những hoàn cảnh ấy đòi
hỏi một mái ấm tiếp đón họ, nơi đó, họ có thể tìm thấy sự an ủi và
nghỉ ngơi cho nỗi ưu tư và gánh nặng của mình. Xin cho các cộng
đoàn Ki-tô, dù ở bất cứ quốc gia hay địa phương nào, đều trở thành
những mái ấm nghỉ ngơi tiếp đón như thế đối với họ. Bữa tiệc Thánh
Thể sai chúng ta ra đi chia sẻ những gì chúng ta có để không ai trong
các cộng đoàn chúng ta còn thiếu thốn.
6. Kết lễ: “Ite, Missa Est.” (Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an)
Nghi thức kết lễ chấm dứt việc cử hành Thánh Thể và sai cộng đoàn
ra đi. Có những người liên hệ đặc điểm sứ-mạng-sai-đi này của nghi
thức kết lễ với với việc cả hai từ “Thánh Lễ” (Mass) và “sứ mạng”
(mission) đều phát xuất từ động từ tiếng La Tinh mittere (=sai đi).
Điều này cũng mang một ý nghĩa: nghi thức kết lễ được mô tả như là
nghi thức giải tán dân chúng để họ “ra đi và làm việc thiện, ca ngợi
và chúc tụng Thiên Chúa.”46
Trong phần bàn về Nghi Thức Nhập Lễ trước đây, chúng ta nói rằng
những người họp thành cộng đoàn được quy tụ, được chuẩn bị để
lắng nghe Lời Chúa và tham dự vào bữa ăn Thánh Thể cho xứng
đáng, luôn hướng đến việc họ được sai đi làm khí cụ hiệp nhất, người
45 Ivi, 34. 46 Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rô-ma, 90.
25
loan báo Tin Mừng, và làm tấm bánh, được bẻ ra và chia sẻ vì sự
sống của thế giới. Giờ đây, trong nghi thức kết lễ, họ được lệnh “Ra
đi, (cộng đoàn) được sai đi.” Như trong câu chuyện hai môn đệ Em-
mau, cuộc gặp gỡ với Đức Ki-tô Phục Sinh trong lời của Người được
công bố và trong việc bẻ bánh có sức mạnh nội tại để biến đổi cộng
đoàn thành những sứ giả hăng say và nhiệt thành của Chúa. Tình
huynh đệ họ trải nghiệm, Lời Chúa họ được nghe, và bữa tiệc Thánh
Thể họ cùng nhau chia sẻ, giờ đây họ được đưa vào thế giới dưới
hình thức làm chứng tá liên hệ tới những gì họ đã lãnh nhận. Làm
chứng có nghĩa là thông qua hành dộng, lời nói và cách sống của
mình, chúng ta trở nên nhân chứng cho Đức Giê-su Ki-tô, Đấng thực
sự hiện diện - đã qui tụ chúng ta, nói với chúng ta và hiến Mình làm
Bánh ban sự sống cho chúng ta.47 Làm chứng cho Đức Ki-tô nghĩa là
làm cho những người chúng ta gặp gỡ ở nơi làm việc, ở nhà, và
những nơi khác trên thế giới có thể trải nghiệm được những lời an ủi,
chữa lành, hiệp nhất và sự hiện diện ban sự sống của Đức Ki-tô, bởi
vì chúng ta có mặt ở đó.
Nghi Thức kết thúc Thánh Lễ quả thực sai chúng ta đi với lời mời gọi
và trách nhiệm hoạt động loan truyền Tin Mừng và làm cho xã hội
thấm nhuần những giá trị Ki-tô giáo.48 Có sự liên tục không đứt đoạn
từ Thánh Lễ vừa mới cử hành và sứ mạng Ki-tô hữu của chúng ta
trong thế giới.49 Những lời nguyện sau Hiệp Lễ diễn tả tính liên tục
không đứt đoạn này, vốn là hoa trái của việc tham dự đích thực vào
Thánh Thể: “để chúng con được hưởng nhờ hiệu quả ơn cứu chuộc
trong Thánh Lễ cũng như trong đời sống hàng ngày.”50 Với sự liên
tục này, Giáo Hội luôn xuất hiện như một mầu nhiệm của hiệp thông
và sứ vụ, cũng như Thánh Thể, vốn nằm ở trọng tâm đời sống và sứ
47 Xc. SAC. 85. 48 Xc. John Paul II, Tông Thư Mane nobiscum Domine (MND), 10/2004- 10/2005
(7/10/2004), 24. 49 Xc. SAQ 51. 50 Lời nguyện Hiệp lễ Chúa Nhật XXV Thường niên: “ut redemptionis effectum et
mysteriis capiamus et moribus.”
26
vụ của Giáo Hội, là bí tích hiệp thông và sứ vụ tuyệt hảo nhất.
Việc cử hành Thánh Thể, và mỗi phần trong Thánh Lễ, cho thấy rằng
trách nhiệm truyền giáo của Giáo Hội được khắc ghi trong bản chất
của mình. Làm một cộng đoàn truyền giáo là một phần căn tính của
Giáo Hội. Giáo Hội thực hiện căn tính này cả trong đời sống thờ
phượng, nơi Giáo Hội tuyên xưng qua các nghi thức Đức Ki-tô đã
cứu độ thế giới nhờ Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, cũng như cả
trong đời sống phục vụ, nơi Giáo Hội khẳng định sự hiện diện cứu độ
của Đức Ki-tô trong những sinh hoạt của nhân loại và thế giới.
IV. SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI TẠI Á
CHÂU, TRUYỀN GIÁO TRONG ĐỐI THOẠI
A. Đối thoại như một phương thức truyền giáo ưu tiên
Trong bối cảnh cụ thể của Châu Á, Giáo Hội, trong mọi nơi mọi lúc là
một cộng đoàn truyền giáo do nguồn gốc và mối tương quan với Đức
Ki-tô,51 được kêu gọi theo một nghĩa đặc biệt là thực thi nhiệm vụ
truyền giáo của mình trong tinh thần đối thoại. Đối thoại như thế xét
như là một lối tiếp cận đặc biệt với sứ mạng truyền giáo, không chỉ là
cần thiết do thực tại đa ngôn ngữ, đa tôn giáo và đa văn hóa của Châu
Á, khiến cho các dân tộc phải luôn luôn đối thoại với nhau để bảo đảm
cùng tồn tại hòa bình. Cách thức dấn thân truyền giáo này có gốc rễ
trong nhiệm cục cứu độ và lời kêu gọi hiệp thông của Ba Ngôi Thiên
Chúa, qua đó, Thiên Chúa Cha đưa nhân loại vào một cuộc đối thoại
yêu thương của ơn cứu độ với chính Ngài nhờ Chúa Con và trong
quyền năng của Chúa Thánh Thần.52 Đối thoại là cách Thiên Chúa
thực hiện kế hoạch cứu độ chúng ta nơi và nhờ Con của Người, Đấng
“đã trở nên người, chia sẻ đời sống phận người và nói ngôn ngữ loài
người chúng ta để truyền đạt sứ điệp cứu độ của Người.”53
51 Xc. SC, 6. 52 Xc. EA, 29. 53 Ibid.
27
Do đó không có cách nào khác để Giáo Hội thực hiện lệnh truyền rao
giảng từ Thầy và Chúa của mình (x. Ga 13:14) ngoài một cuộc đối
thoại về ơn cứu độ với tất cả mọi người không phân biệt nam nữ, vì
đối thoại là đặc điểm cốt yếu trong sáng kiến cứu độ và hiệp thông
của Thiên Chúa.54 Tầm nhìn của Cộng đồng Vatican II về đường lối
của Giáo Hội là thực hiện sứ mạng của mình trong một thế giới hiện
đại cũng như phản ảnh một cam kết đối thoại với các chủng tộc, ngôn
ngữ, tôn giáo, văn hóa và cơ cấu xã-hội-chính-trị khác nhau.55 Điều
này đặc biệt đúng tại Châu Á, nơi mà Giáo Hội phải dấn thân đối
thoại với “những người chia sẻ niềm tin của Giáo Hội vào Đức Giê-
su Ki-tô, là Chúa và Đấng Cứu Thế” cũng như với “những tín đồ của
mọi truyền thống tôn giáo khác, dựa trên căn bản của sự khát vọng
tôn giáo ẩn sâu trong mỗi trái tim con người.”56
Trong Phiên Họp Khoáng Đại đầu tiên, các Đức Giám Mục Châu Á
đã phân định cuộc đối thoại này trong bối cảnh truyền giáo tại Châu
Á phải có dạng thức đặc biệt nào: “cuộc đối thoại liên tục, khiêm tốn
và yêu thương với các truyền thống sống động, các nền văn hóa, các
tôn giáo, tóm lại đối thoại với mọi thực tại đời sống của con người đã
bám rễ sâu và đã thuộc về lịch sử cũng như đời sống của họ ở đây
một cách hân hoan.”57 Cuộc đối thoại này được gọi là “cuộc đối thoại
ba chiều” cách đây ba mươi năm,58 nhưng vẫn còn nguyên giá trị cho
54 Xc. Ủy ban Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn, Dialogue and
Proclamation. Reflection and Orientations on Interreligious Dialogue and
the Proclamation of the Gospel of Jesus Christ (19/5/1991). 55 Xc. GS, đặc biệt số 23.42; VATICAN II, Sắc Lệnh Ad Gentes (AG)
(7/12/1965), đặc biệt số 5 và 10. 56 Xc. EA, số 29. 57 Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC), Evangelization in Modern
Day Asia. First FABC Phiên Họp Khoáng Đại (1974), trong For All the
Peoples of Asia 1. FABC Các tài liệu từ 1970-1991, ed. F. J. Eilers, Quezon
City 1997, số 14. 58 Trong Phiên Họp Khoáng Đại FABC lần thứ I, tổ chức tại Đài Bắc (22-
26/4/1974), lần đầu tiên cuộc đối thoại ba chiều này được phát biểu, Xc. For
all the Peoples of Asia, vol. 1, Manila: IMC Publications, 1984, 25-41.
28
đến ngày nay: đối thoại với các nền văn hóa của người Châu Á, đối
thoại với các tôn giáo của họ, và đối thoại với những hoàn cảnh sống
đói nghèo, cô thế, đau khổ và với những nạn nhân, vốn là số phận của
đại đa số con người ở đây.59
B. Những yếu tố đối thoại trong truyền giáo
Cuộc đối thoại ba chiều này phải được thực hiện “để làm chứng cho
Đức Ki-tô bằng lời nói và hành động, bằng cách đến với những con
người trong thực tế cụ thể đời sống hằng ngày của họ.”60 Liên quan
đến việc làm chứng cho Đức Ki-tô bằng lời nói, nghĩa là công khai rao
giảng Tin Mừng cứu độ, sử dụng những câu chuyện và những hình
thức kể chuyện khác hứa hẹn có hiệu quả lớn hơn61 bởi vì đa số người
Châu Á có thể liên tưởng tốt hơn với “một kiểu sư phạm gợi mở, sử
dụng câu chuyện, dụ ngôn và biểu tượng.”62 Đại Hội Truyền Giáo
Châu Á lần đầu tiên được tổ chức tại Chiang Mai, Thái Lan tháng 10
năm 2006 đã nhắc lại với lòng ưu ái và cảm tạ rằng chính Đức Giê-su
đã giảng dạy bằng dụ ngôn và những hình ảnh được cô đọng để mạc
khải chiều sâu của Nước Thiên Chúa – Người chính là câu chuyện tình
yêu của Thiên Chúa trong thân xác!63 Chuyện kể có một sức mạnh đặc
biệt làm cho người ta hiểu được ngay cả những mầu nhiệm sâu xa nhất
của đức tin, biến đổi những quan điểm và giá trị, hình thành cộng đoàn
và thiết lập tình huynh đệ.
Mặt khác, việc làm chứng cho Đức Ki-tô bằng hành động còn có
nghĩa là cuộc đối thoại ba chiều này phải được thực hiện bằng những
hành động cụ thể phục vụ cho công lý, hòa bình và phẩm giá con
người, dẫn đưa người nghèo khổ và yếu thế đến sự phát triển và giải
59 Xc. FABC, Phiên Họp Khoáng Đại lần thứ 7 (2000), trong For All the Peoples of
Asia III, số 4. 60 Bishops' Institute for Missionary Apostolate I (Baguio), số 5. 61 EA, 20. 62 Ibid; Xc. Phiên họp đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục,
Relatio post disceptationem, 15. 63 Telling the Story of Jesus in Asia. The Message of the First Asian Mission
Congress, Chiang Mai, Thailand (18-22/10/2006).
29
thoát trọn vẹn. Cả hai hình thức dấn thân (lời nói và hành động) đòi
hỏi sự đối thoại trong đời sống, hòa nhập vào hoàn cảnh của những
con người mà Tin Mừng cứu độ được loan báo cho họ, nhạy cảm với
nền văn hóa của họ, tôn trọng và đón nhận mọi người, liên tục lắng
nghe và đồng cảm, phát triển những mối tương quan con người, và
kiên tâm học hỏi. Hơn nữa cuộc đối thoại trong sứ mạng truyền giáo
này đòi hỏi một linh đạo quản gia, tìm cách bảo vệ sự toàn vẹn của
công trình sáng tạo vì lợi ích của những người phải chịu đau khổ nhất
khi những thảm họa hủy diệt xảy đến do việc lạm dụng môi trường
và tài nguyên thiên nhiên, hay khi của cải trái đất không được phân
bổ cách công bằng.
Vì thế, đối thoại trong sứ mạng truyền giáo đòi buộc linh đạo cho những
người rao giảng Tin Mừng, linh đạo bao gồm: liên tục quy chiếu về con
người và đường lối của Đức Giê-su, kính trọng đối với Thần Khí, phân
định trong cầu nguyện, khát mong tự hủy, cầu nguyện và sự hiện diện
của Chúa, cảm thương, và có khả năng hướng dẫn người khác vào trong
đời sống ân sủng và thánh thiện.
C. Loan báo và đối thoại
Cuộc đối thoại này tự nó không phải là cùng đích; nhưng là để chia sẻ
và đón nhận. Cuộc đối thoại khiến chúng ta sẵn sàng tôn trọng người
khác và nhận ra tài năng của họ. Cuộc đối thoại giúp chúng ta có thể
lắng nghe những gì người khác bày tỏ về sự tốt lành của Thiên Chúa
trong và qua cuộc sống của họ.64 “Suốt trong nhiều giai đoạn khác
nhau của cuộc đối thoại, các bên sẽ cảm thấy một nhu cầu mạnh mẽ
để truyền đạt và tiếp nhận thông tin, đưa ra và đón nhận lời giải thích,
cũng như chất vấn lẫn nhau.”65 Về phần mình, người Ki-tô hữu phải
sẵn sàng cho thấy đức tin của họ, giải thích niềm hy vọng trong lòng
họ (1 Pr 3:15) để trả lời cho những kỳ vọng của các đối tác do cuộc
đối thoại tạo ra. Đối thoại luôn luôn là để loan báo và chia sẻ niềm tin
và niềm hy vọng của chúng ta vào Đức Ki-tô. Không thể có một cuộc
64 Xc. Faith Encounters in Social Action IV (Kuala Lumpur), 12. 65 Dialogue and Proclamation..., 82.
30
Phúc Âm hóa đích thực nếu không có việc loan truyền Đức Giê-su
Ki-tô cũng như loan truyền cái chết và sự phục sinh cứu độ của
Người.66 Chúng ta không thể chia sẻ những gì mình không có. Để
dấn thân sinh hiệu quả trong cuộc đối thoại này, người Ki-tô hữu phải
đào sâu đức tin của mình nơi Đức Ki-tô và nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua
của Người, thanh tẩy thái độ, minh định ngôn từ và thực hành việc
thờ phượng ngày càng chân thực hơn.67
Mọi giai đoạn của cuộc đối thoại và loan báo như thế phải được tình
yêu thúc đẩy. Người Ki-tô hữu phải rao giảng và chia sẻ đức tin của
họ vào Đức Ki-tô chính vì tình yêu này, chứ không chỉ vì tuân theo
lệnh truyền của Chúa. Mặt khác những tín đồ thuộc các tôn giáo khác
cũng có thể muốn chia sẻ sự phong phú trong niềm tin của họ. Cũng
tinh thần đức ái Ki-tô giáo này rất cần thiết để được nên phong phú
hơn từ việc chia sẻ của người khác. Liên quan đến điểm này, các
Giám mục Châu Á có một minh định quan trọng và hợp thời: “Đối
thoại không đòi hỏi phải từ bỏ sự cam kết của mình, đánh đồng nó
hay dễ dàng thỏa hiệp. Trái lại, để đối thoại có hiệu quả và sâu xa
hơn, mỗi bên thậm chí cần phải xác tín mạnh mẽ hơn niềm tin của
mình.”68 Mọi cuộc đối thoại bao hàm sự tương hỗ và nhắm đến xua
đi nỗi sợ hãi và sự hiếu chiến.69
D. Thánh Thể, nguồn mạch và cùng đích của đối thoại
Trong đời sống Giáo Hội, Thánh Thể đóng vai trò vừa là nguồn mạch
vừa là cùng đích của cuộc đối thoại này. Được dự phần vào việc cử
hành Thánh Thể, chúng ta đi vào trong mối hiệp thông sự sống với
Ba Ngôi Thiên Chúa bởi vì chúng ta tham dự vào cuộc đối thoại về
sự sống và ơn cứu độ đã bắt đầu trong lịch sử và bây giờ tồn tại mãi
trong mầu nhiệm phụng vụ nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần.
66 EG, 110; Xc. EA, 2 and 19; Paul VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi
(EN), 22. 67 Dialogue and Proclamation..., 82. 68 Bishops' Institute for Interreligious Affairs IV/7 (Tagaytay), số 10. 69 Dialogue and Prodamation..., 82.
31
Những yếu tố khác nhau của việc cử hành khiến thân xác, giác quan,
ý thức của chúng ta tham gia vào cuộc đối thoại mở ra và chúng ta có
thể thông dự vào nhịp sống của Đức Ki-tô hiến mình để cứu độ
chúng ta. Qua việc tụ họp và hình thành một cộng đoàn phụng tự,
chúng ta đáp lại lời hiệu triệu của Chúa Cha để trở thành Dân giao
ước của Người. Qua việc lắng nghe và hấp thụ Lời Chúa được công
bố, chúng ta tham gia vào cuộc đối thoại để được Chúa Cha chữa
lành, huấn luyện, và làm cho nên phong phú bằng sự sống và tình yêu
của Người, đặc biệt với sự trợ giúp của một bài giảng lễ mà nhờ bối
cảnh Thánh Thể đã vượt lên trên mọi hình thức dạy giáo lý bởi vì bài
giảng dẫn chúng ta đến với hiệp thông bí tích.70
Theo một cách độc đáo, chúng ta đi vào trong cuộc đối thoại sự sống
với Ba Ngôi Thiên Chúa bằng cách ăn Mình và uống Máu Đức Ki-tô,
vì khi đáp lại lời khẩn cầu của chúng ta, Chúa Cha sai Thánh Thần
qua Con của Người xuống trên bánh và rượu để có thể trở thành
Mình và Máu Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Xuất phát từ việc tụ
họp Thánh Thể, chúng ta được sai đi để tiếp tục và mở rộng cuộc đối
thoại sự sống và ơn cứu độ của Ba Ngôi dưới hình thức phục vụ yêu
thương, đặc biệt là đối những người nhỏ bé, hèn mọn và thua thiệt
nhất.71
Thế nên, sự vận hành năng động của hành động cử hành (quy tụ - lời
- bữa tiệc - sứ vụ) làm cho chúng ta nhận ra rằng Thánh Thể là sự
tưởng nhớ sống động cuộc đối thoại đã diễn ra trong toàn bộ cuộc đời
và sứ vụ của Đức Ki-tô, nhưng đạt đến đỉnh cao trong Mầu Nhiệm
Vượt Qua của cuộc khổ nạn, cái chết, sự phục sinh và vinh quang
chung cuộc của Người. Đó là một cuộc đối thoại tạo thành cả một
hành vi vâng phục Chúa Cha (vận hành đi lên) và lòng thương xót
đối với tội nhân yếu đuối (vận hành đi xuống), và một hy tế của cả
việc tôn thờ (vận hành đi lên) và phục vụ (vận hành đi xuống).72
70 EG, 137; Xc. DD, 41. 71 Xc. EA, 24. 72 Xc. FABC, Living the Eucharist in Asia. Final Document of the IX FABC
32
Ở Châu Á, nơi mà hình thức đặc trưng cho sự hiện hữu của Giáo Hội
là hình thức đối thoại, Thánh Thể tỏa sáng như “một trải nghiệm độc
đáo cuộc đối thoại của Thiên Chúa với chúng ta và lời đáp trả của
chúng ta với Thiên Chúa: một cuộc đối thoại của sự sống, một cuộc
đối thoại của tình yêu.”73 Trong Thánh Thể, Đức Ki-tô mời gọi mọi
người đến đồng bàn, nơi Người chia sẻ sự sống của Người qua những
lời yêu thương, chữa lành, và qua một bữa ăn khắc sâu mối tương
quan yêu thương giữa những người cùng gọi Thiên Chúa là Cha.
Việc đó có ý nghĩa rất nhiều đối với một dân tộc mà nền văn hóa của
họ dành chỗ ưu tiên cho mối gắn bó mật thiết trong gia đình được giữ
gìn nguyên vẹn và củng cố bởi sự khuyên bảo của cha mẹ và những
bữa ăn gia đình.74 Việc Đức Ki-tô hiến mình làm của ăn thỏa mãn
mọi cơn đói và làm của uống tan biến mọi cơn khát và đem lại niềm
vui. Việc đó sẽ sưởi ấm trái tim của nhiều người trên châu lục này khi
mà cuộc sống hàng ngày của họ rõ ràng là thiếu thốn những nhu cầu
cơ bản.75 Thánh Thể phải luôn là điểm quy chiếu cho các Giáo Hội
địa phương tại Châu Á trong cuộc đối thoại truyền giáo liên tục với
những nền văn hóa, tôn giáo địa phương, với người nghèo, và giới
trẻ, bởi vì cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người diễn ra trong
đó chính là hạt giống và tầm nhìn cho toàn bộ sứ mạng truyền giáo
của Giáo Hội.
V. TRUYỀN GIÁO TRONG ĐỐI THOẠI VỚI CÁC DÂN
TỘC VÀ CÁC NỀN VĂN HÓA
Sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội tại Châu Á phải được thực hiện
trong sự đối thoại với rất nhiều nền văn hóa. Châu Á không những là
châu lục lớn nhất mà còn là nơi cư ngụ của gần hai phần ba dân số
thế giới; nó cũng là nơi tập hợp đa phức gắn kết nhiều nền văn hóa,
Phiên Họp Khoáng Đại (10-16/8/2009). 73 Ibid. 74 Xc. Hội đồng Giám mục Phi Luật Tân, Thư mục vụ Landas ng
Pagpapakabanal, trong Filipino Spirituality (2000), 71-74. 75 Ivi, số 75-76.
33
ngôn ngữ, niềm tin, và truyền thống.76 Khi nhắc đến một nhận xét mà
các giám mục Châu Á đã lên tiếng,77 Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã
một lần nữa chỉ ra rằng những thách thức nhiều mặt đang đến với các
nền văn hóa Châu Á, mà trong số đó là cách ứng xử mới do việc cọ
xát dữ dội với những hình thức truyền thông khác nhau và giá trị
truyền thống gây ra, bao gồm sự linh thánh của hôn nhân, sự ổn định
của gia đình, đang bị những yếu tố tác hại của truyền thông và công
nghiệp giải trí coi nhẹ.78 Thêm vào sự kiện Ki-tô giáo còn là một tôn
giáo thiểu số trên lục địa này, do vậy Ki-tô giáo góp phần vào việc bị
xem là “quá Phương Tây” và là một “công cụ của sự đô hộ thực
dân.”79 Thế nên do nhu cầu, sứ mạng truyền giáo Ki-tô giáo tại Châu
Á phải bao gồm một cuộc đối thoại giữa một bên là Tin Mừng và
niềm tin Ki-tô giáo và bên kia là nền văn hóa của người Châu Á. Kết
quả mong đợi là đức tin được hội nhập văn hóa và nền văn hóa được
phúc âm hóa.80
A. Hội nhập văn hóa và truyền giáo
Một đòi hỏi khẩn cấp về thần học và mục vụ. Ý hướng hội nhập
văn hóa tại Châu Á được thúc đẩy bởi một tầm nhìn xa: tầm nhìn về
những cộng đoàn Ki-tô đích thực tại Châu Á – Người Châu Á trong
cách suy nghĩ, cầu nguyện, lối sống, và truyền đạt kinh nghiệm của
riêng mình về Đức Ki-tô cho người khác.81 Theo tầm nhìn này, hội
76 EA, 6. 77 Ivi, 7. 78 EG, 62. 79 A. J. Chupungco, Mission and Inculturation: East Asia and the Pacific, trong
The Oxford History of Christian Worship, ed. G. Wainwright-K. B. Westerfield
Tucker, Oxford: Oxford University Press, 2006, 665. 80 Xc. Consultation on Evangelization and Inculturation, trong For All the Peoples
of Asia III. FABC Các tài liệu từ 1997-2001, ed. E.-J. Eilers, Quezon City:
Claretian Publications, 2002, 218. 81 Xc. Conclusions of the Asian Colloquium on Ministries in the Church (Hong
Kong, 3/3/1977), trong For All the Peoples of Asia I. FABC Các tài liệu từ 1970-
1991, ed. G. B. Rosales-C. G. Arevalo, Quezon City: Claretian Publications, 1997, 70.
34
nhập văn hóa không chỉ là một chọn lựa, mà là một đòi hỏi khẩn cấp
về thần học và mục vụ. Mầu nhiệm Nhập Thể và Mầu Nhiệm Vượt
Qua chính là nền tảng và mẫu mực cho việc thấm hút sâu sắc của các
Giáo Hội địa phương vào các nền văn hóa chung quanh, trong các khía
cạnh của đời sống, lễ mừng, làm chứng tá và truyền giáo.82 Con Thiên
Chúa đã trở thành một con người, một người Do Thái, và do đó trở
thành một phần của lịch sử, văn hóa, truyền thống, và tôn giáo của dân
tộc Do Thái. Giáo Hội cũng phải nhập thể nơi mọi chủng tộc và văn
hóa mà mình hiện diện. Giáo Hội phải trở thành một phần của mọi dân
tộc nơi mình được gieo trồng “chính vì cùng một động lực đã dẫn Đức
Ki-tô gắn bó chính bản thân, qua việc nhập thể, đến với một hoàn cảnh
xã hội và văn hóa nhất định của những con người mà Người sống giữa
họ.”83 Giáo Hội phải được hòa nhập vào đời sống của một dân tộc đã
đón nhận mình, chứ không thể là một người xa lạ đối với họ. Giáo Hội
phải nhập thể sao cho Giáo Hội không những được xem là Giáo Hội tại
Châu Á, mà còn là Giáo Hội Châu Á, không những là Giáo Hội tại Phi
Luật tân mà còn là Giáo Hội Phi Luật Tân.
Lập trường về việc nhập thể như thế, mà không đánh mất tính phổ quát
của Giáo Hội, thậm chí sẽ còn nuôi dưỡng tính phổ quát ấy. Nhờ đức
tin của Giáo Hội và nhờ việc cử hành công cuộc cứu độ của Người,
Đức Ki-tô tiếp tục nhập thể trong các chủng tộc và nền văn hóa khác
nhau. Người là Đấng Cứu Độ phổ quát bởi vì Người có thể biến mình
thành một phần của thực tại cụ thể của mỗi dân tộc nhất định và mang
cho họ ơn cứu độ. Giáo Hội cũng thực sự phổ quát bởi vì Giáo Hội có
thể nhập thể vào thực tại cụ thể của mỗi Giáo Hội địa phương. Khi
nhập thể, Giáo Hội làm phong phú cả bản thân mình lẫn Giáo Hội địa
phương. Việc nhập thể đem lại sự phong phú hỗ tương: cho dân tộc
tiếp nhận đức tin lẫn Giáo Hội nhập thể trong đó.
82 Church Issues in Asia in the context of Evangelization, Dialogue and
Proclamation. Conclusions of the Theological Consultations (Thailand, 3-
10/11/1991), trong For All the Peoples of Asia II. FABC Các tài liệu từ
1992-1996, ed. F.-J. Eilers, Quezon City: Claretian Publications, 1997, 201. 83 AG, 10.
35
Trong cuộc đối thoại với các nền văn hóa Châu Á. Nhờ việc loan
báo Tin Mừng và cử hành phụng tự sử dụng những thực tại văn hóa
của một dân tộc, theo thời gian và không gian, Giáo Hội tiếp tục cuộc
đối thoại về ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã khởi xướng và đạt đến
chóp đỉnh khi Người thốt lên Lời của Người trong một hoàn cảnh cụ
thể.84 Hội nhập văn hóa không chỉ là một khí cụ làm cho niềm tin,
việc thờ phượng và đời sống của Giáo Hội trở nên hấp dẫn và dễ
chấp nhận đối với một dân tộc bản địa. Việc thực hiện đối thoại với
các nền văn hóa Châu Á nghĩa là mang sứ điệp và đời sống của Đức
Ki-tô thực sự nhập thể vào trong tâm trí và đời sống của các dân tộc,
để họ có thể sống theo một phương thức độc đáo của người Châu Á,
nghĩa là, thực sự là một Giáo Hội địa phương của Châu Á. Tin Mừng
được rao giảng cho họ bằng cách sử dụng những biểu tượng sống
động, hình ảnh, thực tại và câu chuyện vốn là một phần trong đời
sống thường ngày của họ hợp quần với nhau như một dân tộc. Họ
đón nhận Lời Chúa, làm cho Lời Chúa thành nguyên tắc sống, giá trị,
thái độ và khát vọng của họ. Họ được giúp đỡ để lãnh hội và trải
nghiệm đức tin của mình và cử hành phụng tự theo một phương thức
phản ánh được những giá trị thân thiết của họ, sử dụng những cách
biểu đạt nằm trong văn hóa của họ. Nói cho cùng, ngôn ngữ, nghi
thức, và biểu tượng của phụng tự Ki-tô giáo luôn có nguồn gốc từ
một nền văn hóa và sẽ luôn tìm thấy được ý nghĩa từ nền văn hóa đó.
Lịch sử phụng vụ minh chứng cho việc tích hợp những yếu tố văn
hóa rút ra từ các dân tộc khác nhau mà Giáo Hội tiếp xúc qua bao thế
kỷ.85 Phụng tự của một cộng đoàn Ki-tô giáo nhất định không thể
không mang lấy những biểu đạt văn hóa của người địa phương. Theo
cách đó họ trở thành Thân Mình Đức Ki-tô trong một thời gian và
không gian đặc thù.
84 Xc. Letter of Participants of the First Bishops Institute for Missionary
Apostolate, Baguio City, Philippines, 27/7/1978, trong For All the Peoples
of Asia I. FABC Các tài liệu từ 1970-1991, ed. G. B. Rosales-C. G.
Arevalo, Quezon City: Claretian Publications, 1997, 94. 85 Xc. Chupungco, Op. cit., 662.
36
Nhờ cuộc đối thoại này Tin Mừng được hội nhập văn hóa và văn hóa
của họ được Tin Mừng hóa. Cũng nhờ đó mà họ được xây dựng
thành một Giáo Hội địa phương đích thực, chính là sự thể hiện “ở đây
và bây giờ” và là sự nhập thể của Thân Mình Đức Ki-tô trong đời
sống của dân tộc cụ thể này. Đó là một cộng đoàn độc đáo nhưng lại
hiệp thông với những cộng đoàn khác cũng mang tính độc đáo riêng
của mình. Tất cả tuyên xưng một đức tin và chia sẻ một Thần Khí.
Tất cả chia sẻ một đời sống bí tích, một Thánh Thể, nhưng cử hành
Thánh Thể theo cách riêng của mình. Mặt khác, một Giáo Hội thực
sự địa phương là cách thức hiệu quả nhất để Tin Mừng hội nhập văn
hóa và để cử hành phụng tự.
Giáo Hội tại Châu Á phải cởi mở nhìn xem những gì văn hóa địa
phương có thể đóng góp cho linh đạo Ki-tô giáo đích thực: một lời
cầu nguyện của toàn bộ con người trong sự hiệp nhất thân xác-tâm
hồn-tinh thần được phát triển phong phú; lời nguyện của nội tâm sâu
lắng; truyền thống khổ chế và tinh thần từ bỏ; phương pháp chiêm
niệm được tìm thấy trong các tôn giáo phương đông cổ xưa; những
hình thức cầu nguyện giản lược và những biểu lộ đức tin được ưa
chuộng và đạo đức bình dân khác, sẵn có nơi người chất phác, mà
tâm trí của họ rất sẵn sàng hướng về Chúa trong đời sống hàng ngày
của mình. Thần Khí đang hướng dẫn các Giáo Hội Châu Á hòa nhập
vào kho tàng di sản Ki-tô giáo với tất cả những gì tinh túy nhất trong
cách cầu nguyện và thờ phượng truyền thống của chúng ta. Đây là
quà tặng cầu nguyện của Châu Á dành cho Giáo Hội.
B. Đạo đức bình dân trong cuộc đối thoại của Giáo Hội với các
nền văn hóa Châu Á
Việc bàn luận về cuộc đối thoại của Giáo Hội với các nền văn hóa
trong bối cảnh cụ thể của Châu Á sẽ không đầy đủ nếu không xem xét
nhiều hình thức đạo đức bình dân phổ biến giữa các dân tộc của châu
lục này. Trong thực tế, các tín hữu của hầu hết mọi nền văn hóa và tôn
giáo đều bị lôi cuốn vào việc thờ phượng, các lễ hội tôn giáo, và các
việc sùng kính thông thường khác đến nỗi không thể bỏ qua cách sống
37
và thực hành của họ giữa những người Châu Á trong sứ mạng Tin
Mừng hóa, đặc biệt trong nhiệm vụ hội nhập đức tin và thờ phượng.86
Những hình thức sùng mộ bình dân như thế “biểu lộ nỗi khát khao
Thiên Chúa mà chỉ người nghèo khó và người đơn sơ mới có thể nhận
biết”87 và làm cho họ có thể “quảng đại và thậm chí hy sinh tới mức
anh hùng, khi liên quan đến việc làm chứng cho đức tin.”88
Dành tầm quan trọng cho lòng đạo đức bình dân và những hình thức
đa dạng của nó trong bối cảnh truyền giáo tại Châu Á trước tiên có
nghĩa là thừa nhận sức mạnh của lòng đạo đức bình dân để truyền đạt
Tin Mừng và lôi kéo người ta đến việc thờ phượng. Thứ hai là Giáo
Hội tại Châu Á đứng trước thách đố cho phép một số các yếu tố nghi
thức và ngôn ngữ của đạo đức bình dân được hội nhập vào việc thờ
phượng để họ sẽ cảm thấy như ở quê hương mình hơn và trải nghiệm
việc Thiên Chúa gặp gỡ họ ngay trong những thực tại rất cụ thể của
đời sống họ. Nói cách khác, cần đem phụng vụ và đạo đức bình dân
vào một cuộc trao đổi mang tính tương hỗ và làm phong phú lẫn
nhau, nhờ đó “nỗi khao khát được bày tỏ trong lời cầu nguyện và
trong các đặc sủng trên đất nước của chúng ta ngày nay có thể được
điều chỉnh với sự rõ ràng và khôn ngoan” và “tính tôn giáo bình dân,
với sự phong phú về biểu tượng và hình thái diễn tả, có thể chia sẻ sự
năng động sáng tạo với phụng vụ.”89
Lòng đạo đức bình dân trong sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội.
Nhờ việc du nhập lòng sùng kính Sto. Niño (Chúa Hài Đồng) và sùng
kính Đức Mẹ mà các thừa sai Tây Ban Nha đã khá dễ dàng làm cho
đông đảo người Phi chấp nhận đức tin Ki-tô giáo. Tính tôn giáo bình
dân luôn là thành lũy cho đạo Công Giáo nơi người Phi. Bởi vì sự
86 Xc. EA, 22. 87 EN, 48. 88 Ibid. 89 Hội đồng Giám mục Châu Mỹ La-tinh, The Puebla Document (1979), số
465.
38
gắn bó của người Phi đối với các hình thức mộ đạo của họ cho nên họ
đã không từ bỏ đức tin Ki-tô giáo ngay cả khi nổi dậy chống lại các
thầy tu Tây Ban Nha, những người đem đức tin đến với họ. Khi hệ
thống giáo dục tại đất nước này bị các giáo viên thuộc đạo Tin Lành
Mỹ kiểm soát, họ vẫn không từ bỏ đạo Công Giáo La Mã. Những
hoạt động chiêu dụ tín đồ của các giáo phái cực đoan giữa những
người Công Giáo phần lớn là không thành công vì những giáo phái
này không có thiện cảm với lòng mộ đạo của họ. Câu chuyện về đức
tin Ki-tô giáo ở Phi Luật Tân luôn bao gồm những hình thức mộ đạo.
Đây là một sự kiện, “phần lớn những gì người Công Giáo Phi biết về
các chân lý thuộc giáo lý Công Giáo và giá trị luân lý là thông qua
các bí tích và thực hành sùng kính đó.”90 Hơn nữa việc thực hành
những hình thức đạo đức bình dân chắc chắn luôn tạo dịp và cấu trúc
cho việc tổ chức hoạt động bác ái vì người nghèo.
Dựa vào điều này và nhiều câu chuyện truyền giáo tương tự khác,
Giáo Hội khuyến khích một lập trường đồng cảm với lòng đạo đức
bình dân: “tiếp cận lòng mộ đạo này với ánh mắt của Người Mục Tử
Tốt Lành, tìm cách yêu thương chứ không phán xét, thừa nhận và
đánh giá cao sức sống thần học chứa đựng trong lòng mộ đạo của
người Ki-tô hữu, đặc biệt là nơi người nghèo.”91 Lòng đạo đức bình
dân cần được quảng bá và củng cố vì trong đó có sức mạnh loan báo
Tin Mừng mà chúng ta không nên đánh giá thấp, nếu đánh giá thấp
như vậy là không nhận ra hoạt động của Chúa Thánh Thần.92
Trong thực hành, lập trường đồng cảm này có thể mang ý nghĩa của
việc hòa nhập những khía cạnh (ngôn ngữ và nghi lễ) của tính tôn
giáo bình dân với phụng vụ đặc biệt cho các cộng đoàn mà có truyền
thống lâu dài về tính tôn giáo bình dân. Kết quả là người ta có thể trải
nghiệm điều gì đó quen thuộc trong phụng vụ và tính tôn giáo bình
90 Hội đồng Giám mục Phi Luật Tân, New National Catechetical Directory
for the Philippines, Manila 2007, số 308. 91 EG, 125. 92 Ibid.
39
dân trở thành phương tiện chuyên chở đích thực của Tin Mừng. Hội
nhập văn hóa, trong trường hợp này, như một cuộc đối thoại lành
mạnh giữa phụng vụ và văn hóa, tạo ra một diện mạo nhân bản cho
phụng vụ và một nền tảng vững chắc hơn cho tính tôn giáo bình dân.
C. Thánh Thể trong cuộc đối thoại của Giáo Hội với các nền văn
hóa
Mặc dù Châu Á là quê hương của rất nhiều nền văn hóa, giá trị và
truyền thống, nhưng cũng có những yếu tố văn hóa chung trong đó:
mối dây thân thiết trong gia đình, lòng hiếu thảo, bữa ăn gia đình, sự
linh thánh của Lời Chúa (tồn trữ trong các bản văn thánh thiêng),
lòng hiếu khách, thuật lãnh đạo bằng phục vụ và sẵn sàng hy sinh, và
những điều khác nữa. Trong bối cảnh cụ thể của Châu Á, Thánh Thể
là điểm xuất phát đầy thuyết phục cho sứ mạng đến với nhiều dân
tộc, cũng như là mục tiêu mong muốn trong cùng sứ mạng đó. Người
Châu Á không có khó khăn gì để nhìn ra trong cuộc cử hành Thánh
Thể những giá trị mà họ cùng trân quý.
Thánh Thể như một bữa ăn rõ ràng là đề cao quan hệ gia đình và lòng
hiếu khách vốn được đa số người Châu Á coi trọng. Sẽ có hiệu quả
khi trình bày Thánh Thể như bữa ăn gia đình, nơi Thiên Chúa quy tụ
con cái mình và nuôi dưỡng họ bằng Lời của Người và Thân Mình
Con của Người, một bữa ăn mà trong đó con cái có thể cảm tạ và
chúc tụng Cha của mình vì tình yêu bao la Người dành cho họ, họ có
thể tin tưởng bày tỏ những nhu cầu, họ được ở bên anh chị em mình,
và nhiều người khác để hình thành nên một đại gia đình.
Thánh Thể như là hy tế có thể rất ý nghĩa đối với đa số người Châu Á
do cách họ nhìn nhận vai trò lãnh đạo của cha mẹ đối với con cái, của
anh chị đối với các em, của trưởng làng đối với các thành viên, của
người chủ tiệc đối với khách mời. Đó là vai trò lãnh đạo được thực
thi trong sự phục vụ và sẵn sàng hy sinh cho lợi ích của người khác.
Nơi những gia đình nghèo ở Phi Luật Tân, cha mẹ thường cho con
cái ăn trước, nếu không có đủ thức ăn trên bàn, để chắc chắn rằng
không có đứa trẻ nào bị đói. Các anh chị cũng thường nhường cho
các em mình cơ hội đến trường nếu gia đình không có đủ tài lực để
40
cho tất cả con cái theo học. Hay người con đầu không bao giờ kết
hôn, họ chọn lựa làm việc hết cả đời mình để các em được đi học.
Thánh Thể sẽ có ý nghĩa rất nhiều đối với đa số người Châu Á, bởi vì
bày tỏ nhiều giá trị văn hóa mà họ yêu quý nâng niu. Thánh Thể,
được cử hành trong tư cách bữa tiệc cũng như hy tế, là cách tốt nhất
để công bố Tin Mừng Thiên Chúa về việc ban ơn cứu độ qua sự hy
sinh của Chúa Con đến mức chết đi, hiến tế chính mình, về lời mời
gọi của Thiên Chúa làm cho tất cả chúng ta trở thành gia đình của
Người, về khát vọng không ngừng của Thiên Chúa làm cho tất cả
chúng ta nên phong phú nhờ Lời ban sự sống và Thân Mình được bẻ
ra và chia sẻ ngõ hầu chúng ta được sống. Thánh Thể cũng là cách tốt
nhất để thúc đẩy tinh thần và ý thức về sứ mạng truyền giáo nhằm
chia sẻ cùng một sự giàu có, ý nghĩa và sự sống cho người khác.
VI. TRUYỀN GIÁO TRONG ĐỐI THOẠI VỚI CÁC TÔN
GIÁO VÀ CÁC TRUYỀN THỐNG TÔN GIÁO
Bên cạnh tính cách đa văn hóa, Châu Á cũng là quê hương của nhiều
tôn giáo và văn hóa tôn giáo. Châu Á là nơi khai sinh ra các tôn giáo
lớn của thế giới – Do Thái giáo, Ki-tô giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo,
cũng như nhiều truyền thống tâm linh khác như Phật giáo, Lão giáo,
Khổng giáo, Hỏa giáo, Luân Hồi giáo, Bình Đẳng giáo và Thần
giáo.93 Cũng có những truyền thống bộ tộc khác được thực hành với
những mức độ khác nhau về nghi lễ và giáo huấn tôn giáo chính thức.
Sứ mạng của Giáo Hội tại Châu Á phải được thực hiện trong đối
thoại với các tôn giáo và các nền văn hóa tôn giáo.
A. Cuộc đối thoại của sự sống và trái tim
Những Hạt Giống Lời Chúa.94 Trong cuộc đối thoại với Châu Á
93 EA, 6. 94 Xc. AG, 11.
41
mang sắc thái đa tôn giáo, Giáo Hội giữ thái độ đề cao và tôn trọng
sâu xa nhất đối với các tôn giáo và niềm tin khác, thừa nhận rằng một
cách nào đó đây vẫn là những phương tiện dẫn đưa con người đến với
Thiên Chúa.95 Khi nỗ lực bám rễ sâu trong niềm tin Ki-tô giáo, Giáo
Hội cũng tìm cách hiểu rõ hơn đời sống, đạo lý, nguyên tắc và nghi
thức của các truyền thống tôn giáo khác để dấn thân vào cuộc gặp gỡ
vừa tôn trọng vừa làm phong phú lẫn nhau. Những truyền thống tôn
giáo lớn này cuối cùng cũng trân trọng những giá trị tâm linh, đạo
đức và nhân bản, diễn tả sự hiện diện của Lời Chúa và hoạt động
sáng tạo liên tục của Chúa Thánh Thần trên thế giới. Trải nghiệm tôn
giáo sâu xa nhất của cha ông chúng ta cũng như những khát vọng cao
quý nhất của trái tim các ngài đều được ký thác trong đó, còn các tín
hữu hiện nay vẫn tiếp tục rút ra từ đó ý nghĩa, sự hướng dẫn và sức
mạnh.
Định Hình theo Kế Hoạch Cứu Độ Nhập Thể. Thái độ tích cực này
đối với các văn hóa tôn giáo khác tại Châu Á phù hợp với kế hoạch
cứu độ nhập thể, trong đó Đức Ki-tô ôm lấy tất cả những gì thuộc về
con người (ngoại trừ tội lỗi) để đưa chúng vào bên trong tình yêu và
quyền năng cứu độ của Người.96 Chính trong truyền thống tôn giáo
của Ít-ra-en mà Đức Ki-tô mạc khải mầu nhiệm Thiên Chúa và thực
hiện sứ mạng cứu độ của Người. Các tông đồ của Ngài và các vị thừa
sai ngoại quốc tiên khởi của Giáo Hội cũng có lập trường đối thoại
như thế trước những nền văn hóa đa dạng của thế giới Hy - La.
Trong tinh thần truyền giáo và đại kết. Với lòng khát khao “củng
cố bất cứ điều gì có thể giúp kêu gọi toàn thể nhân loại gia nhập cộng
đoàn Giáo Hội,”97 Giáo Hội chỉ thị cho mọi Ki-tô hữu phải có thái độ
cởi mở với các truyền thống tôn giáo khác và khám phá “với niềm
vui và tôn trọng những hạt giống của Lời Chúa nằm ẩn dấu trong
95 Xc. Vatican II, Tuyên ngôn Nostra aetate (NA) (28/10/1965), 2. 96 Xc. AG, 10. 97 SC, 1.
42
đó.”98 Hơn nữa Giáo Hội khuyến khích họ sử dụng các hình thức văn
hóa, giáo huấn, nghệ thuật, kiến trúc, giai điệu âm nhạc, ngôn ngữ, và
khoa học của các truyền thống tôn giáo khác, miễn là những điều này
không trái ngược với Tin Mừng và niềm tin Ki-tô giáo, để ca ngợi
vinh quang của Đấng Sáng Tạo.99
Thái độ cởi mở và chia sẻ này sẽ làm cho người Ki-tô hữu có thể
khám phá và cảm nhận được trái tim và tâm hồn của người Châu Á
anh em và những diễn đạt chân thực nhất. Thay vì đặt niềm tin Ki-tô
giáo trên một nền tảng lung lay, cuộc đối thoại với các nền văn hóa
tôn giáo và truyền thống khác sẽ thúc đẩy người Ki-tô hữu tìm ra con
đường xác thực để sống và biểu lộ niềm tin Ki-tô giáo của riêng mình
giữa những người theo các niềm tin khác. Như vậy sẽ giúp họ khám
phá sự phong phú đa dạng trong niềm tin của mình mà có lẽ họ chưa
từng biết đến trước đây. Cuộc đối thoại đó sẽ giúp họ phân định dưới
ánh sáng của Lời Chúa làm thế nào để niềm tin của họ vào Đức Ki-tô
có thể trở nên phong phú hơn nhờ các truyền thống tôn giáo khác,
những gì trong các nền văn hóa tôn giáo này cần được thanh tẩy,
chữa lành và làm cho trọn vẹn trước khi thẩm thấu vào trong thực
hành niềm tin Ki-tô giáo.
B. Ưu tiên của việc làm chứng
Với bối cảnh đa tôn giáo của Châu Á, sứ mạng rao giảng Tin Mừng
sẽ phải bao gồm trước tiên là việc làm chứng cho tình yêu của Chúa
Cha một cách trực tiếp và đơn sơ nhất.100 Điều này có nghĩa là bằng
cách sống như Đức Ki-tô, người Ki-tô hữu và các cộng đoàn Ki-tô
hữu được kêu gọi để thu hút những anh chị em ngoài Ki-tô giáo đến
với đức tin vào một Thiên Chúa được Đức Ki-tô mạc khải. Phần lớn,
điều này có thể được biểu lộ dưới hình thức hiện diện và liên đới với
con người để làm cho họ cảm thấy được quan tâm chăm sóc trong
tình cảnh nghèo khó khốn cùng của họ. Đó cũng có thể là đáp ứng
98 AG, 11. 99 Ivi, 22. 100 Xc. EN, 26.
43
nhu cầu của con người như Đức Ki-tô đã thực hiện trong Tin Mừng,
cho họ cảm thấy mình được tiếp đón và quan trọng hơn cả những cơ
cấu và tổ chức. “Có lẽ việc làm chứng này cho Thiên Chúa sẽ làm
cho nhiều người nhận ra vị Chúa vô danh mà họ vẫn tôn thờ, hay vẫn
tìm kiếm theo tiếng gọi bí ẩn của trái tim khi họ trải nghiệm sự trống
rỗng của tất cả các thần tượng. Nhưng việc rao giảng Tin Mừng cách
trọn vẹn cho thấy rằng đối với con người thì Đấng Sáng Tạo không
phải là một quyền năng vô danh và xa vời. Người là Cha và chúng ta
là anh chị em của nhau trong Thiên Chúa.”101 Giữa những đa dạng và
nhiều khi là xung đột với đủ mọi kiểu cách khác nhau, theo tiếng gọi
của Chúa, Giáo Hội được kêu gọi để làm chứng bằng đời sống của
mình đối với sự hiệp nhất và hòa hợp ban tặng sự sống, trở thành một
dấu chỉ hữu hình và khí cụ cho sự hiệp nhất như thế.102 Cùng với đức
tin và sự cam kết Ki-tô giáo của mình, người tín hữu có một vai trò
đặc biệt trong cuộc đối thoại này do sự hiện diện và hành động của
họ giữa thế giới – gia đình, chính trị, giáo dục, văn hóa, môi trường
xã hội. Như men trong bột, họ được chỉ thị hướng những hoạt động
của con người và lịch sử đến sự viên mãn cánh chung mà mọi con
người thiện tâm đều hy vọng.
C. Sự hiệp nhất và niềm hy vọng Ki-tô giáo
Một cuộc đối thoại tôn trọng và yêu thương với các nền văn hóa tôn
giáo khác luôn nhằm công bố Đức Ki-tô trong tinh thần chia sẻ kho
tàng vĩ đại nhất của mình. Trong bối cảnh đa tôn giáo cụ thể của
Châu Á, điều này phải là hình thức lý tưởng của việc rao giảng Tin
Mừng, để với lòng khiêm tốn và hỗ trợ lẫn nhau, chúng ta tìm cách
chia sẻ với những anh chị em ngoài Ki-tô giáo sự viên mãn của Đức
Ki-tô, vốn là kế hoạch của Thiên Chúa cho toàn bộ công cuộc sáng
tạo, trong tổng thể và trong sự đa dạng kỳ diệu và tuyệt vời của công
trình này. Cuộc tìm kiếm chung Thiên Chúa và mối dây huynh đệ mà
mọi người chia sẻ sẽ luôn là nguồn hy vọng rằng một ngày kia toàn
101 Ibid. 102 LG, 1.
44
thể nhân loại có thể được quy tụ nên một trong tình phụ tử của một
Thiên Chúa duy nhất.
D. Thánh Thể trong cuộc đối thoại của Giáo Hội với các nền văn
hóa tôn giáo
Gia đình, hòa giải, chia sẻ cuộc sống, tình liên đới, lòng hiếu khách,
sự phục vụ, tình yêu thiên nhiên, thinh lặng và chiêm niệm chỉ là một
vài trong số những giá trị quý báu mà người dân Châu Á cùng chia
sẻ, bất luận tín ngưỡng tôn giáo nào. Trong cử hành Thánh Thể của
chúng ta, những giá trị này đều có và được đề cao một cách mạnh mẽ
và tuyệt vời. Việc tham dự Thánh Thể của chúng ta phải củng cố khát
khao bảo vệ những giá trị rất quý báu này và thúc đẩy chúng ta có
hành động cụ thể để hiện thực hóa những giá trị ấy ngay giữa những
láng giềng Châu Á của chúng ta. Việc tham dự Thánh Thể phải gia
tăng nơi chúng ta niềm xác tín rằng ước mơ của Thiên Chúa một lần
nữa quy tụ tất cả chúng ta, con cái của Người vào trong một Gia Đình
của Người và diễn giải niềm xác tín này thành cuộc đối thoại và phân
định trong cầu nguyện, nỗ lực không ngừng để loan báo ước mơ thần
linh này cho “hàng giáo phẩm” và hoàn toàn tuân theo các ngài bằng
những hành động phục vụ hiệu quả. Những hành động ấy vừa giảm
thiểu ảnh hưởng áp bức của tội lỗi trên đời sống con người, vừa kiến
tạo nền hòa bình và thịnh vượng nơi đó họ có thể vui hưởng một cách
trọn vẹn hơn phẩm giá của họ theo đúng kế hoạch của Thiên Chúa.
Một mặt, vì Thánh Thể có mục đích biến đổi “những người ở trong
Giáo Hội thành một đền thánh của Chúa, thành nơi cư ngụ cho Thiên
Chúa trong Thần Khí, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm
vóc viên mãn của Đức Ki-tô.”103 Mặt khác, trong sứ mạng cụ thể của
Giáo Hội tại Châu Á đa tôn giáo, Thánh Thể củng cố một cách tuyệt
vời quyết tâm và sức mạnh của người Ki-tô hữu “để rao giảng Đức
Ki-tô và như thế trình bày Giáo Hội với những người bên ngoài như
một dấu chỉ được nêu cao giữa các dân tộc, để quy tụ lại những con
cái tản mát của Thiên Chúa, cho đến khi chỉ có một đoàn chiên và
103 SC, 2.
45
một chủ chiên.”104
VII. TRUYỀN GIÁO TRONG ĐỐI THOẠI VỚI
NGƯỜI NGHÈO
Sứ mạng của Giáo Hội tại Châu Á phải được thực hiện trong sự đối
thoại với người nghèo. Đó là vì châu lục này tuy giàu có về văn hóa
và dân ở đây thì giàu có về những giá trị nhân bản và tôn giáo, nhưng
đa số lại sống trong trong những hoàn cảnh nghèo khó, cô thế, bên lề
xã hội, trở thành nạn nhân và chịu đau khổ. Họ nghèo không phải vì
lục địa này thiếu nguồn tài nguyên thiên nhiên và vật chất, mà vì họ
bị tước đoạt quyền tiếp cận tài nguyên và của cải vật chất mà họ cần
để sống theo đúng phẩm giá cũng như bảo đảm một tương lai ổn định
cho họ và gia đình họ. Những cơ cấu chính trị, kinh tế, xã hội bất
công và áp bức ngăn cản họ thụ hưởng di sản thiên nhiên phong phú
từ mảnh đất của mình.
A. Chọn lựa ưu tiên cho người nghèo
Đối diện với hoàn cảnh đặc thù tại Châu Á, nơi rất nhiều người nghèo
đói và không có được ngay cả những nhu cầu cơ bản để sống xứng
đáng với phẩm giá con người, Giáo Hội tại Châu Á có ơn gọi đặc biệt
để làm một Giáo Hội của người nghèo. Giáo Hội Châu Á phải đặt
người nghèo, người thiếu thốn và người bị áp bức vào ngay tuyến đầu
của đời sống và sứ mạng của mình. Cũng như cuộc đối thoại của
Giáo Hội với các nền văn hóa, cuộc đối thoại của Giáo Hội với người
nghèo là một đòi buộc luân lý và thần học. Lý do đầu tiên tại sao
Giáo Hội phải đảm nhận lựa chọn ưu tiên này đối với người nghèo
chính là tấm gương của Đức Ki-tô, Đấng đã trở nên nghèo khó và “tự
đồng hóa mình với người nghèo một cách đặc biệt” (x. Mt 25:40):
“Amen, Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho
một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm
cho chính Ta vậy.”105 Đó là tình yêu ưu tiên không phải để loại trừ
104 Ibid. 105 EA, 34; Xc. EG, 186.
46
bất cứ ai, mà chỉ nói lên rằng người nghèo, người thiếu thốn, người bị
bóc lột có được quyền ưu tiên trong mối quan tâm, phục vụ và trợ
giúp của Giáo Hội. Toàn bộ Kinh thánh, Cựu Ước và cả Tân Ước,
đầy dẫy những chứng từ cho sự kiện người nghèo luôn chiếm một vị
trí đặc ưu trong trái tim của Thiên Chúa, và ít nhất chúng ta cũng thấy
được ngay trong đời sống và sứ mạng của Đức Ki-tô mà các sách Tin
Mừng đã hùng hồn làm chứng.106
B. Những hệ lụy và hậu quả
Các giám mục Châu Á đã phân định trong nhiều năm rằng Giáo Hội
tại Châu Á phải ngày càng trở thành “một Giáo Hội của người
nghèo” với tất cả những hệ lụy và hậu quả của nó.107 Là một Giáo
Hội của người nghèo trước tiên ám chỉ rằng những người được đặt
lên làm mục tử đoàn chiên của Chúa tại Châu Á phải sống một cuộc
sống giản dị mà qua đó người nghèo có thể nhận thấy các ngài chia sẻ
cảnh nghèo khó của họ. Cũng nhờ đời sống giản dị này, vốn là dấu
chỉ sáng chói của Tin Mừng trong hành động, người nghèo sẽ cảm
nhận từ trong lòng sự gần gũi đích thực với các mục tử của mình và
sẽ cảm thấy dễ dàng hơn khi đến với các mục tử để được giúp đỡ và
hướng dẫn.
Hệ lụy thứ hai của tình yêu ưu tiên mà Giáo Hội dành cho người
nghèo là Giáo Hội phải dấn thân tích cực can thiệp cho sự giải thoát
và thăng tiến tình cảnh sống của người nghèo. Có nghĩa là phục vụ sự
phát triển và đời sống con người – dấn thân vào những công tác quan
trọng rong lãnh vực y tế, giáo dục, và kiến tạo hòa bình. Đây là một
ơn gọi liên quan đến mỗi người chứ không dành riêng cho một số ít:
“Chính anh em hãy cho họ ăn!” (Mc 6:37).108 Điều đó cũng có nghĩa
106 Xc. EG, 187. 107 Xc. Cuộc họp các Giám mục Á Châu, Message of the Conference
(Manila 1970), trong FAPA 1, 5. Thật rõ ràng, từ cuộc họp đó, Chúa Thánh
Thần đang hướng dẫn Giáo hội tại Á Châu phân định để Giáo hội này ngày
càng trở thành Giáo hội của người nghèo. 108 Xc. EG,188; Xc. Bộ Giáo lý Đức tin, Libertatis Nuntius (6/8/1984), 11.
47
là cổ vũ một thái độ liên đới giữa mọi người – “não trạng mới suy
nghĩ theo chiều hướng cộng đồng và ưu tiên cho đời sống của mọi
người hơn là sự chiếm đoạt tài sản bởi một vài người… vốn là một
phản ứng tự nhiên của những người công nhận chức năng xã hội của
tài sản và mục tiêu phổ quát của của cải như là những thực thể đến
trước việc sở hữu riêng.”109
Hệ lụy thứ ba của Giáo Hội trong chọn lựa ưu tiên cho người nghèo
là phải giữ lập trường ngôn sứ chống lại những hậu quả tiêu cực của
việc toàn cầu hóa về văn hóa và kinh tế, tác động còn đang tiếp diễn
của món nợ nước ngoài lên đời sống của người nghèo, và sự hủy hoại
môi trường mà tiến bộ khoa học, kinh tế và công nghệ mang đến.
Chương trình “vì sự tiến bộ” này thường gây tác hại to lớn cho con
người và gia đình của họ, đặc biệt là người nghèo. Có nhiều vấn đề
nhân bản, văn hóa và đạo đức có liên quan mà Giáo Hội và người Ki-
tô hữu phải chú ý. Chính sự quan tâm đến những vấn đề cấp bách này
là một phần của “sứ mạng” trong thời đại chúng ta.
C. Đáp trả lời kêu gọi: hành động vì người nghèo, cùng đi với
người nghèo
Đại Hội lần thứ nhất của Liên Hội Đồng Giám Mục Châu Á vào năm
1974 đã thách đố Giáo Hội tại Châu Á (và các Giáo Hội địa phương)
“tiếp tục nỗ lực để ngày càng trở thành Giáo Hội của người nghèo
(anawim), một Giáo Hội không chỉ hành động vì người nghèo như
một tổ chức từ thiện, mà thực sự lao động cật lực vì người nghèo,
chia sẻ cuộc sống và khát vọng của họ, hiểu rõ nỗi tuyệt vọng và
niềm hy vọng của họ, cùng đi với họ trong cuộc tìm kiếm một nhân
loại đích thực nơi Đức Giê-su Ki-tô.”110
Bước đầu tiên mà Giáo Hội phải thực hiện để hành động vì người
nghèo và cùng đi với họ tại Châu Á là nhận diện những người nghèo
109 EG, 188-189. 110 FABC, Evangelization in Modern Day Asia. Statement of the First
Plenary Assembly, trong For all the Peoples of Asia 1, các tài liệu từ 1970-
1991 cit., 15.
48
này là ai và ở đâu và họ đang khổ sở vì hình thức nghèo đói nào. Họ
là người vô gia cư đầy dẫy ngoài đường phố hay dựng chỗ trú ẩn tạm
bợ ở khu ổ chuột. Họ là người tị nạn trốn chạy khỏi những nước bị
chiến tranh xâu xé hay những chính thể áp bức ở quê hương mình,
hay là di dân và lao động nước ngoài đang tìm kiếm cơ hội sống tốt
đẹp hơn cho gia đình họ, thường phải chịu cảnh không bạn hữu, xa lạ
về văn hóa, bất lợi về ngôn ngữ, và dễ tổn thương về kinh tế. Họ là
người bản địa hay bộ tộc thường bị phân biệt đối xử vì văn hóa, màu
da, chủng tộc, giai cấp, địa vị kinh tế, hay vì cách suy nghĩ của họ.
Họ là phụ nữ, nạn nhân của bạo lực gia đình và đang bị mua bán như
hàng hóa trong nạn mãi dâm, du lịch và công nghiệp giải trí. Họ là trẻ
em, chưa từng được hưởng hòa bình trên quê hương mình, và là nạn
nhân của những hình thức bóc lột và bạo hành cùng cực khác nhau,
như nạn ấu dâm và lao động trẻ em.111 Nhưng họ cũng là những
người bị ngăn cấm thể hiện trọn vẹn tiềm năng và tài năng của họ,
bởi vì họ thiếu hay không có cơ hội học hành và kiếm được việc làm
trong đất nước của họ, hoặc chẳng có được gì hết.
Giáo Hội phải hành động vì họ không chỉ theo kiểu trao tiền và hàng
cứu trợ sau cuộc tàn phá của một cơn bão hay động đất, mà cũng phải
cùng với họ, đưa họ vào trong nhiệm vụ biến đổi những cơ cấu tổ
chức vốn duy trì tình trạng nghèo đói và thiếu thốn của họ. Giáo Hội
cũng phải thực sự cam kết và nỗ lực đem lại công bằng xã hội trong
xã hội chúng ta– những hành động được nuôi dưỡng bởi lời cầu
nguyện và phân định, để những hành động ấy sẽ luôn thực sự được
thánh ý Thiên Chúa thúc đẩy ngõ hầu giải thoát dân Người, mà
không có sự can thiệp của bất kỳ ý thức hệ nào chủ trương không có
Thiên Chúa.
D. Thánh Thể trong cuộc đối thoại của Giáo Hội với người nghèo
Trong cuộc đối thoại của Giáo Hội với người nghèo, một mặt, Thánh
Thể nêu cao và tái khẳng định những giá trị loại trừ nguyên nhân
111 EA, 34
49
nghèo đói. Thánh Thể đối chất với tính ích kỷ và sự tham lam là gốc
rễ của nhiều hình thức bất công bằng tình yêu tự hiến của Đức Ki-tô.
Thánh Thể đặt vấn đề về sự hững hờ và chủ nghĩa cá nhân khiến con
người vô cảm với người nghèo khổ, trong khi Đức Ki-tô mời gọi
chúng ta trở thành một gia đình gọi Thiên Chúa duy nhất là “Cha
chúng con.” Thánh Thể chống lại những kiểu lãnh đạo toàn trị áp
bức, đặt lợi ích kinh tế chính trị lên trên con người, bằng lối lãnh đạo
phục vụ của Đức Ki-tô, đó là sự lãnh đạo của một vị làm Thầy và làm
Chúa, nhưng lại rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13:13). Trên hết,
Thánh Thể thách đố chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa tiêu thụ và chủ
nghĩa duy vật, đối xử với người nghèo và người yếu thế như hàng
hóa và công cụ có thể sử dụng để kiếm chác lợi lộc và lạc thú, bằng
sự trao ban chính mình của Đức Ki-tô, bẻ ra và chia sẻ bản thân để
người khác được sống. Vì “mỗi một cuộc cử hành Thánh Thể đều
làm cho quà tặng từ chính sự sống của Chúa Ki-tô chịu đóng đinh
hiện diện một cách bí tích cho chúng ta và cho toàn thế giới.”112 Từ
việc tham dự Thánh Thể, chúng ta được sai đi để làm chứng cho lòng
thương xót của Thiên Chúa đối với tất cả anh chị em của mình.113
Mặt khác, chúng ta được gặp gỡ Đức Giê-su trong Thánh Thể như
“Bánh sự sống” (Ga 6:35). Bởi vì Người vừa là “Lời từ miệng Thiên
Chúa phán ra” (x. Đnl 8:3) và vừa là “bánh từ trời xuống” (Ga 6:51),
“bánh cho người nghèo” được lãnh nhận trong phần công bố Lời
Chúa và khi Hiệp Lễ. Người là “bánh hằng ngày” mà chúng ta cầu
xin trong kinh Lạy Cha. Khi Hiệp Lễ, Chúa Giê-su trao ban chính
mình làm bánh nuôi chúng ta. Và vì thế, đến lượt mình, chúng ta phải
đi đến với những anh chị em đang đói và trở nên bánh nuôi sống họ
trong tình yêu và lòng thương xót, trong những công việc từ thiện,
cho đi sự sống và cho đi cách hào phóng. Cử hành Thánh Thể quả
thực đầy tràn những dấu chỉ cho thấy là Thánh Thể nói lên lựa chọn
ưu tiên của Đức Ki-tô và của Giáo Hội cho người nghèo như thế nào
112 SAC, 88. 113 Ibid.
50
trong sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội tại Châu Á.114
VIII. SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO TRONG ĐỐI
THOẠI VỚI GIỚI TRẺ
Châu Á được xem là lục địa của giới trẻ vì gần hai phần ba dân số
là người trẻ và là quê hương của khoảng 60% giới trẻ của thế giới.
Hơn nữa, đại đa số giới trẻ và trẻ em này đều nghèo. Sứ mạng
truyền giáo trong cuộc đối thoại với giới trẻ Châu Á đòi hỏi phải
đặt họ vào vị trí ưu tiên trong việc chăm sóc mục vụ của Giáo Hội,
bởi vì chỗ đứng quan trọng nhưng dễ tổn thương của họ trong xã
hội và trong Giáo Hội.
A. Tương lai và hiện tại của Giáo Hội
Đối với Giáo Hội, giới trẻ không chỉ là tương lai của thế giới mà còn
là gia tài quý giá hiện nay của Giáo Hội.115 Giáo Hội nhận ra rằng
mình phải đối xử với giới trẻ không những như người trưởng thành
trong tương lai, mà quan trọng hơn như thực tại của hôm nay. Giáo
Hội đảm nhận trách nhiệm chuẩn bị và đào tạo người trẻ cho những
vai trò tương lai của họ như là nắm giữ guồng máy lãnh đạo trong
nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống. Tuy nhiên với năng lực tuổi
trẻ, nhiệt tình và nhiều tháo vát, họ còn là những tác nhân năng động
cho sự thay đổi hiện nay và do đó là nguồn hy vọng trong xã hội và
trong Giáo Hội.
Tuy nhiên, họ cũng dễ tổn thương nhất trước nhiều sức mạnh hủy
hoại trong xã hội và thường là nạn nhân của cơ cấu bóc lột. Hơn bao
giờ hết, những thực tại gây tác hại lên chính giới trẻ của chúng ta
ngày nay vừa nhiều vừa đa dạng. Toàn cầu hóa, thay đổi chính trị, và
bùng nổ truyền thông đều ảnh hưởng triệt để đến đời sống của giới
114 Xc. Section III. B Eucharist and Mission, đặc biệt trong phần Chuẩn Bị
Lễ Vật, Kinh Nguyện Thánh Thể và Hiệp Lễ. 115 FABC, Youth, Hope of Asian Families. Statement of the 4th Asian Youth
Day, 30/7 – 5/8/2006, Hong Kong, trong For all the Peoples of Asia 4. Các
tài liệu từ 2002-2006, Quezon City: Claretian Publications 2007, 167.
51
trẻ mọi nơi tại Châu Á.116 Giới trẻ đến từ mọi hoàn cảnh sống, thành
thị và thôn quê, giàu và nghèo, có học hay thất học, có việc làm hay
thất nghiệp, có tổ chức hay không có tổ chức, tất cả đều bị những cơn
sóng của văn hóa đương đại xoay vần. Vì thế, giới trẻ cũng là hôm
nay của Giáo Hội. Họ phải nằm trong số những ưu tiên mục vụ hiện
nay của Giáo Hội. Nhưng Giáo Hội có thể sẵn sàng thu hút họ vào
việc mục vụ sáng tạo và hiệu quả cho người khác, đặc biệt là những
người đồng trang lứa.
B. Giới trẻ và thách đố trở thành ‘mảnh đất tốt’
Khi thẳng thắn thừa nhận rằng giới trẻ Châu Á ngày nay đối diện với
nhiều vấn đề phức tạp, Giáo Hội Châu Á bắt buộc phải “nhắc nhở
giới trẻ về trách nhiệm của họ đối với tương lai của xã hội và Giáo
Hội, và khích lệ cũng như hỗ trợ họ trong mọi bước đi để bảo đảm
rằng họ sẵn sàng gánh lấy trách nhiệm đó.”117 Phải mở rộng việc
chăm sóc mục vụ thích hợp và phù hợp đối với họ, trên hết là bằng
cách “gieo chân lý Tin Mừng nơi họ như một mầu nhiệm vui mừng
và giải thoát cần được biết đến, được sống và chia sẻ với niềm xác tín
và lòng can đảm.”118 Nhưng vì thế giới họ đang sống bây giờ đầy
những đá sỏi và gai góc, và cả sức nóng cháy da, việc chăm sóc mục
vụ giới trẻ cũng nhằm giúp giới trẻ trở thành “mảnh đất tốt” nơi hạt
giống Lời Chúa có thể gieo trồng, đâm rễ, phát triển và sinh hoa trái
gấp trăm lần (x. Mt 13:1-8).
Việc chăm sóc mục vụ giới trẻ sẽ có nghĩa là cùng đồng hành trên
con đường của họ, điều này không phải là dễ dàng, không chỉ do
những thay đổi nhanh chóng và triệt để đang diễn ra xung quanh họ,
mà còn do những thay đổi mạnh mẽ họ đang trải qua về thể chất, tình
cảm, tâm lý, và linh đạo vào giai đoạn phát triển này của đời người.
Việc chăm sóc mục vụ này nhằm chuẩn bị mảnh đất trước khi gieo
116 FABC, A Renewed Church in Asia: A Mission of Love and Service, trong
FABC Các tài liệu từ 1997 tới 2001, cit., 9-10. 117 EA, 47. 118 Ibid.
52
hạt, làm mềm đất để đất tiếp nhận hạt giống. Nó cũng tìm cách làm
cho họ thêm mạnh mẽ để chống lại nhiều ảnh hưởng và những sự
phân tâm đang cạnh tranh với sự quan tâm và năng lực của họ và có
thể bóp nghẹt sự phát triển đức tin ban đầu của họ. Khía cạnh chăm
sóc mục vụ này là cần thiết ngay trước khi hay trong khi gieo trồng
Lời Chúa – để họ có thể là mảnh đất tốt nơi hạt giống Lời Chúa có
thể đâm chồi, cắm rễ, phát triển và sinh hoa trái dồi dào.
C. Huấn luyện giới trẻ
Sứ mạng giáo dục của Giáo Hội tại Châu Á. Trong sự đa dạng lớn
lao vốn là đặc điểm của bối cảnh cụ thể của Châu Á, nền giáo dục Ki-
tô giáo phải trang bị cho giới trẻ bước vào một cuộc đối thoại đầy ý
nghĩa với giới trẻ của những niềm tin khác. Nền giáo dục như thế, dù
chính thức ít hay nhiều đều hàm chứa sự giáo dục tốt hơn cho giới trẻ
về những chân lý và giá trị cơ bản của niềm tin Ki-tô giáo trước tiên,
rồi sau đó là những chân lý và giá trị cơ bản của các niềm tin khác.
Hơn nữa đại đa số giới trẻ này không có khả năng chi trả cho nền
giáo dục chính thức vì nghèo khó. Giáo Hội tại Châu Á phải tìm
những cách thức sáng tạo khác để đưa giáo dục Ki-tô giáo đến với
giới trẻ, mà trước tiên là dạy giáo lý cho họ119 nhằm soi sáng và củng
cố đức tin, nuôi dưỡng đời sống theo tinh thần của Đức Ki-tô, dẫn họ
đến chỗ tham gia tích cực và thông hiểu vào mầu nhiệm phụng vụ,120
và thúc đẩy họ hoạt động tông đồ. Những trợ giúp hữu ích khác sẽ là
các phương tiện truyền thông, những nhóm phát triển tâm lý và thể lý
khác nhau, và các hội đoàn giới trẻ.
Đồng hành cùng giới trẻ. Nhưng việc đào tạo giới trẻ trong bối cảnh
truyền giáo tại Châu Á còn hàm chứa việc đồng hành với họ nhằm
tìm kiếm hòa bình và ý nghĩa cuộc sống, trong những nỗ lực bảo đảm
một tương lai ổn định hơn cho chính họ và những người họ yêu
thương, và trong cuộc chiến chống lại sự mê hoặc của những ý thức
hệ sai lầm, đam mê nhất thời, thói xấu và cả sự tuyệt vọng. Tại Châu
119 Xc. Vatican II, Sắc Lệnh Christus Dominus (CD), số 13-14. 120 SC, 14.
53
Á, Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới hết sức thành công do Thánh Giáo
Hoàng Gio-an Phao-lô II khởi sự vào năm 1985 đã tạo ra mô hình
tương ứng - đó là Đại Hội Giới Trẻ Châu Á nơi người trẻ từ các nước
Châu Á khác nhau có thể trải nghiệm một cảm thức mạnh mẽ thuộc
về một cộng đoàn qua việc cầu nguyện chung và cử hành Thánh Thể,
chia sẻ kinh nghiệm sống, làm việc với nhau, chia sẻ bữa ăn, cùng hát
và nhảy múa bên nhau. Nhờ những sự kiện ấy, giới trẻ nhận ra rằng
Giáo Hội ở bên họ, bước đi sát bên họ, tin tưởng vào những gì họ có
thể làm được bằng sức sống tuổi thanh xuân và thiện chí của họ, và
giao trách nhiệm cho họ.
Đồng hành với giới trẻ còn có nghĩa là nhìn nhận vai trò quan trọng
của họ trong Giáo Hội hiện nay và như là tương lai của Giáo Hội.121
Đó là nhìn giới trẻ như những nguồn lực chứ không phải những vấn
đề. Điều này có nghĩa là lắng nghe và đồng hành với họ để cùng hiện
diện cầu nguyện và hướng dẫn. Đó là tạo thuận lợi để họ học hỏi từ
chính kinh nghiệm của mình chứ không từ những câu trả lời soạn sẵn,
cho họ tham gia nhiều hơn vào tiến trình đưa ra quyết định, chứ
không chỉ đòi hỏi họ thực hiện những quyết định người khác đưa ra.
Việc này chắc chắn đòi hỏi mỗi quốc gia, giáo phận và giáo xứ có
một Ủy Ban Giới Trẻ để chỉ đạo và điều hành các hoạt động này của
Giáo Hội nhân danh giới trẻ. Chỉ khi giới trẻ được công nhận là
những tác nhân và người đồng sự trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng
của Giáo Hội, tiềm năng trọn vẹn của họ mới được nở hoa.
D. Những tác nhân và người hoạt động hàng đầu
Giới trẻ, bao gồm đa số người Châu Á, không chỉ biết tiếp nhận việc
chăm sóc mục vụ và truyền giáo của Giáo Hội. Nhiều người đã ở
tuyến đầu trong sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội qua những công
tác tông đồ yêu thương và phục vụ khác nhau, đặc biệt vì lợi ích
của các bạn trẻ khác. Với lòng nhiệt thành và năng lực, ngay bây
giờ họ có thể được tin cậy để đảm nhận những vai trò lãnh đạo tích
121 FABC, A Renewed Church in Asia: A Mission of Love and Service, cit.,
10.
54
cực trong việc lên kế hoạch và thực hiện những hoạt động liên
quan đến họ.
Ngày nay chúng ta chứng kiến sự ra đời và phát triển của những hội
đoàn và phong trào chủ yếu gồm giới trẻ. Đây có thể xem là hoạt
động của Chúa Thánh Thần, Đấng thổi bùng lên những lối đường
mới để đáp ứng những kỳ vọng và tìm kiếm của họ về một linh đạo
sâu xa và một cảm nhận được thuộc về đích thực hơn. Tuy nhiên điều
cần thiết là phải bảo đảm rằng những hội đoàn này tham gia tích cực
vào những nỗ lực mục vụ chung của Giáo Hội.122
E. Thánh Thể trong cuộc đối thoại của Giáo Hội với giới trẻ
Thánh Thể, cuộc đối thoại tình yêu. Sứ mạng của Giáo Hội ngày
nay bao gồm việc hướng dẫn giới trẻ đến với Thánh Thể để nuôi
dưỡng họ trước nhiều bấp bênh và vấn nạn. Vì chính trong buổi quy
tụ Thánh Thể mà Giáo Hội có thể dấn thân tốt nhất cho giới trẻ nhằm
công bố cho họ Tin Mừng của Đức Ki-tô để từ đó họ có được sự đáp
ứng độc đáo và thỏa đáng đối với những khát vọng sâu xa nhất của
họ.123 Từ việc gặp gỡ Đức Ki-tô Thánh Thể trong Lời Chúa và bí
tích, họ được soi sáng và hướng dẫn trong cuộc tìm kiếm ý nghĩa và
mục đích cuộc sống. Trong Thánh Thể, Đức Giê-su nhìn giới trẻ
bằng tình yêu đặc biệt như đã dành cho người thanh niên trong Tin
Mừng và mời gọi họ đi theo Người (x. Mc 10:21) trong mối tương
quan yêu thương với Chúa Cha và trong sứ mạng cứu độ của Người
đối với nhân loại và thế giới.
Thánh Thể, trường học đầu tiên về giá trị Ki-tô giáo. Bằng việc
dấn thân tham dự tích cực vào Thánh Thể - trong việc chăm chú lắng
nghe, qua những thái cử thích hợp và phong phú, trong sự tuân giữ
thinh lặng đúng lúc, hay thực hiện các thừa tác vụ cụ thể khi cử hành
Thánh Thể - giới trẻ có thể được huấn luyện tốt nhất cho các vai trò
hiện tại và cả tương lai của họ trong Giáo Hội và trong xã hội. Trong
cuộc đối thoại Thánh Thể, Giáo Hội có nhiều điều để nói với giới trẻ,
122 EG, 105. 123 Xc. John Paul II, Tông Huấn Christifideles Laici (CL) (30/12/1988), 46.
55
và giới trẻ, với sức sống và nhiệt tình của mình, cũng có nhiều điều
để chia sẻ với Giáo Hội.124 Quanh bàn tiệc Lời Chúa và Thân Mình
Đức Ki-tô, Giáo Hội cống hiến lời chỉ dẫn và của dưỡng nuôi125 nhờ
đó người trẻ có thể được chuẩn bị để trở thành “mảnh đất tốt” nơi hạt
giống Lời Chúa có thể nảy mầm, đâm rễ, phát triển và sinh hoa kết
trái dồi dào. Thánh Thể là trường học hoàn hảo để họ có thể học hỏi
giá trị của sự hiện diện nhờ đó xây dựng các mối tương quan và cộng
đoàn, giá trị của ý nghĩa về lòng cảm tạ và trách nhiệm đối với công
trình sáng tạo của Thiên Chúa, và giá trị của phục vụ và hy sinh vốn
mang lại sự sống, chữa lành và sự toàn vẹn cho người khác.
Thánh Thể như sự thông truyền. Quan tâm tới việc giới trẻ bị thu
hút vào những phương tiện truyền thông xã hội khác nhau và thành
thạo trong việc sử dụng chúng, Giáo Hội sẽ thể hiện vai trò đúng đắn
khi trình bày Thánh Thể với họ như sự hiện thân cao cả và lý tưởng
nhất của truyền thông, nơi tình bằng hữu được thiết lập và nuôi
dưỡng, nơi hy vọng, ước mơ, niềm vui và lo âu được chia sẻ, và nơi
mà những mục tiêu cao đẹp và sự hậu thuẫn được thực hiện cùng
nhau. Trong trường học Thánh Thể, giới trẻ sẽ học biết rằng sự thông
truyền không chỉ là trao đồi ý tưởng và cảm xúc, mà còn ở mức độ
sâu xa nhất, là sự hiến thân trong tình yêu.126 Giáo Hội không bao giờ
mệt mỏi nói với giới trẻ rằng Đức Ki-tô thiết lập Thánh Thể như một
“hình thức truyền thông hoàn hảo và thân mật nhất giữa Thiên Chúa
và con người,” vốn dẫn đến “sự hiệp nhất khả thể sâu xa nhất giữa
người nam và người nữ.”127 Thánh Thể là nơi diễn ra sự truyền thông
sâu xa và biến đổi con người nhất - đáp trả lời khẩn cầu, xin Chúa
Cha nhờ Con của Người sai Chúa Thánh Thần xuống để bánh và
rượu, cũng như cả cộng đoàn, trở thành Thân Mình Đức Ki-tô.
124 Ibid. 125 Xc. Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rô-ma, số 28. 126 Xc. Hướng dẫn Mục vụ Communio et Progressio về các phương thế
truyền thông xã hội (23/5/1971), 11. 127 Ibid.
56
IX. ĐỨC MARIA VÀ THÁNH THỂ TRONG SỨ
MẠNG TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI
Khi gần kết thúc việc suy tư về Thánh Thể và sứ mạng truyền giáo
của Giáo Hội, chúng ta hướng về Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh,
Đấng đồng thời là hiện thân của Mầu Nhiệm Thánh Thể và là mẫu
gương tuyệt hảo cho sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội.
A. Đức Maria, Mẫu Gương và Mẹ của Giáo Hội truyền giáo
“Người Ki-tô hữu Châu Á có lòng yêu mến đậm sâu với Đức Maria,
tôn kính Mẹ như là Mẹ của mình và như Mẹ của Đức Ki-tô.”128
Thánh Gio-an Phao-lô II đã nhắc lại câu nói trên của Thượng Hội
Đồng Giám Mục trong Phiên họp Đặc Biệt dành cho Châu Á vào
năm 1998. Bài thánh ca dành cho Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế tổ
chức tại Manila năm 1937 có một câu nói về người Phi Luật Tân là
một dân tộc có lòng yêu thương và kính mến đặc biệt đối với Mẹ
Maria: “pueblo amante de Maria (một dân tộc yêu mến Mẹ Maria).”
Những lời tôn vinh ấy khẳng định lòng yêu mến đặc biệt mà dân tộc
trên lục địa này dành cho Mẹ Đấng Cứu Thế mà họ trìu mến gọi là
Mẹ của họ. Những lời tôn vinh ấy cũng chứng tỏ Đức Mẹ quan trọng
như thế nào trong hành trình truyền giáo của Giáo Hội tại Châu Á.
Đức Mẹ là mẫu mực của Giáo Hội trong sứ mạng loan báo Tin Mừng
bởi vì Mẹ đã cộng tác mật thiết vào công trình cứu độ của Con
mình129 và bởi vì Mẹ nêu gương cho hành trình truyền giáo mà Giáo
Hội đã và đang tiếp tục thực hiện.
Vì Đức Maria là người đầu tiên đã nhận được Tin Mừng trong biến
cố Truyền Tin trước khi đem Tin Mừng ấy đến với bà Ê-li-sa-bét
trong chuyến Thăm Viếng của mình, và đến với toàn thế giới qua
biến cố Hạ Sinh Con của mình, thế nên Giáo Hội cũng được kêu gọi
trước tiên trở thành một cộng đoàn tiếp nhận Tin Mừng và rồi đi rao
128 EA, 51. 129 SC, 103.
57
giảng Tin Mừng.130 Dưới chân Thập Giá, Đức Ki-tô phó thác Giáo
Hội và sứ mạng rao giảng dưới sự chăm sóc của Đức Mẹ: “Thưa bà,
đây là con bà” (Ga 19:26-27). “Đức Maria là Mẹ của Giáo Hội rao
giảng Tin Mừng, và không có Mẹ chúng ta không bao giờ có thể thực
sự hiểu được tinh thần tân phúc âm hóa.”131
Đức Maria, người đầu tiên nhận lãnh Tin Mừng. Đức Maria đã
nghe Lời Chúa trong “Tin Mừng đầu tiên” được sứ thần Gáp-ri-en
loan báo. Tiếng Fiat của Mẹ, lời ‘xin vâng’ dứt khoát trước tiếng gọi
của Thiên Chúa, là một sự cởi mở trọn vẹn con người và hiện hữu
của Mẹ cho thánh ý Thiên Chúa. Đó là hành động vâng phục và tín
thác hoàn toàn, Mẹ giao phó cuộc đời mình cho kế hoạch của Thiên
Chúa. Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Mẹ mang thai Con Thiên
Chúa làm người; Thiên Chúa mặc lấy xác phàm nơi cung lòng Mẹ.
Mẹ ban tặng cho Con Thiên Chúa bản tính nhân loại. Và trong đức
tin, Mẹ hoàn toàn gắn kết với sứ mạng cứu độ của Chúa Con trong
lịch sử.
Những diễn biến tiếp theo trong cuộc đời của Mẹ - viếng thăm bà Ê-
li-sa-bét, mạc khải cho thánh Giu-se về người con trong lòng Mẹ,
sinh hạ Đức Giê-su tại Bê-lem, dâng hiến Con lên Đền Thờ và lời
tiên tri của ông Si-mê-ôn, ba nhà đạo sĩ đến viếng, Thánh Gia trốn
sang Ai-cập, lạc mất và tìm thấy con trẻ Giê-su tại Giê-ru-sa-lem, Mẹ
không hiểu nhiều về những chuyện diễn ra, nhưng suy đi nghĩ lại
trong lòng các biến cố và lời nói ấy – là sự rao giảng Tin Mừng của
Mẹ. Trong cách này, đức tin của Mẹ, tính cách môn đệ và trên hết là
tình mẫu tử thiêng liêng vốn là vận mạng của Mẹ, được hình thành.
Mẹ Maria, người rao giảng Tin Mừng. Khi viếng thăm bà Ê-li-sa-
bét, Mẹ mang đứa con trong lòng đến vùng đồi núi xứ Giu-đê. Diện
đối diện với Mẹ Maria, bà Ê-li-sa-bét đang mang thai “được tràn đầy
Chúa Thánh Thần” và đứa con trong lòng bà được Thần Khí đánh
động (Lc 1:41, 44). Và bà Ê-li-sa-bét nói với Mẹ: “Em thật có phúc,
130 EN, 15. 131 EG, 284.
58
vì đã tin” (c. 45) và Maria đáp lại: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức
Chúa” (c. 46). Mẹ Maria rút ra từ kho tàng của những lời mà Mẹ suy
ngẫm trong lòng với Chúa Thánh Thần, và loan báo điều ấy như Tin
Mừng, như Phúc Âm cho nhân loại.
Vào giờ đã định, Mẹ Maria sinh hạ người Con mặc lấy xác phàm của
Chúa Cha từ cung lòng Mẹ. Mẹ ban cho chúng ta Đức Giê-su. Mẹ
nâng Người lên trước các mục đồng và các đạo sĩ. Mẹ đặt Người vào
vòng tay của ông già Si-mê-ôn, và ông vui mừng biết rằng lời hứa
của Thiên Chúa đã được thực hiện. Lời yêu cầu của Mẹ tại tiệc cưới
Ca-na mang đến dấu chỉ đầu tiên trong những dấu chỉ mà Con của
Mẹ thực hiện. Lời Mẹ nói với người phục vụ: “Người bảo gì, các anh
cứ việc làm theo.” Và Mẹ tiếp tục nói những lời này với mọi thế hệ
mai sau.
Khi Con của Mẹ rao giảng cho các đám đông, Mẹ tiếp nhận lời của
Người và suy ngẫm trong lòng, để sau đó chia sẻ lời của Người cho
Giáo Hội non trẻ. Mẹ của các Tông Đồ, Mẹ hiện diện giữa họ khi
Thần Khí xuống trên họ dưới hình lưỡi lửa vào ngày Giáo Hội, được
Thần Khí ban sức mạnh, lần đầu tiên rao giảng Tin Mừng cho toàn
thế giới.
Như thế Mẹ Maria là người đầu tiên được loan báo Tin Mừng, là
môn đệ đầu tiên, cũng như là Tông Đồ đầu tiên. Trong mọi thời đại,
từ thời các Tông Đồ đến ngày tận thế, Mẹ luôn hiện diện trong Giáo
Hội rao giảng Tin Mừng – Giáo Hội truyền giáo.
B. Đức Maria trong cuộc đối thoại truyền giáo của Giáo Hội
Với các nền văn hóa đa dạng của Châu Á. Trong sứ mạng của
Giáo Hội giữa các nền văn hóa đa dạng của Châu Á, Đức Maria là
mẫu gương cho chứng tá Ki-tô giáo đích thực mà giữa bối cảnh đa
văn hóa của Châu Á, mẫu gương này là một cách rao giảng Tin
Mừng và Nước Thiên Chúa thuyết phục và hấp dẫn hơn so với những
lập luận trí thức.132 Đó là lời chứng phát sinh từ sự hiệp thông thân
132 EA, 42; John Paul II, Thông Điệp Redemptoris Missio (RM)
59
thiết và không thể tách rời với Thiên Chúa vốn thôi thúc con người
vội vã chạy đến giúp đỡ người thân cận đang cần đến.133 Những câu
chuyện Đức Mẹ đến thăm và giúp đỡ người chị họ trong giai đoạn
mang thai khó khăn nhất, và lời chuyển cầu của Mẹ nhằm cứu giúp
đôi cô dâu chú rể còn trẻ khỏi cơn bối rối trong tiệc cưới Ca-na đã
minh họa một cách tuyệt vời lòng nhiệt thành truyền giáo mà Giáo
Hội phải có. Từ Đức Mẹ, Giáo Hội biết rằng trước tiên chính bằng
cách cư xử và cuộc sống của mình – quan tâm đến con người, từ ái
với người nghèo, làm chứng cho tinh thần nghèo khó và thanh thoát,
cho tự do trước những thế lực trần gian, làm chứng cho sự thánh hóa
– Mẹ sẽ phúc âm hóa thế giới.134 Giáo Hội nhìn nơi Đức Maria việc
làm chứng bằng đời sống mà nhờ đó “người Ki-tô hữu khuấy động
lên những chất vấn không thể cưỡng lại nơi trái tim của những ai
nhìn thấy họ sống như thế nào.”135
Với các truyền thống tôn giáo khác. Trong bối cảnh đa tôn giáo của
Châu Á, con người và vai trò của Đức Maria là điểm quy chiếu cho
những tín đồ của niềm tin khác, bởi vì nơi Mẹ tỏa chiếu giá trị phổ
quát của tình mẫu tử vượt lên trên các nền văn hóa và tôn giáo. Do đó
không ngạc nhiên gì “trên khắp Châu Á, có hàng trăm đền đài Đức
Mẹ, nơi không chỉ các tín hữu Công Giáo mà cả tín đồ các tôn giáo
khác cũng đổ về.”136 Trước khi là Mẹ Đấng Cứu Thế và là Mẹ Giáo
Hội, Mẹ là trưởng nữ của Ađam137 và do đó cũng chia sẻ bản tính và
phẩm giá chung với gia đình nhân loại, bao gồm cả những người theo
các tôn giáo khác. Họ không có khó khăn gì khi nhìn thấy mẫu gương
niềm tin nơi con người của Mẹ. Con người Đức Maria là một trong
(7/12/1990), 42. 133 Xc. EN, 41. 134 Xc. EN, 41; RM, 42. 135 EN, 21. 136 EN, 51. 137 Xc. Paul VI, Exploring the Mystery of the Church. Address of Pope Paul
VI at the Close of the Third Session of the Second Vatican Ecumenical
Council (21/11/1964).
60
những lĩnh vực Giáo Hội có thể đưa vào trong cuộc đối thoại hiệu
quả với Hồi giáo, một trong những tôn giáo lớn có số người tin theo
đông đảo nhất tại Châu Á, bởi vì người Hồi giáo cũng tôn kính Mẹ và
đôi khi chạy đến với Mẹ với lòng sùng mộ.138
Việc làm chứng, yếu tố đầu tiên và trên hết của cuộc đối thoại giữa
Giáo Hội với tín đồ của các niềm tin khác, tìm thấy một tấm gương
và niềm hứng khởi nơi đời sống và sứ mạng của Đức Maria. Cuộc
sống lặng lẽ phục vụ và trung thành cộng tác với thánh ý Thiên Chúa
của Mẹ trong việc nâng cao số phận con người sẽ được đức tin thúc
đẩy và sự chiêm niệm, lắng nghe Lời Chúa nuôi dưỡng, cũng chính là
con đường cho Giáo Hội truyền giáo giữa những truyền thống tôn
giáo khác.
Với người nghèo. Đức Maria là hiện thân của tình yêu ưu tiên cho
người nghèo của Thiên Chúa và của Giáo Hội. Mẹ là người phụ nữ
của sự phục vụ hiệu quả, nâng cao người nghèo và người thiếu thốn,
thể hiện trong cuộc viếng thăm bà Ê-li-sa-bét và trong việc can thiệp
cho đôi vợ chồng trẻ trong tiệc cưới tại Ca-na. Tấm gương của Đức
Maria chỉ cho chúng ta biết phải vội vã chạy đến, hiện diện nơi các
anh chị em cần chúng ta, và rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa,
Đấng giải thoát con người khỏi cảnh áp bức và ủi an những khi ưu
phiền.139 Nơi Đức Maria, Giáo hội trong sứ mạng truyền giáo tìm
thấy một người mẹ tự thúc đẩy mình dấn thân vào những công việc
phục vụ cụ thể và trong sự cảm thương ngõ hầu thực sự nâng cao
hoàn cảnh của người nghèo, vào những lý tưởng bảo vệ công lý cho
những người không có phương tiện theo đuổi điều đó, vào việc giúp
xây dựng một xã hội nơi mà mọi người, ngay cả những người nghèo
nhất trên đời, cũng có thể hưởng được đầy đủ cuộc sống nhân bản và
nhân phẩm của mình. Người nghèo tìm thấy nơi Đức Maria trái tim
của một người mẹ đến với mọi người, nhưng đặc biệt là những người
nhỏ mọn nhất trong các con cái của Mẹ, vì họ là những người cần đến
138 Xc. NA, 3. 139 Xc. Thượng Hội Đồng Giám Mục 1971, “Justice in the World,”
Introduction. 1971
61
Mẹ nhất.
Tình yêu ưu tiên như thế dành cho người nghèo được khắc họa tuyệt
đẹp trong Kinh Magnificat của Đức Maria.140 Mẹ ca tụng Thiên
Chúa, Đấng vẫn đoái thương nhìn đến phận nữ tỳ hèn mọn của Mẹ
giữa mọi người nữ và đến hết mọi đời. Nhưng Mẹ cũng tán dương
Thiên Chúa, Đấng đã nâng cao người nghèo và người cô thế qua
muôn thế hệ - Người dẹp tan lòng trí kiêu căng, hạ bệ kẻ quyền thế
khỏi ngai vàng, nâng cao người hèn mọn, ban cho người đói khát
được no đầy điều tốt, và đuổi kẻ giàu có trở về tay không (x. Lc 1:51-
53).
Với giới trẻ. Giáo Hội phó thác giới trẻ và trẻ em ở châu lục này cho
Đức Mẹ, như Đức Ki-tô đã phó thác người môn đệ trẻ tuổi cho Mẹ
Người dưới chân Thập Giá: “Thưa bà, đây là con bà” (Ga 19:26).
Vào một thời điểm trong cuộc đời mình, giống như con trẻ Giê-su,
giới trẻ và trẻ em ngày nay đang được huấn luyện để lớn lên “ngày
càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên
Chúa và người ta” (Lc 2:52). Họ đang khám phá bản thân và phân
định ơn gọi đặc thù của mình trong Giáo Hội cũng như thế giới và
Giáo Hội hướng họ đến với Mẹ Maria khi nhắc lại lời Chúa Giê-su
trên Thập Giá: “Hỡi con, đây là mẹ con” (Ga 19:27). Giáo Hội
xem giới trẻ ngày nay là nguồn hy vọng cho xã hội và cho Giáo
Hội và đồng thời nhận thấy rằng nhiều người trong số họ “gặp phải
âu lo, lừa dối, thống khổ và sợ hãi thế giới, cũng như những cám
dỗ gắn liền với tình trạng của họ.”141 Thế nên Giáo Hội nêu cao
cho họ hình ảnh Đức Maria đi theo Con của Mẹ từ đầu sứ mạng
của Người cho đến đỉnh điểm trên Thập Giá. Nơi Mẹ, họ chắc
chắn sẽ tìm thấy một người mẹ chăm sóc, dưỡng nuôi, và hướng
dẫn như Mẹ đã làm với Con Thiên Chúa nhập thể. Cùng với Mẹ,
Giáo Hội dẫn dắt nhiều người trẻ ngày nay đến với Đức Ki-tô,
Đấng duy nhất là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống: “Người bảo gì,
các anh cứ việc làm theo” (Ga 2:5).
140 Xc. John Paul II, Thông Điệp Redemptoris Mater (RM) (25/3/1987), 37. 141 CL, 47.
62
C. Đức Maria và Thánh Thể trong sứ mạng của Giáo Hội
Nhờ mối quan hệ đặc biệt với Thánh Thể, Đức Maria dẫn dắt chúng
ta đến bí tích cao cả nhất này để tìm thấy trong đó nguồn mạch và
cùng đích của sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội. Như trong
cung lòng trinh khiết của Mẹ, Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính nhân
loại khiến Người trở thành Bí Tích Tình Yêu của Chúa Cha, thì trong
Thánh Thể, Đức Ki-tô tiếp tục là Bí Tích của Chúa Cha qua tính cách
bí tích của Giáo Hội – Ngài hiện diện nơi con người thừa tác viên,
trong khi công bố Lời Chúa, trong cộng đoàn cầu nguyện và ca hát,
nhưng đặc biệt là trong Thánh Thể.142 “Thân mình bị nộp vì chúng ta
và hiện diện dưới các dấu chỉ bí tích cũng chính là thân mình mà Đức
Maria đã cưu mang trong lòng!”143 Nhờ việc gắn bó mật thiết với
Con mình khi dâng hiến Người làm Bánh Sự Sống và Bánh Hằng
Sống cho thế giới được sống nhờ hy tế của Người trên Thập Giá, lời
tiên tri của ông Si-mê-ôn rằng một lưỡi gươm sẽ đâm thâu trái tim
Mẹ đã được ứng nghiệm (x. Lc 2:34-35).
Từ trường học của Đức Maria. Giáo Hội có thể học hỏi từ trường
học của Đức Maria, “người nữ của Thánh Thể,” thái độ nội tâm thích
hợp và cần thiết để cử hành và sống các mầu nhiệm cứu độ một cách
hiệu quả:144 lắng nghe, suy ngẫm và hiện diện tích cực, hết lòng quan
tâm đến thế giới và nhân loại, và mở lòng ra với sự viên mãn cánh
chung của tất cả những gì nhân loại hy vọng. Đức Maria là tấm
gương cho việc tôn sùng Thánh Thể, vốn tìm cách cụ thể hóa trong
những công tác yêu thương và phục vụ cũng như mở ra cho các tín
hữu niềm hy vọng cánh chung. Vì đối với người tín hữu khi thờ
phượng, Đức Mẹ hiện diện như một tấm gương trong việc lắng nghe
Lời Chúa và ghi khắc vào lòng, trong việc ca ngợi và cảm tạ Thiên
Chúa, Đấng đã ban những ơn trọng đại cho mình và cho nhân loại,
trong việc đem Đức Ki-tô cũng như quà tặng niềm vui và cứu độ của
142 Xc. SC, 7. 143 John Paul II, Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia (EDE), 56
(17/4/2003), 56. 144 Ivi, 53.
63
Người đến với mọi người chúng ta gặp, trong việc cầu nguyện và
chuyển cầu cho nhu cầu của mọi người, trong việc nuôi dưỡng đời
sống ân sủng mà chúng ta nhận được qua các bí tích, trong việc dâng
mình kết hợp với lễ dâng của chính Đức Ki-tô lên Chúa Cha, trong
việc khẩn cầu Chúa đến, và trong việc tỉnh thức chờ ngày Chúa
đến.145
“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” Với những lời này, Đức
Maria tiếp tục nói với Giáo Hội của Đức Ki-tô Con của Mẹ, chú
trọng đến những lệnh truyền của Người ngõ hầu thực hiện những gì
Người đã làm trong Bữa Tối Sau Cùng và trên đồi Can-vê để “tưởng
nhớ đến Người.” Nhưng Mẹ cũng kêu gọi Giáo Hội dấn thân cho
mầu nhiệm cao cả nhất này bằng sự dấn thân lặng lẽ nhưng tích cực
của Mẹ vào sứ mạng tông đồ của Giáo Hội. Mẹ ở bên các Tông Đồ
của Con Mẹ khi họ chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống trong lúc
liên tục cầu nguyện (x. Cv 1:14), Đấng là Tôn Sư và là Hướng Dẫn
Viên mà Người đã hứa ban cho họ để thực thi sứ mạng của mình (x.
Ga 14:16-17; Ga 16:13-14). Mẹ chắc chắn đã ở bên thế hệ Ki-tô hữu
đầu tiên, những người siêng năng tham dự “nghi thức bẻ bánh” (Cv
2:42). Mẹ tiếp tục hiện diện, với Giáo Hội và làm Mẹ của Giáo Hội,
mỗi lần chúng ta cử hành Thánh Thể.146 Do đó Giáo Hội chưa bao
giờ ngừng xin Mẹ cầu nguyện cho (trong Kinh Cáo Mình) và tôn
vinh Mẹ (trong Kinh Nguyện Thánh Thể) bởi vì thật là chính đáng
khi “Thánh Thể, là việc cử hành cao cả nhất những mầu nhiệm cứu
độ Thiên Chúa thực hiện qua Đức Ki-tô trong Chúa Thánh Thần, nhất
thiết phải nhắc đến Thánh Mẫu của Đấng Cứu Độ, Mẹ đã liên kết
một cách không thể tách rời với những mầu nhiệm này.”147
Cuối cùng, cùng với Đức Maria, Giáo Hội hát lên bài ca Thánh Thể
như Kinh Magnificat của Mẹ, nhắc lại những kỳ công Thiên Chúa đã
thực hiện trong lịch sử cứu độ, để hoàn thành lời đã hứa với các tổ
145 Xc. Bộ Phụng Tự Thánh, Orientations and Proposals for the
Celebration of the Marian Year 19871988 (3/4/1987). 146 Xc. EDE, 57. 147 Bộ Phụng Tự Thánh, Orientations... cit, 19. Xc. SC,103; LG, 53, 57.
64
phụ, công bố những mầu nhiệm diệu kỳ của Đức Ki-tô, mầu nhiệm
nhập thể cứu độ, mầu nhiệm Chúa chịu chết và sống lại, đang khi chờ
đợi niềm hy vọng vinh quang ngày cánh chung.148
X. NIỀM HY VỌNG VINH QUANG (SPES GLORIAE)
Vào cuối cuộc hành trình, chúng ta hãy quay lại với lời của thánh
Tông Đồ: “Đức Ki-tô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta
niềm hy vọng đạt tới vinh quang” để khám phá Thánh Thể biểu lộ
vinh quang của Thiên Chúa đang khi chúng ta tiền dự vào việc Chúa
đến như thế nào, trong thời gian và trong lịch sử.
A. Thánh Thể và “vinh quang Thiên Chúa”
Lời tung hô của cộng đoàn Thánh Thể sau khi truyền phép đúc kết
một cách thích hợp sự thể hiện đường hướng cánh chung vốn được
biểu thị qua việc tham dự bàn tiệc của Chúa (x. 1 Cr 11:26): chúng
con công bố Đức Ki-tô chịu chết và sống lại “cho đến khi Người lại
đến.” Thánh Thể là sự trương lực hướng tới cùng đích, là hưởng nếm
trước niềm vui trọn vẹn Đức Ki-tô đã hứa (x. Ga 15:11). Theo một
nghĩa nào đó, đây là sự mong đợi Vương Quốc chung cuộc, “bảo
đảm cho ta một ngày mai huy hoàng rực rỡ.”149 Trong niềm mong đợi
đầy tín thác rằng “niềm hy vọng hồng phúc ấy được hoàn tất và Đức
Giê-su Ki-tô Đấng Cứu Độ chúng ta ngự đến.”150
Thánh Thể, vốn đồng thời là hạt giống và là mục đích của sứ mạng
truyền giáo, thể hiện trải nghiệm về vinh quang Thiên Chúa, mà trung
tâm điểm là Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô, cuộc thương khó,
cái chết và phục sinh vinh quang của Người. Chính trên Thập Giá mà
vinh quang đích thực của Thiên Chúa được tỏ lộ cho chúng ta, bởi vì
ở đó Chúa Cha bày tỏ gương mặt xót thương và tình yêu của Người
nơi Chúa Con đến mức chấp nhận chịu chết để cứu độ mọi loài thụ
148 Xc. EDE, 58. 149 Điệp ca Tin Mừng Kinh chiều II Lễ Trọng Mình Máu Thánh Chúa
Ki-tô. 150 Sách Lễ Rô-ma, embolism sau Kinh Lạy Cha.
65
tạo và công trình sáng tạo của Người.
Vì thế “Đức Ki-tô đang ở giữa anh em, niềm hy vọng đạt tới vinh
quang” được mạc khải cho chúng ta không gì khác hơn là toàn bộ kế
hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện trong Mầu Nhiệm Vượt
Qua của Đức Giê-su, một kế hoạch vẫn tiếp tục hiện diện trên thế
giới, qua những yếu tố thời gian và lịch sử, nhưng sẽ được hoàn tất
khi Chúa Giê-su giao phó Vương Quốc cho Chúa Cha.
Từ Chủ Nhật này sang Chủ Nhật khác, khi được quy tụ nhân danh
Chúa, chúng ta cử hành vinh quang của Chúa trong mỗi Thánh Lễ.
Lúc đó, chúng ta gặp gỡ chính Đức Giê-su chịu đóng đinh – Người
sống lại, hiện đang sống, được giương cao lên trước thế giới đã đóng
đinh Người. Giờ đây, cái chết được biến đổi thành niềm vui nhờ tình
yêu, và sự phục sinh của chúng ta được thể hiện trong nỗ lực yêu
thương như Đức Giê-su đã yêu thương. “Gloria Dei vivens homo;
vita autem hominis visio Dei. Vinh quang của Thiên Chúa chính là
con người sống tràn đầy sung mãn, và sự sống của con người là tầm
nhìn của Thiên Chúa.”151
B. Bữa tiệc Mê-si-a
Ý nghĩa về vinh quang tương lai của Nước Thiên Chúa sẽ đến được
vị ngôn sứ diễn tả bằng hình ảnh một cuộc lữ hành cánh chung của
con người đi đến núi thánh của Thiên Chúa, nơi sứ mạng truyền giáo
kết thúc bằng bữa Đại Tiệc Mê-si-a được dọn sẵn cho mọi dân tộc và
quốc gia: “Trên núi này Ðức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một
bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh
chế. Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và
tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần.”
(Is 25:6-8)
Thánh Thể, lời tiên báo bữa tiệc cánh chung này, xuất hiện như là
“bí tích của sứ mạng được hoàn tất,” nơi mà khát vọng chung của
nhân loại được mãn nguyện: hiệp thông với Thiên Chúa, Thiên
151 I-rê-nê thành Lyon, Adversus haereses 4, 20, 7 (SC 100/2, 648).
66
Chúa sẽ là tất cả cho tất cả mọi người ở mọi nơi mọi lúc, và tình
huynh đệ phổ quát.
Ở đó, trên núi thánh, mọi dân nước sẽ quy tụ lại để ăn bữa tiệc chung
cuộc mừng Đức Chúa. Họ sẽ chiêm ngắm nhan thánh Chúa, họ sẽ trở
thành dân của Người và họ sẽ ca tụng Người bằng đôi môi thuần
khiết: “Ngài thật cao cả, và làm nên những việc lạ lùng; chỉ một mình
Ngài là Thiên Chúa.” (Tv 86:10). Và Thiên Chúa sẽ đáp lại muôn dân
nước trên toàn thế giới bằng muôn phúc lành tuyệt vời vượt trên mọi
biên giới: “Ta giáng phúc cho Ai-cập, dân của Ta, cho Át-sua, công
trình tay Ta làm ra, và cho Ít-ra-en, cơ nghiệp của Ta” (Is 19:25).152
Trương lực cánh chung được trình bày trong Thánh Thể khích lệ
cuộc lữ hành lịch sử của chúng ta, gieo hạt giống hy vọng sống động
trong sự dấn thân hàng ngày của mỗi người trong công việc cụ thể
của mình. Trong khi thực sự chờ đợi “trời mới” và “đất mới” (x. Kh
21:1), người Ki-tô hữu khơi dậy ý thức trách nhiệm của mình với thế
giới hiện nay, bảo đảm rằng họ không bỏ qua trách nhiệm công dân
trái đất của mình. Vào thời điểm lịch sử này thực ra họ đóng góp,
dưới ánh sáng Tin Mừng Lu-ca, vào việc kiến tạo một thế giới vì lợi
ích con người và hoàn toàn đáp lại thánh ý Thiên Chúa.
Việc cử hành Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế mô tả trước bữa tiệc cánh
chung khi thời gian tới hồi viên mãn mà mọi người đều được mời
tham dự.
C. Tình yêu Thiên Chúa ôm lấy nhân loại
Chúng ta quay trở lại Thánh Thể, bí tích sự hiện diện của Đức Giê-su
Ki-tô. Trong đó Chúa ôm lấy mọi con người và thể hiện sự hiệp nhất
của toàn bộ công trình sáng tạo, dù chưa trọn vẹn. Sứ mạng truyền
giáo tự bản chất là công việc diễn tiến trong khi chờ đợi bữa Đại Tiệc
Mê-si-a khi thời gian tới hồi viên mãn. Động thái này khởi đầu từ
152 Jame Cardinal L. Sin, The Eucharist: Summons and Stimulus, Call and
Challenge to Evangelization, trong Christ, Light of Nations, Đại Hội Thánh
Thể Quốc tế lần thứ 45; Città del Vaticano 1994, 764.
67
mỗi cộng đoàn Thánh Thể tụ họp nhau quanh bàn tiệc Mình Máu
Thánh Chúa.
Loan truyền Chúa chịu chết “cho đến khi Người lại đến” (1 Cr 11:26)
đòi hỏi những ai tham dự Thánh Thể sự cam kết biến đổi cuộc đời mình
trở thành “Thánh Thể.” Chính sự biến hình cuộc sống này, kết hợp với
việc biến đổi thế giới theo Tin Mừng, biểu lộ trương lực cánh chung của
cuộc cử hành Thánh Thể và của toàn bộ đời sống Ki-tô hữu: “Lạy Chúa
Giê-su, xin ngự đến” (Kh 22:20).
Có nhiều đòi hỏi cần chú trọng liên quan đến tầm nhận thức của thời
đại chúng ta: hòa bình, công lý và tình liên đới trong những mối
tương quan giữa các dân tộc, việc bảo vệ sự sống con người. Và có
nhiều mâu thuẫn làm u ám bầu trời thế giới “toàn cầu hóa” của chúng
ta, nơi mà người yếu thế, hèn mọn và nghèo đói nhất không có chút
mảy may hy vọng. Ở đây và bây giờ niềm hy vọng Ki-tô giáo phải
tỏa sáng! Cũng chính vì điều này mà Chúa đã muốn ở lại với chúng
ta trong Thánh Thể, khắc ghi sự hiện diện của Người bằng lời hứa về
một nhân loại được tình yêu của Người đổi mới. Đặc biệt là Tin
Mừng Gio-an, thay vì tường thuật việc thiết lập Thánh Thể, lại trình
bày câu chuyện “rửa chân” trong đó Chúa Giê-su trở thành Thầy của
sự hiệp thông và phục vụ (x. Ga 13:1-20). Và về phần mình, tông đồ
Phao-lô coi việc tham dự của cộng đoàn vào Bữa Tiệc của Chúa là
bất xứng khi diễn ra trong bối cảnh chia rẽ hay trong sự dửng dưng
với người nghèo (x. 1 Cr 11:17tt).153
Trong Thánh Thể sự đa dạng văn hóa – ngôn ngữ, lịch sử và truyền
thống – được đón nhận như biểu lộ sự phong phú của con người, sự
đa dạng vô hạn những tài nguyên và tài năng của nhân loại. Sự đa
dạng này không cản trở tinh thần hiệp nhất Ki-tô giáo nhưng làm cho
sự hiệp nhất này nhập thể và nên phong phú. “Chư dân sẽ đi về phía
ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà
tiến bước. Ðưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến
với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm
153 Xc. Ecclesia de Eucharistia, 20.
68
bên hông.… Vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn
dân nước sẽ tràn đến với ngươi” (x. Is 60:3-5).
“Của cải muôn dân nước” không gì khác hơn là văn hóa và trải
nghiệm tôn giáo đa dạng mà các dân tộc sáng tạo với trí thông minh
và đôi tay của họ, những kho tàng khôn ngoan và truyền thống thế
trần của họ, những con đường cụ thể khác nhau của con người.
Khi bữa tiệc Mê-si-a được chuẩn bị, mà trong đó sự hiệp thông với
Đức Ki-tô sẽ biến đổi mọi biên giới con người, thì ngay bây giờ,
trong cộng đoàn Thánh Thể, những văn hóa về đạo đức, kinh tế,
chính trị và xã hội khác nhau cũng được Thần Khí biến đổi trong
niềm cảm tạ hướng đến một nền văn minh mới.
Trong mỗi Thánh Lễ, Thiên Chúa tuyên bố sự chúc phúc của Người cho
mọi chủng tộc và đất nước bằng những lời tiên tri soi sáng con đường
của chúng ta: “Ta giáng phúc cho Ai-cập, dân của Ta, cho Át-sua, công
trình tay Ta làm ra, và cho Ít-ra-en, cơ nghiệp của Ta” (Is. 19:25). Ta
giáng phúc cho nước Nga, Sômalia, Bôlivia, Trung Quốc, những công
trình của tay Ta, và cho Phi Luật Tân, Phi Luật Tân, cơ nghiệp của Ta…
Amen, Amen.154
154 Jame Cardinal L. Sin, The Eucharist, cit., 766.