32
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ HẰNG MONG CÁC LOẠI NGƢỜI ĐỒNG PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2017

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬTrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/33198/1/...số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,

  • Upload
    others

  • View
    7

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

BÙI THỊ HẰNG MONG

CÁC LOẠI NGƢỜI ĐỒNG PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT

NAM (TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN

THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

BÙI THỊ HẰNG MONG

CÁC LOẠI NGƢỜI ĐỒNG PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT

NAM (TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN

THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG)

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số : 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Dũng

Hà nội – 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các

số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung

thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Bùi Thị Hằng Mong

1

MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục chữ viết tắt

Danh mục bảng

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 4

Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC LOẠI NGƢỜI ĐỒNG

PHẠM .....................................................................................................................12

1.1. Các khái niệm có liên quan ..........................................................................12

1.1.1. Khái niệm đồng phạm ..................................................................................12

1.1.2. Khái niệm các loại người đồng phạm ..........................................................14

1.2. Phân biệt các loại ngƣời đồng phạm với chủ thể của một số tội phạm .....16

1.2.1. Phân biệt các loại người đồng phạm với chủ thể trong tội che giấu tội phạm

..................................................................................................................................16

1.2.2. Phân biệt các loại người đồng phạm với chủ thể trong tội không tố giác tội

phạm .........................................................................................................................19

1.2.3. Phân biệt các loại người đồng phạm với người hoạt động đắc lực trong một

số tội phạm ...............................................................................................................20

1.3. Pháp luật hình sự của một số nƣớc quy định về các loại ngƣời đồng

phạm ........................................................................................................................22

1.3.1. Pháp luật hình sự Liên bang Nga .................................................................22

1.3.2. Pháp luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức ...............................................23

1.3.3. Pháp luật hình sự Hoa Kỳ ............................................................................24

1.3.4. Pháp luật hình sự quốc tế .............................................................................25

Chƣơng 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1999 VỀ CÁC

LOẠI NGƢỜI ĐỒNG PHẠM VÀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA HỌ ......28

2

2.1. Quy định của Bộ luật hình sự 1999 về các loại ngƣời đồng phạm .............28

2.1.1. Người thực hành ............................................................................................28

2.1.2. Người tổ chức.................................................................................................33

2.1.3. Người giúp sức ...............................................................................................38

2.1.4. Người xúi giục ...............................................................................................40

2.2. Quy định của BLHS năm 1999 về trách nhiệm hình sự của các loại ngƣời

đồng phạm ..............................................................................................................43

2.2.1. Các nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của các loại người đồng phạm

..................................................................................................................................45

2.2.2. Trách nhiệm hình sự của các loại người đồng phạm khi phạm tội chưa đạt .49

2.2.3. Trách nhiệm hình sự của các loại người đồng phạm trong trường hợp tự ý

nửa chừng chấm dứt việc phạm tội ..........................................................................51

2.3. Căn cứ quyết định hình phạt trong trƣờng hợp đồng phạm ......................55

2.3.1. Căn cứ tính chất của đồng phạm ....................................................................55

2.3.2. Căn cứ tính chất và mức độ tham gia của những người đồng phạm .............57

2.3.3. Căn cứ tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình

sự ..............................................................................................................................59

Chƣơng 3. THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN ĐỒNG PHẠM TRÊN ĐỊA

BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT .....62

3.1. Một số đặc điểm về địa lý, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng có ảnh

hƣởng đến tình hình phạm tội có tính chất đồng phạm .....................................62

3.2. Thực tiễn xét xử các vụ án đồng phạm trên địa bàn thành phố Hải Phòng

từ năm 2011-2015 ...................................................................................................64

3.2.1. Tình hình phạm tội dưới hình thức đồng phạm ở Hải phòng ........................64

3

3.2.2. Tình hình xét xử các vụ án có đồng phạm trên địa bàn thành phố Hải Phòng

từ năm 2011-2015 ....................................................................................................65

3.2.3. Vướng mắc, khó khăn trong quá trình xét xử các vụ án có đồng phạm trên

địa bàn thành phố Hải Phòng ...................................................................................70

3.3. Quy định của Bộ luật hình sự 2015 về các loại ngƣời đồng phạm .............71

3.3.1. BLHS 2015 quy định cụ thể trường hợp người đồng phạm không phải

chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành ...................72

3.3.2. Vấn đề xác định đồng phạm trong trường hợp chủ thể là pháp nhân

thương mại phạm tội ...............................................................................................74

3.4. Một số đề xuất, kiến nghị ..............................................................................76

3.4.1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của BLHS về chế định đồng phạm và

các quy định liên quan .............................................................................................76

3.4.2. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án đồng phạm .................78

KẾT LUẬN ............................................................................................................80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................83

4

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt

Nam hiện nay thì việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự là hết sức

quan trọng và cần thiết. Đây cũng là một nhu cầu tất yếu và quy luật đối với mỗi

quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa. Cùng với hệ thống các văn bản pháp luật

trong lĩnh vực dân sự, thương mại, lĩnh vực hình sự cũng đặt ra yêu cầu cần phải

tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. Bên cạnh đó, tình hình tội phạm ngày càng có diễn

biến phức tạp, các hình thức phạm tội do nhiều người cùng thực hiện, các loại tội

phạm mang tính chất quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm trên môi trường

mạng không phải là các hình thức phạm tội mới, nhưng dưới góc độ khoa học, các

hình thức phạm tội này đã làm thay đổi quan niệm về quyền tài phán của quốc gia,

nhất là tội phạm trong môi trường mạng internet, làm cho các quốc gia phải xích

lại gần nhau hơn trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Đồng thời, cũng làm

thay đổi quan niệm về vị trí pháp lý của các “nhà cung cấp dịch vụ mạng internet”

trong tố tụng hình sự…Các nội dung nêu trên đã và đang đặt ra những thách thức

cho các nhà lập pháp hình sự phải có những nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy

định của pháp luật hình sự bài bản, đầy đủ hơn, góp phần đấu tranh có hiệu quả đối

với các hình thức phạm tội này.

Về lý luận, so với tội phạm do một người thực hiện, tội phạm được thực hiện

dưới hình thức đồng phạm thường có tính chất, mức độ nguy hiểm hơn, vì khả

năng gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn, quy mô tội phạm lớn hơn và khoảng thời

gian tồn tại dài hơn khi có sự câu kết chặt chẽ về tổ chức và cách thức thực hiện. Ở

nước ta, những năm gần đây, tình hình tội phạm đang có chiều hướng gia tăng và

có nhiều diễn biến phức tạp. Phổ biến hiện nay là những vụ án nghiêm trọng có

nhiều bị cáo tham gia, đang được dư luận xã hội quan tâm theo dõi, lên án. Trong

vụ án đồng phạm, mỗi bị cáo khi thực hiện tội phạm có thể có vai trò khác nhau, sự

5

liên kết, hỗ trợ lẫn nhau giữa những người cùng phạm tội càng củng cố quyết tâm

phạm tội của cả bọn. Tuy nhiên, tính chất và mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội

của từng người vẫn phải dựa trên hành vi cụ thể và mức độ tham gia trên thực tế.

Việc hiểu và nhận thức rõ điều này giúp chúng ta nhận ra sự nguy hiểm của loại tội

phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm. Chính vì vậy, việc đấu tranh

phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm dưới hình thức đồng phạm nói riêng là

việc làm cấp bách luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, đề cao và chú trọng.

Xét dưới khía cạnh địa bàn phạm tội, Hải Phòng là một trong những thành

phố có diễn biến tình hình tội phạm hết sức phức tạp, rất nhiều các tổ chức tội

phạm, các hoạt động phạm tội diễn ra trên địa bàn thành phố Hải Phòng được đưa

ra điều tra, truy tố, xét xử với mức độ rất nghiêm trọng. Trong bối cảnh như hiện

nay, tình hình tội phạm có tổ chức, tội phạm hoạt động xuyên quốc gia ở nước ta sẽ

còn diễn biến phức tạp. Các tổ chức tội phạm hoạt động với những vỏ bọc đa dạng,

phương thức hoạt động, hành vi che giấu tội phạm tinh vi, xảo quyệt hơn, gây khó

khăn cho công tác phát hiện và điều tra. Hoạt động phạm tội của các đối tượng

không giới hạn ở một địa phương, mà ngày càng thể hiện rõ xu hướng cấu kết, móc

nối với các đối tượng ở các tỉnh, thành phố khác, thậm chí cả với những đối tượng

là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài... hình thành những tổ

chức, đường dây phạm tội liên tỉnh, thành phố và mang tính quốc tế. Tội phạm do

chúng gây ra hầu hết là các nhóm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt

nghiêm trọng. Vì vậy, việc nghiên cứu các loại người đồng phạm về khái niệm, đặc

điểm, trách nhiệm hình sự là một trong những nội dung quan trọng, góp phần nâng

cao sự hiểu biết đối với loại tội phạm nghiêm trọng này. Đặc biệt nghiên cứu thực

tiễn xét xử các loại người đồng phạm trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong giai

đoạn 2011-2015, qua đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp

luật về vấn đề đồng phạm, vận dụng nó vào thực tế để đấu tranh, phòng ngừa có

hiệu quả đối với các loại người đồng phạm.

6

Với lý do trên, học viên lựa chọn đề tài: “ Các loại người đồng phạm trong

Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hải Phòng) ” để

làm đề tài cho luận văn nghiên cứu của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Đồng phạm, tội phạm có tổ chức hay tình hình phạm tội có tổ chức là một

trong những vần đề có nội dung rất phức tạp, được sự quan tâm của hầu hết các

quốc gia trên thế giới.

Trong thời gian qua việc nghiên cứu về đồng phạm đã thu hút được sự quan

tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận, luật gia hình sự và cán bộ thực tiễn. Đến

nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố, thể hiện ở một số giáo trình

của các trường Đại học, Cao đẳng, sách chuyên khảo sau Đại học như:

- Những lý luận cơ bản về tội phạm trong Luật hình sự, Viện Nhà nước và

pháp luật, Uỷ ban khoa học Xã hội Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội,

1986;

- Mô hình lý luận về BLHS Việt Nam (Phần chung), GS.TSKH Đào Trí Úc

(Chủ biên), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993;

- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Trường Đại học Cảnh sát

nhân dân, Hà Nội, 1995;

- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập I, trường Đại học Luật Hà Nội,

NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 1997;

- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội (tập thể

tác giả do GS.TS Nguyễn Ngọc Hoà chủ biên), NXB Công an nhân dân, Hà Nội,

2000;

- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Đại học Huế - Trung tâm đào tạo từ xa

(do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên), NXB Giáo dục;

7

- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), của Khoa Luật trực thuộc

Đại học Quốc gia Hà Nội, (tập thể tác giả do GS. TSKH. Lê Cảm chủ biên), NXB

Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003;

- Hình luật xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Phần chung), Trường cao đẳng

Kiểm sát, Hà Nội, 1983;

- Sách chuyên khảo: Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự,

NXB Tư pháp, Hà Nội, 2005 do TSKH Lê Cảm (chủ biên);;

Ngoài ra, các luận văn, luận án như:

Nguyễn Thị Trang Liên, với đề tài Các hình thức đồng phạm trong Luật hình

sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, năm 2007, Khoa luật - Đại học Quốc Gia

Hà Nội; Trần Quang Tiệp,

Đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường

Đại học Luật Hà Nội, 2000;

Các sách bình luận, sách tham khảo, bài viết như: Bình luận khoa học Bộ

Luật hình sự Việt Nam năm 1999, Tập I, Phần chung (tập thể tác giả do TS. Uông

Chu làm chủ biên), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Đinh Văn Quế, Bình

luận khoa học Bộ Luật hình sự, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2001; Đặng Văn

Doãn,Vấn đề đồng phạm, NXB Pháp lý, Hà Nội, 1986; Trần Quang Tiệp, Chế định

đồng phạm trong pháp Luật hình sự ở một số nước trên thế giới, Tạp chí Nhà nước

và pháp luật, số 11/1997; Nguyễn Ngọc Hòa, Trần Quốc Dũng phạm tội gì. Bàn về

các giai đoạn phạm tội và vấn đề cộng phạm, Tạp chí TAND, số 02/1980; Lê

Cảm,Về chế định đồng phạm, Tạp chí TAND, số 02/1988; Đoàn Văn Hường,

Đồng phạm và một số vấn đề về thực tiễn xét xử, Tạp chí TAND, số 4/2003; Lê

Thị Sơn,Về các giai đoạn thực hiện hành vi đồng phạm, Tạp chí Luật học, số

3/1998; Nguyễn Trung Thành, Phạm tội có tổ chức trong Luật hình sự Việt Nam:

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9/1999;

Nguyễn Trung Thành, Cơ sở và những nguyên tắc truy cứu trách nhiệm hình sự

8

trong trường hợp phạm tội có tổ chức, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2002;

Dương Văn Tiến, Phân biệt đồng phạm với che dấu tội phạm và không tố giác tội

phạm, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/1985…

Các tài liệu nêu trên đều đề cập đến các khía cạnh khác nhau và các mức độ

nghiên cứu khác nhau về vấn đề đồng phạm. Tuy nhiên, việc nghiên cứu các vấn

đề lý luận về đồng phạm gắn với thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa

bàn cụ thể là thành phố Hải phòng thì chưa có công trình nào nghiên cứu.Việc

nghiên cứu này nhằm có cơ sở thực tiễn cho những đề xuất hoàn thiện các quy định

của pháp luật hình sự cũng như nâng cao các giải pháp đấu tranh phòng chống tội

phạm tại địa bàn.

Do vậy, để góp phần khẳng định sự cần thiết của việc quy định các nội dung

liên quan đến chế định đồng phạm, học viên lựa chọn đề tài “ Các loại người đồng

phạm trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hải

Phòng)” để làm đề tài cho luận văn nghiên cứu của mình là phù hợp với thực tế

yêu cầu về xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự hiện nay.

3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lí luận liên quan đến các

loại người đồng phạm theo quy định của luật hình sự Việt Nam, đặc biệt là vấn đề

xác định TNHS, quyết định hình phạt của các loại người đồng phạm. Việc nghiên

cứu này nhằm mục đích phân biệt cụ thể các loại người đồng phạm với nhau và

phân biệt các loại người đồng phạm với một số khái niệm có liên quan trong khoa

học Luật hình sự (người che giấu tội phạm, người không tố giác tội phạm, người

hoạt động đắc lực). Đồng thời, nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng pháp luật liên

quan đến đồng phạm trong quá trình xét xử những vụ án có đồng phạm tại một địa

bàn trọng điểm là thành phố Hải Phòng (giai đoạn 2011-2015), đưa ra kiến nghị, đề

xuất góp phần hoàn thiện chế định đồng phạm trong BLHS.

9

3.2. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn về các

loại người đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam, cụ thể là:

- Nghiên cứu một số vấn đề chung về khái niệm, đặc điểm pháp lý của các

loại người đồng phạm Luật hình sự Việt Nam.

- Nghiên cứu Pháp luật hình sự của một số nước quy định về các loại người

đồng phạm.

- Nghiên cứu các quy định của BLHS 1999 về các loại người đồng phạm,

nguyên tắc xác định TNHS của người đồng phạm, quyết định hình phạt trong đồng

phạm và một số vấn đề khác liên quan đến chế định đồng phạm.

- Nghiên cứu tình hình phạm tội dưới hình thức đồng phạm trên địa bàn

thành phố Hải Phòng, qua đó đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp

luật về đồng phạm và thực tiễn xét xử các vụ án đồng phạm.

3.3. Phạm vi nghiên cứu

Trên cơ sở đối tượng, mục đích nghiên cứu đã xác định phạm vi nghiên cứu

của đề tài:

- Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật hình sự

hiện hành về đồng phạm mà cụ thể là các loại người đồng phạm. Bao gồm: nghiên

cứu khái quát khái niệm các loại người đồng phạm; phân tích vị trí, vai trò của các

loại người đồng phạm qua đó xác định các nguyên tắc xác định trách nhiệm hình

sự trong đồng phạm, quyết định hình phạt trong đồng phạm.

- Về tư liệu thực tế, tác giả nghiên cứu dựa trên thực tiễn xét xử các vụ án có

đồng phạm của tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, giai đoạn 05 năm (2011-

2015) phân tích, làm sáng tỏ, từ đó đưa ra các biện pháp hoàn thiện quy định của

BLHS liên quan đến chế định đồng phạm, đồng thời nâng cao hiệu quả đấu tranh

phòng chống tội phạm trên địa bàn thành phố Hải Phòng.

10

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước

về đấu tranh phòng, chống tội phạm. Quá trình nghiên cứu trong đề tài còn sử dụng

các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:

- Phương pháp phân tích: Phương pháp này thể hiện trong luận văn là những

lý giải, phân tích những điều luật qui định về chế định đồng phạm của các nhà

nghiên cứu khoa học luật hình sự Việt Nam qua đó rút ra được sự cần thiết, vai trò,

mục tiêu, ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này trong đời sống pháp luật, trong

quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền của Việt Nam.

- Phương pháp so sánh: Luận văn sử dụng phương pháp so sánh để đưa ra

kiến giải cho các qui định về các loại người đồng phạm, từ đó rút ra được những

kết luận về thực trạng, giải pháp và các đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật.

- Phương pháp thống kê xã hội học: Phương pháp này được thể hiện thông

qua những tài liệu, số liệu cũng như các báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân thành

phố Hải Phòng trong thời gian vừa qua về tình hình xét xử đồng phạm để làm cơ

sở phân tích, nghiên cứu nhằm tìm ra nguyên nhân, giải pháp.

Ngoài ra trong đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:

phân tích thuần túy quy phạm pháp luật; nghiên cứu, điều tra án điển hình... để

phân tích và luận chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu trong luận văn này.

Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, học viên đã tiếp thu có chọn lọc

kết quả của các công trình đã công bố; các đánh giá, tổng kết của các cơ quan

chuyên môn và các chuyên gia về những vấn đề có liên quan đến các vấn đề

nghiên cứu trong luận văn.

5. Những đóng góp mới của luận văn

Dưới góc độ lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý

luận về các loại người đồng phạm trong khoa học Luật hình sự Việt Nam. Cụ thể,

11

đã làm rõ các khái niệm về người thực hành, người tổ chức, người xúi giục, người

giúp sức trong đồng phạm, phân biệt các loại người đồng phạm với một số chủ thể

không trong vụ đồng phạm mà hiện nay thường có sự nhầm lẫn trong thực tiễn;

làm sáng tỏ chế định đồng phạm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999;

phân tích thông qua nghiên cứu thực tiễn xét xử các vụ án đồng phạm trên địa bàn

thành phố Hải Phòng từ năm 2011 đến năm 2015, qua đó chỉ ra những mâu thuẫn,

bất cập của các quy định hiện hành; chỉ ra các sai sót trong quá trình áp dụng quy

định, đưa ra nguyên nhân để tìm giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả áp dụng

các quy định của Bộ luật hình sự về đồng phạm .

Về thực tiễn, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận, có thể

sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập. Những đề xuất, kiến nghị của

luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và

hoạt động thực tiễn áp dụng BLHS Việt Nam liên quan đến việc xác định các loại

người đồng phạm, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống

các tội phạm dưới hình thức đồng phạm.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài kết cấu cơ bản của một luận văn, gồm lời mở đầu, nội dung, kết luận

và danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn được chia làm ba chương.

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về các loại người đồng phạm

Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 về các loại người

đồng phạm và trách nhiệm hình sự của họ

Chương 3: Thực tiễn xét xử các vụ án đồng phạm trên địa bàn thành phố

Hải Phòng và một số kiến nghị, đề xuất

12

Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC LOẠI NGƢỜI ĐỒNG PHẠM

1.1. Các khái niệm có liên quan

1.1.1. Khái niệm đồng phạm

Nghiên cứu lịch sử pháp luật hình sự của nước ta trong những năm đầu của

chính quyền nhân dân, vấn đề đồng phạm chưa được quy định một cách đầy đủ,

cụ thể, đồng phạm mới chỉ được phân biệt thành chính phạm và tòng phạm,

đồng nhất TNHS của những người tham gia trong bất kỳ trường hợp nào. Từ

những năm 60 đến trước năm 1985, cùng với sự phát triển của khoa học luật

Hình sự, vấn đề đồng phạm đã được quan tâm, đề cập nhiều hơn trong các sách

báo pháp lý, các công trình nghiên cứu. Tại Hội nghị tổng kết xét xử năm 1963,

Tòa án nhân dân tối cao có định nghĩa về đồng phạm (cộng phạm) như sau:

“Coi là cộng phạm nếu hai hoặc nhiều người cùng chung ý chí, cùng chung

hành động, nghĩa là hoặc tổ chức, hoặc xúi giục, hoặc giúp sức hoặc trực tiếp

cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội để cùng đạt tới kết quả phạm tội”.

Định nghĩa này về cơ bản đã xây dựng được khái niệm đồng phạm, trong đó xác

định được những dấu hiệu điển hình của đồng phạm. Tuy nhiên, nó chưa mang

tính khái quát và chưa phản ánh được những dấu hiệu đặc trưng của đồng phạm.

Mặc dù thực tiễn xét xử từ những năm 1946 đã đề cập đến vấn đề đồng phạm

trong các văn bản pháp luật hình sự nhưng vấn đề đồng phạm vẫn chưa được

quy định thành một chế định cụ thể.

Đồng phạm là một khái niệm cơ bản trong khoa học luật hình sự, Bộ luật

Hình sự đầu tiên của nước ta năm 1985, được Quốc hội thông qua vào ngày

27/6/1985 lần đầu tiên ghi nhận khái niệm đồng phạm, tại Điều 17:“Hai hoặc

nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm”. Quy định này đã

đánh dấu một bước phát triển tích cực trong hoạt động lập pháp hình sự ở nước

ta. Thuật ngữ đồng phạm thay thế cho thuật ngữ cộng phạm được sử dụng trong

13

các văn bản pháp luật hình sự trước đây, mặc dù bản chất pháp lý không thay

đổi, nhưng chính xác hơn. Tuy nhiên, khái niệm đồng phạm được quy định

trong Bộ luật hình sự 1985 vẫn tồn tại nhược điểm về mặt kỹ thuật lập pháp

hình sự, đó là thuật ngữ “hai người” được hiểu thuộc phạm trù “nhiều người”,

nói cách khác có sự lặp lại không cần thiết. Do đó, Bộ luật Hình sự 1999, được

Quốc hội thông qua vào ngày 21/12/1999 đã đưa ra định nghĩa pháp lý về khái

niệm đồng phạm tại Khoản 1 Điều 20 như sau: “Đồng phạm là trường hợp có

hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Trong luật hình sự Việt

Nam, khái niệm đồng phạm là khái niệm cơ bản để từ đó xác định các quy phạm

khác của chế định đồng phạm về các loại người đồng phạm, các giai đoạn thực

hiện tội phạm, tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm trong đồng

phạm, các hình thức đồng phạm và trách nhiệm hình sự trong đồng phạm. Việc

nhận thức đúng đắn khái niệm đồng phạm và xác định chính xác đồng phạm

trong thực tiễn xét xử là bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc pháp

chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực hình sự. Nguyên tắc này nhằm mục đích xử

lý đúng người, đúng tội, không kết tội oan và không để lọt tội phạm.

Từ khái niệm đồng phạm nêu trên, ta có thể đưa ra những căn cứ để xác định

một vụ đồng phạm bao gồm:

Thứ nhất, về mặt khách quan: số lượng người tham gia trong vụ án phải có từ

hai người trở lên, những người này đều phải có đủ năng lực trách nhiệm hình sự,

đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS và họ phải cùng nhau

thực hiện một tội phạm. Hành vi của người đồng phạm này liên kết chặt chẽ với

hành vi của người đồng phạm kia. Hành vi của những người đồng phạm phải

hướng về một tội phạm, phải tạo điều kiện, hỗ trợ cho nhau để thực hiện một tội

phạm thuận lợi, nói cách khác hành vi của đồng phạm này là tiền đề cho hành vi

của đồng phạm kia. Hành vi của tất cả những người trong vụ án đồng phạm đều là

nguyên nhân dẫn đến hậu quả tác hại chung của tội phạm, mặc dù có người trực

14

tiếp, người gián tiếp gây ra hậu quả tác hại. Đây là đặc điểm về quan hệ nhân quả

trong vụ án đồng phạm.

Thứ hai, về mặt chủ quan: tất cả những người trong vụ án đồng phạm phải có

hình thức lỗi cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Họ đều thấy rõ hành vi của toàn bộ

những người trong vụ án là nguy hiểm cho xã hội , mong muốn thực hiện tội phạm

hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Mỗi người đồng phạm đều thấy trước

hành vi của mình, thấy trước hành vi của tất cả những người đồng phạm là nguyên

nhân dẫn đến hậu quả tác hại. Đối với những tội phạm mà động cơ và mục đích

nêu trong điều luật là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm thì chỉ những

người phạm tội có động cơ và mục đích giống nhau thì mới có thể là đồng phạm

của nhau.

Trên thực tế, trường hợp đồng phạm thường gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại

nghiêm trọng hơn trường hợp chỉ có một người phạm tội. Do số người, thời gian

thực hiện tội phạm nhiều hơn và giữa họ có điều kiện giúp đỡ nhau về tinh thần và

vật chất, dẫn đến hoạt động phạm tội kiên quyết và táo bạo hơn. Trong vụ đồng

phạm, các đối tượng phạm tội dễ che giấu vết tích của tội phạm, trốn tránh sự truy

tìm của các cơ quan điều tra. Những tội phạm nguy hiểm nhất thường được thực

hiện dưới hình thức đồng phạm như: các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội

xâm phạm sở hữu…Đồng phạm có tính nguy hiểm cao hơn cho xã hội nên được

quy định rất kỹ trong phần chung BLHS 1999 (Điều 20, Điều 48 khoản 1 điểm a)

và trong phần các tội phạm, ví dụ: Điều 79 tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền

nhân dân, Điều 82 tội bạo loạn…

1.1.2. Khái niệm các loại người đồng phạm

Nghiên cứu lịch sử khoa học luật hình sự nước ta, có thể thấy khái niệm

người đồng phạm chưa được các nhà làm luật quan tâm, ghi nhận về mặt pháp

lý, mà chỉ đề cập đến từng loại người đồng phạm cụ thể. Như vậy, để có một

15

khái niệm chính xác về người đồng phạm chúng ta phải đi từ khái niệm đồng

phạm là khái niệm cơ bản, từ khái niệm đó, có thể hiểu người đồng phạm là

người cố ý tham gia vào việc thực hiện tội phạm cùng với người khác, người

đồng phạm phải là người thỏa mãn các điều kiện cơ bản của tội phạm, đồng thời

phải cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội với người khác.

Theo quy định pháp luật hình sự và các văn bản pháp luật chính thống hiện

nay, các loại người đồng phạm được phân biệt thành bốn loại người, bao gồm:

người thực hành, người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức. Cơ sở để

phân biệt các loại người đồng phạm là dựa trên vai trò, tính chất, sự tham gia

của họ vào việc thực hiện tội phạm. Trong một vụ đồng phạm, mỗi loại người

đồng phạm khác nhau sẽ tham gia với một vai trò khác nhau, hành vi, tính chất

phạm tội cũng khác nhau, nhưng động cơ, mục đích phạm tội là giống nhau .

Việc phân biệt các loại người đồng phạm có một ý nghĩa rất quan trọng cả về

mặt lý luận và thực tiễn. Phân biệt các loại người đồng phạm giúp các cơ quan

áp dụng pháp luật có được cái nhìn tổng quan, đúng đắn xuyên suốt quá trình

xét xử vụ án có đồng phạm. Theo khoa học Luật hình sự, người thực hành là

người có vai trò quan trọng nhất, vì họ là người thực hiện hành vi nguy hiểm

được mô tả trong cấu thành tội phạm. Người thực hành chính là người hiện thực

hóa ý định phạm tội của cả nhóm đồng phạm. Mức độ thiệt hại của tội phạm do

họ quyết định. Do đó, nhiều quy định xác định TNHS của vụ đồng phạm phụ

thuộc vào hành vi của người thực hành. Tuy nhiên, người thực hành không phải

là người nguy hiểm nhất. Theo quan điểm hiện nay, người tổ chức, người xúi

giục được coi là người nguy hiểm nhất, vì họ là tác giả tinh thần của tội phạm.

Người giúp sức cũng có đóng góp vai trò trong vụ đồng phạm, nhưng mức độ

nguy hiểm không như hành vi của người tổ chức, người xúi giục.

16

1.2. Phân biệt các loại ngƣời đồng phạm với chủ thể của một số tội phạm

Trong Bộ luật hình sự, có những hành vi bị coi là tội phạm, có tính chất

tương đối giống với hành vi của một trong những người đồng phạm như: người

che dấu tội phạm, người không tố giác tội phạm, người hoạt động đắc lực… Do

đó, trên thực tế và lý luận cần phân biệt để đảm bảo sự nhận thức thống nhất.

1.2.1. Phân biệt các loại người đồng phạm với chủ thể trong tội che giấu tội

phạm

Che giấu tội phạm là hành vi của người tuy không hứa hẹn trước, nhưng sau

khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, dấu vết, tang vật của

vụ án hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội.

Người thực hiện hành vi che giấu tội phạm phải chịu TNHS về tội che giấu tội

phạm trong các trường hợp được quy định tại Điều 313 BLHS 1999. Tuy nhiên,

đến BLHS 2015, vấn đề TNHS của người che giấu tội phạm đã có sự thay đổi.

Người che giấu tội phạm sẽ được loại trừ TNHS trong một số trường hợp người

che giấu là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người

phạm tội, trừ trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc

biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của BLHS 2015. Về cơ bản, tội che

giấu tội phạm có các đặc trưng như sau:

a) Chủ thể: chủ thể của tội phạm này tuy không phải là chủ thể đặc biệt,

nhưng không phải ai cũng có thể trở thành chủ thể của tội phạm này, mà chỉ những

người từ đủ 16 tuổi trở lên mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Vì theo quy

định tại khoản 1 và khoản 2 của Điều 313 BLHS 1999 thì không có trường hợp nào

là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Trong khi đó theo quy

định tại Điều 12 BLHS 1999 thì người đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi

chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội

17

phạm đặc biệt nghiêm trọng, còn người đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm

hình sự về mọi tội phạm.

b) Mặt khách quan: hành vi khách quan của tội che giấu tội phạm là hành vi

che giấu tội phạm. Những hành vi này được thực hiện một cách độc lập, sau khi

người khác đã thực hiện tội phạm . Tuy nhiên hành vi che giấu này không phải do

hứa hẹn trước với người thực hiện tội phạm mà chỉ che giấu sau khi biết tội phạm

đã thực hiện. Hành vi che giấu tội phạm có thể được thực hiện dưới một trong các

hình thức sau:

- Che giấu người phạm tội: là biết rõ một người đã thực hiện một tội phạm

nhưng đã chứa chấp, nuôi giấu trong nhà mình, tìm địa điểm cho người phạm tội

ẩn náu để không bị bắt, giúp đỡ người phạm tội bỏ trốn, giúp người phạm tội thay

hình đổi dạng để tránh sự truy tìm, phát hiện của mọi người hoặc có những hành vi

khác che giấu người phạm tội.

- Che giấu các dấu vết của tội phạm: một tội phạm xảy ra bao giờ cũng để lại

các dấu vết, các dấu vết mà tội phạm để lại có ý nghĩa rất quan trọng cho việc

chứng minh tội phạm, từ dấu vết mà cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra thủ phạm.

Thông thường, người thực hiện hành vi phạm tội tự mình xoá các dấu vết, nhưng

cũng nhiều trường hợp người phạm tội do không kịp xoá các dấu vết nên sau khi

phạm tội đã nhờ người khác hoặc tuy không được nhờ nhưng người khác tự mình

xoá các dấu vết của tội phạm nhằm che giấu hành vi phạm tội của người đã thực

hiện tội phạm đó.

- Che giấu tang vật của tội phạm: tang vật của vụ án là công cụ, phương tiện

mà người phạm tội dùng vào việc thực hiện tội phạm. Che giấu tang vật là hành vi

18

cất giấu, huỷ hoại hoặc làm biến dạng công cụ, phương tiện mà người phạm tội

dùng vào việc thực hiện tội phạm.

- Hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội: cản trở

việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội là không muốn cho tội phạm bị phát

hiện, xử lý theo pháp luật. Hành vi cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người

phạm tội rất đa dạng như: lợi dụng chức vụ, quyền hạn từ chối cung cấp các tài

liệu, sổ sách, giấy tờ có liên quan đến tội phạm; từ chối cung cấp địa chỉ, nơi ở của

người phạm tội đang ẩn náu mà mình biết rõ; dùng quyền hành để dụ dỗ, mua

chuộc, cướng ép người khác không khai báo, không cung cấp tài liệu, cho cơ quan

tiến hành tố tụng.

c) Mặt chủ quan : hành vi che giấu tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý.

Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là tạo điều kiện giúp cho người

phạm tội trốn tránh được sự trừng phạt của pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Hậu quả

của hành vi che giấu tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội

phạm này. Tội phạm hoàn thành từ khi người phạm tội đã thực hiện hành vi che

giấu tội phạm, không phụ thuộc vào kết quả của việc che giấu đó có đạt kết quả

hay không.

Ngoài ra, cũng cần phân biệt trường hợp hứa sẽ che giấu hành vi phạm tội

trước khi một người thực hiện hành vi phạm tội nhưng sau khi tội phạm được thực

hiện thì họ không có sự che dấu gì, với trường hợp không hứa hẹn trước nhưng sau

khi biết tội phạm được thực hiện đã có hành vi che giấu người phạm tội. Trong

trường hợp hứa hẹn trước sẽ che giấu tội phạm, người phạm tội bị xử lý hình sự

theo tội danh mà người phạm tội đã thực hiện với vai trò là đồng phạm giúp sức.

19

Ví dụ: Trước khi thực hiện hành vi cướp tài sản, A rủ B cùng tham gia, B đã

hứa hẹn trước là sẽ cất giấu tài sản mà A cướp được. Trong trường hợp này, B sẽ

bị xử lý hình sự về tội cướp tài sản mà A đã thực hiện với tư cách là đồng phạm

giúp sức.

1.2.2. Phân biệt các loại người đồng phạm với chủ thể trong tội không tố

giác tội phạm

Không tố giác tội phạm là khái niệm gần gũi với vụ án đồng phạm, nhưng

không phải là đồng phạm. Đây là tội phạm độc lập, tội này tuy được thực hiện với

hình thức lỗi cố ý nhưng người phạm tội không hứa hẹn trước về việc không tố

giác tội phạm. Hành vi không tố giác tội phạm là hành vi đến sau, khi mà tội phạm

đã được thực hiện xong. Khác với tội che giấu tội phạm, tội không tố giác tội phạm

được thực hiện khi tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã

được thực hiện mà không tố giác. Nếu tội che giấu tội phạm áp dụng khi tội phạm

đã được thực hiện, biết rõ điều ấy mà cố tình che giấu, tội che giấu tội phạm được

thực hiện bằng phương pháp hành động, thì tội không tố giác tội phạm được thực

hiện bằng phương pháp không hành động. Tội không tố giác tội phạm cũng có một

số đặc trưng như sau:

a) Chủ thể: chủ thể của loại tội phạm này cũng không phải là chủ thể đặc

biệt, nhưng chỉ những người từ đủ 16 tuổi trở lên mới có thể là chủ thể của tội

phạm này. Ngoài ra, BLHS 1999 quy định các trường hợp không tố giác tội phạm

phải chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 314 BLHS 1999, loại trừ TNHS trong

trường hợp người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ

hoặc chồng của người phạm, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an

ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Bổ sung trường hợp người không tố

giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội

20

phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt (Khoản 3

Điều 314 BLHS 1999).

b) Mặt khách quan: tội che giấu tội phạm được thực hiện bằng các hành vi:

che giấu người phạm tội, che giấu các dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc hành vi

khác cản trở việc điều tra, xử lý người phạm tội. Những hành vi này được thực

hiện một cách độc lập, sau khi người khác đã thực hiện tội phạm mà không hứa

hẹn trước, vì vậy đây không phải là đồng phạm, mà là tội phạm độc lập. Tội che

giấu tội phạm được thực hiện bằng phương pháp hành động, bằng sự chủ động tích

cực làm những việc mà BLHS sự cấm.

c) Mặt chủ quan: tội che giấu tội phạm được thực hiện do cố ý trực tiếp.

Người che giấu tội phạm biết rõ tội phạm đã được thực hiện, biết rõ che giấu tội

phạm là cản trở hoạt động điều tra, xử lý tội phạm, gây khó khăn cho hoạt động

này, tuy nhiên họ mong muốn che giấu trót lọt tội phạm.

So với BLHS 1999, nội dung quy định về không tố giác tội phạm trong

BLHS 2015 cơ bản vẫn bao gồm nội dung nêu trên. Tuy nhiên, bổ sung thêm

Khoản 3 Điều 19 BLHS 2015 về người bào chữa. Theo đó, người bào chữa không

phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp không tố giác tội phạm do chính

người mình bào chữa đã thực hiện hoặc đã tham gia thực hiện mà người bào chữa

biết được khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa, trừ trường hợp không tố giác các tội

xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại

Điều 389 BLHS 2015.

1.2.3. Phân biệt các loại người đồng phạm với người hoạt động đắc lực trong

một số tội phạm

Khác với khái niệm người thực hành, người tổ chức, người xúi giục, người

giúp sức, khái niệm người hoạt động đắc lực không được ghi nhận một cách cụ

thể, chính thức trong BLHS và cũng không được đề cập, nghiên cứu trong các

21

tài liệu chuyên khảo của luật hình sự. Tuy nhiên, trong một số điều của BLHS

1999, tại phần các tội phạm: Điều 81, Điều 82 quy định về tội xâm phạm an

ninh lãnh thổ, tội bạo loạn...có nhắc đến một loại người là người hoạt động đắc

lực. Vậy khái niệm người hoạt động đắc lực được hiểu như thế nào? Người hoạt

động đắc lực có phải là một trong số các loại người đồng phạm hay không? Vấn

đề này cũng nên được pháp luật hình sự nghiên cứu, quy định một cách đầy đủ.

Theo quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng người hoạt động đắc lực là người

tham gia chủ yếu, tích cực trong suốt quá trình thực hiện tội phạm cùng với

những người đồng phạm khác, là người đóng vai trò quan trọng, có tính quyết

định đối với hành vi phạm tội. Người hoạt động đắc lực có thể là người thực

hành, người tổ chức, người xúi giục hoặc người giúp sức, miễn là trong vụ đồng

phạm họ tham gia với mức độ cao, có một vai trò quan trọng trong vụ án và có

những hành vi làm gia tăng mức độ nguy hiểm của vụ án đó. Nếu việc phân biệt

các loại người đồng phạm thành người thực hành, người tổ chức, người xúi

giục, người giúp sức là dựa trên tính chất, vai trò tham gia của những người

đồng phạm thì người hoạt động đắc lực được phân biệt dựa trên mức độ tham

gia vào việc thực hiện phạm tội của những người đồng phạm. Tất cả các loại

người đồng phạm nêu trên đều có thể trở thành người hoạt động đắc lực nếu

hành vi của họ tham gia với mức độ tích cực.

Ví dụ: A, B, C rủ nhau, cùng bàn bạc đến tiệm vàng Mỹ Hưng để cướp. A là

người chủ mưu, lên kế hoạch thực hiện, đồng thời A đã đi mua dao và sửa soạn

những công cụ cần thiết để thực hiện hành vi phạm tội. Tối ngày 27/7/2015, như

kế hoạch đã được bàn bạc từ trước A, B, C cùng có mặt tại hiện trường để thực

hiện hành vi cướp tài sản tại tiệm vàng Mỹ Hưng. Trong vụ án đồng phạm này,

A được coi là người hoạt động đắc lực.

22

1.3. Pháp luật hình sự của một số nước quy định về các loại người đồng

phạm

1.3.1. Pháp luật hình sự Liên bang Nga

Luật hình sự Liên bang Nga sử dụng một cách linh hoạt lý thuyết mượn tội

phạm tính - xác định TNHS của những người đồng phạm khác thông qua hành

vi phạm tội của người thực hành. Các giai đoạn thực hiện tội phạm của những

người đồng phạm khác được xác định độc lập tương đối, không hoàn toàn thông

qua các giai đoạn, mức độ thực hiện tội phạm của người thực hành. Hành vi xúi

giục chưa đạt, giúp sức và tổ chức chưa đạt được xác định là hành vi chuẩn bị

phạm tội. Hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người tổ chức,

người xúi giục, người giúp sức được công nhận căn cứ vào hành vi tích cực của

họ nhằm khắc phục, vô hiệu hóa kết quả sự hỗ trợ việc phạm tội trước đó của

mình, mà không liên hệ, thông qua hành vi thực hiện tội phạm của người thực

hành.

Điều 35, Bộ luật hình sự Liên bang Nga năm 1998 sửa đổi, bổ sung các năm

1999, 2001,2009,2010 ghi nhận các hình thức đồng phạm sau: (i) Nhóm; (ii) Nhóm

có thỏa thuận trước; (iii) Nhóm có tổ chức và đảng tội phạm. Theo đó, tội phạm

được thực hiện bởi nhóm có tổ chức là nhóm người ổn định, liên kết với nhau từ

trước để thực hiện một hoặc nhiều tội phạm. Khác với nhóm liên kết với nhau theo

thỏa thuận trước, nhóm có tổ chức đòi hỏi phải có dấu hiệu về tính ổn định, bền

vững và sự liên kết với nhau từ trước giữa các thành viên nhằm mục đích thực hiện

tội phạm. Trong điều luật này còn phân biệt hình thức đảng tội phạm. Đây là nhóm

có tổ chức chặt chẽ, bền vững được thành lập nhằm mục đích thực hiện các tội rất

nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng hoặc là liên kết của các nhóm có tổ chức.

Đảng tội phạm là hình thức đồng phạm nguy hiểm nhất trong số các hình thức

đồng phạm có thỏa thuận trước. Tính ổn định của của các thành viên của đảng tội

23

phạm phản ánh sự đồng thuận của các thành viên về thực hiện mục đích tội phạm.

Các tội Tổ chức các nhóm vũ trang bất hợp pháp hoặc tham gia vào các nhóm này

(Điều 208); Tổ chức đảng tội phạm (Điều 210); Bạo loạn (Điều 279) của Bộ luật

Hình sự Liên bang Nga cho phép cơ quan bảo vệ pháp luật có thể ngăn chặn, vô

hiệu hóa tội phạm tổ chức ngay từ giai đoạn thành lập.

Ngoài ra, Bộ luật Hình sự Liên bang Nga còn quy định thực hiện tội phạm

bằng hình thức nhóm có tổ chức hoặc đảng tội phạm phải chịu hình phạt nghiêm

khắc hơn hoặc là tình tiết tăng nặng. Bộ luật Hình sự Nga bổ sung thêm một số tội

phạm mới phù hợp với tình hình như hoạt động ngân hàng, tín dụng trái phép; rửa

tiền; các hành động độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh; cưỡng bức ký kết

hợp đồng hoặc cưỡng bức từ chối ký kết hợp đồng và một số tội danh khác.

1.3.2. Pháp luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức

Cộng hoà Liên bang Đức (CHLB Đức) là một đất nước có truyền thống

pháp luật lục địa lâu đời, thủ tục tố tụng hình sự của họ được xây dựng và áp dụng

trên mô hình tố tụng thẩm vấn, xét hỏi. Trên cơ sở được xây dựng, hình thành từ

những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, qua quá trình dài hoàn thiện, được sửa

đổi, bổ sung nhiều lần, cho đến nay Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) của CHLB

Đức có thể nói là một Bộ luật đồ sộ, công phu gồm 6 phần với khoảng gần 470

điều quy định cụ thể từng hoạt động, thủ tục trong trình tự tố tụng giải quyết vụ án

hình sự của CHLB Đức. Tuy nhiên, luật hình sự Đức cũng không đưa ra định

nghĩa lập pháp về TNHS, không quy định đồng phạm với tư cách là hình thức

thực hiện tội phạm đặc biệt mà quy định trực tiếp những hành vi phạm tội và

gắn với mỗi loại hành vi là một loại người phải chịu TNHS, không quy định

người tổ chức là một loại người tòng phạm mà xác định người tổ chức là người

thực hiện tội phạm (bằng hành vi tổ chức). Luật hình sự thực hiện sự phân hóa

"cứng" TNHS đối với hành vi tòng phạm (xúi giục, giúp sức), theo đó, người

24

xúi giục luôn bị xử phạt như người thực hiện tội phạm, người giúp sức được xử

phạt giảm nhẹ hơn. BLHS không quy định trực tiếp TNHS đối với hành vi tòng

phạm chưa đạt, không truy cứu TNHS hành vi giúp sức chưa đạt, tuy nhiên, đã

quy định trong BLHS vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người

thực hiện và người tòng phạm với tư tưởng lập pháp, khuyến khích sự tự nguyện

của người đã thực hiện tội phạm và không đòi hỏi việc khắc phục được tác dụng

của hành vi mới coi là đủ điều kiện để được miễn TNHS.

1.3.3. Pháp luật hình sự Hoa Kỳ

Nhìn chung, hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ được hình thành và phát triển trên

những nền tảng của hệ thống pháp luật Ănglô - xắcxông và đặc biệt chịu ảnh

hưởng mạnh mẽ của pháp luật chung nước Anh. Hệ thống pháp luật hình sự Hoa

Kỳ rất đa dạng, phức tạp. Nguồn của pháp luật hình sự liên bang là Hiến pháp năm

1787, các văn bản luật (do Quốc hội ban hành) và các văn bản dưới luật của liên

bang (do Tổng thống, các bộ và các cơ quan của Chính phủ ban hành); còn các

nguồn của pháp luật hình sự các bang là các Hiến pháp, các đạo luật hình sự (chủ

yếu là các Bộ luật Hình sự) và các văn bản dưới luật của các bang có chứa đựng

một số quy định có tính chất pháp lý hình sự. Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 hiện

hành là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất vì tính tối thượng của nó trên toàn bộ

lãnh thổ đất nước.

Bộ luật Hình sự mẫu năm 1962 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (do Viện

nghiên cứu pháp luật Mỹ soạn thảo) mặc dù không có tính chất bắt buộc chính thức

nhưng đã đóng vai trò quyết định với tính chất là mô hình pháp lý trong việc cải

cách pháp luật hình sự của các bang. Các kết quả của Bộ luật này thể hiện kinh

nghiệm phát triển của pháp luật hình sự Mỹ và trình độ cao về kỹ thuật lập pháp,

đồng thời ghi nhận các chế định quan trọng của pháp luật hình sự - những giá trị

tinh thần - pháp lý được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại. Bộ Tổng

25

luật Hoa Kỳ không có quy định phân biệt rõ nét hành vi bị coi là đồng phạm với

các hành vi liên quan đến tội phạm mà không phải là đồng phạm. Tuy nhiên, đã

phân biệt đồng phạm sau khi tội phạm được thực hiện và các trường hợp đồng

phạm (giúp sức) trước và trong quá trình thực hiện tội phạm. Bộ Tổng luật

không phân biệt mức độ TNHS đối với mỗi người đồng phạm, mà quy định việc

trừng phạt ngang nhau đối với tất cả các loại người đồng phạm. Đây là nét

tương đồng của Bộ luật này với cách tiếp cận của pháp luật hình sự Cộng hòa

liên bang Đức và hệ thống luật trong phân loại người đồng phạm. BLHS mẫu

cũng chưa đưa ra một sự phân biệt rõ ràng về hình phạt giữa những người đồng

phạm.

1.3.4. Pháp luật hình sự quốc tế

Quy chế Rome có quy định về TNHS trong trường hợp tội phạm do người tổ

chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức thực hiện tội phạm.

Không có quy định nào nhằm phân biệt rõ ràng trách nhiệm giữa chính phạm và

tòng phạm. Những người đồng phạm chỉ phải chịu trách nhiệm khi có sự đóng

góp một cách đáng kể vào việc thực hiện tội phạm chung. Quy chế quy định

trách nhiệm của người phạm tội nói chung và các loại người đồng phạm nói

riêng trong trường hợp thực hiện tội phạm chưa đạt. Quy định trong trường hợp

từ bỏ việc thực hiện tội phạm hoặc có hành vi ngăn chặn việc hoàn thành tội

phạm sẽ không phải chịu hình phạt về hành vi phạm tội chưa hoàn thành, nếu

người đó tự nguyện từ bỏ hoàn toàn mục đích phạm tội. Công ước của Liên hợp

quốc về chống tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia đưa ra khái niệm tội phạm

có tổ chức, xuyên quốc gia. Quy định về các loại người trong nhóm tội phạm có

tổ chức. Trách nhiệm pháp lý của nhóm người chịu trách nhiệm pháp lý thì mỗi

quốc gia sẽ lựa chọn. Công ước chỉ đề ra các nguyên tắc chung xác định TNHS

của các loại người trong tội phạm có tổ chức.

26

Pháp luật hình sự của các nước xã hội chủ nghĩa (trước đây) nói chung

chịu ảnh hưởng của pháp luật Liên Xô (cũ). Chế định đồng phạm, khái niệm

đồng phạm được quy định tương tự như trong pháp luật hình sự của Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Xô Viết Liên Bang Nga:“ Sự cố ý cùng tham gia thực hiện một

tội phạm của hai hay nhiều người là đồng phạm”. Bộ luật hình sự Cộng hòa

nhân dân Mông Cổ cũng quy định tương tự như vậy. Riêng Bộ luật hình sự năm

1979 cũng như Bộ luật hình sự (sửa đổi) năm 1997 của Cộng hòa nhân dân

Trung Hoa còn quy định thêm:“Hai hoặc nhiều người vô ý thực hiện một tội

phạm thì không phải là đồng phạm”. Tuy nhiên, trong khoa học luật hình sự,

một số nhà hình sự học Liên Xô (cũ) không hoàn toàn thừa nhận quan điểm nêu

trên. Họ cho rằng đồng phạm không những xảy ra trong trường hợp phạm tội

với lỗi cố ý mà còn có thể xảy ra trong trường hợp với lỗi vô ý. Bộ luật Hình sự

Vương quốc Thụy Điển thừa nhận cả hình thức lỗi vô ý và cố ý trong đồng

phạm, họ quy định: “khi xét xử từng người đồng phạm phải căn cứ vào việc

người đó tham gia thực hiện với lỗi cố ý hay vô ý”. Luật hình sự của các nước

tư bản khác tuy không có quy phạm định nghĩa về đồng phạm nhưng khoa học

luật hình sự và thực tiễn xét xử các nước đó vẫn thừa nhận có lỗi vô ý trong

đồng phạm. Giáo sư người Pháp đã đưa ra định nghĩa của khái niệm đồng phạm:

“ Đồng phạm là trường hợp người chính phạm thực hiện hành vi phạm tội một

mình hoặc cùng với những người chính phạm khác do bị xúi giục, giúp sức của

người đồng phạm khác.” Khái niệm này xuất phát từ quan điểm quy tội khách

quan, tức là xác định đồng phạm chỉ căn cứ vào biểu hiện bên ngoài, phản ánh

dấu hiệu khách quan mà không cần xem xét đến lỗi của những người đó. Theo

quan điểm này thì có cả vô ý xúi giục, vô ý giúp sức, vô ý thực hiện hành vi

phạm tội. Thực tiễn xét xử của Cộng hòa Pháp cũng đã thừa nhận có đồng phạm

đối với các tội vô ý.

27

Đối với nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về hành vi tham gia thực hiện

tội phạm trong đồng phạm, pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới cũng

không quy định nội dung nguyên tắc này một cách cụ thể. Bộ luật Hình sự

Vương quốc Nhật Bản thể hiện rõ quan điểm những tình tiết tăng nặng, giảm

nhẹ hoặc miễn trách nhiệm hình sự thuộc về riêng người đồng phạm nào thì chỉ

được áp dụng đối với chính người đó: “Khi mức nặng, nhẹ của hình phạt rất

khác nhau tùy thuộc vào việc người phạm tội có chức vụ hay không thì hình

phạt bình thường được áp dụng đến với người không có chức vụ” (Tòa án nhân

dân tối cao, Hệ thống hóa luật lệ về hình sự tập II 1975-1978, tr 104). Bộ luật

Hình sự Vương quốc Thụy Điển cũng thể hiện quan điểm tương tự khi quy định:

“Người nào trở thành đồng phạm một tội phạm do bị cưỡng ép, lừa dối hoặc

lạm dụng tuổi trẻ, thiếu hiểu biết hoặc tình trạng bị lệ thuộc hoặc người đó

tham gia phạm tội ở mức độ nhỏ thì bị xử phạt nhẹ hơn so với hình phạt quy

định đối với tội danh đó” (Hội đồng Nhà nước về phòng ngừa tội phạm, Bộ tư

pháp, Bộ luật Hình sự của Thụy Điển, tr84).

Tóm lại, có thể thấy đồng phạm là một chế định rất quan trọng của luật hình

sự. Ở các nước khác nhau thì vấn đề đồng phạm được quy định không giống

nhau, pháp luật hình sự ở mỗi quốc gia đã xây dựng cho mình các quy phạm

pháp luật về đồng phạm sao cho phù hợp nhất với đặc điểm tội phạm của từng

nước. Việc nghiên cứu chế định đồng phạm trong pháp luật của một số nước

trên thế giới sẽ giúp chúng ta có những bài học cho bản thân để xây dựng một

mô hình pháp luật hình sự đầy đủ và toàn diện hơn về các loại người đồng

phạm.

83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật hình sự của nước cộng hòa XHCN Việt Nam (1985), (1999) và

(2015).

2. Báo cáo công tác xét xử của TAND Thành phố Hải Phòng, VKSND Thành

phố Hải Phòng các năm (2011), (2012), (2013), (2014), (2015).

3. Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng (1990),Tòa án nhân dân tối cao,

Hà Nội.

4. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, phần chung của Khoa Luật trực thuộc Đại

học Quốc gia Hà Nội, tập thể tác giả do GS. TSKH. Lê Cảm chủ biên, NXB Đại

học Quốc gia Hà Nội, (2003).

5. Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập I trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb

Công an nhân dân (2010) và (2014).

6. Luật hình sự Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn , tài liệu tham

khảo chuyên ngành Luật hình sự dành cho Nghiên cứu sinh và học viên Cao học

Luật (1997), Nxb Công an nhân dân Hà Nội.

7. Sổ chuyên đề, Luật hình sự của một số nước trên thế giới (1998), Bộ Tư

pháp, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Hà Nôi

8. Lê Cảm, Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng

Nhà nước pháp quyền (một số vấn đề cơ bản của Phần chung) (1999), Nxb

Công an nhân dân, Hà Nôi.

9. Lê Cảm, “ Về chế định đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam- một số lý

luận và thực tiễn”, Tập san Tòa án nhân dân, số 2/1988, Hà Nội, (1988), tr 20-

23.

10. Đặng Văn Doãn, Vấn đề đồng phạm (1986), Nxb Pháp lý Hà Nội.

11. Lê Xuân Lục, “ Hoàn thiện chế định đồng phạm trong Bộ luật Hình sự

Việt Nam hiện hành”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2/2015, Hà Nội.

84

12. Lê Thị Sơn, “ Khái niệm người thực hiện tội phạm và khái niệm người

đồng phạm”, Tạp chí Luật học số 1/1995, Trường đại học Luật Hà Nội, (1995),

tr 16-19.

13. Lê Thị Sơn, “ Về các giai đoạn thực hiện hành vi đồng phạm”, Tạp chí

Luật học, số 3/1998, Trường Đại học Luật Hà Nội, (1998), tr 29-34

14. Trần Quang Tiệp, “ Chế định đồng phạm trong pháp luật hình sự một số

nước trên thế giới”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 11/1997, (1997), Viện

Khoa học Công an Hà Nội, tr 40- 42.

15. Trần Quang Tiệp, Đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam, luận án tiến

sỹ luật học (2000), Trường Đại học Luật Hà Nội.

16. Nguyễn Thị Hải Yến, Đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam, luận văn

thạc sỹ (1997), Trường đại học Luật Hà Nội.