61
1 HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM LỚP BỒI DƯỠNG TRIẾT HỌC NIÊN KHÓA 2015 – 2017 LUẬN VĂN CUỐI KHÓA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU CON NGƯỜI DƯỚI GÓC NHÌN CỦA SOCRATES VÀ PLATON GIÁO SƯ HƯỚNG DẪN LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH SINH VIÊN THỰC HIỆN M. MAURO BÙI ĐỨC TRIỀU ĐAN VIỆN THÁNH MẪU AN PHƯỚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Tháng 05 / 2017

LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

  • Upload
    others

  • View
    14

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

1

HỘI DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM

LỚP BỒI DƯỠNG TRIẾT HỌC NIÊN KHÓA 2015 – 2017

LUẬN VĂN CUỐI KHÓA

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

CON NGƯỜI DƯỚI GÓC NHÌN CỦA SOCRATES VÀ PLATON

GIÁO SƯ HƯỚNG DẪN

LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH

SINH VIÊN THỰC HIỆN

M. MAURO BÙI ĐỨC TRIỀU

ĐAN VIỆN THÁNH MẪU AN PHƯỚC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Tháng 05 / 2017

Page 2: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

2

Page 3: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

3

LỜI TRI ÂN

“Chim trời ai dễ đếm lông,

Nuôi con ai dễ kể công tháng ngày”.

Chân lý trong câu ca dao thật là thực tế và hiện nhiên, không ai có thể đếm nổi lông chim cũng như không ai kể kết công lao dưỡng dục của mẹ cha. Những ai muốn có kiến thức thì cần có một người thầy, không ai tự nhiên mà có kiến thức nếu không qua sự hướng dẫn của người khác.

Trong tinh thần “tôn sư trọng đạo”. Thân là môn sinh của Học Viện Hội Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam. Con xin chân thành nói lên lời tri ân:

Trước tiên, con xin tri ân đến cha mẹ, các anh chị em đã nâng đỡ động viên con, đặc biệt luôn hiện diện và đồng hành với con trong lời cầu nguyện.

Tiếp đến, con xin tri ân tới Cha Viện Trưởng, Quý Cha Và Quý Thầy Trong Đan Viện Xitô Thánh Mẫu An Phước đã nâng đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho con ăn học.

Con xin tri ân Cha Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh đã tận tình nâng đỡ và hướng dẫn, động viên và khích lệ con trong những năm qua, và nhất là luôn đồng hành hỗ trợ cho con khi con gặp khó khăn trong quá trình nguyên cứu để hoàn thành bài luận văn này.

Bên cạnh đó, con cũng xin tri ân tới quý Viện Phụ, quý Cha và quý Thầy Giáo Sư đã tận tình truyền dạy những kiến thức và những kinh nghiệm sống cho con trong những năm học qua.

Sau cùng, trong tinh thần hiệp thông huynh đệ, em cũng xin cám ơn quý Anh Em đồng môn đã đồng hành cùng em trong suốt khóa học này. Nhất là các anh đã tận tình chia sẽ, góp ý và cộng tác với em trong quá trình hoàn thành bài tiểu luận.

Nguyện xin Thiên Chúa là Cha của lòng thương xót ban cho quý Viện Phụ, ban Giám Đốc, quý Cha, quý Thầy Giáo Sư và hết thảy mọi người ân sủng và bình an trong Chúa Giêsu Kitô

Con xin chân thành tri ân.

Con: M. Mauro Bùi Đức Triều

Page 4: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

4

Nhận xét của giáo sư hướng dẫn

Đề tài: “Con người dưới góc nhìn của Socrates và Platon”.

Đề tài luận văn sinh viên chọn để nghiên cứu viên khá rõ ràng. Qua đó cũng

xác định giới hạn của đề tài chỉ dừng lại nơi hai triết gia cổ đại là Socrates và Platon.

Mặc dù đây là một đề tài xưa như trái đất, vì trình bày về tư tưởng của hai triết gia cổ,

nhưng nội dung thì vẫn mới. Bởi vì con người luôn là một huyền nhiệm dang dở.

Về hình thức, luận văn này đã đáp ứng được những yêu cầu của phương pháp

nghiên cứu và biên soạn. Các nguồn tài liệu sinh viên trích dẫn cũng khá dồi dào và

phong phú.

Về nội dung, luận văn của sinh viên được trình bày qua ba phần chính liên kết

chặt chẽ với nhau. Hai phần đầu trình bày về con người theo quan niệm của hai triết

gia cổ đại là Socrates và Platon. Phần thứ ba sinh viên đưa ra những nhận định nối kết

giữa hai triết gia này qua những điểm tương đồng và dị biệt nhau. Qua đó cho độc giả

có được một cái nhìn khái quát về huyền nhiệm con người, đặc biệt là tư tưởng cổ đại

về con người như thế nào.

Nhìn chung, sinh viên đã hoàn thành luận văn của mình một cách tốt đẹp.

Chắc chắn rằng, sau khi hoàn thành công trình nghiên cứu này, sinh viên có được tầm

nhìn sâu xa hơn về chính mình và về huyền nhiệm con người. Đồng thời cũng giúp

cho những ai đọc qua luận văn này được hiểu biết thêm về thân phận người.

Điểm : Thành Phố Hồ Chí Minh

Ngày 20 tháng 05 năm 1917

Lm. M. Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh

Page 5: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

5

MỤC LỤC DẪN NHẬP……………………………………………………………………….…07

PHẦN I. CON NGƯỜI THEO CÁI NHÌN CỦA SOCRATE ................................ 09

I. Đôi Nét Về Cuộc Đời Và Tư Tưởng Triết Học…………………………………09 1. Đôi nét về cuộc đời ....................................................................................... 09 2. Tư tưởng triết học ......................................................................................... 12

II. Con Người Theo Cái Nhìn Của Socrate…………………………………….......14 1. Con người gắn liền với tri thức và đức hạnh ................................................ 15 1.1. Tri thức theo quan điểm của Socrates ...................................................... 15 1.2. Đức hạnh theo quan điểm của Socrates ................................................... 18 2. Tri thức và đức hạnh giúp con người nhìn ra với thế giới ............................ 19

III. Con Người Chỉ Đạt Được Chân Lý Khi Biết Mình……………………………..21 1. Đâu là những điểm nổi bật giúp con người đạt tới chân lý .......................... 22 2. Luân lý và thần linh theo Socrates ................................................................ 24

PHẦN II . CON NGƯỜI THEO CÁI NHÌN CỦA PLATON ............................................ 28

I. Đôi Nét Về Cuộc Đời Và Tư Tưởng……………………………………………28 1. Đôi nét về cuộc đời ........................................................................................ 28 2. Thế giới ý niệm .............................................................................................. 30

II. Con Người Theo Cái Nhìn Của Platon………………………………………….34 1. Thân Xác Con Người ..................................................................................... 34

1.1. Thân xác là tù ngục của linh hồn ............................................................ 34 1.2. Vượt ra khỏi chính mình để vươn lên tới Đấng Siêu Việt ...................... 37

2. Linh Hồn Con Người ...................................................................................... 39 2.1. Mối tương quan giữa thân xác và linh hồn ............................................. 39 2.2. Linh hồn con người mang tính bất tử ...................................................... 41

PHẦN III. ĐÁNH GIÁ & NHẬN ĐỊNH ................................................................. 43

I. Những Điểm Tương Đồng Và Dị Biệt Của Hai Triết Gia………………………43 1. Những điểm tương đồng ................................................................................ 43 2. Những điểm dị biệt ......................................................................................... 46

II. Một Vài Nhận Định Cái Nhìn Về Con Người Trong Đời Sống Hôm Nay……..50 1. Biết mình coi như là đích điểm ...................................................................... 50 2. Nhìn vào chính mình để vương ra với thế giới .............................................. 52

Page 6: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

6

3. Là một tu sĩ, đan sĩ cần có những áp dụng thực hành bằng cách “hiểu mình” như thế nào trong cuộc sống hôm nay ........................................................... 54

KẾT LUẬN ................................................................................................................. 56 SÁCH THAM KHẢO ................................................................................................. 59

Page 7: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

7

DẪN NHẬP

Trong cuộc sống, con người luôn tìm và hướng về Chân - Thiện - Mỹ, đó là đích

điểm cho một cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu mà mỗi người luôn khát khao. Khi nói đến

triết học là cần nghĩ ngay tới những bầu trời chung của mọi nền khoa học. Trong bầu trời

rộng lớn đó đã làm lóe lên rất nhiều ngôi sao lấp lánh nối tiếp nhau tìm về nguồn chân lý

vĩnh cửu, tìm về với cội nguồn, tìm về một thế giới cao đẹp và đầy huyền bí. Trong bầu

trời đầy sao, có một trong những vì sao luôn lấp lánh đang dọi chiếu cho các thế hệ mai

sau nhìn nhận giá trị của một con người. Đó là triết gia Hy-Lạp Socrates. Có thể nói ông

là khúc nhạc dạo đầu cho một bản giao hưởng, hợp xướng cho một nền triết học Tây

Phương. Để nối tiếp bản hòa tấu đó, giữa một bầu trời đầy sao tỏa sáng không thể thiếu

một đệ tử xuất sắc như Platon và còn nhiều triết gia khác nữa, nhưng qua đề tài người

viết chỉ muốn nêu lên hai triết gia Socrates và Platon hay có thể gọi là hai thầy trò cùng

đi và nhìn về một hướng, cùng hội ngộ chung những điểm tương đồng và cùng một mục

đích, hai thầy trò đó đang trò chuyện hàn huyên với nhau làm cho hệ thống triết lý Tây

Phương luôn tỏa sáng để phần nào hiểu biết một chút về thân phận con người.

Có thể nói: “Triết học là môn học về con người và đời người”1. Khi đã đề cập tới

con người và đời người là nói đến chỗ đứng, địa vị của con người trong vũ trụ này.

Theo quy luật phát triển thì cái đến sau sẽ là sự bổ túc giúp cái trước hoàn thiện hơn.

Con người cũng vậy, các bậc cha ông đi trước nhằm nêu gương cho con cháu mình ý

thức rằng gieo quả nào thì sẽ gặt được quả đó. Nhưng thực tế mà nói, dù mỗi thời đã có

ai dám nhận rằng tôi đã hiểu biết bản thân mình, và tôi có thể biết về người khác hay

dám khẳng định là biết mọi lẽ khôn ngoan trong vũ trụ bao la này. Nếu có ai cho rằng

mình đã thụ đắc được tất cả chân lý thì đó chỉ là ảo tưởng. Chỉ có “Niềm tin giúp con

người tìm kiếm sự hiểu biết một cách nào đó mà thôi”2.

Con người trong quá trình tìm kiếm đó, mỗi người tự truy tìm cho mình một

hướng đi sao cho thích hợp với thực tại của chính mình để có thể đạt đến đích cuối cùng

cho một cuộc sống Vĩnh Cửu. Tuy nhiên, bao lâu vẫn là con người thì chưa thể hiểu

1https://vi.wikipedia.org/wiki/Triết_học 2 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Phần Dẫn Nhập Thông Điệp, Đức Tin Và lý Trí.

Page 8: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

8

mình và không thể biết chính bản ngã của mình, khi đó vẫn chưa thể vươn đến sự Thiện

Tuyệt Đối và chưa có cuộc sống hạnh phúc đích thực được.

Con người sống trong thế kỷ XXI, với nền khoa học kỷ thuật phát triển tột bật chỉ

cần ngủ một đêm sáng thức dậy đã có những phát minh mới. Do đó, đời sống con người

được bảo đảm hơn. Tuy nhiên, với sự tham lam muốn thống trị nhau mà đã có những phát

minh mới muốn hủy diệt nòi giống trên địa cầu này bằng những vũ khí hóa học tối tân để

chứng tỏ sức mạnh nơi mình. Vậy từ cái nhìn triết học, với cương vị một “triết sinh”, người

viết muốn đi tìm kiếm sự Thiện ấy qua đề tài: “Con Người Dưới Góc Nhìn Của Triết Gia

Socrates & Platon”. Qua đề tài này, người viết muốn tìm hiểu sâu hơn về huyền nhiệm con

người.

Nhìn vào thực trạng xã hội hôm nay đáng báo động về sự tục hóa, coi mình là cái

rốn của vũ trụ để coi khinh người khác. Qua nghiên cứu này, người viết muốn nhắc nhở

chính mình hãy tự biết mình, biết mình thật mỏng giòn bé nhẻ, tri thức nhân loại thì bao la

mà sức thụ hưởng của con người thì có giới hạn, cần khiêm tốn nhìn nhận và tìm tòi thêm.

Với tư cách là một tu sĩ sống trong môi trường đan viện, với linh đạo “ORA ET

LABORA”, chắc chắc tương lai sẽ không đi phục vụ bên ngoài mà chỉ gắn bó với nơi

mình sống để cảm nghiệm một tình yêu nhưng không mà khó có thể dùng ngôn ngữ để

diễn tả. Nhưng muốn cảm nghiệm thì trước hết hãy tự biết mình. Vậy biết mình như thế

nào? Đó là thao thức làm động lực giúp người viết tìm hiểu đề tài này với hy vọng đời

sống mình được cải thiện.

Trở lại với đề tài: “Con Người Dưới Góc Nhìn Của Triết Gia Socrates &

Platon”. Chúng ta biết rằng Socrates không để lại tác phẩm triết học nào. Những gì

chúng ta biết là qua những tác phẩm của người học trò Platon và một số môn đồ khác

viết lại, còn với triết gia Platon thì có một số tác phẩm mà chính ông để lại hay một số

triết gia khác viết về ông. Chính vì vậy, muốn hiểu được phần nào về hai thầy trò

Socrates và Platon thì dùng phương pháp so sánh và tổng hợp cùng thu thập những

nguồn tư liệu khác để hiểu hơn về tư tưởng của hai triết gia cổ đại bằng ngôn từ của

ngày hôm nay.

Như vậy, bài viết này sẽ được trình bày theo phương pháp so sánh và tổng hợp.

Ngoài việc sử dụng hai phương pháp này, người viết còn sử dụng những suy tư và cảm

Page 9: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

9

nghiệm cá nhân với mong muốn hiểu rõ hơn về chính bản thân mình để vươn tới một

Đấng Siêu Việt mà ai ai cũng đang khắc khoải kiếm tìm.

Đề tài này xem ra không gì mới mẽ nhưng lại là một đề tài khá rộng và chuyên

sâu. Chính vì thế trong cái nhìn hạn hẹp của một triết sinh non kém, người viết cũng chỉ

mong nói lên quan niệm của mình về con người trên chặng đường tìm kiếm Chân -

Thiện - Mỹ theo cái nhìn của hai triết gia thời cổ như Socrates và Platon.

Trong chiều hướng ấy, người viết sơ lược qua phần nội dung cụ thể như sau:

Phần I: Trình bày đôi nét về tiểu sử và tư tưởng của triết gia Socrates để thấy và

cảm nhận rõ hơn về cuộc sống sinh thời, những hoàn cảnh sống, ảnh hưởng của xã hội

trên các triết gia và nội dung triết lý của chính triết gia, nhờ đó phần nào hiểu rõ hơn con

người của triết gia thời đó và đối chiếu với con người hôm nay. Đặc biệt người viết

muốn đi sâu hơn vào triết thuyết và phương thế của triết gia nhằm giải thích vấn đề mà

đề tài đã đưa ra. Với chương này người viết muốn đi từ những cấp độ tri thức và đức

hạnh để dần dần tới với một mức độ hiểu biết về thần linh qua con đường chân lý.

Phần II: Tìm hiểu sơ lược đôi nét về tiểu sử và tư tưởng của triết gia Platon nhằm

hiểu rõ hơn về mối liên quan giữa thân xác và linh hồn.

Phần III: Đánh giá cái nhìn chung về con người giữa hai triết gia.

Chương này người viết muốn so sánh những điểm tương đồng và dị biệt giữa hai

triết gia như thế nào? Đồng thời nêu lên việc áp dụng cách sống của triết gia cho con

người trong đời sống hôm nay, đặc biệt trong đời sống đan tu.

Với sự hạn hẹp của tri thức và lòng khao khát Chân-Thiện-Mỹ người viết chỉ

muốn đưa ra những ý kiến cá nhân hạn hẹp để học hỏi thêm, cách riêng với sự giúp đỡ

và hướng dẫn của các Giáo Sư, đặc biệt là Cha Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh

giúp con trực tiếp hoàn thành đề tài này.

Với lý do chọn đề tài, phương pháp nghiên cứu và nội dung bài viết được giới hạn

trên đây, người viết sẽ giới hạn đề tài vào việc triển khai vấn đề hãy tự biết mình để

sống mối tương quan với linh hồn và thân xác giữa hai triết gia Socrates và Platon, chứ

không tham vọng đi sâu vào nghiên cứu tư tưởng của các triết gia để nói về đề tài này.

Page 10: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

10

Đề tài không phải là khám phá mới, bởi đã có nhiều bậc thầy nghiên cứu và suy tư

trước rồi. Tuy nhiên, người viết vẫn muốn chọn đề tài này để tìm hiểu, khám phá nhằm giải

đáp những thắc mắc, ưu tư của bản thân. Tuy vậy, với một trở ngại khá quan trọng là giới

hạn về khả năng ngôn ngữ và thiếu nguồn tài liệu để nghiên cứu sâu rộng nên người viết

không thể sử dụng bản văn gốc, mà chỉ có thể tìm hiểu qua các bậc thầy, các dịch giả để làm

tài liệu tham khảo và nghiên cứu cho đề tài. Với những giới hạn đó, người viết chỉ nhằm là

trình bày đề tài tiểu luận một cách ngắn gọn trong quá trình nghiên cứu. Dù rằng một chút

cố gắng của người viết chỉ là như một hạt cát nhỏ bé giữa một sa mạc tri thức mênh mông.

Page 11: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

11

PHẦN I

CON NGƯỜI THEO CÁI NHÌN CỦA SOCRATES

I Đôi Nét Về Cuộc Đời Và Tư Tưởng Triết Học

1. Đôi nét về cuộc đời

Con người sinh ra và lớn lên đều phải có một nguồn gốc. Chính vì thế mỗi người

đều có những giai đoạn phát triển riêng cho bản thân mình, mỗi giai đoạn đó có thể coi là

những huyền thoại cho cuộc đời, sống thế nào thì huyền thoại sẽ theo mãi cho tới các thế

hệ mai sau. Vì vậy triết gia Socrates là một người mẫu điển hình. Như đã biết tìm hiểu về

triết gia này rất khó vì ông không để lại hay lưu lại sách vở gì cho thế hệ mai sau được rõ,

nhưng cuộc đời của ông được biết tới nhờ ba người đương thời với ông. Đó là Aristote,

Xenophane, đặc biệt là Platon một học trò ưu tú đã kể lại cuộc đời người thầy kính yêu

của mình.

Socrates sinh vào khoảng năm 470 trước công nguyên, ở ngoại ô thành Athèns.

Thân phụ là Sophronisque làm nghề điêu khắc, thân mẫu là bàPhénarete làm nghề sản

phụ. Socrates có vợ và ba người con. Ông sống nghèo, thanh bạch, rất giản dị, không

ham mê chức quyền lợi lộc.

Socrates có một khuôn mặt xấu xí, đầu hói, trán nhô, mũi tẹt, thân hình lại nhỏ,

bụng thì to. Đây là điều làm cho người dân Athèns luôn thắc mắc tại sao một con người

xấu xí về bề ngoài như ông lại có một tâm hồn cao thượng đến thế? Vì theo quan điểm

Hy-Lạp thời đó nét đẹp bên ngoài là những yếu tố bộc lộ cái đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn.

Do đó Việt Nam ta có câu truyền cho nhau rằng: “Nhân hiền tại mạo, có trắng gạo thì

mới ngon cơm”.Ở điểm này Socrates đã không bằng học trò của mình là Platon, vì ông

này cao lớn, và thân hình lý tưởng. Quả thực điều này làm cho chúng ta phần nào phải

suy nghĩ, chỉ mình Thượng Đế mới hiểu rõ được mỗi người mà thôi. Tuy vậy, ông sống

rất khiêm tốn nhưng lại rất độc lập về tinh thần. Lối sống của ông còn biểu lộ cho thấy

một thái độ can trường và tiết độ phi thường. Một cuộc đời không dành riêng cho mình

Page 12: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

12

mà cho người khác, ông luôn đàm đạo với bất cứ ai, không phân biệt tầng lớp, giai cấp,

màu da3…

Trong Kinh Thánh Cựu Ước, ngôn sứ Hôsê không may cưới phải người vợ bất

trung. Socrates cũng lấy vợ nhưng bà rất khó tính, nổi tiếng là gắt gỏng nhưng ông vẫn

kiên nhẫn chịu đựng và trung thành với vợ. Ông còn lạc quan nói rằng: “Nếu lấy vợ hiền

thì hạnh phúc, còn lấy phải vợ khó tính thì dễ trở thành triết gia4”. Điều đó mà đã ứng

nghiệm cho chính bản thân ông.

Vào thời của Socrates chiến tranh loạn lạc xảy ra triền miên giữa các thành phố,

các phe phái cụ thể là: giữa nhóm ngụy biện và nhóm hoài nghi đã gây ra không ít hoang

mang cho những hàng ngũ tri thức. Đứng trước tình thế đó, Socrates không thể nhắm

mắt làm ngơ được, lúc ấy dù chỉ mới 40 tuổi, ông đã cương quyết đứng lên muốn cải tạo

xã hội về mặt luân lý và đạo đức. Lối giáo dục của ông thật khác với thời nay nhưng lại

giống với các nhà truyền giáo thời Trung Cổ, làdạy học không có trường lớp,đi khắp nơi

chiêu mộ môn sinh và dạy học không công. Trường lớp của ông là đường phố, hội

đường, sân vận động, xó chợ… Hằng ngày ông ra những nơi công cộng gặp ai cũng bắt

chuyện, đặt vấn đề, suy tư thắc mắc giúp họ nhận ra đâu là chân lý và lẽ sống. Ông mạnh

dạn đương đầu với đối phương không chút sợ hãi và dồn đối phương vào chân tường để

họ phải chấp nhận những sự sai lạc của mình mà tìm về với chính mình5. Tuy thân hình

ông không được đẹp như bao người khác, thay vào đó ông lại có một sức hút lạ kỳ làm

cho giới thanh niên thời đó luôn chú ý và mến phục ông. Bên cạnh những đức tính tốt

ông còn có một đời sống tôn giáo gương mẫu, luôn giữ những tục lệ trong dân, dâng

cúng thần thánh, tôn thờ tổ tiên…

Có lẽ vì hoàn cảnh xảy ra không bình thường tại thành phố Athèns, cộng với

những thay đổi quá lớn làm cho bao người, nhất là nhóm ngụy biện phải bẽ mặt. Cũng

như các thánh tử đạo Kitô Giáo ngày xưa, ông đã bị nhiều người ghét bỏ,tố cáo về ba tội

danh: (1) không tin tưởng vào tôn giáo của thành phố. (2) tuyên truyền việc sùng bái

những vị thần mới (3) làm hư hỏng thanh thiếu niên.

3 X. Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Tập 1, 1995, tr 142. 4https://quantrimang.com › Cuộc sống › Kỹ năng sống ( lấy ngày 15-06-2016) 5 X. Vp Dominico Phạm Văn Hiền, Triết Sử Tây Phương, Cour Học 2016, tr. 8.

Page 13: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

13

Với những tội danh này ông đã bị kết án tử hình là phải uống thuốc độc. Bạn bè của

ông tìm nhiều cách để ông có thể trốn thoát và ông có thể cứu được chính mình nhưng ông

một mực từ chối, vì không muốn làm gương mù gương xấu cho người khác. Ông muốn

chứng tỏ lời dạy của ông đi đôi với hành động. Thế là ông phải uống thuốc độc và chết năm

399. Lúc Socrates được 70 tuổiông đã lưu danh cho hậu thế tưởng nhớqua ngòi bút của

người học trò của ông là Platon đã viết lại. Có lẽ Socrates đã trở thành người bất tử, vì một

cuộc đời của ông phải đánh đổi cả mạng sống để minh chứng về triết lý vànhững điều

mìnhdạy dỗ6.

2. Tư tưởng triết học

Như đã biết Socrates là một triết gia bậc nhất của Hy-Lạp, cũng là triết gia bậc

nhất của nền triết học Tây Phương.Khác với những nhà vũ trụ luận, Andre Cresson đã

nói lên lập trường của Socrates khi tố cáo những khuyết điểm của các nhà triết học siêu

hình như sau: “Công việc ấy không thể làm được với các tài liệu nhân loại mà có, công

việc ấy làm thì vô ích và không mang lại một tiêu chuẩn hướng dẫn nào cho sinh hoạt

đạo đức, là công việc duy nhất có quan trọng hay không7”. Vậy dựa vào đâu mà có

khẳng định như thế? Thiết nghĩ vì ông cũng là một nhà cách mạng đã đứng lên làm đảo

lộn hoàn toàn triết học cổ Hy-Lạp đi trước chuyển sang một giai đoạn triết học mới là

nghiên cứu về con người, vì đối với ông con người là đối tượng đáng được để ý và quan

tâm hơn cả.

Vậy vì sao hay vì lý do gì mà Socrates lại làm cuộc cách mạng để chuyển đổi nền

triết học có trước sang một nền triết học mới và hiện đại? Theo sử sách nguyên nhân

chính đó là việc cản trở thăng tiến đạo đức nơi con người, là sự vô trật tự trong lãnh vực

tri thức8. Sự vô trật tự đó phát xuất từ các triết gia đi trước - các triết gia thiên về vũ trụ

đã dẫn đưa nhân loại tới sự bế tắc: Vì đối tượng mà họ nghiên cứu vượt quá khả năng trí

hiểu biết của con người. Do đó trong cuộc sống họ đã xảy ra xung đột mâu thuẫn nhau.

Lập trường triết học nơi Socrates cũng phần nào giống với lập trường của các nhà

ngụy biện là hướng suy tư triết học vào cuộc sống con người. Tuy nhiên, ông cũng luôn

bận tâm với lối sống và cách suy nghĩ của các trường phái ngụy biện. Có lẽ ông không

6 X. Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Tập 1, 1995, tr. 143-144. 7 X. Andre Cresson, Socrates, tr. 70. 8 X. Tư Tưởng Của Triết Gia Vĩ Đại, Nxb Tp HCM, tr. 53.

Page 14: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

14

chịu nổi lối trình bày nặng về tính cách hào nhoáng, nhất là ông không chấp nhận thái độ

hoài nghi của họ. Các triết gia ngụy biện, mặc dù chú trọng đến vấn đề đạo đức và đời

sống xã hội, nhưng cách trình bày của họ quá rườm rà với lối lập luận rất hoa mỹ nhưng

lại tương khắc. Các nhà ngụy biện còn chối bỏ tri thức siêu hình về vũ trụ thì đồng nghĩa

cũng chối bỏ luôn mọi khả năng trí hiểu về con người và về mọi vấn đề.

Sau một cuộc đời mòn mỏi suy tư về chính mình, Pascal đã nói: “Con người chỉ

là một cậy sậy, nhưng là cây sậy biết suy tư”9. Con người là một con vật có lý trí, ý chí

và tự do đã được Thượng Đế dựng nên. Chính vì ý thức được điều đó mà triết lý của

Socrates đã không ngừng tập trung khám phá về con người và đời người. Theo ông một

triết gia chân chính phải tập chú vào con người hơn và là vào vũ trụ. Như thế, ông dùng

hết sức lực, trí hiểu của mình để giúp con người có thể tự tìm thấy những kiến thức chắc

chắn về vấn đề luân lý. Nhưng để khảo sát con người thì các triết gia không nên sử dụng

các phương pháp của phái ngụy biện, vậy đâu là phương pháp của Socrates10?

Phương pháp triết học của Socrates được đúc kết bằng câu châm ngôn: “Hãy tự

biết mình11”. Như thế ông muốn nói về tầm quan trọng của sự “nhận biết chính mình” và

đã để lại cho hậu thế một triết lý tuyệt vời. Triết lý ấy được đúc kết và xây dựng trên

luân lý, nhân sinh và nhân bản nhằm đổi mới xã hội. Triết lý của Socrates có một giá trị

được thể hiện qua phương pháp “Hộ sinh và tinh thần”. Đó là những giá trị rất cao quý

nằm ngay trong tâm linh của mỗi người. Chính ông đã đặt chân lý lên hàng đầu để nhận

biết sự khôn ngoan, coi đó là Sự Thiện Tối Cao và Tuyệt Đối. Chính vì muốn cho mọi

người thủ đắc được đức khôn ngoan mà ông đã dành tất cả cuộc đời mình để giảng dạy

cho hậu thế biết thế nào là nhân đức, thế nào là hạnh phúc thật.Ông luôn cho rằng ông

chỉ biết một điều duy nhất là ông không biết gì hết: “Như vậy ông chối bỏ quan niệm cổ

truyền về kiến thức và sự hiểu biết. Phương pháp của ông vẫn luôn là nhắm truyền đạt

kiến thức, nghĩa là không nhắm trả lời những câu hỏi của các môn sinh nhưng là chất

vấn các môn sinh, bởi lẽ ông không có gì là hiểu biết lý thuyết để có thể nói với họ và

dạy cho họ”12. Người ta biết tới ông vì ông đã tạo ra một tinh thần nhân bản của nền triết

lý Phương Tây mới. Lioneru in Schvicg có viết: “sáng kiến của Socrates về chính mình,

9 Lm Vinhsơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, Đan Viện Thánh Mẫu Khiết Tâm Phước Lý, Dẫn Vào Triết Học, 2013. tr. 12. 10 X. Viện Phụ Dominico Phạm Văn Hiền, Triết Sử Tây Phương, tr. 9. 11 Lê Tôn Nghiêm, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Tập II, tr. 49. 12 Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr. 38.

Page 15: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

15

và những lời hô hào sẽ làm đổi mới và đánh dấu một bước tiến trong nền văn minh nhân

loại mà có lẽ từ nay không thể lu mờ được”13.

Cuộc sống là sống chung như nhà thơ John Donnengười Anh đã từng nói “Không

ai là một hòn đảo” (no man is an island),do đó cuộc sống luôn có sự so sánh người này

với người khác. Có một học giả đã từng dí dỏm: So sánh Chúa Giêsu với triết gia

Socrates. Quả thực, hai vị đều có một tầm ảnh hưởng rất rộng mặc dầu chỉ hoạt động

trong một thời gian và không gian rất hạn hẹp so với lịch sử của thế giới: một thành phố

bé nhỏ và một quốc gia khiêm tốn, cộng với số mônsinh ít ỏi. Cả hai vị đều không để lại

bút tích bằng văn bản nhưng nhân loại nhận được từ các vị những chứng tích “ tai nghe

mắt thấy”. Về Socrates có tác phẩm Mémorables của Xénophon, các tác phẩm đối thoại

của Platon; đối với Đức Giêsu chúng ta có các sách Tin Mừng. Như thế, sau khi các ngài

tạ thế các môn sinh mới quảng bá tư tưởng và đời sống của các ngài.14

Socrates luôn tin rằng mình có một vị thần linh hộ mệnh, vị thần linh ấy đã biến

đổi cuộc đời của ông, giúp ông tránh được những sai lầm. Chính nhờ lòng tin tưởng ở vị

thần linh hộ mệnh đó nên ông rất bình thản đón nhận những nghịch cảnh ập đến, và chấp

nhận cái chết một cách anh hùng như các thánh tử đạo ngày xưa. Trong những lần bào

chữa trước tòa án ông chỉ để cho sứ mệnh dẫn dắt là:“Nếu người ta vu cáo cho tôinhư

thế thì chỉ có một cái gì ở trong tôi; đó là Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan ở đây

không phải của loài người, vì nếu của loài người thì tự tôi có thể đạt tới. Đàng này đây

không phải là Đức Khôn Ngoan nằm trong mực thước của loài người”15. Chính Đức

Khôn Ngoan đó tôi chẳng hiểu được. Như thế Đức Khôn Ngoan không đến từ con người

nhưng đến từ Thần Linh và chính Ngài phú bẩm cho ai thì người đó mới được. Do đó

cuộc đời của Socrates với một ý thức là để cho Thần Linh dẫn dắt.

II Con Người Theo Cái Nhìn Của Socrate

Mỗi một người đều có những cái nhìn khác nhau về người khác. Con người không

ai là hoàn hảo cả, người thiếu cái này kẻ thiếu cái kia. Do đó các triết gia đã dành cả một

đời tìm hiểu về con người nhưng cũng chưa biết tường tận về con người.Trái đất này với

hơn 6 tỷ người mà mỗi người mỗi vẻ, không ai giống ai. Phải chăng đó là một điều kỳ

13 X. Lê Tôn Nghiêm, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Tập II, tr. 7. 14 X. Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr. 32. 15 Platon, Apologie, Trích Lại Của Giáo Sư Nguyễn Đình Hoan, tr. 56.

Page 16: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

16

diệu mà con người không thể hiểu nổi thì Thượng Đế đã lại làm ra như vậy? Với thân

phận bất toàn của con người ai cũng muốn kiếm tìm cho mình một điều gì đó để gắn liền

với chính mình và nhận ra đâu là điểm hẹn nơi mỗi người.

1 Con người gắn liền với tri thức và đức hạnh

Đối với Socrates cái khôn ngoan chính là “tri thức và đức hạnh”. Điều này không

chỉ là những lý thuyết suông mà nhằm hoàn thiện chính đời sống thực của con người.

Trong cuộc sống nhân đức là cái không thể thiếu vì nó rất quan trọng, còn cái biết chỉ đi

đến cái thực hiện nhân đức mà thôi. Do đó: “Không ai cố tình làm điều xấu nếu khi đó

họ biết điều tốt.”Hay “Con ngườikhông thể làm điều thiện nếu họ không biết cái thiện ấy

là gì”16. Cái biết phải được thực hành chứ không phải biết để biết, hay để khoe khoang

mà thôi.Hành trang gắn liền nơi mỗi người suốt cuộc hành trình dương thế không gì

khác hơn là tri thức và đức hạnh. Vậy tri thức và đức hạnh là gì? Trước hết, người viết

xin nói về tri thức theo quan điểm của Socrates.

1.1 Tri thức theo quan điểm Socrates

Tri thức của nhân loại thì vô hạn, mà khả năng nhận thức của con người thì hữu

hạn.Không ai có thể biết được mọi thứ và cũng không ai tự nhiên không tìm tòi mà biết

được tri thức. Khởi đi từ triết gia Socrates và các nhà Ngụy Biện, nền triết học Tây

Phương đã xoay chiều quan tâm trực tiếp đến tri thức con người. Các nhà ngụy biện theo

Thuyết Hoài Nghi; họ hoài nghi về khả năng con người có thể đạt đến tri thức một cách

tương đối không đáng tin cậy, còn Socrates cho rằng con người có thể đạt được tri thức

rất đáng tin cậy. Nền tảng để xây dựng tri thức không phải ở bên ngoài mà nằm ngay bên

trong con người. Ông luôn cho rằng đời sống nội tâm là trung tâm sinh hoạt của tri thức,

từ hoạt động đến hành động thực tiễn.

Socrates tin rằng con người có thể đạt được tri thức chắc chắn và đáng tin cậy.

Như vậy ông muốn đạt được tri thức này trước hết phải hiểu và làm sáng tỏ chính mình.

Để làm sáng tỏ việc đầu tiên là nêu lên các câu hỏi có phương pháp về những vấn đề đó,

sau đó ông sử dụng phương pháp gọi là “Hộ Sinh” một phương pháp biện chứng. Nhờ

việc đặt câu hỏi xoay quanh những vấn đề tranh luận mà những người tham gia có thể

hiểu rõ hơn vấn đề đó và làm sáng tỏ ý kiến của mình. Từ những vấn đề đối thoại với 16 Lê Tôn Nghiêm, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Tập II, tr. 15.

Page 17: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

17

người khác đã chuyển sangnhững vấn đề của chính bản thân (nhận biết mình). Như vậy

một cách nào đó Socrates đã vô tình làm cho một số người ghen tức vì không tìm ra

những lý lẽ để chống lại tri thức khôn ngoan nơi Socrates và họ phải chấp nhận chịu

thua. Đây là một trong những phản ứng của Hippias nói về Socrates: “Ông Socrates chỉ

muốn xâu xé người khác bằng những câu hỏi và đẩy họ vào chân tường, ông không bao

giờ cho ai là có lý cả, cũng không cho ai có ý kiến với ông, ông đã chọc tức tôi và tôi

không muốn ông chọc tức như vậy”(Xénophon)17.

Tri thức của con người thuộc về thế giới mà con người cảm nhận được cũng là sự

chưa hoàn hảo do sự bất toàn của các giác quan. Không chỉ sự bất toàn về thị lực, thính

lực…ảnh hưởng đến nhận thức của con người; ngay cả các thiết bị hỗ trợ cũng chẳng tạo

được một cơ sở hoàn hảo hơn cho một tri thức chính xác về thế giới thực tại. Socrates đã

dẫn đưa những người đàm thoại với ông tới chỗ tự kiểm điểm bản thân, ý thức về chính

bản thân mình. Người đối thoại không biết do đâu, vì sao mình sống và hành động.

Người đối thoại nhận ra những mâu thuẫn trong nội tâm mình, như thế họ hoài nghi về

chính họ dẫn đến việc họ nghĩ họ chẳng biết gì cả. Chính đây là thái độcần thiết giúp

người ta đạt được những tri thức chắc chắn trong tiến trình truy tìm chân lý mà triết gia

Hy-Lạp này muốn nhắm tới18.

Mọi lời mời gọi của Socrates là muốn con người sống và hiện hữu một cách xứng

đáng trong cuộc sống này. Do đó; ông không chỉ rao truyền bằng những lời chất vấn hay

bằng thái độ mỉa mai châm biếm, nhưng còn bằng những phong cách và cách sống của

chính con người ông nữa. Đối với ông kiến thức hay những hiểu biết không phải là một

khối mệnh đề hay công thức để viết ra, truyền đạt, đem bán19. Trong tác phẩm ‘bữa tiệc’

ta thấy rằng ông bắt trí hiểu phải tập trung vào chính bản thân mình. Sau khi vào nhà ông

Agathon; ông này muốn ngồi cạnh Socrates để một chút nào đó chạm vào con người

Socrates mà từ lâu ông đã ngưỡng mộ và bái phục.Ông nói: “Nhờ chạm sát vào bác, tôi

may ra được hưởng nhờ phần nào những khám phá khôn ngoan”. Socrates trả lời: “Nếu

17 Lê Tôn Nghiêm, Socrates, Ca Dao, tr. 31. 18 X. Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr. 40-41. 19 X. Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr. 36.

Page 18: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

18

như kiến thức là cái gì đó đầy tràn hơn và do đó có thể chạy vào một cái gì đó hao vơi

hơn thì quả là hạnh phúc biết mấy”20.

Socrates luôn trả lời về tri thức của ông rằng: kiến thức hay sự hiểu biết không

phải là một đồ vật đã được chế tạo hay những gì được tích lũy. Ông luôn khẳng định

rằng:“Điều tôi biết là tôi không biết gì cả”21. Như thế một cách nào đó ông đã chối từ

quan điểm cổ truyền về kiến thức hay sự hiểu biết. Phương pháp triết học của ông do đó

sẽ không nhắm vào truyền đạt kiến thức. Theo ông không có chuyện chờ đợi để nhận

kiến thức và chân lý, như thế thì chẳng khác gì những món ăn sẵn, kiến thức và chân lý

cần phải được cá nhân tự mình sản sinh ra22.

Trong vấn đề truy tìm tri thức Socrates là người hộ sản. Hình ảnh cưu mang và

sinh hạ giúp con người hiểu rằng tri thức là những gì chất chứa trong chính tâm hồn mà

từng cá nhân có bổn phận khám phá. Nhưng vấn đề được đặt ra ở đây là làm sao

conngười có thể tìm được tri thức ngay trong con người mình? Và làm sao biết được

nguồn tri thức đó là chắc chắn?

Bên cạnh đó ông còn đưa ra quan điểm cho chính ông mà bác bỏ hay phản bác các

nhà vũ trụ luận. Chính ông đã dùng lý trí để truy tìm căn nguyên vạn vật là không thể

điều mà các nhà triết học đi trước ông đã từng làm. Vì đối với con người vấn đề về vũ

trụ vượt trên nhận thức trí hiểu của con người. Hơn nữa việc suy tư triết học mang chiều

kích hướng ngoại thì không hữu ích cho đời sống con người nhất là ở khía cạnh đạo đức.

Thế giới này đầy huyền bí mà chính các thần đã dựng nên, các thần đã giấu kín nó nên

việc con người cất công khám phá là việc làm bất tín và phạm thượng23.

Ông còn can đảm cho rằng trong thiên hạ có ba hạng người;(1) hạng người dốt mà

không biết mình dốt.(2) hạng người dốt mà biết mình dốt.(3) biết mình biết lại là người

dốt nhất24. Một cách khiêm tốn ông tự xếp mình vào hạng người thứ hai-‘người dốt mà

biết mình dốt’, để từ đó mà vươn lên. Trái lại như quan điểm của Khổng Tử về cái biết

như sau: “Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, ấy mới thật là biết25. Thiết

20 Paul Vicaire, Platon Le Banquer, Dịch Giả, Đậu Văn Hồng, Nxb Tôn Giáo, 1995, tr. 37. 21 Phạm Văn Pháp, Triết Cổ Đại Tây Phương, (Lưu Hành Nội Bộ) 2016, tr. 7. 22 X, Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, 2004, tr. 35. 23 X. Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, tr. 144. 24 Viện Phụ Dominico Phạm Văn Hiền, Triết Sừ Tây Phương Thời Thưởng Cố, (Lưu Hành Nội Bộ) tr. 43. 25 Nguyễn Hiến Lê, Khổng Tử, Nxb Văn Hóa, 1992, tr. 219.

Page 19: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

19

nghĩ chỉ riêng tri thức để làm phát triển một con người thì có lẽ chưa đủ phải có đức

hạnh đi kèm. Có tri thức và đức hạnh thì mới hội đủ một con người tốt được. Vậy đức

hạnh theo quan điểm Socrates là gì?

1.2 Đức hạnh theo quan điểm Socrates

Nói tới đức hạnh thì thời nào cũng cần và rất đề cao, đó là lòng can đảm, tiết độ,

kiên trì và biết làm việc, hiếu thảo, tôn kính tổ quốc và các thần linh, tình cảm26...

Đứchạnh là đạo đức và phẩm hạnh, là sự hoàn thiện về đời sống mà con người cấn đạt

tới27. Mọi người được thần minh phú bẩm một lòng khao khát điều thiện “nhân chi sơ tính

bổn thiện”. Chính lòng khao khát này mà đã khơi dậy lên điều thiện còn tiềm ẩn nơi mỗi

người. Từ đó chúng ta mới hiểu câu: “Không ai độc ác một cách cố tình hay con người mà

làm điều xấu là do vô tình hay nữa là vì thiếu vắng tri thức và đức hạnh nơi mình”.

Nhưng trong đó đức hạnh vẫn chi phối và giúp con người làm chủ bản thân, công

bình, can đảm, kiên trì và biết làm việc. Như thế, có thể nói một cách nào đó đức hạnh

chính là tự biết mình, xem mình đang đứng ở đâu trong vũ trụ bao la này. Có lẽ con

người biết điều gì đúng, tất sẽ thực hiện điều đó. “Hành vi sai trái chỉ xuất hiện từ sự vô

minh. Nếu một người hành động không đúng chỉ vì anh ta không biết cái gì là đúng đắn.

Không một người tỉnh táo lành mạnh nào lại chủ tâm làm tổn hại bản thân mình. Nếu

quả thực anh ta có làm điều tổn hại đơn giản chỉ vì phạm phải sai lầm nào đó trong quá

trình hành động, hoàn toàn không phải do cố ý. Không ai chủ định chọn lựa điều sai

trái, bởi lẽ hành vi tội lỗi mang đến tai họa cho bản thân họ và người khác”28.

Chúng ta có thể xem tri thức và đức hạnh là một. Do đó đức hạnh lo cho linh hồn

nên tốt đến mức có thể, còn đức hạnh phải hoàn thành chức năng của mình để cải thiện

bản thân vì bản tính con người là luôn đi tìm cái tốt nhất cho mình. Đức hạnh phải phát

xuất từ cái biết, cái biết của lý trí. Chính vì thế mà Socrates chủ trương; “Không ai cố

tình làm điều ác nếu người ta biết điều thiện, người nào có được tri thức và đức hạnh thì

26 X. Platon, Phédon, tr. 295-296. 27 Trần Văn Hiến Minh, Từ Điển Triết Học. 28 William S. Sahakan, Mabel L. Sahakan, Bản Dịch Lâm Thiện Thanh, Lâm Duy Chân, Tư Tưởng Của Các Triết Gia Vĩ Đại, Nxb Tp HCM, 2001, tr. 54.

Page 20: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

20

cuộc sống của họ luôn luôn hợp lý, còn người nào chỉ có ý kiến đúng thì đôi khi chưa

hợp lý29”. Đây chính là những cái hay, cái đẹp mà Socrates muốn trình bày. Chỉ cần con

người có tri thức và đức hạnh để hành động theo cái thiện thì chắc chắn giữa hai điều tốt

họ sẽ chọn điều tốt nhất.

Ngoài ra theo Socrates, đức hạnh không chỉ là tri thức mà nó còn đồng nghĩa với

hạnh phúc. Bởi lẽ “Hành vi đạo đức (đức hạnh) cũng chính là hành vi mang đến những

điều tốt đẹp cho ai biết thực hiện nó30”.Thiếu nhận thức đúng đắn chính là lý do khiến

một số người không thể kiềm chế được chính mình trước những cám dỗ; bởi lẽ bất cứ

người nào biết điều gì là đúng tất họ sẽ thực hiện. Đó mới chính là tính chất duy lý trong

đạo đức của Socrates.

2. Tri thức và đức hạnh giúp con người nhìn ra với thế giới

Với một xã hội phát triển không ngừng rất cần những con người tri thức để làm cho xã

hội phát triển bền vững hơn. Như vậy theo triết gia Socrates ‘con người cần phải có tri

thức và đức hạnh trong khi tri thức là sự thiện và con người cần sự khôn ngoan của đức

hạnh mới thấu hiểu được sự thiện đó’31. Có thể nói ‘tri thức là cuộc gặp gỡ giữa chủ thể

và đối tượng, chẳng hạn khi con người nhìn vào vũ trụ, suy nghĩ, tìm kiếm tư duy về nó,

lúc ấy con người đã tri thức về đối tượng rồi’32.

Triết học ra đời là nhằm vào con người để phục vụ những lợi ích hay nhu cầu

sống của con người. Vì thế, Cicéron đã định nghĩa triết học như sau: “Triết học là khoa

học mà những người yêu quý sự khôn ngoan, học biết về cả những thực tại thần linh và

con người cùng các nguyên lý bao hàm trong các thực tại đó33. Như vậy, triết học luôn

trả lời những thắc mắc của con người về vũ trụ, con người và Thượng Đế như thế nào?

Triết học giúp con người biết mình sống để làm gì? Cuộc đời này có ý nghĩa gì không?

Tại sao cuộc đời con người lại gắn liền với đau khổ và sự chết? Đâu là hạnh phúc thực

mà con người truy tìm. Chính vì những thắc mắc đó mà đã giúp con người nhìn ra với

29 Thiên Phong Bữu Dưỡng, Vấn Đề Đau Khổ, tr. 128. 30 William S. Sahakan, Mabel L. Sahakan, Bản Dịch Lâm Thiện Thanh, Lâm Duy Chân, Tư Tưởng Của Các Triết Gia Vĩ Đại, Nxb Tp HCM, 2001, tr. 55. 31 X. Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, tr. 151. 32 X. Nguyễn Hồng Giáo, Triết Học Nhập Môn, tr. 20. 33 Lm Vinh Sơn Liêm, Nguyễn Hồng Thanh, Dẫn Vào Triết Học, 2013, tr. 19.

Page 21: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

21

thế giới và thấy mình thật nhỏ bé chẳng khác gì một giọt nước giữa một đại dương, hay

một hạt cát giữa sa mạc.

Như thế, tri thức và đức hạnh điều khiển đời sống con người theo những nguyên

tắc của lý trí và niềm tin. Trên hành tinh này chỉ có con người mới có tri thức và đức

hạnh, đồng thời có tự do, lý trí, ý chí để nhìn vào chính mình rồi vươn cao và vươn xa.

Triết học luôn đề cao con người vì con người là một “nhân vị” không gì có thể thay thế.

Ngoài đạo đức tri thức giúp con người đi vào chính nội tâm của mình, suy tư những

lý lẽ để tìm ra những nguyên nhân phát xuất từ đâu? Triết học có một giá trị rấtlớn, có tầm

ảnh hưởng đến đời sống con người và xã hội. Mọi quốc gia đều xây dựng đất nước mình

trên những hệ thống chính trị, trên những học thuyết triết học nào đó mà họ coi là phù hợp

với con người và bối cảnh xã hội. Một học thuyết đưa ra có thể làm thay đổi cục diện của

thế giới, của đất nước, điều này đã chứng minh trong lịch sử nhân loại rồi34.

Thật vậy, nếu người ta biết vận dụng tri thức cách đúng đắn thì sẽ gặt hái được rất

nhiều thành công trong cuộc sống. Nó sẽ khai mở tận căn mọi vấn đề có liên quan tới

con người và đời người, nhờ đó người ta có thể thâu nhận được nhiều giá trị trong thực

tiễn nhằm phục vụ chăm lo cho đời sống con người. Tuy nhiên con người không chỉ

được xây dựng nhờ vào các giá trị của tri thức mà còn phải nhờ đức hạnh bổ túc và nuôi

dưỡng nhằm xây dựng nên một con người có đạo đức nhân bản tốt hầu giúp nhau sống

tốt trong thế giới đang trên đà tục hóa này35.

Con người sinh ra và lớn lên luôn mang nơi mình tính xã hội nên cần phải có luật

lệ và đạo đức, hay nói cách khác luân lý đạo đức đặt nặng về mối tương quan qua lại

cũng như phong tục hay tập quán trong xã hội. Như vậy, đức hạnh vừa là một giá trị, vừa

là một yêu cầu. Môi trường của đức hạnh là đời sống cộng đồng, xã hội, nhưng mang ý

nghĩa của đức hạnh là tính cách chủ thể của cá nhân36. Nguyên tắc của đức hạnh là “làm

điều lành tránh điều dữ”. Hay là giúp để nhận ra đâu là điều lành và điều dữ.

Con người học tập nâng cao tri thức cho mình và luyện tập đức hạnh để muốn

hoàn thiện bản thân,đồng thời đi trên con đường thực hành triết học. Như vậy, tự bản

chất tri thức và đức hạnh luôn có trong lĩnh vực triết học. Trong tiếng Hy-Lạp có chữ 34 X. Hào-Nguyên Nguyễn Hóa, Triết Học Cổ Hy Lạp Giản Yếu, Nxb Thanh Niên, tr. 67. 35 X. Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr. 49. 36 X, Võ Hùng Thanh, Từ Thực Tại Vũ Trụ Đến Triết Học, Nxb Tp HCM 2002, tr. 92.

Page 22: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

22

‘philosophie’ là tìm kiếm sự khôn ngoan, là nghệ thuật sống, thì cũng vậy theo tinh thần

người Hy Lạp một người khôn ngoan là người hiền nhân sống tốt và là một bác học uyên

thâm. Như thế, hiền nhân và bác học cùng đồng nghĩa với nhau. Người khôn ngoan vừa

biết sống thế nào cho hợp lý vừa biết ngọn nguồn mọi sự37. Tri thức và đức hạnh là luôn

hướng về nhau để chọn lựa, hành động và quyết định. ‘Nó không phải tập hợp một mệnh

đề, một lý thuyết trừu tượng nhưng là một thái độ dứt khoát, vững chắc cho một sự chọn

lựa, một guyết định, một bước khởi động. Qua đó mới giúp con người nhìn sâu rộng hơn

vào thế giới38.

Như vậy theo Socrates “Không có vấn đề chờ chực để đón nhận kiến thức và đức

hạnh như thể đó là món ăn đã nấu sẵn, tri thức và đức hạnh cần được từng cá nhân tự

mình tìm kiếm sản sinh ra39”.Với chính bản thân mình tìm về tri thức và đức hạnh là tìm

về với cội nguồn của mình. Đó là truy tìm chân lý đích thực chứ không phải là chiếm

đoạt chân lý40. Như vậy đức hạnh rất được đề cao và có thể coi nó là thước đo sự tiến lên

của con người, còn tri thức chỉ là phương tiện, là con đường để đạt tới đích. Nói tóm lại,

tri thức và đức hạnh luôn là bộ đôi đi song hành bên nhau, hỗ trợ cho nhau trong cuộc

sống. Thật vậy, tri để hành nghĩa là “Biết đúng để hành động đúng.Biết cái gì đúng để

vươn lên và hành động, biết để sống chứ không phải biết để biết41”. Tri thức và đức

hạnh dẫn đưa con người tới hành động, mà hành động đó cần biết mình để nhận ra chân

lý.

III. Con Người Chỉ Đạt Được Chân Lý Khi Biết Mình

Đúng vậy con người chỉ có thể đạt được chân lý khi biết mình. Tuy nhiên nếu ai

không nhận biết mình thì chẳng khác gì câu nói của Socrates:“Hầu hết thế nhân chỉ là

những con rối giữa cuộc đời mà không còn là con người đích thực của họ42”. Họ nói mà

không biết mình nói, làm mà không rõ việc mình làm với mục đích gì. Tất cả chỉ là trống

rỗng và dối gạt. Một con người không tự chủ là một con rối giữa đời. Vậy để hiểu biết

chính mình chúng ta phải làm gì để đạt tới chân lý?

37 X, Nguyễn Trọng Viễn, Trăm Năm Trong Cõi Người Ta, tr. 33. 38 X. Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr. 46. 39 Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr. 47. 40 Lm Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, Dẫn Vào Triết Học, 2013, tr. 18. 41 Lm Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, Dẫn Vào Triết Học, 2013, tr. 19. 42 Hào-Nguyên Nguyễn Hóa, Triết Học Cổ Hy Lạp Giản Yếu, Nxb Thanh Niên, tr. 65.

Page 23: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

23

1. Đâu là những điểm nổi bật giúp con người đạt tới chân lý

Ta có quyền tự hỏi phải chăng Socrates đã có thể tự mình khám phá nơi chính

mình một tri thức nào đó. Câu châm ngôn sống là “nhận biết chính mình’.Chữ biết đó

không phải là biết suông nhưng là phải biết ưu tiên chọn lựa, nghĩa là biết sống. Theo

Socrates chỉ có ‘tri thức mới thực sự giúp khám phá ra nội tâm để vượt ra khỏi mình và

đạt tới chân lý’43. Có lẽ ở đây ta sẽ gặp một ý niệm luân lý đang trong tình trạng phác

thảo, một ý niệm về sau triết gia Kant đã triển khai. Chính khi hoàn toàn khước từ lợi lộc

cá nhân, nghĩa là chính khi ý hướng tới một hành động là trong sáng vô vị lợi nhằm

hướng tới sự thiện tuyệt đối. “Chân lý là một nhận định phù hợp với thực tại, rằng thế

giới thực tại và tri thức của chúng ta về nó là hoàn toàn tương hợp với nhau, rằng các

hệ thống tư tưởng mà chúng ta hiện có, xét về mặt tổng thể, tương ứng một cách chính

xác với thế giới thực tại”44.

Chân lý không những luôn ẩn tàng trong trí tuệ, mà còn tiềm ẩn nơi thực tại. Vì

thế mà George E. Moore đã nói: “chân lý như sự tương hợp giữa ý tưởng và thực tại45”.

Do đó ta có thể hiểu rằng: “triết giaSocrates không ngần ngại gặp gỡ và trao đổi với

những người dân dã vốn chỉ biết sống sơ sài và vốn chỉ hành động dưới hành động của

thành kiến mà không tìm cách phản tỉnh. Ông muốn chỉ cho họ thấy rằng hiểu biết của

họ là vu vơ không nền móng46”. Chính nhờ những sự trao đổi gặp gỡ đó mà triết gia Hy-

Lạp này đã giúp người ta đạt tới chân lý đích thực(hạnh phúc) chứ không phải một chân

lý mau qua mà nhiều người đã sai lầm chạy theo.

Socrates đã nói về yếu tính của chân lý là tự do. Ôngđã đưa ra một cuộc đàm thoại

để kiểm điểm bản thân như sau: “Sao lại thế, này anh bạn, bạn là dân thành Athènes, là

công dân của một thành phố tầm cỡ, nổi tiếng hơn bất cứ thành phố nào khác về tri thức

và quyền lực, vậy mà không lấy làm xấu hổ vì chỉ biết dốc sức chăm lo gia tăng của cải,

chăm lo đuổi theo danh giá và vinh dự; còn về tư tưởng về chân lý và về tâm hồn mà

đáng lẽ bạn phải chỉnh đốn và tu bổ thì bạn lại chẳng hề đếm xỉa, chẳng hề nghĩ

43X. Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr. 47. 44 William S. Sahakan, Mabel L. Sahakan, Bản Dịch Lâm Thiện Thanh, Lâm Duy Chân, Tư Tưởng Của Các Triết Gia VĩĐại, Nxb Tp HCM, 2001, tr. 42. 45 William S. Sahakan, Mabel L. Sahakan, Bản Dịch Lâm Thiện Thanh, Lâm Duy Chân, Tư Tưởng Của Các Triết Gia VĩĐại, Nxb Tp HCM, 2001, Tr. 43. 46 Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, Tr. 37.

Page 24: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

24

tới47.Như thế phải chăng chân lý mà Socrates đề cập ở đây là chân lý tương đối và chủ

quan hay chân lý là tuyệt đối và khách quan?

Theo triết gia Socrates chân lý đích thực phải là chân lý tuyệt đối mà con người

cần hướng đến. Thật vậy, mỗitriết gia phải có một lý trí trong sáng để giúp người khác

không bị đắm chìm trong những phù hoa, ngoại cảnh mà đưa con người tới tư tưởng

thích nghi, hòa hợp với chí thiện và với tình yêu thương. Đó là sự hòa hợp và cũng là

những nét làm nổi bật lên triết thuyết của Socrates. Với một sự khiêm tốn, Socrates đã

nói: “Triết gia không hiểu biết gì, nhưng triết gia ý thức về sự vô tri của mình48”. Vấn đề

đích thực không phải là biết điều này điều nọ nhưng là biết hiện hữu như thế nào, biết

sống như thế nào.

Sống trong xã hội con người lại quên đi cái “thiện”, cái lý trí trong sáng, cái tình

yêu thương mà Thượng Đế đã phú cho. Do đó “Những con người quên đi cái cốt yếu thì

họ vẫn luôn là người ích kỷ, là một nô lệ mà không phải là mình đích thực. Trái lại, càng

quên con người giả tạo chóng qua thì lúc đó họ mới đích thực là mình49”. Như thế, triết

gia Socrates đã dành trọn đời để kêu gọi mọi người hãy trở về với ánh sáng tâm linh, để

nhờ ánh sáng tâm linh dọi chiếu vào cuộc sống thì chắc chắn đường tới bến bờ chân lý,

đó sẽ là điểm hội tụ mọi người cần vươn tới.

Vì thế ông đã nói“Hãy tự biết mình”.Đó là một câu châm ngôn sống nổi bật trong

triết học Socrates, và qua câu châm ngôn ấy giúp cho ta nhìn lại mình, trở về với chính

mình, tự tìm hiểu, khám phá mình, không để cho mình lầm lạc nữa, dùng hết khả năng

của mình qua các biểu hiện để hiểu và thấy được con người đích thực của mình. Tự biết

mình, trở về với chính mình là trở về với ánh sáng nội tâm. Vì thế học giả Protagoras đã

nói: “Cái gì đúng với tôi chỉ là chân lý của tôi, cái gì đúng với bạn là chân lý của

bạn”50.

Ánh sáng nội tâm chính là đạo đức luân lý và tinh thần sáng suốt có lý trí trong

sáng. Socrates đã kêu gọi trở về với ánh sáng nội tại, tức là trở về với đạo đức và luân lý;

cái mà người ta xao lãng để theo đuổi những cái không bền, không thật. “Cái mà giúp

47 Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr. 40. 48 Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr. 35. 49 Hào-Nguyên Nguyễn Hóa, Triết Học Cổ Hy Lạp Giản Yếu, Nxb Thanh Niên, tr. 65. 50 William S. Sahakan, Mabel L. Sahakan, Bản Dịch Lâm Thiện Thanh, Lâm Duy Chân, Tư Tưởng Của Các Triết Gia VĩĐại, Nxb Tp HCM, 2001, tr. 48.

Page 25: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

25

người ta sống đời tốt đẹp và hoàn thiện phải chăng là nhờ ánh sáng nội tại làm nên. Xã

hội loài người hòa bình, hòa hợp, thịnh vượng ấm no cũng là nhờ người dân trở về với

ánh sáng tâm linh ấy. Nó là căn bản của những người đích thực là người. Nó là điều

kiện duy nhất cho một thế hệ thái bình đáng mơ ước”51.Ở đây, ta có thể nói những nét

nổi bật nơi triết học của Socrates là một triết học luân lý, nhân sinh, nhân bản, hay là một

thông thông điệp gói gọn trong triết lý sống của ông:

Hãy sống đạo đức.

Gìn giữ con người đúng là con người đích thực của mình.

Hãy xây dựng con người của mình là một con người chân chính.

2. Luân lý và thần linh theo Socrates

Triết gia Socrates rất chú tâm đến luân lý và thần linh trong cuộc sống để từ đó

mong muốn mọi người vươn lên tới sự hoàn thiện bản thân để đạt tới hạnh phúc. Con

người không ai cố ý làm điều xấu, vì trong con người đạo đức thì có sẵn như câu nói của

Mạnh Tử “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Socrates nói: “Không ai làm điều ác một cách

thoải mái, không ai đem tâm hồn vào việc ác. Bởi vì người ta trong khi làm điều ác, thì

cái thiện trong bản thân nó bị giằng co, cản trở không ít thì nhiều52”.

Socrates muốn nhắm tới luân lý để chủ trương trở về với chính mình, khám phá ra

những chân lý được tiềm ẩn trong đó, giúp con người đi đúng hướng để mong tìm thấy

hạnh phúc. Với câu châm ngôn của ông đã được ghi trên cửa đền thờ Delphes “ Hãy tự

biết mình”. Câu nói của ông chính là nền tảng và lập trường nhân bản đã có một tầm ảnh

hưởng rất lớn đến các tư tưởng của các triết gia sau này. Và đây cũng là một dấu ấn, một

bước ngoặc trong lịch sử triết học tây phương.

Chữ ‘biết’ là không biết gì có nghĩa là biết tất cả con người mình và nắm bắt được

mình là gì, và như thế nào? Thông thường cái nguy hiểm là ở chỗ người ta dốt chỉ vì

người ta biết ít hoặc chẳng biết gì về bản thân mình mà cứ tưởng mình biết. Như vậy, họ

không chịu học hỏi, tìm hiểu tới nơi tới chốn mà chỉ có mập mờ… trong khi đó triết gia

51 X. Hào-Nguyên Nguyễn Hóa, Triết Học Cổ Hy Lạp Giản Yếu, Nxb Thanh Niên, tr. 65. 52 Hào-Nguyên Nguyễn Hóa, Triết Học Cổ Hy Lạp Giản Yếu, Nxb Thanh Niên, tr. 65.

Page 26: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

26

Socrates lại chủ trương không biết gì để rồi tín thác vào Thần Linh và để cuộc đời mình

dưới sự dẫn dắt của ngài. Dù rằng ông không cố ý tìm hiểu về thế giới Thần Lin53h.

Socrates luôn ý thức sứ vụ và ý thức con đường khai mở chân lý và truyền đạt sự

hiểu biết của mình cho người khác. Ông cho rằng sở dĩ ông là người thông thái và khôn

ngoan chính là thái độ khiêm tốn không biết gì hết mà thực ra ông lại rất xuất sắc trên

con đường truy tìm chân lý. Ông nói “Không ai cố tình hướng về cái xấu hoặc cái họ

cho là xấu, nhưng là đi tìm cái tốt, trong khi người ta tưởng cái gì là xấu thì không

hướng về nó và không chọn nó một cách hữu ý”54. Đó là một lý tưởng trong cuộc sống

thiết nghĩ ai ai cũng muốn mình là một người tốt, một người có ích cho xã hội, và không

ai muốn mình là người xấu cả. Cũng thế, trong một gia đình người cha người mẹ nào

cũng cầu mong cho con cái mình trở thành một người lương thiện có hữu ích cho xã hội,

sống trong xã hội biết quan tâm chia sẻ với người khác. Có lẽ trong thâm tâm của mỗi

người cho dù có những khi trong ánh nhìn của người khác về họ quá tệ, chưa được tốt.

Tuy nhiên cho dù thế nào đã là con người ai cũng muốn trở thành người tốt. Như vậy

trong con người cái thiện đã có sẵn như trong tin mừng có câu “Anh em muốn người ta

làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy”.55

Biết mình là trở về với chính mình tìm gặp lại chân lý đang tiềm ẩn bên trong nội

tâm thẳm sâu của mình, chứ không phải quay về với chính mình bằng một nếp sống cô

đơn khép kín. Tìm về chính mình tưởng chừng như là một cuộc trở về cô đơn lẻ loi

không có bạn đồng hành, nhưng con người cần có những lúc cô đơn như vậy để nhìn lại

những bước đi của mình. Quả thật chân lý luôn ở sau những thử thách, qua đau khổ thì

mới tới được vinh quang.

Với một thân phận chóng qua khác nào bông hoa sớm nở chiều tàn, đó phải chăng

là tính vô thường của kiếp người, để nhờ đó nhận ra mình là ai, là gì và từ đâu và sẽ đi

về đâu hay sống trên trần gian này mang ý nghĩa gì. Như vậy, ta mới định hướng cho

mình một lối sống, một hướng đi đúng nhằm đạt tới chân lý.Biết mình đó là một sự khôn

ngoan đích thực, là sự phản tỉnh mình để không bị những áp lực của dư luận cho phối.

Bên cạnh đó, có một cái khổ của con người là không biết mình sống để làm gì? Chỉ biết

53 X. Vp Dominico Phạm Văn Hiền, Triết Sử Tây Phương, Cour Học 2016, tr. 13. 54 Đỗ Văn Thuấn Và Lưu Văn Hy, Lịch Sử Triết Học Và Các Luận Đề, Nxb Lao Động, 2004, tr. 37. 55 Tin Mừng Luca 6,31.

Page 27: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

27

sống cho qua ngày hay có những khi họ không ý thức về cuộc sống của mình nên họ tồn

tại trên trần gian này với một tinh thần buồn chán, thiếu chọn lựa, sống thiếu mục đích

thì chắc cuộc sống thật thiếu ý nghĩa. Phải chăng thân phận con người là thế.

Để vượt qua những đau khổ, bất hạnh thì không gì khác hơn là phải hướng đến

một cái gì đó cao siêu hơn mà cái cao siêu bí ẩn đó không ai khác ngoài Thần Linh.

Chính Thần Linh là lý tưởng và mục đích mà ai ai cũng cần hướng tới. Chính vì lẽ đó

triết gia Socrates là một con người hữu thần, ông tin rằng trong cuộc sống luôn có một vị

thần hộ mệnh.Chính vị thần ấy đã hướng dẫn biến đổi cuộc đời ông, giúp ông tránh được

những sai lầm trong cuộc sống. Ông cho rằng; “Trong con người phần chính yếu và căn

bản nhất là linh hồn, mà linh hồn có bản chất linh thiêng giống thần minh và bất tử như

họ. Vì vậy tác vụ đặc biệt của linh hồn là suy lý như một lý trí”56.

Nếu chúng ta xét mọi khuynh hướng truy tìm tri thức của Socrates thì chúng ta

thấy ông luôn xoay quanh con người, chỉ lấy nhân bản làm gốc và muốn có tri thức để

hướng tới hạnh phúc và đức hạnh. Như vậy con người muốn sống tốt thì phải có tri thức,

vì theo Socrates con người không thể làm điều thiện nếu họ không biết điều thiện là gì.

Tri thức soi dẫn cho chúng ta biết được sự thật về chính bản thân chúng ta và về thế giới

chúng ta đang sống.

Mặt khác theo truyền thống Hy Lạp, triết học là yêu mến sự khôn ngoan cho nên

triết gia Socrates còn nhấn mạnh hơn nữa. Theo ông triết học được coi là yêu mến Thần

Linh. Tri thức có tính chất thần linh và có tri thức mới giúp con người hiểu biết hơn về

Thần Linh. Theo ông chính Thần Linh đã ủy thác cho ông một sứ mệnh liên quan đến

vấn đề tri thức và đức hạnh để giúp người khác nhất là giúp dân thành Athènes, khám

phá ra chân lý đang tiềm ẩn nơi mỗi người. Với một sự ý thức là Thần Linh ủy thác cho

mình trách nhiệm cao quý nên cả cuộc đời của Socrates đã sống hết tình, sống làm

gương… và không ngừng giảng dạy cho hậu thế những gì mà chính bản thân ông đã

sống. Để làm chứng cho cuộc sống tốt của mình, ông đã can đảm đón nhận cái chết như

một chiến sĩ anh hùng, không bao giờ chùn chân, gục ngã dưới những lời xấu xa, đê hèn

của dư luận.

56 Lê Tôn Nghiêm, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Tập II, 2000, Nxb Tp HCM, tr. 14.

Page 28: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

28

Với ông, nguồn gốc khôn ngoan không xuất phát từ con người, nhưng đến từ

Thần Linh. Vì “Bản chất của luân lý phải đặt vào bản chất của nó chứ không được đạt

ở ngoài, nghĩa là luân lý chỉ có giá trị nội tại chứ không ở giá trị ngoại tại: ta chỉ hành

động vì chính điều gì tự nó phải, không được hành động vì để thỏa mãn ước muốn riêng

tư nhất thời của ta57”. Vậy tacó thể nói đức khôn ngoan nơi triết gia nàykhông phải của

loài người nhưng là bắt nguồn từ chính Thần Linh.

Như vậy, con người muốn sống hạnh phúc thì phải có đức hạnh, hay có thể nói tri

thức là đức hạnh để đạt tới hạnh phúc. Mà đường lối đi tìm đức hạnh không thể thiếu tri

thức vì cả hai cùng song hành bổ túc cho nhau, nếu trên đường truy tìm đức hạnh mà

thiếu tri thức hay họ không biết cảm nhận hạnh phúc là gì, như thế có nguy cơ rơi vào

tình trạng nô lệ cho những thú vui vô bổ mà người ta cứ tưởng đó mới thật là hạnh phúc.

Sự nhầm tưởng đó là vì thiếu tri thức và đức hạnh đúng đắn, do đó cuộc sống của mỗi

người rất cần có mục đích, có lý tưởng và có một hướng đi đúng nhằm vươn tới hạnh

phúc thực mà trong đó luân lý là hoa tiêu dẫn đường để qui hướng về một mình Thần

Linh mà thôi.

57 Lê Tôn Nghiêm, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Tập II, 2000, Nxb Tp HCM, tr. 235.

Page 29: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

29

PHẦN II

CON NGƯỜI THEO CÁI NHÌN CỦA PLATON

I. Đôi Nét Về Cuộc Đời Và Tư Tưởng

Platon là học trò ứu tú của Socrates. Chính Platon đã thừa kế quan điểm “hãy tự

biết mình” nơi người thầy của mình. Trong cuộc truy tìm triết lý của mình, Platon đã xây

dựng học thuyết về thế giới linh tượng hay còn gọi là thế giới ý niệm. Ta biết được thế

giới khả giác là nhờ hình bóng của một thế giới khác là thế giới linh tượng. Thân xác con

người chỉ là tù ngục của linh hồn và linh hồn thì luôn hồi tưởng lại thế giới ý niệm đó.

Vậy để biết xác thực hơn người viết xin trình bày một số nét sau đây:

1. Đôi nét về cuộc đời

Từ xa xưa trên mảnh đất Hy-Lạp, thuộc thành phố Athènes một tiếng khóc chào

đời với biết bao vui sướng vỡ òa trên gương mặt họ hàng thân quen, rồi đây cuộc sống

của đứa trẻ này sẽ như thế nào khi khung trời Tây Phương đang tràn ngập những triết lý.

Vậy khung trời đó là như thế nào đối với cậu bé thành Athènes này? Cậu bé đó là Platon

sinh năm (427-347 trước công nguyên), tên thật là Aritorler. Platon xuất thân từ một

dòng họ vua Hy-Lạp ở thành phố Athènes, và cũng như bao đứa trẻbình thường khác

nhưng cậu rất thông minh, có nhiều tài năng và dễ thương, thân hình cao lớn khỏe mạnh

như một lực sĩ nên dân chúng gọi tên là platon.Cha của Platon tên là Ariston thuộc họ

quốc vương Codus, vị vua cuối cùng của thành Athènes và được coi là con cháu của thần

Poseidon, và mẹ là Périctirma có họ hàng với Salon nhà luật sư lừng danh thời Hy Lạp.

Platon có một người chú tên là Critias là một trong 30 người thuộc hội đồng Hoạt Đầu58.

Sau khi Platon chào đời một thời gian thì cha ông qua đời, mẹ tái giá với

Pyrilampes một người chú họ thuộc họ ngoại. Tại nhà bố dượng Platon được ăn học giáo

dục theo truyền thống và hình thành nhân cách Hy lạp thời đó nghĩa là được đào tạo trở

thành một con người giỏi cả văn lẫn võ cho tới khi trưởng thành. Platon cũng có một

người chị và người anh ruột là Adeimantus và Glancon, những người anh em chị em của

Platon chỉ được nhắc tới trong cuốn sách “nền cộng hòa” trong vai trò đối thoại của

58 X. Hào – Nguyên Nguyễn Hóa, Sách Triết Học Cổ Hy Lạp Giản Yếu, Nxb Thanh Niên, tr. 76.

Page 30: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

30

Socrates. Khi trưởng thành rồi Platon đã có những đóng góp to lớn cho hoạt động chính

trị của Hy Lạp.

Năm 20 tuổi ông đã được dịp làm quen với Socrates, có lẽ đây là một bước ngoặc

trong cuôc đời ông và từ đó đi theo và làm đồ đệ của Socrates trong 9 năm khi người

thầy của mình qua đời. Cái chết của người thầy đáng kính đã gây khủng hoảng trong đời

Platon. Chính ông đã định hướng cho cuộc đời của mình khi gặp Socrates: “Tôi cám ơn

trời đã cho tôi là một người Hy Lạp, chứ không phải là một dân mọi rợ; một người tự do

chứ không phải là một người nô lệ, một đàn ông chứ không phải một đàn bà và quan

trọng hơn là sinh vào thời và làm học trò của Socrates59”. Từ đó ông đặt lại các giá trị

và bị thôi thúc tìm tòi các nền triết học mới.

Sau cái chết vì chính nghĩa của người thầy và chứng kiến thành phố Athènes suy

sụp bởi quân liên minh Ba Tư và thành phố Sparte, Platon rời bỏ quê hương Athènes để

đi bôn ba khắp nơi, làm quen, học hỏi các luồng tư tưởng khác và các nền khoa học

khác. Năm -389 ông tới đảo Sixili ở đây ông có tham vọng thức tỉnh một vị bạo chúa là

cải cách nhà nước cho phù hợp như ý ông muốn nhưng không thành công. Vì thế ông bị

bạo chúa ghét bỏ, rồi bị tống giam giao cho một viên thuyền trưởng tên là Pollis, người

xứ Sparta. Rồi Pollis đã bán Platon như một tên mô lệ. Nhưng trong cái rủi lại có cái

may, một người đã cứu ông thoát được. Sau đó ông trở về lại Athènesmở trường mang

tên “Acadimia” và thành lập Viện Hàn Lâm để dạy học. Đây có lẽ là một trung tâm tư

tưởng lớn thời thượng cổ, là trung tâm của triết học duy tâm chống lại triết học duy vật.

Chính tại đây Platon sáng tạo và giảng dạy cũng mời gọi được rất nhiều người theo học

cả ở trong lẫn ngoài nước. Tại mái trường này ông đã đào tạo nên nhiều học trò xuất

chúng tiêu biểu là Aristote. Platon làm việc ở đây cho tới cuối đời.

Platon không có vợ, không con nhưng không vì thế mà không để lại gì cho hậu

thế. Ông để lại cho hậu thế những người con tinh thần rất mẫu mực, đạo đức và có trách

nhiệm với xã hội sau này, tiêu biểu là triết gia Plotin. Platon mất khoảng 80 tuổi, lúc

đang viết dang dở tác phẩm Thelams.

Ông đã để lại cho hậu thế rất nhiều tác phẩm chủ yếu là cuộc đối thoại, qua đó

ông trình bày tư tưởng của mình. Đối thoại được diễn ra một bên là nhân vật Socrates

59 Will Durant, Câu Chuyện Triết Học, 1971, tr. 25.

Page 31: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

31

còn bên kia là một người nào đó gồm; Banquet, Gorgias, Ménton, Phédon…Platon đã để

lại một phương pháp truyền thụ triết học nữa đó là bằng những câu chuyện thần thoại.

Về tư tưởng Platon không đồng ý với quan niệm lấy một yếu tố nào đó như: lửa,

nước, khí, đất để làm nguyên ủy cho vạn vật. Ông muốn tìm ra một yếu tố nào đó vững

bền hơn, bao trùm cả vạn vật, đem đến cho vật chất một ý nghĩa, một nguyên lý vận

hành. Bởi thế,triết học của Platon được coi là một hệ thống triết học duy tâm khách

quan, nhưng không xem nhẹ phần vật thể hữu hình, là phần luôn tồn tại, tác động với

tâm. Theo triết lý của ông,đầu tiên trong lịch sử triết học đã đạt tới sự hoàn chỉnh, nhất

quán và triệt để, nó đã phát xuất từ ba nguồn tư tưởng: (1) Triết học của Socrates về cái

phổ biến, cái chung làm cơ sở cho đạo đức; (2) Triết học của phái Elésée học thuyết về

sự hiện hữu duy nhất và bất biến; (3) Triết học của phái Pythagore về những con số, con

số được xem như là bản chất chân thực của sự vật. Dựa vào ba nguồn tư tưởng đó nhưng

chủ yếu vẫn là tư tưởng triết học của Socrates. Tuy nhiên trong vị thế ưu tiên triết học

của Platon là học thuyết về ý niệm, ý niệm tuyệt đối tức là cái có giá trị cao nhất là ý

niệm về sự thiện60.

2. Thế giới ý niệm

Platon là một nhà triết học duy tâm khách quan, điểm được nhấn mạnh nhiều nơi

học thuyết của ông là ‘Thế giới ý niệm’. Đây được xem là thế giới quan của ông, dựa

trên thế giới ý niệm ông đã xây dựng nên toàn bộ hệ thống triết học duy tâm của mình,

xoay quanh về quan niệm thế giới khả giác và thế giới khả niệm, thế giới khả niệm cũng

được gọi là thế giới ý niệm. Còn thế giới khả giác tức chỉ cảm biết mà lại không chân

thật, không đúng đắn, vì các sự vật không ngừng sinh ra và mất đi theo quy luật của nó,

thay đổi và vận hành của nó chưa ổn định.Do đó, nó không bền vững và còn có nhiều

khuyết điểm.

Thật vậy, thế giới ý niệm có trước thế giới khả giác vì nó sinh ra thế giới khả giác.

Theo triết gia Platon thế giới ý niệm thì có thật, phi cảm tính, phi vật thể vì đó là thế giới

chân thật và đúng đắn. Các sự vật cảm biết trong thế giới khả giác chỉ là cái hình ảnh của

thế giới ý niệm, những nhận thức của con người không chỉ là ánh sáng các sự vật cảm

60 X. Hào – Nguyên, Nguyễn Hóa, Sách Triết Học Cổ Hy Lạp Giản Yếu, Nxb Thanh Niên, tr. 79.

Page 32: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

32

biết của thế giới khách quan nhưng là nhận thức về ý niệm61. Ý niệm là một thế giới có

cái đẹp tuyệt đối, sự thiện tuyệt đối. Thế giới đó có thật như những thứ mà ta thấy qua

hình tượng rõ ràng trong thế giới hữu hình.

Như vậy, Platon đưa ra câu chuyện: ‘huyền thoại về cái hang’ để đề cao ý niệm

được coi như là nguồn gốc đầu tiên của thế giới. Cái hang động đó chỉ có một cửa, cái

cửa này lại bị che phủ bởi một tấm màn. Trong đó có một người bị cột chặt vào cái ghế

khiến người đó không thể di chuyển hay làm gì ngoài việc chỉ biết nhìn thẳng về phía

trước. Ở phía trước xa xa nằm trên cao có một đống lửa vô hình cháy sáng, ở đống lửa

đó cũng có những con đường mà trên đó người ta đi lại làm việc… qua việc nhìn thấy

những hình tượng như vậy người ở trong hang động đó cứ tưởng là thật, chứ đâu biết

rằng: thực ra đó chỉ là cái bóng của thế giới bên ngoài, là thế giới ảo không phải là thế

giới thực tại. Đây có lẽ là một điều khó nhận ra với người cứ nhìn vào trong hang mà

không biết quay người lại xem thực hư là gì. Tuy nhiên, công việc của một triết gia là

giúp người ta nhận biết thế giới thực đó bằng hành động, giúp người ta “quay mặt lại” để

đối diện với thực tế chứ không phải chỉ là nhìn cái bóng ảo đó nữa.

Đối với Platon “thế giới khả giác” là những gì ta nhìn thấy, đụng chạm được, có

hình thù màu sắc…những gì có thể biết bằng năm giác quan của con người đều là hư ảo,

là không có thực vì các vật không ngừng sinh ra và mất đi. Chúng thay đổi, vận hành

không ổn định như thế là thiếu sự bền vững. Nhờ vậy mà triết gia Platon cho rằng: cảm

biết được sự thật, cảm biết được thực tại không phải là dễ, cảm giác thực ảo ra sao vẫn

cứ luân phiên xuất hiện, đặc biệt sau cái chết của người thầy kính yêu Socrates.Tuy

người thầy đã chết nhưng đối với ông vẫn như còn sống đó. Sống ở đây không phải là

sống thể xác nhưng là sống trong tâm tưởng của người học trò, ý niệm về người thầy mãi

mãi vẫn hiện hữu trong con người Platon62.

Đồng thời thế giới ý niệm là thế giới mà có lẽ ai trong chúng ta cũng nghĩ ngay tới

là một thế giới phi cảm tính và phi vật chất. Nhưng đối với Platon, chỉ có thế giới ý niệm

mới có thật và vĩnh hằng bất biến theo thời gian và không gian, còn thế giới khả giác hay

sự vật cảm biết được chỉ là cái bóng của thế giới ý niệm mà thôi63. Chính ông gọi đó là

61 X. Lm Theophane Phạm Hữu Ái, Dẫn Vào Siêu Hình Học, 2014, tr. 11. 62 X. Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương Thời Thưởng Cổ, Học Viện Đa Minh, Tập 1, 1995, tr. 180. 63 X. Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương Thời Thưởng Cổ, Học Viện Đa Minh, Tập 1, 1995, tr. 183.

Page 33: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

33

hình ảnh, là kiểu mẫu, và nó sản sinh, định hình trên thế giới vũ trụ, vĩnh viễn hiện hữu

và năng động, Một lần nữa chính Platon cho rằng: hiện hữu là cái phi vật chất, là cái

nhận biết bằng trí tuệ siêu tự nhiên, cái hiện hữu thực phải luôn là thế giới ý niệm, nó vô

hình nhưng lại hiện hữu vĩnh hằng không bị chi phối, nó là thực tại bất khả phân chia,

không chịu khuất phục trước mọi thử thách không gian và thời gian.

Ngoài ra thế giới ý niệm của platon là một sự thiện tuyệt đối mà ông đặt lên hàng

đầu của vũ trụ là Đấng Siêu Việt đồng thời cũng là một Đấng Duy Nhất64. Đấng duy nhất

đó chính là Thượng Đế mà các tác phẩm của ông đã trình bày theo tư tưởng tôn giáo, tuy

chưa rõ nhưng ông vẫn tin có Thượng Đế và tinh thần tôn giáo thấm nhuần tất cả cuộc

sống và những tác phẩm của ông. Đặc biệt trong cuốn “Les Lois” có chỗ viết rằng: “Triết

lý nhất thiết là tôn giáo”. Do đó ông đã lên án những người vô tín ngưỡng và những

người có niềm tin sai lạc.

Thật vậy chính Thượng Đế của Platon là Đấng toàn năng, toàn mỹ, là Đấng thiện

hảo luôn là tuyệt đối. Như vậy, từ ngàn xưa con người đã có ý niệm về Thượng Đế, có

cảm nghiệm về sự hiện hữu siêu việt về thần thánh về Thượng Đế65. Sự hiện diện của

thần tạo hóa trong cuốn Timée đã là một sự kiện rất quan trọng, nhưng trước đó triết gia

Platon đã chú ý nói đến thần thánh và Thượng Đế để nói tới cái đẹp, cái tốt lành, nói tới

ý niệm tối cao là sự thiện tuyệt đối và hoàn hảo. Dù rằng con người không có kinh

nghiệm hay tri thức đầy đủ về Thần Thánh, nhưng vẫn cố tạo ra một ý niệm về Thượng

Đế66.

Theo ông thế giới ý niệm luôn là đỉnh cao “chí thiện” đóng vai trò của một

Thượng Đế nhưng Platon lại không gọi là Thượng Đế mà gọi đó là những vị thần bán

tạo hóa. Vị thần tạo hóa này thì hằng hữu và có nhiệm vụ sáng tạo ra vũ trụ và các thần

hạ đẳng, vì ông không hướng nhìn về mô phạm hằng hữu là cái gì sống động từ nội tâm

bên trong con người. Bởi thế Robin đã viết: “Có lẽ chúng ta chứng kiến ít ra ba sự hiện

hữu của thần; trên hết là cái sống động từ nội hay Thượng Đế khả tri với những ý

tưởng; tiếp theo đó thần tạo hóa hay Thượng Đế là người thợ sáng tạo ra vũ trụ này;

64 X. Viện Phụ Dominico Phạm Văn Hiền, Triết Sử Tây Phương, tr. 26. 65 X. Lm Nguyễn Thế Thoại, Vấn Đề Về Thượng Đế, tr. 50. 66 X. Lê Tôn Nghiêm, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Tập II, Nxb Tp HCM, tr. 230.

Page 34: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

34

cuối cùng là vũ trụ hay Thượng Đế hữu hình với các tinh tú”67. Ý niệm tối cao là sự

thiện tuyệt đối mà Platon là khuynh hướng để nói tới tinh thần tôn giáo: ‘có thể nói tinh

thần đó được diễn tả hầu hết trong các sáng tác của Platon68’. Giả thiết cho rằng triết gia

này luôn nghĩ tới con đường tôn giáo, khoa học và triết học mới có thể giải guyết được

vấn đề mà nhiều triết gia bàn tới là Thượng Đế.

Quả thực theo thời giancác triết gia hiện đại sau này đã thu nhặt từ các bậc thầy đi

trước nên rút ra một câu thật hay: “mất công tìm mấy chăng nữa cũng chỉ có ba con

đường cho những vấn đề hóc búa: con đường tôn giáo, con đường triết học và con

đường khoa học. Mỗi bên một cách là đã cố gắng đem lại cách giải đáp cho những thắc

mắc của con người69. Có lẽ bất cứ triết gia nào đã theo đuổi đammê nghiên cứu về triết

lý cũng cho rằng: “những điều không biết thì không nên nói tới70”. Qua đó có ý nói rằng:

những vấn đề hoài nghi thì phải đi tìm cho cặn kẽ để trả lời cho thỏa đáng nếu không họ

vẫn luẩn quẩn trong sự hoài nghi mà thôi.

Trong tác phẩm Timée ông đã đưa ra một trình thuật, ông gọi là chuyện hoang

tưởng mà như thể có thực, “để qua đó dệt nên hình ảnh huyền ảo của một Vị Thần Tạo

Hóa sản sinh ra thế giới bằng cách ngắm ngía Mô Hình vĩnh cửu là các ý niệm. Trong

tác phẩm “Les Lois” quyển X, Platon không còn hài lòng với việc đề xướng một câu

chuyện huyền ảo, chính ông muốn thiết lập một thiên “vũ-trụ-sử-quan” dựa trên việc

chứng minh sít sao bằng những luận cứ khả dị được mọi người chấp nhận. Trong nổ lực

vận dụng lý trí này, Platon rõ ràng đã vay mượn lại khái niệm của các nhà tư tưởng ban

đầu, khái niệm phải hiểu như là “thiên-nhiên-trình-tự”, và ông đã nhấn mạnh đến tính

chất nguyên sơ và cội nguồn của trình tự ấy. Tuy nhiên, đối với Platon, yếu tố nguyên sơ

nhất chính là chuyển động và trình tự tự mình sản sinh ra mình, là động cơ tự động, tức

linh hồn”71.

Như vậy đã là Đấng Tuyệt Đối thì con người không thể hiểu thấu căn nguyên,

tường tận để mổ xẻ như các cuộc thí nghiệm khoa họcđược. Bởi thế:“Con người đâu bắt

buộc Thần Thánh và nhất là Thượng Đế chịu ngồi đó cho ta quan sát, ngắm nghía, bàn

67 Trích Lại Lê Tôn Nghiêm, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, tr. 231-232. (Platon, tr. 180). 68 X. Lê Tôn Nghiêm, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Tập II, Nxb Tp HCM, tr. 229. 69 Jean Guitton, Dịch Lê Trọng Bằng, Thượng Đế Và Khoa Học, tr. 8. 70 Kart Jaspers, Triết Học Nhập Môn, Ca Dao, tr. 100. 71 Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr.39.

Page 35: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

35

tán và bình luận được, chúng ta đâu có khả năng nghiên cứu và phát triển một khu rừng,

một bộ tộc nguyên sơ kỳ bí được72”. Qua những trình bày trên có thể nói triết gia Platon

chưa nêu lên được một lý chứng rõ ràng nhưng ông muốn dẫn đưa hậu thế bằng hai con

đường suy tư đến với Thượng Đế; một là con đường vật lý, hai là con đường biện chứng.

Như vậy Platon khẳng định rằng: con đường biện chứng dẫn con người đến với Đấng

Siêu Việt theo nghĩa nhất Thần Giáo và Thượng Đế sự sống, hành động. Tuy nhiên ông

vẫn chưa nói tới Thượng Đế có tính liên đới, có tính ngôi vị. Vậy xét cho cùng thế giới ý

niệm mà Platon nói tới là sự thiện tuyệt đối có thật sự là Đấng Siêu Việt hay không?

Để khẳng định cho câu hỏi trên, chúng ta nhận định rõ rằng: “Nhất định là không,

thiện thể của Platon chỉ là một trong những linh tượng, đó là linh tượng cao nhất mà

thôi73”. Do đó linh tượng có tính vĩnh cửu và hằng hữu, và theo ông đó là sự sống đời

đời. Tuy nhiên theo triết học hiện đại lại cho rằng linh tượng, các câu chuyện thần thoại

của Platon chỉ là thần thoại mô phỏng mà thôi chứ không có thực. Vậy có thể rút ra kết

luận về thế giới ý niệm cùa triết gia Platon: sự thiện, Đấng tối cao chỉ là một linh tượng

mà chóp đỉnh của linh tượng là thiện thể, là siêu việt tính. Đó là theo cái nhìn một chiều

của ông. Còn quan niệm của ông về linh hồn và thân xác thì sao?

II. Con Người Theo Cái Nhìn Của Platon

1. Thân Xác Con Người

Con người sinh ra có hồn và xác. Trong đó, mình phải sống làm sao cho cuộc

sống này thêm phong phú. Vậy thân xác theo triết gia Platon là gì? Thân xác con người

là một chủ thể, như một ai đó đứng ngoài đối tượng chung quanh tôi và có thể thấy được

cũng đụng chạm được. Như vậy, thân xác tồn tại trong thế giới này như một chiều kích

con người cắm rễ trên mặt đất, dựa vào trái đất để tồn tại và được nhờ sự thúc đẩy của

trái đất để khám phá ra sự kỳ diệu của vũ trụ và được dành cho sự ôm trọn của lòng đất

qua cái chết của mình. Vậy để khám phá con người như thế nào: theo triết gia Hy-Lạp

này nói thân xác là tù ngục của linh hồn? Ta cùng nhau tìm hiểu nó như thế nào?

72 Lm Nguyễn Thế Thoại, Vấn Đề Về Thượng Đế, tr. 51. 73 Lm Px Assisi Lê Văn Thành, Triết Học Trung Cổ, tr. 57.

Page 36: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

36

1.1. Thân xác là tù ngục của linh hồn

Một triết gia có thể nói là người đang đi tìm cái vĩnh hằng. Do đó theo triết gia

Platon thì những gì ta thấy trong thiên nhiên chung quanh mình, những gì ta có thể nắm

bắt được đều chỉ là bong bóng xà phòng. Bởi lẽ, không gì trong thế giới cảm giác tồn tại

lâu dài, mọi sinh vật cuối cùng đều chết và bị phân rã74. Thân xác con người là cái hiện

hữu trong thế giới mà ta nhìn thấy chẳng qua chỉ là ảo ảnh. Là hình bóng của một thế

giới vĩnh cửu trên cao.Platon khẳng định; “Chức năng của thể xác là trở nên bể chứa

tạm thời và là nơi cư ngụ của linh hồn, là nô lệ của linh hồn”75. Như vậy tại sao Platon

có thể nói thân xác là một trong hai thành phần cấu tạo thành con người lại trở nên nhà

tù của linh hồn?

Platon giải thích như sau: vì một lý do nào đó mà linh hồn bị lưu đày vào thân

xác.Như vậy, thân xác là tù ngục của linh hồn, thân xác không phải là nơi cư ngụ tốt

nhất của linh hồn, vì thân xác phát xuất ra mọi cái ác và cái ác lại là cội nguồn của các

dục vọng do đó nó lại sinh ra sự thù nghịch, sự bất đồng, sự dốt nát… cho tới tận sự điên

rồ và các bệnh tâm thần76. Một số khía cạnh trong đời sống con ngườichẳng hạn “Chúng

ta có thể quyết định một số công việc nào đó nhưng ta lại cảm thấy thân xác lười biếng

hay yếu nhược hoặc đang hướng tới một điều gì khác thì lúc đó thân xác là tù ngục của

linh hồn, tinh thần thì hăng say nhưng thể xác lại yếu hèn77”.

Trong chiều hướng đó, thân xác con người cũng mang nơi mình một tiềm thể là sự

hư nát và hủy diệt. Như thế,thân xác đôi khi chưa phải là nơi cư ngụ của linh hồn vì thân

xác vẫn mang nơi mình sự hư hoại, sự bất toàn. Triết gia Platon nói về thân xác con

người có hai bản tính khác nhau gồm hồn và xác, nhưng thể xác và linh hồn tồn tại độc

lập với nhau. Thể xác con người là khả tử, vì nó được tạo thành từ những hành chất như

lửa, khí, đất, nước của vũ trụ, những hành chất này sẽ trở về với vũ trụ khi thể xác tan rã,

vì“Bản tính con người như là xác và hồn được xác định bởi đời sống con người trong

hạn định giữa hai thế giới khác biệt thế giới vật chất và thế giới tinh thần. Giống như

74 X. Trần Chu - Nguyễn Thế Nghĩa – Nguyễn Thị Hồng Diễm, Từ Các Triết Gia Tự Nhiên Đến K. Mark, Nxb Đại Học Guốc Gia Tp HCM, 2001, tr. 55. 75 Platon, Phedon, Bản Văn, 91c – 107b. 76 Đỗ Minh Hợp – Nguyễn Thanh – Nguyễn Anh Tuấn, Đại Cương Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Nxb Tp HCM, tr. 145. 77 Michael D. Moga Người Dịch Lm Lê Đình Trị, Những Câu Hỏi Khôn Cùng Triết Học Nhập Môn, Nxb Phương Đông, 2013, tr. 102.

Page 37: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

37

tảng đá, vì sao mà đại dương chúng ta thuộc về vật chất và phụ thuộc vào những quy

luật vật lý chi phối tất cả những vấn đề đó. Nhưng chúng ta không bị giam hãm vào thế

giới vật chất này bởi vì như là tinh thần chúng ta hướng vào lãnh vực của tư tưởng,

chúng ta vượt lên trên thời gian và chúng ta ý thức được sự vô tận78”. Vì thế, thể xác là

bể chứa tạm thời và cũng là nơi cư ngụ của linh hồn là nô lệ của linh hồn. Còn linh hồn

là một bổ phận của vũ trụ nên nó bất tử và vĩnh hằng, linh hồn này là do Hóa Công tạo ra

trước thể xác với chức năng vận hành thế giới. Chính linh hồn con người cũng tương tự

như linh hồn của vũ trụ, nghĩa là có chức năng vận hành thể xác, làm cho thể xác trở nên

sống động79.

Quả thực một sự vĩnh cửu không thể làm bạn và tồn tại một cách hoàn hảo được

trong một sự vật mang nơi mình tiềm năng của sự tan rã và hủy diệt được. Do vậy, linh

hồn không thể tồn tại mãi trong thân xác được, theo nghĩa đó “ Linh hồn của chúng ta

chỉ tồn tại và có trước khi chúng ta sinh ra80”. Con người theo quan niệm của Platon là

một linh hồn bị giam hãm trong một thân xác. Với quan điểm nhị nguyên này, thân xác

chẳng giúp gì cho linh hồn mà còn cản trở những sinh hoạt tâm linh của linh hồn. Thân

xác không phải là mồ chôn linh hồn. Quan niệm này của Platon đã hủy diệt cơ sở hiện

hữu của con người khi coi trọng linh hồn khinh chê thân xác, con người trở thành một

thứ dở người dở thiên thần81.

Platon luôn coi thân xác dù sống động cũng chỉ là một nhà tù của linh hồn mà

thôi, nơi đó nó làm mờ đi ý tưởng mà linh hồn đã có trước khi nó tồn tại trong “thế giới

ý tưởng”. Như vậy linh hồn chỉ hiện hữu cách đích thực và viên mãn nơi thế giới đó, chứ

không hiện hữu trong thân xác dù cho thân xác đó hoạt động và tồn tại trong thế giới ảo.

Theo như ông nói thì bao lâu linh hồn còn sống trong thực tại này thì bấy lâu linh hồn

vẫn chịu sống kiếp “tù nhân” mà thôi.Tuy nhiên đối với ông có sự phân biệt rõ ràng là

thân xác biệt lập với linh hồn, nó hiện hữu trong thế giới cảm giác, nên nó phải cùng

chung một số phận với những gì thuộc về thế giới là “cái bong bóng” nay còn mai mất.

Có thể nói đó là điều kiện căn cốt để linh hồn được giải thoát mà bước vào thế giới vĩnh

78 Michael D. Moga Người Dịch Lm Lê Đình Trị, Những Câu Hỏi Khôn Cùng Triết Học Nhập Môn, Nxb Phương Đông, 2013, tr. 102. 79 X. Viện Phụ Dominico Phạm Văn Hiền, Triết Sử Tây Phương Thời Thưởng Cố, tr. 52. 80 Viện Phụ Dominico Phạm Văn Hiền, Triết Sử Tây Phương Thời Thưởng Cố, tr. 53. 81 X. M. Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, Triết Học Nhập Môn, 2013, tr. 133.

Page 38: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

38

cửu. Thế giới đó con người muốn hạnh phúc khi tự giải thoát mình khỏi thân xác bằng

sự thanh luyện qua bốn nhân đức là: khôn ngoan, dũng mạnh, công bằng và tiết độ82. Đó

là con đường tốt nhất giúp con người đi ra khỏi cái tôi ích kỷ của mình nhằm vươn tới

hạnh phúc nơi Đấng Siêu Việt mà ai ai cũng hằng mơ ước.

1.2. Vượt ra khỏi chính mình để vươn lên tới Đấng Siêu Việt

Từ khi có loài người, lịch sử triết họcĐông Phương cũng nhưTây Phương đều

minh chứng một cách hùng hồn rằng: Thượng Đế không những là trung tâm của suy

tưởng và còn là trung tâm sinh hoạt của con người.“Platon là người đầu tiên đã quan

niệm rằng phải suy tư về hữu thể bằng cách siêu vượt từ vật thể khả giác để vươn tới vật

hữu tính của chúng”83.Như vậy, con người cần bước đi ra khỏi giới hạn của mình mà

vươn tới một cái gì đó ý nghĩa hơn,Siêu Việt hơn.“Chính Platon, trước cả các thành

viên thuộc phái Epicure, cũng đã từng nói rằng linh hồn có khả năng nâng tư tưởng và

nâng việc chiêm ngắm lên tới tổng thể của thời gian và của hữu thể và linh hồn không

coi cái chết như một điểm phải lấy làm sợ hãi84”.

Thượng Đế luôn luôn được truy nhận như là Đấng Tuyệt Đối để đặt nền móng

cho mọi hiện hữu và là ý nghĩa của đời sống con người. Tuy nhiên, quan niệm về

Thượng Đế cũng tùy theo lập trường của mỗi triết thuyết mà thay hình đổi dạng. Chẳng

hạn; Thượng Đế của Platon là Thiện thể, Linh tượng tối thượng trên các linh tượng,

nhưng chung quy cũng là một Linh tượng của vũ trụ thần thánh. Do đó mà Platon đã

dùng theo sát phương pháp toán học. Thượng Đế là một chủ động bất thụ động. Ý niệm

này bao hàm ý niệm vĩnh viễn,hiện thể thuần tuý, đơn giản, vô cùng, vô chất. Mối tương

quan này giúp chúng ta tìm về với Đấng Siêu Việt với người khác để cùng nhau lớn lên

trong hành trình truy tìm tri thức.

Nhiều khi ta tự hỏi tại sao người ta cứ luôn đặt vấn đề Thượng Đế mà không đặt

lại vấn ta sống như thế nào? Nhưng dù sao nhiều cách sống của ta có khác nhau thì vấn

đề cốt lõi chính là “ý nghĩa cuộc đời”. Suy tư về ý nghĩa cuộc đời, chắc hẳn không hiếm

người không đặt ra vấn đề về Thượng Đế. Thượng Đế là ai mà ta cần vươn tới, vươn tới

khi nào ta mới nhận ra Thượng Đế? 82 Viện Phụ Dominico Phạm Văn Hiền, Triết Sừ Tây Phương Thời Thưởng Cố, tr. 54. 83 X. www.chungta.com › Tư liệu nguồn & tra cứu. 84 Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr. 27.

Page 39: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

39

Thiết nghĩ đây phải là câu hỏi và tự mỗi người hãy tìm câu trả lờicho cách sống

của mình.Trong Ấn Độ Giáo thiền định có nghĩa là nhìn, nhìn vào chính mình để xem

chính mình và hiểu rõ hơn về mình, đồng thời xét lại trong cuộc sống ta sống tương quan

giữa chiều ngang và chiều dọc như thế nào? Có như thế ta mới vượt ra khỏi mình mà

vươn tới một Đấng Siêu Việt85. Trong giây phút ta đã từng sống và đã từng chết, và phải

chăng sống là để chết và chết để mà sống đồng thời vươn tới Chân Lý vĩnh cửu.

Cũng trong chiều hướng đó Platon cho rằng: Lý trí phải dành lại quyền điều khiển

các phần phi lý tính của bản ngã. Chỉ tri thức mới có khả năng tạo ra đức hạnh, bởi vì

chính sự ngu dốt hay tri thức sai lạc đã tạo ra cái ác. Tri thức nằm sâu trong kí ức trí

khôn. Những gì linh hồn biết trước kia bây giờ nhớ lại. Nó di chuyển từ bóng tối ra ánh

sáng, từ mê muội sang hiểu biết. Phải có một tác nhân bên ngoài giúp linh hồn thức tỉnh,

bắt linh hồn đứng dậy, quay lại… và vươn tới Ánh Sáng. Khi trí khôn đi từ mức độ thấp

lên cao, nó dần nhớ lại những gì nó đã biết trước đây và cần thiết phải biết để đạt sự hòa

hợp nội tâm. Sự phát triển đạo đức song song với tri thức của người ấy, vì sự tăng trưởng

tri thức làm gia tăng tình yêu đối với Chân, Thiện và Mỹ86.

Thật vậy, triết học của Platon là một hệ thống triết hoc duy tâm khách quan, và

đầu tiên trong lịch sự triết học đã đạt đến sự hoàn chỉnh, nhất quán và triệt để, đặc biệt

về quan niệm đạo đức. Chính nền đạo đức được xây dựng dựa trên cơ sở học thuyết linh

hồn mà các trường phái sau này như: khắc kỷ, tân Platon hay thánh Augustino đã lấy

làm “tiêu chuẩn” đạo đức cho chính mình. Như vậy triết gia Platon nghiệm ra rằng cơ

thể con người chia làm ba phần: đầu, mình và phần dưới cơ thể. Đầu là trung tâm của lý

tính, mình của ý chí và phần dưới của những thèm muốn hoặc ước vọng. Mỗi tính chất

của linh hồn (nằm theo bộ phận) tương ứng với một lý tưởng hay một đức hạnh.

Lý tính phải hướng đến sự khôn ngoan

Ý chí phải thể hiện sự dũng cảm

Và con ngườì phải kiềm chế ước muốn để biểu thị sự điều độ.

Tất cả vũ trụ, cho đến đời sống của chúng ta mỗi ngọn cỏ, mỗi cá nhân, mỗi ý

nghĩa nếu không có thật - như là thật, thì có gì để bàn, để nghiên cứu, để ứng dụng? Và

85 X. Trần Thị Giồng, Tâm Bất Biến Giữa Dòng Đời Vạn Biến, Nxb Phương Đông, tr. 15. 86 X.https: vechaihoanghon.blogspot.com/2011/12/ao-uc-cua-platon.html.

Page 40: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

40

hữu thể cần có thật - hiện diện thật và đòi hỏi một bản tính thật cho nó, cho dù cái hão

huyền có thể là giả tạo với người này hay người khác nhưng chính sự giả tạo cũng đã

xuất hiện, có bản tính thật của nó, giống như một kẻ dối trá cũng hiện diện ở trên đời.

Bởi thế, hữu thể là con đường tất yếu dẫn đến chân lý.

Nền triết học của Platon đã để lại cho các thế hệ sau có một hướng đi mới và khai

mở ra con đường để con người tìm kiếm hạnh phúc. Đó chính là biết làm chủ chính bản

thân của mình, lý trí phải làm chủ và điều khiển tinh thần và dục vọng. Con người muốn

được giải thoát thì phải trở về với thời điểm ban đầu, tức là xuất phát lại ý tưởng ban

đầu. Đạo đức học Platon giúp con người khám phá ra một cái gì đó siêu việt và thiện hảo

mà ai cũng luôn khao khát87. Cái muốn vươn lên đó chính là sự thao thức của linh hồn,

vì con người hay tạo vật chỉ là bản sao của cái có sẵn tuyệt đối; hay nói cách khác tạo vật

hữu hạn luôn khao khát cái vô hạn như Chúa Giêsu mời gọi: “Anh em hãy trở nên hoàn

thiện, như cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”(Mt 5,48).Ra khỏi chính mình khi

linh hồn con người cảm thấy và biết các Ý Tưởng trong thế giới Siêu Thiên khi còn tách

biệt khỏi thân xác, nhưng khi xuống nơi thân xác thì linh hồn quên đi các Ý Tưởng và

chỉ nhớ lại chúng khi đối diện với những với những sự vật vật chất.

2. Linh Hồn Con Người

Linh hồn con người được ví như sự bất tử, nguồn ban tặng sự sống là yếu tố chịu

trách nhiệm cho việc tổ chức tất cả những yếu tố của một thân xác còn hoạt động trong

một cơ thể thống nhất. Nhờ đó, con người ý thức hơn về thân xác và linh hồn ở nơi mình

như thế nào trong vũ trụ bao la đầy kỳ diệu này?

2.1. Mối tương quan giữa thân xác và linh hồn

Khi nói về thân xác và linh hồn chúng ta thường nghĩ ngay tới yếu tố phải chết và

bất tử trong đời sống. “Hồn và xác có những đặc điểm, những chiều kích riêng biệt khác

nhau, nhưng cả hai cùng làm thành một toàn thể, và mỗi phần thể riêng biệt đều có quan

hệ mật thiết đối với tất cả những phần thể khác88’. Như vậy một bên là thân xác mau qua

và một bên là linh hồn bất tử, cả hai có mối tương quan gì không?

87 X. Lê Tôn Nghiêm, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Tập II, Nxb Tp HCM, 2000, tr. 99. 88 Lm Vũ Văn Tự Chương, Từ Suy Niệm Đến Chiêm Niệm, Nxb Đông Phương, 2008, tr. 246.

Page 41: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

41

Theo Platon thân xác và linh hồn có mối dây tương quan mật thiết với nhau, cả

hai cùng bổ túc cho nhau. Linh hồn không thể tồn tại nếu không có một thân xác, trong

khi đó linh hồn không phải là cơ thể mà là cái thuộc về cơ thể. Do đó linh hồn phải ở

trong cơ thể hay một thân xác nhất định, nếu thân xác chết thì linh hồn cũng rời khỏi

thân xác mà bay lên trú ngụ nơi một vì sao89.

Thật vậy, triết gia Platon luôn chủ trương thân xác là nhà tù của linh hồn, bao lâu

thân xác còn tồn tại thì bấy lâu linh hồn vẫn còn là tù nhân. Vậy làm sao có thể làm dịu

bớt đi hay xóa bỏ sự đối nghịch này?

Dưới góc nhìn triết học duy tâm, con người phần nào đã không được sống thật với

chính bản thân, với chính linh hồn vì đã bị cái thể xác ràng buộc. Chẳng hạn, nơi thể xác

con người ta phải cần cái ăn, cái mặc, nếu không ăn thì thể xác không tồn tại, nếu không

mặc thì thể xác trở nên xấu xí. Từ đó người ta đòi hỏi ăn ngon mặc đẹp…Dẫn đến sự

tranh đua, sự ham muốn. Điều đó phải chăng đã góp phần giết chết linh hồn? Và tất cả

những điều đó phải chăng chỉ để bồi dưỡng cho cái tôi thể xác này? Con người chung

sống với nhau trên trái đất đều có mối liên hệ với nhau. Nhưng trong cuộc sống đó, mối

liên hệ đại đa số là mối liên hệ về thể xác90. Dường như linh hồn con người vượt trên thể

xác, vượt cả thời gian và không gian nhưng thực ra nó không vượt lên trên thể xác bởi vì

những ý tưởng cao nhất và trừu tượng nhất của con người lại được suy tư một cách cụ

thể. Do đó linh hồn và thân xác có một mối liên hệ khắng khít với nhau.

Platon đã đưa ra một phương thế đó là phá hủy thân xác để cho linh hồn được giải

thoát. Như vậy con người muốn giải thoát bằng con đường nào? Triết gia này đã đưa ra

phương pháp giải thoát đó là: khôn ngoan, công bằng, dũng mạnh và tiết độ. Đó là bốn

nhân đức trụ mong muốn nó trở thành gánh nặng đè trên thân xác để mong giải thoát cho

linh hồn. Cho nên có mối tương quan giữa linh hồn và thân xác là tương quan bản thể và

tùy thể, linh hồn và ý tưởng trên cao nhập vào điều khiển thân xác, linh hồn là yếu tính

của thân xác.

Sứ mệnh của linh hồn luôn là tìm kiếm trí tuệ và trở về sự nguyên sơ ban đầu làm

cho linh hồn được giải thoát khỏi thân xác. Sau khi chết, linh hồn sống ở cõi

89X. Viện Phụ Dominico Phạm Văn Hiền, Triết Sử Tây Phương Thời Thưởng Cố, tr. 52. 90 X. Https: Khoahoc.Tv › Bạn đọc › Khoa học & Bạn đọc

Page 42: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

42

“Hadès”(tức là cõi địa ngục của Hy-Lạp), trong cuộc sống nếu con người sống tốt thì

linh hồn xứng đáng trong việc tự giải thoát mình khỏi thân xác, còn nếu như thiếu cố

gắng thì linh hồn sẽ di chuyển từ cao xuống thấp. Như thế, linh hồn cần phải thích nghi

với môi trường bản chất mới ở cảnh thế mới91.

Đức giáo hoàng Phanxico cho biết giáo huấn của Giáo Hội về con người như sau:

“Con người gồm thể xác là linh hồn, xác và hồn ảnh hưởng lẫn nhau. Chà đạp thể xác

thì linh hồn cũng bị tổn hại92”.Như vậy con người phải biết tôn trọng và gìn giữ linh hồn

và thân xác của mình cho thật tốt, con người chúng ta được dựng nên đâu phải là tự

nhiên mà có nhưng biết bao công lao vất vả từ Thượng Đế mà qua bao thế hệ tổ tiên, ông

bà, cha mẹ rồi mới có chúng ta. Dẫu rằng, triết gia Platon một thời đã cho rằng thân xác

là tù ngục của linh hồn và Giáo hội cũng một thời cũng áp dụng triết thuyết này, nhưng

sau cuộc họp công đồng Vaticano II đã chỉnh lại cho phù hợp hơn để nói lên rằng thân

xác và linh hồn đều cần trân trọng hơn nữa cho xứng với nhân phẩm từng người gồm thể

xác và linh hồn.

2.2. Linh hồn con người mang tính bất tử

Platon quan niệm linh hồn con người mang tính bất tử, vì nó thuộc về thế giới ý

niệm. Nó là thành phần của linh hồn trong vũ trụ ảo nó bất tử và vĩnh hằng. Để chứng

minh con người bất tử, Platon đã đưa ra những luận đề cho sự bất tử của linh hồn. Đó là

dựa trên sự hồi tưởng, dựa trên sự tương phản, dựa trên mối liên hệ giữa linh hồn và ý

niệm trong cuộc sống. Từ đó Platon đã kết luận là linh hồn mang tính bất tử. Nguyên lý

Euclide về đường thẳng vẫn được học mãi cho đến ngày nay và vấn đề triết thuyết của

Platon vẫn còn giá trị cho mọi người và mọi thời đại. Có lẽ các thế hệ sau vẫn nhớ ơn tới

người thầy của mình“ Vai trò của triết gia này đã giúp cho con người nhận ra hay vượt

ra khỏi cái thế giới cảm xúc vật lý, để hướng về một thế giới vĩnh cửu không thể xóa

nhòa và thay đổi”93.

Tuy nhiên, giữa một thế giới hơn sáu tỷ người không ai giống ai cả, người có

điểm này kẻ có điểmkia. Không ai muốn khoác trên mình một chiếc áo giống người

91 X. Hào-Nguyên Nguyễn Hóa, Triết Học Cổ Hy Lạp Giản Yếu, Nxb Thanh Niên, tr. 86. 92 Báo Công Giáo, Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo, Số 19 - Tháng 7 & 8 – 2015, tr. 13. 93 Michael D. Moga Người Dịch Lm Lê Đình Trị, Những Câu Hỏi Khôn Cùng Triết Học Nhập Môn, Nxb Phương Đông, 2013, tr. 106.

Page 43: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

43

khác, nếu có khoác chiếc áo của người khác thì chỉ một thời gian thôi. Liệu khi thay đổi

giống một ai khácchắc hẳn cũng chẳng vui gì. Vì khi nào ta cố gắng để nên giống người

khác thì khi đó ta tự đánh mất chính mình. Chính tôi phải là tôi chứ không ai khác ngoài

tôi, tôi là đạo diễn và cũng là diễn viên cho cuộc đời tôi. Các triết gia cũng vậy! sự truy

tìm về hạnh phúc luôn luôn khác nhau, từ đó có những đường lối khác nhau không đồng

thuận ý kiến của nhau. Chẳng hạn triết gia Aristote không đồng thuận với Platon, chính

Aristote đã khẳng định và mạnh mẽ phủ nhận sự bất tử của linh hồn. Vì ông cho rằng

theo bản thể thì con người giống nhau, nhưng mô thể không thể tồn tại sau khi thân xác

là “chất thể” tan rã. Như vậy có thể gọi linh hồn là “mô thể” cũng không thể tồn tại khi

thân xác là “chất thể” bị hủy diệt. Chính ông thêm rằng chỉ có “trí năng” của con người

mới bất tử mà thôi, còn linh hồn thì mang tính khả tử94. Triết gia cũng chủ trương thuyết

nhị nguyên nói rằng: “ Hồn và xác là hai thành tố cấu tạo nên con người, nhưng tách

biệt nhau. Chỉ có hồn mới hiện hữu thực sự, vì mang tính vĩnh cửu, còn thân xác chỉ hiện

hữu tạm thời95.Đó phải chăng là bất tử tồn tại của linh hồn chứ đâu bởi thể xác?

Có một sự phức tạp là hồn có thể ở bất cứ đâu và có sự sống không bị giới hạn

vào con người. Hẳn nhiên có thể nói “Hồn có nhiều dạng thức khác nhau của đời sống,

một số thì cao hơn và một số khác lại thấp hơn. Hồn của thú vật thì cao hơn hồn của cây

cối và hồn của con người thì cao hơn hồn của thú vật. Điều này lại làm cho các hồn

khác biệt nhau. Phải chăng tất cả các hồn đều là tinh thần? Phải chăng tất cả hồn đều

bất tử”96?

Triết gia Platon là người đầu tiên tách rời tinh thần và thể xác, trong con người có

hai phần là xác và linh hồn. Linh hồn được xem như là một thực thể độc lập, không phụ

thuộc vào thể xác, hơn thế nữa nó còn chi phối thể xác. Linh hồn làm cho thể xác hoạt

động, linh hồn điều khiển thể xác. Linh hồn tồn tại độc lập với thể xác con người, linh

hồn bất tử, ý niệm tồn tại bất biến và vĩnh hằng, linh hồn thuộc thế giới ý niệm nên linh

hồn bất tử.

Đồng thời Platon không chỉ tách rời mà còn đối lập linh hồn với thể xác trong con

người, ông coi thể xác chỉ là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn. Theo Platon thể xác con 94 X. Viện Phụ Dominico Phạm Văn Hiền, Triết Học Hiện Đại Tây Phương, tr. 9. 95 Viện Phụ Dominico Phạm Văn Hiền, Triết Học Hiện Đại Tây Phương, tr. 9. 96 Michael D. Moga Người Dịch Lm Lê Đình Trị, Những Câu Hỏi Khôn Cùng Triết Học Nhập Môn, Nxb Phương Đông, 2013, tr. 110.

Page 44: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

44

người được cấu thành từ đất, nước, lửa, không khí. Do vậy thể xác không thể bất tử còn

linh hồn là sản phẩm của linh hồn vũ trụ gồm 3 phần: Lý tính hay trí tuệ, xúc cảm và cảm

tính trong đó phần lý tính thì bất tử còn hai phần sau thì chết cùng thể xác.Bản thân số

lượng linh hồn không thay đổi bởi chúng được tạo ra bởi Thượng Đế. Sau khi được tạo ra

mỗi linh hồn trú ngụ ở một vì sao trên trời và sau đó chúng dùng cánh bay xuống trần gian

và nhập vào thể xác tạo nên con người97. Khi nhập vào thể xác con người thì nó quên hết

mọi quá khứ. Vì thế nhận thức con người là sự hồi tưởng lại những gì mà linh hồn đã lãng

quên.

Ngoài ra Platon phản đối cảm giác luận và nhận thức luận duy vật nói chung,

ông cho rằng nhận thức cảm tính, cảm giác, không phải là nguồn gốc của tri thức chân

thực. Kết quả của nhận thức cảm tính chỉ là dư luận. Tri thức chân thực chỉ có thể đạt

được bằng nhận thức lý tính và được thể hiện trong khái niệm. Nhận thức chỉ là sự hồi

tưởng của linh hồn bất tử, là sự liên hệ các chân lý được hồi tưởng. Chỉ có linh hồn

dũng cảm, có ý chí mới nhận thức được thế giới ý niệm, nhận thức được chân lý, như

vậy đam mê, dục vọng không thể nhận thức được chân lý. Muốn nhận thức được chân

lý phải dũng cảm, có ý chí98.

Platon chú ý đến phương pháp nhận thức, phương pháp đánh thức sự hồi tưởng

của linh hồn bất tử, phương pháp đó là phép biện chứng. Platon phủ nhận vai trò của

nhận thức cảm tính, của tư duy thuần túy đến mức lý tưởng hóa, thần thánh hóa nó. Phép

biện chứng theo cách hiểu của Platon là phép biện chứng duy tâm,“Platon cũng diễn tả

một ý tưởng này dưới dạng huyền thoại, bằng cách cho rằng mọi nhận thức đều là một

cuộc hồi tưởng của linh hồn về một thị kiến mà linh hồn đã có được trong kiếp trước: vì

thế cần phải luyện tập để có thể hồi tưởng tự mình nhớ lại.99 Một cách nào đó con người

nơi linh hồn là bất tử. Như vậy, giữa hai thầy trò Socrates và Platon vẫn có những điểm

tương đồng và dị biệt trong cách sống, trong triết lý để một cách nào đó làm dậy lên

những thế hệ sau luôn có nhiệt huyết truy tìm triết lý. Vậy những điểm giống và khác

như thế nào chúng ta cùng nhau tìm hiểu ở chương tiếp.

97 X. Lê Tôn Nghiêm, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, Tập II, Nxb Tp HCM, tr. 144. 98X. https://sites.google.com/site/...triet-hoc.../cuoc-dhoi-va-noi-dung-triet-hoc-cua-platon 99 Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr. 39.

Page 45: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

45

PHẦN III

ĐÁNH GIÁ & NHẬN ĐỊNH

I. Những Điểm Tương Đồng Và Dị Biệt Của Hai Triết Gia

Mảnh đất Phương Tây sản sinh ra những triết gia vĩ đại đã để lại cho hậu thế một

nền triết lý uyên thâm và sâu rộng. Giữa những nền triết lý đó có những triết gia đã có

chung một niềm đam mê, một nhiệt huyết nóng bỏng muốn truy tìm những gì là chân lý

nơi con người chứ không phải vũ trụ như các triết gia đi trước. Trong những cuộc truy

tìm chân lý đó cũng không ít những triết gia có những đường hướng mâu thuẫn nhau.

Bên cạnh đó cũng có những nền triết lý có sự hòa hợp với nhau mà đặc biệt là giới hạn

của chương này cho ta thấy sự giống nhau và khác nhau giữa hai triết gia Socrates và

Platon. Vậy đâu là những điểm nổi bật mà hai triết gia cùng nhắm tới? Chúng ta cùng

nhau truy tìm rõ hơn về hai triết gia này.

1. Những điểm tương đồng

Mỗi bước chân đi qua đều để lại dấu ấn, nhờ đó ta biết rằng một ai đó đã đi qua

đây. Trong những bước chân ấy đã để lại những kỷ niệm vui buồn, những quá khứ mà

người ta đã đem đến nơi mà họ đi qua có thể là cuộc đời của ai đó chăng... Có những dấu

chân đẹp và cũng có dấu chân chưa đẹp. Chính vì vậy cả hai bước chân của thầy trò

Socrates và Platon cùng đi trên con đường triết lý đã để lại những dấu chân như thế nào

cho hậu thế, dấu chân đó không phải đi trên cát để rồi cũng dễ bị xóa nhòa, nhưng theo

năm tháng những dấu chân đó đã in dấu trong lòng con người nơi đó không gì có thể xóa

nhòa được.

Socrates đã để lại câu nói:“Tự biết chính mình”. Biết mình là điều kiện đầu tiên

để hướng đến những cái khác và không ngừng giúp người ta nhận ra những gì ngay

chính. Bởi vì lời nói vốn bất cập nên có thể giúp người ta nhận ra điều ngay chính bằng

hành động và cuộc sống của mình100. Bởi lẽ việc chăm lo cho bản thân không thể tách

rời khỏi việc chăm lo cho đô thị và cho người khác. Tất cả lẽ sống vẫn là hướng về

người khác như triết thuyết của Heidegger luôn chấp nhận ném mình về phía trước101.

100 Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr. 44. 101 X. Viện Phụ Dominico Phạm Văn Hiền, Triết Học Đương Đại, Cour Học 2017 ( Lưu Hành Nội Bộ) tr. 65.

Page 46: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

46

Do đó triết học Hy-Lạp luôn mang đậm một sắc thái “sứ giả”, vừa mang một sắc thái

“bình dân”.

Cả hai thầy trò cùng hướng tới một mục tiêu cao hơn là “Cung cấp cho người trẻ

một nhận thức được xây dựng trên một phương pháp là dùng “lý trí”: nghĩa là một nhận

thức không tách rời khỏi sự gắn bó đối với điều thiện và sự biến đổi nơi con người tự

bên trong. Cả hai không chỉ muốn đào tạo nên những nhà cầm quyền tài giỏi nhưng còn

muốn đào tạo nên một con người đích thực102”. Đó là chú trọng đến con người, các vấn

đề nhân sinh, đến cái thiện. Thật thế một xã hội tốt đẹp cần có đức hạnh, mà đức hạnh lại

tùy thuộc vào bản chất con người. “Socrates đã từng cho rằng nhân đức cũng chính là

nhận thức, hẳn ông không có ý nói tới một nhận thức trừu tượng, tách biệt khỏi điều

thiện, nhưng nói tới một nhân đức đưa dẫn đến việc chọn lựa và ước muốn điều thiện,

nghĩa là một trạng thái nền tảng bên trong, một trạng thái cho thấy sự liên kết chặt chẽ

giữa tư tưởng, ý chí và khát vọng. Đối với Platon cũng vậy, nếu nhân đức là tri thức tự

thân cũng là nhân đức103”.

Cùng một đường hướng của Socrates và Platon là muốn giáo dục đồ đệ của mình

bằng con đường trực tiếp và bằng tình thương. Dưới ngòi bút của người học trò Platon,

Socrates tuyên bố rằng: “Người nào đã nếm trải cuộc sống trong nội vi triết học thì tất

nhiên có đủ can đảm đối đầu với cái chết, bởi lẽ chết là linh hồn tách biệt khỏi thân xác

và công cụ của triết học chính là giải thoát linh hồn ra khỏi thân xác. Thật ra, thân xác

gây ra cho chúng ta muôn vàn nỗi thống khổ, do những đam mê mà thân xác khơi dậy

cũng như do những nhu cầu mà thân xác áp đặt. Vì vậy, là triết gia cần phải tự thanh

luyện, nghĩa là phải ra sức níu kéo và thu gom linh hồn về một mối, ra sức giải thoát

linh hồn khỏi tình trạng phân tán và phiêu lãng do thân xác tạo nên104”. Như thế, phải

chăng cả hai thầy trò cùng có lý khi nói linh hồn thì bất tử?

Theo cái nhìn của hai thầy trò linh hồn mang tính bất tử. Hồnlà khả năng của trí

thông minh và tính khí, nó có tính cách ý thức của một con người. “Hồn! cái ở trong con

người chúng ta nhờ đó chúng ta được xem là người khôn hay dại, tốt hay xấu105”. Dù

cuộc sống có những lúc không theo ý mình nhưng đối với triết gia người Tây Phương 102 Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr. 74. 103 Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr. 83. 104 Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr. 86. 105 Đỗ Văn Thuấn Và Lưu Văn Hy, Lịch Sử Triết Học Và Các Luận Đề, Nxb Lao Động, 2004, tr. 37.

Page 47: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

47

này “Tin có linh hồn và tin linh hồn bất tử và trường cửu106”. Chỉ có hồn mới ban cho

con người có khả năng đó, qua khả năng này hồn con người giống thần minh mà thần

minh thì bất tử, do đó hồn bất tử.

Tuy nhiên, một thế giới muốn hòa hợp và phát triển thì phải cùng hiểu nhau, cùng

giúp nhau đi trên một con đường, một con thuyền cho dù phải đối đầu với bao sóng gió

bão táp đang tìm cách làm đắm chìm con thuyền tri thức. Do đó, cả hai thầy trò đều dùng

lý trí trong sáng của mình mà vươn tới ‘cái thiện’ trong đó vũ trụ điều hòa. Lý trí gìn giữ

và điều hòa sự công bằng của tâm linh. Do đó “Đối thoại là con đường hữu hiệu dẫn

đến chân lý107”. Như vậy trong cung cách sống theo gương người thầy của mình ông đã

lên án những người vô tín ngưỡng cũng như những người có niềm tin sai lạc về các thần

thánh mà chính cuộc đời của triết gia đã minh chứng.

2. Những điểm dị biệt

Triết gia là một con người có một triết lý theo cách riêng của mình với một sự

khác thường, không giống ai và dạy người ta triết lý với một tinh thần trong sáng, bình

thản, không thù hằn ghen ghét…nhờ đó mới gửi cho thế giới một thông điệp là “hãy tự

biết mình”, biết chính bản thân mình rồi lấy những khả năng vốn có của mình giúp cho

người ta tiến lên trên con đường tìm đến sự thật. Hướng cái nhìn lạc lõng về thế giới

quanh ta, nhìn về chính con người của ta. Như vậy, có rất nhiều người xem triết gia là

một vĩ nhân, có trí thông minh tuyệt diệu, lời dạy, học thuyết của triết gia rất bình dị

đúng với con người mà họ từng sống.

2.1 Triết gia Socrates: “Thật khó để diễn đạt triết gia Socrates một cách rõ ràng,

vì trong lịch sử chúng ta rất khó xác định Socrates là ai? Sau khi chết, các môn sinh mới

thành lập các trường phái hoặc nhà trường để quảng bá tư tưởng của thầy mình108”. Có

lúc, chúng ta cũng phải đặt câu hỏi: tại sao hiện trạng của thế giới loài người chao đảo?

Do đâu lòng người đầy tràn dục vọng? Tại sao đất nước, thành phố, quê hương lại có sự

chia rẽ? Do đâu sự giả dối, hiềm thù lại lan tràn? Phải chăng những thứ đó là do ta quá

chú tâm đến những sự vật, sự kiện quanh ta, trong môi trường ta sống mà quên mất con

người của ta. Thật trớ trêu, người ta bỏ quên mà không biết rằng mình quên chính cái ta

106 Viện Phụ Dominico Phạm Văn Hiền, Triết Học Tây Phương Thời Thượng Cổ, tr. 53. 107 Viện Phụ Dominico Phạm Văn Hiền, Triết Học Tây Phương Thời Thượng Cổ, tr. 48. 108 Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr. 32.

Page 48: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

48

thật sự109. Tại sao ta quên vậy nhỉ? Thiết nghĩ “do người ta làm với một cái gì bề ngoài,

tức là chạy theo dư luận, thành kiến, tình cảm nhất thời, tiền tài, quyền lực, giàu

sang…110, trong khi đó lại còn lười suy nghĩ cứ chạy theo những gì bên ngoài để đi tìm

cái nhất thời, cái không thật. Mà đâu nghĩ rằng chính trong nội tâm mới là điều cần thiết

hơn để cho ta suy tư và tìm kiếm. Đó mới là điều mà Socrates nói tới là “ chí thiện” là

cái “ lý trí trong sáng” là cái “ tình yêu thương”.

Socrates đã không chấp nhận bốn nguyên lý đầu tiên là: nước, đất, khí, lửa làm

nên vũ trụ như các triết gia đi trước ông đã chấp nhận nó. Với ông luôn có một ý thức

rằng: Trong mỗi con người đều được tạo hóa phú bẩm cho có một ánh sáng nội tại, ánh

sáng đó có thể ví như ánh mặt trời, tỏa sáng khắp nơi. Không một thứ nào bên ngoài con

người như tiền tài, danh vọng, nhà cao cửa rộng lại tỏa sáng hơn nó. Những giá trị bên

lâu trong tâm linh mỗi người làm lu mờ tất cả những giá trị bên ngoài. Những gì mà ánh

sáng tâm linh khuyên bảo ta làm, là những lệnh truyền tuyệt đối, vì thế nó đáng được gọi

là thiêng liêng. Chính những lệnh truyền đó mà Socrates đã cống hiến cuộc đời mình

bằng cách đi lang thang truyền dạy và sẵn lòng hy sinh mạng sống mình cho lý tưởng111.

Đối với con người Socrates là ‘hãy tự biết mình’. Với ngụ ý có thể biết rõ bản

chất ý thức lẫn vô thức của chính mình, là động cơ tạo nên năng lực, sự tiết độ và thành

đạt. Nếu các cá nhân có gặp những khó khăn có lẽ phần lớn bởi họ không thực sự hiểu

được bản chất, khả năng, giới hạn của chính họ. Như vậy, cuộc sống bế tắc rất cần

những tấm gương để soi chiếu cho họ thấy hướng đi mà nhận ra những ưu, khuyết điểm

và tiềm năng thực tế để bước ra khỏi những hố sâu của bế tắc đang từng ngày làm lu mờ

đi phẩm giá của con người112. Phương pháp của ông chỉ là đối thoại và giúp con người

đạt được chân lý. Còn người học trò xuất sắc của Socrates thì sao?

2.2 Triết gia Platon: ông đã phân biệt hai thế giới: một là thế giới hữu hình, và

thế giới kia là vô hình-thế giới ý niệm hay thế giới trí tuệ. Thế giới ý niệm thì vô hình,

im lìm, vĩnh cửu nhưng vẫn luôn luôn hiện diện và tác động. Còn thế giới hữu hình thì

con người dùng giác quan để thấy, biết được và luôn chuyển động. Theo ông chỉ có thế

109 X. Hào-Nguyên Nguyễn Hóa, Triết Học Cổ Đại Hy Lạp Giản Yếu, Nxb Thanh Niên, tr. 64. 110 Hào-Nguyên Nguyễn Hóa, Triết Học Cổ Đại Hy Lạp Giản Yếu, Nxb Thanh Niên, tr. 64. 111 X. Hào-Nguyên Nguyễn Hóa, Triết Học Cổ Đại Hy Lạp Giản Yếu, Nxb Thanh Niên, tr. 65. 112 X. William s. Sahakan, mabel l. Sahakan, Bản Dịch Lâm Thiện Thanh, Lâm Duy Chân, Tư Tưởng Của Các Triết GiaVĩ Đại, Nxb Tp HCM, 2001, tr. 53.

Page 49: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

49

giới ý niệm mới xác thực, mới là sự thật, nó nằm dưới tấm màn che bên ngoài sự vật, sự

việc mà chúng ta cảm nhận được qua thế giới hữu hình. Vì thế ông muốn nói rằng: “Loài

người sống trong thế giới hữu hình, là chỉ sống trong một thế giới bên ngoài. Con người

phải dùng lý trí suy tư, trở về soi xét con người của mình, để tìm đạt cho được sự thật

đích thực của thế giới ý niệm bị che dấu, để còn uốn nắn, định hình mình theo sự thật mà

mình muốn đạt được113”.

Trong con người thân xác là tù ngục của linh hồn nên linh hồn luôn chống đối và

phải chống đối với các dục vọng của thể xác, muốn thoát ra khỏi sự kìm tỏa của thân xác

cần có sự ép xác. Như vậy sự cản trở việc thi hành bổn phận và trách nhiệm con người

chính là nguyên nhân dẫn đến sự không thể hòa hợp được thân xác và linh hồn. Trong

khi đó:“Thành quả của Platon là một phần do giá trị văn chương bất hủ mà các tác

phẩm “đối thoại” của ông và phần nữa do sự tồn tại qua nhiều thế kỷ của trường phái

ông đã thành lập. Nhờ đó các tác phẩm đối thoại của ông đã không mai một và nhờ vậy

học thuyết của ông đã được triển khai cho dẫu có bị uốn nắn sai trệch114.

Học thuyết của Platon bao gồm các nguyên lý và thực thể của thực tại tối hậu, của

chân lý tuyệt đối, của đạo lý trong vũ trụ. Đó là những ý tưởng siêu hình, bởi lẽ thực tại

tối hậu vốn vượt lên trên thế giới vật chất và hiện tượng, chỉ hiển hiện trong thế giới tâm

tưởng và nhận thức. Với quan niệm ấy, ông cho rằng thế giới thực tại được cấu thành bởi

tinh thần, từ các yếu tố phi vật chất và vô hành tướng. Với tất cả chủ thuyết đều quy về

đạo đức luân lý, hoài bão sau xa nhất của con người là đạt tới chí thiện. Theo ông

“Không nhằm xây dựng một hệ thống lý thuyết về thực tại để rồi “thông tri” cho các độc

giả bằng cách viết lên một loạt tác phẩm ‘đối thoại’ với dụng ý trình bày hệ thống ấy

một cách có phương pháp. Đúng hơn, phải nói rằng triết học Platon hệ tại chỗ đào tạo,

nghĩa là uốn nắn và biến đổi các cá nhân bằng cách giúp họ vận dụng những trường

hợp đối thoại mà với tính cách độc giả họ tham dự một cách nào đó để có được những

kinh nghiệm và những đòi buộc của lý trí và sau hết có kinh nghiệm về chuẩn mực của

điều thiện115”.

113 Hào-Nguyên Nguyễn Hóa, Triết Học Cổ Đại Hy Lạp Giản Yếu, Nxb Thanh Niên, tr. 82. 114 Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr. 33. 115 Đậu Văn Hồng, Triết Sử Tây Phương Thời Thượng Cổ, Nxb Tôn Giáo, tr. 95.

Page 50: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

50

Như thế, nhiều khi trong cuộc sống Platon phải nại tới tri thức đã có sẵn để hồi

tưởng lại những ý niệm. Từ một thế giới cảm giác, các hình ảnh sự vật ông đã suy luận

kiểu toán học hoặc bằng cách cao hơn, bằng tri thức thuần túy, bằng linh cảm, thần cảm

mà đạt tới đích. Theo như ông nói thì nhận thức của con người chỉ có thể nắm bắt thực

tại một cách tương đối và phiếm diện. Trong khi đó lý trí của con người có khả năng

khai phá các quy luật tự nhiên hay thực tại tuyệt đối, thường hằng, đồng nhất và phổ

quát. Những dữ kiện về hiện tượng giới là tri giác của con người (qua giác quan), những

nguyên lý về thực tại tuyệt đối phải được suy tưởng và chiêm nghiệm. Các đối tượng

cảm quan tồn tại trong thế giới tri giác, các nguyên lý thực tại lại thuộc về thế giới suy

tưởng.

Platon đã phân loại người trong xã hội phù hợp với sự phân chia linh hồn thành

nhiều hạng trong một đẳng cấp từ trên xuống dưới. Mà theo ông những người lãnh đạo

nên là người hiền triết có đức hạnh để có đưa ra lề luật, những quyết định tốt, có lợi cho

cộng đồng xã hội mà ít sai lầm hơn. Một quốc gia thống nhất và một dân tộc thuần nhất,

thì mọi người phải đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi cá nhân quyền lợi quốc gia

là tối thượng. Người dân không ai được làm gì, hay có cách sống trái với lợi ích quốc

gia. Đứng trước quyền lợi quốc gia người dân phải sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân

mình để giúp dựng xây đất nước thêm phồn thịnh. Do đó xưa cũng như nay người ta vẫn

coi Platon là một con người vĩ đại116.

Platon chấp nhận sự dung hòa ‘lửa, nước, khí, đất’ là những vật liệu trong vũ trụ,

nhưng không tạo lập nên vũ trụ. Mà vũ trụ được tạo lập nên là ‘chí thiện’ một nguyên tắc

luân lý đạo đức trong thế giới ý niệm, thế giới tinh thần. Theo thánh Augustino nói:

“Triết học Platon là đỉnh cao nhất mà trí thông minh của loài người có thể đạt được mà

không nhờ khải thị linh thiêng và đức tin117”.

Như vậy Platon vẫn tin Thượng Đế và Thượng Đế của ông chỉ là cái chí thiện điều

khiển tất cả vạn vật. Tuy vậy cũng hơi tiếc cho triết gia này, ông không coi Thượng Đế có

ngôi vị. Platon là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ, dưới hình thức duy

tâm ông phát triển các tư tưởng của Socrates xây dựng những nền tảng khách quan của ý

116 X. Hào-Nguyên Nguyễn Hóa, Triết Học Cổ Đại Hy Lạp Giản Yếu, Nxb Thanh Niên, tr. 87. 117 Hào-Nguyên Nguyễn Hóa, Triết Học Cổ Đại Hy Lạp Giản Yếu, Nxb Thanh Niên, tr. 90.

Page 51: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

51

thức con người. Ông có công lớn trong việc nghiên cứu các vấn đề ý thức xã hội, khẳng

định vai trò to lớn của nó trong việc hình thành nhân cách và ý thức cá nhân con người.

Đồng thời bước đầu ông đã xây dựng nền tảng của các khái niệm, phạm trù và tư duy lý

luận nói chung.

Tóm lại, nói tới triết học Tây Phương người ta nghĩ ngay đến mảnh đất Hy Lạp và

các nền văn hóa gốc la tinh đã xây dựng nên những con người vĩ đại có ích cho xã hội.

Theo đó nhân sinh quan của người Tây Phương luôn có sự điều chỉnh và thay đổi. Với

tham vọng quán triệt mọi vấn đề, người Tây Phương cho thấy, họ không bao giờ thỏa

mãn với bất cứ một khám phá nào. Trái lại, dường như họ bất thỏa với mọi kết quả có

được để không ngừng vươn lên, vươn lên mãi trong cuộc sống. Lối sống ấy phản ánh rõ

nét qua các thời kỳ lịch sử trong việc họ truy nguyên về sự hiện hữu, về cùng đích và ý

nghĩa của cuộc đời.

II. Một Vài Nhận Định Về Con Người Trong Đời Sống Hôm Nay

1. Biết mình coi như là đích điểm

Con người là một hữu thể bất toàn. Như thế, hai triết gia là những con người chưa ai

hoàn thiện cả, cả hai vẫn đang tìm kiếm cho mình những đường hướng và phương thế khác

nhau để đạt tới hạnh phúc. Cuộc đời không tự duyệt xét mình là một cuộc đời không đáng

sống.

Con người sống trên trần gian này khó mà nhận biết mình được chính mình. Do đó

biết và hiểu mình coi như là một đích điểm: triết gia Socrates có câu: “bạn hãy tự biết

mình”. Ông đã lên án, phê phán những người có vẻ muốn bề ngoài như danh, lợi, thú, mà

mọi người tìm kiếm và cứ coi nó là sự thiện để rồi cuộc sống luôn bám theo và hướng về

nó. Trong khi đó cái biết nó tiềm ẩn bên trong mà mấy ai nhận ra để đi tìm hiểu nó cho

tường tận.

Dẫu biết rằng mục đích cuộc hành trình luôn đi từ ngoài vào trong chính mình, là

bỏ cái hướng ngoại để đi vào cái hướng nội, từ cái vô thường tới cái thường hằng. Nhờ

những cuộc truy tìm chính mình mà triết gia Socrates luôn cảm nhận rằng con người

không thể làm và đạt được điều thiện nếu họ không biết điều thiện là gì. Cái thiện đó

theo ông không phải là của cải, tiền bạc, quyền hành, danh giá…vì những thứ đó không

phải là những hạnh phúc thực sự, những thứ đó chỉ là những thứ chóng qua mau tàn, có

Page 52: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

52

khi nó làm cho con người bất hạnh. Sự thiện đích thực chính là biết mình là gì, nhìn lại

nội tâm để lắng đọng một chút đó mới thật là hạnh phúc là niềm vui nơi nội tâm mà ai ai

cũng ước mơ và như vậy mong muốn quy phục sự thiện.

Con người với thân phận mỏng manh biết mình là một tạo vật từ bụi đất, biết

mình thật hạnh phúc được sinh ra và làm con Thiên Chúa, biết mình có những lúc lầm

đường lạc lối rất cần được Chúa tìm kiếm đưa về118. Vì mọi việc tìm kiếm và hoạt động

của con người đều hướng tới sự thiện. Có nhiều sự thiện và hoạt động mà con người cần

kiếm tìm để nhận ra mình là gì?

Đó là một con người tự nhận biết chính mình, biết chính mình hẳn phải là một con

người đạo đức, nhân cách thanh cao, nói những lời đúng đắn và làm những điều tốt điều

phải. Nhận biết mình là một cái gì đó cao siêu rồi như lời nhà phật nói “ ấy là giác ngộ”,

nghĩa là không để vật chất, tiền tài, dục vọng bên ngoài thu hút, sai khiến, mà đi vào ánh

sáng tâm linh, đạo đức, vì biết rằng đạo đức mới là ánh sáng chân thật và bền lâu. Biết rõ

đạo đức có trong chân lý thì điều đó chân thật và bền lâu. Biết mình, trở về với chính

mình thì cũng phải biết dùng lý trí trong sáng để phân biệt. Đó phải chăng là kết quả của

suy nghĩ. Vì con người được Thiên Chúa tạo dựng có lý trí để suy luận, suy tư, hay tư

duy về luân lý là sự thiện đích thực.

Sự thiện đó được xem như là phán đoán để tìm ra chân lý là hướng đi đích thực

như các triết gia đi trước đã kinh qua. Các triết gia đã không ngại nhìn vào bản thân

mình thấy có những khiếm khuyết cần phải bổ sung thêm, nào là trí dục, đức dục để hợp

với môi trường hoàn cảnh sống của mình, và đạo đức để giúp con người hành động theo

những gì mà đạo đức đòi hỏi. Có thể nói đạo đức cũng được gọi là lương tri, là cái lý trí

nhận biết điều lành, nó hướng dẫn những hành vi trong cuộc sống của một con người.

Việc làm hòa hợp với ánh sáng tâm linh, với chí thiện và lòng thương yêu thì đã xây

dựng nên một con người tốt ở đời rồi. Đó là một con người có nhân cách đạo đức. Trái

lại, việc làm mà không hòa hợp với đạo đức và tình thương yêu thì nó sẽ xây dựng nên

một con người giả tạo với một tư cách kém cõi và xấu xa. Bởi vậy vai trò của lý trí của

lương tri rất quan trọng, nó như là điều đầu tiên bắt buộc trong việc xây dựng con người

triết gia đích thực. Vì vậy con người luôn luôn cần suy nghĩ cho thấu đáo để hành động

118 X. Tâm Tình Của Thánh Augustino Do Linh Mục Ân Đức Phổ Nhạc Trong Thánh Ca, tr. 97.

Page 53: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

53

vươn tới mục đích . Nếu một hành vi không suy nghĩ là một lần tự phủ nhận con người

thật của mình.

Dù thế nào đi nữa con người sinh ra đều phải học và suy nghĩ (thực hành), càng

học và suy nghĩ đến nơi đến chốn bao nhiêu thì con người càng vươn tới sự hoàn thiện

bấy nhiêu. Do đó Khổng Tử đã khuyên các thế hệ sau một câu về học tập và suy nghĩ rất

hay: “Học mà không suy nghĩ thì vô ích, suy nghĩ mà không học thì nguy hiểm119”. Tuy

nhiên, thực tế trong cuộc sống ta thấy cũng có người sợ suy nghĩ hay suy nghĩ một cách

qua loa, nửa vời. Tại sao vậy? Phải chăng họ chưa ý thức được đích đến và hướng đi của

mình. Một thợ thủ công làm việc một cách máy móc thì nhìn sản phẩm làm ra của họ chỉ

là sản phẩm thông thường; còn một nghệ nhân biết suy nghĩ trong mọi việc thì tạo ra

những sản phẩm nghệ thuật riêng biệt, độc đáo và hấp dẫn.

Cũng thế, một nhà lãnh đạo gánh vác công việc của quốc gia, xã hội, làm việc theo

lý trí trong sáng, theo lương tri và tình yêu thương thì họ sẽ đem lại cho quốc gia đó sự

phồn thịnh, ấm no và hạnh phúc. Còn kẻ bất tài hay lười suy nghĩ mà lãnh đạo sẽ đưa dẫn

tới một xã hội tham lam quyền lực, bè nhóm…sẽ làm cho xã hội thêm khốn đốn mà thôi.

Vậy để biết mình, hiểu mình như thế nào cần phải sống theo những gì mà lương tri mách

bảo. Vì lương tri là một người bạn trung thành không thể thiếu trên con đường truy tìm

chân lý.

Như vậy, các triết gia Hy-Lạp vẫn luôn là những bó đuốc sáng ngời chiếu soi cho

các thế hệ mai sau nhìn lại những giới hạn của mình để không ngừng cố gắng vươn lên

giúp ích cho mình, cho gia đình và xã hội. Dẫu biết rằng, trên con đường đi tìm hạnh phúc

không thiếu những khó khăn, hiểm nguy. Và một cái khó nữa là trong thời đại hôm nay

người ta lại đề cao chủ nghĩa khoái lạc, chân lý bị xem như kẻ thù hơn là bạn hữu của con

người. Như vậy, con người với một lý trí, ý chí cần phải vươn lên chính mình để ra khỏi

hang động tăm tối, u mê để khám phá, vui hưởng ánh sáng của mặt trời chân lý.

2. Nhìn vào chính mình để vươn ra với thế giới

Đã là người, ai cũng có khát vọng đi tìm cho được căn tính của mình, tìm về cội

nguồn. Triết gia Aristote gọi khát vọng đó là “lòng ao ước muốn biết”, muốn khám phá

ra ý nghĩa đích thực của con người và muốn hiểu được con người là ai. Người ta nói 119 Lm Thái Nguyên, Phương Pháp Học Tập Và Làm Việc, Nxb Tôn Giáo, tr. 238.

Page 54: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

54

rằng cây cối cũng có hồn mà hồn vốn ban tặng sự sống cho cây cối, thú vật và con

người, vẫn còn đó những câu hỏi gây rắc rối về ‘hồn’ này. Đối với con người, hồn thì rất

huyền nhiệm. Mặc dù hồn vẫn hiện diện trong cây cối, thú vật và con người nhưng

chúng ta vẫn không thể thấy hồn hay đo lường nó một cách thực tiễn. Tiếp cận với khoa

học chúng ta thường đòi hỏi những thuộc tính thể lý trước khi nó hiểu biết một điều gì

đó là thực. Vậy tiếp cận với con người và xã hội, chúng ta cần có một đường hướng giúp

người khác đi đến mục đích hoàn thiện và chỉ có thể đạt được khi có sự tồn tại của con

người nhân bản khi biết nhìn vào chính mình rồi mới đi ra với người khác.

Để hiểu mình, biết mình thì nơi mình phải có một con tim muốn vươn lên, không

ngừng học hỏi về tri thức. Tri thức của nhân loại thì vô hạn, còn khả năng của con người

chỉ là hữu hạn mà thôi. Cho nên đối với việc sinh hoạt và thực hành không thể không

tuân phục những khuôn thước, những qui tắc cần thiết để vươn lên. Tuy nhiên, ở đây còn

muốn đòi sự trợ giúp từ phía Thượng Đế và được Ngài ban ơn, có như vậy con người

mới hiểu mình và đi ra đi xa hơn với thế giới bằng cung cách sống của mình.

Ngoài ra không có chuyển động nào mà lại không có nguyên nhân. Như thế, một sự

việc xảy đến là do những nguyên nhân khác nhau tạo nên lực đẩy. Có một học giả đã nói:

“nếu bạn cố gắng để giống người khác y như họ thì bạn sẽ đánh mất chính mình120”.

Chúng ta đừng tìm cách làm điều xảy đến như ta muốn, nhưng hãy muốn rằng điều xảy

đến như nó xảy đến. Như vậy, chúng ta mới là diễn viên cho cuộc đời mình và mới cảm

thấy hạnh phúc.

Các triết gia luôn là diễn viên và đạo diễn cho chính cuộc đời của mình. Dẫu rằng

có khi triết thuyết của họ có phù hợp với môi trường hoàn cảnh thời đó nhưng theo thời

gian những triết thuyết đó đã lỗi thời với thời nay. Đặc biệt triết gia Platon trước công

đồng Vaticano II xem triết thuyết của ông như là một sự giải thoát con người khỏi tham,

sân, si. Tuy nhiên, sau công đồng Vaticano II nhìn lại cho thấy rằng triết thuyết coi nhẹ

thân xác của Platon không phù hợp với thời đại, cần đổi mới cho hợp với thời đại hơn.

Thật đáng tiếc cho một triết gia Platon, nhưng ta cũng phải cám ơn ông nhiều vì nhờ triết

thuyết của ông mới giúp con người nhận ra giá trị đích thực, từ đó con người biết vươn

120giaitri.tuvantuyensinh.vn/.../Dung-co-gang-Hay-song-that-voi-chinh-minh-ban-nhe

Page 55: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

55

ra với thế giới, nói cho thế giới nhìn nhận nhân phẩm của con người thật quý giá biết

bao. Con người truy tìm chân lý là luật tự nhiên và mong muốn là sự bất tử của linh hồn,

hiện hữu và bản tính của Thiên Chúa.

Vậy làm sao để đối diện với bản thân là chính mình chứ không phải ai khác? Để

biết mình với một ‘dự phóng’ thì không gì khác hơn là nhìn vào tận chiều sâu của mình

để thấy mình như thế nào trong cuộc sống. Ai không dọi vào chính mình thì người ấy

đánh mất nghệ thuật sống, phẩm chất và những cơ may xây đắp mình và người khác

thêm tốt hơn. Do đó các triết gia luôn ý thức mình là gì rồi mới từng bước giúp người

khác nhận biết đâu là đường đi, là sự thật mà con người cần hướng tới.

Con người không ai muốn mình dẫm chân tại chỗ, họ luôn luôn cầu tiến, phải biết

học từ ngày hôm qua, sống cho ngày hôm nay và hy vọng cho ngày mai. Các triết gia đã

đi trước về những vấn đề này, các ngài đã không ngừng học hỏi nghiên cứu từ các triết

gia đi trước để đúc kết lại những gì mà mình đã thu lượm được rồi truyền trao cho các

thế hệ sau. Biết mình hay nhìn vào chính mình để thấy rõ chỗ đứng của mình rất nhỏ bé

trong vũ trụ bao la và thánh thiêng này. Chỉ trong thái độ ấy con người mới nhìn ra với

thế giới và như vậy mới sẵn sàng mở lòng để cảm nghiệm, để hứng lấy ân huệ và thiết

lập các mối tương quan bền chặt trong xã hội hôm nay.

3. Là một tu sĩ, đan sĩ cần có những áp dụng thực hành bằng cách ‘hiểu mình’

như thế nào trong cuộc sống hôm nay?

Con người ngày nay thao thức và khắc khoải muốn kiến tạo một nền hòa bình

đích thực cho nhân loại. Nền hòa bình ấy được khởi đi từ việc cổ võ cho những mục tiêu

phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật... nhằm phục vụ và xây dựng tình liên đới giữa

người với người, giữa các quốc gia với nhau. Thế nhưng làm sao những nỗi thao thức ấy

có thể trở thành hiện thực nếu không có sự cộng tác của Thượng Đế. Nói cách khác, con

người là trung tâm, là nền tảng của mọi hoạt động trong xã hội. Thánh giáo hoàng Gioan

Phaolô II đã nói: “Con người là con đường của Giáo Hội121”. Nghĩa là hãy ra đi với một

niềm say mê làm cho trái đất này luôn hướng về Chân Lý.

Con người nói chung và người tu sĩ, đan sĩ nói riêng hãy tự biết mình để vươn tới

thành công (đích điểm) trong cuộc sống. Có lẽ biết mình chính là khám phá những gì 121 Thánh giáo hoàng Gioan Phao Lô II, Thông điệp Centessimus Annus, số 53.

Page 56: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

56

đang tiềm ẩn trong khả năng của ta cũng như cách thức vận dụng chúng. Ngược lại, một

người không biết mình như thế nào sẽ liên tục vấp ngã mà không biết vươn lên, thậm chí

đi đến chỗ hủy hoại cả cuộc đời.

Hầu hết ai cũng cho rằng tự biết mình là cảm nhận không ai gần gũi ta hơn chính

bản thân ta. Chính vì thế, tự tin không phải là tự biết mình mà nhiều người vẫn thường

nghĩ. Để hiểu mình, chúng ta phải biết mọi dự liệu có liên quan đến sự tồn tại của mình

trên cõi đời. Quá trình tìm hiểu bản thân đòi hỏi rất nhiều sự cố gắng, miệt mài không

được chùn bước trước những thử thách hay điều trái nghịch xảy đến, nhưng vẫn học hỏi

trao dồi bản thân để từ từ giúp mình hiểu mình, vì biết mình là một điểm hẹn thật sống

động . Như vậy, cuộc sống mà con người tu sĩ theo đuổi không gì khác hơn là hãy cố

gắng mỗi ngày để hiểu rõ hơn những gì mình đang theo như Francis Bacon nói: “Hiểu

biết một ít triết lý hướng tâm trí con người đến quan niệm vô thần, hiểu biết triết lý thâm

sâu hướng tâm trí con người đến tôn giáo122. Điều đó mới cần để trau dồi cho kỹ năng

sống và giúp đào sâu những đức tính tốt vốn tiềm ẩn nơi mình.

Nhìn lại quá khứ, ta thấy tư tưởng của Platon còn có ảnh hưởng đến các dòng tu sau

này. Khi một hội dòng hay dòng tu có xu hướng đi xuống do tranh chấp, khủng hoảng hay

cách sống không phù hợp thì hội dòng hay dòng tu đó lại trở về với ý niệm, tư tưởng ban

đầu để canh tân. Nếu vượt qua thì họ tồn tại và phát triển, nếu không vượt qua thì sẽ bị tan

rã. Là một tu sĩ, đan sĩ chúng ta luôn ý thức nơi mình một trọng trách giúp người khác

bằng linh đạo sống của mình (ora et labora). Đó là biết làm tăng giá trị nơi mình mà vượt

qua những gian nan thử thách, biết chuyển hóa và biết dùng những gì mình có, nhất là có

thể biến những gì tiêu cực thành năng lực tích cực phục vụ cho bản thân và xã hội. Nhìn

lại mình là để giúp cho người tu sĩ an bình trong sự tĩnh lặng chứ không cô đơn như nhiều

người vẫn nghĩ. Dù rằng thấy mình chẳng là gì, thật mong manh, bé nhỏ nhưng lại rất qúy

giá.

Bên cạnh đó, Thánh giáo hoàng PhaoLô VI đã nói rằng: “Xã hội ngày nay cần

chứng nhân hơn thầy dạy”123. Vì thế, con người cần hành động, trao dồi cho mình

122 William S. Sahakan, Mabel L. Sahakan, Bản Dịch Lâm Thiện Thanh, Lâm Duy Chân, Tư Tưởng Của Các Triết GiaVĩ Đại, Nxb Tp HCM, 2001, tr. 29. 123 Thánh giáo hoàng Phaolô VI, Thông Điệp Evangelii Gaudium, Số 40.

Page 57: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

57

những kỹ năng sống nhằm có thể giúp ích cho con người và xã hội. Vì mỗi người là một

nhân vị vô cùng đặc biệt, mà nhân vị cũng là chìa khóa mở cánh cửa thực tại.

Tri thức nhân loại thì vô hạn mà khả năng thụ hưởng của con người thì giới hạn.

Do đó con người cần nỗ lực truy tìm để hướng về chân lý. Cha Henri Denis Tổ Phụ

Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam trong di ngôn đã nói cho các môn sinh rằng: “trước

không phải sau phải”. Con người chắc hẳn ai cũng có lỗi lầm nhưng qua dòng thời gian

thấy chưa phù hợp thì phải chỉnh đốn cho nó phù hợp hơn. Đôi khi trên con đường truy

tìm chân lý có những lúc chùn chân mỏi gối nhưng vẫn cố gượng dậy vì ý thức mình là

người có giới hạn nên cần cố gắng nỗ lực thêm. Tuy vậy, có những ý tưởng, triết thuyết

chưa phù hợp theo sự phát triển của xã hội thì ta sẽ sửa chữa hợp với thời đại hiện nay.

Điển hình như sau công đồng Vaticano II, Giáo Hội đề cao nhân vị con người gồm cả

xác và hồn đều được tôn trọng xứng đáng. Mặc khác, ta cũng không thể quên những

công lao to lớn mà các triết gia Tây Phương đã dày công để lại những điều quý giá cho

các thế hệ sau học hỏi.

Page 58: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

58

B. KẾT LUẬN

Tóm lại, như trình bày ở trên, mỗi người là một triết gia. Vì triết gia là người luôn

hiện diện với vũ trụ, với chính mình và với Thượng Đế. Triết học Hy Lạp là khúc dạo

đầu cho một bản nhạc giao hưởng, hợp xướng của nền triết học Phương Tây. Một giai

đoạn lịch sử là khởi nguyên làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống triết học Phương Tây sau

này. Những con người trong bản hợp xướng đầu tiên đó được phản ảnh qua những triết

gia dệt nên những trang bất hủ theo dòng chảy thời gian. Đúng thật là có rất nhiều điều

kỳ lạ, nhưng không có gì kỳ lạ bằng con người.

Thật vậy, con người cần một chân lý vẹn toàn, chân lý về con người, về thế giới,

và về Thiên Chúa. Sự sung mãn của việc tìm kiếm là một hữu thể sống động. Hữu thể

sống động đó là con người. Hữu thể người cần đến Chân Lý và chạy trên suối nguồn của

tri thức là chạy trên suối nguồn của hữu thể. Con người cần mở toang cánh cửa của tri

thức để chiêm ngưỡngThượng Đế, chiêm ngưỡng sự sung mãn của chân lý và của hữu

thể vì Chân Lý là Hữu Thể hay Hữu Thể là Chân Lý.

Như vậy, Triết học và Kitô Giáo có mối quan hệ hỗ tương với nhau. Thật ra thì tất

cả các triết học kể cả thời trung cổ đều bị ảnh hưởng tư tưởng Kitô Giáo. Do đó triết học

được triển khai trong mối tương quan mật thiết với Kitô Giáo. Có khi nhằm mục đích

biện minh cho học thuyết Kitô Giáo cũng đôi khi nhằm đả phá nữa. Triết học luôn đề cao

lý trí thực hành hơn lý thuyết. Mỗi triết gia luôn là người thao thức tìm kiếm giải đáp

cho câu hỏi phải sống làm sao để tìm cách minh giải và quảng diễn lời giải đáp ấy bằng

nỗ lực suy tư qua giây phút hiện tại mình sống mà không hề nuối tiếc. Tuy nhiên, trong

mọi trường hợp triết gia không nhắm truyền đạt một nhận thức đúc khuôn mà chỉ nhắm

đào tạo, giúp phát triển quán tính phán đoán và bình phẩm, tạo sự biến đổi trong cuộc

sống và trong cách quan niệm về thế giới.

Nơi triết gia, nhận thức và nhân đức luôn là bất khả tách biệt. Chính vì thế triết

học được các triết gia đưa vào cuộc sống. Chính các triết gia luôn mời gọi không ngừng

nêu cao chuẩn mực của minh triết, bất chất sự vây bủa của mọi thứ giới hạn. Trong triết

học cái nhỏ chính là cái lớn và cái tầm thường chính là cái phi thường mà mỗi triết gia

phải là chiếc xe chuyển tải những tư tưởng triết học đó cho hậu thế.

Page 59: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

59

Triết lý là niềm khao khát của con người đi tìm chân lý, muốn khám phá ra đâu là

chân lý để mong đạt tới. Dụng cụ của chân lý không đủ để khám phá ra chân lý sự vật.

Thật vậy, không phải tất cả những cái chúng ta biết đều là chân lý. Dù rằng chân lý mà

mỗi con người đi tìm luôn có mối tương quan với thế giới vật chất, thế giới tâm linh,

chân lý thuần túy, tôn giáo…nhưng con đường của lý trí để giúp chúng ta đi tới Chân Lý

đích thực là cả một chặng đường vô cùng khó khăn, nhiều cản trở, nhiều chướng ngại vật

đang chờ ta phía trước. Đó cũng là một thách đố cho chúng ta trên đường đạt tới chân lý.

Chúng ta đang sống trong một xã hội muôn màu muôn vẻ phải biết dành cho mình

một đích đến trong tương lai. Do đó chúng ta cùng nhau chung tay xây đắp, vun xới cho

sự hiểu biết của mình ngày càng được nâng cao hơn và sự gắn kết giữa mỗi người xích

lại gần nhau hơn. Chính sự gần gũi chia sẽ với những cảm nghiệm sống của mình ta xác

quyết rằng: Tình yêu của Thiên Chúa sẽ đến ngự trị giữa chúng ta và sẽ đổi mới con

người trong thế giới này.

Nhìn vào thực trạng của xã hội hôm nay, những luồng triết học hiện sinh vô thần

và những lối sống thực dụng đã đi ngược với triết lý nền tảng thửa ban đầu. Triết lý này

cũng đã và đang lôi kéo con người đặc biệt là người trẻ đến một cuộc sống hiện thực,

phát triển về phương diện vật chất giúp thể hiện được phẩm chất của mình và cuộc sống

xem ra chất lượng và văn minh hơn. Tuy nhiên vật chất đầy đủ chưa hẳn giúp con người

đạt tới chân lý, con người đâu như con vật chỉ biết thụ hưởng mà thôi, nhưng là một con

người hoàn hảo có hồn và xác trong đó có ý chí, lý trí và tình cảm. Chính lý trí, ý chí và

tình cảm làm cho con người là người hơn mà không phải là con vật thuần túy. Thật tiếc,

trong thời đại hôm nay, dường như con người chỉ chạy theo vật chất để hưởng thụ mà

quên đi những khía cạnh tâm linh. Là người thụ hưởng tri thức của các bậc tiền bối,

chúng ta cần đào sâu, học hỏi nơi các ngài mỗi ngày để có thể rút ra những điều quý giá

trong kho tàng nội tâm của lòng mình và của người khác trong thế giới hôm nay.

Page 60: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

60

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Viện Phụ Phạm Văn Hiền, Triết sử tây phương.

2. Viện Phụ Phạm Văn Hiền, Lịch sử triết học tây phương thời thượng cổ, (Lưu hành

nội bộ).

3. Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học tây phương, Tập II.

4. Lê Tôn Nghiêm, Nxb ca dao.

5. Lê Tôn Nghiêm, Triết học nhập môn.

6. Lm Vinh Sơn Liêm Nguyễn Hồng Thanh, Dẫn vào triết học, Năm 2013.

7. Nguyễn Trọng Viễn, Học Viện Đa minh, Lịch sử triết học tây phương, Tập 1.

Năm 1995.

8. Tư Cù, Lịch sử triết học tây phương thời thượng cổ, Tập 2.

9. Tư tưởng triết gia vĩ đại, Nxb Tp HCM.

10. Pascal ide, Nghệ thuật tư duy, Tập 1.

11. Nhà Văn Hóa Thông Tin, Hành trình triết học.

12. Willdurant, Các câu chuyện triết học.

13. Đại cương về triết học, Lưu hành nội bộ.

14. Phạm Văn Chức, Năm phút suy tư triết học, Năm 1993.

15. Lm Thiện Cẩm, Triết lý về con người.

16. Lê Tử Thành, Triết lý tây phương thời thượng cổ.

17. Lê Tử Thành, Triết học trung cổ.

18. Dương Diên Hồng, Cái biết của người xưa, Nxb thanh niên.

19. Nguyễn Hồng Giáo, Lịch sử triết học tây phương thời cổ đại.

20. Đinh Ngọc Thạch, Triết học hy lạp cổ đại, Nxb chính trị quốc gia, Hà nội 1999.

21. Nguyễn Thế Nghĩa, tiến sĩ doãn chính, triết học cổ đại, Nxb Tp HCM 2002.

22. Đỗ Minh Hợp và Nguyễn Thanh, Đại cương lịch sử triết học tây phương.

23. Nguyễn Xuân Ngạn Dịch Và Chú Giải, Platon, Pledon.

24. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Thông điệp lý trí và đức tin.

25. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Thông Điệp Evangelii Gaudium.

26. Hào-Nguyên Nguyễn Hóa, Triết Học Cổ Hy Lạp Giản Yếu, Nxb Thanh Niên.

27. Đậu Văn Hồng, Triết sử tây phương thời thượng cổ, nxb tôn giáo.

Page 61: LM. VINH SƠN LIÊM NGUYỄN HỒNG THANH M. MAURO BÙI …hoidongxitothanhgia.com/upload/file/Luận văn tốt nghiệp, Con người theo... · triết học là cần nghĩ ngay

61

28. William S. Sahakan, Mabel l. Sahakan, Bản Dịch Lâm Thiện Thanh, Lâm Duy

Chân, Tư Tưởng Của Các Triết Gia Vĩ Đại, Nxb Tp Hcm, 2001.

29. Michael D. Moga, Bản Dịch Lm Lê Đình Trị, Những câu hỏi khôn cùng triết học

nhập môn, Nxb Phương Đông, 2013.

30. Lm Thái Nguyên, Phương Pháp Học Tập Và Làm Việc, Nxb Tôn Giáo.

31. Báo Công Giáo, Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo, Số 19 – Tháng 7 & 8 - 2015.

Nguồn từ mạng Internet:

32. Https://Khoahoc.Tv › Bạn đọc › Khoa học & Bạn đọc

33. www.chungta.com › Tư liệu nguồn & tra cứu.

34. https:// vechaihoanghon.blogspot.com/2011/12/ao-uc-cua-platon.html

35. https://sites.google.com/site/...triet-hoc.../cuoc-dhoi-va-noi-dung-triet-hoc-cua-

platon

36. giaitri.tuvantuyensinh.vn/.../Dung-co-gang-Hay-song-that-voi-chinh-minh-ban-

nhe

37. https://quantrimang.com › Cuộc sống › Kỹ năng sống