Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU
Hơn 4 năm thực hiện Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng Bệnh viện theo Quyết định số
4858/QĐ-BYT ngày 03 tháng 12 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Cho đến nay, tập thể
Khoa dược – Trang thiết bị - Vật tư y tế đã không ngừng nổ lực phấn đấu để hoàn tành tốt
nội dung của từng tiểu mục theo Bộ tiêu chí qui định cho người làm công tác Dược – Trang
thiết bị - Vật tư y tế góp phần vào thành công chung của Đơn vị.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được Tập thể Khoa còn gặp rất nhiều khó
khăn như: Cơ sở vật chất trước đó còn chật hẹp, cũ kỹ, xuống cấp, giờ thuận lợi hơn khi
chuyển sang cơ sở mới; Đội ngũ nhân viên còn hạn chế, trình độ còn chưa đồng đều và biên
chế còn thiếu nên việc thực hiện tiêu chí còn gặp rất nhiều khó khăn. Xong với những nổ
lực của tập thể Khoa; Sự quan tâm của Ban giám đốc đặc biệt là sự hướng dẫn nhiệt tình
của Đoàn kiểm tra Sở Y tế Bạc Liêu hàng năm, đánh giá những mặt đã làm được và những
mặt còn hạn chế. Từ đó, Khoa rút ra được nhiều kinh nghiệm và tự tinh hơn trong việc thực
hiện Tiêu chí với mục tiêu năm sau cao hơn năm trước.
Năm 2017 này, Khoa Dược – Trang thiết bị - Vật tư y tế đề ra Kế hoạch để thực hiện
và đạt năm mức 4 và một mức 5. Nội dung của từng tiểu mục được Khoa xác định là quan
trọng như nhau, nhưng trong đó tiểu mục 20 của C9.5 được ưu tiên hàng đầu, vì Khoa xác
định công tác Thông tin thuốc hay Dược lâm sàng cho người bệnh được sử dụng thuốc hợp
lý an toàn, giúp Bác sĩ, Dược sĩ, Điều dưỡng cập nhật lại kiến thức, có thêm nguồn thông tin
hơn để nâng cao chất lượng trong điều trị. Đây là lý do để lần thứ 2 Khoa phát hành 02 bản
thông tin thuốc với 11 nội dung được Khoa cập nhật, đúc kết, sắp xếp kỷ.
Rất mong các cấp lãnh đạo, quí đồng nghiệp sau khi xem có những ý kiến đóng góp
để cho những bản tin sau ngày càng được hoàn chỉnh và chất lượng hơn ./.
DsCKI. Lâm Trung Cƣờng
Trƣởng khoa Dƣợc – TTB - VTYT
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 2
Cơ chế tác dụng kháng sinh và phối hợp kháng sinh Ds Lâm Thái Hƣng
1. Cơ chế tác động của kháng sinh
Sau khi vào tế bào, kháng sinh được
đưa tới đích tác động – 4 thành phần cấu tạo
cơ bản của tế bào và phát huy tác dụng: kìm
hãm sự sinh trưởng & phát triển hoặc tiêu diệt
vi khuẩn, đặc biệt có hiệu quả ở các vi khuẩn
đang sinh trưởng và phát triển mạnh (giai đoạn
2/ log phase – phát triển theo cấp số nhân),
bằng cách:
a) Ức chế sinh tổng hợp vách tế bào
vi khuẩn: các kháng sinh nhóm beta-lactam,
fosfomycin và vancomycin ngăn cản sinh tổng
hợp lớp peptidoglycan nên không tạo được
khung murein – tức là vách không được hình
thành. Tế bào con sinh ra không có vách, vừa
không sinh sản được vừa dễ bị tiêu diệt hoặc bị
li giải, đặc biệt ở vi khuẩn Gram-dương. Như
vậy, những kháng sinh này có tác dụng diệt
khuẩn nhưng chỉ với những tế bào đang phát
triển (degenerative bactericide).
b) Gây rối loạn chức năng màng sinh
chất: chức năng đặc biệt quan trọng của màng
bào tương là thẩm thấu chọn lọc; khi bị rối
loạn các thành phần (ion) bên trong tế bào bị
thoát ra ngoài và nước từ bên ngoài ào ạt vào
trong, dẫn tới chết, ví dụ polymyxin B,
colistin. Với cơ chế tác động này, polymyxin
có tác dụng diệt khuẩn tuyệt đối (absolute
bactericide), tức là giết cả tế bào đang nhân lên
và cả tế bào ở trạng thái nghỉ – không nhân
lên.
c) Ức chế sinh tổng hợp protein:
tham gia sinh tổng hợp protein ngoài ribosom
còn có các ARN thông tin và các ARN vận
chuyển. Điểm tác động là ribosom 70S (gồm 2
tiểu phần là 30S và 50S) của vi khuẩn: tại tiểu
phần 30S ví dụ như aminoglycosid (nơi ARN
thông tin trượt qua), tetracyclin (nơi ARN vận
chuyển mang acid amin tới) hoặc tại tiểu phần
50S (nơi acid amin liên kết tạo polypeptid)
như erythromycin, cloramphenicol,
clindamycin. Kết quả là các phân tử protein
không được hình thành hoặc được tổng hợp
nhưng không có hoạt tính sinh học làm ngừng
trệ quá trình sinh trưởng và phát triển.
d) Ức chế sinh tổng hợp acid nucleic: gồm 3 cấp độ:
- Ngăn cản sự sao chép của ADN mẹ
tạo ADN con, ví dụ do kháng sinh gắn vào
enzym gyrase làm ADN không mở được vòng
xoắn, như nhóm quinolon.
- Ngăn cản sinh tổng hợp ARN, ví dụ
do gắn vào enzym ARN-polymerase như
rifampicin.
- Ức chế sinh tổng hợp các chất chuyển
hóa cần thiết cho tế bào: quá trình sinh tổng
hợp acid folic – coenzym cần cho quá trình
tổng hợp các purin & pyrimidin (và một số
acid amin) bị ngăn cản bởi sulfamid và
trimethoprim.
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 3
Phân loại kháng sinh theo cơ chế tác động
Ức chế tổng hợp
vách tế bào
Penicillins
Cephalosporins
Vancomycin ok
Beta-lactamase Inhibitors
Carbapenems
Aztreonam
Polymycin
Bacitracin
Ức chế sinh tổng
hợp protein Ức chế tiểu đơn vị 30S
Aminoglycosides
(gentamicin)
Tetracyclines
Ức chế tiểu đơn vị 50S
Macrolides
Chloramphenicol
Clindamycin
Linezolid
Streptogramins
Ức chế tổng hợp
ADN
Fluoroquinolones
Metronidazole
Ức chế tổng hợp
ARN
Rifampin
Ức chế tổng hợp
mycolic acid
Isoniazid
Ức chế tổng hợp
acid folic
Sulfonamides
Trimethoprim
Như vậy, mỗi kháng sinh chỉ tác động
lên một vị trí nhất định trong thành phần cấu
tạo, ảnh hưởng đến một khâu nhất định trong
các phản ứng sinh học khác nhau của tế bào vi
khuẩn, dẫn đến ngừng trệ sinh trưởng và phát
triển của tế bào. Nếu vi khuẩn không bị
li giải hoặc không bị nắm bắt (thực bào) và
tiêu diệt, thì khi không còn tác động của kháng
sinh (ngừng thuốc) vi khuẩn sẽ có thể hồi
phục/ sống trở lại (reversible). Chỉ cần 1 tế bào
sống sót, với tốc độ sinh sản nhanh chóng, sau
vài giờ số lượng tế bào vi khuẩn đã không thể
đếm được (ví dụ E. coli nếu 20 phút “đẻ 1 lứa”
thì sau 5 giờ: từ 1 tế bào mẹ – ban đầu phát
triển thành 215 tế bào và sau 10 giờ là 230 –
hơn 1 tỷ); sẽ nguy hiểm hơn nữa nếu tế bào
sống sót đó đề kháng kháng sinh. 2. Phối hợp kháng sinh
Trong thực tế để nâng cao hiệu quả điều trị,
một số trường hợp cần thiết chúng ta phải phối
hợp kháng sinh.
a) Cơ sở lí thuyết cho phối hợp
kháng sinh là nhằm mục đích: - Làm giảm khả năng xuất hiện chủng
đề kháng: với những đề kháng do đột biến thì
phối hợp kháng sinh sẽ làm giảm xác suất xuất
hiện một đột biến kép. Ví dụ: xác suất đột biến
kháng streptomycin là 10-7 và đột biến kháng
rifampicin là 10-9, thì xác suất đột biến đề
kháng cả 2 kháng sinh này là 10-16. Đây chính
là lí do phải phối hợp kháng sinh trong điều trị
lao và phong; ngoài ra còn áp dụng cho một số
bệnh phải điều trị kéo dài như viêm màng
trong tim và viêm tủy xương.
- Điều trị nhiễm khuẩn do nhiều loại vi
khuẩn gây ra, ví dụ do cả vi khuẩn hiếu khí và
kị khí thì phối hợp beta-lactam với
metronidazol như trường hợp viêm phúc mạc,
áp xe não, áp xe phổi, một số nhiễm khuẩn phụ
khoa… Như vậy mỗi kháng sinh diệt một loại
vi khuẩn, phối hợp kháng sinh sẽ diệt nhiều
loại vi khuẩn hơn.
- Làm tăng khả năng diệt khuẩn: ví dụ
sulfamethoxazol & trimethoprim (trong Co-
trimoxazol) tác động vào 2 điểm khác nhau
trong quá trình sinh tổng hợp acid folic hoặc
cặp phối hợp kinh điển beta-lactam (penicilin
hoặc cephalosporin) với aminoglycosid
(gentamicin hoặc tobramycin hay amikacin).
b) Kết quả của phối hợp kháng sinh
Mỗi kháng sinh đều có ít nhiều tác
dụng không mong muốn; khi phối hợp thì
những tác dụng phụ này cũng sẽ cộng lại hoặc
tăng lên. Không nên hy vọng phối hợp thì hạ
được liều lượng từng thuốc vì có thể dẫn đến
nguy cơ xuất hiện vi khuẩn kháng kháng sinh.
Phối hợp kháng sinh có thể dẫn đến tác
dụng cộng (addition) hoặc hiệp đồng
(synergism) hoặc đối kháng (antagonism) hay
không thay đổi (indifference) so với khi dùng
đơn lẻ.
- Tác dụng đối kháng: 2 mà tác dụng
không bằng 1 thuốc.
+ Phối hợp các kháng sinh có cùng một
đích tác động sẽ có tác dụng đối kháng vì
chúng đẩy nhau ra khỏi đích, ví dụ phối hợp
erythromycin với clindamycin (hoặc
lincomycin) và cloramphenicol.
+ Dùng tetracyclin cùng penicilin có
thể dẫn đến tác dụng đối kháng, vì penicilin có
tác dụng tốt trên những tế bào đang nhân lên,
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 4
trong khi tetracyclin lại ức chế sự phát triển
của những tế bào này.
- Tác dụng hiệp đồng (đơn giản hóa
có thể nói: 1+1 lớn hơn 2): + Trimethoprim và sulfamethoxazol ức
chế 2 chặng khác nhau trên cùng một con
đường tổng hợp coenzym – acid folic cần thiết
cho vi khuẩn phát triển nên 2 thuốc này có tác
dụng hiệp đồng và được phối hợp thành một
sản phẩm (Co-trimoxazol).
+ Cặp phối hợp kinh điển: một beta-
lactam với một aminoglycosid cho kết quả
hiệp đồng do beta-lactam làm mất vách tạo
điều kiện cho aminoglycosid dễ dàng xâm
nhập vào tế bào và phát huy tác dụng. Ví dụ
phối hợp piperacilin với aminoglycosid điều trị
nhiễm khuẩn nặng do trực khuẩn mủ xanh;
penicilin với gentamicin nhằm diệt liên cầu.
+ Phối hợp penicilin với một chất ức
chế beta-lactamase giúp cho penicilin không bị
phân hủy và phát huy tác dụng; ví dụ phối hợp
amoxicilin với acid clavulanic hoặc ampicilin
với sulbactam hay ticarcilin với acid
clavulanic. Acid clavulanic hoặc sulbactam
đơn độc không có tác dụng của một kháng
sinh, nhưng có ái lực mạnh với beta-lactamase
do plasmid của tụ cầu và nhiều trực khuẩn
đường ruột sinh ra.
- Phối hợp 2 kháng sinh cùng ức chế
sinh tổng hợp vách vi khuẩn, nếu mỗi kháng
sinh tác động vào một protein gắn penicilin
(PBP) – enzym trong quá trình tổng hợp vách
thì sẽ có tác dụng hiệp đồng; ví dụ phối hợp
ampicilin (gắn PBP1) với mecilinam (gắn
PBP2) hay ampicilin với ticarcilin.
c) Chỉ dẫn chung cho phối hợp kháng sinh
Phối hợp kháng sinh là cần thiết cho
một số ít trường hợp như điều trị lao, phong,
viêm màng trong tim, Brucellosis.
Ngoài ra, có thể phối hợp kháng sinh
cho những trường hợp: bệnh nặng mà không
có chẩn đoán Vi sinh hoặc không chờ được kết
quả xét nghiệm; người suy giảm sức đề kháng;
nhiễm khuẩn do nhiều loại vi khuẩn khác
nhau.
Khi phối hợp, cần dùng đủ liều và nên
lựa chọn những kháng sinh có tính chất dược
động học gần nhau hoặc có tác dụng hiệp
đồng. Tác dụng kháng khuẩn in vivo (trong cơ
thể) thay đổi tùy theo số lượng và tuổi (non –
đang sinh sản mạnh hay già) của vi khuẩn gây
bệnh cũng như các thông số dược động học
của các kháng sinh được dùng phối hợp.
Một số ví dụ: nhiễm khuẩn nặng do tụ
cầu có thể dùng các phối hợp khác nhau như
oxacilin (hoặc flucloxacilin) với acid fusidic
hoặc cephalosporin thế hệ 1 với aminoglycosid
hoặc aminoglycosid với clindamycin. Khi
nhiễm vi khuẩn kị khí thì dùng metronidazol
phối hợp để chữa viêm phúc mạc hay các
nhiễm khuẩn ổ bụng; nếu nghi nhiễm vi khuẩn
kị khí ở vùng đầu và đsờng hô hấp thì dùng
cùng clindamycin (kháng sinh này có tác dụng
tốt trên cả vi khuẩn Gram-dương và vi khuẩn
kị khí).
Quan sát in vivo cho thấy phần lớn các
phối hợp kháng sinh có kết quả không khác
biệt (indifferent) so với dùng một kháng sinh,
trong khi đó các tác dụng không mong muốn
do phối hợp lại thường gặp hơn; vì vậy cần
thận trọng và giám sát tốt người bệnh khi kê
đơn kháng sinh.
Nguồn: Cơ chế tác dụng kháng sinh và phối hợp kháng sinh, trích trong Chương I. Đại cương về
kháng sinh và vi khuẩn học, thuộc tài liệu Hướng dẫn sử dụng kháng sinh 2015, Bộ Y tế.
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 5
HIỆU CHỈNH LIỀU KHÁNG SINH
TRÊN BỆNH NHÂN SUY THẬN Ds Danh Lê Minh Hiếu
Theo: Nhịp cầu Dược Lâm Sàng
Nhiễm trùng xảy ra ở các bệnh nhân suy thận
cấp tính lên đến 88% và lên đến 60% ở bệnh
nhân suy thận mãn tính.1 Do đó, các bệnh nhân
có tổn thương thận thường được điều trị bằng
kháng sinh trong suốt cuộc đời của họ và rất
có thể sẽ gặp các phản ứng có hại của thuốc.
Hệ thống thận là cơ chế điều hòa thể dịch và
cân bằng điện giải cũng như chuyển hóa và
thải trừ thuốc chủ yếu của cơ thể. Suy giảm
chức năng thận có thể ảnh hưởng nghiêm trọng
đến phương thức thuốc được phân bố trong cơ
thể và đào thải ra khỏi cơ thể. Một số lượng
lớn bệnh nhân bị phẫu thuật chi dưới của bác
sĩ phẫu thuật là bệnh nhân đái tháo đường có
biến chứng bao gồm nhiễm trùng và bệnh thận
do đái tháo đường. Đó là một thách thức dược
lý trong việc quyết định liều khởi đầu và liều
duy trì phù hợp khi điều trị kháng sinh ở các
bệnh nhân này. Các chất chuyển hóa từ kháng
sinh có thể tích lũy đến mức gây độc nếu liều
không được điều chỉnh hợp lý.
Có rất nhiều yếu tố sinh lý có thể được
xem xét để hỗ trợ việc xác định xem một tác
nhân kháng khuẩn sẽ được thải trừ ra khỏi cơ
thể như thế nào. Các yếu tố này bao gồm độ
thanh thải creatinin, tốc độ lọc cầu thận,
creatinine huyết thanh, và nitơ urê máu. Phải
nhớ rằng sự hấp thu thuốc, thể tích phân bố, tỉ
lệ liên kết protein, và tỷ lệ chuyển dạng sinh
học sẽ thay đổi ở các bệnh nhân thận nên xét
nghiệm và tính toán là chưa đủ để xác định
liều. Mặc dù là không bao gồm tất cả, nhưng
bài viết này sẽ xem xét các phương pháp dược
động học được sử dụng để xác định chức năng
thận cũng như các tác nhân kháng khuẩn phổ
biến nhất được sử dụng bởi bác sĩ phẫu thuật
chi dưới và sự điều chỉnh của họ trên các bệnh
nhân có tổn thương thận.
DƢỢC ĐỘNG HỌC
Lượng kháng sinh trong hệ tuần hoàn
sau khi đưa thuốc được gọi là sinh khả dụng
của thuốc. Trong trạng thái urê huyết (thường
gặp ở bệnh nhân suy thận), sự hấp thu thuốc
qua hệ tiêu hóa có thể bị thay đổi do sự gia
tăng pH dạ dày, liệt dạ dày, nôn mửa, và phù
nề đường ruột làm giảm sinh khả dụng của
thuốc.2 Thể tích phân bố (Vd) được tính bằng
cách chia tổng lượng thuốc đưa vào bằng
đường tĩnh mạch cho nồng độ thuốc trong
huyết tương sau cân bằng.3Do đó Vd =
liều/nồng độ huyết tương. Thể tích phân bố
của nhiều loại kháng sinh có thể tăng lên trong
suy thận do giảm liên kết thuốc - protein huyết
tương làm giảm nồng độ huyết tương.3 Các
thuốc có tính acid như dicloxacillin sẽ giảm
nhiều liên kết huyết tương ở bệnh nhân suy
thận, có thể là do sự tranh chấp vị trí gắn
protein bởi các hợp chất khác.4
Thời gian bán thải (T ½) của một thuốc
được định nghĩa là thời gian thuốc cần để nồng
độ của nó giảm còn 50%.5 T ½ của một thuốc
được tính bằng công thức: T ½ = 0,693 (Vd) /
độ thanh thải huyết tương. Như đã nêu ở trên,
với bệnh nhân suy thận, Vd có thể tăng lên, do
đó tăng T ½ và kéo dài thời gian thuốc còn
hoạt tính trong cơ thể theo một cách nào đó
không dự đoán được.
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 6
Biến đổi sinh học là một quá trình chủ
yếu ở gan, ở đó kháng sinh mẹ được chuyển
đổi sang dạng dễ hòa tan hơn trong nước và do
đó bài tiết qua thận, gan, và sang dạng ít hoát
tính hơn.6 Bằng cách thay đổi dạng thuốc, biến
đổi sinh học làm giảm hoạt tính của kháng
sinh và hình thành các sản phẩm phụ của quá
trình chuyển hóa. Các chất chuyển hóa, chẳng
hạn như kali từ penicillin, và natri từ chuyển
hóa carbenicillin có thể tăng lên trong
máu.7 Suy thận làm giảm khả năng bài tiết các
chất chuyển hóa của thuốc và tích lũy có thể
gây ra các phản ứng có hại hoặc quá mẫn.
Điều quan trọng là phải nhận thức được rằng
một số loại thuốc có thể được chuyển hóa
nhanh hơn ở những bệnh nhân bị suy thận do
cơ chế bù trừ của gan.8
Công thức tính độ thanh thải creatinin
xấp xỉ với tốc độ mà máu được lọc ở cầu thận.
Tốc độ lọc trung bình ở cầu thận (GFR) là 120
mL/phút.9 Công thức tính độ thanh thải
creatinin được tính như sau:
Cl Cr = (140 - tuổi) x (trọng lượng cơ thể tính
bằng kg) / 72 x (creatinin huyết thanh)
Công thức đối với nữ phải nhân giá trị
này với 0,85.9 Độ thanh thải creatinin được
tính xấp xỉ bằng GFR do đó hai thuật ngữ
được sử dụng thay thế cho nhau. Công thức
này chỉ chính xác khi chức năng thận của bệnh
nhân ổn định và creatinine huyết thanh giữ
không đổi. Độ thanh thải creatinin được giả
định là <10 ml/phút nếu bệnh nhân thiểu
niệu.2 Thông số này khác với creatinine huyết
thanh vì creatinine huyết thanh là thông số
phản ánh cả mức độ lọc ở cầu thận đồng thời
cả khối lượng cơ của cơ thể. Creatinine huyết
thanh thực tế có thể thấp hoặc bình thường ở
những bệnh nhân suy thận nặng nếu bệnh nhân
có khối lượng cơ thấp ở người suy yếu hay
người già.2
LIỀU KHÁNG SINH KHI SUY THẬN
Liều nạp được đưa vào để nhanh chóng
thiết lập nồng độ kháng sinh trong huyết thanh
nằm trong khoảng liều điều trị. Nói chung, liều
nạp không giảm hoặc giảm nhẹ khoảng 10%-
20% bất kể bệnh nhân có suy thận hay không
nếu thăm khám lâm sàng ở bệnh nhân không
có phù nề, cổ trướng, hoặc mất nước.7 Sau một
liều nạp, liều duy trì có thể cần phải được điều
chỉnh dựa trên mức độ rối loạn chức năng
thận. Hiệu chỉnh liều sẽ phụ thuộc vào các tính
chất nội tại của kháng sinh cũng như trạng thái
sinh lý của bệnh nhân. Nếu bệnh nhân không
dùng một liều nạp, sau ba đến bốn liều duy trì
(trung bình 3,3) phải được đưa vào trước khi
đạt được liều điều trị trong huyết thanh.7
Cephalosporin
Cephalosporin thế hệ I có tác dụng trên
tất cả các cầu khuẩn Gram dương ngoại trừ
Enterococcus faecalis.10
Kháng sinh đường
uống thường được sử dụng bởi các bác sĩ phẫu
thuật chi dưới nhất là cephalexin (KEFLEX).
T ½ ở bệnh nhân có chức năng thận bình
thường là khoảng 40 phút, nhưng ở bệnh nhân
có bệnh thận nặng, nó có thể kéo dài đến 16
giờ.2,9
Liều dùng đường uống bình thường của
cephalexin là 250-500 mg mỗi 6 giờ nhưng
khoảng đưa liều có thể cần phải được tăng lên
thành mỗi 8 hoặc 12 giờ tùy thuộc vào tốc độ
lọc cầu thận.2,9
Cephalexin là một thuốc liên
kết mạnh với protein, do đó làm giảm nồng độ
CSF ở bệnh nhân có chức năng thận bình
thường. Tuy nhiên, trong tình trạng urê huyết,
tỷ lệ thuốc liên kết với protein giảm khiến
thuốc ở dạng tự do đi vào hệ thần kinh trung
ương (CNS). Do đó có thể gây nhiễm độc thần
kinh với các triệu chứng như nói lắp (chứng
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 7
loạn cận ngôn - dysarthria), lú lẫn, rung giật
cơ, co giật, và hôn mê. Cephalexin cũng liên
quan đến độc tính trên tai ở bệnh nhân suy
thận.
Cephalosporin thế hệ I tiêm tĩnh mạch
IV được sử dụng phổ biến nhất bởi bác sĩ phẫu
thuật chi dưới trong dự phòng phẫu thuật là
cefazolin (Ancef). T ½ của cefazolin thường là
1,5 giờ nhưng có thể tăng đến 36-70 giờ ở
bệnh nhân suy thận. Ancef thường được dùng
ở liều 0,5 - 2,0 g mỗi 8 giờ, nhưng sẽ có
khoảng đưa liều tăng thành mỗi 12 hay 24-48
giờ phụ thuộc vào GFR.2,9
Cefazolin cũng liên
quan đến các triệu chứng nhiễm độc thần kinh
trung ương, quá trình giải độc có thể bị chậm
ngay cả sau khi ngừng điều trị.1
Cephalosporin từ thế hệ II đến IV gia
tăng hoạt tính trên vi khuẩn gram âm và giảm
hoạt tính trên vi khuẩn gram dương.
Cephalosporin thế hệ III như ceftriaxone có
thời gian bán thải dài trong khi ceftazidime có
thời gian bán thải ngắn, do đó cần phải hiệu
chỉnh liều, như đã tóm tắt trong Bảng 1.
Carbapenem
Imipenem-Cilistatin là một kháng sinh
phổ rộng và có hiệu lực mạnh trên vi khuẩn
gram dương (ngoại trừ MRSA), gram âm và
kỵ khí. Imipenem nhanh chóng bị phân hủy ở
tế bào ống thận bởi enzyme dehydropeptidase,
làm giảm sự hấp thu thuốc và do đó làm độc
thận, vì vậy, nó được dùng với cilistatin, một
chất ức chế dehydropeptidase. T ½ của
imipenem bình thường nhỏ hơn 1 giờ, nhưng
tăng đến 4 giờ ở bệnh nhân thận. Điều này rất
quan trọng bởi nồng độ cao imipenem trong
huyết thanh có thể gây co giật. Liều dùng có
thể cần phải được giảm xuống còn 25%-50%
liều bình thường, phụ thuộc vào GFR.9
Fluoroquinolon
Các fluoroquinolon có sinh khả dụng
đường uống tốt và có tác dụng trên phần lớn
các trực khuẩn gram âm kể cả Pseudomonas
aeruginosa. Ciprofloxacin (Cipro) là một 4-
quinolon phổ rộng, tác dụng trên nhiều vi
khuẩn gram dương và gram âm, thường được
sử dụng để điều trị viêm tủy xương.11
T ½
ciprofloxacin tăng từ 3-6 giờ thành 6-9 giờ với
bệnh thận. Liều dùng có thể cần phải giảm
xuống còn 75-50% liều bình thường, phụ
thuộc vào GFR nhưng vẫn có những độc tính
tối thiểu liên quan đến nhóm này.2,9
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 8
Bảng 1
HIỆU CHỈNH LIỀU TRÊN BỆNH NHÂN SUY THẬN
Thuốc T ½
Bình thƣờng/
Bệnh thận
(Giờ)
Liều với chức
năng thận
bình thƣờng
GFR > 50 GFR 10-50 GFR <
10
Cephalexin 0,7 / 1,6 250-500mg
Q6hr
Q8hr Q12hr Q12hr
Cefazolin 2 / 40-70 0,5-2,0g
Q8hr
Q8hr Q12hr Q24-
48hr
Cefotetan 3,5 / 13-25 1-2g
Q12hr
100% 50% 25%
Ceftazidime 1,2 / 13-25 1-2g
Q8hr
Q8-12hr Q24-48hr Q48hr
Ceftriaxone 7-9 / 12-24 1-2g
Q12-24hr
100% 100% 100%
Clindamycin 2-4 / 3-5 150-900mg
Q6-8hr
100% 100% 100%
Ciprofloxacin 3-6 / 6-9 400mg IV
hoặc
500-750mg po
Q12hr
100% 75% 50%
Clindamycin 6-8 / 200-250 1g
Q12hr
500mg
Q6-12hr
500mg
Q24-48hr
500 mg
Q48-
96hr
Metronidazole 6-14 / 7-21 7,5mg/kg Q6-
12hr
100% 100% 75%
Sulfamethoxazole 10 / 20-50 1g Q8hr Q 12hr Q18hr Q 24hr
Trimethoprim 9-13 / 20-49 100-200mg
Q12hr
Q12hr Q18hr Q 24hr
Vancomycin
Vancomycin là một glycopeptide ba
vòng có tác dụng diệt khuẩn chống lại hầu hết
các vi khuẩn gram dương và cầu khuẩn đường
ruột enterococci.10
Vancomycin là thuốc được
lựa chọn để điều trị Staphylococcus aureus
kháng methicillin (MRSA). Vancomycin
thường được dùng với liều 1 gam mỗi 72 giờ
truyền chậm trong hơn một giờ ở người có
chức năng thận bình thường.5 Thời gian bán
thải của thuốc là 0,5-1,5 giờ và thuốc được
khuyến nghị xây dựng nồng độ đỉnh (peak) và
nồng độ tối thiểu (trough) để tránh độc tính.
Nồng độ trough được xác định để đảm bảo
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 9
rằng nồng độ vancomycin huyết thanh giữ ở
trên mức khuyến cáo để duy trì hiệu
quả.2 Nồng độ trough nên được duy trì ở mức
5-10 µg/ml và nồng độ peak ở 20-40 µg/ml.
Nồng độ trough cần xác định từ mẫu máu lấy
từ 1 tiếng trước và nồng độ peak một giờ sau
khi đưa thuốc. Trong trường hợp suy thận, liều
có thể được điều chỉnh thành 500mg mỗi 12-
96 giờ tùy thuộc vào GFR.9 Nồng độ
vancomycin ngẫu nhiên trong máu cũng có thể
được xác định và thuốc có thể được đưa vào
khi nồng độ giảm xuống còn 7-10µg.12
Một số
nghiên cứu chỉ ra rằng việc dùng đồng thời
vancomycin với aminoglycosid có thể gây độc
thận vì vậy nên tránh nếu có thể.1,7
Clindamycin
Clindamycin là một dẫn xuất 7-chloro
của lincomycin có hoạt lực tốt trên
Staphylococcus aureus và hầu hết các vi khuẩn
kỵ khí bao gồm cả Bacteroides
fragilis.10
Clindamycin chủ yếu được chuyển
hóa ở gan, thời gian bán thải của thuốc không
kéo dài ở bệnh nhân suy thận và hiệu chỉnh
liều là không cần thiết. Việc sử dụng
clindamycin có liên quan tới sự phát triển của
viêm đại tràng giả mạc do Clostrodium
dificile.3,9
Metronidazole
Metronizazole (Flagyl) có hoạt tính
diệt khuẩn rất tốt trên các vi khuẩn kỵ khí và
được dùng phổ biến trong điều trị các nhiễm
khuẩn kỵ khí như Bacteroides và
Clostrodium.10
Metronidazole có T ½ bằng 6-
10 giờ và không được thải trừ ra khỏi cơ thể
qua thận với một tỷ lệ lớn. Nên giảm liều
xuống còn 75% liều bình thường trên các bệnh
nhân thận giai đoạn cuối (ESRD), nhưng nếu
không, vẫn có thể dùng liều bình thường. Có
thể có mối liên quan giữa metronidazole với
bệnh thần kinh ngoại vi và độc tính trên tiền
đình.
Sulfamethoxazole-Trimethoprim
Sulfamethoxazole-Trimethoprim
(SMX/TMP) là dạng phối hợp 160mg
Trimethoprim và 800mg Sulfamethoxazol,
thuốc ngăn chặn sự sinh tổng hợp của folate
bởi các vi sinh vật.10
SMX/TMP được sử dụng
bởi các bác sĩ phẫu thuật chi dưới để điều trị
trực khuẩn gram âm còn nhạy cảm trong viêm
tủy xương. Các phản ứng bất lợi như rối loạn
tạo máu, buồn nôn/nôn, phát ban và hội chứng
Stevens-Johnson có liên quan tới thuốc thường
là do thành phần sulfamethoxazole.5 Liều dùng
thông thường của thuốc là một viên mỗi 12
giờ. T½ của SMX là 8-10 giờ và TMP là 10-12
giờ. T½ có thể tăng gấp đôi trong suy thận nên
liều có thể cần phải được giảm xuống 25% so
với bình thường mỗi 12 giờ.9
KẾT LUẬN
Các bệnh nhân có tổn thương thận là
môt thách thức đối với bác sĩ phẫu thuật chi
dưới trong việc lựa chọn chế độ kháng sinh
thích hợp. Những thách thức này có thể được
giải quyết với những hiểu biết vững chắc về
sinh lý cũng như dành thời gian để tính toán và
tìm hiểu nhu cầu cá nhân của mỗi người bệnh.
Bác sĩ cần phải có đầy đủ kiến thức về đặc tính
của kháng sinh cũng như các biến chứng tiềm
tàng có liên quan. Cũng cần phải tham khảo ý
kiến dược sĩ đáng tin cậy hoặc bác sĩ chuyên
khoa thận để hình thành một nhóm hiệu quả để
đưa ra một liệu trình kháng sinh thích hợp và
an toàn.
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 10
Tài liệu tham khảo: 1. Manian, FA, Stone WJ, Alford RH. Adverse antibiotic effects associated with renal insufficiency. Rev of
Infect Dis 1990; 12:2 236-49.
2. Gilbert DN, Bennett WM. Use of antimicrobial agents in renal failure. lnfec Dis Clin N Am. 1989;3:577-
31.
3. Swan SK, Bennett WM. Drug dosing guidelines in patients with renal failure.West J Med. 1992;156:633-
8.
4. Maher JF. Principles of dialysis and dialysis of clrugs. An J Med 1977;62:475-81.
5. Bernstein JM, Erk SD: Choice of antibiotics, pharmacokinetics and dose adjustments in acute and chronic
renal failure. Med Clin N Am 1990;74:1059-75.
6. Reidenberg MM. The biotransformation of drugs in renal failure. An J Med1977;62:482-4.
7. Maher JF. Pharmacokinetics in patients with renal farlore. Clin Nepb1984;21:39-46.
8. Verbeeck RK, Branch RA.. Wilkinson GR: Drug metabolites in renal failure. Clin Pharmakin 1981;6:329-
45.
9. Livornese LL, Slavin DS, Benz RL, et al. Use of antibacterial agents in renalfailure. lnfect Dis Clin N
Am 2000;14:371-90.
10. Woeltje KF, Ritchie DJ. Antimicrobials. In Carey DF, Lee HH. Woeltje KF, eclitors. The Washington
manual of medical therapeutics. Philadelphia; Lippincott,Williarns & Wilkins; 1998. p. 244-54.
11. Davies SP. Azadian BS, Kox WJ, et al. Pharmacokinetics of ciprofloxacin and vancomycin in patients
with acute renal failure treated by continuos hemodialysis.Nephol Dial Transplant 1992;7:848-54.
12. Saunders NJ, Want SV, Adams DJ. Assay of vancomycin by fluorescencepolarization immunoassay and
EMIT in patients with renal failure. J Antimic Chemo1995;36:411-5.
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 11
TỔNG KẾT CÔNG TÁC BÁO CÁO ADR NĂM 2016
Ds Lâm Thái Hƣng
(Theo Trung tâm DI&ADR Quốc gia)
Năm 2016, Trung tâm DI & ADR
Quốc gia và Trung tâm DI & ADR khu vực
TP. Hồ Chí Minh đã tiếp nhận và xử lý 10977
báo cáo ADR (đạt 119,7 báo cáo/1 triệu dân),
tăng 18,5% so với cùng kỳ năm 2015 (9266
báo cáo). Trong đó, 9467 báo cáo được gửi từ
các cơ sở khám, chữa bệnh và 1568 báo cáo
ADR xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam từ các đơn
vị sản xuất, kinh doanh dược phẩm (58 báo
cáo trùng với báo cáo từ các cơ sở khám, chữa
bệnh).
Trong số các báo cáo đã tiếp nhận, có
10584 (96,4%) báo cáo về biến cố bất lợi của
thuốc và 68 (0,6%) báo cáo về chất lượng
thuốc, 325 (3,0%) báo cáo về các vấn đề khác
(báo cáo liên quan đến thiết bị y tế, ma túy, sử
dụng với chỉ định chưa được phê duyệt, …).
I. BÁO CÁO ADR TỪ CÁC CƠ SỞ
KHÁM, CHỮA BỆNH
1. Tình hình báo cáo từ các đơn vị Tính đến hết ngày 15/12/2016, 805 cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh của toàn bộ 63 tỉnh,
thành phố trong cả nước đã gửi báo cáo ADR.
Phần lớn báo cáo được gửi từ các đơn vị ở
vùng Đông Nam bộ và đồng bằng sông Hồng,
từ các bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện đa khoa
và bệnh viện thuộc khối công lập (bảng 1).
Trong đó, Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh có số
lượng báo cáo cao nhất (tương ứng 21,2% và
14,4% tổng số báo cáo nhận được của cả
nước). TP. Đà Nẵng là địa phương có công tác
báo cáo ADR hiệu quả nhất với số báo cáo/1
triệu dân cao nhất trong cả nước (426,7 báo
cáo/1 triệu dân). Các đơn vị có số lượng báo
cáo ADR cao tập trung tại TP. Hồ Chí Minh,
trong đó bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là đơn
vị có số báo cáo ADR nhiều nhất trong cả
nước, chiếm 4,8% tổng số báo cáo ADR từ các
đơn vị khám, chữa bệnh
2. Các thuốc nghi ngờ gây ADR đƣợc báo
cáo nhiều nhất Trong số 9467 báo cáo có 82 báo cáo
liên quan đến các vấn đề không liên quan đến
thuốc. Vì vậy, thông tin về thuốc nghi ngờ
được thống kê trên 9385 báo cáo. Tổng số
thuốc nghi ngờ được báo cáo là 11290 thuốc
(1,2 thuốc/1 báo cáo). Các thuốc nghi ngờ gây
ADR được báo cáo thuộc 3 nhóm chính:
kháng sinh (cefotaxim, ceftriaxon, ceftazidim,
ciprofloxacin, cefuroxim, amoxicilin/acid
clavulanic, levofloxacin), các thuốc điều trị lao
(rifampicin/isoniazid/pyrazinamid) và nhóm
thuốc giảm đau, chống viêm (diclofenac).
Cefotaxim vẫn là thuốc nghi ngờ gây ra ADR
được báo cáo nhiều nhất với tỷ lệ 12,2%.
3. Phản hồi cá nhân báo cáo Tổng số báo cáo đã được nhóm chuyên
gia thẩm định và được Trung tâm DI & ADR
Quốc gia phản hồi cho cán bộ y tế và đơn vị
gửi báo cáo trong năm 2016 là 5990 báo cáo.
Các báo cáo được ưu tiên phản hồi bao gồm
báo cáo khẩn, báo cáo nghiêm trọng và báo
cáo từ các chương trình y tế quốc gia (HIV,
lao, sốt rét).
II. BÁO CÁO ADR TỪ CÁC ĐƠN VỊ SẢN
XUẤT, KINH DOANH DƢỢC PHẨM Trong năm 2016, 31 đơn vị sản xuất và
kinh doanh dược phẩm đã gửi báo cáo ADR
đơn lẻ, 46 đơn vị sản xuất và kinh doanh dược
phẩm đã gửi báo cáo tổng hợp định kỳ và 2
đơn vị đã gửi thư cung cấp thông tin về an
toàn thuốc về Trung tâm DI & ADR Quốc gia
và Trung tâm DI & ADR khu vực TP. Hồ Chí
Minh.
Tổng số báo cáo ADR xảy ra tại Việt
Nam đã được các đơn vị sản xuất, kinh doanh
dược phẩm ghi nhận là 1568 (trong đó có 58
báo cáo trùng với báo cáo từ các cơ sở khám,
chữa bệnh), tăng 116,8%. Các chế phẩm đang
được lưu hành trên thị trường được báo cáo
nhiều nhất là dung dịch thẩm phân màng bụng
(13,9%), imatinib (8,0%), bevacizumab
(7,5%), losartan (7,5%).
Số báo cáo ADR xảy ra trong các nghiên cứu
lâm sàng là 85. Trong đó, các thuốc được ghi
nhận nhiều nhất: lisinopril/amlodipin (32 báo
cáo), cetuximab (10 báo cáo), bedaquilin (09
báo cáo) và capecitabin (8 báo cáo).
III. CÁC TRƢỜNG HỢP KHẨN LIÊN
QUAN ĐẾN AN TOÀN THUỐC
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 12
Trong năm 2016, Trung tâm DI &
ADR Quốc gia đã giải quyết 75 trường hợp
khẩn bao gồm 67 trường hợp báo cáo ADR
khẩn phản hồi cho đơn vị gửi báo cáo ADR và
08 trường hợp công văn cung cấp thông tin về
an toàn thuốc cho cơ quan quản lý của Bộ Y
tế. Trong các trường hợp báo cáo ADR khẩn,
có 46 trường hợp tử vong và 24 chuỗi báo cáo
(thông tin về các chuỗi báo cáo ADR được cập
nhật thường xuyên tại địa
chỉ http://canhgiacduoc.org.vn). Song song với
công tác phản hồi khẩn cho cá nhân, đơn vị
gửi báo cáo ADR, Trung tâm DI&ADR Quốc
gia cũng cập nhật các thông tin về an toàn
thuốc gửi cơ quan quản lý của Bộ Y tế. Tính
đến hết ngày 15/12/2016, tổng số công văn đã
gửi là 08 công văn, trong đó, có 2 vấn đề đã
được Cục Quản lý Dược cung cấp thông tin
đến các cán bộ y tế bao gồm: cập nhật thông
tin ngừng lưu hành các chế phẩm chứa
fusafungin và cung cấp thông tin cập nhật về
thuốc chứa hoạt chất mycophenolat mofetil
hoặc acid mycophenolic.
IV. KẾT LUẬN Trong năm 2016, số lượng báo cáo
ADR được Trung tâm DI & ADR Quốc gia và
Trung tâm DI & ADR khu vực TP. Hồ Chí
Minh tiếp nhận tăng 18,5% so với năm 2015,
tỷ lệ báo cáo vẫn chưa đồng đều giữa các địa
phương, khu vực và các tuyến bệnh viện. Do
đó, công tác báo cáo ADR cần tiếp tục được
thúc đẩy hơn nữa, đặc biệt tại đơn vị, địa
phương chưa tham gia báo cáo ADR. Dược sĩ
đã trở thành đối tượng chính tham gia báo cáo
ADR và cần tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò
của mình trong công tác đảm bảo an toàn
thuốc nói chung và hoạt động theo dõi, báo
cáo ADR nói riêng. Bên cạnh việc báo cáo
ADR của các thuốc được sử dụng nhiều (thuốc
kháng sinh, thuốc điều trị lao, thuốc giảm đau,
hạ sốt, chống viêm) và các phản ứng có hại
thông thường (dị ứng ngoài da, phản ứng phản
vệ/sốc phản vệ), cán bộ y tế cần tập trung báo
cáo phản ứng có hại của các thuốc mới được
sử dụng tại đơn vị, phản ứng có hại mới chưa
được ghi nhận và các phản ứng có hại cần xét
nghiệm cận lâm sàng hoặc thăm dò chức năng
chuyên biệt.
Trung tâm DI & ADR Quốc gia xin
trân trọng cảm ơn sự hợp tác của các đơn vị và
cán bộ y tế đã tham gia báo cáo ADR và mong
muốn tiếp tục nhận được sự phối hợp để triển
khai hiệu quả hoạt động giám sát ADR.
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 13
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VÀ BÁO CÁO ADR
TẠI TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN PHƢỚC LONG
DS Nguyễn Thị Kim Nhung
Phản ứng có hại của thuốc (Adverse Drug
Reaction - ADR) Phản ứng có hại của thuốc có thể dự
đoán được (nghĩa là có thể kiểm soát, có thể
tránh được hoặc không) hoặc không thể dự
đoán được; nó có thể xảy ra thường xuyên
hoặc không thường xuyên đối với một thuốc
hay nhiều thuốc mà hậu quả của nó có thể
nghiêm trọng hoặc không nghiêm trọng.
Tại sao phải theo dõi phản ứng có hại của
thuốc?
Thử nghiệm lâm sàng với một thuốc
trước khi đưa ra thị trường chỉ được tiến hành
trên một số lượng bệnh nhân rất ít so với lượng
bệnh nhân sẽ sử dụng thuốc
đó trong thực tế.
Mặt khác các thử
nghiệm lâm sàng thường
không đánh giá trên các đối
tượng bệnh nhân đặc biệt
như người già, trẻ em, phụ
nữ có thai, bệnh nhân suy
gan, suy thận…Điều đó cho
thấy những thông tin về độ
an toàn của một thuốc thu
được từ các thử nghiệm lâm
sàng là rất hạn chế, đặc biệt là thông tin về các
phản ứng nghiêm trọng nhưng tần suất xảy ra
thấp. Do vậy, thông tin do các cán bộ y tế cung
cấp về các phản ứng có hại của thuốc sẽ vô
cùng hữu ích để tiếp tục đánh giá một cách
toàn diện hơn về các nguy cơ tiềm ẩn của
thuốc khi lưu hành trên thị trường.
Trên tinh thần đó tại Bệnh Đa khoa
huyện Phước Long, đã nâng cao nhận thức về
vấn đề an toàn trong sử dụng thuốc và khuyến
khích cán bộ y tế báo cáo phản ứng có hại của
thuốc như là nhiệm vụ chuyên môn trong thực
hành lâm sàng và là một phần trách nhiệm, đạo
đức nghề nghiệp. Phát hiện sớm các vấn đề an
toàn thuốc, kịp thời xử trí và chủ động thực
hiện các biện pháp dự phòng các biến cố bất
lợi xảy ra trong quá trình sử dụng thuốc trên
người bệnh.
Hoạt động giám sát và Báo cáo ADR
tại Trung tâm Y tế Phƣớc Long 6 tháng đầu
năm nhƣ sau:
Tổng số ca được
báo cáo: 03; Các thuốc
được báo cáo: Cefotaxim
1g (02 ca bệnh được báo
cáo), Diclofenac 75mg
dạng tiêm.
Biểu hiện ADR
được mô tả: Nổi mẩn đỏ ,
ngứa. Sau khi xử trí biểu
hiện dần hồi phục.
Dựa trên kết quả
báo cáo, Bác sĩ điều trị cần
lưu ý trong kê đơn cho bệnh nhân những loại
thuốc trên để phòng những phản ứng không
mong muốn có thể xảy ra cho bệnh nhân, chủ
động trong xử trí phản ứng. Điều dưỡng, hộ
sinh, khi thực hiện y lệnh cần lưu ý theo dõi
bệnh nhân sau khi dùng thuốc để kịp thời báo
cho Bác sĩ điều trị xử trí kịp thời tránh để ra tai
biến nghiêm trọng cho bệnh nhân.
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 14
57.14
28.57
14.29 14.29
0.00
10.00
20.00
30.00
40.00
50.00
60.00
Cefotaxim Diclofenac Ceftriaxon EFV
Tỷ lệ % ADR theo tên thuốc
ADR
CEFOTAXIM CẢNH BÁO TÁC DỤNG PHỤ
VÀ TẦN SUẤT XUẤT HIỆN ADR
Ds Bùi Thị Thùy Linh Phản ứng có hại của thuốc theo WHO (1972): “ Phản ứng có hại của thuốc là phản ứng
độc hại, không được định trước, xuất hiện ở liều thường dùng cho người để phòng bệnh, chẩn đoán
hay chữa bệnh hoặc nhằm thay đổi một chức năng sinh lý. Định nghĩa này không bao gồm các
trường hợp thất bại trị liệu, quá liều, lạm dụng thuốc, không tuân thủ và sai sót trong trị liệu ”
Tác dụng phụ của thuốc là tác dụng không định trước của một chế phẩm thuốc xảy ra ở liều
thường dùng ở người và liên quan đến đặc tính dược lý của thuốc.
Cefotaxim là kháng sinh nhóm cephalosporin thế hệ 3, có phổ kháng khuẩn rộng. Các kháng
sinh trong nhóm đều có phổ kháng khuẩn tương tự nhau, tuy nhiên mỗi thuốc lại khác nhau về tác
dụng riêng lên một số vi khuẩn nhất định. So với các cephalosporin thuộc thế hệ 1 và 2, thì
cefotaxim có tác dụng lên vi khuẩn Gram âm mạnh hơn, bền hơn đối với tác dụng thủy phân của
phần lớn các beta lactamase, nhưng tác dụng lên các vi khuẩn Gram dương lại yếu hơn các
cephalosporin thuộc thế hệ 1.
Cefotaxim dạng muối natri được dùng tiêm bắp. Thuốc hấp thu rất nhanh sau khi tiêm.
Được sử dụng rộng rãi ở các bệnh viện trong và ngoài nước. Tuy nhiên nhiều báo cáo rằng tỷ lệ
xuất hiện ADR của Cefotaxim là rất cao. Theo Trung tâm DI&ADR Quốc gia thì báo cáo phản ứng
có hại của Cefotaxim trong 6 tháng đầu năm 2017 là 524 ca và chiếm tỷ lệ 12%, đây là con số rất
cao. Ở Bệnh viện đa khoa huyện Phước Long tổng số báo cáo ADR năm 2017 do Cefotaxim là 4
ca chiếm 57.14% tổng số ca báo cáo ADR (theo biểu đồ bên dưới)
Hình: Tỷ lệ % thuốc gây ADR tại Bệnh viện Phƣớc Long Năm 2017
Bảng 4: Danh sách 10 thuốc nghi ngờ gây ADR được báo cáo nhiều nhất trong 06 tháng đầu năm 2017 (do Trung tâm DI&ADR cung cấp)
STT Hoạt chất Số lượng Tỷ lệ % (n=4355)
1 Cefotaxim 524 12,0
2 Ceftriaxon 282 6,5
3 Ceftazidim 218 5,0
4 Ciprofloxacin 211 4,8
5 Diclofenac 206 4,7
6 Amoxicilin/chất ức chế beta lactamase 167 3,8
7 Ethambutol 165 3,8
8 Haloperidol 150 3,4
9 Rifampicin/isoniazid/pyrazinamid 133 3,1
10 Cefuroxim 115 2,6
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 15
Các tác dụng phụ của Cefotaxim gây ra chủ yếu là nổi mề đay, đỏ ngứa da toàn thân, chảy
nước mắt, khó thở, khó chịu… Chính vì tác dụng phụ trên và tần xuất xảy ra ADR rất cao nên các
cán bộ y tế phải chú ý khi sử dụng Cefotaxim và khi có dấu hiệu ADR xảy ra thì báo cáo về khoa
dược của bệnh viện để báo cáo về Trung tâm DI&ADR quốc gia kịp thời./.
SỬ DỤNG THUỐC CHỐNG VIÊM KHÔNG STEROID (NSAIDs - Nonsteroidal anti-inflammatory drugs)
Ds Danh Lê Minh Hiếu
Theo PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan
1. Đại cƣơng về thuốc chống viêm không
steroid Thuốc chống viêm không steroid-
NSAIDs là một nhóm thuốc bao gồm các
thuốc có hoạt tính chống viêm và không chứa
nhân steroid. Nhóm này bao gồm nhiều dẫn
chất có thành phần hoá học khác nhau nhưng
có chung cơ chế tác dụng là ức chế các chất
trung gian hoá học gây viêm, quan trọng nhất
là prostaglandine - điều này lý giải phần lớn
các hiệu quả của thuốc, đồng thời cũng giải
thích tác dụng phụ của nhóm thuốc chống
viêm không steroid. Đa số các thuốc trong
nhóm cũng có tác dụng hạ nhiệt và giảm đau.
Các thuốc chống viêm không steroid chỉ làm
giảm các triệu chứng viêm mà không loại trừ
được các nguyên nhân gây viêm, không làm
thay đổi tiến triển của quá trình bệnh lý chính.
Hiện thuốc được chia thành hai nhóm chính:
nhóm thuốc ức chế COX không chọn lọc (đa
số các thuốc chống viêm không steroid “cổ
điển”) với nhiều tác dụng không mong muốn
về tiêu hóa (viêm, loét, thủng... dạ dày tá
trạng, ruột non...) và nhóm thuốc ức chế ưu thế
(hoặc chọn lọc) COX-2 ( meloxicam,
celecoxib, etoricoxib... có ưu thế là tác dụng
không mong muốn về tiêu hóa thấp, xong cần
thận trọng trong các trường hợp có bệnh lý tim
mạch (suy tim xung huyết, bệnh lý mạch
vành...). Việc chỉ định một thuốc nào trong
nhóm cần cân nhắc trên một bệnh nhân cụ thể.
Thuốc chống viêm không steroids là một thuốc quan trọng ban đầu trong bậc thang giảm đau của
Tổ chức Y tế Thế giới. Ảnh: Uptodate
2. Nguyên tắc sử dụng thuốc chống viêm
không steroid- NSAIDs
- Nên bắt đầu bằng loại thuốc có ít tác
dụng không mong muốn nhất. Lý do lựa chọn
thuốc trong nhóm dựa trên tình trạng cụ thể
của mỗi bệnh nhân. Cần thận trọng ở các đối
tượng có nguy cơ: tiền sử dạ dày, tim mạch, dị
ứng, suy gan, suy thận, người già, phụ nữ có
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 16
thai... và chỉ định thuốc dựa trên sự cân nhắc
giữa lợi và hại khi dùng thuốc.
- Nên khởi đầu bằng liều thấp nhất,
không vượt liều tối đa và duy trì liều tối thiểu
có hiệu quả. Dùng thuốc trong thời gian ngắn
nhất có thể.
- Phải theo dõi các tai biến dạ dày, gan,
thận, máu, dị ứng...
- Không sử dụng đồng thời hai hoặc
nhiều thuốc chống viêm không steroid, vì kết
hợp các thuốc trong nhóm không tăng hiệu quả
mà gây tăng tác dụng không mong muốn.
- Đường tiêm bắp không dùng quá 3
ngày. Nên dùng đường uống do thuốc được
hấp thu dễ dàng qua đường tiêu hóa. Mỗi
thuốc có dạng bào chế riêng, do đó đa số các
thuốc uống khi no song một số thuốc có thời
gian uống theo khuyến cáo của nhà sản xuất.
Ví dụ Voltaren SR: uống sau ăn 1h, chứ không
uống lúc no như các loại diclofenac khác
- Cần kết hợp với thuốc giảm đau
(nhóm paracetamol) và cố gắng điều trị
nguyên nhân gây bệnh (điều trị đặc hiệu, điều
trị cơ bản bệnh, kết hợp nhóm DMARDs-
Disease-modifying antirheumatic drugs đối
với một số bệnh khớp tự miễn).
2. Chỉ định và chống chỉ định của thuốc
chống viêm không steroid
a) Chỉ định của thuốc chống viêm không
steroid trong thấp khớp học
- Các bệnh viêm khớp: Thấp khớp cấp,
viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính
khớp, viêm khớp phản ứng, viêm khớp vảy
nến, gút, viêm khớp tự phát thiếu niên...
- Các bệnh hệ thống (luput ban đỏ hệ
thống, xơ cứng bì toàn thể...)
- Thoái hóa khớp (hư khớp), thoái hóa
cột sống, đau cột sống cổ, đau vai gáy, đau
thắt lưng cấp hoặc mạn tính, đau thần kinh
toạ...
- Bệnh lý phần mềm do thấp: Viêm
quanh khớp vai, viêm lồi cầu xương cánh tay,
hội chứng De Quervain, hội chứng đường hầm
cổ tay...
b) Chống chỉ định của thuốc chống viêm
không steroid
- Chống chỉ định tuyệt đối:
+ Bệnh lý chảy máu không được kiểm
soát
+ Tiền sử dị ứng, mẫn cảm với thuốc
+ Loét dạ dày tá tràng đang tiến triển
+ Suy tế bào gan mức độ vừa đến nặng
+ Phụ nữ có thai ba tháng đầu hoặc ba
tháng cuối, phụ nữ đang cho con bú
- Chống chỉ định tương đối, thận
trọng:
+ Nhiễm trùng đang tiến triển.
+ Hen phế quản
+ Tiền sử viêm loét dạ dày tá tràng
c) Khuyến cáo sử dụng thuốc chống viêm
không steroid khi có nguy cơ tiêu hóa, tim
mạch
- Phương pháp dự phòng biến chứng
tiêu hóa do thuốc chống viêm không steroid
Cần điều trị dự phòng biến chứng tiêu
hóa do thuốc chống viêm không steroid ở các
đối tượng có nguy cơ.
Các yếu tố nguy cơ biến chứng tiêu
hóa do thuốc chống viêm không steroid:
+ Các yếu tố nguy cơ cao: nữ, trên 60
tuổi; tiền sử loét dạ dày tá tràng, tiền sử xuất
huyết tiêu hoá cao; cần sử dụng thuốc chống
viêm không steroid liều cao; sử dụng kết hợp 2
loại thuốc chống viêm không steroid (một cách
sai lầm), kết hợp với aspirin liều thấp.
+ Các yếu tố nguy cơ trung bình: nữ
giới, tuổi trên 55 tuổi; tiền sử có các triệu
chứng tiêu hoá (đau thượng vị, đầy hơi, ợ hơi,
ợ chua, chậm tiêu...); hút thuốc lá, uống rượu;
nhiễm HP; bệnh viêm khớp dạng thấp; tình
trạng dinh dưỡng kém; stress tinh thần hoặc
thể chất mới xuất hiện.
Phương pháp dự phòng biến chứng
tiêu hóa do thuốc chống viêm không steroid:
+ Hạn chế sử dụng thuốc: liều thấp
nhất có thể và thời gian dùng ngắn nhất có thể
+ Ưu tiên lựa chọn các thuốc ức chế
chọn lọc COX 2 như celecoxib, etoricoxib
hoặc các thuốc có dạng bào chế đặc biệt như
piroxicam-β- cyclodextrin...
+ Sử dụng kèm các thuốc ức chế bơm
proton: Thuốc nhóm này có hiệu quả dự phòng
và điều trị các tổn thương dạ dày tá tràng do
chống viêm không steroid. (Omeprazole 20mg
hoặc các thuốc trong nhóm như Esomeprazole
20 mg uống 1 viên vào buổi tối trước khi đi
ngủ). Các thuốc này ít hiệu quả dự phòng các
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 17
tác dụng không mong muốn trên đường tiêu
hóa dưới. Do vậy đối với các bệnh nhân có
nguy cơ cao nên dùng nhóm ức chế chọn lọc
COX 2. Một số trường hợp có nguy có rất cao
về tiêu hóa mà có chỉ định dùng thuốc chống
viêm không steroid, có thể kết hợp nhóm ức
chế chọn lọc COX 2 với thuốc ức chế bơm
proton.
+ Không nên sử dụng các thuốc chất
kháng acid dạng gel có chứa aluminium trong
dự phòng tổn thương dạ dày tá tràng do chống
viêm không steroid. Các thuốc nhóm này có
tác dụng với các cơn đau bỏng rát hoặc tình
trạng khó chịu do acid gây ra ở dạ dày, thực
quản song không có tác dụng dự phòng. Hơn
nữa, chúng có thể gây cản trở hấp thu các
thuốc khác.
- Nguyên tắc sử dụng thuốc chống
viêm không steroid ở các đối tượng có nguy
cơ tim mạch + Nếu dùng aspirin, uống aspirin trước
khi uống thuốc chống viêm không steroid ít
nhất 02 giờ (đặc biệt nếu là ibuprofen; nếu
celecoxibthì không cần)
+ Không sử dụng thuốc chống viêm
không steroid trong vòng 3-6 tháng nếu có
bệnh lý tim mạch cấp hoặc can thiệp tim mạch
+ Theo dõi và kiểm soát huyết áp chặt
chẽ
+ Sử dụng liều thuốc chống viêm
không steroid thấp, loại có thời gian bán thải
ngắn và tránh các loại giải phóng chậm
- Nguyên tắc lựa chọn thuốc chống
viêm không steroid chỉ định cho bệnh nhân
mắc bệnh khớp
+ Nguy cơ thấp: dưới 65 tuổi, không
có nguy cơ tim mạch, bệnh lý khớp không đòi
hỏi sử dụng thuốc thuốc chống viêm không
steroid (CVKS) liều cao và kéo dài, không kết
hợp aspirin, corticosteroids, hoặc thuốc chống
đông: chỉ định thuốc chống viêm không
steroid kinh điển với liều thấp nhất có thể và
thời gian ngắn nhất có thể.
+ Nguy cơ cao hoặc vừa: chỉ định các
thuốc theo mức độ nguy cơ
Nguy cơ Khuyến cáo chỉ định thuốc theo mức độ nguy
cơ
Nguy cơ vừa
- ≥65 tuổi
- Cần phải sử dụng thuốc chống viêm
không steroid liều cao và kéo dài
- Không có tiền sử hoặc biến chứng loét
đường tiêu hóa
- Celecoxib mỗi ngày một lần
- Kết hợp thuốc ức chế bơm proton, hoặc
misoprostol, hoặc thuốc ức chế thụ thể H2 liều
cao
- Nguy cơ tim mạch thấp, có thể đang
dùng aspirin với mục đích dự phòng
- Nếu phải dùng aspirin, cần dùng liều thấp (75 -
81 mg/ngày)
- Cần phải sử dụng thuốc chống viêm
không steroid liều cao và kéo dài
- Nếu phải kết hợp aspirin, dùng NSAID cổ điển ít
nhất 2 trước khi uống aspirin
Nguy cơ cao
- Người cao tuổi, gầy yếu hoặc tăng
huyết áp, có bệnh lý gan, thận kèm theo
- Chỉ định acetaminophen <3 g/ngày
- Tránh thuốc NSAID nếu có thể
- Có tiền sử biến chứng loét đường tiêu
hóa hoặc có nhiều yếu tố nguy cơ đường
tiêu hóa
- Dùng liều thuốc NSAID ngắt quãng
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 18
- Tiền sử tim mạch và dùng aspirin hoặc
thuốc chống ngưng tập tiểu cầu để dự
phòng
- Dùng thuốc NSAID liều thấp và loại có thời gian
bán hủy ngắn
- Không dùng các loại thuốc NSAID dạng giải
phóng chậm
- Tiền sử suy tim - Chỉ chỉ định thuốc NSAID khi thực sự cần thiết
- Theo dõi và quản lý huyết áp
- Theo dõi creatinin và điện giải đồ
- Nguy cơ tiêu hóa > nguy cơ tim mạch - Celecoxib một lần mỗi ngày kết hợp thuốc ức
chế bơm proton hoặc misoprostol
- Nguy cơ tim mạch > nguy cơ tiêu hóa - Naproxen kết hợp thuốc ức chế bơm proton hoặc
misoprostol
- Tránh thuốc ức chế bơm proton nếu dùng thuốc
chống ngưng tập tiểu cầu như clopidogrel
Bảng liều một số thuốc chống viêm không steroid thường được sử dụng
Nhóm Tên chung Liều 24 giờ (mg) Trình bầy (mg)
Proprionic Ibuprofen 400-1200 Viên: 400
Viên đặt hậu môn: 500
Proprionic Naproxen 250-1000 Viên: 250; 500; 275; 550
Oxicam Piroxicam 10-40 Viên: 10, 20; ống: 20
Oxicam Piroxicam-β-
cyclodextrin
10-40 Viên: 20
Oxicam Tenoxicam 20 Viên, ống 20
Diclofenac Diclofenac 50-150 Viên: 25, 50; Viên đặt hậu môn: 100;
Ống: 75
Nhóm coxib Meloxicam 7,5-15 Viên: 7,5; ống 15
Nhóm coxib Celecoxib 100-200 Viên: 100
Nhóm coxib Etoricoxib 30-120 Viên: 30, 60, 90, 120
3. Một số ví dụ
- Diclofenac: Viên 50mg: 2 viên/ngày
chia 2 sau ăn no hoặc viên 75mg (dạng SR:
phóng thích chậm) 1 viên/ngày sau ăn 1 giờ.
Có thể sử dụng dạng ống tiêm bắp 75
mg/ngày trong 1-3 ngày đầu khi bệnh nhân
đau nhiều, sau đó chuyển sang đường uống.
- Meloxicam: Viên 7,5mg: 2
viên/ngày, sau ăn no hoặc dạng ống tiêm bắp
15 mg/ngày x 2- 3 ngày nếu bệnh nhân đau
nhiều, sau đó chuyển sang đường uống.
- Piroxicam: Viên hoặc ống 20 mg,
uống 1 viên/ngày, uống sau ăn no hoặc tiêm
bắp ngày 1 ống trong 1-3 ngày đầu khi bệnh
nhân đau nhiều, sau đó chuyển sang đường
uống.
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 19
- Celecoxib: Viên 200 mg liều 1 đến 2
viên/ngày, uống sau ăn no. Không nên dùng
cho bệnh nhân có tiền sử bệnh tim mạch và
thận trọng hơn ở người cao tuổi.
- Etoricoxib: Tùy theo chỉ định. Với
gút cấp có thể uống 1 viên 90 mg hoặc 120
mg trong vài ngày đầu (không quá 8 ngày).
Với các bệnh khác, dùng liều 30-45- 60-90
mg mỗi ngày (lúc no). Nên tránh chỉ định cho
bệnh nhân có tiền sử bệnh tim mạch và thận
trọng hơn ở người cao tuổi.
Lưu ý với một số cơ địa đặc biệt:
Đối với trẻ em nên cho một trong các
thuốc sau:
- Aspirin: liều không quá
100mg/kg/ngày (nhưng cần thận trọng).
- Indomethacin: 2,5 mg/kg ngày.
- Diclofenac: 2mg/kg/ngày.
- Naproxen: 10 mg/kg/ngày
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 20
HOẠT ĐỘNG PHÁT THUỐC TỪ THIỆN
CỦA BỆNH VIỆN ĐA KHOA PHƢỚC LONG
DS Ngô Văn Lợi
Phát thuốc từ thiện là hoạt động nhân đạo nhằm
mục đích chăm lo sức khỏe cho nhân dân, đặc biệt là
những người nghèo, gia đình chính sách, các dân tộc
thiểu số, vùng sâu vùng xa.
Ở Bệnh viện đa khoa huyện Phước Long hàng
năm điều có kế hoạch cấp, phát thuốc từ thiện miễn phí
cho người dân. Để làm tốt việc này cần có sự chỉ đạo
và sự quan tâm của Giám đốc bệnh viện và chính
quyền địa phương nơi được cấp phát thuốc miễn phí.
Năm 2017 được sự chỉ đạo và quan tâm của
Giám đốc bệnh viện, hoạt động khám, chữa bệnh, cấp
thuốc miễn phí cho người nghèo, khó khăn, các dân
tộc thiểu số ở xã Vĩnh thanh diễn ra thành công tốt
đẹp. Người dân ở đây rất thật thà và chịu khó, họ phải
làm việc hàng ngày để kiếm tiền lo cho cuộc sống, tuy
nhiên khi nghe tin có đoàn khám bệnh từ thiện ở Bệnh
viện đa khoa Phước Long về khám bệnh, phát thuốc
miễn phí cho người dân thì họ rất phấn khởi và đi đến
rất sớm để được khám, chữa bệnh cho mình.
Các đội ngũ y, bác sĩ Bệnh viện cũng rất nhiệt
tình, tận tụy phụ vụ cho bà con ở đây và rất vui vẻ khi
được người dân ở đây chào đón rất nhiệt tình. Chăm
lo sức khỏe cho người dân cũng như chăm lo cho sức
khỏe người thân của mình, coi họ đau đớn như mình
đau đớn cũng như Bác Hồ dạy “Lương y phải như từ
mẫu”./.
Khám bệnh từ thiện xã Vĩnh Thanh
Phát thuốc từ thiện xã Vĩnh Thanh
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 21
TÁC DỤNG PHỤ CỦA THUỐC ARV VÀ CÁCH KHẮC PHỤC
Ds Lâm Thái Hƣng
Theo SK&ĐS
Hiện nhờ có các thuốc kháng virut
(ARV) mà cuộc sống của người nhiễm HIV
được kéo dài hơn. Tuy nhiên các thuốc này lại
có nhiều tác dụng phụ. Vì vậy chỉ dùng cho
bệnh nhân "có chỉ định". Không phải tất cả
mọi người nhiễm HIV đều có chỉ định điều trị
bằng ARV. Chỉ định điều trị phải dựa vào giai
đoạn lâm sàng và/hoặc số tế bào lympho,
CD4; hoặc để điều trị dự phòng phơi nhiễm,
dự phòng lây truyền từ mẹ sang con.
Khi dùng các thuốc này bệnh nhân có
thể gặp một số tác dụng phụ sau:
Buồn nôn: Hay gặp khi dùng các
thuốc zidovudine (ZDV), stavudine (d4T),
didanosine (ddI); abacavir (ABC), tenofovir
(TDF), indinavir (IDV), saquinavir (SQV),
lopinavir (LPV), ritonavir (RTV). Để hạn chế
tác dụng phụ này, có thể cho uống thuốc trong
bữa ăn. Tuy nhiên IDV và ddI không nên
dùng trong bữa ăn vì ảnh hưởng tới hấp thu
và chuyển hoá thuốc.
Tiêu chảy: Thường gặp khi dùng các
thuốc: TDF, SQV, LPV, RTV. Khi bị tiêu
chảy cần bù nước điện giải đầy đủ bằng
đường uống (oresol) hoặc đường truyền nếu
nặng. Có thể phải dùng các thuốc chống tiêu
chảy để hạn chế tiêu chảy tạm thời.
Đau đầu: Có thể gặp khi trong phác đồ điều
trị có các loại thuốc như: ZDV, lamivudine
(3TC), IDV, SQV, LPV. Có thể dùng thuốc
giảm đau thông thường như paracetamol để
giảm bớt đau đầu cho người bệnh.
Đau bụng, khó chịu ở bụng: Thường
gặp khi dùng các loại thuốc sau: ddI, ABC,
SQV cần theo dõi kỹ, nếu đau liên tục cần tới
cơ sở y tế nơi cấp thuốc để được hướng dẫn
thêm, thậm chí phải thay thế thuốc khác hoặc
đổi phác đồ.
Nổi ban đỏ, ngứa: các loại thuốc: ddI,
3TC, ABC, EFV, NVP, LPV có thể gây dị
ứng. Nhẹ thì có biểu hiện ban đỏ rải rác,
ngứa... hết khi điều trị bằng kháng histamin;
nhưng cũng có thể bị dị ứng nặng như hội
chứng Stevens Johnson, Lyell có thể đe dọa
tính mạng (có
thể gặp khi
dùng các
thuốc: EFV,
NVP ). Khi bị
dị ứng thuốc
nặng cần
ngừng thuốc
ngay và điều
trị tích cực tại
các trung tâm y
tế có đủ điều
kiện.
Rối loạn giấc ngủ, ác mộng: Hay gặp
biểu hiện này khi dùng các thuốc sau: EFV,
3TC. Nên dùng vào buổi tối, trước khi đi
ngủ. Các triệu chứng này thường không kéo
dài. Có thể dùng các loại thuốc an thần, thuốc
hỗ trợ để ngủ tốt hơn.
Ngoài ra, một số độc tính, tác dụng
phụ khác của thuốc ARV có thể gặp khi điều
trị:
Bệnh lý thần kinh ngoại vi: Biểu
hiện rối loạn cảm giác ngoại vi, chủ yếu đầu
chi, đi lại khó khăn. Thường gặp khi dùng
d4T, ddI, các thuốc kháng retrovirus non-
nucleosid. Cần dùng vitamin B liều cao, nếu
nặng phải thay thế thuốc.
Viêm tụy: Gặp khi dùng ddI, d4T.
Cần dừng ngay thuốc và thay bằng ZDV.
Phân bố lại mỡ: Khi dùng ddI, thuốc ức chế
proteases. Biểu hiện tăng tích tụ mỡ ở ngực,
bụng, lưng, gáy; teo mô mỡ ở cánh tay, cẳng
chân, mông, má.
Độc cho gan: NVP, EFV, ZDV và
thuốc ức chế proteases rất độc với gan, gây
huỷ hoại tế bào gan, tăng men gan. Cần
ngừng thuốc nếu có tăng men gan gấp 5 lần
bình thường.
Độc với thần kinh trung ƣơng: Biểu
hiện lẫn lộn, rối loạn tâm thần, trầm cảm
thường xảy ra khi dùng EFV. Cần dừng và
thay thế thuốc khi bệnh nhân có vấn đề về
tâm thần, thần kinh.
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 22
THỰC HIỆN 5 ĐÚNG KHI SỬ DỤNG THUỐC
Ds Lâm Thái Hƣng
1. Đúng ngƣời bệnh: một trong những
phần quan trọng trong việc dùng thuốc là phải
đảm bảo rằng thuốc được đưa vào đúng người
bệnh. Có nhiều người bệnh giống nhau về tên,
họ, tuổi vì vậy để tránh nhầm lần là khi có 2
người bệnh giống nhau ta nên sắp xếp giường
khác phòng nhau hoặc nếu không có thể cho
họ nằm ở 2 vị trí cách xa nhau, và điều quan
trọng nhất là ta phải hỏi tên họ, số giường, số
phòng, trước khi dùng thuốc.
2. Đúng thuốc: khi dùng thuốc cho
người bệnh, người điều dưỡng phải đọc nhãn
thuốc 3 lần vào 3 thời điểm sau:
− Khi lấy thuốc ra khỏi tủ hoặc nơi cất
giữ.
− Khi lấy thuốc ra khỏi vật chứa: lọ,
ống, chai thuốc.
− Trước khi trả chai, lọ thuốc về chỗ cũ
hoặc bỏ vào thùng rác.
3. Đúng liều dùng: sự tính toán liều
cần phải được chính xác do vậy để tránh nhầm
lẫn người điều dưỡng cần phải lấy thuốc trong
môi trường hoàn toàn yên tĩnh, phải chú tâm
cao độ, không làm việc gì khác, đôi khi cũng
cần kiểm tra lại sự tính toán của mình bằng
cách so với các điều dưỡng khác. Sau khi tính
toán liều thuốc chính xác, người điều dưỡng
phải biết dùng dụng cụ đo lường chính xác
từng ml hay từng giọt một, việc bẻ đôi một
viên thuốc nên dùng dụng cụ cắt thuốc cho cân
xứng. Với số lượng thuốc quá nhỏ vài giọt ta
có thể cho trực tiếp vào miệng người bệnh
hoặc cho một ít nước vào ly trước khi cho
thuốc vào để tránh thuốc dính vào ly.
4. Đúng đƣờng dùng thuốc: khi sử
dụng thuốc người điều dưỡng cần phải kiểm
tra chắc chắn thuốc dùng cho đường nào:
uống, ngoài da, niêm mạc hay tiêm vì nếu
nhầm lẫn thì sẽ gây hậu quả rất nghiêm trọng.
Ví dụ: thuốc dùng ngoài da lại đem uống sẽ
gây ngộ độc những chất không thể hấp thu qua
niêm mạc tiêu hoá hoặc thuốc dùng tiêm bắp
lại dùng tiêm tĩnh mạch có thể gây thuyên tắc
mạch vì thuốc tiêm bắp có thể có tính chất
không tan trong máu.
5. Đúng thời gian: điều dưỡng phải biết vì sao
một số thuốc được cho y lệnh vào một số giờ
nhất định trong ngày, ví dụ: thuốc lợi tiểu
không nên dùng sau 15 giờ vì người bệnh có
thể đi tiểu ban đêm gây mất giấc ngủ, hoặc
một số thuốc như kháng sinh cần duy trì nồng
độ thuốc đều trong máu do phải cách mỗi 8
tiếng hoặc 12 tiếng dùng thuốc một lần. Nếu
như ta không thực hiện đúng thì hiệu quả của
việc điều trị sẽ giảm và đôi khi sẽ mất tác dụng
và có thể gây nặng thêm cho người bệnh.
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 23
CÁCH DÙNG THUỐC SẮC Ds Lâm Thái Hƣng
Thuốc sắc (thuốc thang) là dạng thuốc
hay sử dụng nhất. Để phát huy được đầy đủ tác
dụng chữa bệnh cả các vị thuốc, tránh lãng phí
thuốc, sơ bộ cách sắc và cách uống thuốc thang.
1. Cách sắc thuốc
a. Nên dùng nồi đất, xoong tráng men để
sắc thuốc, không nên dùng nồi kim loại để tránh
biến chất của thuốc.
Đổ nước lạnh ngập các vị thuốc, các
thuốc nổi lên trên mặt nước khi đun phải quấy
luôn hoặc ngâm nước trước khi sắc. Khi đã sôi
nước để nhỏ lửa, sôi âm ỉ, tránh sôi trào ra hoặc
mau làm cạn nước; không nên mở vung ấm sắc
luôn dễ bay hơi mất hoạt chất có tác dụng.
b. Các vị thuốc bổ như thục địa, Bạch
truật, Bạch thược, … cần sắc lâu các vị thuốc có
độc sắc lâu độc tính sẽ giảm nhiều hoặc mất như
phụ tử.
c. Một số vị thuốc phải sắc theo thứ tự
thời gian khác nhau: loại thuốc khoáng vật như
võ ốc, mai mực, long cốt, … cần sắc trước để
lấy các ion kim loại hòa tan, vị thuốc có tính
dầu như hương nhu, Bạc hà, …. Cho vào sắc lúc
được thuốc để tránh bay mất tinh dầu.
Loại thuốc gây kích thích niên mạc
họng, có lông gây ho, … khi sắc cần phải bọc
(lá nhót tây, xích thạch chi,…)
Loại thuốc loại keo như: Agiao, cao quy
bản, … khi được nước thuốc gạn bỏ bã, cho
thuốc vào đun sôi nhỏ lửa để hòa tan. Nếu đun
chung với các vị thuốc sẽ dính vào bã gây lãng
phí và làm giảm lượng cần dùng.
Loại thuốc quí như Nhân sâm, Tam thất,
Lộc nhung cần sắc riêng để tránh lãng phí vì
nước thuốc dính vào bã thuốc khác.
Một số vị thuốc nếu sắc thuốc khi lắng
xuống đáy nồi, quá nóng bị phân tích thành độc
như Chu sa (quặng sulfua thủy ngân bị phân hủy
ra thủy ngân gây ngộ độc) Phải uống riêng với
thuốc sau khi đã sắc.
Một số vị thuốc phải hòa tan với nước
thuốc hay uống riêng như các loại cao lỏng, bột
Chu sa, Bột Phác tiêu …
Các vị thuốc cần sắc theo thứ tự trước sau, hòa tan, quấy đều, sắc riêng như sau:
Sắc trước Thạch huyết minh, Mẫu lệ, Lang cốt, Quy bản, Thạch cao sống,
Từ thạch, Xương hổ
Sắc sau Bạc hà, Mộc hương, Sa nhân, Bạch đậu khẩu, Thanh hao, Hương
nhu
Bọc khí sắc thuốc Xích trạch chi, Toàn phác hoa, Tỳ bà diệp, đất lồng bếp (Hoàng
thổ)
Sắc riêng Nhân sâm, Tam thất, Lộc nhung
Hòa tan khi được thuốc A giao, Cao Kê huyết đắng, Cao sừng hươu, Kẹo mạch nha, Cao
Hổ cốt, Cao Quy bản
Quấy đều vào nước thuốc khi
uống, hay uống riêng
Bột Ngưu hoàng, bột Chu sa, Bột Hổ phách, Bột Sa nhân, Mang
tiêu, Trúc lịch
2.Cách uống thuốc
a. Thời gian uống thuốc: Nói chung là
nên uống trước khi ăn, các thuốc kích thích niên
mạc dạ dày nên uống sau khi ăn; Thuốc sốt rét
nên uống 2 giờ trước khi lên cơn; Thuốc an thần
uống trước khi đi ngủ. Bệnh cấp tính thời gian
uống không nhất định, bệnh nhân mãm tính
dùng thuốc viên, thuốc hoàn, tán, … uống đúng
giờ.
Tùy theo tình hình bệnh tật có thể uống
nhiều lần trong ngày.
b. Uống nóng và uống lạnh: nói chung
thuốc sắc nên uống nóng, thuốc giải biểu nên
uống ấm, sau khi uống đắp chăn cho ra mồ hôi
bệnh nhân có sốt cao nên uống lạnh; bệnh hàn
nên uống nóng.
Nếu bệnh nhân hôn mê có thể đưa thuốc vào
dạ dày qua đường mũi.
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 24
ĐIỂM TIN CẢNH GIÁC DƢỢC
Ds Lâm Thái Hưng (tổng hợp)
TGA: Nguy cơ huyết khối khi sử dụng
thuốc tránh thai phối hợp đƣờng uống Ngày 21/12/2016, Cơ quan Quản lý
Điều trị Úc (TGA) thông báo đã hoàn thành
tổng quan về nguy cơ huyết khối ở phụ nữ sử
dụng thuốc tránh thai phối hợp dùng đường
uống (CHC) chứa ethinyloestradiol và một
progesteron.
Các khuyến cáo chính được TGA đưa
ra bao gồm:
- Nguy cơ huyết khối tĩnh mạch ở phụ
nữ nhìn chung hiếm gặp, khoảng 2 ca trong
10.000 phụ nữ mỗi năm.
- Dựa trên dữ liệu hiện có, nguy cơ
huyết khối tĩnh mạch tăng lên tùy thuộc
loại progesteron có trong thuốc tránh thai.
- Nguy cơ huyết khối động mạch, như
đột quỵ hoặc đau tim (heart attack), cũng tăng
lên khi sử dụng các thuốc tránh thai phối hợp
nhưng hiếm gặp hơn và không có bằng chứng
cho thấy sự khác biệt giữa các thuốc tránh thai
về nguy cơ này. Nguy cơ huyết khối động
mạch tăng lên theo tuổi, tình trạng hút thuốc
và béo phì.
- Tờ Thông tin về sản phẩm và các tài
liệu thông tin thuốc cho người sử dụng thuốc
tránh thai phối hợp đường uống nên được cập
nhật về nguy cơ huyết khối để đảm bảo thông
tin rõ ràng và nhất quán hơn giữa các
sản phẩm.
Gần đây, EMA cũng thực hiện đánh
giá về vấn đề này và đưa ra các kết luận tương
tự. Một số nhà sản xuất thuốc tránh thai phối
hợp đã cập nhật các thông tin này vào thông
tin sản phẩm dành cho cán bộ y tế và người sử
dụng thuốc trên sản phẩm của họ. TGA đang
tiếp tục làm việc với các nhà sản xuất khác để
cập nhật nguy cơ này.
Nguy cơ huyết khối có khả năng gia
tăng ở các phụ nữ có các yếu tố nguy cơ sau:
- Trên 35 tuổi.
- Hút thuốc.
- Chỉ số khối cơ thể trên 30 kg/m2.
- Có di truyền hoặc mắc phải khuynh
hướng mắc bệnh về huyết khối, bao gồm
kháng protein C hoạt động (APC) (như yếu tố
V Leiden).
- Có tiền sử về huyết khối trong gia
đình hoặc bản thân.
- Bất động (ví dụ sau phẫu thuật hoặc
trong chuyến bay đường dài).
- Có một hoặc vài yếu tố khác làm tăng
nguy cơ huyết khối.
Thông tin dành cho cán bộ y tế:
Nếu bác sĩ đang xem xét kê đơn thuốc tránh thai phối hợp hoặc điều trị cho bệnh nhân đang
sử dụng thuốc tránh thai phối hợp, cần đảm bảo rằng bác sĩ đã nắm được các thông tin được cung
cấp trong bản tin này. Đặc biệt là nắm được các chống chỉ định và thận trọng liên quan đến nguy
cơ rối loạn huyết khối tắc mạch liên quan đến các thuốc tránh thai phối hợp.
Giáo dục bệnh nhân về các dấu hiệu và triệu chứng liên quan đến rối loạn huyết khối tắc
mạch và hướng dẫn bệnh nhân liên hệ trực tiếp với bác sĩ điều trị nếu họ bị tăng nặng, trầm trọng
hơn hoặc xuất hiện các tình trạng hoặc nguy cơ được liệt kê bên dưới. Cần ngừng sử dụng ngay lập
tức thuốc tránh thai phối hợp ngay từlần đầu xuất hiện bất kỳ tình trạng nào trong đó trong thời
gian sử dụng thuốc.
Các chống chỉ định liên quan đến các rối loạn huyết khối tắc mạch bao gồm:
1. Sự có mặt hoặc có nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (VTE):
- Đang mắc VTE (đang được dùng thuốc chống đông) hoặc có tiền sử huyết khối tĩnh mạch
sâu hoặc thuyên tắc mạch phổi, hoặc rối loạn huyết khối khác.
- Có di truyền hoặc mắc phải khuynh hướng huyết khối tĩnh mạch, như kháng protein C hoạt
động (bao gồm yếu tố V Leiden), thiếu antithrombin III, thiếu protein C và thiếu hụt protein S.
- Đại phẫu thuật với thời gian bất động kéo dài.
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 25
- Có nguy cơ cao mắc VTE do sự có mặt của nhiều yếu tố nguy cơ.
2. Sự có mặt hoặc có nguy cơ thuyên tắc huyết khối động mạch (ATE):
- Đang mắc ATE hoặc có tiền sử ATE (ví dụ như nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ) hoặc tình
trạng báo trước (ví dụ đau thắt ngực hoặc cơn thiếu máu thoáng qua; cơn thiếu máu thoáng qua).
- Có di truyền hoặc mắc phải khuynh hướng ATE, ví dụ tăng homocystein máu và kháng thể
kháng phospholipid (kháng thể kháng cardiolipin và kháng đông lupus).
- Tiền sử đau nửa đầu có các triệu chứng thần kinh cục bộ.
- Nguy cơ cao mắc ATE do có nhiều yếu tố nguy cơ hoặccó một yếu tố nguy cơ nghiêm trọng
như:
+ Đái tháo đường với các triệu chứng mạch máu.
+ Tăng huyết áp nặng.
+ Rối loạn lipid máu nặng.
FDA Hoa Kỳ: Cảnh báo mới về việc sử
dụng thuốc gây mê toàn thân và thuốc an
thần cho trẻ nhỏ và phụ nữ có thai Ngày 14/12/2016, Cơ quan Quản lý Thuốc và
Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA Hoa Kỳ) đã thông
báo về việc sử dụng lặp lại hoặc kéo dài thuốc
gây mê toàn thân và thuốc an thần khi tiến
hành phẫu thuật hoặc thủ thuật ở trẻ dưới 3
tuổi hoặc phụ nữ mang thai ở 3 tháng cuối của
thai kỳ có thể ảnh hưởng đến sự phát triển não
bộ của trẻ.
Tương tự như các nghiên cứu trên động vật,
các nghiên cứu trên người gần đây cho
thấy sử dụng đơn liều, phơi nhiễm trong thời
gian tương đối ngắn với thuốc gây mê toàn
thân và thuốc an thần đối với trẻ sơ sinh hoặc
trẻ nhỏ dường như không gây ảnh hưởng tiêu
cực đến hành vi hoặc khả năng học tập. Tuy
nhiên, cần có thêm nghiên cứu phân tích đầy
đủ hơn về ảnh hưởng của việc sử dụng các
thuốc này lên sự phát triển não bộ của trẻ khi
trẻ phơi nhiễm với các thuốc này sớm trong
những năm đầu đời.
Nhằm tăng cường truyền thông đến cộng đồng
về nguy cơ tiềm tàng này, FDA Hoa Kỳyêu
cầu bổ sung cảnh báo này vào nhãn thuốc và
tờ hướng dẫn sử dụng của các thuốc gây mê và
an thần đang lưu hành trên thị trường. FDA
Hoa Kỳ sẽ tiếp tục giám sát việc sử dụng các
loại thuốc này ở trẻ em và phụ nữ mang thai và
sẽ cập nhật tới cộng đồng nếu có thêm thông
tin mới.
Thuốc gây mê và thuốc an thần cần
thiết cho trẻ sơ sinh, trẻ em và phụ nữ mang
thai trong trường hợp cần tiến hành phẫu thuật
hoặcthủ thuật khác gây đau và stress, đặc
biệt trong trường hợp đe dọa tính mạng và
không thể trì hoãn phẫu thuật. Ngoài ra, việc
không điều trị giảm đau có thể gây hại cho trẻ
và ảnh hưởng đến hệ thần kinh đang phát triển
của trẻ.
Theo FDA Hoa Kỳ, cần tiến hành thêm
các nghiên cứu đểcung cấp thông tin bổ sung
về việc sử dụng an toàn các thuốc này ở trẻ
nhỏ và phụ nữ mang thai.FDA Hoa Kỳcũng
khuyến khích cán bộ y tế báo cáo các biến cố
bất lợi ghi nhận được liên quan đến các thuốc
này.
Khuyến cáo dành cho cán bộ y tế: Cần đánh giá cân bằng lợi ích - nguy cơ khi sử dụng thuốc gây mê trên trẻ nhỏ và phụ nữ mang
thai, đặc biệt khi tiến hành các thủ thuật can thiệpcó thể kéo dài hơn 3 giờ hoặc tiến hành nhiều
thủ thuật cho trẻ em dưới 3 tuổi. Cần trao đổi trước với cha mẹ, người chăm sóc trẻ và bản thân phụ
nữ mang thai về những lợi ích, nguy cơ và thời gian thích hợp tiến hành phẫu thuật hoặc thủ thuật
đòi hỏi phải sử dụng thuốc gây mê hoặc an thần vàthời điểm phẫu thuật hoặc thủ thuật có thể trì
hoãn mà không ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của trẻ.
NSAID: Không sử dụng từ tháng thứ 6 của
thai kỳ
Một số lượng lớn phụ nữ có thai vẫn đang
phơi nhiễm với Các thuốc chống viêm không
steroid(NSAID) từ tháng thứ 6 của thai kỳ. Cơ
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 26
quan Quản lý Dược phẩm Pháp (ANSM) đã
nhắc lại chống chỉ định của các NSAID (như
ibuprofen, ketoprofen, diclofenac, …) và cả
aspirin từ tháng thứ 6 của thai kỳ với bất kể
thời gian và đường dùng nào của thuốc. Các
thuốc này có thể gây ra độc tính cho thai nhi,
ngay cả khi chỉ sử dụng 1 liều duy nhất, với
nguy cơ tổn thương thận và tim phổi có thể
gây tử vong cho thai nhi hoặc trẻ sơ sinh.
NSAID được sử dụng trong nhiều tình trạng
bệnh lý, đặc biệt trong giảm đau, hạ sốt và
chống viêm (khớp). Trong đó, có nhiều thuốc
được cấp phát không cần đơn và có thể sử
dụng để tự điều trị.
Các dữ liệu ban đầu của một nghiên cứu cho
thấy một số lượng lớn phụ nữ có thai vẫn được
kê đơn với NSAID từ khi bắt đầu tháng thứ 6
thai kỳ, mặc dù sử dụng này là một chống chỉ
định đã được quy định rõ trong thông tin của
thuốc khi lưu hành.
Do vậy, ANSM đã nhắc lại đối với phụ nữ có
thai, người thân và các cán bộ y tế rằng các
NSAID bị chống chỉ định từ đầu tháng thứ 6
của thai kỳ (khoảng tuần thứ 24 sau khi hết
kinh nguyệt). Chống chỉ định này áp dụng với
mọi loại NSAID, bao gồm cả aspirin (acid
acetylsalicylic), bán theo đơn hoặc bán không
cần đơn (OTC), với bất kể khoảng thời gian và
đường dùng nào của thuốc (đường uống,
đường tiêm hay ngoài da). Đặc biệt, chống chỉ
định sử dụng các thuốc chứa celecoxib và
etoricoxib trong toàn bộ thai kỳ.
Chống chỉ định này dựa trên các nguy cơ
nghiêm trọng của NSAID đối với sức khỏe
thai nhi và trẻ sơ sinh. Việc phơi nhiễm với
thuốc từ tháng thứ 6 của thai kỳ gây nguy cơ
tổn thương thận và tim phổi có thể không hồi
phục, thậm chí gây tử vong cho thai nhi
và/hoặc trẻ sơ sinh.
Cần có hướng dẫn cụ thể về các liệu pháp thay
thế dùng thuốc và không dùng thuốc trong
từng giai đoạn của thai kỳ.
Cần luôn luôn cảnh giác ngăn ngừa sử dụng
NSAID ở phụ nữ có thai trong giai đoạn nhạy
cảm trên (bất kể là kê đơn hay tự điều trị).
ANSM cũng lưu ý cần đánh giá lại tất cả các
điều trị bằng thuốc nói chung ở phụ nữ có thai.
Đặc biệt, cho đến tháng thứ 5 của thai kỳ,
NSAID chỉ được sử dụng khi thật sự cần thiết,
với liều thấp nhất có hiệu quả và trong khoảng
thời gian ngắn nhất.
ANSM: Cập nhật danh mục các thuốc trên
hệ thần kinh trung ƣơng có thể ảnh hƣởng
đến khả năng vận hành máy móc Tại Pháp, danh mục các thuốc tác dụng
trên thần kinh trung ương liên quan được bổ
sung thêm nhãn cảnh báo đã được cập nhật
theo văn bản ngày 13/3/2017 và được công bố
chính thức ngày 18/3/2017.
Việc sử dụng một số thuốc nhất định
có thể thay đổi khả năng lái xe. Tại Pháp,
3,4% các tai nạn gây tử vong trên đường là do
sử dụng thuốc và một nửa số trường hợp trong
số đó, nguyên nhân được xác định là do điều
trị bằng benzodiazepin (an thần gây ngủ),
được sử dụng trên 11 triệu người tại quốc gia
này. Do đó, các nhãn cảnh báo phản ánh mức
độ nguy cơ khác nhau của các thuốc đã được
áp dụng trên bao bì sản phẩm từ năm 2008 để
thông tin đến bệnh nhân và cán bộ y tế.
Với mỗi hoạt chất có liên quan, các ký
hiệu theo từng mức độ được xác định rõ tùy
theo mức độ nguy cơ và thận trọng:
- Mức độ 1: Thận trọng: Không lái xe
khi chưa đọc kỹ hướng dẫn sử dụng.
- Mức độ 2: Hết sức thận trọng: Không
lái xe khi chưa có ý kiến của cán bộ y tế.
- Mức độ 3: Nguy hiểm, không lái xe:
Cần có ý kiến của bác sĩ khi muốn vận hành
máy móc.
Việc cập nhật danh mục các thuốc này
bao gồm việc bổ sung 30 hoạt chất mới và
đánh giá lại 72 hoạt chất cũ. Đối với khoảng
15 hoạt chất cũ, chủ yếu là các benzodiazepin,
ký hiệu ứng với mức 3, tức là không được
dùng khi lái xe. Đánh giá của ANSM với các
nhóm thuốc khác về nguy cơ trên điều khiển
phương tiện được tiếp tục và 2 cập nhật mới
được tiến hành từ nay đến cuối năm 2017.
Trong bối cảnh này, một thoả thuận đã
được ký kết vào ngày 22/3/2017 nhằm tăng
cường cảnh báo cho cộng đồng về các thuốc
có tác dụng trên lái xe. Thoả thuận này đi kèm
với một hoạt động cảnh báo chưa từng có cho
các nhà thuốc ở Pháp và một bộ quy tắc truyền
thông sẽ được áp dụng giúp các dược sĩ cảnh
báo cho cộng đồng.
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 27
HƢỚNG DẪN BÁO CÁO ADR
Ds Lâm Thái Hưng
Theo Trung tâm DI&ADR Quốc gia
1. Cách phát hiện phản ứng có hại của thuốc
Một biến cố bất lợi xảy ra trong quá trình điều trị có thể xuất phát từ tiến triển bệnh lý của
bệnh nhân hoặc do thuốc gây ra và việc phân định rõ do nguyên nhân nào nhiều khi rất khó khăn.
Nếu bệnh nhân đã dùng thuốc thì bất kỳ biến cố nào xảy ra cũng nên được xem xét đến khả năng có
phải là do thuốc gây ra hay không. Các cán bộ y tế có thể xem xét những nội dung sau khi nghi ngờ
một biến cố là phản ứng có hại của thuốc:
Mô tả lại phản ứng một cách rõ ràng
Tìm hiểu tiền sử bệnh nhân để loại trừ tất cả những nguyên nhân có thể giải thích cho biến
cố đó như các bệnh mắc kèm, thức ăn và các thuốc dùng đồng thời có khả năng gây ra tương tác
thuốc
Chú ý đến mối quan hệ thời gian giữa thời điểm xảy ra biến cố với thời điểm sử dụng thuốc.
Một số phản ứng có thể xảy ra ngay lập tức sau khi sử dụng thuốc, trong khi cũng có những phản
ứng diễn biến chậm hơn và sau một thời gian mới xuất hiện
Thăm khám bệnh nhân thường xuyên và tiến hành các xét nghiệm liên quan. Kết quả xét
nghiệm rất hữu ích trong việc phát hiện sớm các phản ứng cận lâm sàng và có thể được sử dụng để
đo lường mức độ nghiêm trọng cũng như theo dõi giám sát bệnh nhân
Ngừng thuốc và sử dụng lại thuốc
Tình trạng bệnh nhân được cải thiện khi ngừng thuốc là một dấu hiệu có tính gợi cao cho
việc quy kết tác ADR có phải do thuốc hay không. Tương tự như vậy, phản ứng xuất hiện trở lại khi
dùng lại thuốc cũng là một tiêu chí đánh giá quan trọng. Tuy nhiên, chỉ nên sử dụng lại thuốc khi
không có thuốc thay thế hoặc khi lợi ích của thuốc vượt trội hơn so với nguy cơ mà thuốc mang lại
Xem lại tác dụng dƣợc lý của thuốc
và kiểm tra xem liệu phản ứng xảy ra đã được liệt kê ở các tài liệu tra cứu về thuốc hay chưa
(tờ hướng dẫn sử dụng thuốc, bản tóm tắt đặc tính sản phẩm trong hồ sơ đăng ký thuốc, các tài liệu
tham khảo tin cậy khác). Nếu phản ứng chưa được biết đến và không giải thích được bằng cơ chế
tác dụng dược lý thì nên lưu ý trong quá trình theo dõi, xử lý và báo cáo
2. Cách báo cáo một trường hợp nghi ngờ là phản ứng có hại của thuốc
Đảm bảo việc phân phối mẫu báo cáo phản ứng có hại của thuốc kèm theo bản hƣớng dẫn
báo cáo trong các khoa phòng của cơ sở điều trị
Cục Quản lý Khám chữa bệnh phối hợp với Trung tâm DI & ADR Quốc gia và Hội đồng
thuốc và điều trị của các bệnh viện trong việc phân phối mẫu báo cáo này tới các khoa phòng của
các cơ sở điều trị
Khi cần, cán bộ y tế có thể liên hệ với khoa Dược, phòng kế hoạch tổng hợp của bệnh viện,
hoặc trực tiếp gửi yêu cầu tới Trung tâm DI & ADR Quốc gia để lấy mẫu báo cáo. Các cán bộ y tế
cũng có thể tham gia báo cáo trực tuyến bằng cách truy cập vào cổng thông tin điện tử của trung
tâm tại địa chỉ http://canhgiacduoc.org.vn
Ai là ngƣời nên báo cáo về phản ứng có hại của thuốc?
Tất cả các cán bộ y tế, bao gồm:
Bác sĩ, Nha sĩ
Dược sĩ
Bản tin Thông tin thuốc số 01-2017 Trang 28
Y tá, điều dưỡng, nữ hộ sinh
Các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe khác
Mọi thông tin về bệnh nhân và người báo cáo đều được bảo mật
Báo cáo những gì?
Nên báo cáo tất cả các biến cố nghi ngờ là phản ứng có hại gây ra bởi:
Thuốc và các chế phẩm sinh học
Vắc xin
Thuốc cổ truyền và thuốc có nguồn gốc dược liệu
Thực phẩm chức năng (có thuộc quyền quản lý của bệnh viện?)
Đặc biệt nên chú trọng báo cáo các phản ứng có hại
Của thuốc mới
Nghiêm trọng
Chưa từng được biết đến với thuốc đó
Ngoài ra, khuyến khích các cán bộ y tế báo cáo các vấn đề về chất lượng thuốc và những sai
sót trong sử dụng thuốc.
Khi nào nên báo cáo?
Nên báo cáo sớm nhất có thể sau khi xảy ra phản ứng và ngay cả khi thông tin thu được
chưa đầy đủ. Báo cáo trong khi bệnh nhân vẫn còn nằm viện sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn để khai
thác đủ thông tin và tiến hành các xét nghiệm cận lâm sàng nếu cần thiết
Trường hợp yêu cầu báo cáo khẩn (có nên yêu cầu báo cáo khẩn đối với bệnh viện, hiện tại
mới chỉ có yêu cầu báo cáo khẩn đối với các công ty dược như sau:
Phạm vi:
Các phản ứng có hại nghiêm trọng xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam
Các phản ứng có hại không định trước xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam
Thời hạn báo cáo khẩn: Đơn vị phải báo cáo trong vòng 15 ngày làm việc kể từ khi đơn vị
nhận được thông tin về phản ứng có hại.)
Hoàn thành mẫu báo cáo phản ứng có hại của thuốc nhƣ thế nào?
Nguyên tắc chung
Các cán bộ y tế nên hoàn thành mẫu báo cáo với tối đa thông tin có được
Mỗi bệnh nhân cần được báo cáo bằng một bản báo cáo riêng
Hạn chế sử dụng các từ viết tắt
Xin hãy điền tối đa thông tin có được trên mẫu báo cáo ADR (phụ lục….) theo những nội
dung cơ bản sau
Nơi báo cáo
Ghi tên cơ sở điều trị hay nơi phát hiện phản ứng
Gửi báo cáo ADR đến đâu?
Xin hãy gửi báo cáo về Khoa Dược TTB VTYT – Trung tâm Y tế huyện Phước Long.
Anh/chị có thể lấy mẫu báo cáo này tại khoa Dược –TTB-VTYT. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào,
anh/chị có thể liên hệ với khoa Dược –TTB-VTYT theo số điện thoại 02913864561.