60
Linh Thao là mµt giæa nhi«u phß½ng thÑc c¤m phòng trong Giáo Hµi, chào ð¶i ðã h½n b¯n thª kÖ rßÞi, trong nôi kinh nghi®m nµi tâm cüa thánh Ynhã Loyola, nh¢m thao luy®n cho Linh h°n, tÑc là thñc t§p, trau d°i và b°i dßÞng cho nµi tâm. S¯ng tr÷n kª hoÕch cüa Chúa là mßu c¥u hÕnh phúc cho chính mình

LT2007

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Sống trọn kế hoạch của Chúa là mưu cầu hạnh phúc cho chính mình Linh Thao là một giữa nhiều phương thức cấm phòng trong Giáo Hội, chào đời đã hơn bốn thế kỷ rưỡi, trong nôi kinh nghiệm nội tâm của thánh Ynhã Loyola, nhằm thao luyện cho Linh hồn, tức là thực tập, trau dồi và bồi dưỡng cho nội tâm.

Citation preview

Page 1: LT2007

Linh Thao là mµt giæa nhi«u phß½ng thÑc c¤m phòng trong Giáo Hµi, chào ð¶i ðã

h½n b¯n thª kÖ rßÞi, trong nôi kinh nghi®m nµi tâm cüa thánh Ynhã Loyola, nh¢m

thao luy®n cho Linh h°n, tÑc là thñc t§p, trau d°i và b°i dßÞng cho nµi tâm.

S¯ng tr÷n kª hoÕch cüa Chúa

là mßu c¥u hÕnh phúc cho chính mình

Page 2: LT2007

Trang 2 Linh Thao

ính thƣa qúy vị,

Tập san Linh Thao qúy vị đang cầm trên tay là sự hoàn

thành vội vã của chúng tôi. Những tƣởng năm nay chúng tôi

không thể thực hiện đƣợc với nhiều lý do:

Thứ nhất , vấn đề tài chánh,

thứ hai, vấn đề bài vở,

thứ ba, vấn đề sức khỏe.

Vì những lý do trên chúng tôi cứ lần lữa mãi chƣa thực hiện

và có ý định buông xuôi luôn. Nhƣng, mỗi buổi sáng thức dậy,

theo thói quen, với tay lấy một cuốn sách hay cuốn tập trên

bàn đầu giƣờng để đọc. Hôm nay tay tôi chạm phải tập nhật

ký của một khóa linh thao ghi lại bài huấn đức „phân biệt

thần lọai“. Lời dạy của Thánh Inhaxiô khuyên: Nên làm

ngƣợc lại những gì ma qủy đang dụ dỗ mình. A!, thì ra thời

gian qua mình đang bị thần dữ khuyến dụ đƣa vào con đƣờng

lƣời lĩnh, trốn tránh trách nhiệm và tiếc của cải tiền bạc thế

gian đây… có thể lần này bỏ luôn tập san, lần sau sẽ bỏ luôn

khóa, bỏ luôn tĩnh tâm v.v… và cứ thế đẩy mình xa Chúa, xa

lìa Giáo Hội…

Tạ Ơn Chúa Thánh Thần, tạ ơn Thánh Inhaxiô, cám ơn

các cha giảng linh thao. Nhờ thế, tập san này đƣợc ra đời với

sự góp sức và cầu nguyện của qúy linh mục, qúy bạn, qúy

tham dự viên. Xin gởi đến qúy vị lời cám ơn chân thành của

chúng tôi.

Trong số này, ngoài những chia sẻ của các tham dự

viên trong các khóa linh thao, một số baì của các linh mục,

chúng tôi dành một số trang để kỷ niệm sinh nhật 70 của cha

Julian Elizalde Phạm Công Thành, ngƣời đã dày công hƣớng

dẫn giáo dân Việt Nam Hải Ngoại theo Chúa, yêu Chúa qua

phƣơng pháp linh thao của Thánh Inhaxiô.

Xin Ngợi Khen và Tạ Ơn Chúa Ba Ngôi.

Kính,

TM. Ban Biên Tập Đặc San,

Trƣơng

TRONG SỐ NÀY

Lời ngỏ ................................. 02

Sống mùa Vọng.................... 03

Im Lặng là Vàng .................. 05

Tuổi mƣời một ..................... 06

Đường jerico ........................ 07

Thầy ơi ................................. 09

Mảnh lƣới Tình Yêu ............ 10

Lời tạ ơn ............................... 11

Vì tôi là linh mục ................. 12

Chúa Giêsu, Đức Mẹ và

chuyện tình của tôi .............. 14

Những chia sẽ ...................... 16

Lề luật: Yêu thƣơng ............. 17

Linh Thao Gia Đình ............ 19

Đời sống Hôn nhân ............. 20

Sinh Nhật Cha Thành 70 .... 22

ĐH phỏng vấn ...................... 25

Yêu thƣơng về ...................... 28

Mừng Sinh Nhật Cha .......... 29

Đi tìm vẻ đẹp cho đời ........... 30

Tình Yêu & Thời gian ......... 33

Bông Hồng thời gian ........... 34

Ƣớc muốn ............................. 35

Mừng Ông ............................ 36

Ánh sáng chiếu rọi trong

nhà tù ................................... 37

Tự Tình ................................ 44

Chiếc chìa khóa ................... 45

Kính gởi Cha Thành ............ 46

Ƣớc muốn và sự lựa chọn ... 47

Bỏ Ngài con đi với ai? ......... 51

Hoa Hồng Dâng Mẹ ............ 57

Thƣ tín .................................. 57

Mục đích............................... 59

Đợi Chờ ................................ 60

Địa chỉ liên lạc

Đặc San Linh Thao

ÔB. Trƣơng Xuân Sao

Gustavsburger Str. 23

65462 Ginsheim – Germany

Tel. +49 (0) 6144-3950

email : [email protected]

Page 3: LT2007

Luca, 1, 26-38: Thiên thần

truyền tin cho Ðức Bà - Mầu

nhiệm Nhập Thể

1.- Thiên thần truyền tin cho

Đức Bà: “Bà sẽ thụ thai và

sanh một người con, một người

con cao cả là con Đấng Tối

Cao, sẽ là vua và triều đại

Người sẽ vô cùng vô tận”.

Thiên thần loan báo tin mừng

trọng đại cho toàn dân là Ngôi

Lời không quản mặc lấy xác

phàm trong lòng Trinh Nữ

Maria và ở giũa chúng ta.

Chúa từ trời ngự xuống dương

gian. “Ngài đến để quy tụ

muôn loài dưới quyền một thủ

lãnh là Đức Ki-tô” (Ep 1,10).

Chúa Cha muốn ban cho chúng

ta sự sống và đầy đủ sự sống

của Chúa Ba Ngôi. “Thánh tử

là hình ảnh Thiên Chúa vô

hình, là trưởng tử sinh ra

trước mọi loài thụ tạo... tất cả

đều do Thiên Chúa tạo dựng

nhờ Người và cho Người” (Cl

1,16). Ngài mời ta trở nên

đồng hình đồng dạng với Đức

Giê-su.

“Người sẽ trị nhà Gia-cóp đến

muôn đời”. Nhà Gia-cóp là

dân Chúa. Khi dựng nên loài

người, Chúa không muốn dựng

nên một đám người sống riêng

rẻ. Một tin mừng cho tất cả

chúng ta là: Chúa Cha muốn

kết thân chúng ta nên một

trong tình yêu. Chúa Ba Ngôi

là một gia đình sống hiệp nhất

trong tình yêu. Con người

được sáng tạo theo hình ảnh

Thiên Chúa. Khi sáng tạo loài

người, Đấng Tạo Hóa muốn

con người sống đoàn kết như

một gia đình hiệp nhất trong

yêu thương như Ba Ngôi Thiên

Chúa.

Kế hoạch huy hoàng của Chúa

còn dở dang. Ngày nay Chúa

đang tiếp tục sáng tạo trời đất

và mời chúng ta cộng tác với

Ngài. Vui lên! Thiên Chúa là

một kiến trúc sư toàn năng.

Ngài bảo đảm sẽ hoàn tất công

trình vinh quang.

Ai ai cũng đang xây nhà. Nhà

của chính mình. Đây là công

trình kiến trúc quan trọng nhất

bởi vì chúng ta sẽ ở tại nhà đó

mãi mãi.

Câu hỏi gợi ý:

1) Ai đang vẽ và điểu khiển

công trình xây nhà của tôi?

2) Ngôi nhà tôi muốn xây và

ngôi nhà Chúa nghĩ ra

giống/khác nhau ở chỗ

nào?

3) Những kế hoạch tôi sẵn có

là gì?

4) Mùa Vọng năm nay tôi

nghe Chúa loan báo tin

mừng nào cho tôi và cho

toàn dân?

2.- “Việc ấy sẻ xảy ra cách

nào?” “Thánh Thần sẽ ngự

trên bà và quyền năng Ngài sẽ

rợp bóng trên bà”. Từ lúc rửa

tội Thiên Chúa đã sai Thần

Khí của Con mình đến ngự

trong lòng ta mà kêu lên: “Ap-

ba, Cha ơi!” (Gl 4,6). Thiên

Chúa tiếp tục sáng tạo chúng ta

nhờ Thần Khí của Ngài. Trời

đất là hoa quả “bàn tay” Chúa,

nhưng lúc uốn nắn từng người

chúng ta, thì cả Ba Ngôi Thiên

Chúa đích thân can thiệp.

Nhiệm vụ mỗi Ngôi phản ảnh

nguồn gốc của Ngôi Thiên

Chúa đó (“Divine missions

reflect divine origins”). Cả Ba

Ngôi tích cực tương quan với

từng người, mỗi Ngôi, tùy cách

là Thiên Chúa (in accordance

with the way in which that

person possesses the divine

nature). Chúa Cha là nguồn

mọi sự, đối với chúng ta, Ngài

là 'thân sinh' (người Cha,

người Mẹ); Chúa Con là Ngôi

Lời và là hình ảnh trọn vẹn của

Chúa Cha, là anh cả chúng ta;

Chúa Thánh Thần là tình yêu

nối kết hai Cha Con nên một,

là sợi dây nối kết chúng ta với

Chúa Cha, với Chúa Con và

với anh em.

Thánh Thần là ai? Thần Khí là

Ngôi Ba Thiên Chúa. Thần khí

ngự trong Cha, ngự trong Con

và nối kết hai Ngài trong tình

yêu: Cha ở trong Con, Con ở

trong Cha trong tình yêu. Hai

Cha Con hiện diện cho nhau

trong Thần Khí tình yêu.

Linh Thao Trang 3

Eli Thành

Page 4: LT2007

Trang 4 Linh Thao

Còn đối với loài người, Thần

Khí là tình yêu nối kết Chúa

Cha và Chúa Con với chúng ta.

Từ khi chịu phép Rửa Tội,

Thần Khí ngự trong lòng

chúng ta và nối kết chúng ta

với Chúa Cha, với Chúa Con

cũng như với anh em trong

tình yêu. Chúng ta dược thánh

hóa do những biến đổi Thần

Khí mang đến chúng ta trong

các mối liên hệ với Thiên Chúa

và anh em. Tình yêu luôn luôn

biến đổi chúng ta. Là Thần Khí

của Đức Giê-su, tình yêu này

làm chúng ta nên đồng hình

đồng dạng với Đức Giê-su.

Lúc chịu Phép Rửa tội tình yêu

đó chỉ là một mầm nhân, cần

được vun trồng và coi sóc;

mầm nhân này sẽ triển nở và

thành hình nhờ quyền năng

Thánh Thần rợp bóng trên

chúng ta nữa.

Thần Khí hoạt động như thế

nào? Trong Cựu Ước, Thần

Khí mang lại trật tự, ý nghĩa và

sức sống cho một trời đất còn

trống rỗng, chưa có hình dạng.

Khi tạo nên con người, Thần

Khí mang sự sống đến hình

tượng Thiên Chúa đã nặn ra từ

bụi đất. Sau này Thần Khí đến

với mọt số người, như các

ngôn sứ, và dấu chỉ Thần Khí

là những điềm lạ phi thường,

không ai có thể phủ nhận Thần

Khí Thiên Chúa.

Trong Tân Ước, Thần Khí đến

để xây dựng Hội Thánh của

Đức Giê-su, là Nhiệm Thể của

Ngài. Mọi đóng góp xây dựng

Hội Thánh bắt nguồn từ Thần

Khí. Lắm khi những hành động

của Thần Khí chẳng có gì to

lớn, phi thường. Tuy nhiên,

những biến đổi của một Ki-tô

hữu trong cuộc sống, làm

chứng cho Ngài: lòng trong

sạch trong tư tưởng, lời nói và

hành động, sức tha thứ kẻ hại

mình, lòng nhân từ vô vị lợi,

hành động can đảm để bênh

vực quyền lợi của kẻ nghèo, là

hoa quả của Thần Khí. Và trên

hết là tình yêu chân thật và vô

vị lợi. Thần Khí tỏ mình ra

nhất là trong mỗi hành động

yêu thương và hiệp nhất.

“Chúng ta chịu phép rửa trong

cùng một Thần Khí để trở nên

một thân thể. Tất cà chúng ta

đã đươc đầy tràn một Thần

Khí duy nhất” (1 Cr 12,12).

Thần Khí xây dựng Hội

Thánh:

a) khi quy tụ và nối kết chúng

ta nên một trong tình yêu,

b) ban phát nhiều đặc sủng

khác nhau để phục vụ cộng

đoàn,

c) kêu gọi và củng cố các lãnh

đạo trong cộng đoàn,

d) ban sức truyền giáo và lôi

cuốn tín hữu mới,

e) soi sáng thánh sử viết và tín

hữu đọc và thấu hiểu các

sách thánh. Sứ mệnh của

Hội Thánh và sứ mệnh của

Thần Khí là một: là mang

ơn cứu rỗi của Thiên Chúa

đến cho nhân loại qua

Nhiệm Thể Đức Kitô, là

nơi các tín hữu nên một với

Cha và anh em trong tình

yêu.

Câu hỏi gợi ý: Tín điều nào về

Thần Khí soi sáng và an ủi tôi

nhiều nhất? Tín điều nào tôi

chưa hiểu đủ?

3.- Chúa củng cố đức tin.

“Kìa bà Ê-li-sa-bét đang cưu

mang một người con trai. Vì

đối với Thiên Chúa, không có

gì là không thể làm được”.

Chúa muốn củng cố niềm tin

của Đức Mẹ bằng một ân huệ

đặc biệt Ngài ban cho người

chị của Đức Bà. Chỉ mấy ngày

sau, chính bà Ê-li-sa-bét sẽ

khen ngợi Đức Mẹ vì “em đã

tin rằng Chúa sẽ thực hiện

những gì Người đã nói với

em” (Lc 1,45). Nhìn lại cuộc

sống của tôi và của người thân,

chắc chắn tôi có thể nhận ra

một số ân huệ Chúa đã ban để

biểu lộ lòng trung tín và rộng

rãi của Ngài đối với tôi, thì

nghĩ đến tương lai, tôi có thể

tin tưởng và phó thắc mọi sự

trong tay Ngài.

Câu hỏi gợi ý: Ân huệ nào

Chúa ban cho tôi, hoặc cho

người thân, làm chứng cho

tình thương và quyền năng

Chúa đang phụ trợ chúng ta?

Đọc và nghiền ngẫm câu

“Phương chi Cha trên trời lại

không ban Thánh Thần cho

những kẻ kêu xin Người

sao?” (Lc 11,13)

4.- Lời đáp lại của tôi. “Vâng,

tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin

Chúa cứ làm như lời sứ thần

nói”. Đây là lời đáp lại của

Đức Mẹ cho Thiên thần truyền

tin, và cho Chúa suốt cả cuộc

sống. Đức Mẹ luôn luôn tìm

Thánh Ý Chúa và đem ra thực

hiện. Đức Mẹ tin tưởng và hết

lòng yêu mến Thiên Chúa cũng

như yêu thương tha nhân. Vì lý

do đó, Đức Mẹ thật lòng 'xin

vâng'. Ngoài Đức Giê-su ra,

chẳng có người nào hoàn toàn

tự do và vui lòng tận hiến mình

cho Chúa bằng Đức Mẹ. Kể cả

trong giây phút tối tăm nhất,

khi Đức Giê-su đã chết và nằm

trong mồ, Đức Mẹ Sầu Bi, tuy

đau lòng vô cùng nhưng vẫn

giữ một lòng tin. Đức Mẹ rất

mong ước gặp lại Con của Mẹ,

nguyện cầu cho các môn đệ

mau tìm lại niềm tin. Trong khi

chờ đợi, Đức Mẹ đứng vững

nhờ niềm tin, niềm hy vọng và

lòng mến yêu. Đức Mẹ là Mẹ

Hội Thánh.

Thần Khí đóng vai chính và

chủ động trong các kế hoạch

Page 5: LT2007

ếu không đi linh

thao lần này, có lẽ

câu nói kia tôi không hiểu cho

đúng nghĩa của nó được. Đến

hôm nay, đã là một tuần sau

khóa linh thao, nhƣng sụ

nhung nhớ trong thinh lặng

ngọt ngào của những ngày linh

thao vẫn còn sống trong tôi.

Là một ngƣời hay bép

xép, nói thì dành không để ai

nói, tôi nghĩ nhƣ con ngƣời tôi

mà đi linh thao thật là khó.

Trái lại, kết qủa thật là tuyệt

vời cho tôi. Thật đúng là khi

Chúa muốn thì Chúa thay đổi

mình một cách nhẹ nhàng

không ngờ. Trong những ngày

linh thao thì tôi không cảm

nhận đƣợc sự thay đổi nhiều

của chính mình. Nhƣng về nhà

thì không ngờ mình lại hiền

lành nhƣ cừu non và lại không

còn nóng tính khi xử sự với vợ

con tôi nữa, đến nỗi tôi cũng

không nhận ra tôi. Lúc đó bài

Phúc Âm Chúa chữa anh mù

từ lúc mới sanh (do cha Giuse

Nguyễn Trọng Tƣớc hƣớng

dẫn) đã sống lại trong tôi,

Chúa Giêsu cũng đã chữa con

mắt đức tin của tôi, bây giờ

tôi nhìn thấy đƣợc sự tốt đẹp

mà Chúa dựng nên mình…

Ba ngày linh thao vừa

qua thật qúy giá cho cuộc đời

tôi biết bao, chỉ có ba ngày mà

biết bao biến đổi trong tôi.

Những mơ hồ cảm nhận xƣa

kia, nay tôi đã khẳng định và

rờ mó đƣợc, đó là sự chờ đợi

và tha thứ trong tình yêu của

ngƣời Cha Nhân Từ, dù ngƣời

con trở về với Cha mình chỉ vì

mình đói khát, chứ không một

chút tình nghĩa với Cha.

Con ngƣời tội lỗi của tôi

đã làm cho biết bao người

sống với tôi và cả những ngƣời

tôi gặp gỡ đã phải chịu chung

cái vạ của tôi. Thật đáng xấu

hổ, thật đáng khón khổ cho tôi,

nếu tôi không gặp đƣợc Đức

Kitô, có lẽ con mắt tôi sẽ mãi

mãi đui mù.

Chính ngay khi về đến

nhà, tôi đã ôm vợ tôi và hai

thằng con trai yêu qúy, nói lên

lời cám ơn mà tôi đã đƣợc

lãnh nhận. Đây sẽ là những kỷ

niệm không quên của đời tôi,

vì có bao giờ tôi có đƣợc hạnh

phúc nhƣ thế này đâu. Hạnh

phúc gia đình giờ đây tôi mới

thấy đẹp tuyệt vời và qúy vô

vàn. Vả lại những tội lỗi của

tôi đã làm biết bao ngƣời sống

xung quanh tôi phải bị thiệt

thòi, thì giờ đây, cái hạnh phúc

mà tôi nhìn ra đƣợc, cũng

mang đến cho mọi ngƣời xung

quanh tôi, nó không đền bù

được những sai trái của tôi,

nhƣng Thiên Chúa đã lấp đầy

bằng Tình Thƣơng của Ngài,

đã nhận chìm những tội lỗi của

tôi xuống tận đáy vực thẳm.

Để niềm vui và hạnh phúc con

được trọn vẹn, lễ Phục Sinh

chƣa đến, nhƣng Ngài đã Phục

Sinh trong con. Tạ ơn Ngài.

Vài lời tâm tình với các

bạn nào chƣa biết „Im Lặng Là

Vàng“. Tạ ơn Chúa, Mẹ Maria

cùng Thánh Cả Giuse đã cho

con có một niềm tin mới. Xin

cám ơn cha Tƣớc, cha Hạnh,

cha Vũ, những vị ân nhân

trong ban tổ chức. Cám ơn các

bạn trong khóa đã đồng hành

với tôi trong khóa vừa qua.

Cám ơn…. Cám ơn… cám ơn.

Bùi Công Hiểu

của Thiên Chúa. Ngôi Lời Thiên

Chúa giáng trần trong lòng Đức

Mẹ nhờ quyền năng của Thánh

Thần. Vai trò của loài người thụ

động hơn, là phó thắc mình và

xin vâng. Tuy nhiên, vai trò này

cũng thiết yếu. Sở dĩ quyền năng

của Thần Khí Thiên Chúa không

hoạt động một cách hữu hiệu

hơn, là vì thiếu những tâm hồn

sẵn sàng 'xin vâng' như Đức Mẹ.

Lời 'xin vâng' của Đức Mẹ mở

đường cho mùa Vọng và Giáng

Sinh trong lịch sử nhân loại.

Câu hỏi gợi ý: Động lực nào thúc đẩy Đức

Mẹ tin tưởng và mến yêu

Thiên Chúa đến thế?

Có những liên hệ nào giữa

lòng trong sạch và quyết định

hoàn toàn tự do 'xin vâng'

của Đức Mẹ?

Thánh Thần là ai đối với Đức

Mẹ? Thánh Thần là ai đối với

tôi?

Tôi có thể làm gì để mở một

mùa Vọng và Giáng Sinh mới

cho thế giới ngày nay?

Eli

Thành

Linh Thao Trang 5

Page 6: LT2007

Trang 6 Linh Thao

hiều chiều, đi học về,

bạn tôi thƣờng rũ tôi ghé

lại Dòng Chúa Cứu Thế. Cả

hai đứa đều con nhà lƣơng, tôi

không hiểu tại sao bạn tôi

muốn đến đây, nhƣng thấy

vƣờn hoa Nhà Dòng đẹp quá,

tôi đi theo.

Mỗi ngày, bạn tôi quỳ trước

Thánh Gía Chúa chịu nạn,

trong khi tôi ra vƣờn chơi. Có

bao nhiêu hoa "lồng neon" của

vƣờn này, tôi đều hái hết Đập

mạnh hoa giữa lòng hai bàn

tay, tôi thích thú nghe tiếng

"bốp" dòn tan. Chơi chán, tôi

vào nhà thờ, đứng nhìn tƣợng

Đức Mẹ. Tôi chỉ thấy bà nầy

hiền và đẹp, không hiểu gì

hơn.

Tôi dục bạn đi về, "Quỳ

làm gì trƣớc cái ông mặc sì líp

này?" Thời đó "nam nữ thụ thụ

bất thân" và tôi thấy cái ông

mặc sì líp này kỳ quá.

Các cha dòng thấy chiều

nào hai đứa bé gái "tóc bôm

bê" cũng kéo nhau đến, mang

ra cho những quyển sách nhỏ

Hạnh các Thánh. Tôi đọc rất

lẹ, xúi bạn, "Đừng đọc, quyển

nào cũng giống nhau."

Lên mười lăm, bạn tôi lâm

biến cố: Mẹ chết. Bạn tôi khóc,

tôi khóc theo. Bấy giờ tôi mới

hiểu lâu nay bạn tôi đến nhà

thờ để cầu nguyện cho gia

đình: Ông thân sinh bạn, một

Bác Sĩ Giám đốc, tƣ tình với

một bà có gia đình. Mẹ bạn tôi,

đau đớn vì ghen, lâm bệnh, qua

đời. Tôi cảm thấy ân hận

không biết bạn mình khổ tâm

để an ủi. Từ đó tôi thương bạn

nhiều hơn, săn sóc bạn hơn.

Lên 17 tuổi, một buổi sáng

thức dậy, G. đọc lá thơ từ biệt

của Bố để trên bàn: "đừng tìm

Ba, Ba không về nữa." Ông đi

theo bà nhân tình ra Bắc. Các

Bà Sơ Y Tá của ông, mang 5

chị em G. về nuôi trong nhà

dòng các sơ. Tất cả 5 chị em

nhận Lễ Thanh Tẩy. Bốn chị

em đi tu, thành một Linh Mục

và 3 Sơ. Chỉ một em trai út ở

ngoài đời. Em này, về sau, G.

nhờ tôi nuôi dƣỡng em ăn học.

Cha N.Đ., Tuyên Uý Quân

Đội miền thượng du, một buổi

tối đang dâng Thánh Lễ trong

rừng, bị địch quân bao vây.

Cha yêu cầu

địch quân đừng

bắn giáo dân

trong làng. Cha

chỉ đôi bốt De

Sault ở chân Cha

và nói: "Tôi là

Tuyên Uý quân

đội, muốn bắn

thì bắn tôi, tha

cho giáo dân, họ

vô tội." Một

tràng súng máy.

Cha ngã chết, đè

lên em bé giúp

lễ 11 tuổi sống

sót. Đây là một

chuyện thật, cho

thấy Tình Yêu

Thiên Chúa

nhiệm mầu đã

biến cảnh hoang

tàn đổ vỡ thành

một Vƣờn Hoa

Thánh nở năm

đóa hoa thiêng, trong đó một

trở hành Vị Linh Mục tử vì

đạo. Hiện những Vị nữ Tu này

còn sống, đang phục vụ Giáo

Hội và tha nhân.

Về phần tôi, qua những

biến cố đau thƣơng, tôi đã gặp

Chúa Kitô Thƣơng Khó, và

được rửa tội năm 38 tuổi. Nghe

tin tôi rửa tội, G.viết thƣ chúc

mừng, "Chị có biết rằng em đã

cầu nguyện cho chị từ ngày ấy,

khi chúng ta 11 tuổi, đến Dòng

Chúa Cứu Thế mỗi chiều trên

đường đi học về?" Bàng hoàng

cảm động, tôi nghĩ đến Sức

Mạnh của Cầu Nguyện, đến

Tình Thƣơng Quan Phòng của

Thiên Chúa, và Tình Bạn trong

Ngài.

Đông Khê (Báo ĐH Số 3/2006)

Đông Khê

Page 7: LT2007

ừ Núi Oliu, ngoài

tƣờng thành Jerusalem

khoảng hai cây số, con

đường trải mình, vòng qua

ngõ ngách của ngoại thành

Jerusalem đông đúc rồi trải

xuôi xuống phía đông, hƣớng

dần vào vùng sa mạc Judea

hoang vắng.

Tôi đến Jerusalem ngày 31

tháng 3 và ba ngày sau tôi đi

Jerico.

Mấy tiếng đồng hồ đi trong sa

mạc, không gặp một ai. Hành

hƣơng Ðất Thánh, không mấy

ai có cơ hội đi bộ trong vùng

sa mạc này. Hôm nay, một xa

lộ mới, rộng rãi chạy thẳng từ

Jerusalem, và khách hành

hƣơng vội vã trên những

chuyến xe tiện nghi này.Tôi

theo một nhóm ngƣời Áo

(Austria). Chuẩn bị bánh mì,

nƣớc uống, rồi theo mặt trời

lên, khởi hành vào sa mạc.

Jerico là cổ thành lâu đời nhất

trên mặt đất. Khoa khảo cổ

cho biết thành Jerico có mặt

khoảng tám nghìn năm trƣớc

công nguyên.

Tôi muốn tìm một khoảng

thinh lặng trong vùng sa mạc

này để gặp gỡ lại ngƣời

Samaritano trên đƣờng nhân

hậu.

“Một ngƣời kia từ Jerusalem

xuống Jerico, dọc đƣờng bị

rơi vào tay kẻ cƣớp. Chúng lột

sạch ngƣời ấy, đánh nhừ tử,

rồi bỏ đi, để mặc ngƣời ấy

nửa sống nửa chết. Tình cờ,

có thầy tƣ tế cũng đi xuống

trên con đƣờng ấy. Trông thấy

ngƣời này, ông tránh qua bên

kia mà đi. Rồi cũng thế, một

thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng

thấy, cũng tránh qua bên kia

mà đi. Nhƣng một ngƣời

Samari kia đi đƣờng, tới

ngang chỗ ngƣời ấy, cũng

thấy, và chạnh lòng thƣơng.

Ông ta lại gần, lấy dầu lấy

rƣợu đổ lên vết thƣơng cho

ngƣời ấy và băng bó lại, rồi

đặt người ấy trên lưng lừa của

mình, đƣa về quán trọ mà săn

sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai

quan tiền, trao cho chủ quán

và nói: “Nhờ bác săn sóc cho

ngƣời này, có tốn kém thêm

bao nhiêu, thì khi trở về, chính

tôi sẽ hoàn lại bác.” Vậy theo

ông nghĩ, trong ba ngƣời đó,

ai đã tỏ ra là ngƣời thân cận

với ngƣời đã bị rơi vào tay kẻ

cƣớp?” Ngƣời thông luật trả

lời: “Chính là kẻ đã thực thi

lòng thƣơng xót đối với ngƣời

ấy.” Ðức Giêsu bảo ông ta:

“Ông hãy đi, và cũng hãy làm

nhƣ vậy.”

Sa mạc Judea rất hùng vĩ,

không phải một vùng đất đá

với những giải cát khô và núi

đồi thấp. Mênh mông là núi đá

cao chênh vênh bên bờ vực

thẳm. Vực sâu dƣới kia nhìn

chóng mặt. Có thể sâu hàng

ngàn mét. Ai đã đi dƣới dòng

sâu của thung lũng, núi đá

vùng Grand Canyon, Rocky

Mountains mới có thể hình

dung đƣờng Jerico này. Ðọc

trong Phúc Âm câu chuyện

ngƣời Samaritano, tôi vẫn

ngỡ, một con đƣờng mòn, sa

mạc chung quanh là những đồi

đá không cao. Tôi không ngờ

khi đến nơi đây. Sa mạc Judea

là vùng núi đồi rất hiểm trở.

Chung quanh, mênh mông chỉ

có đá, núi không bóng cây, cả

cỏ cũng không. Chỉ nắng trời

và đá trơ trụi.

Tôi theo đoàn ngƣời đi trên độ

cao lƣng chừng núi. Họ là

ngƣời Áo, xứ sở họ nhiều núi

cao, họ thích đi leo núi. Suốt

mấy tiếng đồng hồ không gặp

một ai. Cả dân địa phƣơng

cũng không có. Không khách

hành hƣơng nào đi con đƣờng

này. Lý do đơn giản là đƣờng

đi không dễ: Không có đường

đi.

Nhiều khúc đƣờng rất nguy

hiểm. Bạn phải có giầy tennis

shoes loại tốt, bám chặt vào

đá. Hai điều cần lưu ý là

đường đá vụn dễ trơn tuột và

đất lở dễ dàng. Bạn sẽ gặp

thƣờng xuyên những đoạn chỉ

cách vực sâu độ hơn một mét.

Linh Thao Trang 7

T

Page 8: LT2007

Trang 8 Linh Thao

Vì không có cây nên bạn

không bám vào đâu đƣợc. Phải

dùng đôi chân thật cẩn thận. Có

thể Ðức Kitô đã nhiều lần đi

con đƣờng này. Vào thời ấy

không có đƣờng nào khác. Tại

sao có thể ngƣời Do Thái đã

dùng đƣờng này để giao thông

giữa Jerusalem và Jerico?

Hình: Lừa uống nƣớc đem nước uống cho loài dã thú,

bầy ngựa hoang đang khát đƣợc

thoả thuê. (Tv.104)

Vì dƣới vực sâu kia có một

dòng suối. Trong sa mạc.

Không gì quý bằng nƣớc. Nhất

là họ dùng lừa để chở đồ, thì

nƣớc là điều không thể thiếu.

Ngoài ra, bên dòng suối ấy,

thỉnh thoảng có đùm cây chà

là.

Chỉ khi bạn đi bộ trong sa mạc

này mới cảm đƣợc thế nào là

đường Jerico. Cái hoang vu của

núi đồi mênh mông có huyền

diệu riêng của nó.

Tôi không hình dung nổi sức

nóng mùa hè của những núi đá

này. Trên lƣng chừng núi,

không một bóng cây. Chắc

ngƣời ta khát nƣớc lắm. Nhƣng

sa mạc thƣờng lạnh về đêm, và

nếu trăng lên, nó sẽ huyền diệu

thế nào với gió ngàn chuyển

mình qua thung lũng và vách

núi.

Sau những cây số khởi đầu,

đoàn người đi không ai nói

chuyện nữa. Vì thật sự chẳng ai

đi gần ai. Mỗi người đi tìm một

hƣơng núi sa mạc cho riêng

mình. Ai cũng biết họ đang đi

trên con đƣờng mà có thể chính

Chúa đã đi. Ai cũng muốn cho

riêng mình những hƣơng gió

thiêng liêng. Bây giờ là tháng

Tƣ, nghĩa là trời còn lành lạnh.

Bắt đầu vào mùa xuân ở Israel.

Bây giờ là thời điểm của những

cơn mƣa hiếm hoi.

Hai đêm trƣớc khi lên đƣờng,

trời đã thật sự mƣa. Trận mƣa

khá lớn, mƣa đứt quãng, lai rai

cho đến gần về sáng. Ðối với

Việt Nam, những trận mƣa nhƣ

thế không có gì là hiếm hoi.

Nhƣng ở đây thì khác. Một cha

trong nhà Dòng tôi tạm trú cho

biết trận mƣa vừa rồi là một

trong những trận mƣa lớn nhất

trong hai mƣơi năm ngài ở đây.

Họ quý nƣớc.

Chính sau trận mƣa này, tôi

vào sa mạc, đi Jerico. Thật may

mắn. Toàn vùng núi đá hứng

mƣa đổ xuống con suối sâu

dƣới chân thung lũng, nên từ

lƣng chừng núi này, tôi nghe

dòng nƣớc vang lên ở dƣới kia.

Toàn vùng sa mạc chỉ có dòng

suối nối Jerusalem đổ xuống

Jerico. Bởi đó, tôi tin rằng đây

là con đƣờng duy nhất ngƣời ta

dùng để giao thông thời Chúa

Giêsu. Và bên đƣới dòng suối,

vì nƣớc ẩm nên có cây hai bên

bờ. Không phải dọc hai bên bờ

đều có cây lớn, nhưng bụi cỏ

thì hầu nhƣ có. Vì có cây xanh,

nên trong sa mạc, lúc dừng

chân nghỉ tôi nghe tiếng chim

rất trong.

Vì từ độ cao trên hai nghìn feet

của Jerusalem đổ xuống Jerico

thấp hơn mặt biển, nên dòng

suối này thật đặc biệt.

Hình: cây mọc trong sa mạc

Ngƣời xẻ đá giữa sa mạc

hoang vu,

khiến nƣớc tuôn tràn cho dân

được uống, (Tv.104)

Chúa Nhật tới là Lễ Lá. Ðức

Kitô từ Jerico lên Jerusalem

vào đầu mùa xuân. Nghĩa là

mùa có những cơn mƣa. Rồi từ

Jerusalem, dòng suối đổ nƣớc

xuống vùng Biển Chết. Ði trên

triền đá này. Con đƣờng của

ngƣời Samaritano nhân hậu.

Những lúc dừng chân, tôi nghe

nƣớc từ dòng suối sâu kia vang

lên. Chiều tối, khi về nhà, tôi

tìm lời Thánh Vịnh nói về

những dòng suối và sa mạc.

Bấy giờ mới thấy tâm tƣ tác giả

Thánh Vịnh thật tuyệt vời:

Chúa khơi nguồn: Suối tuôn thác

đổ,

giữa núi đồi, lƣợn khúc quanh co,

đem nước uống cho loài dã thú,

bầy ngựa hoang đang khát đƣợc

thoả thuê.

Bên dòng suối, chim trời làm tổ,

dƣới lá cành cất giọng líu lo.

Từ cao thẳm, Chúa đổ mƣa xuống

núi,

đất chứa chan phước lộc của Ngài.

Ngƣời xẻ đá giữa sa mạc hoang vu,

khiến nƣớc tuôn tràn cho dân đƣợc

uống, (Tv. 104:10-13)

Tôi nghe nƣớc từ dòng suối.

Tôi nhìn dòng suối chảy từ

hƣớng Jerusalem. Tôi hình

dung từ độ cao đem sự sống

Page 9: LT2007

Linh Thao Trang 9

xuống chiều thấp. Tôi hiểu hơn

lời phụng vụ trong đêm Phục

Sinh:

TÔI ÐÃ THẤY NƢỚC TỪ

TRONG ÐỀN THỜ CHẢY

RA, VÀ NƢỚC ẤY CHẢY

ÐẾN ÐÂU THÌ TẤT CẢ ÐỀU

ÐƢỢC SẠCH VÀ REO LÊN:

ALLELUIA! ALLELUIA!

Lời kinh phụng vụ đọc trong

cái nhìn địa lý vùng sa mạc, thế

nào là dòng nƣớc chảy từ

Jerusalem, từ một độ cao

xuống vùng đất thấp, thấp đến

độ mang tên Biển Chết, ta sẽ

thấy ý nghĩa lời kinh kia thấm

thía biết bao.

Lời kinh phụng vụ đó cũng cần

đọc trong cái nhìn với thời gi-

an. Ðầu mùa xuân, Ðức Kitô đi

ngƣợc núi đá trên ba mƣơi cây

số. Bƣớc chân về Jerusa-

lem lần cuối này cũng trên

dƣới ba mƣơi tuổi đời của

Ngƣời. Mùa xuân với những

cơn mƣa. Núi đồi hứng nƣớc

đổ xuống thung lũng:

Từ khe đá, Ngƣời khơi dòng

suối chảy,

nƣớc đổ dạt dào nhƣ những

con sông. (Tv 78:15)

Hình: hang đá từ trong núi

Với hai góc độ, địa lý và thời

gian, lời kinh kia có thể gợi ý

cho ta về chiều kích thiêng li-

êng. Rồi từ Jerusalem, hiến tế

Núi Sọ đƣa Ngƣời vào Phục

Sinh, để rồi sự sống nhƣ dòng

nƣớc kia, nhƣ cơn mƣa mùa

xuân, chảy qua sa mạc cằn cỗi

xuống vực sâu, sâu thấp nhất

trên mặt địa cầu. Chẳng vùng

Biển Chết nào mặn cay đắng

nhƣ vùng Chết của linh hồn ta:

Khi CHÚA dẫn tù nhân Sion

trở về,

ta tƣởng mình nhƣ giữa giấc mơ.

Vang vang ngoài miệng câu

cƣời nói,

rộn rã trên môi khúc nhạc mừng.

Bấy giờ trong dân ngoại, ngƣời ta

bàn tán:

“Việc CHÚA làm cho họ,

vĩ đại thay!”

Việc CHÚA làm cho ta, ôi vĩ đại!

ta thấy mình chan chứa một

niềm vui.

Lạy CHÚA, xin dẫn tù nhân

chúng con về,

nhƣ mƣa dẫn nƣớc về suối cạn

miền Nam. (Tv 126:1-4)

NGUYỄN TẦM THƢỜNG Jerusalem, những ngày vào

Tuần Thánh, 2006

Yêu Thầy, con vẫn yêu nhiều lắm

Nhƣng tội đời, khốn nỗi, vẫn đa mang…

Bao năm dài không một lời ta thán

Sao bỗng nhiên thảng thốt kinh hoàng?

Trong thoáng chốc, con mất rồi, kiên nhẫn

Con rời xa bến đỗ bình an…

Không tha thứ nhƣ bao nhiêu lần trƣớc

Khi ngƣời đời trao gởi gian nan,

Con tự cột cho mình giây trói buộc

Của hẹp hòi, chấp nhất, than van.

Con đánh mất, Thầy ơi, con đánh mất!

Não nùng thay! Ơn Thánh Thầy ban

Con tiếc qúa, xót xa vời vợi

Mới gần đây nào có xa xôi,

(Thế mà sao con đã quên rồi!):

Lòng rộng lƣợng, sung sƣớng hơn nhiều lắm

Hồn nhẹ nhàng say đắm hƣơng hoa

Nhƣ chim con vui vẻ thật thà,

Nép cánh mẹ nghe mùa xuân đến

Xin cho con, hỡi ngƣời con yêu mến!

Ánh mắt Thầy, gà gáy năm xƣa,

Khi quay lại, nhìn Phêro chối tội,

Tình thƣơng yêu nói mấy cho vừa!

Con vẫn biết: tội phải đền, Ơn phải trả.

Xin Thầy la, đay nghiến con đi.

Tuy chƣa phải là loài phản bội

Đầu óc con nhiều lúc vô tri.

Xin quat tháo, rầy la dữ dội

Để trọn đời, con nhớ mãi hôm nay.

Đâu có phải vì lòng kinh hãi

Nhƣng nặng tình lo lắng cho nhau :

Con rất sợ, Thầy ơi ! Con sợ nhất

Thầy im lìm cúi mặt buồn đau…

Viết đến đây, nghẹn ngào qúa đỗi,

Con không còn đọc nổi kinh cầu,

Chỉ thinh lặng đầm đìa nƣớc mắt…

Page 10: LT2007

Trang 10 Linh Thao

Lạy Chúa Giêsu, qua hình ảnh con nhện và mạng nhện con

sung sƣớng biết bao., khi con nghĩ đến lòng thƣơng xót của

Chúa là một chất tơ mầu nhiệm, phát xuất ra từ trái tim Chúa

Cha.

Chúa Giêsu là một với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.

Chúa Giêsu ở trong Trái Tim Chúa Cha.

Chúa Giêsu yêu thƣơng Chúa Cha vô cùng.

Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha không ngừng.

Tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Chúa Cha, đã ban ra một

chất tơ óng ả vô giá.

Chất tơ quí trọng đã dùng mỗi ngƣời chúng con làm điểm

chọn để Chúa Giêsu dệt Lƣới Tình Yêu.

Vì yêu Chúa Cha và từ trái tim Chúa Cha, Chúa Giêsu ban tỏa

ra chất tơ quí giá này để giữ chúng con trong mảnh Lƣới Tình

Yêu khổng lồ của Chúa.

Chúa Giêsu ôm trọn chúng con trong chất tơ tình yêu.

Chất tơ mang tính chất lòng thƣơng xót của Thiên Chúa Ba

Ngôi.

Chất tơ quí giá vô hình luôn mạng lại Mảnh Lƣới Tình Yêu,

những nơi bị hƣ hỏng, những nơi bị thủng rách bởi tội lỗi của

chúng con.

Chất tơ níu kéo chúng con, chất tơ vẫn dính bám chúng con,

ngay cả khi chúng con đang bị tách rời khỏi Mảnh Lƣới Tình

Yêu của Chúa.

Chúa Giêsu con kín h yêu, nếu chúng con còn ý thức, biết chấp

nhận để cho chất tơ óng mƣợt bám đọng trên linh hồn chúng

con, thì cho rằng chúng con đang không còn hàn gắn với

Mảnh Lƣới Tình Yêu của Chúa, chúng còn ẫẵn còn mang hơi

hƣớm của Chúa, thì chúng con vẫn còn có niềm hy vọng đƣợc

Chúa cứu rỗi.

Con kính lạy Ba Ngôi Chí Thánh con kính trọng, con kính yêu

và thờ phụng Chúa.

Con kính lạy Tình Yêu Huyền Bí, Tình Yêu Cao Cả, Tình Yêu

có một không hai.

Con kính lạy Tình Yêu Bất Diệt chẳng hề phôi phai.

Ôi Tình Yêu Hy Sinh, Tình Yêu Nhẫn Nại, Tình Yêu Thƣơng

Xót chẳng bao giờ ngừng, mạng lại Mảnh Lƣới Tình Yêu.

Đây là cảm nhận được trên đường đến dự Thánh Lễ ban mai của một tín

hƣũ, khi nhìn tƣợng Chúa Giêsu hiền hòa trên công viên với mạng nhện

phủ đằy. Ánh mặt trời chiếu rọi vào tƣợng Chúa với mạng nhện giăng đầy

nhƣ những sợi tơ lung linh óng ả, rất huyền dịệu…..

Page 11: LT2007

ạy Chúa, con xin cảm tạ

Chúa đã cho con trải qua một

ngày đẹp, trọn vẹn sống với

Chúa và với anh chị em trong

khóa. Sáng nay, khi thức dậy

ngƣời con mệt mỏi vì đêm qua

có mấy lần thức giấc và trằn

trọc lúc nửa đêm về sáng,

nhƣng ý nghĩ chỉ còn một ngày

nay nữa thôi. Mai phải rời xa

nơi đây rồi thì con vội vàng

chỗi dậy ngay.

Buổi kinh sáng chúng con

được hướng dẫn với đề tài xin

Thánh Thần Chúa giúp chúng

con biết mở lòng cho Chúa Giê-

su Kitô và xin Chúa cho biết:

Chúa muốn chúng con làm gì

cho Chúa đây?

Sau điểm tâm con có giờ

đến gập cha và được cha hướng

dẫn, dẫn giải cho về những

trƣờng hợp mà con đang thắc

mắc lo lắng trong cuộc sống

hằng ngày. Nhờ lời cha hƣớng

dẫn mà con nhận chân đƣợc

vấn đề để biết mình phải ứng xử

ra sao. Xin Chúa Thánh Thần

soi sáng cho con trong mỗi

quyết định.

Giờ huấn đức, chúng con

lại đƣợc hƣớng dẫn rõ thêm về

„phân biệt thần loại“. Cảnh

giác những mƣu mô tinh vi của

thần dữ. Con xin Tạ Ơn Chúa

và cám ơn cha.

Sau bữa ăn trƣa, giờ

thong dong, con đi dạo một

mình, vừa đi vừa suy gẫm lại

những lời cha giảng trong baì

huấn đức. Khi trở về, con men

theo những tƣợng đá có khắc

ghi chặng đàng thánh giá. Con

bắt đầu đứng ở trạm thứ ba, vì

con lƣời không đi trở lui để tìm

trạm thứ hai và trạm trứ nhất.

Nên con bắt đầu từ chặng

đàng thánh giá thứ ba. Chúa

Giêsu bị xử án, con xin Chúa

giúp con đừng lên án ai cả và

cho con biết chấp nhận mọi

ngƣời nhƣ họ là. Chặng kế tiếp

Chúa Giêsu vác thánh giá, con

xin Chúa giúp con can đảm

theo gƣơng Chúa mà gánh chịu

những nghịch cảnh đến trong

cuộc sống…Cứ thế con đi hết

chặng mƣời lăm và nghiệm

được những lợi ích và nhân đức

của việc đi đàng thánh giá. Nhờ

những chặng đàng thánh giá

này mà con đƣợc cầu nguyện

cho hết thảy mọi ngƣời, kẻ tù

tội, ngƣời già yếu, cô đơn, bệnh

tật,các linh hồn nơi luyện ngục,

các linh hồn vừa mới qua đời,

các linh hồn đang hấp hối v.v…

cho sự hiệp nhất những giáo

hộitrên thế gian,,, các linh mục

của Chúa, nhất là các linh mục

trẻ, các linh mục đang truyền

giáo xa xôi hẻo lánh….Đên hết

chặng mƣời lăm là con chạm

vào cánh cửa nhà dòng. Đây là

chặng thứ mƣời sáu. Con ngại

ngùng không dám gõ cửa, vì

con sợ chạm phải sự khó chịu

của ngƣời mở cửa, (vì sáng qua

con đã chứng kiến cảnh này),

nên thôi, con quay trở lại, luyện

đôi chân xuống mấy chục bậc

cấp.

Về đến nhà dòng với nỗi

vui tràn ngập của cô bé đƣợc

qùa. Vì từ khi biết Chúa đến giờ

con chƣa bao giờ đi chặng

đàng thánh gía một cách trọn

vẹn nhƣ hôm nay. Nhất là lại

một mình. Con sung sƣớng qúa,

gặp ai cũng muốn khoe, muốn

chia sẻ, nhƣng lại sợ làm phiền

mọi ngƣời vì ai cũng đang làm

linh thao, họ cũng đang có

những tâm tình vui sƣớng riêng

với Chúa, mình phải tôn trọng

chứ.

Buổi chiều con vào nhà

nguyện thăm Chúa, nhƣ một

đứa bé, con khoe với Chúa

thành tích của mình và dâng

Chúa tất cả tâm tƣ của con từ

sáng tới giờ. Rồi cứ thế con

ngồi nghỉ ngơi bên Chúa. Giờ

ăn chiều con gặp một Sr. phục

vụ mập map, con chào, Sr.

không trả lời và khi Sr. đem

thức ăn ra con nói lời cám ơn,

Sr. cũng không đáp lại. Con lại

có ngay nhận xét: Các Sr. ốm

ốm ở đây bà nào cũng dễ

thƣơng tƣơi vui, còn các bà Sr.

mập thì hơi hơi khó chịu và hơi

hà tiện nụ cƣời. Vừa nhận xét

xong là con biết mình đã phạm

tội xét đoán ngƣời khác. Câu

kinh thánh „ngƣơi là ai mà dám

xét đoán ngƣời khác. Nó đứng

hay nó ngã…….“ lại hiện ra

trong đầu nhắc nhở con. Trong

suốt giờ ăn, con vừa ăn bánh

mì vừa ăn năn tội, xin Chúa tha

thứ cho ý nghĩ này của con.

Giờ đây chúng con ngồi

quây quần quanh Chúa. Mỗi

chúng con đều có một tâm sự

với Chúa. Yêu Chúa mà cũng

yêu nhau thật đậm đà. Những

em trẻ tuổi trong khóa con cảm

thấy yêu mến nhƣ các con mình

nên dễ dàng hỏi han tâm sự với

nhau thật là dễ thƣơng. Lúc này

lòng con lại gợn lên một chút

buồn vì ƣớc ao con mình cũng

được hiện diện trong các khóa

linh thao nhƣ các em này. Con

cảm tạ Chúa.

Xin Chúa chúc phúc cho chúng

con một đêm ngủ ngon và thêm

sức cho chúng con một ngày

mai tƣơi đẹp trọn vẹn, ngày

cuối của khóa với những hoa

đẹp, trái ngon đem về làm qùa

cho những ngƣời thân trong gia

đình. Và tràn đầy những ân

sủng Chúa cho những ngày

tháng sống nơi cuộc đời bon

chen ô trọc. Tạ ơn Chúa.

Nguyên Thi

LỜI TẠ ƠN

Linh Thao Trang 11

Page 12: LT2007

Trang 12 Linh Thao

TÓC MÂY VÀ THORNBIRD

Ở Sài gòn thời thập niên '60, truyện Tóc Mây đã trở thành như một cái "mốt" cho nhiều người tìm đọc. Tác giả Lệ Hằng khai thác đúng lúc cái đề tài rất ư ăn khách mà trước đó chưa ai đụng tới. Nó gợi tò mò. Ông cha mà cũng biết yêu thương cơ à! Đọc một tí để khám phá cái thế giới huyền bí đàng sau vẻ trang trọng của một linh mục, lại chẳng phải là chuyện hấp dẫn sao?! Rồi bài hát do Nguyễn Đức Quang phổ nhạc lời thơ "rất khều mặt trời" của Nguyễn Tất Nhiên, đã len lỏi vào khắp mọi ngóc ngách, làm rung lên những sợi tơ trời. Tôi nhớ lõm bõm được mấy câu lúc đầu nghe thật ngộ nghĩnh:

vì tôi là linh mục

giảng lời tình nhân gian

nên không có Thánh Kinh

nên không có bổn đạo

nên không có giáo đường

(một tín đồ duy nhất vừa thiêu hủy lầu chuông!) vì tôi là linh mục

phổ lời tình nhân gian

thành câu thơ buồn bã

nên hạnh phúc đâu còn... vì tôi là linh mục

không biết rửa tội người nên âm thầm lúc chết tội mình còn thâm vai.

Truyện Tóc Mây thời mới là Thornbird, hư cấu từ khung cảnh bên Úc, đã được đóng thành phim chiếu đi chiếu lại dài dài, chuyên chở nhiều cơn phấn đấu dai dẳng với đủ mùi đắng ngọt

của cả một đời người. Thornbird là một loại chim thật lạ, cành cây thơ mộng bên hồ không thèm đậu, lại thích lao mình vào cây gai trên rừng cho chảy máu mà hót lên cung điệu bài "thú đau thương!"

QUYỀN NĂNG LÀ TÍN ĐỒ

Một hôm được mời tham dự Đêm Thơ Nhạc Du Tử Lê ở California, tôi ngồi bên một nhà văn không Công giáo. Trong lúc chờ khai mạc chương trình, sau một số trao đổi chuyện trò, ông ta hỏi tôi có dịp đọc cuốn truyện Thornbird của một tác giả người Úc nào chưa? Tôi chưa kịp trả lời thì ông hỏi tiếp ngay: tại sao ở Việt Nam chế độ không

Lm. Trần Cao Tường HỒN TÔI BAY ĐẾN BAO GIỜ MỚI ĐẬU

Ảnh của Nguyễn Tầm Thường, S.J.

Phải mất cả một buổi sáng mới chụp được hình con chim Thornbird tại New Zealand

Úc châu, là bối cảnh và tựa đề của cuốn tiểu thuyết đã đóng thành phim gây khá nhiều tò mò. Thornbird là loài chim thích gai đâm cho

chảy máu! Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu,

Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu. (Thơ Hàn Mặc Tử)

Bài hát quen thuộc hồi nào văng vẳng bên tai với lời tâm sự mới: Vì tôi là linh mục, chung phận kiếp lưu đầy, nên suốt đời phiêu bạt, nên mãi là mây bay.

Page 13: LT2007

Linh Thao Trang 13

ưa gì Công giáo mà lại cho chiếu phim đó hoài vậy? Không chút do dự, tôi trả lời ngay: "Có thể người ta muốn rêu rao cho thấy bề trái của hàng linh mục: quá nhiều bê bối thấy chưa, phải đáng hồ nghi là vừa!"

Ông ta liền buông một câu tỏ ra hết sức ngỡ ngàng: "Thế à! Tôi chưa bao giờ nghĩ ra điều đó. Ngược lại, với cá nhân tôi là một người không Công giáo, khi đọc truyện Thornbird, tôi hiểu và thương mến các linh mục nhiều hơn, vì nhận ra chất người nơi họ, rất gần gũi và rất nhân bản. Dĩ nhiên đã là người thì cũng có thể vấp ngã, đó là con số nhỏ. Họ cũng là người như tôi, thế mà họ lại có thể phấn đấu với chính mình để ra đi cứu nhân độ thế. Biết bao nhiêu người như thế. Tôi phục quá chứ!

Nhận xét của ông nhà văn này làm tôi suy nghĩ và thấy ông nói đúng. Có một số người chỉ thích nhìn hình ảnh người tình trong phim là một cô gái. Nhưng đang khi đó tác giả lại muốn trình bày về những phấn đấu tất nhiên của con người để bước tới mà cũng có thể quị ngã vì những hướng chiều từ trong mạch máu, vẫn gọi là tham sân si, trong đó khuynh hướng tham vọng mê quyền năng mới là người tình ác quỉ đứng hàng đầu trong bẩy người tình là những mối tội đầu mai phục trường kỳ bên dưới những tế bào. Bên Mỹ cũng có truyện Cardinal Sins của Andrew Greeley khá nổi tiếng. Đề

sách là một kiểu chơi chữ: vừa có nghĩa là Những Mối Tội Đầu là những "tội gốc chưa tan", mà vừa có nghĩa là Hồng Y Phạm Tội! Đứng đầu bẩy mối tội gốc của mọi thứ tội là kiêu ngạo, là yêu người tình danh vọng thường phá hủy lầu chuông, đúng như lời thơ Nguyễn Tất Nhiên.

tín đồ là người tình

người tình là ác quỉ ác quỉ là quyền năng

quyền năng là tín đồ

tín đồ là người tình

thiêu hủy lầu chuông tôi.

Lần đầu tiên một số người phát giác ra rằng ”ông cha” cũng có một con tim bằng thịt biết lúc lắc bồi hồi chứ đâu phải gỗ đá. Trước kia cứ tưởng linh mục là một loại thụ tạo thiêng liêng sáng láng từ trên trời rơi xuống. Liên hệ giữa giáo dân và linh mục luôn có một ngăn cách kiểu ”kính nhi viễn chi.” Bây giờ người ta có dịp nhận ra linh mục vẫn còn là một người nguyên vẹn hình hài, biết khóc biết cười, biết đói biết no, biết đau khổ, biết đối diện với những lúc đen tối, biết vui mừng biết hy vọng, biết lo âu biết sợ hãi. Và cũng có khuynh hướng con người cho những đam mê tham sân si với đầy đủ lễ bộ hỉ nộ ái ố.

Chúa Giêsu khi làm người, Ngài cũng đã chấp nhận thân phận như vậy. Satan biết thế nên trong sa mạc đã gạ gẫm Ngài bằng những màn hấp dẫn vật chất quyền hành danh vọng. Đấy chỉ là cơn cám

dỗ điển hình. Kinh Thánh nói rõ: ”Sau khi làm đủ cách cám dỗ, ma quỉ rút lui để chờ dịp khác” (Lc 4:13). Điều đó chứng tỏ rằng cả cuộc đời của Chúa Giêsu luôn là một phấn đấu chọn lựa bước tới hoặc bước lui, như một con người, như một tư tế, như một linh mục đã chọn sống độc thân để có thể phục vụ trọn vẹn, trong khi vẫn có thể chọn khác như bất cứ ai.

CƠN CÁM DỖ CUỐI CÙNG

Karanzakis đã từng viết truyện Cơn Cám Dỗ Cuối C ù n g ( T h e L a s t Temptation), cũng muốn nói lên phần nào cái nhìn trên. Vào lúc kết thúc sứ vụ ở trần gian, Đức Giêsu đã bị ghìm chặt vào thập giá nhưng vẫn phải quằn quại giẫy giụa. Ngài cũng vẫn bị cám dỗ tìm ra kiểu cứu nhân độ thế bằng một lối khác, như dùng quyền năng biểu diễn một trò ngoạn mục là nhẩy xuống khỏi thập giá trước mặt bá quan văn võ để thiên hạ lác mắt mà bái phục. Cơn cám dỗ này giống y chang cơn cám dỗ trong sa mạc lúc khởi đầu. Gọi là cơn cám dỗ cuối cùng, vì chỉ khi chết rồi mới hết phải phấn đấu thôi.

Linh mục cũng không thể ra khỏi thân phận đó. Cuộc đời linh mục cũng luôn là một phấn đấu chọn lựa giữa việc dừng chân ở một đối tượng ”tóc mây,” ở những kiếm tìm xây dựng lâu đài thành công chói sáng, và sự dấn thân bước

Page 14: LT2007

Trang 14 Linh Thao

tới lý tưởng. Nhìn một cách tích cực qua truyện Tóc Mây hay Thornbird, thì đây là dịp để người ta có thể nhìn rõ được những phấn đấu không ngừng của linh mục, như lời Thánh Kinh trong thư gửi giáo đoàn Do Thái. Và từ đó sẽ cùng với cả nhiệm thể Chúa Kitô là Hội Thánh hỗ trợ, cảm thông và chia sẻ trách nhiệm gầy dựng thân thương.

“Linh mục là người được chọn giữa người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người mà giao tiếp với Thiên Chúa để dâng lễ vật và lễ tế đền tội. Linh mục có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính mình cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên linh mục phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy." (Do Thái 5:1-3)

Lm. Trần Cao Tường (từ tác phẩm Khúc Sáo Ân Tình,

Thời Điểm Xuất bản)

rong Thánh Lễ Chúa Nhật

II/C chúng ta đọc Phúc Âm

về Tiệc Cƣới Cana (Ga 2,1-11).

Nhiều cập dùng đoạn này trong

Lễ Cƣới, nhƣng đoạn nầy cũng

có thể giúp tất cả những ai

muốn sống hăng say, yêu Chúa

mến ngƣời và mang niềm hân

hoan đến tha nhân.

“Có tiệc cƣới tại Cana. Trong

tiệc cƣới có thân mẫu Đức Giê

-su. Đức Giê-su và các môn đệ

cũng đƣợc mời tham dự”. Đây

có thể là chuyện cuộc sống mỗi

ngƣời chúng ta, nếu coi nó nhƣ

một chuyện tình vui vẻ, đầy

tràn niềm hy vọng. Một chuyện

tình đang thúc đẩy tôi học hành,

làm việc, đi tu hay lập gia đình

với ngƣời bạn trăm năm của tôi.

Tôi mời bà con, bạn bè cùng

chia sẻ niềm vui của chuyện

tình tôi. May mắn cho tôi, nếu

trong số ngƣời đƣợc mời có

thân mẫu Đức Giê-su, và có

chính Ngài. Có lẽ, lúc mọi sự

diễn tiến vui vẻ, nhƣ mình đã

tính trƣớc, hai ngƣời khách cao

quý này chẳng có vai trò đặc

biệt trong chuyện tình của tôi.

Tuy nhiên, trong tiệc cƣới Cana

có lúc “hết rƣợu”. Có lẽ, không

biết từ bao giờ, trong chuyện

tình của tôi cũng xẩy ra là đã

hết rƣợu. Rƣợu tôi rót vào ly

các bạn là rƣợu nhà, đơn sơ,

khá ngon (theo cảm tƣởng của

tôi). Bằng chứng là chung

quanh tôi tôi không bao giờ

thiếu bạn bè, nụ cƣời. Tuy

nhiên, bây giờ „hết rƣợu rồi‟.

Tại sao? Chính tôi chẳng hiểu

rƣợu tôi hết từ bao giờ. Ngay từ

đầu, tôi đâu có nhiều rượu. Hai

ba ngƣời uống thì hy vọng

không thiếu; có ngƣời mang

theo một hai chai, thì càng bảo

đảm. Nhưng, nếu kẻ uống hơi

đông, tôi không bảo đảm sẽ đủ

rƣợu.

Tôi hết rƣợu, hay là rƣợu tôi

không ngon, nói cách bóng bẩy

hơn đó là những nghèo nàn của

tôi, những giới hạn, những

khuyết điểm tôi gặp phải khi

tiếp xúc với ngƣời khác. Từ

trƣớc đến bây giờ, có lẽ tôi

buồn vì những khuyết điểm đó.

Nhìn lại Phúc Âm chúng ta thấy

một sự thay đổi lớn lao trong

tiệc cƣới Cana hể từ lúc „hết

rƣợu‟. Khi hết rƣợu, hai tân

lang cùng toàn thể khách mời

mới uống đƣợc rƣợu ngon, là

quà tặng của Đức Giê-su. Giai

đoạn vui nhất bắt đầu khi hai

tân lang cám ơn Đức Mẹ và

mời Đức Giê-su ngồi cạnh bên

mình. Đức Giê-su biến thành

tâm điểm của tiệc cƣới.

Nhƣng, chúng ta hãy theo dỗi

mọi sự xẩy ra từng bƣớc một.

Đang giúp một tay trong bếp,

Đức Mẹ nhận ra tình trạng sắp

sửa hết rƣợu. Vừa chạy đến gặp

Đức Giê-su, vừa bước vào bếp

Đức Mẹ căn dặn với gia nhân:

“Ngƣời bảo gì, các anh cứ việc

làm theo”. Nhƣ vậy, điều quan

trọng là làm theo những gì Đức

Page 15: LT2007

Linh Thao Trang 15

Giê-su bảo. Nhƣng Ngài nói gì

với tôi? Chúa đâu có nói với

tôi bao giờ! Lúc nào tôi nghe

Ngài bảo tôi? Chúng ta nghe

bằng cách nào?

Đề tài này rất quan trọng bởi vì

nghe Chúa chúng ta mới có thể

„làm theo Ý Ngài‟ đƣợc.

Nhƣng, Chúa nói thế nào?

“Tiếng nói của Chúa là tác

động thần linh trong tâm hồn

chúng ta”. Ngài không nói dài

dòng nhƣ loài ngƣời. Khi Ngài

nói, tâm hồn chúng ta hƣớng

thƣợng và thêm sức sống;

chúng ta nhận thấy một ánh

sáng đổi mới các mối liên hệ:

với Chúa, với anh em, với

chính mình; chúng ta thích đọc

Kinh Thánh và thấy Lời Chúa

có ý nghĩa đối với mình, thấy

Chúa thƣơng yêu chúng ta và

chính chúng ta cũng yêu Ngài

mến ngƣời. Lúc đó, chúng ta

thấy rõ hơn nên làm gì và có

sức thực hiện hành động đó.

Thánh I-nhã tin rằng Thiên

Chúa muốn soi sáng và khuyến

khích mọi ngƣời, không phân

biệt bậc sống lập gia đình, tận

hiến hay độc thân. Chúa muốn

„nói‟ với chúng ta không chỉ

khi cấm phòng linh thao nơi

yên tĩnh mà ngay ở trần gian,

bất cứ lúc nào và khắp mọi

nơi. Chúng ta có thể làm chứng

cho niềm tin của I-nhã vì đã

từng „nghe‟ Chúa không chỉ

khi Linh thao mà ngay trong

cuộc sống thƣờng ngày.

Vậy thì nếu lúc này tôi ít nghe

Thiên Chúa nói với tôi, có phải

là vì Ngài hết muốn với mình

hay là vì lí do gì? I-nhã lại mời

chúng ta nhìn hai lí do mà trả

lời thắc mắc này. Theo ngài,

nếu trong thời gian hơi lâu

chúng ta chẳng nhận thấy một

tác động nào của Chúa có lẽ vì

chúng ta lƣời biếng hay là vì

một tinh thần bất chính đang

làm chủ trái tim ta. Chúng ta

hãy xem chi tiết hơn:

„Lƣời biếng‟. Cảm xúc lƣời

biếng có liên hệ mặt thiết và

trái ngƣợc với niềm hy vọng và

lòng hăng hái. Ai hy vọng

nhiều, ít lƣời biếng. Nhƣng,

khi thất vọng, nản lòng hay

nghi ngờ, lúc đó chúng ta cảm

thấy lƣời biếng không muốn cố

gắng nữa. Lƣời biếng là không

để dành thì giờ trong ngày để

tâm tình với Chúa. „Lƣời

biếng‟ cũng là „miệng đọc

kinh‟ nhƣng „tâm hồn lo ra‟.

Sở dĩ chúng ta “nhƣ kẻ điếc

chẳng nghe gì” (TV 37,14)

cũng có thể là vì một tinh thần

bất chính đang làm chủ trái tim

mình. Thiên Chúa rất tôn trọng

quyền tự do loài ngƣời. Ngài

gõ cửa trái tim, nhƣng nếu

không đƣợc đón tiếp, Ngài đợi

chờ ở ngoài. Nhiều thần tƣợng

bao vây con ngƣời (tiêàn bạc,

địa vị, quyền thế, thành

công...). Chƣa muốn kiềm chế,

thì chúng ta làm lơ. Chỉ cần

một thời gian lơ là với Chúa,

các thần tƣợng chiếm cả trái

tim.

Có nhiều tinh thần bất chính,

chăng hạn: nghi ngờ, sợ sệt

hay thù hận Thiên Chúa. Có

thể là vì một chuyên rất buồn

xẩy ra cho tôi, hay cho gia

đình tôi và người ta nói đó là ý

Chúa. Hay là tôi đã cầu nguyện

tha thiết xin Chúa một ơn duy

nhất, và Ngài đã không ban

cho. Một thành kiến sai lầm là

đủ để làm ngăn trở cho Ngài

vào. Thiên Chúa là thần linh,

thì chỉ có thể là tâm điểm trái

tim chúng ta.

Nghĩ rằng chỉ các thánh mới

nghe đƣợc Chúa nói là sai.

Ngƣời chăn chiên tốt lành đến

để kiếm chiên lạc, Thầy thuốc

đến để chữa lành bệnh nhân.

Nếu tôi còn nhiều tật xấu, hay

nghi ngờ và nản lòng, tôi vẫn

có thể mang những vấn đề đó

mà chia sẻ với Ngài. Là con

của Ngài, tôi có thể thắc mắc

và than khóc với Ngài. Nhƣ

Gia-cóp vật lộn với Thiên

Chúa, tôi không „buông Ngài

ra bao lâu Ngài không chúc

phúc cho tôi‟ (St 32, 23-33).

Vật lộn xong, tôi lắng tai nghe,

tôi mở hết lòng cho Ngài, thì

Ngài sẽ nói, Ngài sẽ chỉ cho tôi

nên làm gì.

Làm nhƣ vậy, trong chuyện

tình cuộc sống tôi, Chúa Giêsu

và Đức Mẹ luôn luôn sẽ là tâm

điểm của tôi, tôi sẽ nghe những

gì Thầy „bảo tôi làm‟, khách

của tôi sẽ không thiếu rƣợu, và

rƣợu của tôi sẽ rất ngon.

Câu hỏi gợi ý

1. Tôi thấy rượu hơi hiếm

trong chuyện tình của tôi từ

bao giờ?

2. Đức Giê-su là tâm điểm

cuộc sống mang nghĩa gì đối

với tôi?

3. Tật lười biếng đe dọa tôi

dƣới hình thức nào?

4. Tôi chưa sẵn sàng kiềm

chế tinh thần bất chính nào?

Eli Thành sj Saigon, 24 tháng Giêng, 2007

Page 16: LT2007

• Con đến khóa linh thao

với biết bao ƣu phiền vì gánh

nặng gia đình và bổn phận của

một con ngƣời. Con vẫn trách

Chúa hoài: Sao Ngài không

thƣơng con. Sao Ngài bỏ con.

Qua ba ngày này con đã đƣợc

cha hƣớng dẫn và Chúa Thánh

Thần soi sáng để nhìn lại mình

nên gánh nặng trên vai đã nhẹ

đi nhiều và cảm nhận được

Chúa thƣơng yêu mình vô vàn,

Ngài đã ban cho biết bao nhiêu

Hồng Ân, thế mà mình không

nhìn thấy, không nhận ra nên

trách cứ Chúa hoài. Con xin lỗi

Chúa và xin Ngài thánh hóa để

mỗi ngày con trở nên sống tốt

đẹp theo Ý Ngài.

• Nhờ mỗi năm con tham

dự một khóa linh thao, mà từ

ba năm nay tâm hồn con đƣợc

biến đổi hoàn toàn từ tâm hồn

đến thể xác. Linh hồn con như

đã chết mà được sống lại hay

nói cách khác nhƣ nắng hạn

gặp mƣa rào. Từ đó đến nay

linh hồn con luôn vui sƣớng

trong Ân Sủng Chúa.

• Mỗi lần đi linh thao là

mỗi lần con nhận đƣợc nén bạc

Chúa trao cho và lần khác con

đến khóa trình Chúa xem nén

bạc sinh sôi nảy nở tới đâu.

Nếu không có Ơn Chúa thì nén

bạc không thể sinh lợi đƣợc.

• Cuộc sống của con trong

gia đình qúa êm ả, nhiều khi

thấy nhàm chán. Con luôn luôn

cảm thấy thiếu thiếu cái gì và

khao khát cái gì. Con đến

khoá linh thao vì con biết chỉ

có Chúa mới biết đƣợc và bù

đắp được cho con cái thiếu

thiếu đó.Con chƣa biết Chúa

dạy con điều gì và con phải

làm gì với đoạn Kinh Thánh:

Bà góa cho Elia dầu và bột.

• Con học được nhiều qua

những bài huấn đức của cha,

cũng học đƣợc nhiều điều rất

hay qua các anh chị em trong

khóa về gƣơng sống đức tin.

Những giờ thinh lặng trong

Chúa thật tuyệt vời để nghe

Chúa nói với mình: “Xin Chúa

phán một lời thì linh hồn con

sẽ lành mạnh”. Nếu mình và

mọi ngƣời cùng xôn xao ồn ào

thì làm thế nào mà nghe đƣợc

tiếng Chúa, để biết Chúa phán

lời gì cho mình?.

• Lần đầu tiên con đi dự

linh thao. Con là một ngƣời đi

sinh hoạt rất nhiều, đi hành

hƣơng rất nhiều và tổ chức

hành hƣơng v.v…Qua khóa

linh thao con nhận thấy giờ cầu

nguyện với Kinh Thánh thật

tuyệt vời. Mọi ngƣời đƣợc sự

tác động của Chúa Thánh Thần

qua những câu hay những chữ

trong Kinh Thánh rồi chia sẻ

qua những lời cầu nguyện bộc

phát rất là chân thành, xúc

động. Xin tạ ơn chúa và cám

ơn cha cùng ban tổ chức.

*Riêng con, những kinh

nghiệm sống đức tin nhận

được trong các khóa linh thao

đã giúp cho gia đình con có

cuộc sống bình thản hơn. Lần

vừa qua khi nghe tin chồng con

bị mang bệnh nan y, nhờ kinh

nghiệm linh thao con đã giúp

anh thêm can đảm, giúp các

con cái trong gia đình bình tĩnh

đón nhận tin khủng hoảng đó.

Qua biến cố này gia đình sống

hạnh phúc yêu thƣơng nhau

hơn. Họ hàng cũng qúy mến

dịu dàng với mình hơn. Con

chỉ biết dâng lên Chúa lời tạ

ơn. Cám ơn cha và những

ngƣời có công tổ chức các

khóa linh thao.

NTT ghi lại

Trang 16 Linh Thao

Page 17: LT2007

ài giảng trong Thánh

Lễ, linh mục đã mời

gọi mỗi ngƣời quay lại với đời

sống nội tâm của mình để tự

kiểm điểm, xem xét đƣờng lối

và cách sống của mình. Khi

đó, chắc hẳn mỗi người chúng

ta sẽ ngạc nhiên, ngỡ ngàng vì

thấy những bổn phận thiếu sót

của mình và những phần chia

sẻ với ngƣời khác thật qúa ít

ỏi.

Chúng ta đang ở vị trí

nào, khi chúng ta nói chúng ta

tin Chúa ? Phải chăng vì lơ là

mà chúng ta không để ý nghe

Lời Chúa qua bài Thánh Thƣ

hay qua đọan Phúc Âm ? Phải

chăng, chúng ta chƣa đủ

trƣởng thành để cảm nghiệm

được sự hiện diện của Ngài

Phải chăng chúng ta cần có ơn

soi sáng của Chúa Thánh

Thần, để có thể hiểu Lời nhắn

nhủ của Ngài trong Lề Luật ?

Thật ra, Lề Luật của

Chúa là niềm vui cho trái tim

và là ánh sáng cho mắt, khi

chúng ta nhìn thấy và yêu mến

mục đích thật của sự sống. Lề

Luật cần có Ngƣời Cha Trên

Trời và Lề Luật đã đƣợc nhắn

nhủ qua các tiên tri, qua Moi-

sen và sau cùng chính Chúa

Giêsu đã đích thân xuống thế

gian, để rao giảng Lề Luật của

Chúa Cha.

Hôm nay, chúng ta đề

cập đến sự chia sẻ cho ngƣời

anh em đồng loại. Chúng ta có

nhớ chăng, Chúa Giêsu đã

giảng : « Vì xƣa Ta đói mà các

ngƣơi đã cho Ta ăn, Ta khát

mà các ngƣơi đã cho Ta uống,

Ta là khách lạ mà các ngƣơi

đã tiếp rước, Ta mình trần mà

các ngƣơi đã cho ta mặc, Ta

đau yếu mà các ngươi đã thăm

viếng, Ta ở tù mà các ngƣơi đã

đến với Ta (Matthêu 25, 35)

Cũng nhƣ lời « Qủa thật, ta

bảo các ngƣơi : những gì các

ngƣơi đã làm cho một ngƣời

trong các anh em hèn mọn

nhất này của Ta, là các ngƣơi

đã làm cho chính mình

Ta » (Mt.25, 40)

Chúa Giêsu là ai ? Chúa

Giêsu là ngƣời đã sống và thi

hành lề luật của Chúa Cha.

Chúa Giêsu áp dụng lề luật với

hết lòng MẾN và để lại cho

chúng ta gƣơng yêu mến phục

vụ anh em đồng lọai. « Nếu Ta

là Thầy, là Chúa mà đã rửa

chân cho các ngƣơi thì các

ngƣơi cũng phải rửa chân cho

nhau. Ta nêu gƣơng cho các

ngƣơi ngõ hầu nhƣ Ta đã làm

cho các ngƣơi thế nào, thì các

ngƣơi cũng làm nhƣ

vậy » (Ga.13, 14-15)

Chúa Giêsu đã để lại cho

chúng ta nhiều lời giảng, nhiều

ví dụ để kêu gọi chúng ta hãy

sống phó thác, đừng tham lam

của cải, đừng bon chen chức

vị, quyền hành. « Vì thế Ta bảo

các ngƣơi : « Chớ lo mạng

sống, các ngƣơi ăn gì ? hay

cho thân xác : các ngƣơi mặc

gì ?. Chớ bồn chồn lo lắng…

Đừng sợ ! Hỡi đàn chiên nhỏ

bé !... Hãy sắm cho mình

những ví tiền không hề cũ nát,

kho tàng không hao trên trời…

Vì kho tàng các ngƣơi ở đâu,

thì lòng các ngƣơi ở

đó » (Luca.12, 22-34) « …Vì

chƣng ai nhỏ hơn trong các

ngƣơi, thì kẻ đó là lớn » (Luca.

9, 48)

Nhƣng, chúng ta yếu

đuối, Chúa tốt lành đã để cho

chúng ta tự do lựa chọn.

« Ngƣoi hãy bán tất cả những

gì ngƣơi có mà phân phát cho

kẻ khó và ngƣơi sẽ có một kho

tàng trên trời, đọan hãy đến

theo Ta »Nghe thế, ngƣời ấy

rất đỗi buồn rầu, vì giàu có

qúa đỗi » (Luca 18, 22-23)

Lề Luật: Yêu Thương

Linh Thao Trang 17

Page 18: LT2007

Chúa Giêsu đã sống cho

Tình Yêu và chết cho Tình Yêu.

Chúa Giêsu đã về với

Chúa Cha và vào Thiên Đàng

với hai tay, hai chân và hai

mắt.

Còn chúng ta, thân phận

thấp hèn, chúng ta xin ơn soi

sáng của Chúa Thánh Thần, để

phân biệt sự phải, sự trái, sự

tốt, sự xấu. Chúng ta cần ơn

giúp đỡ của Chúa để cởi bỏ

dần sự tự do sai hƣớng của

chính mình. Tuy chúng ta còn

phải lo cuộc sống hằng ngày

và để ý, đáp ứng những nhu

cầu cần thiết cho gia đình của

chúng ta, nhƣng sự chia sẻ ở

đây, nói đến sự chia sẻ mà

chúng ta có thể làm. Chúng ta

không thể so sánh với trƣờng

hợp bà góa, Chỉ một đồng kẽm,

bà đã cho đi trọn vẹn, không

tính tóan và bà đã làm đẹp lòng

Chúa. Chúa lƣợng theo sức và

khả năng của mỗi ngƣời chúng

ta, mà ban cho chúng ta hồng

ân » Đƣợc những ân lộc khác

nhau tùy theo Ơn Thiên Chúa

ban cho ta » (Rm.12, 6)

Chúng ta hãy tránh, đừng

để đường lối của chúng ta đi

đến sự thèm muốn vật chất qúa

độ, sự tích trữ của cải, sự mơ

ƣớc chức vị, muốn đạt đến mọi

quyền thế, đƣa chúng ta đến

lòng khô khan, ích kỷ, cằn cỗi,

rồi đến cả xa Chúa.

Chúng ta hãy cố gắng

nghĩ đến ngƣời khác, nhƣ

Thánh Phaolo đã nhắn nhủ :

« Vì cũng nhƣ thân mình là

một, nhƣng lại có nhiều bộ

phận… một bộ phận phải đau,

thì hết các bộ phận đau chung,

một bộ phận đƣợc vinh, thì hết

c á c b ộ p h ậ n v i n h

chung! » (ICr. 12, 22-23).

Chúa biết chúng ta yếu đuối,

nên mỗi cử chỉ hy sinh, hãm

mình, mỗi cử chỉ mến yêu dƣới

bất cứ hình thức nào, chúng ta

cũng làm đẹp lòng Chúa.

Ngƣời Cha Trên Trời có

liên hệ với ngƣời cha thế gian,

vì làm Lề Luật cho con cái. Để

hiểu Lề Luật và theo Lề Luật

của Chúa, chúng ta cần phải có

Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ

giúp chúng ta bỏ lớp vật chất

nặng nề, để mặc lấy lòng MẾN

nhẹ nhàng. « … Vậy ta hãy vất

bỏ những việc tối tăm và hãy

mặc lấy khí giới sự sáng. Nhƣ

giữa ban ngày, ta hãy sống

đoan trang, chứ không phải

trong chè chén và say sƣa,

trong dâm dật và phóng đãng,

trong kình địch và ghen tƣơng.

Nhƣng anh em hãy mặc lấy

Chúa Giesu Kitô… » (Rm 14,

12 -14) Chúng ta hãy đến ẩn

náu bên Chúa Giêsu và Mẹ

Maria, Mẹ của chúng ta. Hãy

cầu xin Thánh Cả Giuse và các

Thánh giúp chúng ta lắng dịu

xuống để chúng ta đến với

Chúa trong phần tâm linh cầu

nguyện, và cố gắng thực hành

lòng MẾN.

Thánh Phaolo đã viết:

« Thuở tôi bé bỏng, tôi nói

năng nhƣ trẻ bé, tôi suy nghĩ

nhƣ trẻ bé, tôi xét đóan nhƣ trẻ

bé. Một khi tôi trƣởng thành,

tôi liền loại đi những gì là trẻ

bé ».

Vậy nay, còn lại TIN,

CẬY, MẾN, ấy là bộ ba !

Nhƣng trong bộ ba ấy, MẾN là

hơn cả ! » (I Cr. 13, 11-13)

« …vậy YÊU MẾN là chu toàn

cả Lề Luật » (Rm. 14, 10)

Khi chúng ta ra đời, đã

được đánh dấu là sự tội, và

đường đến với Chúa là đường

hẹp, thật gập ghềnh khó đi, vì

vậy Chúa Giêsu đã đến với

chúng ta, chịu chung số phận

và để cứu chúng ta. Chúng ta

hãy tin tƣởng vào Chúa Giêsu

và chiêm ngƣỡng tình yêu của

Ngài, để có can đảm mà cố

gắng bƣớc đi trên đƣờng phó

thác.

Khi đến tham dự một

Thánh Lễ và lên rƣớc lễ là

chúng ta muốn đến với Cha và

vào thế giới của Cha, thế giới

an bình, đầy Lòng Thƣơng Xót

Mến Yêu, thế giới nhân từ bác

ái cứu độ, thế giới hết lòng cho

đi, luôn mở vòng tay tha thứ

đón chờ, thế giới luôn sáng

ngời bởi Lửa Tình Yêu.

Chúng ta bé nhỏ, thấp

hèn, không thể am tƣờng để

hiểu nổi Tình Thƣơng Xót của

Cha trong quyền năng của

Cha. Với lòng khiêm nhu,

chúng ta chỉ biết xin, tất cả tùy

theo Thánh Ý Cha.

TK ghi lại.

(Paray le Monial,

Chúa Nhật 01.10.2006,

nơi nhà nguyện Chúa Giêsu

Thăm Viếng và Mặc Khải

Mầu Nhiệm Trái Tim Chúa

cho Thánh Nữ Maria

Mageurite Alacoque)

Trang 18 Linh Thao

Page 19: LT2007

húa ơi! Nếu

phải đọc kinh

và lễ lạy hết

ba ngày chăc

là T. chết mất“.

Tôi đã nói với cô

bạn thân ngồi cùng

xe khi chiếc xe bắt

đầu lăn bánh nhắm

hƣớng Norden. Khi

vừa sinh ra, cũng nhƣ rất nhiều

những gia đình khác, đƣợc cha

mẹ đƣa tới nhà thờ rửa tội. Rồi

lớn lên trong một gia đình tràn

đầy yêu thương của cha mẹ, tôi

cảm nhận đƣợc hạnh phúc và

giáo dục đã nuôi lớn tôi.

Thế nhƣng, hình ảnh Thiên

Chúa chỉ lờ mờ trong trí tôi

thôi. Và tôi chỉ tới vơí Ngài

những lúc cô đơn, khi đau yếu

hay khó khăn… chơ vơ giữa

dòng đời nhƣ một ngƣời sắp

chìm giữa biển cả mênh mông,

bám đƣợc mảnh ván và rồi khi

vào tới bờ, mảnh ván đó sẽ bị

quăng vào đám cỏ bụi gai và

dần dần đi vào quên lãng.

Thế đó các bạn ạ! Tôi bƣớc tới

linh thao với với những bƣớc

chân khập khiễng, hay nói đúng

hơn là sự tò mò của một con

ngƣời, nhƣng lòng thì rất bình

yên. Và rồi Chúa đến trong tôi

thật nhẹ nhàng, tôi đã cảm nhận

được sự hiện diện của Ngài với

đôi mắt hiền từ nhưng thật

nghiêm nghị… Ngài nhìn tôi

nhƣ muốn nhắn gởi tôi điều gì

(thật không giấy bút nào tả

được)…

Rồi ánh mắt đó cứ từng giây

từng phút hiện diện trong tâm

hồn bé nhỏ của tôi.

Tôi đã run lẩy bẩy và rung động

thật sự khi mỗi lần bƣớc vào

phòng cầu nguyện… Tôi không

tài nào cầm đƣợc những giọt

nƣớc mắt của mình, tôi đã khóc

thật sự các bạn ạ!!! Chỉ cần một

câu hát hay một lời cầu nguyện

của một ngƣời nào cất lên đều

làm tôi nghẹn ngào không cầm

được nước mắt… Và cứ thế, tôi

đã sống ba ngày trong những

giọt nƣớc mắt… Trong tôi một

niềm hạnh phúc dâng trào nhƣ

chƣa từng có.

Bây giờ tôi không còn chỉ thấy

cái xấu của ngƣời chung quanh,

mà tôi chỉ biết thông cảm đƣợc

cái xấu của họ, con mắt của tôi

đã biêt khoan dung chứ không

còn khắt khe nữa.

Sau ba ngày tĩnh tâm, tôi đã tự

tội nghiệp cho chính mình. Vợ

chồng tôi đã bƣớc vào cuộc

sống hôn nhân vơí một hành

trang qúa ít ỏi, nghèo nàn. Sau

hơn hai mƣơi năm song hành,

túi hành trang ít ỏi đó đã vơi đi

rồi trở nên trống rỗng. Nhƣng

may mắn làm sao! Chúng tôi đi

dự khóa linh thao này, đƣợc

linh mục Nguyễn Trọng Tƣớc

hƣớng dẫn, qua những bài huấn

đức và những hướng dẫn cầu

nguyện qua Kinh Thánh, đã cho

vợ chồng chúng tôi biết nhìn lại

mình để thấy cuộc sống hôn

nhân của mình còn

biết bao thiếu sót vì

thiếu Hồng Ân của

Chúa. Bây giờ hành

trang của chúng tôi

được đổ đầy với

tràn Ân Sủng của

Thiên Chúa.

Lễ cƣới hơn hai

mƣơi năm trƣớc, chúng tôi dã

„Dạ“ nhưng không phải chúng

tôi „Dạ“. Lần này chúng tôi đã

có một lễ cƣới không áo đẹp,

không tiệc tùng linh đình,

không qùa tặng… nhƣng lần

này chúng tôi đã có một lễ cƣới

thật sự của hai tâm hồn tìm

nhau, hai tâm hồn nên một với

nhau. Tối qua tôi đã hạnh phúc

nói vơi chồng tôi „chúng mình

đang trong tuần trăng mật“

Tâm hồn tôi nhƣ một thửa

ruộng đầy cỏ dại và gai góc …

Sau ba ngày linh thao tâm hồn

tôi thật nhẹ nhàng, cỏ dại và gai

góc đã đƣợc nhổ sạch… và

những hạt giống tốt đã đƣợc

gieo vào. Chúng sẽ nẩy mầm,

phát triển và đâm hoa kết trái,

hay rồi sẽ bị làn gió lạ mang

theo những hạt cỏ mây vào, để

rồi những hạt giống kia lại

nghẹt thở và chết đi khi chƣa

kịp nẩy mầm, bởi vì con ngƣời

tôi qúa yếu đuối.

Nhƣng tôi mong rằng những hạt

giống tốt sẽ nẩy mầm, bởi vì tôi

đã cảm nhận được đôi mắt

Chúa đầy yêu thƣơng nhƣ bài

hát „Chúa nhìn con yêu thƣơng,

âu yếm kêu mời… Ngài luôn

bên con đôi mắt nhân từ dõi

theo đời con…“

Một tham dự viên.

Linh Thao Trang 19

Page 20: LT2007

ình yêu hôn nhân là tình yêu trọn vẹn

của con ngƣời. Tình yêu hôn nhân có

mục đích nuôi dƣỡng và gia tăng tình yêu

qua những vui buồn trong đời sống hằng ngày

để vợ chồng tâm đồng ý hiệp và cùng nhau đạt

tới sự trọn vẹn của con ngƣời mình……… Con

cái là ân huệ qúy giá nhất của hôn nhân và góp

phần lớn lao vào hạnh phúc của cha mẹ“

(Hiến chế mục vụ số 50)

***

Đức Hồng y Franxisco Xavier Nguyễn Văn

Thuận đã nói: ”Nghề làm cha làm mẹ, làm vợ

chồng là nghề khó nhât mà không đƣợc học”

Trong đời sống vợ chồng, ngƣời vợ và ngƣời

chồng phải học biết những nhu cầu của nhau để

cân bằng sự sống hài hòa trong gia đình:

*BẢN CHẤT CỦA ĐÀN BÀ:

- Luôn quan tâm đến mọi việc

- Hay lo lắng thái qúa nên làm phiền các ông

chồng

- Hay nói nhiều, nói không đúng lúc, không

đúng thời

- Đàn bà luôn luôn cần có ngƣời hiểu tôi

- Cần có ngƣời thông cảm với tôi

- Cần có ngƣời để tôi tâm sự

*BẢN CHẤT CỦA ĐÀN ÔNG:

- Khả năng lãnh đạo

-Luôn luôn giải quyết vấn đề theo thứ tự ƣu tiên

(td: khi chƣa cƣới, ƣu tiên là o bế nàng. Khi

cƣới rồi, ƣu tiên là làm việc kiếm tiền để lo

cuộc sống gia đình)

-Đàn ông cần thinh lặng nên họ cần có khỏang

trống cho riêng mình

*VẤN ĐỀ CHĂN GỐI:

Ngƣời đàn bà chỉ có thể sinh lý khi họ cảm thấy

được yêu thương; ngòai ra chỉ là sự cưỡng bức.

Đàn ông thì chỉ cần giải quyết sinh lý. Vì thế 10

hay 20 năm sau đó sinh lý vợ chồng không bao

giờ còn đẹp nhƣ giai đoạn đầu.

*GIÁO DỤC CON CÁI

“Đừng nhốt cứng con cái bạn trong cái khung

hiểu biết của bạn, vì chúng đã đƣọc sinh ra

trong một thời đại khác” (Lời của một Rabbi)

*Một trong những lỗi lầm lớn nhất của cha mẹ

là phƣơng pháp giáo dục con không đồng nhất.

- Hãy cẩn thận lời nói với nhau và với con cái

- Không nên cãi nhau trƣớc mặt con cái (nhƣ

thế là gieo vết thƣơng vào tâm hồn trong trắng

của con cái)

- Nên giải thích nhẹ nhàng với con cái về mọi

việc, mọi hòan cảnh , mọi tình huống.

Khi vợ chồng bất đồng ý kiến hay giận nhau,

không nên chiều con để kéo nó về phía mình

(nhƣ thế là gieo cỏ lùng vào tâm hồn trong trắng

của chúng)

Trẻ ở khoảng 5 tuổi: nên giáo dục cho con biết

sự tự do và sống trong tự do.

Trẻ ở khỏang 10 tuổi: tập cho con biết cảm

Trang 20 Linh Thao

(Tặng các cặp vợ chồng trẻ. Riêng tặng các con yêu qúy: trai, gái, dâu rể).

Page 21: LT2007

nghiệm về đức tin (có thể hƣớng dẫn cho em

làm hƣớng dẫn buổi cầu nguyện hay tập làm

phút hồi tâm trƣớc khi đi ngủ)

Trẻ ở khoảng 15 tuổi: Tập cho các em biết chia

sẻ bằng những việc tong đồ nhẹ nhàng (td: một

bà mẹ muốn hƣớng dẫn con giúp những trẻ em

đói nghèo ở Phi Châu. Bà mua một tờ báo có

đăng tin này và đem về nhờ con đọc giùm. Rồi

bà gợi ý cho con về lòng thƣơng xót kẻ thiếu

thốn so với cuộc sống qúa đầy đủ cuả cậu bé,

và bà gợi ý cho con trai ngày mai rút một chút

tiền tiết kiệm và tự tay cậu gởi giúp các em bé

nghèo đó)

*Hằng ngày theo dõi con cái xem nhu cầu trẻ

nhƣ thế nào bằng cách quan sát những lúc trẻ

chơi một mình hay chơi chung với các trẻ khác

để hướng dẫn các em cầu nguyện và dẫn vào

sự giáo dục cho hữu hiệu.

“Con trẻ yêu những điều khờ dại. Roi vọt giúp

chúng bỏ tật xấu ấy” (Cách ngôn22,15)

Hãy tặng cho chúng vài roi khi “cần thiết”.

Song hãy đánh vừa đủ cho nó “”khóc” và hối

tiếc” hành động khờ dại của nó.

Đừng đánh con “cho hả cơn giận” Đừng làm

cho chúng bị thƣơng tích

Nghĩa là đừng đánh con trên đầu hay những bộ

phận nguy hiểm trên cơ thể.

Kết: Đời sống vợ chồng luôn luôn PHẢI

SONG SONG với nhau nhƣ hai đƣờng rầy xe

lửa.

(Ghi theo lời giảng của LM. Nguyễn Trọng

Tƣớc)

đôi dép

Bài thơ đầu anh viết tặng em

Là bài thơ anh kể về đôi dép

Khi nổi nhớ ở trong lòng da diết

Những vật tầm thƣờng cũng viết thành thơ

Hai chiếc dép kia gặp nhau tự bao giờ

Có yêu nhau đâu mà chẳng rời nữa bƣớc

Cùng gánh vác những nẻo đƣờng

xuôi ngược

Lên thảm nhung xuống cát bụi cùng nhau

Cùng bƣớc, cùng mòn, không kẻ thấp

ngƣời cao

Cùng chia xẻ sức ngƣời đời chà đạp

Dẫu vinh nhục không đi cùng ngƣời khác

Số phận chiếc này phụ thuộc chiếc kia

Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi

Mọi thay thế đều trở nên khập khiểng

Giống nhau lắm nhƣng ngƣời đời sẽ biết

Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu

Cũng nhƣ mình trong những lúc vắng nhau

Bƣớc hụt hẫng cứ nghiêng về một phía

Dẫu bên cạnh đã có ngƣời thay thế

Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh

Đôi dép vô tri khắng khít song hành

Chẳng thề nguyền mà không hề giả dối

Chẳng hứa hẹn mà không hề phản bội

Lối đi nào cũng có mặt cả đôi

Không thể thiếu nhau trên bƣớc đƣờng đời

Dẫu mỗi chiếc ở một bên phải trái

Nhƣng tôi yêu em bởi những điều ngƣợc lại

Gắn bó đời nhau bằng một lối đi chung

Hai mảnh đời thầm lặng bƣớc song song

Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc

Chỉ còn một là không còn gì hết

Nếu không tìm đƣợc chiếc thứ hai kia .

Thơ Nguyễn Trung Kiên

Linh Thao Trang 21

Page 22: LT2007

Hôm nay ngày kỷ niệm

Sinh nhật cha bẩy mƣơi

Chúng con ba nhóm nhỏ

Anh, Đức; Vƣơng Quốc Bỉ

Ở xứ lạnh Âu Châu

Xin có một món qùa

Tặng cha làm kỷ niệm

Vào ngày chín tháng ba

Năm một chín ba bẩy

(9.3.1937)

Ở thành phố Navarre

Thuộc xứ Tây Bán Nhà

Một bé đƣợc sinh ra

Tên là Julian

Trong căn nhà trên núi

Có bảy anh chị em

Trong gia đình hạnh phúc

Với cha phƣớc mẹ hiền

Năm một chín bốn bẩy (1947)

Julian lên mƣời

Mẹ cho vào chủng viện

Julian không muốn

Nên lòng bé chẳng vui

Có một ngáy đẹp trời

Julian trúng gió

Rồi tìm cách trốn đi

Ví bé chẳng muốn tu

Nhƣng rồi trốn không đƣợc

Vì mƣu sự tại Julian

Mà thành sự tại Thiên

Nên Julian ở lại

Đành ca bài “Xin Vâng”

Sống cuộc sống tu trì

Và bình yên từ đó.

Năm một chín năm sáu (1956)

Vào nhà tập Dòng Tên

Thuộc Tỉnh Dòng Lyon

Thầy nhận đƣợc bài sai

Về Việt Nam phục vụ

Năm một chín sáu một (1961)

Thầy học tiếng Việt Nam

Thật nhanh và thật giỏi

Thơ và nhạc Việt Nam

Đã biến thầy Julian

Thành một ngƣời Việt Nam

Dƣới tên Phạm Công Thành

Năm một chín sáu ba (1963)

được qua Philippin

Học thần học Baguio

Ngày 29 tháng tƣ

Năm một chín sáu sáu (1966)

Thầy nhậm chức linh mục

Tại nhà thờ Đức Bà

Thành Sàigòn hoa lệ

Nhận bài sai ra Huế

Chăn đoàn chiên sóc nhỏ

Trƣờng Trung Học Tiến Đức

Vừa mới đƣợc hai năm

Thì Tết Mậu Thân đến

Việt Cộng chiếm Huế Đô

Bắt giữ cha một tuần

Hai bên còn bắn nhau

Tiếng súng nổ vang trời

Tƣởng cha đã đi đời

được về chầu Thiên Chúa

Nhƣng rồi Việt Cộng thua

Cha lại về Sàigòn

Rồi đi Tây Ban Nha

Vào nhà tập ba năm

Để học thêm tâm lý

Tháng 10 năm bẩy mƣơi

(1970)

Chúa lại sai cha về

Sàigòn quê hƣơng mới

Làm giám đốc thƣ viện

tại trung tâm « Đắc Lộ »

dạy học thêm « Minh Đức »

Rồi sinh hoạt thanh niên

Trang 22 Linh Thao

Page 23: LT2007

Linh Thao Trang 23

Tổ chức giảng linh thao

Chính ở tại nơi này

sáu nhóm nhỏ linh thao

Thành hình trong năm đầu

Thật là tuyệt cú mèo

Chúng ta cùng với cha

Tạ Ơn Chúa Thánh Thần

Ngày 31 tháng bẩy

Năm một chín bẩy hai (1972)

Lễ Thánh Ynhaxo

Cha làm lễ khấn trọng

Trong dịp Bề Trên Cả

Pedro Arrupe

Ghé thăm bến Sàigòn

Năm một chín bẩy năm (1975)

Việt Cộng tràn thành phố

Cấm sinh hoạt thanh niên

Cấm tĩnh tâm giảng phòng

Tiếp thu nhà Đắc Lộ

Chúa Thánh Thần soi sáng

Cha tổ chức tĩnh tâm

Cấm phòng chui với Chúa

Ở nhà Dòng Saint Paul

Anh chị em thanh niên

Ở khắp nẻo Saigon

Từng ngƣời từng ngƣời một

Đạp xe đạp thảnh thơi

Đi đến nhà cấm phòng

tĩnh tâm thật sốt sắng

Qua mặt các công an

Mà mắt cả chính quyền

một cách thật điệu nghệ

Vào một ngày tháng bẩy

Năm một chín bẩy sáu (1976)

Được mời khỏi Việt nam

Cha bay đến Vớ Đen

Ý quên đến Denver

Nhận bài sai « cha xứ »

Cũng chính ở nơi đây

Những sinh viên Đắc Lộ

Đã đến tìm gặp cha

Tâm sự và cầu nguyện

Chúa Thánh Thần thƣơng qúa

Khoá linh thao đầu tiên

Ở Hoa Kỳ ra đời

(Mở đầu cho phong trào

Đồng Hành CLC

Mà cho đến ngày nay

Là vùng thứ mƣời một

CLC thế giới)

Nhƣng mà lúc bấy giờ

lòng cha luôn ao ƣớc

Muốn phục vụ đàn chiên

Tị nạn đang bơ vơ

Đói khổ ở bên Phi

Cha tìm ngƣời thay thế

Thế là vào tháng chín

Năm một chín bẩy tám (1978)

Cha về Manila

Dạy học trƣờng Xavier

Nhƣng cha hay “trốn trƣờng”

đến thăm trại tị nạn

để tổ chưc cấm phòng

an ủi bao linh hồn

Xoa dịu những vết thƣơng

Cho thuyền nhân Việt Nam

Năm một chín tám một (1981)

Cha lại về Hoa Kỳ

Làm tuyên úy linh thao

Đi khắp vùng Bắc Mỹ

Canada – Hawai

Và cả Japan nữa

Mỗi năm cha đã đi

khoảng hơn ba ngàn dậm

O! La lá là la

Page 24: LT2007

Trang 24 Linh Thao

Năm một chín chín một (1991)

Bài sai về Roma

Cha nhận làm Tuyên Úy

CLC thế giới

Thời gian này cha đi

Khắp năm châu bốn bể

Bất cứ nơi nào cần

Là có bƣớc chân cha

Riêng chỉ cuối tuần này

Cha nghe tiếng mời gọi

của nhóm nhỏ Âu Châu

Bỉ, Anh, và Đức Quốc

Khóa “Thao luyện nhẹ nhàng”

Để đời sống đức tin

Chúng con trong đời thƣờng

Nhẹ nhàng nhƣ ý Chúa.

Ginsheim 13.01.2007

Elisabeth

Page 25: LT2007

Trích Phát Thanh ASTM

Phỏng vấn LM Julian Elizaldé

Thành, SJ ngày 5 tháng 9,

2004

ASTM: Con xin chào cha đại

diện cho qúy thính giả của

chƣơng trình phát thanh Ánh

Sáng Tin Mừng. Con đƣợc biết

cha là một trong những ngƣời

giúp khởi xƣớng Phong Trào

Đồng Hành. Xin cha cho

chúng con một vài lời giải

thích và tâm tình của cha về

Phong Trào. Trƣớc hết xin cho

chúng con biết mối liên hệ của

cha với ngƣời Việt Nam bắt

đầu từ hồi nào?

Cha Thành: Cám ơn anh. Cha

được hân hạnh vào dòng Tên

năm 1956, các bề trên gởi cha

về Việt Nam vào năm 1961 lúc

đó ông Diệm còn làm Tổng

Thống. Sau khi học tiếng Việt

rồi học thần học năm 1966 cha

được chịu chức linh mục ở Sai-

gon. Mãi đến khi cả hai miền

Nam và Bắc thống nhất thì cha

ở Việt Nam. Năm 1976 tất cả

các cha ngoại quốc bị trục

xuất kể cả cha nữa. Lúc đó cha

tƣởng là không đƣợc làm việc

với ngƣời Việt Nam nữa,

nhƣng mà lại đƣợc hân hạnh

bề trên gởi về Hoa Kỳ làm việc

phục vụ các cộng đoàn Việt

Nam nói chung. Năm 1981 cha

sang Mỹ đi vòng vòng giảng

cấm phòng. Các khóa cấm

phòng thƣờng thƣờng là cơ hội

để một số anh chị em lập nhóm

và ngay từ đầu khi cha cầu

nguyện và hỏi những ngƣời

nồng cốt những ý kiến đầu tiên

khi cha đi hƣớng dẫn Linh

thao (là anh Cƣờng, chị Tuyết,

anh Đạt, anh Hồ, ...) thì chúng

tôi đã liên lạc với Christian

Life Community ở Hoa Kỳ để

xin họ huấn luyện những nhóm

của chúng ta, tức là ngay từ

năm 1981 chúng tôi đã liên lạc

với CLC Hoa Kỳ rồi.

ASTM: Thƣa cha, mới đây

con có nghe nói phong trào

Christian Life Community có

một Đại Hội ở Miami. Đại Hội

có ý nghĩa gì đặc biệt và

Phong Trào Đồng Hành Việt

Nam có liên hệ gì trong dịp

này?

Cha Thành: Ngày 27 tháng 7,

2004 vừa qua CLC Hoa Kỳ

chính thức chấp nhận Phong

Trào Đồng Hành của chúng ta

ở Hoa Kỳ và Canada trở thành

vùng thứ 11 của CLC quốc gia

Hoa Kỳ. Đó là do ý kiến của

CLC toàn cầu mời chúng ta

liên lạc với CLC Hoa Kỳ để họ

nhận mình là thành viên của

CLC quốc gia. Nhƣ vậy chúng

ta chính thức nối liền với CLC

trong toàn cầu. Đó là biến cố

rất lớn vì dù chúng ta chia xẻ

tinh thần của CLC nhƣng chƣa

chính thức tham gia. Chúng ta

kể nhƣ ở trong Giáo Hội

nhƣng chƣa chính thức thuộc

về một hội đoàn của Giáo Hội.

Và các anh chị cũng nên biết

là CLC có vai trò đặc biệt

trong Giáo Hội bởi vì đã hoạt

động với giáo dân kể từ thời

thánh Inhaxio từ năm 1560.

Năm 1584 đã đƣợc Giáo hội

chuẩn thuận là Hiệp Hội

Thánh Mẫu. CLC nối tiếp Hiệp

Hội Thánh Mẫu và là một hội

đoàn tín hữu quốc tế thuộc

quyền Tòa Thánh. Đặc biệt khi

tôi ở LaMã phục vụ với tƣ cách

Tuyên Úy Phong Trào, tôi hỏi

bên Văn Phòng Tòa Thánh lo

về giáo dân xem có bao nhiêu

hội đoàn có tƣ cách quốc tế

thuộc về quyền Tòa Thánh thì

ông Tổng Thƣ Ký nói chỉ có

hai thôi: CLC và Cộng đoàn

Sant’Egidio. Tức là Đức Giáo

Hoàng giới thiệu với cả Giáo

Hội rằng hội đoàn này là hội

đoàn đáng tin cậy -- có gốc rễ

rất lâu năm trong Giáo Hội

cho nên có phần nào đáng tin

cậy rằng đƣờng hƣớng của

CLC thực sự phục vụ Chúa

trong Giáo Hội của chúng ta.

ASTM: Thƣa cha, Phong Trào

CLC có mặt hầu hết trên các

quốc gia trên thế giới, còn ở

Việt Nam thì sao?

Cha Thành: Bây giờ thành

viên của CLC Quốc tế gồm

trên dƣới 60 quốc gia. Mỗi

năm có thêm vào một hoặc hai

quốc gia. Còn Việt Nam có

nhiều ngƣời Công Giáo rất sốt

sắng nhƣng bên đó không có

cơ cấu tổ chức. Tình trạng ở

Linh Thao Trang 25

Page 26: LT2007

Trang 26 Linh Thao

bên nhà vẫn tế nhị cho nên các

cha phục vụ từng ngƣời một

chứ không có cơ cấu tổ chức,

chỉ có ngƣời Việt Nam ở hải

ngoại mới thuộc về CLC Quốc

tế thôi.

ASTM: Tức là cũng có linh

thao theo linh đạo Inhã, cũng

có cầu nguyện nhƣng không có

hình thức?

Cha Thành: Rất mạnh, các

cha ở Việt Nam hƣớng dẫn

Linh Thao rất nhiều với giới tu

sĩ cũng nhƣ với giáo dân. Có

thể nói việc làm chính của

dòng Tên ở Việt Nam là hƣớng

dẫn cấm phòng.

ASTM: Nhƣ thế có nghiã là

ngƣời Việt ở Hoa Kỳ, Canada

và một số nƣớc Âu Châu trong

Phong Trào Đồng Hành là

thuộc về vùng thứ 11 của CLC

Hoa Kỳ phải không ạ ?

Cha Thành: Đúng rồi.

ASTM: Xin cha cho biết cách

tổ chức của Phong Trào, hình

dáng ra sao?

Cha Thành: Khi CLC Hoa Kỳ

chấp thuận Đồng Hành nhƣ

vùng 11 của cộng đoàn CLC

quốc gia, họ vẫn tôn trọng cơ

cấu tổ chức của Đồng Hành.

Chúng tôi có ban Điều hành

gồm có những ngƣời Trƣởng

Vùng. Ban Điều Hành tổ chức

những sinh hoạt của Phong

Trào cũng nhƣ phụ trách tờ

báo, những khóa Huấn Luyện,

những khóa Họp Mặt Vùng. Có

thể nói đây là ban trẻ nhất bởi

vì cứ 4 năm đƣợc bầu lại và có

sự thay đổi từ năm này qua

năm khác. Nhƣ vậy Phong

Trào vẫn trẻ trung và những

ngƣời điều hành Phong Trào

là những máu mới. Song song

với cơ cấu điều hành thì có

những ngƣời dấn thân trong

những khóa Huấn Luyện địa

phƣơng cũng nhƣ cho cả

Phong Trào và có những ngƣời

làm linh hƣớng, hoặc nói một

cách khiêm nhƣờng hơn là làm

bạn đƣờng cầu nguyện. Những

ngƣời trong ban Huấn Luyện

đương nhiên không phải do

được bầu lên mà do ơn sủng

Chúa cho. Những kinh nghiệm

huấn luyện thì không phân biệt

tuổi già hay trẻ, Ông Nội thì

cũng đóng góp vào việc huấn

luyện. Mỗi năm vào mùa hè tôi

về Hoa Kỳ giúp một chút. Nhƣ

vậy sự liên tục của Phong Trào

một phần lớn là do Ban Huấn

Luyện và hƣớng dẫn trong khi

điều hành thì mang máu mới

cho tổ chức. Ngoài ra còn có

các cha Tuyên Úy. Có một

Tuyên Úy của tổng Phong

Trào do bề trên dòng Tên bổ

nhiệm và sau đó có vài cha

cũng trực tiếp ở trong phong

trào. Có những cha không chỉ

dòng Tên mà là thuộc về dòng

khác và các cha thuộc về địa

phận giúp những khóa Linh

Thao và có sự đóng góp của

các thầy nữa, cũng rất qúi.

ASTM: Theo cha nhận xét thì

Phong Trào đem đến những

hoa trái nào cho anh em trong

Phong Trào?

Cha Thành: Đây là niềm vui

lớn. Từ năm này qua năm khác

tôi trở về với Phong Trào thấy

hoa trái của Phong Trào ngày

càng chín chắn, ngày càng

ngon. Có khi cha có cảm tƣởng

nhƣ ở trong tiệc cƣới Cana, tôi

chỉ múc nƣớc thôi rồi từ từ khi

đem ra uống thấy biến thành

rƣợu rất ngon. Chỉ biết ca tụng

Chúa thôi. Tôi tƣởng là những

cố gắng của chúng ta Chúa

đang ban phúc lành chẳng hạn

nhƣ chƣơng trình Thao Luyện

Nhẹ Nhàng - có dịp nào đó xin

các anh cắt nghiã trong đài

phát thanh - Thao Luyện Nhẹ

Nhàng đang giúp rất nhiều

Nhóm cầu nguyện trong đời

sống hằng ngày và đào sâu

tình thân mật ở trong Nhóm.

Cũng có chƣơng trình từ 3

năm nay huấn luyện những

ngƣời hƣớng dẫn về linh

hƣớng mà Đại Học Seattle ủng

hộ và có nhiều hy vọng. Các

địa phương có những người có

khả năng hƣớng dẫn ngƣời ta

đến gặp Chúa đáp lại tiếng kêu

của Chúa hữu hiệu hơn. Tôi

thấy Họp Mặt Vùng ngày càng

có mục đích rõ ràng và đang

giúp nhiều giới trẻ cũng nhƣ

giới lớn tuổi. Họp Mặt Vùng

Đông Bắc cũng như Trung Tây

và sắp sửa có họp mặt Can-

ada. Đây là sinh hoạt đang

sinh hoa trái. Nói chung các

Nhóm còn sống dù đôi khi các

Nhóm có cảm tƣởng là mình

không giống ai mình yếu ớt

thôi nhƣng mà Nhóm sống là

qúy lắm rồi và giúp đỡ nhau

rất nhiều. Cũng không quên

được những ơn gọi Phong

Trào đã cung cấp cho Giáo

Hội, những ơn gọi nam nữ

không chỉ ở trong dòng Tên

nhƣng trong những dòng khác

cũng có nhiều ơn gọi phục vụ

với tƣ cách là tận hiến ở trong

Giáo Hội.

ASTM: Vậy theo cha nghĩ

Phong Trào hiện đang giúp ở

khiá cạnh nào nhiều nhất?

Cha Thành: May ra, đây là

một ƣớc ao, một phần nào

cũng là thực tế - trong Phong

Trào anh chị em nếu trung

thành trong sinh hoạt Nhóm và

đi Linh Thao hàng năm, từ từ

Page 27: LT2007

tìm ra ơn kêu gọi Chúa dành

cho mình, tìm vocation trong

Giáo Hội. Ơn kêu gọi lúc ban

đầu là một cái gì xa vời nhưng

từ từ biến thành tình thân mật

với chính Đức Giêsu, và muốn

chia xẻ sứ mệnh của Chúa

Giêsu. Đồng thời giữa Ngài

với mình có một tình bạn rất

là thắm thía làm cả cuộc sống

của mình có một không khí

mới, một ý nghiã mới, niềm

vui mới vì mình là bạn của

Con Thiên Chúa mà! Cho nên

khi đã tìm ơn kêu gọi trong đời

sống gia đình, độc thân cũng

nhƣ đời sống tận hiến đi tu thì

thấy cuộc sống của chúng ta

có một ý nghiã sâu xa hơn,

một tình yêu sâu xa hơn. Ơn

kêu gọi đi đôi với sứ mệnh, khi

chúng ta nghe Chúa kêu mời

thì thƣờng thƣờng chúng ta

cũng thấy ý nghiã của cuộc

sống của mình là mình đang

cộng tác với Ngài trong sứ

mệnh của Ngài là mang Nƣớc

của Cha trong thế giới ngày

nay. Đây là đóng góp qúy nhất

của Phong Trào cho những

ngƣời trung thành sinh hoạt

Nhóm, đi cấm phòng đều đều

hàng năm. Nói một cách khác

ngày xƣa trong Phong Trào

nói về kiềng ba chân, chắc

chắn đó là một nhận xét sâu,

Phong Trào giúp những ngƣời

tham gia đều đều có một đời

sống cầu nguyện hàng ngày và

một mối liên hệ mật thiết với

Chúa nhờ đời sống thân mật

với Ngài, cùng giúp chia xẻ

với anh chị em những vui buồn

trong cuộc sống qua những

buổi họp Nhóm để anh chị em

nâng đỡ nhau và không bỏ

cuộc. Tôi nhớ ở Rôma, một lần

tôi gặp một Đức Giám Mục

chuẩn bị tham gia buổi họp

của các Giám Mục có chia xẻ

với tôi rằng: “Chúa Thánh

Thần hoạt động hữu hiệu qua

các nhóm.” Ngài muốn nói là

chƣa chắc Chúa Thánh Thần

thành công nhiều qua cá nhân

một ngƣời. Nhƣng khi anh em

nhân danh Chúa họp lại trong

Nhóm, Chúa Thánh Thần hoạt

động một cách đặc biệt. Rút

cuộc, CLC giúp anh em trung

thành với sứ mệnh của mình

và không nản lòng, không bỏ

cuộc dù gặp nhiều khó khăn,

đôi khi gặp thất bại cũng vẫn

tiếp tục phục vụ. Cái điều đó

rất qúy.

ASTM: Cha đã nhiều năm

sinh hoạt với Phong trào, xin

cha cho vài nhận xét về những

trở ngại những khó khăn và

những điều gì cha thấy Phong

trào vẫn còn cần phải cải

tiến?

Cha Thành: Có thể chia xẻ

một hai nỗi buồn mà ai phục

vụ Chúa không thể tránh

được. Đó là gặp những người

rất có khả năng, rất có tài của

Chúa ban vậy mà có vẻ không

có ƣớc muốn mãnh liệt, chỉ an

phận với nếp sống không rộng

rãi cho lắm, chỉ muốn Nhóm

thôi, khi nào mƣa hơi nhiều,

trời hơi lạnh là cũng trốn phi-

ên họp luôn, hoặc là có

chƣơng trình TV hấp dẫn thì

thôi để đi lần sau. Những

ngƣời không có ƣớc muốn

mạnh thì cũng làm cho cha có

khi hơi buồn, sao không sống

một đời sống say mê hơn,

hăng hái hơn. Cha có những

ngƣời bạn qúy nhƣng khi đi

vòng vòng thì không thấy mặt

mũi họ nữa, từ từ họ rút lui.

Những ngƣời vẫn phục vụ đều

đều từ năm này qua năm khác,

không bỏ cuộc là một niềm vui

lớn lao của cha.

ASTM: Ngoài ra cha có mong

ƣớc gì về Phong trào không?

Cha Thành: Việt Nam có câu:

“Con hơn cha là nhà có

phƣớc”, tôi hy vọng các con

khá hơn cha nhiều, rồi thƣơng

Chúa một cách tha thiết hơn

và cũng đặc biệt làm sao mà

anh chị em cởi mở với các văn

hóa, làm sao không chỉ hoạt

động trong môi trường của

cộng đoàn Việt Nam, nhân dịp

đã vào CLC Mỹ, mà cởi mở

cộng tác với những cộng đoàn

khác nhƣ cộng đoàn Đại Hàn,

cộng đoàn Mễ, có rất nhiều tài

năng trong đó. Làm sao chúng

ta biết làm việc với họ và mở

đường cho con cháu mình

cũng tìm những môi trƣờng

phong phú mà trong đó mang

tin mừng của Chúa.

ASTM: Con có một câu hỏi

chót, cha qua Việt Nam lúc

cha còn là thầy và đã chịu

chức ở Việt Nam, năm nay cha

ở với ngƣời Việt Nam đƣợc

bao nhiêu năm rồi? Đi nhiều

nơi, cha có cảm tƣởng gì khi

các em gọi cha là Ông Nội?

Cha Thành: Hơn 43 năm cha

ở với ngƣời Việt Nam. Cha

cũng mừng vì Chúa ban cho

mình có con có cái thì đó là

niềm vui lớn thấy Chúa đã

dùng mình để chuyển cho họ

một chút niềm vui, một chút

niềm tin, một chút tình yêu.

Cha cũng không mong gì hơn.

ASTM: Con xin đại diện cho

các thính giả của chƣơng trình

Ánh Sáng Tin Mừng cảm ơn

cha và xin Chúa chúc lành,

ban cho cha nhiều hồng ân và

sức khỏe.

Cha Thành: Cám ơn anh. Xin

chuyển tất cả tình thƣơng và

những lời nguyện đến tất cả

các thính giả.

(Hương Lì ghi) ĐH số2/2004

Linh Thao Trang 27

Page 28: LT2007

hông nhƣ anh chị em

khác trong Phong

Trào Đồng Hành đã đƣợc hân

hạnh quen biết cha Julian Eli-

zalde Phạm Công Thành từ

thập niên 60, 70 ở VN; đƣợc

hƣởng biết bao yêu thƣơng của

một nhà truyền giáo nhiệt tình,

được học hỏi bao nhiêu kinh

nghiệm sống đức tin từ ngài.

Cho mãi đến năm 1995

tôi mới đƣợc quen biết cha. Hồi

đó chúng tôi mới tập tễnh đến

với linh thao và tự tổ chức mỗi

năm một khóa 3 ngày cho mình

và anh chị em khác cùng

hƣởng, cùng nếm chất ngọt

ngào tuyệt vời của phƣơng

pháp linh thao này. Đầu tiên,

năm 1992 đƣợc cha Nguyễn

Thế Minh SJ ở Paris nhận lời

giảng khóa đầu tiên tại Đức

Quốc; Chúng tôi mới dần hiểu

rõ phƣơng pháp thao luyện linh

hồn này của Thánh Inhaxo thật

hữu ích cho giáo dân trong đời

sống đức tin với Chúa Giêsu.

Vì thế năm nào chúng tôi cũng

mời cha giúp cho một khóa.

Cha rất sẵn sàng và ngài đã nói

với chúng tôi: dù khóa chỉ có 5,

7 người cha vẫn giảng . Đây

cũng chính là ao ƣớc của cha:

muốn đƣa linh thao phát triển

tại Đức Quốc mà mãi đến nay

Chúa mới cho cơ hội.

Năm 1995 cha Nguyễn

Thế Minh nhận lời giảng nhiều

khóa 5 ngày và 7 ngày tại USA

nên ngài không còn thì giờ

dành cho chúng tôi, ngài đã

giới thiệu cho chúng tôi cha

Elirzalde Thành đang ở Roma.

Lần đầu tiên đƣợc thƣa chuyện

với cha trong điện thoại, cha đã

nói với chúng tôi những lời lẽ

thật khiêm nhƣờng và đầy yêu

thƣơng: „Cha rất mừng có diễm

phúc đƣợc chị mời qua Đức

hƣớng dẫn các bạn đến gặp

Chúa. Sở dĩ cha nói và giảng

tiếng Việt vì với tƣ cách linh

mục thì cha là linh mục Việt

Nam. Vì thế cha cám ơn con và

cha nghĩ đây là một diễm phúc

mà Chúa muốn cha nhận lời“.

Thế là từ đó đến nay cha

vẫn gắn bó với chúng tôi trong

các khóa linh thao; nhờ ơn

Chúa Thánh Thần, có những

năm cha sang Đức giảng 3, 4

khóa ở Stuttgart, Ở Ahrweiler,

ở Neuenkirchen, ở Nieder-

viehbach… Cũng có năm

chúng tôi có khóa huấn luyện

nhóm tại Muenchen. Phƣơng

pháp linh thao nhờ thế đã nở rộ

khắp cả Đức Quốc. Tạ ơn

Chúa.

Năm 2006, nhân dịp cha giảng

khóa linh thao tại Đức vào cuối

tháng 3 đầu tháng 4/2006,

chúng tôi, những tham dự viên

đã cùng nhau mừng kỷ niệm 40

năm linh mục của cha. Dịp này,

nhóm Tin Yêu ở Vƣơng Quốc

Bỉ mời cha đi nghỉ một tuần tại

Thụy Sĩ. Hồi đầu năm 2006,

chúng tôi cũng nhận đƣợc lịch

„Mừng 50 năm trong Dòng

Tên“ của cha do gia đình Đồng

Hành USA thực hiện để Tạ Ơn

Chúa đã ban „Ngƣời Truyền

Giáo Từ Xứ Tây Ban Nha“ cho

giáo dân Việt Nam – Cách ri-

êng, cho phong trào Đồng Hành

CLC Việt Nam tại Hải Ngoại.

Gia đình Đồng Hành ở Haỉ

Ngoại âu yếm gọi cha là „Ông

Nội, Ông Ngoại“. Mỗi buổi

sáng khi trời vừa rạng sáng, vạn

vật còn lấp lánh sƣơng mai, bất

kể trời mƣa hay nắng, khô ráo

hay tuyết rơi „Ông Nội“ đều

chạy bộ cả tiếng đồng hồ và

Trang 28 Linh Thao

Yêu thương về „Ông Nội“ „Ông Ngoại“

Page 29: LT2007

uống cả lít nƣớc lã, sau đó

tắm gội rồi mới ăn sáng.

Cha rất yêu thích món ăn

Việt Nam, nhất là phở và

chả giò. Có lần sau 3 ngày

tĩnh tâm trở về; có ngƣời

mời cha về nhà ăn phở và

chúng tôi đƣợc ăn theo. Cha

rất thích thú, khen luôn

miệng và nói: về nhà đƣợc

ăn cơm Việt nam thích qúa.

Trong bữa ăn nào cha cũng

uống một chút rƣợu đỏ để

đưa cay cho những trái ớt

hiểm „ngọt ngào“. Nhờ thế

mà chƣa lần nào cha bị bịnh

gì cả.

Bây giờ, mái tóc cha

đã bạc, khuôn mặt cha đã in

đậm nét thời gian, cha cũng

đã cần đến máy trợ thính

nhƣng nụ cƣời của cha luôn

tƣơi nở thật đẹp, thật ngời

sáng yêu thƣơng dành cho

mọi ngƣời, mọi dân tộc.

Cha vẫn bay khắp năm châu

không mỏi mệt. Cha đƣợc

Thiên Chúa ban cho khả

năng biết nhiều ngôn ngữ,

và để giảng thuyết, cha xử

dụng đƣợc 8 thứ tiếng.

Ngày 3.12.2006 ở

thành phố Saigon, tôi cùng

cô em dâu và em gái đến dự

„Đại Hội Giới Trẻ“ tại

Trung Tâm Mục Vụ Tổng

Giáo Phận Saigon. Trong

khoảng 3, 4 ngàn ngƣời, tóc

đen da vàng mũi tẹt, tôi

nhìn thấy cha, một ông tây

cao lớn bƣớc đi giữa rừng

ngƣời trẻ, dáng ngƣời cha

cao cao, nét mặt thanh tú

vui tƣơi, mái tóc bạc trắng

nổi bật giữa đòan ngƣời tóc

đen. Nhìn cha như một một

cây cổ thụ sừng sững giữa

đám cỏ non xanh. Một hình

ảnh đẹp tuyệt vời, tim tôi

nhói lên một niềm hạnh

phúc , cảm thấy thƣơng và

kính phục cha vô cùng. Tôi

sung sƣớng cứ đứng ngắm

nhìn hình ảnh đó cho đến

khi cha đến gần, tôi mới

bƣớc ra chào cha. Cha cũng

ngạc nhiên không kém tôi,

cha cƣời tƣơi, tay chỉ vào

ngƣời tôi và thốt ra: Ơ! chị

Tiết! thế là hai cha con ôm

chào nhau trƣớc những cặp

mắt ngạc nhiên của các cô

em tôi.

Với tuổi đời 70, sau

gần 40 năm miệt mài trên

đường truyền giáo, từ Âu

sang Á, Mỹ Châu, Úc Châu,

Phi Châu và Châu Mỹ La

Tinh, cha vẫn gắn bó và

thƣơng yêu nhất Giáo Hội

Việt Nam. Cha xin Bề Trên

về VN dạy học . Từ đây

mỗi năm cha dành cho VN

vài tháng, hiện cha đang

giúp hƣớng dẫn cho khoảng

40 chủng sinh đang theo tu

học tại nhà Dòng Tên Thủ

Đức.

Hồi cuối tháng 4/2006,

sau khóa linh thao tại Đức,

cha bay thẳng về Việt

Nam,sau đó về Roma, tháng

6, 7, 8/2006 USA, tháng

9/2006 Vương Quốc Bỉ,

Roma. Vậy mà bây giờ đây

tôi lại gặp cha ở Việt Nam.

Tạ ơn Chúa! Đôi chân cha

vẫn còn dẻo dai qúa!

Chúng con nguyện

xin Thiên Chúa luôn ban

cho cha dồi dào sức khỏe,

đầy Ơn Khôn Ngoan và xin

Ngài gìn giữ cùng đồng

hành với đôi chân truyền

giáo không biết mỏi của

„Ông Nội“ „Ông Ngọai“

yêu qúy của chúng con, gia

đình Đồng Hành Hải Ngọai.

Ginsheim 16.01.2007

Elisabeth Nguyễn Thị Tiết

Linh Thao Trang 29

Mừng Sinh Nhật Cha

Hoa tay tô điểm đẹp đời, "Hoa chân" dấn bước, không lời

thở than (1) Bảy mươi năm chẳng vội vàng

Đông, Tây, Nam, Bắc ngút ngàn vết chân

Tóc cha bạc, trí lâng lâng Con đàn, cháu đống... độc thân

suốt đời Môi cha luôn sáng nụ cười

Mắt cha hiền dịu, những lời thiết tha Ai hỏi: "Cha, Tây Ban Nhạ..?" "Chúa ôi! Ho. PHẠM, quê nhà

Việt Nam!" Cha mong có dịp về thăm

Trung tâm Đắc Lộ những năm vui buồn

Cha đi khắp mọi nẻo đường Sài Gòn ra Huế yêu thương chan hòa

Nước Việt còn, nay đã xa Nối vòng tay lớn một nhà Linh Thao

Dẫu chúng con tận phương nào Cha đâu quản ngại, dạt dào, đỡ nâng

Chúng con rải rác, lớn dần Âu lo, sầu khổ, bao lần long đong

Như chim nhỏ lại chờ mong Cha già an ủi tất lòng yên vui

Bruxelle chỉ biết một lời: "CÔNG cha: tạc dạ; THÀNH người:

ơn cha!"

(1) Các anh chi. Đồng Hành hay trêu là cha Thành có hoa chân nên đi cùng khắp,

khéo đi!!!

Kính Tặng cha Thành Con Thanh Trang

London tha’ng 3 2007

Page 30: LT2007

Trang 30 Linh Thao

gồi trò chuyện với một số

ngƣời quen. Họ chia sẻ với tôi

những khó khăn trong cuộc

đời. Tai lắng nghe mà lòng tôi

quặn đau theo tiếng nói nghẹn

ngào của những tâm hồn thật

đẹp, nhưng đang bị cuộc đời

xấu xa đe dọa.Chẳng lẽ những

tâm hồn đối diện sẽ không còn

tìm đƣợc niềm vui, bình an sẽ

không còn đến gõ cửa nhà họ,

và vẻ đẹp cuộc đời sẽ vắng

bóng trong cuộc sống?

Không thể đƣợc! Dù bóng tối

có bủa vây, dù thú dữ có gầm

gừ, nhƣng Chân-Thiện và Mỹ

vẫn đứng vững! Vâng, làm sao

bóng tối có thể nuốt chửng

Ánh Sáng, khi Ánh Sáng kia

không bao giờ tắt đi? Làm sao

sự dữ chiếm đoạt đƣợc các

tâm hồn kia, khi họ kiên tâm

bám vào Đấng „lớn“ hơn sự

dữ?

„Vì thế, Các Bạn ơi, dù ở trong

hoàn cảnh nào đi nữa, chúng ta

hãy vẫn tiếp tục đi tìm vẻ đẹp

cho cuộc đời! Vẻ đẹp của Ánh

Sáng, của Chân-Thiện và Mỹ!“

„Trời ơi trời! Tìm vẻ đẹp thế

nào đƣợc, khi cuộc đời đang

tan nát trong khổ đau? Anh có

biết rằng, hơn một năm xa quê

hƣơng tôi chƣa có đƣợc một

ngày bình an. Nhƣ vậy, thử hỏi

làm sao có thể tìm vẻ đẹp cho

đời, khi tôi còn chưa tìm được

vẻ đẹp cho tôi?“ Một ngƣời đối

diện phản ứng.

„Vẫn biết vậy, nhưng ngay lúc

này và trong hoàn cảnh đau

khổ hiện tại, Bạn hãy thử đi

tìm vẻ đẹp cho Bạn và cho

Đời! Tôi chắc chắn rằng Bạn

sẽ tìm thấy.“

„Nhưng vẻ đẹp đang núp nơi

nào?“

Bạn hãy nhìn qua cửa sổ. Đã

mấy tuần qua, trời mùa Đông

nặng trĩu những bóng mây u

ám, nhƣng hôm nay Ánh Nắng

đang chiếu tỏa ngoài sân. Bạn

hãy đứng dƣới nắng và mở

lòng „múc lấy“ Ánh Mặt Trời,

Bạn không chỉ tìm đƣợc hơi

ấm dịu dàng sƣởi ấm lòng Bạn,

mà Ánh Nắng Mặt Trời còn

làm cho khuôn mặt của Bạn

đẹp hơn.

Vẻ đẹp cuộc đời cũng đang

hiện diện ở giữa chúng ta. Bạn

hãy nhìn bình Hoa trên bàn và

ánh nến đang vui mừng cháy

sáng. Hoa kia thật đẹp và đẹp

hơn, khi một ngƣời trong

chúng ta đã khéo léo gìn giữ và

chăm bón Hoa, để rồi hôm nay

- giữa trời mùa Đông, Hoa vẫn

nở hƣơng thơm cho Bạn và

cho Chị, cho Em và cho tôi..

Bạn thấy đấy, Bạn không chỉ

tìm thấy vẻ đẹp ở bên ngoài,

mà ngay trong căn phòng nhỏ

bé. Nhƣng đẹp hơn nữa, khi

Đi tìm vẻ đẹp cho đời

Page 31: LT2007

Linh Thao Trang 31

trong không gian nhỏ bé này

những tâm hồn khát khao sống

Chân-Thiện-Mỹ, tay đang

trong tay và vai đang kề sát

bên nhau, để niềm vui thì đƣợc

chia, nỗi buồn mình cùng sẻ.

Vâng, Bạn đã cho đời vẻ đẹp,

bạn đã cho tôi „ăn ké“ đời vẻ

đẹp đó, khi Bạn tin tưởng và

cởi mở chia sẻ cho đời và cho

tôi những thao thức, những băn

khoăn và những khổ đau của

Bạn.

Vẻ đẹp cũng nở rộ ngay giữa

khổ đau, nhƣ hoa sen tƣơi nở

giữa đầm lầy, khi mỗi lần Bạn

bƣớc chân vào nhà nguyện với

một tâm hồn nặng mang nặng

khổ đau, với cái đầu thật nhiều

căng thẳng. Rồi Bạn nhìn lên

Thánh Giá. Kìa Giêsu trao ánh

mắt đáp lời. Một sự cảm thông

và một chút ủi an đã đến với

Bạn. Thật đẹp, phải không

Bạn?!

Nào, giờ đây chúng ta hãy

dừng lại trong giây lát! Chúng

ta hãy cảm nhận nhịp đập của

cảm thông, nhịp đập của tình

ngƣời và tình Chúa đang đƣa

lại một nhịp điệu của hy vọng,

của vẻ đẹp cho mỗi ngƣời

chúng ta.

Vài giây thinh lặng đẹp đẽ trôi

qua, tiếng nói của ngƣời đối

diện vang lên:

„Cám ơn „Giời“ về những vẻ

đẹp của hôm nay, nhưng tiếc

rằng trong thực tế cuộc đời của

tôi lúc này, đau khổ thì tràn

lan, bất công nhiều vô kể và sự

dữ luôn ngấp nghé ngoài cửa

nhà tôi, đến nỗi tôi luôn phải

suy nghĩ coi mình sẽ đối đầu,

sẽ trả lời với cuộc đời xấu xa

thế nào đây. Anh có biết rằng

tôi luôn phải canh phòng. Có

nhiều đêm mắt không thể

nhắm. Lòng tôi nặng trĩu

những buồn đau. Trong hoàn

cảnh đó tôi không thể tìm thấy

vẻ đẹp cho tôi và cho Đời.“

„Đúng là Bạn không thể đi tìm

vẻ đẹp trong những khi khổ

đau lên cao, sự dữ như con

sóng dâng tràn đang đe dọa.

Nhƣng Bạn ơi, nếu Bạn không

thể tìm thấy những vẻ đẹp thì

Bạn hãy làm ra những vẻ đẹp.

Mà Bạn cũng đã làm ra nhiều

vẻ đẹp lắm đó!“

„Cái gì?“ Người đối diện sửng

sỡ hỏi lại

Bạn hãy nhìn lại thời gian đau

khổ vừa qua. Vẻ đẹp Bạn làm

ra đó chính là tấm lòng thẳng

thắn, rõ ràng và luôn can đảm

không khuất phục trƣớc sự dữ.

Hơn nữa, Bạn còn dám can

đảm lên tiếng để bênh vực sự

thật, tố cáo bất công và kiến

tạo hòa bình cùng công chính.

Vẻ Đẹp Bạn làm ra cũng chính

là khả năng chịu đựng trƣớc sự

đè bẹp của bất nhân, nhưng

chịu đựng không phải là đƣờng

cùng, mà Bạn đã nhẹ nhàng

nhƣng rất kiên quyết, để rồi

trong nửa đêm ngày hôm đó,

Bạn đã thẳng thắn nói vào mặt

cuộc đời xấu xa đã từ lâu dụ dỗ

Bạn: „Là ngƣời con của Chúa,

là ngƣời thuộc về Chân-Thiện

và Mỹ tôi không thể sống nhƣ

vậy đƣợc!“

„Oh! tuyệt vời!“

Tôi mến phục Bạn về thái độ

thật kiên quyết đó. Một thái độ

lắc đầu với sự dữ. Nhƣng Bạn

ơi, Bạn hãy tiếp tục lắc đầu với

cuộc đời xấu xa nhé. Lần đầu

tiên sự dữ bị Bạn chối từ, nó sẽ

quay đi, nhƣng quay đi để rồi

lại tìm cách „chơi xấu“ Bạn

đó. Một điều nguy hiểm là sự

dữ có thể sẽ làm cho Bạn điêu

đứng, khi bao nhiêu chuyện

không có nó dựng nên cho có,

khi nó chẳng xấu hổ kết án

Bạn thế này thế kia. Tất cả nó

muốn hại Bạn, muốn chọc tức

Bạn và chờ Bạn „sôi máu“ lên,

để rồi „chơi“ lại nó. Vâng, nếu

Bạn phản ứng lại bằng bạo lực

(giận mất khôn ấy mà), thì

cuộc đời xấu xa và sự dữ kia sẽ

đứng đó và cười vào mặt Bạn.

Có thể nó sẽ nói rằng: „Tƣởng

là ngon cơm lắm chứ, đâu ngờ

cũng xấu xa vô vàn.“ Cuối

cùng, thì cuộc đời xấu xa đã hả

dạ, vì giờ đây Bạn cũng xấu xa

nhƣ nó. Tệ hơn, Bạn đã khổ

đau rồi, giờ Bạn còn đau khổ

gấp bội, vì mọi ngƣời cho Bạn

là ngƣời xấu. Tới đây tôi nhớ

lại lời của một danh nhân:

Page 32: LT2007

„Đừng làm điều xấu như kẻ

xấu, nếu không Bạn sẽ trở

thành một kẻ xấu.“

Vì thế, hãy kiên nhẫn và cầu

nguyện luôn, để Chúa luôn ở

với Bạn, để sức mạnh và sự

khôn ngoan của Thánh Thần

Chúa luôn bao phủ lấy Bạn.

Nếu Bạn thấy mình bị đe dọa

đến nỗi sức người không chịu

được, thì Bạn hãy kêu gào lên

với Chúa, nhƣ xƣa kia mấy

ông môn đệ sắp bị sóng gió và

nƣớc nhấn chìm hốt hoảng kêu

Chúa. Dù Ngài ngủ, nhƣng

Ngài sẽ dậy và điều đầu tiên là

Ngài sẽ quát mắng sóng gió và

bắt chúng im lặng. Sau đó,

Chúa sẽ „mắng yêu“: „sao mà

yếu tin vậy?“ Vâng, chúng ta

yếu tin và yếu sức lắm. Nhƣng

những kẻ bé nhỏ và yếu đuối

vẫn có quyền kêu lên Chúa mà.

Kêu lên Chúa còn hơn là chạy

theo tiếng kêu của sự dữ.

Kêu lên Chúa, để niềm tin của

mình đƣợc củng cố hơn.

Kêu lên Chúa, để mình nhìn rõ

hơn sự hiện diện của Ngài trên

con thuyền của cuộc đời.

Kêu lên Chúa, để lời của Chúa

sẽ vang lại: „Đừng sợ, vì có Ta

ở với con!“

Kêu lên Chúa chính là một

hành động Bạn làm ra vẻ đẹp

đó. Vẻ đẹp của niềm tin. Vẻ

đẹp của con cái Sự Sáng.

Nhƣng tôi còn thấy Bạn không

chỉ kêu lên Chúa, mà Bạn còn

kêu Anh Chị Em nữa. Vâng, sự

đoàn kết thương yêu là một

điều thật quý báu. Bạn kêu

Chị, Chị sẽ đáp lời. Vì thái độ

quá bất nhân của sự dữ, Bạn

giận quá muốn trả đũa, Chị mở

lời khuyên can và „thắng“ Bạn

lại, trƣớc khi Bạn „vƣợt rào“

rơi bẫy sự dữ. „Một cây đắp

chẳng nên non, Ba cây chụm

lại nên hòn núi cao“. Lời Ông

Cha mình vẫn còn vang vọng

đâu đây. Lời này cần được

sống động hơn, khi ngƣời

Nƣớc Nam bị cuộc đời xấu xa

đe dọa.

Bạn thân mến, đọc tới đây nếu

Bạn để ý Bạn sẽ thấy rằng, khi

nhắc đến xấu xa, tôi thƣờng

nói là cuộc đời xấu xa chứ tôi

không nói tới „con ngƣời xấu

xa“; còn những gì liên quan

đến sự dữ thì tôi chỉ cũng chỉ

sử dụng hai từ „sự dữ“, chứ tôi

không nói là „con ngƣời dữ“.

Bạn biết sao không? Vì một

ngƣời Bạn thân của tôi đã dạy

tôi biết phân biệt giữa Thần Dữ

và con ngƣời, giữa Thần Xấu

và mỗi tâm hồn. Vâng, lòng

ngƣời luôn hƣớng thiện, đời

ngƣời luôn khát khao sự thật.

Nhƣng tiếc thay nhiều khi

Thần Dữ đã mê hoặc lòng

ngƣời và đã gieo mầm mống

ác độc trong đời ngƣời từ khi

nào rồi đó. Mầm mống đó là

ghen tị, là chiếm đoạt, là kiêu

ngạo, là ích kỷ và chỉ biết có

mình thôi: „Tất cả đều phải qui

về tôi. Ai cũng phải lệ thuộc

vào tôi. Vâng, tôi là „cái rốn“

của vũ trụ mà lại.“

Dù có ai nói ngả nói ngiêng

nhƣ vậy, nhƣng lòng tôi vẫn

không bị lay động, vì tôi biết

rằng, „Cái Rốn thực“ của Vũ

Trụ, của mỗi tâm hồn là chính

Thiên Chúa chứ chẳng là ai cả.

Vì vậy, tôi vẫn tin tƣởng và hy

vọng vào Đấng là Chủ của

Chân-Thiện-Mỹ, là Chúa của

mỗi một tâm hồn. Với niềm tin

này, tôi mời Bạn thay vì ghét

cay, ghét đắng và hận ngƣời

hại Bạn, thì Bạn hãy cầu

nguyện cho họ. Hãy thƣơng

yêu họ! Vâng, ngƣời Bạn thân

của tôi đã nói thêm rằng: „Hãy

tập để làm điều gì tốt cho họ!“

Tuyệt! Chỉ có Thiên Chúa mới

thay đổi đƣợc con ngƣời, chỉ

có tình yêu mới hoán cải sự dữ

và thứ tha sẽ làm cho lòng

ngƣời ấm lại.

Đi tìm vẻ đẹp cho đời và chính

bản thân vừa dễ và vừa khó

bạn nhỉ!

Khó khi đôi mắt mình bị bao

„ghèn“ của khổ đau, „ghèn“

của hận thù, „ghèn“ của sợ sệt

và „ghèn“ của sự dữ và của

cuộc đời xấu xa che đậy.

Dễ khi cuộc đời mình hạnh

phúc và bình an. Và dễ khi mà

đôi mắt mình được „rửa sạch“

thƣờng xuyên bằng nguồn

nƣớc Tình Yêu, nguồn suối

Tin Tƣởng và nguồn Hy Vọng

tràn đầy nơi Thiên Chúa.

Vì thế, hãy bám vào Chúa mà

sống Bạn nhé!

Với Chúa Bạn sẽ dễ dàng tìm

được vẻ đẹp cho Đời.

Với Chúa khuôn mặt, tâm hồn

và đời sống Bạn đã đẹp thì mỗi

ngày sẽ đẹp hơn.

Cuối cùng với Chúa, Bạn sẽ

nhận ra rằng:

„Cuộc đời thật là đáng sống, vì

cuộc đời thật đẹp - Life ist

beautiful“.

Frankfurt những ngày đầu năm

Ngọc Thế SJ

Trang 32 Linh Thao

Page 33: LT2007

Linh Thao Trang 33

ỗi năm mùa chay lại

về , đặc biệt nhắc

nhở trái tim mở ra để cho

Chúa vào ngự. Để sám hối hồi

tâm xét lại, sẽ thấy rõ cuộc

sống vội vàng của xã hội tân

tiến hiện nay lôi cuốn con

ngƣời vào trong cơn lốc của

công ăn việc làm, khiến quên

đi điều gì là quan trọng điều

gì là thứ yếu. Nhiều lúc quên

cả hồng ân và hạnh phúc mình

đang thụ hưởng, quên luôn

những ngƣời thân thƣơng

đang nỗ lực làm cho cuộc đời

của mình an nhàn và tƣơi sáng

hơn. Thậm chí quên tỏ lòng

tri ân để nói lên lời tạ ơn cảm

mến đến Chúa Giêsu. Ngƣời

luôn hy sinh tha thứ và chịu

khổ nạn đau buồn để cứu

chuộc nhân loại… Ôi ! máu

và nƣớc tuôn ra từ trái tim

Chúa Giêsu là nguồn mạch

lòng thƣơng xót Chúa.

Thƣơng xót chúng con, chúng

con trông cậy nơi Ngài….

Nhắc đến trái tim mở ra thì

có một sự tích về con Tim Biết

Yêu mà cha Micae Nguyễn

Trƣờng Luân đã kể trên đài

Ánh Sáng Tin Mừng nhƣ sau.

Ngày xưa lúc tạo thiên lập

địa , trước khi có đất liền.

Đấng tối cao dựng nên một

hòn đảo để cho mọi loài, mọi

vật, mọi cảm xúc có nơi tạm

trú. Trên hòn đảo ấy mọi cảm

xúc sống chung với nhau. Nào

là em Phƣớc Lạc nào là bà Âu

Sầu nào là bác Kiến Thức…

v..v.. và tất cả những cảm xúc

khác ở cùng một chỗ và cũng

có cả con Tim Biết Yêu nữa.

Một ngày kia Thiên Thần

hiện đến loan báo cho mọi

loài hay. Đấng tối cao đã

hoàn tất công trình tạo dựng

đất liền, mọi người phải chuẩn

bị dọn đi, bởi vì không lâu hòn

đảo sẽ bị lặn chìm xuống đáy

biển. Nghe vậy mọi loài mọi

vật mọi cảm xúc đều lo cho

mình đóng lấy một chiếc tầu

để tẩu thoát tai hoạ, chỉ trừ

một mình con Tim Biết Yêu.

Thấy có nhiều người trên

đảo lo lắng hoang mang

không biết tƣơng lai sẽ nhƣ

thế nào, nên con Tim tìm đến

từng ngƣời mà ủi an khích lệ.

Hễ ở đâu có ai neo đơn một

mình thì con Tim Biết Yêu lu-

ôn có mặt để đỡ nâng trợ giúp.

Vì quá bận tâm với công việc

cứu trợ những ngƣời bơ vơ

đau khổ, con Tim quên mất

chuẩn bị cho mình một chiếc

ghe. Cho đến phút cuối cùng

khi hòn đảo sắp chìm xuống

lòng biển, không có giờ để

đóng ghe nữa. Lúc ấy con Tim

Biết Yêu bèn lên tiếng kêu

cứu. Thấy anh Sang Giầu lái

một chiếc tầu to lớn ngang

qua, con Tim Biết Yêu liền xin

anh Sang Giầu thƣơng tình

giúp.

Anh Sang Giầu đáp:

„Không được đâu, tầu của tôi

chở rất nhiều vàng bạc châu

báu hết chỗ rồi.“ Nói xong

anh chạy đi mất.

Con Tim Biết Yêu thấy chị

Xa Hoa đang ngồi trên một

chiếc thuyền thật đẹp, liền kêu

xin: „Chị Xa Hoa ơi! xin chị

làm ơn cứu em với.“

Nàng Xa Hoa vén tóc lên

để lộ khuôn mặt mỹ miều, rồi

với một giọng nói lãng mạn

yêu kiều đáp: „Em yêu à! Em

đang ở dưới nước ướt như

chuột lột, là sao cho em lên

tầu chị đƣợc. Em có mắt mà

không nhìn thấy sao, chiếc tầu

của chị sang trọng sạch sẽ

Page 34: LT2007

Trang 34 Linh Thao

nhƣ thế nầy, em lên đây làm dơ

bẩn chiếc tầu của chị , không

được đâu em.“ Rồi Xa Hoa rồ

ga chạy đi khuất.

Thấy lòng người bạc bẽo,

con Tim chỉ biết ngậm đắng

lẳng lặng để cho những làn

sóng vô tình cuốn trôi đi. Bỗng

con Tim thấy cái bè trôi dạt ở

gần, có bà Âu Sầu ngồi trên bè

một mình, conTim Biết Yêu

liền hỏi: „Lạy bà Âu Sầu, xin

bà làm ơn làm phƣớc cho tôi

lên bè với bà đi.“

Bà thở dài đáp: „Thôi, thôi đi

con à! con để cho bà đƣợc yên

thân, cuộc đời của bà là một

chuỗi ngày buồn chán, hết cái

họa nầy rồi đến cái họa kia,

khổ đau cứ chồng chất thêm

khổ đau, chẳng một ngày nào

bà đƣợc yên thân cả. Bây giờ

bà không còn biết ai trên đời

này nữa, để cho bà yên một

mình đi con.“

Lại một lần nữa bị hất hủi,

nhƣng con Tim Biết Yêu vẫn

không đánh mất niềm tin, bất

chợt một tia hy vọng lóe lên vì

con Tim Biết Yêu thấy có em

Phƣớc Lạc đang chèo thuyền

về hƣớng mình, miệng thì cứ

nghêu ngao hát thật vui vẻ.

Con Tim liền kêu cứu, nhƣng

chẳng thấy Phƣớc Lạc ngó

ngàng gì cả, dù có kêu gào bao

nhiêu Phƣớc Lạc cũng không

nghe, vì quá vui vẻ và chỉ vui

với một mình, Phƣớc Lạc

không để ý đến ngƣời khác và

cảnh vật chung quanh.

Bỗng nhiên có một tiếng gọi

trầm ấm dịu dàng vọng lên:

„Con Tim Biết Yêu ơi ! ta đến

cứu con đây, con hãy lên cùng

ta.“

Bước lên thì thấy đó chính

là một cụ già trông thật khả

kính. Lạ lùng thay cụ già lại

bƣớc đi trên mặt nƣớc nhƣ đi

trên mặt đất, con Tim với tay

ra thì cụ nắm lấy kéo vào lòng

và cụ bồng ẵm con Tim trên

tay chạy nhƣ bay vào đất liền,

mừng quá con Tim Biết Yêu

quên hỏi tên cụ là gì và đang

định đưa mình đi về đâu? Khi

lên đến đất, cụ già lâp tức rời

khỏi nơi đó để tiếp tục đi cứu

ngƣời. Lúc ấy con Tim Biết

Yêu chợt nhớ mình đã quên đi

ân tình của cụ.

Chưa kịp tỏ lòng biết ơn và

nói lên lời cảm tạ thì cụ đã đi

mất rồi, con Tim Biết Yêu lấy

làm áy náy bèn tìm đến bác

Kiến Thức và hỏi: „Thƣa bác ,

bác có biết ngƣời cứu con là ai

không?“

Bác Kiến Thức đáp:

“Ngƣời cứu mạng con vừa rồi

chính là cụ Thời Gian đó

con.“

Con Tim Biết Yêu vẫn thắc

mắc: „cụ Thời Gian! nhƣng vì

sao cụ Thời Gian lại đến cứu

con?“

Bác Kiến Thức gật gù mủm

mỉm rồi điềm nhiên trả lời:

„Bởi vì chỉ một mình Thời Gi-

an mới có đủ khả năng và kiên

nhẫn để thấu hiểu giá trị cao

thƣợng của con Tim Biết Yêu

thôi.“

T.H.

BÔNG HỒNG THỜI GIAN

Lm. Nguyễn Công Ðoan, S.J.

Mỗi giây phút là bông hồng đang nở Hãy lặng yên cho hoa nở thật xinh

Đừng vội vã kẻo hoa nhầu mất cánh, Cũng đừng buồn khi em chẳng chọn hoa.

Gặp bông nào cũng ngợi khen cảm tạ, Bởi Tình Yêu muốn được dâng tất cả,

Rất tự do và luôn đầy mới lạ Như mặt trời ôm mặt đất bao la

Page 35: LT2007

Linh Thao Trang 35

“Ước muốn” là khởi đầu của

mọi việc,… (Nelly Sachs).

Chúng ta có thể nhận ra tâm

tình này của Nelly Sachs một

cách rõ ràng trong thực tế cuộc

sống thƣờng ngày. Không có

gì tồi tệ hơn trƣờng hợp một

em bé, một cậu học sinh hay

một ngƣời trƣởng thành không

còn biết mình muốn gì trong

cuộc sống. Muốn, khao khát

thực sự là bƣớc khởi đầu của

mọi sự.

Với Thánh I-Nhã, ƣớc

muốn đóng một vai trò rất

quan trọng. Ngay trong những

chú dẫn sách linh thao, Inhã đã

đặt vấn đề và khuyên người

làm linh thao, cần phải bƣớc

vào linh thao với lòng sâu

thẳm muốn sắp xếp lại đời

mình theo tinh thần của Chúa

Kitô. Nghĩa là ƣớc muốn tự

thắng mình, xa lánh những

quyến luyến lệch lạc và cố

gắng sắp xếp cuộc đời mình

cho có trật tự mà không quyết

định theo một tình cảm lệch

lạc nào. Điều quan trọng là

ƣớc muốn tìm Thánh Ý Chúa và coi Thánh Ý Chúa là kim

chỉ nam cho cuộc sống mình (Xem LT. 1 và 21). Cũng nhƣ

khi vào linh thao với lòng

quảng đại và hào hiệp với

Đấng Tạo Hóa và Chúa mình,

dâng trot cả ý muốn và tự do

của mình cho Chúa chí tôn, để

Ngài sử dụng chính mình cũng

nhƣ mọi sự mình có theo

Thánh ý Ngài (xem LT.5).

Ngoài ra, I-Nhã còn đặt

ƣớc muốn vào trong từng giờ

cầu nguyện và chiêm niệm

trong Linh Thao. Đó là phần

xin ơn mình ƣớc muốn, mình

khao khát trong từng giờ cầu

nguyện. Đến đây, tôi nhớ lại

những ngày còn ngồi trong

ghế nhà tẫp. Cha Giáo của

chúng tôi luôn nhấn mạnh và

nhắc chúng tôi luôn ý thức xin

ơn mình khao khát. Sau đó

theo thời gian, trong những

giờ phút cầu nguyện thƣờng

ngày, cũng nhƣ trong những

dịp Linh Thao, tôi đều cảm

thấy rõ rang tầm quan trọng

của ƣớc muốn, của lòng khao

khát đƣợc gói ghém trong lời

xin ơn trong phần đầu của mỗi

gìờ cầu nguyện. Thực sự Chúa

đã ban cho tôi những gì tôi

khao khát xin Ngài. Tuy nhiên

nói thế không phải là mọi điều

tôi xin đều đƣợc Chúa ban

cho. Cái tế nhị ở đây chính là

chỗ, tôi ƣớc muốn nhƣng ƣớc

muốn của tôi có đúng theo tinh

thần của Phúc Âm, tinh thần

của Thiên Chúa hay không.

Trong LT.46 I-Nhã đã nói

rất rõ về việc ƣớc muốn, về

tâm tình xin ơn: “Khi dọn lòng

cốt xin ơn Thiên Chúa cho tất

cả ý chí, hành vi và hoạt động

của tôi hoàn toàn hƣớng về

việc phụng sự và ca tụng Chúa

chí tôn.” Nhƣ vậy, ƣớc muốn

Góc Linh Đạo Inhã

Page 36: LT2007

Trang 36 Linh Thao

của ngƣời làm Linh Thao, của

ngƣời sống linh đạo I-Nhã có nền

tảng đàng hoàng, nhƣ chính ngôi

nhà xây trên đá chứ không phải

trên cát. Nền tảng đó chính là

hƣớng lòng hoàn toàn về Chúa, là

đặt chính Thánh ý Chúa trên hết.

Mọi sự để cho Ngài, vì chính khi

cho Ngài, thì tôi đƣợc hạnh phúc,

chứ không phải khi tôi dâng hiến

cho Ngài, thì tôi sễ bị mất đi tất

cả.

Ngoài ra, trong LT.16 Thánh

I-Nhã cũng đặt lại vấn đề cho

ngƣời làm Linh Thao, xem ƣớc

muốn của mình có thực sự là ƣớc

muốn đúng đắn và tốt cho chính

mình hay không, cũng nhƣ dựa

vào đâu để biết rằng ƣớc muốn

của tôi thực sự là đúng. Ngƣời

làm Linh Thao cần để cho chính

Thiên Chúa hoạt động trong

chính bản thân mình, và đặt mình

vào con đƣờng thích hợp hơn cả

để phụng sự Chúa sau này.

Vì thế nếu ngƣời đó tha thiết

hƣớng chiều về một điều gì đó

cách lệch lạc, họ sễ đƣợc nhiều

lợi ích nếu phản ứng lại và đêm

hết sức hƣớng về điều ngƣợc lại

với điều mình tha thiết. Chẳng

hạn một ngƣời hƣớng chiều về

một chức vụ hay bổng lộc, không

phải để làm vinh danh Thiên

Chúa chúng ta và mƣu ích cho

các linh hồn, nhƣng để tìm ích

riêng và lợi lộc đời tạm. Linh hồn

đó phải đem lòng hướng chiều về

điều ngược lại bằng cách van nài

Thiên Chúa trong khi cầu nguyện

và trong các việc đạo đức khác,

xin ngài ban cho mình lòng ƣớc

muốn ngƣợc lại, nghĩa là không

ƣớc muốn chức vụ bổng lộc ấy,

hoặc bất cứ sự gì khác, trừ khi

Chúa chí tôn thay đổi chiều

hƣớng lòng tha thiết trƣớc kia

bằng cách chỉnh đốn lại những

ƣớc muốn của mình.

Mừng Ông

Phương xa tụ lại thành gần

Cùng nhau tiếp nhận hồng ân Chúa trời

Mừng Ông mạnh khỏe suốt đời

Giúp cho con cháu ngàn lời khuyên răn

Tim Ông bác ái trăm lần

Tai Ông lời Chúa mừng thầm gẫm suy

Chân Ông nhanh bước uy nghi

Mắt Ông trong sáng niềm tin chói ngời

Miệng Ông chúc tụng không ngơi

Lòng tin cậy mến muôn đời hiến dâng

Tê Hát

(mừng sinh nhật Ông Ngoại 95 tuổi )

Tóm lại ƣớc muốn là một

yếu tố quan trọng cho cuộc

sống. Vì chính khi ngƣời ta

còn muốn điều này, điều

nọ, thì cuộc sống của họ

còn thú vị, còn hấp dẫn.

Hơn nữa, trong linh đạo của

I-Nhã, thì ƣớc muốn cần

được xây dựng trên nền

tảng là chính Thánh ý của

Chúa. Tôi muốn cái mà

Chúa muốn. Tôi muốn

Chúa đƣợc vinh danh hơn,

chứ không phải tôi nổi nang

hơn. Chính khi tôi hƣớng

ƣớc muốn của mình theo

Thánh ý Chúa, thì lúc đó

cuộc đời tôi đƣợc hạnh

phúc. Lúc đó ƣớc muốn

thực sự của đời tôi mà đôi

khi tôi chẳng nhận ra đƣợc

hiện thực hóa cách trọn

vẹn.

Nguyễn Ngọc Thế SJ

Page 37: LT2007

Linh Thao Trang 37

hoảng giữa năm 1950,

bừng mắt tỉnh dậy vào

một buổi sáng tôi vẫn

thấy mình vẫn còn là một tù

nhân trong khám đƣờng Toun-

goo với một tâm hồn rã rời

trong than xác bải hoải. Tôi và

một nhóm bạn tù đã tìm cách

phá nhà tù để vƣợt ngục buổi

tối qua nhƣng bất thành, sau

khi bị bắt trở lại, các cai tù

hành hạ, đánh đập chúng tôi

suốt đêm.

Chúng tôi là những sĩ quan

trong quân đội Miến Điện bị

quân đội của nhóm Karen bắt

làm tù binh trong cuộc đảo

chánh bất thành hồi tháng hai

năm 1949. Tính đến nay,

chúng tôi đã ở tù đƣợc một

năm rƣỡi. Sau cuộc vƣợt ngục

bất thành, họ quyết định nhốt

chúng tôi vào nhà đá. Trong tôi

chợt nảy ra một ý tƣởng đó là

nhân cơ hội này và để có thể

vƣợt qua đƣợc những khổ cực

của tù tội, tôi quyết định thực

tập phƣơng pháp tu luyện tinh

thần theo Phật pháp. Cũng đã

có một thời gian trong quá khứ

tôi thực tập phƣơng pháp này,

lúc đó tôi có đƣợc sáu tháng

thảnh thơi trƣớc khi tái nhập

học tại đại học, nhƣng không

đạt được kết quả như đã được

mô tả trong sách hƣớng dẫn.

Nhƣng lần này, tôi hy vọng với

thời gian của hai mƣơi bốn giờ

một ngày, lại không bị ngoại

cảnh chi phối và chẳng biết

đến bao giờ mới được thả ra,

tôi quyết định theo đuổi con

đường tu luyện thiêng liêng.

Tôi cảm thấy hăng hái, dĩ

nhiên không thể trong một lần

mình có thể đạt đƣợc trạng thái

siêu nhiên, nhƣng chỉ dù một

phần thôi mình vẫn có thể cảm

nhận đƣợc mình đang sống

trong con đƣờng siêu nhiên

qúy báu ấy.

Tôi cầu nguyện và lần chuỗi

Phật. Nỗi ngày nhiều lần, tôi

ngồi tĩnh tọa hằng giờ và suy

niệm những chân lý tôn giáo

đã được liệt kê trong Abid-

hama, một hệ phái siêu nhiên

trong Phật pháp. Trong những

lần tĩnh tọa này, tôi cũng suy

niệm cả về Anapana Kamahtan

và áp dụng phƣơng pháp hô

hấp giống nhƣ nguyên tắc

Thiền của Ấn Độ giáo.

Trong một cuốn sách tôi đã

đọc cho biết rằng chỉ cần với

hai tuần lễ thực tập phƣơng

pháp Kamahtan, ngƣời ta sẽ

đạt được đến trạng thái

Samahdi, một trạng thái khiến

mình cảm thấy đƣợc hòa hợp

trong siêu nhiên, tách rời khỏi

(Tác giả : Augustine

Sinh trƣởng trong một gia đình Phật giáo, năm lên 15 tuổi theo truyền thống của dân tộc, tác giả

nhập tu làm chú tiểu tại một ngôi chùa ở Miến Điện, đƣợc giáo huấn về Phật pháp và tuân giữ

các giới luật của nhà Chùa. Sau khi học xong Trung học ông theo chƣơng trình Đại học và sau là

sĩ quan trong quân đội. Tác giả luôn luôn học hỏi, ao ƣớc phát triển con đƣờng thiêng liêng nội

tâm.

Thông thạo Anh ngữ và ngôn ngữ Miến Điện. Trong thời gian còn đi học, ông cũng đã đọc một

số sách văn chƣơng Kitô giáo nhƣng không quan tâm lắm. Ông luôn luôn đào sâu thêm về Phật

pháp và Ấn Độ giáo, ông tìm sự soi sáng và sức mạnh thiêng liêng bằng cách ngồi thiền và thực

tập để tự làm chủ lấy mình, nhƣng những cố gắng này không đƣa đến nhiều kết quả.

Là một ngƣời yêu nƣớc, ông gia nhập quân đội. Quốc gia Miến Điện dù đã độc lập từ năm 1948,

nhƣng Karen, một phe nhóm chủ trƣơng một Miến Điện hiệp nhất vẫn còn chiến đấu chống lại

chính phủ. Trong một cuộc phục kích tấn công quân chính phủ, phe Karen đã bắt giữ một số

những sĩ quan quân đội cầm tù, trong đó có ông.

Câu chuyện đƣợc tác giả thuật lại sau đây bắt đầu từ một cuộc vƣợt ngục bất thành……)

Page 38: LT2007

Trang 38 Linh Thao

thế gian tục lụy. Tuy nhiên

không phải ai cũng thành công

nhƣ thế trong hai tuần lễ, có

ngƣời mất cả đời mình vẫn

chƣa toại nguyện. Lý do để

giải thích đó là những ngƣời

đạt được ơn siêu nhiên đã có

được nhiều ơn ban cho họ từ

tiền kiếp, còn những ai không

có ơn đó, họ khó lòng có thể

đạt được. Phật giáo Miến Điện

tin có sự luân hồi, ngƣời ta sẽ

được đầu thai lại nhiều lần

khác, với những hình thái và

cách thế khác, không nhất thiết

phải là con ngƣời, nhƣng có

thể là một sinh vật nào đó ở

những mức độ cao hơn hay

thấp hơn mức độ con ngƣời.

Ngƣời Phật tử Miến Điện nào

cũng tin rằng rồi họ sẽ phải

chết và vật chất, của cải không

giúp gì đƣợc cho họ sau khi

chết. có chăng là làm hại họ

nhiều hơn bằng cách lôi cuốn,

cám dỗ họ xuống địa ngục nếu

họ không vƣợt qua đƣợc những

yếu đuối trong đời sống con

ngƣời. Muốn vƣợt qua đƣợc,

họ phải tu thân bằng cách

nƣơng mình trong tu viện (điều

này diễn tả việc từ chối của cải

thế gian) phân phát của cải của

mình cho ngƣời nghèo và hy

sinh làm các việc từ thiện giúp

đỡ kẻ khác. Qua cách sống đó,

họ hy vọng khi tái sinh họ sẽ

được đầu thai làm một người

tốt hơn thay vì phải đầu thai

làm một loại sinh vật nào khác

và cuối cùng họ sẽ đạt đƣợc

cõi niết bàn.

Trong thời gian bị cầm tù, hầu

hết những ngƣời Phật tử chúng

tôi đều giữ đạo một cách sốt

sắng. Riêng tôi, tôi bỏ ra thật

nhiều giờ để cầu nguyện. Mỗi

lần ăn cơm xong, tôi bỏ ra cả

giờ để đọc sách, một cuốn sách

có sẵn trong nhà tù là cuốn

Kinh Thánh dùng cho những

ngƣời cai tù đặt tay thề khi

nhận nhiệm vụ. Tôi cũng có

một cuốn Kinh Phật do một

ngƣời tử tù hình sự cho. Cuốn

sách này đƣợc viết do một Vị

Sƣ Trƣởng, những giáo huấn

trong cuốn đó cũng chính là

những giáo huấn tôi đã học

thời còn trong tu viện.

Sau mỗi lần tĩnh tọa, tôi cầu

nguyện với Thƣợng Đế, bất cứ

là Đấng nào, giúp tôi thành

công trong việc đạt đến ơn giải

thoát. Tôi đặc biệt chú ý tới

Đức Phật Dhamma. Ngài chính

là cha đẻ của đời sống thiêng

liêng, thuyết linh hồn, thiên

văn và cả các truyền thống văn

hóa. Tôi cũng còn biết thêm

rằng giáo huấn của Đức Phật

Dhamma đã đƣợc nhiều Vị Sƣ

Trƣởng và các Phật tử uyên

bác chú giải.

Tôi thực tập đời sống tôn giáo

nhiều tháng trời, dù không chú

ý, tôi vẫn cảm thấy có một sự

tiến triển đáng kể về đời sống

thiêng liêng, tôi thật sự bình

an, lòng bác ái vị tha quy

hƣớng về tha nhân kể cả kẻ

thù, tôi sống với một lƣơng

tâm thật yên ổn.

Thời gian trong tù đối với tôi

không quan trọng lắm, tôi chỉ

ƣớc ao một điều trƣớc khi một

sự đáng tiếc nào xảy ra thì ít là

tôi đã đạt đƣợc một mức độ

nào đó trong đời sống thiêng

liêng.

Những ngƣòi cầm tù chúng tôi

họ thực cực đoan, nhƣng vì

chính quyền mỗi ngày một

vững mạnh, nên tôi nghĩ rằng

đến một ngày nào đó họ sẽ bị

dẹp tan và nếu họ bị đánh tan

số phận của chúng tôi sẽ ra

sao, tôi có thể đoán đƣợc. Tù

nhân chúng tôi ngoài những

Phật tử còn có một ngƣời đạo

Hồi giáo và hai ngƣời Kitô

hữu, một nguời gốc Anh theo

Anh giáo và một ngƣời Công

giáo.

Trong một buổi gặp mặt nọ,

anh bạn Công giáo xin những

ngƣời cai tù cho phép anh

được gặp một vị Linh mục

thƣờng xuyên, đồng thời có

một Linh mục Công giáo gần

đó cũng đang xin được gặp anh

thƣờng xuyên nhƣ thế. Cuối

cùng, vị Linh mục đƣợc phép

vào thăm anh bạn Công giáo.

Có một vấn đề ở đây là anh

Page 39: LT2007

Linh Thao Trang 39

bạn Công giáo rất đƣợc những

ngƣời cai tù kính nể. Dù theo

đạo Baptist, họ rất trọng các

nghi lễ. Họ cho rằng họ phải

chịu trách nhiệmnếu anh bạn

Công giáo nọ chết mà không

được gặp một Linh mục để

lãnh nhận những nghi lễ cuối

cùng. Nếu chuyện nhƣ thế xảy

ra không phải chỉ anh bạn

Công giáo nọ bị thiệt thòi, tai

hại mà chính họ phải chịu

trách nhiệm một phần lớn:

Một Linh mục truyền giáo từ

Toungoo đƣợc phép đến thăm

anh bạn tù Công giáo mỗi tuần,

chúng tôi cũng đƣợc hƣởng

nhờ những lần thăm viếng này.

Sau mỗi lần gặp gỡ vị Linh

mục, anh bạn Công giáo đều

chia sẻ với chúng tôi các loại

sách vở anh có đƣợc từ vị Linh

mục.

Anh trao cho tôi các loại sách

báo thông thƣờng. Tôi gập khó

khăn khi đọc các sách báo của

đạo Công giáo, không hiểu nổi

những biến cố đƣợc đề cập đến

trong Kinh Thánh, đặc biệt là

trong Cựu Ƣớc. Tôi nhờ anh

qua vị Linh mục kiếm cho tôi

những sách báo giải nghĩa rõ

ràng hơn về tiến trình Đức tin

của ngƣời Công giáo thời

MôiSen và các Tiên tri. Tôi

thấy thời Cựu Ƣớc là một thời

kỳ hung bạo, mặc dù qua đó,

tôi vẫn cảm nhận đƣợc tình

yêu và lòng nhân từ của Thiên

Chúa. Đối với Phật tử khác,

Cựu Ƣớc là một câu chuyện cổ

tích kỳ thú. Cựu Ƣớc hấp dẫn

tôi khiến tôi thƣơng cảm cho

dân Do Thái.

Tân Ƣớc với Chúa Giêsu càng

xúc động hơn. Đời sống đơn

giản và giáo lý thực tế của

Chúa đánh động tâm hồn tôi

giống nhƣ vừa đọc qua một hồ

sơ về Đức tin. Tuy nhiên, vì là

một Phật tử chân chính, tôi

không áp dụng giáo lý ấy vào

đời sống được.

Hơn nữa, kiến thức về Khoa

học từ Đại học, ảnh hƣởng của

các sách vở và tƣ tƣởng của

nhà Xã hội Anh, đặc biệt Marx

và Lênin khiến tôi khó lòng

chấp nhận một tôn giáo mặc

khải.

Qua lời yêu cầu, tôi nhận đƣợc

một số sách:

Đầu tiên là cuốn sách nói về

đời sống của Thánh Nữ Têrêsa

Hài Đồng Giêsu.

Cuốn thứ hai của Ronald

Knox:”Câu chuyện về đời sống

Chúa Giêsu”. Cuốn sách là

một tổng hợp về bốn Phúc Âm

được chỉ dẫn và chú giải theo

phong tục tập quán của ngƣời

Palestine thời Chúa Giêsu.

Cuốn sách này đã giúp tôi thật

nhiều trong việc hiểu thấu đáo

hơn về sứ điệp của Đấng Thiên

Sai giữa nhân loại và lý do tại

sao những ngƣời lãnh đạo Do

Thái thời ấy chối từ Ngài. Điều

này giúp tôi có cái nhìn đúng

đắn hơn về Phúc Âm. Tôi bị

cuốn hút bởi Sự Thƣơng Khó,

sự đơn sơ và tự hiến của Chúa

Giêsu đã đƣợc Ronald Knox kể

lại bằng một giọng văn cảm

động.

Tuy nhiên, tôi vẫn còn cảm

thấy việc hứa hẹn cứu rỗi cho

những ngƣời tin theo có vẻ

ngây thơ đầy màu sắc tôn giáo.

Chúng tôi những ngƣời Miến

Điện đang sống trong một môi

trƣờng với những tƣ tƣởng tôn

giáo phức tạp, chúng tôi đƣợc

dạy dỗ rằng mỗi ngƣời phải tự

tìm cho mình một con đƣờng

cứu rỗi và chắc chắn không có

một con đƣờng tắt nào ngắn

hơn để đạt tới Niết Bàn hay

Nirvana.

Tôi vẫn tiếp tục thực hành

phƣơng pháp tĩnh tọa và cầu

nguyện theo Phật giáo mặc dù

tôi đọc sách và suy nghĩ nhiều

về Công giáo.

Đọc thêm các sách báo Công

giáo, dần dần tôi bị ảnh hƣởng.

Tôi nhận thấy có những khác

biệt lớn lao giữa Công giáo và

các nhóm Thệ phản. Tôi ngạc

nhiên tại sao lại có quá nhiều

nhóm khác biệt trong một tôn

giáo đơn giản và rõ rang nhƣ

thế. Tôi ghi trên một mảnh

giấy trao cho anh bạn tù Công

giáo cho anh biết tôi không đủ

sức để tin đạo. Anh lại xin vị

Linh mục gởi thêm sách vở

vào cho tôi đọc. Tôi lại có

thêm đƣợc các sách nhƣ “Tự

Thú” của Thánh Augustinô,

“Thần Học Yếu Lƣợc” của

Thánh Tôma Aquina, Thánh

Phanxicô Assisi, Thánh Tôma

Moore, các sách về Hộ giáo

của Đức Tổng Giám Mục

Sheehan và nhiều các sách

khác tôi không còn nhớ tên.

Tôi thật sự xúc động khi đọc

tập Radio Replies, một cuốn

sách gom góp lại những câu

hỏi của các thính giả và những

câu trả lời của Cha Rumble

được phát thanh trên đài phát

thanh Úc Châu.

Sau khi đọc các sách vở trên

và tham cứu về tín lý, tôi bắt

đầu hiểu hơn về tôn giáo mặc

khải này. Trƣớc kia, tôi thờ ơ

lãnh đạm với đạo, giờ đây tôi

đã thấu hiểu và yêu thích giá

trị của những Sứ Điệp trong

Kinh Thánh.

Tuy vậy, tôi vẫn chƣa thật sự

tin. Công giáo vẫn còn là một

Page 40: LT2007

Trang 40 Linh Thao

tôn giáo xa lạ với dân tộc tôi.

Lối sống của Dân Chúa trong

Cựu Ƣớc quá khác biệt với

phong tục tập quán của chúng

tôi. Hơn nữa, Kitô giáo còn là

tôn giáo của những ngƣời thực

dân cai trị các quốc gia láng

giềng, tôi vô tình đồng hóa tôn

giáo với Đế quốc, vì thế đời

sống tâm linh của tôi với hình

ảnh Chúa Giêsu bị tắc nghẽn

bởi lòng ái quốc và quan niệm

lâu đời trong tôi theo Phật giáo

Ấn Độ.

Tôi đã tìm thấy chân lý qua

giáo huấn của Chúa Kitô. Tôi

tự nhủ: Giá mà tôi tin đƣợc, có

lẽ tôi sẽ đạt đƣợc ơn cứu độ.

Có một giằng co mạnh mẽ

trong tâm tƣ tôi. Tôi vẫn tiếp

tục là một Phật tử.

Càng đọc nhiều sách vở về

đạo, tôi càng cảm thấy tin và

yêu Chúa Giêsu. Nhƣng nhìn

tổng quát, truyền thống Juda

trong Cựu Ƣớc, nền văn minh

của các quốc gia theo Kitô

giáo và những vấn nạn khác

nữa vẫn còn là một chƣớng

ngại tôi không vƣợt qua đƣợc

để chấp nhận Chúa Giêsu là

Đấng Cứu chuộc.

Phải mãi đến một năm sau đó,

tôi mới thật sự chấp nhận các

tín điều, tín lý của Công giáo.

Tôi cũng đã đọc một số sách

báo Thệ phản nữa, nhƣng

những tác giả Công giáo

dƣờng nhƣ xác tín hơn trong

các vấn đề thần học, họ diễn tả

một đức tin xác quyết hơn và

họ hƣớng dẫn rõ rang, chắc

chắn hơn. Tôi nghĩ rằng nếu

tôi trở thành ngƣời Kitô hữu,

tôi sẽ là ngƣời Công giáo hơn

là lại cả đời lần mò, tìm tòi

một hƣớng thần học cho riêng

mình. Tôi cho rằng nếu tôi tin

vào các Phúc Âm, tôi sẽ tin tất

cả những gì nói về đời sống

Chúa GiêSu là sự thật. Tôi còn

tin tất cả giáo lý về sự hiện

diện thật sự của Chúa Giêsu

bằng chính Mình và Máu Ngài

trong Bí tích Thánh Thể, năng

quyền giảng dạy của các Tông

Đồ và những người kế vị các

ngài và các Bí tích nữa.

Điều đáng yêu nhất của Giáo

hội Công giáo là sự tự hiến của

các Tu sĩ trong Dòng tu, đời

sống thiêng liêng, sự làm việc,

sự từ bỏ chính mình và việc hy

sinh đời sống làm chứng nhân

cho Thiên Chúa nhất là của

những vịi tử đạo thời Rôma.

Thật ra, tôi không chú ý lắm về

Kitô giáo nói chung, tôi chỉ

biết rõ về Giáo hội Công giáo

và đời sống của Chúa Giêsu.

Trong tâm thức, tôi chấp nhân

Thiên Chúa của Israel trong

Cựu Ƣớc, chính là Thiên Chúa

trung tín, mặc dù với những

linh ứng khó hiểu và những

hình phạt nặng nề đƣợc kể lại.

Khi nghĩ rằng Thiên Chúa vẫn

trung tín với dân tuyển chọn

khiến tôi yên tâm trên đƣờng

thiêng liêng.

Tôi vẫn tiếp tục cầu nguyện và

trau dồi nhân đức, tôi chắc

chắn rằng trƣớc sau gì, tôi

cũng nhận đƣợc ơn lạ.

Thế là đã gần hết năm 1950.

Tôi biết đƣợc rằng Đức Giáo

Hoàng Pio XII đã công bố năm

nay là năm Thánh. Tôi nói với

anh bạn tù Công giáo khấn với

Đức Mẹ Fatima cho chúng tôi

được thoát cảnh tù tội trước

khi bƣớc sang năm mới. Nếu

được như thế tôi sẵn sang tin

đạo (tôi đã đọc qua sứ điệp

Đức Mẹ đạ loan báo tại Fatima

năm 1917). Thật ra lúc đó, tôi

vẫn chƣa hiểu ơn Chúa ban thế

nào và đƣợc thực hiện ra sao,

vì tôi mới chỉ đƣợc đọc qua

các sách vở Thần học đại

cƣơng và những phép lạ các

Thánh đã nhận đƣợc. Vào một

buổi sáng nọ, tôi hứa với Đức

Mẹ Maria rằng tôi sẽ rửa tội

ngay nếu Đức Mẹ làm phép lạ

cho chúng tôi đƣợc thả tù trƣớc

dịp tết Dƣơng lịch. Tuy vậy,

tôi vẫn tiếp tục không giảm bớt

việc cầu nguyện theo cách thế

của ngƣời Phật tử.

Sau một thời gian, tôi cảm thấy

mình vô lý trong việc thề hứa

vào đạo nếu đƣợc trả tự do.

Tôi thấy tôi đang đi đúng trên

con đƣờng của những ngƣời

giả hình trong Phúc Âm yêu

cầu Chúa Giêsu làm phép lạ để

chứng tỏ Ngƣời là Con Thiên

Chúa.

Vì vậy, thay vì thực hiện đúng

nhƣ sự xin xỏ vô lý của tôi,

Chúa đã gửi đến cho chúng tôi

những việc khó khăn hơn: Lễ

Giáng Sinh sắp đến, tin tức thả

tù vẫn biệt tăm. Vào dịp đầu

năm, quân đội Karen bị thất

bại trong một trận chiến gay go

tại Toungoo và họ quyết định

di tản.

Một buổi tối nọ, những ngƣời

cai tù yêu cầu chúng tôi bƣớc

Page 41: LT2007

ra khỏi xà lim, xếp hang một

úp mặt vào bức tƣờng đối diện.

Tôi nghĩ họ sẽ xử bắn chúng

tôi, tôi không hề khiếp đảm, tôi

đã sống một đời sống với tinh

thần tu đức trong suốt những

ngày tù tội.

Sau một thời gian căng thẳng,

những ngƣời cai tù dẫn đến hai

sĩ quan Karen và cho chúng tôi

biết họ quyết định giữ chúng

tôi làm con tin trong cuộc di

tản của họ.

Bị trói cả tay chân, chúng tôi

nằm chồng chất lên nhau trong

lòng chiếc xe chật hẹp di

chuyển trong đêm đen vƣợt

qua địa giới nơi quân Karen

chiếm đóng vùng đồi núi phía

đông. Đêm hôm sau nữa,

chúng tôi lại đƣợc di chuyển

qua một vùng khác, nơi những

ngƣời dân bán khai vừa đến cƣ

ngụ. Ở đây, chúng tôi lại bị

nhốt vào những nhà tù làm

bằng tre mới chặt về. Nhà tù

mới không ngăn chia phòng,

nên chúng tôi ở chung với

nhau, nói chuyện tự do, thoải

mái.

Tôi cho anh bạn tù Công giáo

biết về cảm tƣởng của tôi đối

với Kinh Thánh Cựu Ƣớc. Anh

khuyên tôi nên đọc sách Thánh

Vịnh. Tôi nghe theo và tìm

thấy nơi Thánh Vịnh thật nhiều

nguồn sống êm dịu: Tình yêu

và sự tôn thờ Thiên Chúa đƣợc

diễn tả thật tuyệt vời trong các

Thánh Vịnh bao trùm đời sống

tôi. Anh bạn Công giáo còn có

thêm cuốn sách quí giá

“Gƣơng Chúa Giêsu” của Tho-

mas à Kempis. Trong những

ngày ở tù chung nhƣ vậy, tôi

đã mượn được cuốn sách

thiêng liêng quí giá này của

anh vài ngày. Cuốn sách này,

cộng với các Thánh Vịnh và

Tân Ƣớc đã lay động và nâng

tâm hồn tôi lên cao vút. Nhƣng

tôi vẫn chƣa phải là ngƣời

Công giáo.

Sáu ngày sau khi di chuyển

đến vị trí mới, chúng tôi được

các cai tù hƣớng dẫn từng

nhóm một đi tắm tại một con

suối dƣới thung lũng. Hầu hết

chúng tôi đều trở về nhà tù khi

trời còn nhá nhem, bỗng có

một nhóm dân làng đến làm ồn

ào la mắng chúng tôi rồi một

ngƣời cai tù đến lớn tiếng chửi

rủa về việc một ngƣời tù đã

trốn tìm đƣờng vƣợt ngục và

vừa bị bắn chết. Họ cho biết

rằng hình phạt cho những

ngƣời trốn tù, vƣợt ngục là xử

bắn. Ngƣời giám thị nhà tù lên

đạn khẩu sung trên tay cho biết

rằng đa số dân đề nghị bắn

chết hết tù nhân, nhƣng cuối

cùng họ quyết định thay vì

bắn, họ sẽ bỏ đói các tù nhân

cho đến chết.

Vì là một sĩ quan cao cấp nhất

trong đám tù nhân, tôi lên tiếng

với họ và thƣa rằng chúng tôi,

những ngƣời còn lại trong tù

không hề lien can đến việc

vƣợt ngục của ngƣời đã bị bắn

chết. Ngƣời tù vắn số kém may

mắn là một ngƣời trƣớc kia

làm chủ tiệm “cầm đồ bình

dân”, bị bắt vì từ chối không

chỉ nơi chon dấu vàng… Đáp

lại ngƣời cai tù chửi rủa chúng

tôi và nói nếu có quyền trong

tay ông ta sẽ bắn chết hết

chúng tôi. Tất cả chúng tôi

không ai dám nói gì thêm nữa.

Sau một ngày bỏ đói chúng tôi,

họ đã suy nghĩ lại. Tuy nhiên,

mỗi ngày họ chỉ cho chúng tôi

ăn một bữa không đủ no. Vài

ngày sau đó, một cấp chỉ huy

cao cấp của họ đến xem xét và

ra lệnh cho quân sĩ của ông

rằng chúng tôi là những tù binh

chiến tranh . Thế là từ hôm đó,

mỗi ngày chúng tôi đƣợc hai

bữa cơm sống, cơm khê…

chúng tôi chia sẻ với nhau

ngƣời đói ngƣời no trong tình

Huynh đệ đồng cảnh.

Thấm thoát lại sắp đến một lễ

Giáng Sinh khác. Ngƣời cai tù

yêu cầu chúng tôi làm quen và

tỏ tình thân thiện với dân

chúng quanh bằng cách hát

những bài hát Giáng Sinh cho

họ nghe. Trong bọn chúng tôi

có ba ngƣời biết những bài hát

này, nhất là anh bạn Công

giáo, vì thế, anh giúp tập cho

chúng tôi hát những bài về

Chúa Giáng Sinh. Vào ngày lễ,

từ trong nhà tù, tiếng hát

những bản Thánh nhạc của

chúng tôi vọng ngân ra bên

ngoài. Buổi chiều, ngƣời cai tù

đến cho chúng tôi biết dân làng

rất ngạc nhiên và thích thú khi

được nghe hát.

Sau ngày lễ Giáng Sinh có vài

Mục sƣ Baptist và Anh giáo

ngƣời Karen đến thăm an ủi

chúng tôi. Ông Mục sƣ Anh

giáo rát tử tế. Rồi tiếp đến, vợ

của một sĩ quan Karen đến tổ

chức một buổi cầu nguyện

trong nhà tù có cả dân chúng

hiện diện. Trong buổi cầu

nguyện, bà có đi quyên tiền và

sau đó trao số tiền quyên đƣợc

cho ngƣời cai tù, yêu cầu ông

mua thịt thêm vào các bữa ăn

của chúng tôi. Từ đó trở đi, bà

tổ chức quyên tiền cho những

tù nhân chúng tôi mỗi tháng

một lần. Chính ngƣời cai tù đề

nghị chúng tôi đan những

chiếc nón lá bán cho những

ngƣời dân làm việc ngoài trời,

chúng tôi bắt đầu và lấy tiền

bán đƣợc mua thêm thức ăn.

Sự liên hệ của chúng tôi với

dân làng chung quanh càng

ngày càng trở nên thân thiện

hơn.

Linh Thao Trang 41

Page 42: LT2007

Trong thời gian này, tôi bắt

đầu đọc thêm những lời cầu

nguyện của đạo Công giáo khi

cầu nguyện mỗi ngày và trƣớc

đó, tôi đã bắt đầu đeo một

Tƣợng Thánh Tâm Chúa

Giêsu. Câu chuyện về tấm ảnh

này đã xảy ra nhƣ sau:

Khi tôi còn đang học tại Trung

học, chịi tôi có cho tôi một

chiếc nhẫn vàng với một hột

cẩm thạch màu đỏ rất đẹp. Tôi

rất quí chiếc nhẫn này, vì thế,

khi đi tù, sợ bị tịch thu, tôi đã

dấu nó bằng cách khâu nó bên

trong chiếc áo trấn thủ. Chúng

tôi vì ở tù thiếu thốn thức ăn,

một ngày nọ mọi ngƣời đề

nghị tôi bán chiếc nhẫn để mua

thịt cá và thuốc lá. Để bù lại,

anh bạn Công giáo trao cho tôi

tấm ảnh Thánh Tâm Chúa

Giêsu. Tôi nhận tấm ảnh với ý

nghĩ khi đeo nó sễ đƣợc may

mắn, hơn nữa anh bạn còn giải

thích thêm rằng khi cầu

nguyện, tôi sẽ đƣợc Đấng

thiêng liêng bảo vệ, điều này

tôi cũng đã biết qua khi đọc

trong sách vở lúc còn tại nhà tù

ở Toungoo. Nhận thấy rằng

nếu bán chiếc nhẫn đi, tôi có

thể giúp đƣợc các bạn và tôi đã

bán. Từ đó, tôi đeo tấm ảnh

Thánh Tâm quanh cổ. Sau đó

một thời gian, tôi bắt đầu cầu

nguyện với Chúa Giêsu và lần

chuỗi Kính Đức Mẹ thay vì

đọc kinh Phật.

Dần dà, tôi nhận thấy rằng lời

cầu nguyện với Đấng thiêng

liêng của tôi đã đƣợc chấp

nhận khiến tôi nghĩ rằng tất cả

những khó khăn, đau khổ tôi

đang gánh chịu chính là những

chuẩn bị cho tôi bƣớc vào Giáo

hội Công Giáo. Tôi nhận thức

được sự hiện diện của Thiên

Chúa và Chúa Giêsu chính là

con của Ngài, và cả Chúa

Thánh Thần nữa… Tôi tha

thiết nguyện cầu đến một ngày

nọ chúng tôi đƣợc trả tự do và

tôi sẽ thong dong nhận lãnh Bí

tích Rửa tội.

Đối với người Công giáo ,

tháng Năm là tháng kính Đức

Mẹ, Mẹ của Chúa Giêsu. Tôi

quyết định thực hiện một tuần

Cửu nhật cầu nguyện đặc biệt

trong tháng này với ý nguyện

xin Mẹ can thiệp trực tiếp với

Chúa cho chúng tôi đƣợc trả tự

do: tôi cầu nguyện tha thiết

hơn, lần chuỗi nhiều hơn, đọc

tất cả những kinh mà tôi đã

thuộc…

Vào ngày thứ tƣ và thứ năm

trong tháng, chúng tôi đã bắt

đầu liên lạc được với hai người

bạn do cấp chỉ huy của chúng

tôi gửi đến. Đang đêm, họ liên

lạc với chúng tôi bằng mật

hiệu và đƣa ra một chƣơng

trình vƣợt ngục. Sau đó, họ trở

về Toungoo đƣa thêm lực

lƣợng và vũ khí để phá nhà tù

dẫn chúng tôi đi trốn.

Một tuần lễ sau đó, vào lúc nửa

đêm, lực lượng cướp tù đã phá

tan cánh cửa nhà giam giữ

bằng một trái lựu đạn. Tiếng

nổ phá tan bầu khí tĩnh mịch

của đêm khuya, tiếp theo là

súng nổ vang trời… Kết quả

xảy ra là hai ngƣời trong lực

lƣợng bị bắn chết, một ngƣời

tù bị giết và hai ngƣời khác bị

thƣơng do lựu đạn, một số

ngƣời khác bị giết khi đi trốn

do dân trong các làng lân cận.

Chúng tôi đƣợc dẫn đi do sáu

ngƣời trong lực lƣợng và vì

không quen đƣờng lối trong

đêm khuya, chúng tôi lạc mất

nhau. Nhóm của tôi còn bốn

ngƣời kể cả hai ngƣời bị

thƣơng.

Suốt ba đêm và hai ngày sau

đó, chúng tôi lang thang dưới

những cơn mƣa rả rích trong

rừng già, đói mệt và chẳng biết

mình đang ở đâu. Đến ngày

thứ ba chúng tôi bị lộ do một

nhóm phụ nữ đang làm việc

ngoài đồng, họ kêu lính tới và

chúng tôi lại một lần nữa đầu

hàng vô điều kiện.

Tƣởng rằng họ sẽ giết chúng

tôi ngay, nhƣng không, họ đối

xử thật tử tế. Họ cho chúng tôi

ăn uống, dẫn chúng tôi về làng,

một ngƣời trong bọn cõng tôi

đi nữa, cho chúng tôi vào một

mái nhà bên cạnh nhà thờ của

họ. Những ngƣời trong làng

gồm cả ông Mục sƣ và vợ của

các sĩ quan đến thăm và sửa

Trang 42 Linh Thao

Page 43: LT2007

soạn cho chúng tôi một bữa

cơm thịnh soạn.

Sau hai ngày sống tại đó, họ

đưa chúng tôi đến nhà thương

nơi một thị trấn, nhà thƣơng

này đã trở thành bản doanh của

quân đội Karens. Ở đây, chúng

tôi gặp lại hai ngƣời nữa trong

số tù đã trốn và bị bắt lại. Kể

lại chuyện vƣợt ngục với nhau

và cuối cùng chúng tôi biết

rằng tất cả anh em trong lực

lƣợng giải cứu đều bị bắn chết.

Một tin buồn nhất đối với tôi

đó là anh bạn Công giáo cũng

đã chết, đối với mọi người

trong tù, anh là một ngƣời đã

khuyến khích, nâng đỡ mọi

ngƣời trong đời sống thiêng

liêng. Mặc dù anh không chủ

trƣơng vƣợt ngục, anh cũng đã

bị bắn chết, anh là một ngƣời

rất can đảm, để trợ giúp mọi

ngƣời, anh không hề nghĩ tới

chính bản thân anh, là một sĩ

quan, anh can đảm và bất chấp

hiểm ngua, anh đánh cờ rất

khá, chơi bài rất giỏi đồng thời

anh còn là một ngƣời khôi hài,

giúp anh em vui vẻ, tự tin

trong mọi hoàn cảnh. Anh là

một ngƣời sống đức tin, biết

phó thác mọi sự trong Chúa và

chƣa bao giờ thấy anh than

vãn. Tôi nghĩ rằng anh phải là

ngƣời thành công trong cuộc

vƣợt ngục vừa qua mới phải,

nhƣng ai mà biết đƣợc ý Chúa?

Trong suốt những ngày vƣợt

ngục, lang thang trong rừng,

tôi vẫn mang theo một cái túi

nhỏ, trong đó có một cuốn

Kinh Thánh và một vài cuốn

sách đạo đức. Tôi đã cầu

nguyện liên tục. Trong nhà

thƣơng , có hai Mục su Baptist

và Anh giáo, tất cả đều là

ngƣời Karens. Họ cho tôi

những sách đạo đức, một

quyển Kinh Thánh bằng tiếng

Miến Điện bọc bao da rất đẹp.

Những y tá săn sóc chúng tôi

thật thân thiện và gần gũi.

Sau sáu tuần lễ, sức khoẻ

chúng tôi dần dần hồi phục,

những vết thƣơng đã lành, họ

di chuyển chúng tôi ra một căn

nhà bên ngoài làng, căn nhà

khang trang hơn nơi chúng tôi

bị giam giữ trƣớc khi vƣợt

ngục. Nhƣng chƣa phải là tự

do, số mạng của chúng tôi tùy

thuộc vào những trận chiến

thua đƣợc của họ. Gần hết mùa

mƣa vào cuối tháng Mƣời,

chính quyền quyết định tấn

công mạnh hơn, quân đội

Karens chắc chắn phải rút lui.

Trong trƣờng hợp này, họ phải

di chuyển chúng tôi vào các

làng xa hơn trong rừng già,

chúng tôi có cảm tƣởng họ đã

quyết định về số phận của

chúng tôi rồi.

Tôi nghĩ rằng đã đến lúc tôi

phải xin Chúa ban cho đƣợc tự

do. Mặc dù chƣa đƣợc rửa tội,

tôi đã coi tôi là một ngƣời

Công giáo thật sự. Các bạn

Kitô giáo của tôi đều đã chết

kể cả ngƣời bạn Công giáo là

nguồn an ủi thiêng liêng dẫn

đưa tôi về với Chúa trong

nhũng ngày tù tội, anh bạn

theo Anh giáo bị chết vì một

mảnh lựu đạn, anh bạn Baptist

bị dân làng giết chết. Bây giờ,

nếu chẳng may tôi bị chết chắc

trong lúc thập tử nhất sanh sẽ

không còn ai giúp tôi đƣợc rửa

tội.

Một ngày vào cuối tháng Tám,

tôi quyết định bắt đầu một tuần

cửu nhật cầu nguyện với

Thánh Tâm về việc đƣợc trả tự

do. Sau sáu ngày cầu nguyện,

một buổi trƣa nọ, một ngƣời

bạn Karen đến cho chúng tôi

biết quân đội của chúng tôi

đang tiến đánh rất mạnh vào

các cơ sở của họ, vì thế họ phải

rút lui và dẫn chúng tôi đi.

Họ đƣa chúng tôi đến một

ngọn đồi gần nhà thƣơng rồi

bỏ chúng tôi ở lại đó.

Sau nửa giờ đồng hồ, tên

chúng tôi đƣợc những ngƣời

lính đầu tiên của quân đội đã

tiến chiếm mục tiêu gần nơi

chúng tôi bị giam giữ kêu gọi

cùng với những lời dẫn dụ

quân đội Karen hãy đầu hàng.

Chúng tôi vui mừng đáp lại họ

và chúng tôi gặp gỡ nhau trong

Linh Thao Trang 43

Page 44: LT2007

niềm vui sƣớng thoát nạn.

Chúng tôi yêu cầu quân đội

đừng bắn vào làng. Gặp các y

tá đang tìm cách trốn tránh,

chúng tôi yêu cầu họ hãy trở

lại nhà thƣơng và nhắn với dân

chúng hãy về nhà. Quân đội

đối xử với họ rất tử tế và đầy

tình cảm.

Chúng tôi theo các đơn vị quân

đội trở về Toungoo mất ba

ngày đi bộ xuyên qua rừng già.

Dọc đƣờng, tôi vẫn tiếp tục

chƣơng trình cầu nguyện và tạ

ơn Thánh Tâm Chúa. Vào

ngày cuối cùng của tuần cửu

nhật chúng tôi đến Toungoo.

Đêm trước khi chúng tôi đến

nơi, chúng tôi có đƣợc một

đêm thật vui mừng. Các sĩ

quan và vị chỉ huy cuộc hành

quân cùng hoạt động trong

phong trào Độc lập trƣớc kia

đã đến chào đón và chúc mừng

chúng tôi, thức trắng đêm để

hàn huyên tâm sự…

Tôi cho họ biết về quyết định

theo đạo Công giáo và ƣớc

muốn đi truyền giáo của tôi,

không ai có ý kiến chống đối,

tất cả đều lắng nghe với sự

hiểu biết và thông cảm.

Ngay khi tới Toungoo, tôi đến

tìm vị Linh mục trƣớc kia

thƣờng đến thăm anh bạn Công

giáo trong tù cách đó hai năm,

kể với ông về cái chết của anh

bạn Công giáo nọ và xin đƣợc

Rửa tội.

Vị Linh mục khuyên tôi trƣớc

tiên nên gặp cha Linh hƣớng,

học hỏi thêm về giáo lý và rồi

sau đó mới quyết định vào đạo

hay không cho kỹ càng hơn.

Thật là một đề nghị hữu lý, tôi

vui mừng chấp thuận và xin

cha một giấy giới thiệu đến

một Linh mục tại Rangoon.

Hai tháng sau ngày đƣợc giải

thoát, tôi đƣợc đón nhận vào

Giáo hội với tên Thánh là

Augustine, không ai trong gia

đình tôi kể cả cha tôi, bà kế

mẫu, các chị em tôi, các bạn bè

tôi chống đối. Thiên Chúa đã

cho tôi thấy lòng thƣơng của

Ngài, Ngài đã ban cho tôi đầy

ân sủng và Ngài đã giúp tôi

hiểu một phần nào ý định của

Ngài. Từng bƣớc một, Ngài đã

hƣớng dẫn tôi đến với Ngài

bằng con đƣờng của Ngài,

không phải con đƣờng của tôi.

Tôi đã muốn gia nhập vào một

Dòng tu nhƣng ý Chúa chƣa

muốn.

Tất cả những gì xảy ra cho tôi

trong ý Chúa, tôi sẵn sàng đón

nhận. (Theo MẢNH XƢƠNG KHÔ TRONG

SA MẠC của Lm. Jos. BÙI-ĐỨC-TIẾN)

Trang 44 Linh Thao

Đầu cúi thấp, lệ rơi con gọi Mẹ

Đường con đi, con gởi Mẹ đã nhiều Nhớ hộ giùm con, giọt lệ hôm qua Mẹ cất giữ giùm, ngày về con nhận

Mẹ ơi!

Con bao lần hứa với Chúa nhiều phen Đã quên lời, Chúa vẫn kiên nhẫn đợi Tâm hồn con đã bao năm như ngủ

Con chỉ hứa nhưng chưa lần thực hiện Chúa mong chờ con u buồn đôi mắt Con nhìn Chúa cõi lòng con tan nát Mắt lệ rơi, nguyện xin Chúa thứ tha

Con bướng bỉnh, u mê Chúa vẫn thương Lòng thương xót Chúa bao la

Con đi tìm, tìm đến dấu chân cha Thánh đường Chúa Thương Xót ở Balan

Con đã đến

Trước Thánh Nhan con không dám ngẩng mặt Mắt lệ rơi, con xin Chúa thứ tha

Bao lời thề hứa, con vẫn chưa thực hiện Chúa ơi, dưới chân Ngài hôm nay

Ký thác vào Chúa, xin để Chúa lo. Ký thác vào Ngài. Con xin lắng nghe.

Hân Hân (Paderbonn)

(Kỷ niệm 4 ngày hành hương đến viếng Thánh Đường KRAKOW-LAGIEWNIKI)

Page 45: LT2007

Linh Thao Trang 45

i cũng muốn có hạnh

phúc và cầu mong cho ngƣời

khác cũng đƣợc nhƣ vậy.

Ai cũng hằng tìm cách kiến

tạo, xây dựng hạnh phúc cho

bản thân mình và cho những

ngƣời mình có trách nhiệm lo

cho. Đó là điều chính đáng

phải đạo.

Ai cũng hằng mong tìm cơ hội,

mong tìm ra chìa khoá mang

lại hạnh phúc.

Có chiếc khoá mang lại hạnh

phúc không? Và nếu có, thì

chiếc chìa khoá đó nhƣ thế

nào?

Ngày nay hầu nhƣ ai cũng có

chùm chìa khoá với nhiều chìa

khoá khác nhau: khoá nhà,

khoá phòng, khoá xe đạp, khoá

xe hơi, khoá hòm đựng

tiền....Chúng ta cần nhiều chìa

khoá, vì cuộc sống ngày nay

nhƣ thế.

Với chiếc chìa khoá xe hơi

chúng ta có thể đi đó đây, đi

làm, đi du lịch thƣởng lãm

thắng cảnh, thăm bạn bè thân

hữu, thăm ngƣời quen thân ở

nơi xa...

Vậy phải chăng chiếc chìa

khoá này có thể mang laị hạnh

phúc cho ta?

Xe hơi là phƣơng tiện di

chuyển cần thiết, trợ giúp đời

sống con ngƣời trong nhiều

lãnh vực. Nhƣng xe hơi cũng

gây ra nguy hiểm cho con

ngƣời không ít. Ngày nay môi

trƣờng sinh sống bị ô nhiễm do

chất khói xe hơi thải ra làm

chết cây cối, gây nên bệnh tật

đang là vấn đề cho con người,

cho thiên nhiên. Vấn đề tai nạn

lƣu thông xảy ra khắp nơi do

xe hơi gây ra cũng không phải

là ít.

Nhƣ thế chiế chìa khoá xe hơi,

có thể nói, chƣa chắc gì đã

mang lai hạnh phúc cho con

ngƣời. Vì xe hơi tạo ra những

vấn đề khác cho cuộc sống

không ít.

Còn chiếc chìa khoá tủ đựng

tiền mang lại nhiều hứa hẹn, an

sinh cho cuộc sống. Vì có tiền

bạc, có của cải con ngƣời có

thể mua sắm đƣợc nhiều sự

mong muốn. Từ quốc gia đất

nƣớc đến cá nhân ai cũng cần

tiền bạc để sinh sống, để mở

mang...

Nhƣng phải chăng hễ có nhiều

tiền là có hạnh phúc?

Tiền bạc là phƣơng tiện cần

thiết cho nhu cầu cuộc sống,

nhƣng nó cũng có mặt trái của

nó, nhƣ một bài vè trong dân

gian nói về tiền bạc:

“ Tiền là Tiên, là Phật,

là sức bật lò xo,

là thƣớc đo lòng ngƣời,

là tiếng cƣời tuổi trẻ,

là sức khoẻ tuổi gìa,

là cái đà danh vọng,

là thòng lọng cuộc đời.“

Nhƣ thế, đã chắc gì khi có đầy

đủ hay nhiều tiền bạc là đã có

hạnh phúc! Không thiếu gì

những ngƣời có dƣ thừa của

cải tiền bạc mà đời sống vẫn

cô đơn héo hắt bệnh tật.

Ngƣời ta đâu có thể dùng tiền

bạc mua đƣợc sức khoẻ. Bạn

bè thân hữu, tình yêu, lòng

trung thành, niềm vui, niềm hy

vọng, tình liên đới đâu phải là

những hàng hoá bày bán trong

các siêu thị, trong các cửa

hàng, hay nhƣ các cổ phiếu ở

sàn thị trƣờng chứng khoán,

mà có thể dùng tiền mua đƣợc.

Với chiếc chìa khoá nhà chúng

ta có thể bất cứ lúc nào về nhà,

về phòng cũng đƣợc. Nhà cửa

là không gian thu gọn nhỏ hẹp,

nhƣng ấm cúng; là tổ ấm cho

mỗi con ngƣời; là nơi ăn chốn

nghỉ ngơi, là nôi của tình yêu

mến, của phát triển lớn lên.

Nhà cửa không chỉ bao gồm

những đồ đạc tủ bàn ghế,

giƣờng chiếu, nhƣng còn có

ngƣời thân thuộc sinh sống

trong đó: cha mẹ, anh chị em,

vợ chồng, con cháu ruột thịt.

Vì thế chiếc chìa khoá nhà hứa

hẹn mang lại hạnh phúc cho

con ngƣời nhiều hơn các chìa

khoá khác. Vì với chiếc chìa

Lm.NGUYỄN NGỌC LONG

Page 46: LT2007

Trang 46 Linh Thao

khoá này, tôi mở cửa đi về tổ

ấm tình yêu. Trong nhà, tôi tiếp

nhận tình yêu từ ngƣời thân và

tôi trao tặng tình yêu cho ngƣời

thân. Tình yêu mang lại hạnh

phúc cho con ngƣời. Tình yêu

mang lại cho đời sống niềm

vui, làm quên đi những mệt

nhọc lo lắng buồn phiền trong

cuộc sống.

Chúa Giêsu, sau khi sống laị,

bỏ các môn đệ, các ngƣời tin

theo ngài ở lại trần gian, đi về

trời. Ngài trở về nhà. Nhƣng

ngài hứa gửi Chúa Thánh Thần

xuống với họ. Ngài không để

họ sống bơ vơ, cô đơn một

mình. ( Gioan 14,15-21)

Chúa Thánh Thần đến cùng

đồng hành với họ trong cuộc

sống. Ngài hiện diện trong tâm

hồn họ. Ngài là tình yêu và

mang niềm an ủi phấn khởi cho

họ.

Chiếc chìa khoá nhà ta luôn

mang theo trong ngƣời, dù đi

xa bất cứ nơi đâu. Khi có chiếc

chìa khoá này trong ngƣời, ta

cảm thấy an tâm. Vì ngôi nhà

tổ ấm tình yêu luôn theo bên

mình. ta về nhà lúc nào cũng

được và biết rằng những người

thân yêu hằng chờ đợi ta ở nhà.

Chúa Giêsu gửi Chúa Thánh

Thần xuống, cũng giống nhƣ

trao cho các Tông đồ và những

ngƣời tin theo ngài, chiếc chìa

khoá nhà. Và lúc nào Chiếc

chìa khóa này cũng theo với họ

bên mình. Vì Chúa Thánh Thần

hằng ở trong tâm hồn họ.

Thần linh Thiên Chúa là chìa

khoá mở cửa vào nhà Chúa, nơi

là nguồn tình yêu, nguồn an ủi

nguồn hạnh phúc cho con

ngƣời.

Lm. Nguyễn ngọc long

Kính thƣa cha,

Khóa linh thao khai giảng từ

ngày thứ năm, hôm nay là thứ

bẩy, con có caí hẹn gặp cha.

Không hiểu sao con rất hồi hộp,

lo lắng và cả lo sợ trƣớc giờ hẹn

gặp cha. Tim con chạy nhanh

hơn cả chiếc đồng hồ, thời gian

cứ ngắn dần,,, ngắn dần… niềm

lo lắng lại càng tăng. Và bây giờ

- Giờ đã đến.

Bƣớc vaò phòng cha, ngồi đối

diện với cha, niềm run sợ trong

con dâng cao tột độ theo dòng

nƣớc mắt tuôn rơi, tuôn rơi

không ngừng. Niềm lo sợ vì bị

quở mắng, vì hối hận, bởi vì con

tội lỗi, đã bao lần hứa với Chúa

nhiều phen mà chƣa lần nào

thực hiện đƣợc lời hứa. Một lúc

sau, nƣớc mắt vơi dần… vơi

dần…con ngồi yên lặng. Từ lúc

ngồi đối diện với cha cho đến

bây giờ, cha chƣa hỏi con một

câu nào và con cũng chƣa trình

thƣa với cha một lời nào. Cha

chỉ nhìn con đang nức nở, nƣớc

mắt chan hòa, khóc nhƣ một đứa

bé yếu đuối lo sợ bị trừng phạt

đánh đòn…

Thƣa cha, vì mang một ấn tƣợng

lo lắng buồn phiền hoang

mang , tất cả chỉ là tƣởng tƣợng

nên con đã để cha phải chờ đợi.

Cha lên tiếng hỏi: Bây giờ con

đã bình tĩnh chưa. Con gục đầu

khe khẽ nói xin nghe. Tiếng cha

êm dụi, nhẹ nhàng nhƣ một

giòng suối mát, tiếng cha con

nghe mỗi lúc một nhỏ. Con lên

tiếng: Thƣa cha, cha nói to hơn

con nghe không rõ. Cha noí tiếp:

Con lắng tai nghe nhé, con nhƣ

một ngƣời đã đƣợc Chúa đối đáp

và nghe đƣợc tiếng Chúa nói.

Đây là tiếng của Chúa nói với

con. Chúa ơi, con vui mừng qúa,

muốn khóc, nghẹn ngào muốn

khóc nhƣng không dám khóc nhƣ

lúc ban đầu vào gặp cha. Chúa

ơi! từ bây gìơ trái tim con thật

bình an trong Chúa.

Ngẩng mặt nhìn cha, cha đang

nhắm nghiền đôi mắt, con ngắm

nhìn cha mà con cứ tƣởng nhƣ

Chúa đang ở trƣớc mặt con.

Chúa thật hiền hòa nhân ái,

không có một dấu hiệu nào là

trách phạt con. Con can đảm

trông cậy, phó thác vào Chúa

hơn. Tiếng cha vẫn đều

đều:“Chúa nhìn thấy trong tâm

hồn con có dành riêng cho Chúa

một ngôi nhà. (Tôi buột miệng ,

cả cho Mẹ nữa, thƣa cha) nhƣng

căn nhà đó có nhiều cửa sổ

không đóng lại, có nhiều tiếng lạ

lọt vào, nào là tiếng chợ búa ì

xèo hỗn độn, tiếng gia súc ùa

vào ồn ào qúa, vì vậy con đã

không nghe đƣợc tiếng Chúa

đang nói với con. Vậy từ bây giờ

con đóng tất cả cánh cửa lại, chỉ

để một cánh cửa cho Chúa đi

vào mà thôi thì con mới nghe

được tiếng Chúa nói, bây gìơ

con đã đóng tất cả các cửa lại

rồi, tâm hồn con đã cảm thấy

bình an chƣa? Chỉ một cánh

cửa mở để đón Chúa vào thôi,

(con lại buột miệng cả Mẹ nữa

thƣa cha). Bây giờ con đã hiểu

và nghe đƣợc lời Chúa nói?

Tiếng cha thật ôn nhu, hiền hòa,

êm ái đầy yêu thƣơng, lời cha

nhƣ một giòng suối mát. Con

khẽ gật đầu trong nƣớc mắt nói:

Cám ơn Chúa, cám ơn cha con

hiểu rồi. Thƣa cha, bây giờ

những dòng nƣớc mắt con đang

tuôn trào trƣớc mặt cha đây là

những dòng lệ con thống hối và

tạ ơn Chúa.

Cuối thƣ con xin kính chúc cha

được thật nhiều Hồng Ân Thiên

Chúa. Xin cha nhận nơi đây lòng

chân thành ghi nhớ công ơn của

cha trong khóa linh thao 2006.

Hẹn gặp lại cha trong khoá

2007. Kính thư.

Hân Hân (Paderbonn)

Kính gởi : cha Thành SJ Roma

Page 47: LT2007

ó một lần, trong một

khóa Linh Thao, Ngài

đã đánh động tôi và cho

tôi nhận ra rằng Ngài đã sống

nhƣ một trong những ngƣời

bình thƣờng khác, Ngài đã chỉ

cho tôi con đƣờng Ngài đi qua,

và mời gọi tôi tập sống giống

nhƣ Ngài.

1- Ngài đã sống như một

người bình thường trong

muôn vàn người bình thường

khác vì: „Chúa Giêsu, sau khi chịu

phép rửa, đƣợc Thần Khí dẫn

vào sa mạc để chịu ma quỷ

cám dỗ. Và Ngài đã giữ chay

bốn mƣơi ngày và bốn mƣơi

đêm, sau đó Ngài cảm thấy

đói.“ (Mt 4, 1-2)

Trong đoạn Phúc Âm ngắn

ngủi này, chúng ta thấy Chúa

Giêsu đã có ít nhất 4 ƣớc

muốn, hay ít nhất 4 hành động

có ƣớc muốn hoạt động:

- Ƣớc muốn đƣợc thánh hoá và

được nhìn nhận là con của

Chúa Cha qua phép rửa: „ Đây

là con yêu dấu của Ta, kẻ mà

T a y ê u t h ƣ ơ n g h ế t

lòng.“ (Mathiêu 3, 17)

- Ƣớc muốn đƣợc thực hiện

theo chƣơng trình của Chúa

Cha qua việc để Thần Khí dẫn

dắt vào trong sa mạc.

- Ƣớc muốn phản ứng lại

những thử thách qua việc chịu

để ma quỷ cám dỗ.

- Ƣớc muốn phản ứng lại

những yếu đuối của xác thịt

qua việc nhịn đói ăn chay 40

ngày đêm. Và để xác nhận việc

làm của Chúa Giêsu là sự thật,

thánh Mathiêu còn thêm rằng:

„...Ngài cảm thấy đói.“

Con ngƣời là một tạo vật đƣợc

sinh ra từ ƣớc muốn và để sống

theo ƣớc muốn. Vì vậy, trong

cuộc sống hằng ngày của

chúng ta, chúng ta luôn ở trƣớc

một ngã ba đƣờng (có khi đến

ngã bốn hoặc ngã năm !). Và

chúng ta luôn bối rối vì bị

giằng co giữa ƣớc muốn và sự

lựa chọn. Chúng ta phải ƣớc

muốn và phải chọn lựa nhƣ thế

nào để có đƣợc một cuộc sống

hạnh phúc và tự do ?

„...Chúa cho con người chẳng

kém thần linh là mấy,

Ban vinh quang, danh dự làm

mũ triều thiên,

Cho làm chủ công trình tay

Chúa sáng tạo,

Đặt muôn loài, muôn sự dưới

chân...“ (Thánh Vịnh 8)

Có ngƣời cho rằng ƣớc muốn

là khả năng riêng của loài

ngƣời, vì tất cả những loài vật

khác chỉ làm theo bản năng tự

nhiên mà thôi.

Đúng, nhưng chúng ta không

quên nhấn mạnh rằng: con

ngƣời không có „độc quyền“

về ƣớc muốn. Vì trƣớc khi tạo

dựng nên loài ngƣời, ƣớc

muốn đã có, đó chính là ƣớc

muốn của Thiên Chúa muốn

dựng nên loài ngƣời.

Trong xã hội hiện nay, con

ngƣời muốn kiểm soát tất cả,

muốn quyết định tất cả: từ

ngày giờ sinh ra đến ngày giờ

chết đi (ƣớc muốn của con

ngƣời). Nhƣng họ lại muốn

chối bỏ sự hiện diện của Thiên

Chúa và bàn tay can thiệp của

Ngài (ƣớc muốn của Thiên

Chúa)!

Nói đến ƣớc muốn thì không

thể không nói đến tình yêu, vì

tình yêu phải là căn bản của

ƣớc muốn. Ƣớc muốn không

có giá trị gì nếu không có tình

yêu. Chúng ta hãy suy nghĩ

nhiều về câu này, nó thật đơn

giản nhƣng cũng thật căn bản

vì có thể áp dụng cho tất cả

những trƣờng hợp thực tế.

„Thầy ở cùng với chúng con

mỗi ngày cho đến tận

thế.“ (Mathiêu 28, 20) Còn gì

đẹp cho bằng ước muốn của

Chúa Giêsu!? Giá trị của ƣớc

muốn này chính ở chỗ là nó

bộc phát từ trái tim và đặc tính

lâu dài trƣờng kỳ của nó. Một

ƣớc muốn trong chốc lát thì có

giá trị gì !?

Con ngƣời khi sinh ra không

làm chủ đƣợc ƣớc muốn,

nhƣng con ngƣời đƣợc sinh ra

để tiến tới làm chủ ước muốn

của mình. Và những hành động

hay ý thức hãm mình, kiên

nhẫn và hy sinh, hoặc chay

tịnh... đó là những phƣơng tiện

để chúng ta tiến tới làm chủ

ƣớc muốn của mình.

Linh Thao Trang 47

Page 48: LT2007

Có ngƣời cho rằng Lễ Tro là

để nhắc nhở chúng ta từ tro bụi

sẽ trở về tro bụi. Nhƣng chúng

ta cũng có thể lý luận thêm

rằng: Có tro bụi tức là đã có

lửa sáng, và lửa sáng chính là

sự hy sinh hãm mình để tro bụi

có một giá trị nào đó.

„Ai thắng sẽ được thừa hưởng

mọi sự ấy làm cơ nghiệp; và

Ta sẽ là Thiên Chúa của nó, và

nó sẽ là con của Ta.“ (Khải

Huyền 21, 7)

Khi chúng ta nói về việc Thiên

Chúa tạo dựng nên vũ trụ,

chúng ta thƣờng dùng những

danh từ nhƣ thể vũ trụ đã đƣợc

hoàn tất. Nhƣng sự thật không

phải vậy. Các khoa học gia đã

chứng minh rằng vũ trụ này, từ

sau Big Bang, vẫn còn đang

tiếp tục „giãn nở“ và các ngôi

sao cùng các hành tinh vẫn còn

đang chuyển vận không ngừng

để đạt đến một trạng thái nào

đó!!

Ngay trái đất của chúng ta nữa,

các thềm lục địa và mọi tạo vật

cũng đang còn biến đổi không

ngừng, nên đã gây ra những

thiên tại và động đất mà chúng

ta vừa diễn kiến trong những

tháng vừa qua...

Không phải chỉ có các khoa

học gia mới hiểu biết nhƣ vậy.

Thánh Phaolô trong lá thƣ gửi

cho các tín hữu thành Rôma đã

nói rằng: „Các tạo vật khắp nơi

cón đang đau đớn chuyển bụng

sinh ra.“ (Rôma 8, 22)

Sự tạo dựng chƣa hoàn tất có

nghĩa là Thiên Chúa muốn

(désirer) chúng ta tự do: Ngài

không muốn dựng nên chúng

ta „có sẵn“ mà phải có sự đóng

góp của chúng ta. Khi tạo dựng

nên chúng ta một cách chƣa

hoàn hảo, Thiên-Chúa mời gọi

chúng ta tự quyết định lấy

tƣơng lai của chúng ta. Điều

này có lẽ khó đối với chúng ta,

đôi khi nguy hiểm. Nhưng giao

ƣớc của Thiên-Chúa vẫn còn

đó, và Ngài luôn ở bên cạnh để

phù trợ chúng ta: „Thầy ở

cùng với chúng con mỗi ngày

cho đến tận thế.“ (Mathiêu 28,

20)

Do đó, sự tin tƣởng vào sự

quan phòng của Thiên Chúa là

một điều kiện thật thiết yếu.

Nhƣ Chúa Giêsu đã chọn sa

mạc và ăn chay 40 ngày đêm

theo sự thúc đẩy của Thần Khí

(một sự lựa chọn mà có lẽ

không một ngƣời đời nào có

thể giải thích nổi), trong ƣớc

muốn phải luôn có sự lựa

chọn, và trong lựa chọn luôn

kèm theo ít nhiều hãm mình và

hy sinh.

2- Cách lựa chọn thứ nhất

của Chúa Giêsu:

„Đây là Con Ta yêu dấu, kẻ

mà Ta thƣơng yêu hết lòng,

Các ngƣơi hãy nghe lời

Ngài.“ (Mathiêu 17, 5)

Rất thông thƣờng, chúng ta

cho rằng cuộc sống của chúng

ta là CỦA CẢI của chúng ta, là

QUYỀN sở hữu của chúng ta

(la vie comme un du, et com-

me un droit), không một ai, kể

cả Thiên Chúa, cũng không

được đụng đến hay can thiệp

vào.

Do đó, chúng ta sử dụng cuộc

sống của chúng ta nhƣ chúng

ta muốn, nhƣ chúng ta nghĩ,

mà không cần đếm xỉa đến lời

khuyên bảo của ngƣời khác.

Thậm chí đến cả lời của Chúa,

chúng ta cũng không cần áp

dụng trong cuộc sống (!).

Chúng ta chỉ chạy theo những

lý thuyết nào xuôi với tai của

chúng ta (hiện tƣợng này rất

thông thƣờng trong xã hội hôm

nay). Trong cuộc sống, chúng

ta cƣ xử nhƣ chúng ta sẽ sống

mãi ở trên thế gian này và

không bao giờ lìa bỏ nó...

Bài học của việc Chúa Biến

Hình trên núi không đặt trọng

tâm ở việc Chúa Giêsu hiện ra

ở giữa hai vị tiên tri Isaia và

Maisen (vì Chúa Giêsu đã căn

dặn các môn đệ không đƣợc

thuật lại liền cho những ngƣời

khác!), nhƣng chính là lời phán

của Chúa Cha: „Các ngƣơi hãy

nghe lời Ngài.“

Nếu chúng ta đọc lại đoạn

Phúc Âm của thánh Mathiêu 4,

8-10, thì nguyên tắc thứ nhất

để làm chủ ước muốn của

mình chính là phản ứng của

Chúa Giêsu trƣớc cám dỗ thứ

hai của ma quỷ: Hãy làm đi...

vì Ngài làm chủ thân phận của

mình mà, Chúa Cha sẽ phải

theo ý Ngài (mets Dieu à ton

service). Hãy làm tất cả những

điều điên cuồng nhất như Ngài

muốn, vì sẽ không có gì có thể

làm tổn hại đến cuộc sống và

cơ thể bất tử (corps immortel)

của Ngài, vì Chúa Cha sẽ sai

thiên thần đến cứu Ngài...

Nhƣng Chúa Giêsu đã làm

ngƣợc lại, Ngài đã từ chối khả

năng làm chủ lấy cuộc sống

của Ngài: Ngài muốn hiện hữu

nhƣng không muốn có sở hữu

gì cả, từ một cái nhỏ nhất cho

đến tất cả cơ thể của Ngài (Il

veut exister en ne possédant

rien, ni une chose ni toutes

choses ni soi-même). Ngài

muốn nhận lấy hoàn toàn từ

Chúa Cha.

„Các ngươi hãy nghe lời

Ngài.“ hay còn có thể nói là

„Hãy làm theo Ngài.“ Lời nhắn

nhủ này phải vọng mãi trong

trái tim của mỗi ngƣời chúng

Trang 48 Linh Thao

Page 49: LT2007

ta. Trong những ƣớc muốn và

những chọn lựa, chúng ta hãy

đặt mình làm kẻ phục vụ

Thiên Chúa, nhƣ Chúa Giêsu

đã đặt mình hoàn toàn theo

chƣơng trình của Chúa Cha.

3- Cách lựa chọn thứ hai của

Chúa Giêsu:

„Ai uống nước giếng này sẽ

còn khát: nhƣng ai uống một

lần nƣớc của Ta ban cho sẽ

không bao giờ khát nữa, vì

nƣớc Ta ban cho ai thì nơi

ngƣời ấy sẽ trở thành mạch

nƣớc vọt đến sự sống đời

đời.“ (Gioan 4, 13-14)

Đói và khát là những đòi hỏi tự

nhiên và chính đáng của xác

thịt, vì nó liên quan đến sự

sống còn của xác thịt. Riêng

đối với loài người, cảm giác sợ

thiếu (peur de manque) cũng

đủ làm cho con người đặc biệt

quan tâm chú ý đến: Con

ngƣời có thể lăn xả vào nhau

để giành giật một cách điên

cuồng và để chiếm lấy của ăn,

vật dụng tiêu xài, gom góp của

cải, hƣởng thụ một cách tối

đa,... theo những ước muốn

cấp kỳ của mình. Ngoài ra,

cảm giác sợ thiếu còn có ảnh

hƣởng trên một nhóm ngƣời

h a y m ộ t đ á m đ ô n g

(collectivement) trong những

cuộc chiến đổ máu với mục

đích cuối cùng là thỏa mãn cái

sợ thiếu của họ.

Chúa Giêsu, trƣớc cám dỗ của

ma quỷ (Mt 4, 3-4), Ngài

không chùng bƣớc vì những

đòi hỏi của xác thịt (đói),

nhƣng trái lại, Ngài để ƣu tiên

cho lời nói, cho sự trao đổi và

cảm thông (lời từ miệng Thiên-

Chúa phán ra). Chúa Giêsu

không đặt nặng trên cái đói,

không vì muốn chê bỏ hƣơng

vị và ích lợi của thức ăn,

nhƣng Ngài muốn nhấn mạnh

rằng: trƣớc miếng ăn, con

ngƣời phải chú trọng đến sự

chia sẻ, cảm thông và tƣơng

trợ.

Thật vậy, một bữa ăn sẽ mang

tính ngƣời nếu ngƣời ta không

lăn xả vào giành giật lấy thức

ăn để thỏa mãn cho riêng

mình, nhƣng là dịp để chia sẻ

miếng ăn, chia sẻ lời nói và là

nơi để gặp g“giữa ngƣời với

ngƣời. Nói cách khác, con

ngƣời sẽ mang trọn tính ngƣời

nếu con ngƣời làm chủ đƣợc

những đòi hỏi của xác thịt qua

những ƣớc muốn, qua lời nói,

và qua quan hệ giữa ngƣời với

ngƣời.

„Ai uống một lần nước của Ta

ban cho sẽ không bao giờ khát

nữa, vì nƣớc Ta ban cho ai thì

nơi ngƣời ấy sẽ trở thành mạch

nƣớc vọt đến sự sống đời

đời.“ : Nước của Chúa Giêsu

ban cho không chảy thấp tầm

thƣờng, những ai đã một lần

đón lấy nước này sẽ trở nên

mạch nƣớc vọt lên ! Phải

chăng làm chủ xác thịt, biết

dẹp bỏ những ƣớc muốn thấp

hèn của mình chính là trách

nhiệm của mỗi ngƣời trong

việc hoàn tất công trình tạo

dựng của Thiên Chúa, và tiến

đến làm con Thiên Chúa thật

sự...

4- Cách lựa chọn thứ ba của

Chúa Giêsu:

„... Chính để phán xét mà Ta

đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ

không thấy thì đƣợc thấy, và

kẻ thấy đƣợc lại hóa đui mù...

Nếu các ngƣơi mù, thì các

ngƣơi đã không mắc tội, nhƣng

vì các ngƣơi nói: chúng tôi

xem thấy, nên tội các ngƣơi

vẫn còn.“ (Gioan 9, 39 & 41)

Ngƣời không thấy thì đƣợc

thấy, vì đó là chuyện thƣờng

tình: Chúa Giêsu đến thế gian

cứu lấy họ. Nhƣng ở đây, tại

sao ngƣời thấy đƣợc lại hóa

đui mù?

Điều chắc chắn ở đây, Chúa

Giêsu không muốn ai bị đui

mù hết! Nhƣng họ tự làm cho

họ đui mù, vì họ không chấp

nhận việc làm của Chúa Giêsu,

không muốn chấp nhận sự thật.

Vì khi chấp nhận việc làm của

Chúa Giêsu, có nghĩa là họ

phải chấp nhận Chúa Giêsu

làm Thầy của họ (Gioan 9, 27),

và họ phải chấp nhận để cho

dân chúng nghe theo lời Chúa

Giêsu (Gioan 9, 22): tự ái, kiêu

Linh Thao Trang 49

Page 50: LT2007

Trang 50 Linh Thao

ngạo, quyền lực, quyền lợi...

của họ sẽ bị tan biến theo.

Cái giá phải trả cho sự ích kỷ,

tự ái, quyền lực và quyền lợi

bất chính... là cúi mình tuân

theo quyền lực của ma quỷ

(Mathiêu 4, 9). Do đó, trong

đoạn Phúc Âm của thánh

Gioan, chúng ta thấy: cha mẹ

có thể từ bỏ và không bênh

vực con chỉ vì quyền lợi cá

nhân, các biệt phái thiếu điều

muốn giết đi ngƣời mù đƣợc

chữa lành chỉ vì không cho dân

chúng biết sự thật về Chúa

Giêsu. Chúa Giêsu, trong sự tự

do của Ngài, đã quay mặt từ

chối tôn thờ sức mạnh (tôn thờ

ma quỷ) để nhấn mạnh là : chỉ

riêng có Thiên Chúa là Đấng

duy nhất để chúng ta tôn thờ,

và không một ngƣời nào có

quyền quyết định số phận của

ngƣời anh em mình (ngƣời

khác).

Chúa Giêsu, qua hành động

vƣợt thắng cám dỗ này, Ngài

hạ bệ mọi quyền lực của sức

mạnh, dẹp bỏ mọi vũ lực.

Chính bản thân của Ngài, Ngài

bƣớc vào đời bằng đôi bàn tay

trắng, nghèo khó và yếu đuối

nhƣ mọi con ngƣời khác.

Vì vậy, sống bình đẳng nhƣ

anh em một nhà, và sống hoà

hợp với mọi ngƣời không tìm

cách khống chế, là một cách

sống mà Thiên Chúa mời gọi

chúng ta cùng sống. Do đó,

ƣớc muốn của chúng ta không

bao giờ đƣợc đƣợm tính ích

kỷ, kiêu ngạo, tìm lấy quyền

lợi và quyền lực hơn những

ngƣời anh em của chúng ta.

Hãy tự nhủ mình: chúng ta có

nợ yêu thƣơng với mỗi ngƣời

mà chúng ta có dịp tiếp xúc

đến... Và chỉ có Thiên Chúa

mới có quyền tỏ ra uy lực của

Ngài. Đó chính là một đời

sống sáng suốt!

5- Cách lựa chọn thứ tư của

Chúa Giêsu:

Chúng ta nhìn về cuộc khổ nạn

của Chúa Giêsu, chắc chắn

chúng ta sẽ có dịp đặt câu hỏi

về cái chết của con ngƣời, và ý

nghĩa của nó.

Câu hỏi của mỗi ngƣời chắc

chắn sẽ hơi khác nhau, nhƣng

không qua khỏi 2 câu hỏi sau

đây: Tôi là một người đang

sống để đi đến cái chết, hay là

một xác phàm tục này sẽ mục

nát để đi đến cái sống ? (Suis-

je un être vivant dont l‟horizon

est la mort ou un être mortel

dont l‟horizon est la vie?)

Trong phần đầu tiên của câu

hỏi, chúng ta thấy rõ ràng là

ƣớc muốn của chúng ta bị giới

hạn bởi cái chết: vì khi cái chết

đến, nó chấm dứt mọi ước

muốn. Còn phần thứ hai của

câu hỏi, chúng ta thấy rằng:

ƣớc muốn của chúng ta vẫn

còn tiếp tục sau cái chết. Đặc

biệt hơn nữa, sau cái chết, ƣớc

muốn của chúng ta còn đạt

được chiều kích rộng lớn hơn

(chiều kích thực của nó! ).

Chúng ta đã nhìn đƣợc gƣơng

của Chúa Giêsu trƣớc 3 cơn

cám dỗ trong sa mạc. Bây giờ

chúng ta suy nghĩ về cách lựa

chọn thứ tƣ của Chúa Giêsu,

và cũng là sự lựa chọn cao vời

nhất: đó là biết mang cái ƣớc

muốn của mình xuyên qua và

thoát qua cái chết (porter le

désir à travers et au-delà de la

mort).

„Porter le désir à travers et au

-delà de la mort“, đó chính là

tâm tình của Chúa Giêsu trong

cuộc Thƣơng Khó của Ngài.

Chúng ta hãy tập mặc lấy tâm

tình này và chiêm niệm cuộc

Thƣơng Khó một lần nữa, chắc

chắn chúng ta sẽ nhìn Chúa

Giêsu với một con mắt khác,

và chúng ta sẽ hiểu rõ hơn mầu

nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh

của Ngài...

Cụ thể trong đời sống của mỗi

ngƣời trong chúng ta: việc

„porter le désir à travers et au-

delà de la mort“ chính là việc

sống trọn vẹn và đúng ơn kêu

gọi của mỗi ngƣời. Vì chắc

chắn khi sống trọn vẹn ơn kêu

gọi của mình, sẽ có những lúc

chúng ta phải trải qua cuộc

thƣơng khó. Và khi vƣợt qua

được nó, đó là lúc chúng ta

góp phần vào công cuộc Cứu

Độ của Chúa Giêsu…

Lạy Cha, xin cho con luôn biết

lắng nghe lời Con của Cha dạy

bảo và cho con biết can đảm

quyết định, cùng thực hiện

những lựa chọn trong đời sống.

NTH

Page 51: LT2007

Linh Thao Trang 51

rong một tỉnh nhỏ t ạ i

Việt Nam, có gia đình kia,

khá giả, đƣợc nhiều ngƣời kính

nể. Họ rất sùng đạo, ngoài việc

đi tham dự thánh lễ ngày Chủ

Nhật, và còn đi lễ mỗi ngày.

Họ có 5 ngƣời con: 4 trai và cô

gái út.

Ngƣời cha nghiêm khắc và thủ

cựu, bà mẹ vui vẻ, hoạt bát.

Mấy ngƣời con, ngoài việc học

luôn giúp đỡ gia đình. Đặc biệt

gia đình họ rất sốt sắng giúp

Giáo Xứ khi cần đến. Cô gái út

giúp Cha xứ hƣớng dẫn các

thiếu nhi cùng với những

huynh trƣởng khác, cô xinh

đẹp, dịu dàng, đạo đức nên

được nhiều người thương mến.

Mẹ cô thƣơng yêu chìu chuộng

săn sóc cô luôn, mặc dù cô đã

18 tuổi. Trái lại cha cô hay

kiểm soát cấm đoán cô. Vì ông

sợ tai tiếng, ông luôn nhắc nhở

các con gìn giữ phong tục, tập

quán, đạo đức... Ông có vẻ

nghiêng về 4 ngƣời con trai

hơn. Chính vì vậy, bà mẹ càng

bênh vực bao che cho cô út, có

khi còn đồng lõa nữa. Đối với

ngƣời cha, ông cho con trai là

quan trọng, là con mình, con

gái là con của ngƣời ta. Ông ta

thƣờng nói: "Nhất nam viết

hữu, thập nữ viết vô". Mỗi lần

nghe nhƣ vậy cô buồn lắm, cô

ít thân mật với cha, tuy thƣơng

cha rất nhiều nhƣng cô lại giữ

khoảng cách với cha. Có việc

gì cô hay trình bày với mẹ,

riêng với cha, cô không hề

dám nói.

Trong xứ đạo có vị linh mục

tuổi chừng 30, ông hiền lành

nhƣ con gái, nụ cƣời lúc nào

cũng nở trên môi, nếu không

có chiếc áo dòng, chắc không

ai biết ông là linh mục mà chỉ

nghĩ rằng đây là cậu thƣ sinh

mà thôi. Ông cũng sinh hoạt

hăng say với các thiếu nhi và

huynh trƣởng, mọi việc rất êm

đềm, vui vẻ. Thỉnh thoảng, vị

Linh Mục này cùng với huynh

trƣởng tổ chức cắm trại cho

các em thiếu nhi trong vƣờn

cây lớn của những tƣ nhân

giàu có, với những trò chơi vui

cƣời, sống động, dẫn vào học

hỏi Thánh Kinh.

Sau những lần sinh hoạt thiếu

nhi hay cắm trại, cô út thƣờng

kể cho mẹ nghe những chuyện

vui buồn. Nhƣng lần này, bà để

ý thấy con gái của bà không kể

cho bà nghe những chuyện

sinh hoạt, những trò chơi cƣời

bò nhƣ lúc trƣớc. Trái lại, bà

thấy cô đăm chiêu, suy nghĩ,

cô ít cƣỡi giỡn nhƣ lúc trƣớc,

cô thích ngồi một mình, thẫn

thờ, mỗi lần bà mẹ đến gần hỏi

thăm thì thấy cô có vẻ bối rối.

Từ lúc đó cô thƣờng ở trong

phòng hơn ra ngoài. Vài tuần

sau, cô bắt đầu biếng ăn, con

ngƣời ốm yếu, gƣơng mặt nhƣ

mất hồn, mắt quầng thâm mất

ngủ. Mẹ cô lo lắng, đƣa cô đi

bác sĩ, cô không có bệnh gì, cô

chỉ mệt mỏi, thiếu máu, không

trầm trọng. Từ lúc đi cắm trại

về, cô thay đổi khác thƣờng.

Cô thƣờng thở dài thất vọng

sau mỗi lần đi lễ về. Rồi cô bỏ

không đi sinh hoạt thiếu nhi,

mấy huynh trƣởng đến thăm

nhà cô, họ ngạc nhiên vô cùng.

Nhìn cô héo hắt, tàn tạ, nằm

liệt giƣờng. Hình ảnh cô thiếu

nữ xinh xắn, duyên dáng, tháo

vát không còn nữa, chỉ còn

thân xác gầy ốm, xanh xao,

bao nhiêu bác sĩ lắc đầu, bó tay

vì tìm không ra căn bịnh. Mọi

ngƣời trong gia đình lo lắng và

thất vọng về tình trạng sức

khoẻ của cô. Sau cùng cô nói

với cha mẹ và các anh cho cô

gặp vị Linh Mục để xƣng tội,

lập tức mọi ngƣời làm theo ý

cô. Khi vị Linh Mục đến để

giải tội, cha mẹ và các anh cô

tụ họp trong phòng khách cầu

nguyện cho cô. Nhƣng mọi

ngƣời đều thắc mắc, tại sao cô

xƣng tội mấy tiếng đồng hồ.

Sau khi vị Linh Mục ra về, lạ

lùng thay cô gái tỉnh hẳn, vui

cƣời nhƣ vừa uống thuốc tiên.

Một tuần sau, cô tiếp tục đi

học và sinh hoạt thiếu nhi trở

lại.

Thời gian nhƣ vậy gần một

năm. Một hôm, gần đến ngày

hẹn đi cắm trại thì vị linh mục

này đi vắng, không ai biết ông

đi đâu? Ngày này sang ngày

nọ, hỏi nhau, ai cũng không

biết và có vị linh mục khác đến

làm lễ, trông coi Giáo Xứ. Từ

đó, giáo dân bắt đầu xầm xì,

bàn tán, nghi ngờ, họ đƣa ra

giả thuyết này, nghi vấn kia,

cuối cùng không ai biết linh

mục này đi đâu? Tại sao ông ra

đi không một lời từ giã?

Sự ra đi không một lời từ giã

của vị linh mục trẻ làm cho

những ngƣời phụ tá cũng nhƣ

những huynh trƣởng đều đau

buồn, thƣơng mến. Riêng cô út

không đến giáo xứ nữa, cô bỏ

Page 52: LT2007

học luôn. Một ngày kia, cô xin

phép cha mẹ, các anh lên Sài

Gòn học buôn bán với dì

dƣợng. Dì dƣợng của cô có

tiệm buôn khá lớn. Khi nghe

cô có ý định nhƣ vậy, cha mẹ

và các anh nhất định không

cho. Nhƣng cô ráng thuyết

phục, nài nỉ, van xin mỗi ngày.

Thấy cô nhất quyết chọn nghề

thƣơng mại, cha mẹ, các anh

cũng đành chìu. Rồi cô lên Sài

Gòn ở. Dì dƣợng có một hãng

buôn lớn, nên cô có nhiều việc

để làm: Phụ giúp, học hỏi, cô

cũng đƣợc dì dƣợng trả lƣơng

khá cao, mỗi tháng cô đều về

thăm cha mẹ. Mọi việc đều đặn

nhƣ vậy, những ngƣời làm của

các hãng khác cô cũng đƣợc

quen biết qua những lần đặt

hàng. Dần dần cô có rất nhiều

bạn, thỉnh thoảng dì dƣợng cho

phép cô đi dự sinh nhật bạn bè,

và thƣờng ngủ qua đêm với các

bạn.

Nhƣ thƣờng lệ, cuối tháng cô

xin phép dì dƣợng về quê thăm

gia đình. Lần này, cô đi lâu

hơn những lần trƣớc, dì cô

nóng ruột vô phòng xem, mở

tủ ra, thì hỡi ơi quần áo và

những đồ cá nhân cô đã mang

theo tất cả. Dì kiếm thấy lá thƣ

để lại cho cha mẹ, các anh và

dì dƣợng, cô đã làm phiền mọi

ngƣời vì quá lo lắng cho cô.

Bây giờ cô phải rời khỏi mọi

ngƣời để sống cho hạnh phúc

và lý tƣởng của cô, xin mọi

ngƣời đừng báo cảnh sát vì nơi

cô ở rất an toàn và êm đềm.

Đọc thư của cô út xong, bà dì

về ngay gia đình của cô út và

đưa lá thư này cho gia đình cô

xem. Đọc thƣ xong, cha mẹ và

các anh khóc nhƣ đám ma của

cô vậy. Mọi ngƣời không ai

hiểu tại sao cô làm nhƣ thế?

Theo ai? Ở đâu? Sống nhƣ thế

nào? Gia đình của cô bắt đầu

sóng gió, cha cô cứ trách mắng

mẹ cô, các anh cô thì hăm doạ

những ai là ngƣời quyến dụ cô.

Gia đình của cô không còn êm

đềm, không còn những bữa

cơm chung, những lời nói nặng

nhẹ lẫn nhau, giông bão lớn

đang làm sụp đổ hạnh phúc

trong gia đình, trong từng cá

nhân. Gia đình của cô dấu

chuyện này với họ hàng, với

ngƣời chung quanh, nhƣng rồi

ai cũng biết tin con gái út của

ông bà đại điền chủ đã bỏ nhà

theo trai. Chuyện này thật nhục

nhã cho gia đình gia giáo và

thủ cựu của cha cô. Bây giờ,

ông không còn nhƣ xƣa, không

ăn mặc sang trọng đi dự tiệc

này, tiệc nọ nhƣ trƣớc đây,

tiếng nói của ông không còn

nữa, ông thu mình trong nhà.

Mọi công việc có mẹ và các

anh của cô lo.

Thời gian từ từ trôi qua, các

anh cũng có vợ, có con. Cái

đau khổ, buồn bã, bị người đời

chê trách tƣởng nhƣ đã làm tê

liệt mỗi ngƣời, nhƣng bây giờ

họ đã tỉnh dần lại. Sau khi

những đứa cháu nội kháu

khỉnh ra đời, gia đình cô bắt

đầu có tiếng cười, tiếng khóc

của trẻ thơ, những bận bịu, lo

lắng đã làm cho chuyện cô út

đươc lắng đọng xuống.

Gần 7 năm sau, bây giờ cũng

đến ngày mùa trăng sáng,

những tá điền gặt lúa mang về

góp lúa cho điền chủ, tiếng giã

gạo, tiếng chày khua, những

tiếng cƣời, tiếng nói của những

ngƣời tá điền làm vui hẳn lên.

Từ tờ mờ sáng nghe tiếng hót

của những đàn chim, tiếng

xuồng ghe nhộn nhịp làm cho

gia đình cô út sống lại. Vì bao

nhiêu năm, từ ngày cô út bỏ

nhà ra đi, họ đã bỏ quên và ngủ

yên trong đau khổ. Một hôm cả

nhà quây quần bên mâm cơm,

đang vui vẻ trò chuyện thì

ngƣời đƣa thƣ tới. Ngƣời anh

cả ra nhận thƣ. Anh không lầm

đây là nét chữ của em gái

mình, anh mừng quá, cha mẹ

ra lệnh cho ngƣời anh đọc thƣ

này để cả nhà cùng nghe.

Bây giờ mọi ngƣời biết rõ, cô

đã có chồng và 4 con, đang ở

rất xa quê nhà. Cô xin mọi

ngƣời thƣơng mà tha thứ cho

cô. Cô muốn gặp cha mẹ, các

anh trƣớc khi cô lên bàn mổ.

Được tin cô út cả nhà đều

mừng, bà mẹ vừa mừng vừa lo

lắng cho cô nên bà khóc. Còn

cha của cô, lần đầu tiên mọi

ngƣời thấy ông quá xúc động

chảy nƣớc mắt. Thế là cha mẹ,

hai anh đi tìm cô. Họ đi từ

sáng sớm đến chiều tối mới tới

nơi cƣ ngụ của vợ chồng cô.

Đến nơi, cha mẹ và hai anh

đứng ngoài nhìn ngắm căn nhà

của cô, căn nhà nghèo nàn, đơn

sơ, chứ không nhƣ căn nhà cô

sống khi xƣa với gia đình. Họ

đứng trước nhà như vậy một

lúc rồi mới gõ cửa. Khi chồng

cô nhìn thấy có ngƣời liền

chạy ra mở cửa và chào đón.

Mẹ cô miệng lắp bắp không

biết nói gì, còn cha cô với 2

anh đứng ngó chết sửng nhƣ

trời trồng. Nghe tiếng mở cửa

và chào hỏi của chồng, cô bế

đứa nhỏ nhất đi ra, vừa thấy

cha mẹ, 2 anh, cô mừng phát

khóc, cô gào lên nhƣ chƣa bao

giờ đƣợc khóc. Thấy ngƣời lạ

đến nhà, mẹ thì gào khóc, bố

đứng yên, mấy đứa bé quá sợ

nắm chặt tay bố, mắt ngơ ngác

nhìn ngƣời này đến ngƣời

khác. Qua những giây phút xúc

động như vậy, vợ chồng cô

mời mọi ngƣời vào nhà. Cha

mẹ và hai anh tƣởng nhƣ vừa

trải qua một cơn mê. Trƣớc

Trang 52 Linh Thao

Page 53: LT2007

mặt họ, chồng của cô út là vị

linh mục trẻ ngày nào, bây giờ

là con, là em rể trong gia đình.

Cách xƣng hô bây giờ khó quá.

Từ bấy lâu nay dƣ luận xôn

xao, họ xì xầm, bàn tán đến tai

ông bà, các anh, nhƣng họ

không tin, ngày nay sự thật đã

rõ ràng.

Bảy năm trƣớc đây, mỗi lần

gặp vị Linh Mục này, cha mẹ,

các anh của cô út cung kính

mỗi điều là cha xƣng con quá

quen thuộc. Giờ đây, gặp lại

cha mẹ, các anh của cô làm ông

ta sợ sệt, khúm núm. Suốt buổi

trò chuyện thật ngƣợng ngùng,

họ sống với nhau đã có 4 đứa

con, bây giờ trƣớc mặt những

ngƣời trong gia đình của vợ,

ông không biết phải làm sao,

qua lời nói, cử chỉ thật vụng về.

Ở đƣợc 2 ngày thì bầu không

khí thân mật hơn, đỡ vụng về,

ngƣợng ngập nhƣ lúc đầu. Nhìn

các cháu xinh đẹp, dễ thƣơng,

ngây thơ làm cha mẹ, hai anh

cũng hết giận.Chồng cô đƣa

cha và 2 anh ra ngoài uống cà

phê. Mẹ tìm cách ở nhà tâm

tình, trò chuyện với con út,

thừa dịp này mẹ cô dỗ dành

khuyên cô kể cho bà nghe hết

sự thật tại sao có ngày hôm

nay.

Trong giây phút im lặng, cô

vừa kể vừa khóc: Năm cô 17

tuổi, cha cô hay cấm đoán, rầy

la, khắt khe với cô, mỗi lần cô

đi sinh hoạt về thì cô thường

khóc. Cô đến tâm sự với vị linh

mục này, cô đƣợc an ủi, dỗ

dành, trong những lời nói ngọt

ngào, êm dịu. Qua những cử

chỉ nhẹ nhàng, đặt tay trên vai

cô rất là thƣơng mến, đặc biệt

là ánh mắt hiền từ của ông đã

làm cho cô thƣơng ông nhiều

hơn, cô thƣờng so sánh ông và

cha của cô, cha cô chƣa hề có

những lời nói với những cử chỉ

này. Cô thèm khát sự an ủi, dìu

dắt, nâng đỡ của ngƣời cha

nhƣng chƣa bao giờ đƣợc. Vì

thế, cô cảm thấy cô gần gũi với

vị Linh Mục này hơn cha của

cô. Trong tình thƣơng đó với

những lần sinh hoạt chung, làm

tình thƣơng gia tăng, cô bắt đầu

mơ mộng có ngƣời chồng

giống ông. Với ƣớc mơ khát

khao đó, cô hay ngủ mơ thấy đi

bên cạnh ông, đƣợc ông âu

yếm, trìu mến hôn nhau đắm

đuối như người tình. Nên từ đó,

mỗi ngày cô phải đến Giáo Xứ,

cha mẹ, các anh tƣởng cô

ngoan ngoãn, nhƣng sự thật cô

muốn nhìn vị linh mục mỗi

ngày. Cô đã yêu ông ta lúc nào

không biết, cô yêu thật nhiều.

Trong lòng luôn ngấm ngầm

nghĩ ông ta phải là của riêng

mình. Có một hôm, cũng nhƣ

những lần trƣớc tổ chức đi cấm

trại trong vƣờn cây. Vào vƣờn

thấy trái cây chín, xum xê, mọi

ngƣời mê mệt nhìn ngắm. Lợi

dụng cơ hội này cô đƣa vị linh

mục đi xa ra vƣờn, cô nhìn

quanh không thấy ai, cô làm bộ

té ngã, đứng lên không nổi, vị

Linh Thao Trang 53

Page 54: LT2007

linh mục buộc lòng phải dìu cô

đứng lên, cơ hội đã đến, cô vội

ôm chầm lấy ông hôn tới tấp.

Vì quá bất ngờ, ông ta không

kịp phản ứng, ông xô nhẹ cô

ra, lúc đó nhìn ông thật bối rối,

thế là ông ta đi nhanh vào chỗ

các huynh trƣởng đang cắm

lều. Tâm trạng của cô lúc đó

nửa tỉnh nửa mê thêm sự thẹn

thùng. Suốt buổi cắm trại cô

cảm thấy không đƣợc bình an.

Sau chuyến cắm trại đó, ông ta

tìm cách tránh né cô, cô buồn,

suy nghĩ nhiều làm cô mất ngủ,

thất vọng, bỏ học, bỏ ăn, bỏ

uống, tình yêu thầm kín đã ngự

trị trong lòng cô, thế là cô bị

bệnh tƣơng tƣ.

Một hôm, vì quá nhớ thƣơng vị

linh mục, nên cô xin đƣợc gặp

để xưng tội và xức dầu. Trong

lúc cô bệnh nặng muốn xƣng

tội và xức dầu nên vị linh mục

trẻ này không thể tránh né

được nữa. Ông phải đến giải

tội cho cô. Trong mấy tiếng

đồng hồ, thay vì xưng tội thì cô

tâm sự, cô tha thiết yêu thƣơng

ông, nếu không có ông chắc cô

không sống nổi, cô nói thao

thao bất tuyệt, ông ta chỉ ngồi

yên. Sau cùng, ông xin phép ra

về. Ông vuốt nhẹ tóc cô, chúc

cô mau bình phục. Chỉ có vậy

thôi mà cô tỉnh hẳn, thấy yêu

đời trở lại.

Sau khi hết bệnh, cô trở lại

sinh hoạt bình thƣờng, có lần

cha mẹ cô lên Sài Gòn thăm dì

dƣợng mấy ngày, cô đến Giáo

Xứ gặp riêng vị Linh mục. Lần

đó, vị Linh mục bị sa ngã vì

cô, rồi ông tìm cách đi xa, cởi

áo dòng để ẩn náu. Khi biết

ông cởi áo dòng đi xa, lòng cô

đau đớn vô cùng, tuyệt vọng,

chán chƣờng. Cô dứt khoát

nghỉ học để về Sài Gòn phụ

giúp dì dƣợng, cô hy vọng với

công việc mới sẽ giúp cô quên

vết thƣơng lòng đang rỉ máu. Ở

đây, cô cũng quen những

ngƣời bạn mới, những con

đường mới, những quán ăn

mới. Có lần cô xin phép dì

dƣợng đƣợc tiễn chân ngƣời

bạn gái ra bến xe Miền Đông.

Định mệnh xui khiến cô gặp

lại vị linh mục này. Ông ta

cũng nhƣ ngày nào, nét hiền

hòa, thƣ sinh dƣới đôi kính

trắng. Hai ngƣời cùng một lúc

trông thấy nhau, họ vội vàng

ôm nhau mừng rỡ, quên hết

những ngƣời chung quanh

đang nhìn họ. Lần này cô cảm

thấy tình yêu của cô đang bừng

cháy mãnh liệt, ông ta cũng

nhìn cô tha thiết.

Họ đƣa nhau vào quán nƣớc,

trò chuyện với nhau. Ông ta

nói, từ đêm ông bị sa ngã, bị

lôi cuốn vào sự đam mê, khi

tỉnh lại, ông luôn mặc cảm tội

lỗi. Trƣớc mặt Chúa, ông cảm

nhận con ngƣời của ông không

xứng đáng, lƣơng tâm dày vò,

đau khổ. Ông quyết định cởi

áo dòng, đi xa hầu quên hết

mọi sự. Ông cố tình đi xa để

không ai biết ông. Thế rồi, ông

đọc báo thấy ở trường tư thục

đang cần có giáo sư dạy toán

lý hoá, ông đến đó xin dạy học.

Lúc đầu họ trả lƣơng rất ít

nhƣng qua mấy tháng, họ nhận

thấy ông dạy giỏi, siêng năng,

cần mẫn, họ tăng lƣơng rất cao

để cố ý giữ chân ông lại. Ông ở

trọ trong căn nhà nhỏ cách Sài

Gòn mấy chục cây số. Hôm

nay, ông đi thăm một đứa học

trò bịnh nặng đang nằm bệnh

viện.

Còn cô út, từ lúc linh mục bỏ

đi, cô không còn tham vọng

nào nữa, bỏ tất cả để lên Sài

Gòn tìm quên lãng trong

những công việc buôn bán...

Hai ngƣời tâm sự đến đây thì

phải chia tay để trở về với bổn

phận của mình. Lần này, ông

ta không còn chạy trốn cô nữa

mà cho cô ta địa chỉ, hy vọng

gặp lại nhau.

Trở về nhà dì dƣợng, cô cảm

thấy lòng nôn nao, chao đảo,

tình yêu thúc đẩy cô dữ dội. Cô

sẽ đến địa chỉ này. Bây giờ cô

có tiền, có tự do hơn lúc sống

với cha mẹ, các anh. Cô đợi

đến cuối tuần, xin phép dì

dƣợng, cô nói dối đi ăn hỏi của

ngƣời bạn ở xa, phải ngủ lại

qua đêm. Thế là trƣa thứ bảy

đó, cô đã ở bên cạnh người cô

yêu quí, lúc này họ không thể

nào xa nhau nữa, họ quyết tâm

sống bên nhau. Chiều chủ nhật

đã đến, họ thật đau lòng vì

phải chia tay. Họ thề hứa với

nhau, dù trong hoàn cảnh nào

cũng phải có nhau bên cạnh.

Sau chuyến đi này, cô út thu

xếp mọi việc, áo quần gói gọn

lại, viết lá thƣ sẵn, cuối tháng

Trang 54 Linh Thao

Page 55: LT2007

cô nói về quê thăm cha mẹ là đi

luôn.

Bà mẹ nghe con gái kể chuyện

mà giật mình, bà không ngờ

con gái của bà thùy mị, đoan

trang, hiền lành mà dám làm

những việc tày trời nhƣ vậy.

Rồi cô kể tiếp, từ tháng đó cô

đã trở thành vợ của vị linh mục

này, cô đƣợc đi dạy học chung,

với số lƣơng của hai ngƣời

cuộc sống đƣợc dƣ giả. Khi cô

có con, cô phải mƣớn căn nhà

đang ở đây và nghỉ dạy học để

chăm sóc cho con. Vợ chồng

cô rất hạnh phúc. Nhƣng có

một điều lạ, nếu có tiền, con bị

bệnh, vợ chồng thay phiên

bệnh, nên lâm vào cảnh túng

thiếu. Tới khi sanh đứa con thứ

4, bác sĩ cho biết cô bị bứu nên

phải mổ. Cô đang chần chừ, lo

sợ, không biết bứu lành hay

bứu dữ, nếu có mệnh hệ nào,

cô bỏ lại chồng và 4 đứa con,

còn cha mẹ, các anh nữa. Nghĩ

đến cha mẹ, các anh, cô thấy

mình quá bất hiếu, tệ bạc. Sau

nhiều ngày suy nghĩ, cô quyết

định viết thư về cho cha mẹ,

các anh. Cô cũng tự nghĩ, vợ

chồng cô không thể nào sống

trong bóng tối hoài đƣợc. Ngày

nay, cô gặp lại cha mẹ, các anh,

cô chỉ biết khóc lóc xin lỗi thôi.

Qua câu chuyện tình của con

gái út, bà mẹ nhận thấy tất cả

tội lỗi do con của bà gây nên,

bà cảm thấy lạnh cả ngƣời, chỉ

vì yêu, mà tìm đủ mọi cách

chiếm đoạt, một ngƣời con gái

nhỏ bé mà dám làm điều mƣu

kế quỷ quyệt nhƣ vậy. Biết đâu

con của bà đang bị hình phạt,

bà cố yên ủi cô để cô đƣợc yên

tâm. Sau đó cha mẹ và hai anh

ra về, gom góp tiền bạc, thu

xếp mọi công việc rồi đƣa cô

lên Sài Gòn mổ. May mắn cho

cô, cô gặp bứu lành nên không

nguy hiểm gì đến tánh mạng.

Khi về nhà, cha mẹ họp các

anh lại để bàn việc đƣa cô út về

sống với gia đình. Lúc đầu mới

về sống chung không có gì xảy

ra. Nhƣng lâu dần cũng phải va

chạm, chị dâu, em chồng, cháu

nội, cháu ngoại, nên không khí

bắt đầu khó thở. Cha mẹ, các

anh đồng ý chia cho cô mấy

công ruộng, mấy công rẫy, cất

cho cô một căn nhà, một chiếc

ghe và một số vốn. Lúc này vợ

chồng cô bắt đầu làm quen với

việc đồng áng. Cô chỉ lo săn

sóc con cái và công việc nấu

nƣớng. Chồng cô cũng không

biết gì về ruộng rẫy, các anh

phải lo phụ và mƣớn thêm

ngƣời làm. Hết mùa lúa thì

phải làm rẫy, giăng câu, bắt

cá... Cứ đêm chồng cô giăng

câu, bắt cá, sáng sớm cô phải

mang cá ra chợ bán. Đáng lẽ

cuộc sống êm ấm, dƣ giả.

Nhƣng trái lại, mấy đứa con,

hết đứa này bệnh đến đứa kia,

vừa cực khổ, vừa không có

tiền. Nói chung nếu có tiền là

có chuyện, đầu tắt, mặt tối suốt

ngày. Một hôm, cô đang ngồi

bán cá ở chợ, thì gặp lại ngƣời

bạn học cũ, hai ngƣời quá

mừng vui, cô nhìn thấy bạn ăn

mặc sang trọng, lộng lẫy, còn

cô mặc chiếc áo bà ba tầm

thƣờng, cô thấy buồn cho số

phận. Ngƣời bạn này lên tiếng:

"Trời ơi! Bạn trẻ, đẹp nhƣ thế

này mà phải ngồi chợ bán cá

sao? thật uổng cho bạn quá,

nếu bạn muốn thì mình sẽ giúp

bạn, giới thiệu cho bạn một

việc làm trên Sài Gòn với

mình”. Cô út ngần ngại từ chối

vì còn chồng và 4 đứa con. Cô

bạn nói tiếp, “không sao, bạn

có 4 đứa con, nhƣng bạn còn

quá trẻ, bạn đi làm thì có tiền

giúp thêm cho chồng con, chứ

đi làm thì bỏ chồng con sao!

Bạn đi làm, hằng tháng về thăm

chồng con là đƣợc rồi. Cơ hội

đến mà không nhận, để mất

đừng tiếc nhé! Cứ suy nghĩ kỹ

rồi liên lạc với tôi, tôi hứa giúp

bạn hết khả năng”.

Trên đƣờng về nhà, cô suy nghĩ

miên man. Bạn mình nói đúng,

tuy mình có 4 đứa con, nhƣng

mình còn quá trẻ, nhiều ngƣời

nói mình càng sanh con càng

đẹp. Tại sao lại không nghe

theo lời bạn của mình, làm thƣ

ký không sung sƣớng hơn ngồi

bán cá sao? Nhƣng lên Sài Gòn

mỗi tháng chỉ về một lần, xa

chồng, xa con buồn quá, nay

mấy đứa con lại bệnh hoạn

nữa. Nghĩ đến đây cô tủi thân

dơm dớm nƣớc mắt. Về đến

nhà, cô hỏi ý kiến cha mẹ, các

anh. Cha cô và các anh không

đồng ý, chỉ riêng mẹ cô là chấp

nhận vì đây là cơ hội tốt cho

cô, tuy xa nhà nhƣng bà muốn

con bà có cuộc sống vƣơn lên

với mọi ngƣời, chứ ở nhà cô

quá cực khổ. Còn chồng cô, khi

nghe cô ngỏ ý muốn đi làm xa,

chàng yên lặng, cúi đầu buồn

bã, chàng cảm thấy xấu hổ vì

không đủ sức bảo bọc, lo lắng

cho vợ con, nên ngày nay vợ

muốn đi làm xa nhƣ vậy. Ông

càng buồn bã hơn nữa, khi vợ

ông trẻ, đẹp, con nhà giàu, vì

ông mà phải sống cực khổ, lam

lũ, nghĩ vậy nên ông không

dám lấy quyền làm chồng mà

ngăn cản cô, ông cũng biết bản

thân của ông giờ đây quá tầm

thƣờng. Ngoài việc ruộng, rẫy,

giăng câu, bắt cá..., đến việc

trong nhà. Ông không dám đi

đâu, vì mặc cảm luôn đè nặng

lên ông. Những lúc cực khổ

qúa ngƣời vợ trẻ còn cằn nhằn

những lời nặng nhẹ, ông vẫn

câm nín, nhịn nhục. Ông biết

thân phận của ông trong lúc

này, nếu lên tiếng không cho cô

đi làm xa thì thế nào cũng có

chuyện, ông để mặc cho cô

quyết định, cuối cùng cô nhất

định đi Sài Gòn làm việc. Mẹ

hứa tiếp tay với chồng cô để lo

cho các con.

Linh Thao Trang 55

Page 56: LT2007

Thế là cô liền tới nhà ngƣời

bạn này mƣợn ít bộ quần áo

hợp thời trang đi làm. Lâu lắm

rồi cô mới đƣợc mặc những

chiếc áo xinh đẹp, đƣợc phấn

son, chải chuốt, nhìn vô

gƣơng, cô nhận thấy mình còn

trẻ và xinh đẹp lắm, có thể hấp

dẫn hơn xƣa nữa. Khi tới Sài

Gòn cô đƣợc ở chung vói mấy

ngƣời bạn, họ độc thân nên

cuộc sống nhộn nhịp vui lắm.

Sáng hôm sau, ngƣời bạn dẫn

cô tới gặp ông thƣơng gia

ngƣời Hoa. Trong khi chờ đợi

gặp ông, cô hồi hộp, lo sợ

không biết ông có nhận cô vào

làm việc hay không? Với công

việc trong nhà buôn cô không

lạ gì vì cô đã có thời gian làm

cho dì dƣợng rồi. Còn đang

suy nghĩ thì ông thƣơng gia

nhận ngay và không cần xem

hồ sơ, lý lịch,... Vì vừa trông

thấy cô, ông ta đã ngất ngây

trƣớc sắc đẹp của cô. Cô đƣợc

nhận làm thƣ ký riêng cho ông

và đƣợc nhận làm việc ngay

sau những ngày kế tiếp. Cô

quá mừng nhƣ vừa nhận đƣợc

phần thƣởng to lớn. Với số tiền

lƣơng cao, đƣợc ngồi văn

phòng, cô thật sung sƣớng. Rồi

nghĩ đến những ngày ngồi chợ

bán cá, cô thấy hãi hùng. Ông

Thƣơng Gia thấy cô làm việc

siêng năng, thông thạo, nói

năng hoạt bát, không bao lâu

mọi ngƣời trong hãng ai cũng

mến cô. Mỗi khi ông thƣơng

gia đi hội họp, giao tế, ông

cũng đều cho cô đi theo. Khi

ngồi trên xe có máy lạnh, có

tài xế lái, cô nghĩ lại những

ngày sống bên cạnh chồng, đi

đâu chỉ có chiếc xe đạp cũ kỹ

là quí lắm rồi.

Đi làm được 1 tháng với số

lƣơng đầu tiên lãnh đƣợc, đã

cao mà đƣợc ông chủ tặng

thêm nữa làm cô hết sức vui

mừng. Về quê thăm cha mẹ,

chồng con. Nghe cô kể, cô làm

nhiều tiền, đƣợc lòng ông chủ

nữa, chồng cô không vui, ông

lo sợ cho cô nhiều hơn. Chỉ vài

lần cô về nhà vui vẻ, chuyện

trò, rồi những lần về kế tiếp, cô

ăn mặc khác hẳn, kiếm chuyện

chê bai, so sánh, hằn học, to

tiếng, thái độ bất cần, dần dần

cô ít về nhà, tiếng đồn đã tới

tai gia đình, lúc này cô út đã

trở thành vợ bé của ông chủ

rồi. Thật là tiếng sét đánh vào

đầu của chồng cô, nhưng ông

cố bình tĩnh chờ cô về hỏi. Đến

khi cô về thăm nhà lần kế tiếp,

sau khi gia đình ăn uống vui

vẻ, chồng cô mới hỏi: Ngƣời ta

đồn cô đã trở thành bà chủ

hãng phải không? Cô trả lời:

"Đúng." Cô không có một chút

ngƣợng ngùng mà thật thản

nhiên, còn lớn tiếng để mọi

ngƣời nghe rõ: "Tôi nói cho

anh biết, anh hỏi tôi đúng lúc,

tôi đang quá chán chƣờng anh,

tôi thấy làm bé một ông lớn,

giàu có vẫn sung sƣớng, sang

trọng, hạnh phúc hơn làm lớn

một ông bé." Khi nghe cô nói

vậy, những ngƣời trong gia

đình rất đỗi kinh ngạc. Họ

không ngờ cô ta có thể nói lên

những lời nhƣ thế này, cô thay

đổi quá nhiều. Từ một thiếu nữ

hiền ngoan, đã thành ngƣời

đàn bà đanh đá, chua ngoa,

ngang ngƣợc. Còn ông chồng,

nghe cô thốt lên những lời nói

quá cay đắng, ông chết điếng

trong lòng, mặc dầu ông biết sẽ

có cái kết qủa này từ những

ngày gần đây..

Còn một mình với nỗi đau xé

lòng, ông ra ngồi bên thửa

ruộng, mắt hƣớng về một nơi

rất xa xăm. Ông thầm nghĩ:

Ngƣời đàn bà ghê gớm thật.

Khi họ yêu, họ hiền lành,

ngoan ngoãn nhƣ thiên thần,

nhƣng khi họ giận dữ, thay đổi

không khác gì ác quỉ. Ngày

qua ngày, ông ngồi trầm ngâm

trƣớc cánh đồng mênh mông.

Vào những đêm khuya, ông

không thể nào ngủ đƣợc, có lẽ

ông đang suy nghĩ rất nhiều, ai

ai tình cờ đi qua nhà ông đều

nghe tiếng máy hát rất êm dịu

với lời: ”Bỏ Ngài con đi với

ai? Vì Ngài có lời ban sự sống.

Bỏ Ngài thân con héo hon, đời

cô liêu trên chốn dƣơng gian.

Bỏ Ngài con đi với ai, đƣờng

xa lắc tƣơng lai mịt mờ, nào ai

dẫn con đi trên đƣờng dài? Bỏ

Ngài con đi với ai?.....” Và

ngọn đèn trong nhà cũng tắt

lịm khi tiếng hát của máy

chấm dứt.

Không bao lâu sau, ông đã rời

khỏi căn nhà đi biệt tích và cho

đến mùa Giáng Sinh năm nay,

ông có can đảm đón nhận đƣợc

Thiên Thần đã loan báo:

”VINH DANH THIÊN CHÚA

TRÊN TRỜI.

BÌNH AN DƢỚI THẾ CHO

NGƢỜI LÒNG NGAY.”

Đến bao giờ, Chúa Hài Đồng

mới đƣợc tới thăm ông và ông

có sẵn sàng đón Chúa vào nhà

để nhận được lời chúc phúc

của Chúa: "HÔM NAY NHÀ

NÀY ĐƢỢC ƠN CỨU ĐỘ."

Lệ Nga (Mùa Vọng 2005)

Trang 56 Linh Thao

Page 57: LT2007

Cha Jos. Phạm Thanh Liêm SJ, Thủ Đức,

Việt Nam: Cảm ơn cha về món quà rất qúy

giá. Món quà thật lợi ích cho cả đời thƣờng và

đời sống Đức Tin của không những riêng con

mà cả gia đình. Mỗi lần giở một cuốn sách là

một lần Tạ ơn Chúa và cảm ơn cha. Kính

Liêm và Kim Anh. USA: Anh Chị đã ca bài

„Xin vâng“ khi được Trưởng và Phó Phong

Trào Đồng Hành giao nhiệm vụ đại diện đến

chia buồn và tiễn đƣa anh Giuse Nguyễn Văn

Hóa, phu quân chị Phan Thị Hƣơng (trƣởng

Nhóm I Nhã/tại München, Đức) về với Chúa.

Cha Lê Quốc Tuấn SJ, USA: Cảm ơn cha

những lời chúc Tết tốt đẹp của cha – Sau lần

gặp cha ở Louisianna và Pensilvania đến nay

đã 5,6 năm trôi qua rồi – Qua cơn bão Katina

tàn phá không biết bây giờ New Orleanz đã

phục hồi lại nhƣ thế nào? Biết đến bao giờ thì

nơi này mới có lại ngày Đại Hội nhƣ xƣa?

Kính nhớ cha.

Soeur Quy Nazareth: Nhớ đến chị luôn trong

cầu nguyện, xin Chúa luôn ban bình an và sức

khoẻ để chị phụng sự Ngài mỗi ngày một tốt

đẹp hơn đúng như lý tưởng dâng hiến cả cuộc

đời theo Chúa – Hy vọng sẽ có dịp gặp lại chị

trên đất Thánh. Vẫn luôn hiệp lời cầu nguyện

Hòa Bình cho Đất Thánh - Cảm ơn chị về

những tình thƣơng chị dành cho gia đình

chúng em.Thƣơng nhiều.

Linh Thao Trang 57

HOA HỒNG DÂNG MẸ

Dâng lên Mẹ Thiên tòa

Những hƣơng nhụy hồng hoa

Lòng con vào hoan lạc

Tim con nhịp lời ca

Lời Mẹ sao êm nhẹ

Đã vào nhẹ hồn con

Uống lời yêu nhỏ nhẹ

Dịu nhẹ làn môi ngon

Trong chiều nay êm ả

Ô ! Sao hồn hả hê

Thánh nhan nhìn say mê

Có Mẹ là tất cả

Lũng hồn vùng tối đen

Mẹ đến ngàn ánh sang

Đời con mà khó hèn

Gần Mẹ giàu vô tận

Đời con không có Mẹ

Chỉ là biển máu lệ

Hạnh phúc giàu biết bao

Thừa hƣởng gia tài Mẹ

Mẹ chia sẻ cho con

Những tâm cảm màu son

Cả hào quang rực rỡ

Cả lộng lẫy hoa lòng

Mẹ bài ca tuyệt mỹ

Đêm con về chân lý

Con thấm mệt dặm đời

Mẹ tổ ấm an nghỉ

Lê Ngọc Hồ

Page 58: LT2007

Lệ Nga, München: Bài của em chị cho đi trong

số này, đợi những cảm nhận mới nhƣng không

thấy tăm hơi. Hôm ở München gặp nhau mà

không có chút thì giờ nào thăm hỏi một câu.

Tiếc qúa phải không Nga?

Cha Nguyễn Xuân Thu, CSSR, Đalạt: Đã

chuyển thƣ cảm ơn của cha đến các ân nhân ở

Đức và Canada về tiền giúp đỡ người Dân tộc

Thƣợng nghèo ở Tùng Lâm Cảm ơn cha về

những chia sẻ qua điện thoại. Kính.

Chị Hân Hân : Cảm ơn chị về những ân tình chị

đã dành cho chúng em và đặc biệt riêng cho Đặc

San Linh Thao. Kỳ này xin đi bài thơ và thƣ gởi

cha Thành của chị. Kính.

Các Soeur Hương, Cảnh, Ngời, Điểm, Oanh,

Rôma : Cảm ơn các chị rất nhiều về tình thương

các chị đã dành cho em trong ngày em thăm

viếng Rôma và lƣu trú trong Nhà Dòng Tre Fon-

tane. Luôn nhớ đến qúy chị trong cầu nguyện.

xin Chúa ban sự an vui, sức khoẻ cho qúy chị.

Thân kính.

Nhóm Tin Yêu Bỉ Quốc, Nhóm LT Anh

Quốc : Cảm ơn các bạn về qùa tặng càphê và

bánh ngọt trong dịp ghé thăm 2006 – Cho đến

bây giờ hƣơng thơm càphê Belgique vẫn còn

đượm trong hồn vì tình thương của các bạn ướp

trong đó mặn mòi quá - Hẹn gặp các bạn tại

Brüssels tháng 3/2007 để cùng các bạn chia sẻ

đức tin, và học hỏi thao luyện nhẹ nhàng.. Thân.

Thu Phong và anh chị em nhóm Lên Đường,

New Orleanz, USA: Đã thấy trong lịch trình

linh thao có khóa ở New Orleanz vào tháng

7/2007. Tạ ơn Chúa đã cho anh chị em ĐH ở đó

sớm ổn định. Chúng tôi vô cùng vui mừng và bái

phục ý chí quật cƣờng của ace. nhóm „Lên

Đường“. Hẹn gặp một ngày gần. Trong Thầy.

Cục Đất, New Mexico, USA: Biết người tài

đang bận cũng như đang bịnh nhưng vẫn thích

quấy rầy. Vì biết Cục Đất rất yêu thƣơng Thiên

Chúa, biết phó thác và biết tận dụng khả năng

của mình vào việc ca ngợi Thiên Chúa, nên đã

xin Cục Đất bài nhạc Đợi Chờ - và sẽ đi trong

Đặc San kỳ này để mọi người cùng ngân nga ca

tụng Hồng ân Chúa. Nguyện xin Chúa ban ơn

hồi phục sức khoẻ cho Cục Đất - Hẹn cùng Cục

Đất ngày nào đó ngồi trà đàm, và nghe bạn đờn

ca những nhạc khúc tôn vinh Thiên Chúa – rồi

sau đó cùng đánh một vài quả tennis cho vui

cuộc đời. Thân.

Cha FX. Nguyễn Thanh Hoài SJ. Thủ Đức

Việt Nam: Cha ơi, thật hết sức cảm kích và cảm

động khi cha đã tự tay nấu những món ăn đầy

tình quê hƣơng đãi khách bơ vơ trở về. Bữa cơm

thật vui bên cạnh những ngƣời tình cờ gặp, qua

sự sắp đặt của Chúa, cha nhỉ. Nhờ hai món canh

bí ngô, bí đao mà con hết bí ngõ, bí lối. Nhớ

„Hoài“ những lời cầu nguyện bên nhau trong

nhà thờ, thật đơn sơ mà thật qúy trọng. Khi ra về

lại còn đƣợc hái tặng một qủa „đào trƣờng sinh“

mà không „bất tử“ nữa chứ. Tạ ơn Chúa và cám

ơn cha. Kính.

Dương + Tuyết, Aachen, Đức Quốc: Anh chị

cho đi bài của em đăng trên tờ Mục Vụ vùng

Bắc Đức để kỷ niệm khóa „Linh Thao Gia

Đình“ của chúng mình. Các em không ngạc nhi-

ên chứ. Mến nhiều.

Nguyên Thi

Trang 58 Linh Thao

Page 59: LT2007

Khóa cuối tuần (ba ngày)

Mục đích :

1)- Dẫn anh em trên đường làm quen và kết

thân với Thiên Chúa:

- Biết nghe,túc cảm nhận các tiếng kêu mời, tác

động soi sáng của Chúa.

- Vƣợt qua những hiểu lầm về Thiên Chúa

(quan tòa, độc tài, khó tính…)

- Biết „thinh lặng“ và giá trị của thinh lặng.

- Biết „mở lòng“ tức là để những tâm tình thầm

kín nẩn nở lên để Thiên Chúa chữa lành vết

thƣơng, đƣợc Ngài tha thứ tội lỗi, mang lại

niềm vui và bình an đích thực đến chúng ta.

2)- Hiểu và cảm nhận giá trị cao qúy của loài

ngƣời và mục tiêu cuộc sống theo Thánh Ý

Chúa :

- Vƣợt qua mọi mặt cảm tự ti, chán nản, tội lỗi

và các vết thƣơng nội tâm từ qúa khứ.

- Tha thứ và mở lòng chấp nhận tha nhân.

- Yêu mến anh em, tin tƣởng họ, yêu đời và hy

vọng.

- Mong muốn giúp tha nhân.

3)- Hiểu và thực sự ăn năn trở lại với Chúa :

- Bỏ cuộc sống tội lỗi, ích kỷ, lầm lạc.

- Bỏ tham vọng thần tƣợng trong cuộc sống.

- Dấn thân và phục vụ tha nhân cách rộng rãi.

- Lắng nghe ơn gọi Chúa dành cho mình.

4)- Biết nhận định Thánh Ý Chúa :

- Phân biệt thần loại, hiểu những mánh khóe

giả dối của thần dữ (mang đến sự chết),

- và hƣơng vị hiền lành, ngay thẳng của thần

lành (dẫn đến sự sống).

5)- Biết đọc và cầu nguyện với Kinh Thánh,

trong các thánh lễ, trong Bí Tích Hòa Giải, qua

thánh ca, khi cầu nguyện bộc phát, hoặc viết

nhật ký, làm phút hồi tâm…

Khóa năm, tám ngày

Mục đích :

Muốn tiến xa hơn trên đƣờng kết thân và làm

đẹp lòng Thiên Chúa :

- Qúy mến tình bạn với Chúa Kitô.

- Muốn hiểu đƣờng lối Chúa khác đƣờng lối

ích kỷ của chính mình ở chỗ nào.

- Muốn có lòng “bình tâm” thực sự để qúy mến

Thiên Chúa trên hết mọi sự.

- Sẵn sàng thoát khỏi những ràng buộc nội tâm,

các thần tƣợng và mở lòng cho tình yêu Chúa.

- Muốn tìm hiểu ơn kêu gọi Chúa dành cho

chính mình và lựa chọn tƣơng lai. Những ai chỉ

muốn “tránh tội trọng” và “cứu linh hồn mình”

thôi, tức là chỉ muốn tuân theo các điều răn tối

thiểu, sống một cuộc “sống đạo đức” và bảo

đảm “bình an” tâm hồn, chưa sẵn sàng cấm

phòng 5 hay 8 ngày.

Điều kiện cần thiết để đi linh thao năm ngày

hay tám ngày :

Anh chị sẵn sàng cầu nguyện một cách đơn

giản :

- Biết cầu nguyện, xét mình, suy niệm Thánh

Kinh một mình.

- Biết làm thời khóa biểu thích hợp cho mình :

Giờ suy niệm, xét gẫm, thong dong…

- Muốn tập cảm nhận các tác động của Thiên

Chúa không có “nguyên do”, tức không dùng

những hình thức có thể gây cảm xúc thiêng

liêng.

- Muốn tập phân biệt thần loại tinh vi hơn, giữa

“tốt thiệt” (từ lúc bắt đầu và kết thúc trong

Thánh Ý Chúa) và “tốt giả” tức là tốt lúc ban

đầu mà kết thúc ngoài Thánh Ý Chúa).

Đối với các anh chị này, thinh lặng không còn

là vấn đề. Ngƣợc lại, họ đi tìm thinh lặng hoàn

toàn và lâu dài nhƣ điều kiện cần thiết để đạt tới

các kết quả trên. Các anh chị cảm thấy Chúa

Kitô thu hút ngày càng nhiều.

- muốn nghe và đáp lại tiếng kêu mời của Ngài

một cách khiêm nhƣờng

- không mơ ƣớc có những kinh nghiệm cao

siêu theo ý muốn riêng

- biết rõ ràng lòng yếu đuối với tham vọng và

tự ái của mình

- đáng đƣợc Chúa cứu thoát để sống ngày càng

tự do và bình tâm…

Linh Thao Trang 59

Mục đích các khóa linh thao 3,5,8 ngày Cha Julian Thành SJ

Page 60: LT2007