Upload
linh-thao
View
231
Download
4
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Sống trọn kế hoạch của Chúa là mưu cầu hạnh phúc cho chính mình Linh Thao là một giữa nhiều phương thức cấm phòng trong Giáo Hội, chào đời đã hơn bốn thế kỷ rưỡi, trong nôi kinh nghiệm nội tâm của thánh Ynhã Loyola, nhằm thao luyện cho Linh hồn, tức là thực tập, trau dồi và bồi dưỡng cho nội tâm.
Citation preview
Linh Thao là mµt giæa nhi«u phß½ng thÑc c¤m phòng trong Giáo Hµi, chào ð¶i ðã
h½n b¯n thª kÖ rßÞi, trong nôi kinh nghi®m nµi tâm cüa thánh Ynhã Loyola, nh¢m
thao luy®n cho Linh h°n, tÑc là thñc t§p, trau d°i và b°i dßÞng cho nµi tâm.
S¯ng tr÷n kª hoÕch cüa Chúa
là mßu c¥u hÕnh phúc cho chính mình
Trang 2 Linh Thao
ính thƣa qúy vị,
Tập san Linh Thao qúy vị đang cầm trên tay là sự hoàn
thành vội vã của chúng tôi. Những tƣởng năm nay chúng tôi
không thể thực hiện đƣợc với nhiều lý do:
Thứ nhất , vấn đề tài chánh,
thứ hai, vấn đề bài vở,
thứ ba, vấn đề sức khỏe.
Vì những lý do trên chúng tôi cứ lần lữa mãi chƣa thực hiện
và có ý định buông xuôi luôn. Nhƣng, mỗi buổi sáng thức dậy,
theo thói quen, với tay lấy một cuốn sách hay cuốn tập trên
bàn đầu giƣờng để đọc. Hôm nay tay tôi chạm phải tập nhật
ký của một khóa linh thao ghi lại bài huấn đức „phân biệt
thần lọai“. Lời dạy của Thánh Inhaxiô khuyên: Nên làm
ngƣợc lại những gì ma qủy đang dụ dỗ mình. A!, thì ra thời
gian qua mình đang bị thần dữ khuyến dụ đƣa vào con đƣờng
lƣời lĩnh, trốn tránh trách nhiệm và tiếc của cải tiền bạc thế
gian đây… có thể lần này bỏ luôn tập san, lần sau sẽ bỏ luôn
khóa, bỏ luôn tĩnh tâm v.v… và cứ thế đẩy mình xa Chúa, xa
lìa Giáo Hội…
Tạ Ơn Chúa Thánh Thần, tạ ơn Thánh Inhaxiô, cám ơn
các cha giảng linh thao. Nhờ thế, tập san này đƣợc ra đời với
sự góp sức và cầu nguyện của qúy linh mục, qúy bạn, qúy
tham dự viên. Xin gởi đến qúy vị lời cám ơn chân thành của
chúng tôi.
Trong số này, ngoài những chia sẻ của các tham dự
viên trong các khóa linh thao, một số baì của các linh mục,
chúng tôi dành một số trang để kỷ niệm sinh nhật 70 của cha
Julian Elizalde Phạm Công Thành, ngƣời đã dày công hƣớng
dẫn giáo dân Việt Nam Hải Ngoại theo Chúa, yêu Chúa qua
phƣơng pháp linh thao của Thánh Inhaxiô.
Xin Ngợi Khen và Tạ Ơn Chúa Ba Ngôi.
Kính,
TM. Ban Biên Tập Đặc San,
Trƣơng
TRONG SỐ NÀY
Lời ngỏ ................................. 02
Sống mùa Vọng.................... 03
Im Lặng là Vàng .................. 05
Tuổi mƣời một ..................... 06
Đường jerico ........................ 07
Thầy ơi ................................. 09
Mảnh lƣới Tình Yêu ............ 10
Lời tạ ơn ............................... 11
Vì tôi là linh mục ................. 12
Chúa Giêsu, Đức Mẹ và
chuyện tình của tôi .............. 14
Những chia sẽ ...................... 16
Lề luật: Yêu thƣơng ............. 17
Linh Thao Gia Đình ............ 19
Đời sống Hôn nhân ............. 20
Sinh Nhật Cha Thành 70 .... 22
ĐH phỏng vấn ...................... 25
Yêu thƣơng về ...................... 28
Mừng Sinh Nhật Cha .......... 29
Đi tìm vẻ đẹp cho đời ........... 30
Tình Yêu & Thời gian ......... 33
Bông Hồng thời gian ........... 34
Ƣớc muốn ............................. 35
Mừng Ông ............................ 36
Ánh sáng chiếu rọi trong
nhà tù ................................... 37
Tự Tình ................................ 44
Chiếc chìa khóa ................... 45
Kính gởi Cha Thành ............ 46
Ƣớc muốn và sự lựa chọn ... 47
Bỏ Ngài con đi với ai? ......... 51
Hoa Hồng Dâng Mẹ ............ 57
Thƣ tín .................................. 57
Mục đích............................... 59
Đợi Chờ ................................ 60
Địa chỉ liên lạc
Đặc San Linh Thao
ÔB. Trƣơng Xuân Sao
Gustavsburger Str. 23
65462 Ginsheim – Germany
Tel. +49 (0) 6144-3950
email : [email protected]
Luca, 1, 26-38: Thiên thần
truyền tin cho Ðức Bà - Mầu
nhiệm Nhập Thể
1.- Thiên thần truyền tin cho
Đức Bà: “Bà sẽ thụ thai và
sanh một người con, một người
con cao cả là con Đấng Tối
Cao, sẽ là vua và triều đại
Người sẽ vô cùng vô tận”.
Thiên thần loan báo tin mừng
trọng đại cho toàn dân là Ngôi
Lời không quản mặc lấy xác
phàm trong lòng Trinh Nữ
Maria và ở giũa chúng ta.
Chúa từ trời ngự xuống dương
gian. “Ngài đến để quy tụ
muôn loài dưới quyền một thủ
lãnh là Đức Ki-tô” (Ep 1,10).
Chúa Cha muốn ban cho chúng
ta sự sống và đầy đủ sự sống
của Chúa Ba Ngôi. “Thánh tử
là hình ảnh Thiên Chúa vô
hình, là trưởng tử sinh ra
trước mọi loài thụ tạo... tất cả
đều do Thiên Chúa tạo dựng
nhờ Người và cho Người” (Cl
1,16). Ngài mời ta trở nên
đồng hình đồng dạng với Đức
Giê-su.
“Người sẽ trị nhà Gia-cóp đến
muôn đời”. Nhà Gia-cóp là
dân Chúa. Khi dựng nên loài
người, Chúa không muốn dựng
nên một đám người sống riêng
rẻ. Một tin mừng cho tất cả
chúng ta là: Chúa Cha muốn
kết thân chúng ta nên một
trong tình yêu. Chúa Ba Ngôi
là một gia đình sống hiệp nhất
trong tình yêu. Con người
được sáng tạo theo hình ảnh
Thiên Chúa. Khi sáng tạo loài
người, Đấng Tạo Hóa muốn
con người sống đoàn kết như
một gia đình hiệp nhất trong
yêu thương như Ba Ngôi Thiên
Chúa.
Kế hoạch huy hoàng của Chúa
còn dở dang. Ngày nay Chúa
đang tiếp tục sáng tạo trời đất
và mời chúng ta cộng tác với
Ngài. Vui lên! Thiên Chúa là
một kiến trúc sư toàn năng.
Ngài bảo đảm sẽ hoàn tất công
trình vinh quang.
Ai ai cũng đang xây nhà. Nhà
của chính mình. Đây là công
trình kiến trúc quan trọng nhất
bởi vì chúng ta sẽ ở tại nhà đó
mãi mãi.
Câu hỏi gợi ý:
1) Ai đang vẽ và điểu khiển
công trình xây nhà của tôi?
2) Ngôi nhà tôi muốn xây và
ngôi nhà Chúa nghĩ ra
giống/khác nhau ở chỗ
nào?
3) Những kế hoạch tôi sẵn có
là gì?
4) Mùa Vọng năm nay tôi
nghe Chúa loan báo tin
mừng nào cho tôi và cho
toàn dân?
2.- “Việc ấy sẻ xảy ra cách
nào?” “Thánh Thần sẽ ngự
trên bà và quyền năng Ngài sẽ
rợp bóng trên bà”. Từ lúc rửa
tội Thiên Chúa đã sai Thần
Khí của Con mình đến ngự
trong lòng ta mà kêu lên: “Ap-
ba, Cha ơi!” (Gl 4,6). Thiên
Chúa tiếp tục sáng tạo chúng ta
nhờ Thần Khí của Ngài. Trời
đất là hoa quả “bàn tay” Chúa,
nhưng lúc uốn nắn từng người
chúng ta, thì cả Ba Ngôi Thiên
Chúa đích thân can thiệp.
Nhiệm vụ mỗi Ngôi phản ảnh
nguồn gốc của Ngôi Thiên
Chúa đó (“Divine missions
reflect divine origins”). Cả Ba
Ngôi tích cực tương quan với
từng người, mỗi Ngôi, tùy cách
là Thiên Chúa (in accordance
with the way in which that
person possesses the divine
nature). Chúa Cha là nguồn
mọi sự, đối với chúng ta, Ngài
là 'thân sinh' (người Cha,
người Mẹ); Chúa Con là Ngôi
Lời và là hình ảnh trọn vẹn của
Chúa Cha, là anh cả chúng ta;
Chúa Thánh Thần là tình yêu
nối kết hai Cha Con nên một,
là sợi dây nối kết chúng ta với
Chúa Cha, với Chúa Con và
với anh em.
Thánh Thần là ai? Thần Khí là
Ngôi Ba Thiên Chúa. Thần khí
ngự trong Cha, ngự trong Con
và nối kết hai Ngài trong tình
yêu: Cha ở trong Con, Con ở
trong Cha trong tình yêu. Hai
Cha Con hiện diện cho nhau
trong Thần Khí tình yêu.
Linh Thao Trang 3
Eli Thành
Trang 4 Linh Thao
Còn đối với loài người, Thần
Khí là tình yêu nối kết Chúa
Cha và Chúa Con với chúng ta.
Từ khi chịu phép Rửa Tội,
Thần Khí ngự trong lòng
chúng ta và nối kết chúng ta
với Chúa Cha, với Chúa Con
cũng như với anh em trong
tình yêu. Chúng ta dược thánh
hóa do những biến đổi Thần
Khí mang đến chúng ta trong
các mối liên hệ với Thiên Chúa
và anh em. Tình yêu luôn luôn
biến đổi chúng ta. Là Thần Khí
của Đức Giê-su, tình yêu này
làm chúng ta nên đồng hình
đồng dạng với Đức Giê-su.
Lúc chịu Phép Rửa tội tình yêu
đó chỉ là một mầm nhân, cần
được vun trồng và coi sóc;
mầm nhân này sẽ triển nở và
thành hình nhờ quyền năng
Thánh Thần rợp bóng trên
chúng ta nữa.
Thần Khí hoạt động như thế
nào? Trong Cựu Ước, Thần
Khí mang lại trật tự, ý nghĩa và
sức sống cho một trời đất còn
trống rỗng, chưa có hình dạng.
Khi tạo nên con người, Thần
Khí mang sự sống đến hình
tượng Thiên Chúa đã nặn ra từ
bụi đất. Sau này Thần Khí đến
với mọt số người, như các
ngôn sứ, và dấu chỉ Thần Khí
là những điềm lạ phi thường,
không ai có thể phủ nhận Thần
Khí Thiên Chúa.
Trong Tân Ước, Thần Khí đến
để xây dựng Hội Thánh của
Đức Giê-su, là Nhiệm Thể của
Ngài. Mọi đóng góp xây dựng
Hội Thánh bắt nguồn từ Thần
Khí. Lắm khi những hành động
của Thần Khí chẳng có gì to
lớn, phi thường. Tuy nhiên,
những biến đổi của một Ki-tô
hữu trong cuộc sống, làm
chứng cho Ngài: lòng trong
sạch trong tư tưởng, lời nói và
hành động, sức tha thứ kẻ hại
mình, lòng nhân từ vô vị lợi,
hành động can đảm để bênh
vực quyền lợi của kẻ nghèo, là
hoa quả của Thần Khí. Và trên
hết là tình yêu chân thật và vô
vị lợi. Thần Khí tỏ mình ra
nhất là trong mỗi hành động
yêu thương và hiệp nhất.
“Chúng ta chịu phép rửa trong
cùng một Thần Khí để trở nên
một thân thể. Tất cà chúng ta
đã đươc đầy tràn một Thần
Khí duy nhất” (1 Cr 12,12).
Thần Khí xây dựng Hội
Thánh:
a) khi quy tụ và nối kết chúng
ta nên một trong tình yêu,
b) ban phát nhiều đặc sủng
khác nhau để phục vụ cộng
đoàn,
c) kêu gọi và củng cố các lãnh
đạo trong cộng đoàn,
d) ban sức truyền giáo và lôi
cuốn tín hữu mới,
e) soi sáng thánh sử viết và tín
hữu đọc và thấu hiểu các
sách thánh. Sứ mệnh của
Hội Thánh và sứ mệnh của
Thần Khí là một: là mang
ơn cứu rỗi của Thiên Chúa
đến cho nhân loại qua
Nhiệm Thể Đức Kitô, là
nơi các tín hữu nên một với
Cha và anh em trong tình
yêu.
Câu hỏi gợi ý: Tín điều nào về
Thần Khí soi sáng và an ủi tôi
nhiều nhất? Tín điều nào tôi
chưa hiểu đủ?
3.- Chúa củng cố đức tin.
“Kìa bà Ê-li-sa-bét đang cưu
mang một người con trai. Vì
đối với Thiên Chúa, không có
gì là không thể làm được”.
Chúa muốn củng cố niềm tin
của Đức Mẹ bằng một ân huệ
đặc biệt Ngài ban cho người
chị của Đức Bà. Chỉ mấy ngày
sau, chính bà Ê-li-sa-bét sẽ
khen ngợi Đức Mẹ vì “em đã
tin rằng Chúa sẽ thực hiện
những gì Người đã nói với
em” (Lc 1,45). Nhìn lại cuộc
sống của tôi và của người thân,
chắc chắn tôi có thể nhận ra
một số ân huệ Chúa đã ban để
biểu lộ lòng trung tín và rộng
rãi của Ngài đối với tôi, thì
nghĩ đến tương lai, tôi có thể
tin tưởng và phó thắc mọi sự
trong tay Ngài.
Câu hỏi gợi ý: Ân huệ nào
Chúa ban cho tôi, hoặc cho
người thân, làm chứng cho
tình thương và quyền năng
Chúa đang phụ trợ chúng ta?
Đọc và nghiền ngẫm câu
“Phương chi Cha trên trời lại
không ban Thánh Thần cho
những kẻ kêu xin Người
sao?” (Lc 11,13)
4.- Lời đáp lại của tôi. “Vâng,
tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin
Chúa cứ làm như lời sứ thần
nói”. Đây là lời đáp lại của
Đức Mẹ cho Thiên thần truyền
tin, và cho Chúa suốt cả cuộc
sống. Đức Mẹ luôn luôn tìm
Thánh Ý Chúa và đem ra thực
hiện. Đức Mẹ tin tưởng và hết
lòng yêu mến Thiên Chúa cũng
như yêu thương tha nhân. Vì lý
do đó, Đức Mẹ thật lòng 'xin
vâng'. Ngoài Đức Giê-su ra,
chẳng có người nào hoàn toàn
tự do và vui lòng tận hiến mình
cho Chúa bằng Đức Mẹ. Kể cả
trong giây phút tối tăm nhất,
khi Đức Giê-su đã chết và nằm
trong mồ, Đức Mẹ Sầu Bi, tuy
đau lòng vô cùng nhưng vẫn
giữ một lòng tin. Đức Mẹ rất
mong ước gặp lại Con của Mẹ,
nguyện cầu cho các môn đệ
mau tìm lại niềm tin. Trong khi
chờ đợi, Đức Mẹ đứng vững
nhờ niềm tin, niềm hy vọng và
lòng mến yêu. Đức Mẹ là Mẹ
Hội Thánh.
Thần Khí đóng vai chính và
chủ động trong các kế hoạch
ếu không đi linh
thao lần này, có lẽ
câu nói kia tôi không hiểu cho
đúng nghĩa của nó được. Đến
hôm nay, đã là một tuần sau
khóa linh thao, nhƣng sụ
nhung nhớ trong thinh lặng
ngọt ngào của những ngày linh
thao vẫn còn sống trong tôi.
Là một ngƣời hay bép
xép, nói thì dành không để ai
nói, tôi nghĩ nhƣ con ngƣời tôi
mà đi linh thao thật là khó.
Trái lại, kết qủa thật là tuyệt
vời cho tôi. Thật đúng là khi
Chúa muốn thì Chúa thay đổi
mình một cách nhẹ nhàng
không ngờ. Trong những ngày
linh thao thì tôi không cảm
nhận đƣợc sự thay đổi nhiều
của chính mình. Nhƣng về nhà
thì không ngờ mình lại hiền
lành nhƣ cừu non và lại không
còn nóng tính khi xử sự với vợ
con tôi nữa, đến nỗi tôi cũng
không nhận ra tôi. Lúc đó bài
Phúc Âm Chúa chữa anh mù
từ lúc mới sanh (do cha Giuse
Nguyễn Trọng Tƣớc hƣớng
dẫn) đã sống lại trong tôi,
Chúa Giêsu cũng đã chữa con
mắt đức tin của tôi, bây giờ
tôi nhìn thấy đƣợc sự tốt đẹp
mà Chúa dựng nên mình…
Ba ngày linh thao vừa
qua thật qúy giá cho cuộc đời
tôi biết bao, chỉ có ba ngày mà
biết bao biến đổi trong tôi.
Những mơ hồ cảm nhận xƣa
kia, nay tôi đã khẳng định và
rờ mó đƣợc, đó là sự chờ đợi
và tha thứ trong tình yêu của
ngƣời Cha Nhân Từ, dù ngƣời
con trở về với Cha mình chỉ vì
mình đói khát, chứ không một
chút tình nghĩa với Cha.
Con ngƣời tội lỗi của tôi
đã làm cho biết bao người
sống với tôi và cả những ngƣời
tôi gặp gỡ đã phải chịu chung
cái vạ của tôi. Thật đáng xấu
hổ, thật đáng khón khổ cho tôi,
nếu tôi không gặp đƣợc Đức
Kitô, có lẽ con mắt tôi sẽ mãi
mãi đui mù.
Chính ngay khi về đến
nhà, tôi đã ôm vợ tôi và hai
thằng con trai yêu qúy, nói lên
lời cám ơn mà tôi đã đƣợc
lãnh nhận. Đây sẽ là những kỷ
niệm không quên của đời tôi,
vì có bao giờ tôi có đƣợc hạnh
phúc nhƣ thế này đâu. Hạnh
phúc gia đình giờ đây tôi mới
thấy đẹp tuyệt vời và qúy vô
vàn. Vả lại những tội lỗi của
tôi đã làm biết bao ngƣời sống
xung quanh tôi phải bị thiệt
thòi, thì giờ đây, cái hạnh phúc
mà tôi nhìn ra đƣợc, cũng
mang đến cho mọi ngƣời xung
quanh tôi, nó không đền bù
được những sai trái của tôi,
nhƣng Thiên Chúa đã lấp đầy
bằng Tình Thƣơng của Ngài,
đã nhận chìm những tội lỗi của
tôi xuống tận đáy vực thẳm.
Để niềm vui và hạnh phúc con
được trọn vẹn, lễ Phục Sinh
chƣa đến, nhƣng Ngài đã Phục
Sinh trong con. Tạ ơn Ngài.
Vài lời tâm tình với các
bạn nào chƣa biết „Im Lặng Là
Vàng“. Tạ ơn Chúa, Mẹ Maria
cùng Thánh Cả Giuse đã cho
con có một niềm tin mới. Xin
cám ơn cha Tƣớc, cha Hạnh,
cha Vũ, những vị ân nhân
trong ban tổ chức. Cám ơn các
bạn trong khóa đã đồng hành
với tôi trong khóa vừa qua.
Cám ơn…. Cám ơn… cám ơn.
Bùi Công Hiểu
của Thiên Chúa. Ngôi Lời Thiên
Chúa giáng trần trong lòng Đức
Mẹ nhờ quyền năng của Thánh
Thần. Vai trò của loài người thụ
động hơn, là phó thắc mình và
xin vâng. Tuy nhiên, vai trò này
cũng thiết yếu. Sở dĩ quyền năng
của Thần Khí Thiên Chúa không
hoạt động một cách hữu hiệu
hơn, là vì thiếu những tâm hồn
sẵn sàng 'xin vâng' như Đức Mẹ.
Lời 'xin vâng' của Đức Mẹ mở
đường cho mùa Vọng và Giáng
Sinh trong lịch sử nhân loại.
Câu hỏi gợi ý: Động lực nào thúc đẩy Đức
Mẹ tin tưởng và mến yêu
Thiên Chúa đến thế?
Có những liên hệ nào giữa
lòng trong sạch và quyết định
hoàn toàn tự do 'xin vâng'
của Đức Mẹ?
Thánh Thần là ai đối với Đức
Mẹ? Thánh Thần là ai đối với
tôi?
Tôi có thể làm gì để mở một
mùa Vọng và Giáng Sinh mới
cho thế giới ngày nay?
Eli
Thành
Linh Thao Trang 5
Trang 6 Linh Thao
hiều chiều, đi học về,
bạn tôi thƣờng rũ tôi ghé
lại Dòng Chúa Cứu Thế. Cả
hai đứa đều con nhà lƣơng, tôi
không hiểu tại sao bạn tôi
muốn đến đây, nhƣng thấy
vƣờn hoa Nhà Dòng đẹp quá,
tôi đi theo.
Mỗi ngày, bạn tôi quỳ trước
Thánh Gía Chúa chịu nạn,
trong khi tôi ra vƣờn chơi. Có
bao nhiêu hoa "lồng neon" của
vƣờn này, tôi đều hái hết Đập
mạnh hoa giữa lòng hai bàn
tay, tôi thích thú nghe tiếng
"bốp" dòn tan. Chơi chán, tôi
vào nhà thờ, đứng nhìn tƣợng
Đức Mẹ. Tôi chỉ thấy bà nầy
hiền và đẹp, không hiểu gì
hơn.
Tôi dục bạn đi về, "Quỳ
làm gì trƣớc cái ông mặc sì líp
này?" Thời đó "nam nữ thụ thụ
bất thân" và tôi thấy cái ông
mặc sì líp này kỳ quá.
Các cha dòng thấy chiều
nào hai đứa bé gái "tóc bôm
bê" cũng kéo nhau đến, mang
ra cho những quyển sách nhỏ
Hạnh các Thánh. Tôi đọc rất
lẹ, xúi bạn, "Đừng đọc, quyển
nào cũng giống nhau."
Lên mười lăm, bạn tôi lâm
biến cố: Mẹ chết. Bạn tôi khóc,
tôi khóc theo. Bấy giờ tôi mới
hiểu lâu nay bạn tôi đến nhà
thờ để cầu nguyện cho gia
đình: Ông thân sinh bạn, một
Bác Sĩ Giám đốc, tƣ tình với
một bà có gia đình. Mẹ bạn tôi,
đau đớn vì ghen, lâm bệnh, qua
đời. Tôi cảm thấy ân hận
không biết bạn mình khổ tâm
để an ủi. Từ đó tôi thương bạn
nhiều hơn, săn sóc bạn hơn.
Lên 17 tuổi, một buổi sáng
thức dậy, G. đọc lá thơ từ biệt
của Bố để trên bàn: "đừng tìm
Ba, Ba không về nữa." Ông đi
theo bà nhân tình ra Bắc. Các
Bà Sơ Y Tá của ông, mang 5
chị em G. về nuôi trong nhà
dòng các sơ. Tất cả 5 chị em
nhận Lễ Thanh Tẩy. Bốn chị
em đi tu, thành một Linh Mục
và 3 Sơ. Chỉ một em trai út ở
ngoài đời. Em này, về sau, G.
nhờ tôi nuôi dƣỡng em ăn học.
Cha N.Đ., Tuyên Uý Quân
Đội miền thượng du, một buổi
tối đang dâng Thánh Lễ trong
rừng, bị địch quân bao vây.
Cha yêu cầu
địch quân đừng
bắn giáo dân
trong làng. Cha
chỉ đôi bốt De
Sault ở chân Cha
và nói: "Tôi là
Tuyên Uý quân
đội, muốn bắn
thì bắn tôi, tha
cho giáo dân, họ
vô tội." Một
tràng súng máy.
Cha ngã chết, đè
lên em bé giúp
lễ 11 tuổi sống
sót. Đây là một
chuyện thật, cho
thấy Tình Yêu
Thiên Chúa
nhiệm mầu đã
biến cảnh hoang
tàn đổ vỡ thành
một Vƣờn Hoa
Thánh nở năm
đóa hoa thiêng, trong đó một
trở hành Vị Linh Mục tử vì
đạo. Hiện những Vị nữ Tu này
còn sống, đang phục vụ Giáo
Hội và tha nhân.
Về phần tôi, qua những
biến cố đau thƣơng, tôi đã gặp
Chúa Kitô Thƣơng Khó, và
được rửa tội năm 38 tuổi. Nghe
tin tôi rửa tội, G.viết thƣ chúc
mừng, "Chị có biết rằng em đã
cầu nguyện cho chị từ ngày ấy,
khi chúng ta 11 tuổi, đến Dòng
Chúa Cứu Thế mỗi chiều trên
đường đi học về?" Bàng hoàng
cảm động, tôi nghĩ đến Sức
Mạnh của Cầu Nguyện, đến
Tình Thƣơng Quan Phòng của
Thiên Chúa, và Tình Bạn trong
Ngài.
Đông Khê (Báo ĐH Số 3/2006)
Đông Khê
ừ Núi Oliu, ngoài
tƣờng thành Jerusalem
khoảng hai cây số, con
đường trải mình, vòng qua
ngõ ngách của ngoại thành
Jerusalem đông đúc rồi trải
xuôi xuống phía đông, hƣớng
dần vào vùng sa mạc Judea
hoang vắng.
Tôi đến Jerusalem ngày 31
tháng 3 và ba ngày sau tôi đi
Jerico.
Mấy tiếng đồng hồ đi trong sa
mạc, không gặp một ai. Hành
hƣơng Ðất Thánh, không mấy
ai có cơ hội đi bộ trong vùng
sa mạc này. Hôm nay, một xa
lộ mới, rộng rãi chạy thẳng từ
Jerusalem, và khách hành
hƣơng vội vã trên những
chuyến xe tiện nghi này.Tôi
theo một nhóm ngƣời Áo
(Austria). Chuẩn bị bánh mì,
nƣớc uống, rồi theo mặt trời
lên, khởi hành vào sa mạc.
Jerico là cổ thành lâu đời nhất
trên mặt đất. Khoa khảo cổ
cho biết thành Jerico có mặt
khoảng tám nghìn năm trƣớc
công nguyên.
Tôi muốn tìm một khoảng
thinh lặng trong vùng sa mạc
này để gặp gỡ lại ngƣời
Samaritano trên đƣờng nhân
hậu.
“Một ngƣời kia từ Jerusalem
xuống Jerico, dọc đƣờng bị
rơi vào tay kẻ cƣớp. Chúng lột
sạch ngƣời ấy, đánh nhừ tử,
rồi bỏ đi, để mặc ngƣời ấy
nửa sống nửa chết. Tình cờ,
có thầy tƣ tế cũng đi xuống
trên con đƣờng ấy. Trông thấy
ngƣời này, ông tránh qua bên
kia mà đi. Rồi cũng thế, một
thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng
thấy, cũng tránh qua bên kia
mà đi. Nhƣng một ngƣời
Samari kia đi đƣờng, tới
ngang chỗ ngƣời ấy, cũng
thấy, và chạnh lòng thƣơng.
Ông ta lại gần, lấy dầu lấy
rƣợu đổ lên vết thƣơng cho
ngƣời ấy và băng bó lại, rồi
đặt người ấy trên lưng lừa của
mình, đƣa về quán trọ mà săn
sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai
quan tiền, trao cho chủ quán
và nói: “Nhờ bác săn sóc cho
ngƣời này, có tốn kém thêm
bao nhiêu, thì khi trở về, chính
tôi sẽ hoàn lại bác.” Vậy theo
ông nghĩ, trong ba ngƣời đó,
ai đã tỏ ra là ngƣời thân cận
với ngƣời đã bị rơi vào tay kẻ
cƣớp?” Ngƣời thông luật trả
lời: “Chính là kẻ đã thực thi
lòng thƣơng xót đối với ngƣời
ấy.” Ðức Giêsu bảo ông ta:
“Ông hãy đi, và cũng hãy làm
nhƣ vậy.”
Sa mạc Judea rất hùng vĩ,
không phải một vùng đất đá
với những giải cát khô và núi
đồi thấp. Mênh mông là núi đá
cao chênh vênh bên bờ vực
thẳm. Vực sâu dƣới kia nhìn
chóng mặt. Có thể sâu hàng
ngàn mét. Ai đã đi dƣới dòng
sâu của thung lũng, núi đá
vùng Grand Canyon, Rocky
Mountains mới có thể hình
dung đƣờng Jerico này. Ðọc
trong Phúc Âm câu chuyện
ngƣời Samaritano, tôi vẫn
ngỡ, một con đƣờng mòn, sa
mạc chung quanh là những đồi
đá không cao. Tôi không ngờ
khi đến nơi đây. Sa mạc Judea
là vùng núi đồi rất hiểm trở.
Chung quanh, mênh mông chỉ
có đá, núi không bóng cây, cả
cỏ cũng không. Chỉ nắng trời
và đá trơ trụi.
Tôi theo đoàn ngƣời đi trên độ
cao lƣng chừng núi. Họ là
ngƣời Áo, xứ sở họ nhiều núi
cao, họ thích đi leo núi. Suốt
mấy tiếng đồng hồ không gặp
một ai. Cả dân địa phƣơng
cũng không có. Không khách
hành hƣơng nào đi con đƣờng
này. Lý do đơn giản là đƣờng
đi không dễ: Không có đường
đi.
Nhiều khúc đƣờng rất nguy
hiểm. Bạn phải có giầy tennis
shoes loại tốt, bám chặt vào
đá. Hai điều cần lưu ý là
đường đá vụn dễ trơn tuột và
đất lở dễ dàng. Bạn sẽ gặp
thƣờng xuyên những đoạn chỉ
cách vực sâu độ hơn một mét.
Linh Thao Trang 7
T
Trang 8 Linh Thao
Vì không có cây nên bạn
không bám vào đâu đƣợc. Phải
dùng đôi chân thật cẩn thận. Có
thể Ðức Kitô đã nhiều lần đi
con đƣờng này. Vào thời ấy
không có đƣờng nào khác. Tại
sao có thể ngƣời Do Thái đã
dùng đƣờng này để giao thông
giữa Jerusalem và Jerico?
Hình: Lừa uống nƣớc đem nước uống cho loài dã thú,
bầy ngựa hoang đang khát đƣợc
thoả thuê. (Tv.104)
Vì dƣới vực sâu kia có một
dòng suối. Trong sa mạc.
Không gì quý bằng nƣớc. Nhất
là họ dùng lừa để chở đồ, thì
nƣớc là điều không thể thiếu.
Ngoài ra, bên dòng suối ấy,
thỉnh thoảng có đùm cây chà
là.
Chỉ khi bạn đi bộ trong sa mạc
này mới cảm đƣợc thế nào là
đường Jerico. Cái hoang vu của
núi đồi mênh mông có huyền
diệu riêng của nó.
Tôi không hình dung nổi sức
nóng mùa hè của những núi đá
này. Trên lƣng chừng núi,
không một bóng cây. Chắc
ngƣời ta khát nƣớc lắm. Nhƣng
sa mạc thƣờng lạnh về đêm, và
nếu trăng lên, nó sẽ huyền diệu
thế nào với gió ngàn chuyển
mình qua thung lũng và vách
núi.
Sau những cây số khởi đầu,
đoàn người đi không ai nói
chuyện nữa. Vì thật sự chẳng ai
đi gần ai. Mỗi người đi tìm một
hƣơng núi sa mạc cho riêng
mình. Ai cũng biết họ đang đi
trên con đƣờng mà có thể chính
Chúa đã đi. Ai cũng muốn cho
riêng mình những hƣơng gió
thiêng liêng. Bây giờ là tháng
Tƣ, nghĩa là trời còn lành lạnh.
Bắt đầu vào mùa xuân ở Israel.
Bây giờ là thời điểm của những
cơn mƣa hiếm hoi.
Hai đêm trƣớc khi lên đƣờng,
trời đã thật sự mƣa. Trận mƣa
khá lớn, mƣa đứt quãng, lai rai
cho đến gần về sáng. Ðối với
Việt Nam, những trận mƣa nhƣ
thế không có gì là hiếm hoi.
Nhƣng ở đây thì khác. Một cha
trong nhà Dòng tôi tạm trú cho
biết trận mƣa vừa rồi là một
trong những trận mƣa lớn nhất
trong hai mƣơi năm ngài ở đây.
Họ quý nƣớc.
Chính sau trận mƣa này, tôi
vào sa mạc, đi Jerico. Thật may
mắn. Toàn vùng núi đá hứng
mƣa đổ xuống con suối sâu
dƣới chân thung lũng, nên từ
lƣng chừng núi này, tôi nghe
dòng nƣớc vang lên ở dƣới kia.
Toàn vùng sa mạc chỉ có dòng
suối nối Jerusalem đổ xuống
Jerico. Bởi đó, tôi tin rằng đây
là con đƣờng duy nhất ngƣời ta
dùng để giao thông thời Chúa
Giêsu. Và bên đƣới dòng suối,
vì nƣớc ẩm nên có cây hai bên
bờ. Không phải dọc hai bên bờ
đều có cây lớn, nhưng bụi cỏ
thì hầu nhƣ có. Vì có cây xanh,
nên trong sa mạc, lúc dừng
chân nghỉ tôi nghe tiếng chim
rất trong.
Vì từ độ cao trên hai nghìn feet
của Jerusalem đổ xuống Jerico
thấp hơn mặt biển, nên dòng
suối này thật đặc biệt.
Hình: cây mọc trong sa mạc
Ngƣời xẻ đá giữa sa mạc
hoang vu,
khiến nƣớc tuôn tràn cho dân
được uống, (Tv.104)
Chúa Nhật tới là Lễ Lá. Ðức
Kitô từ Jerico lên Jerusalem
vào đầu mùa xuân. Nghĩa là
mùa có những cơn mƣa. Rồi từ
Jerusalem, dòng suối đổ nƣớc
xuống vùng Biển Chết. Ði trên
triền đá này. Con đƣờng của
ngƣời Samaritano nhân hậu.
Những lúc dừng chân, tôi nghe
nƣớc từ dòng suối sâu kia vang
lên. Chiều tối, khi về nhà, tôi
tìm lời Thánh Vịnh nói về
những dòng suối và sa mạc.
Bấy giờ mới thấy tâm tƣ tác giả
Thánh Vịnh thật tuyệt vời:
Chúa khơi nguồn: Suối tuôn thác
đổ,
giữa núi đồi, lƣợn khúc quanh co,
đem nước uống cho loài dã thú,
bầy ngựa hoang đang khát đƣợc
thoả thuê.
Bên dòng suối, chim trời làm tổ,
dƣới lá cành cất giọng líu lo.
Từ cao thẳm, Chúa đổ mƣa xuống
núi,
đất chứa chan phước lộc của Ngài.
Ngƣời xẻ đá giữa sa mạc hoang vu,
khiến nƣớc tuôn tràn cho dân đƣợc
uống, (Tv. 104:10-13)
Tôi nghe nƣớc từ dòng suối.
Tôi nhìn dòng suối chảy từ
hƣớng Jerusalem. Tôi hình
dung từ độ cao đem sự sống
Linh Thao Trang 9
xuống chiều thấp. Tôi hiểu hơn
lời phụng vụ trong đêm Phục
Sinh:
TÔI ÐÃ THẤY NƢỚC TỪ
TRONG ÐỀN THỜ CHẢY
RA, VÀ NƢỚC ẤY CHẢY
ÐẾN ÐÂU THÌ TẤT CẢ ÐỀU
ÐƢỢC SẠCH VÀ REO LÊN:
ALLELUIA! ALLELUIA!
Lời kinh phụng vụ đọc trong
cái nhìn địa lý vùng sa mạc, thế
nào là dòng nƣớc chảy từ
Jerusalem, từ một độ cao
xuống vùng đất thấp, thấp đến
độ mang tên Biển Chết, ta sẽ
thấy ý nghĩa lời kinh kia thấm
thía biết bao.
Lời kinh phụng vụ đó cũng cần
đọc trong cái nhìn với thời gi-
an. Ðầu mùa xuân, Ðức Kitô đi
ngƣợc núi đá trên ba mƣơi cây
số. Bƣớc chân về Jerusa-
lem lần cuối này cũng trên
dƣới ba mƣơi tuổi đời của
Ngƣời. Mùa xuân với những
cơn mƣa. Núi đồi hứng nƣớc
đổ xuống thung lũng:
Từ khe đá, Ngƣời khơi dòng
suối chảy,
nƣớc đổ dạt dào nhƣ những
con sông. (Tv 78:15)
Hình: hang đá từ trong núi
Với hai góc độ, địa lý và thời
gian, lời kinh kia có thể gợi ý
cho ta về chiều kích thiêng li-
êng. Rồi từ Jerusalem, hiến tế
Núi Sọ đƣa Ngƣời vào Phục
Sinh, để rồi sự sống nhƣ dòng
nƣớc kia, nhƣ cơn mƣa mùa
xuân, chảy qua sa mạc cằn cỗi
xuống vực sâu, sâu thấp nhất
trên mặt địa cầu. Chẳng vùng
Biển Chết nào mặn cay đắng
nhƣ vùng Chết của linh hồn ta:
Khi CHÚA dẫn tù nhân Sion
trở về,
ta tƣởng mình nhƣ giữa giấc mơ.
Vang vang ngoài miệng câu
cƣời nói,
rộn rã trên môi khúc nhạc mừng.
Bấy giờ trong dân ngoại, ngƣời ta
bàn tán:
“Việc CHÚA làm cho họ,
vĩ đại thay!”
Việc CHÚA làm cho ta, ôi vĩ đại!
ta thấy mình chan chứa một
niềm vui.
Lạy CHÚA, xin dẫn tù nhân
chúng con về,
nhƣ mƣa dẫn nƣớc về suối cạn
miền Nam. (Tv 126:1-4)
NGUYỄN TẦM THƢỜNG Jerusalem, những ngày vào
Tuần Thánh, 2006
Yêu Thầy, con vẫn yêu nhiều lắm
Nhƣng tội đời, khốn nỗi, vẫn đa mang…
Bao năm dài không một lời ta thán
Sao bỗng nhiên thảng thốt kinh hoàng?
Trong thoáng chốc, con mất rồi, kiên nhẫn
Con rời xa bến đỗ bình an…
Không tha thứ nhƣ bao nhiêu lần trƣớc
Khi ngƣời đời trao gởi gian nan,
Con tự cột cho mình giây trói buộc
Của hẹp hòi, chấp nhất, than van.
Con đánh mất, Thầy ơi, con đánh mất!
Não nùng thay! Ơn Thánh Thầy ban
Con tiếc qúa, xót xa vời vợi
Mới gần đây nào có xa xôi,
(Thế mà sao con đã quên rồi!):
Lòng rộng lƣợng, sung sƣớng hơn nhiều lắm
Hồn nhẹ nhàng say đắm hƣơng hoa
Nhƣ chim con vui vẻ thật thà,
Nép cánh mẹ nghe mùa xuân đến
Xin cho con, hỡi ngƣời con yêu mến!
Ánh mắt Thầy, gà gáy năm xƣa,
Khi quay lại, nhìn Phêro chối tội,
Tình thƣơng yêu nói mấy cho vừa!
Con vẫn biết: tội phải đền, Ơn phải trả.
Xin Thầy la, đay nghiến con đi.
Tuy chƣa phải là loài phản bội
Đầu óc con nhiều lúc vô tri.
Xin quat tháo, rầy la dữ dội
Để trọn đời, con nhớ mãi hôm nay.
Đâu có phải vì lòng kinh hãi
Nhƣng nặng tình lo lắng cho nhau :
Con rất sợ, Thầy ơi ! Con sợ nhất
Thầy im lìm cúi mặt buồn đau…
Viết đến đây, nghẹn ngào qúa đỗi,
Con không còn đọc nổi kinh cầu,
Chỉ thinh lặng đầm đìa nƣớc mắt…
Trang 10 Linh Thao
Lạy Chúa Giêsu, qua hình ảnh con nhện và mạng nhện con
sung sƣớng biết bao., khi con nghĩ đến lòng thƣơng xót của
Chúa là một chất tơ mầu nhiệm, phát xuất ra từ trái tim Chúa
Cha.
Chúa Giêsu là một với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu ở trong Trái Tim Chúa Cha.
Chúa Giêsu yêu thƣơng Chúa Cha vô cùng.
Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha không ngừng.
Tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Chúa Cha, đã ban ra một
chất tơ óng ả vô giá.
Chất tơ quí trọng đã dùng mỗi ngƣời chúng con làm điểm
chọn để Chúa Giêsu dệt Lƣới Tình Yêu.
Vì yêu Chúa Cha và từ trái tim Chúa Cha, Chúa Giêsu ban tỏa
ra chất tơ quí giá này để giữ chúng con trong mảnh Lƣới Tình
Yêu khổng lồ của Chúa.
Chúa Giêsu ôm trọn chúng con trong chất tơ tình yêu.
Chất tơ mang tính chất lòng thƣơng xót của Thiên Chúa Ba
Ngôi.
Chất tơ quí giá vô hình luôn mạng lại Mảnh Lƣới Tình Yêu,
những nơi bị hƣ hỏng, những nơi bị thủng rách bởi tội lỗi của
chúng con.
Chất tơ níu kéo chúng con, chất tơ vẫn dính bám chúng con,
ngay cả khi chúng con đang bị tách rời khỏi Mảnh Lƣới Tình
Yêu của Chúa.
Chúa Giêsu con kín h yêu, nếu chúng con còn ý thức, biết chấp
nhận để cho chất tơ óng mƣợt bám đọng trên linh hồn chúng
con, thì cho rằng chúng con đang không còn hàn gắn với
Mảnh Lƣới Tình Yêu của Chúa, chúng còn ẫẵn còn mang hơi
hƣớm của Chúa, thì chúng con vẫn còn có niềm hy vọng đƣợc
Chúa cứu rỗi.
Con kính lạy Ba Ngôi Chí Thánh con kính trọng, con kính yêu
và thờ phụng Chúa.
Con kính lạy Tình Yêu Huyền Bí, Tình Yêu Cao Cả, Tình Yêu
có một không hai.
Con kính lạy Tình Yêu Bất Diệt chẳng hề phôi phai.
Ôi Tình Yêu Hy Sinh, Tình Yêu Nhẫn Nại, Tình Yêu Thƣơng
Xót chẳng bao giờ ngừng, mạng lại Mảnh Lƣới Tình Yêu.
Đây là cảm nhận được trên đường đến dự Thánh Lễ ban mai của một tín
hƣũ, khi nhìn tƣợng Chúa Giêsu hiền hòa trên công viên với mạng nhện
phủ đằy. Ánh mặt trời chiếu rọi vào tƣợng Chúa với mạng nhện giăng đầy
nhƣ những sợi tơ lung linh óng ả, rất huyền dịệu…..
ạy Chúa, con xin cảm tạ
Chúa đã cho con trải qua một
ngày đẹp, trọn vẹn sống với
Chúa và với anh chị em trong
khóa. Sáng nay, khi thức dậy
ngƣời con mệt mỏi vì đêm qua
có mấy lần thức giấc và trằn
trọc lúc nửa đêm về sáng,
nhƣng ý nghĩ chỉ còn một ngày
nay nữa thôi. Mai phải rời xa
nơi đây rồi thì con vội vàng
chỗi dậy ngay.
Buổi kinh sáng chúng con
được hướng dẫn với đề tài xin
Thánh Thần Chúa giúp chúng
con biết mở lòng cho Chúa Giê-
su Kitô và xin Chúa cho biết:
Chúa muốn chúng con làm gì
cho Chúa đây?
Sau điểm tâm con có giờ
đến gập cha và được cha hướng
dẫn, dẫn giải cho về những
trƣờng hợp mà con đang thắc
mắc lo lắng trong cuộc sống
hằng ngày. Nhờ lời cha hƣớng
dẫn mà con nhận chân đƣợc
vấn đề để biết mình phải ứng xử
ra sao. Xin Chúa Thánh Thần
soi sáng cho con trong mỗi
quyết định.
Giờ huấn đức, chúng con
lại đƣợc hƣớng dẫn rõ thêm về
„phân biệt thần loại“. Cảnh
giác những mƣu mô tinh vi của
thần dữ. Con xin Tạ Ơn Chúa
và cám ơn cha.
Sau bữa ăn trƣa, giờ
thong dong, con đi dạo một
mình, vừa đi vừa suy gẫm lại
những lời cha giảng trong baì
huấn đức. Khi trở về, con men
theo những tƣợng đá có khắc
ghi chặng đàng thánh giá. Con
bắt đầu đứng ở trạm thứ ba, vì
con lƣời không đi trở lui để tìm
trạm thứ hai và trạm trứ nhất.
Nên con bắt đầu từ chặng
đàng thánh giá thứ ba. Chúa
Giêsu bị xử án, con xin Chúa
giúp con đừng lên án ai cả và
cho con biết chấp nhận mọi
ngƣời nhƣ họ là. Chặng kế tiếp
Chúa Giêsu vác thánh giá, con
xin Chúa giúp con can đảm
theo gƣơng Chúa mà gánh chịu
những nghịch cảnh đến trong
cuộc sống…Cứ thế con đi hết
chặng mƣời lăm và nghiệm
được những lợi ích và nhân đức
của việc đi đàng thánh giá. Nhờ
những chặng đàng thánh giá
này mà con đƣợc cầu nguyện
cho hết thảy mọi ngƣời, kẻ tù
tội, ngƣời già yếu, cô đơn, bệnh
tật,các linh hồn nơi luyện ngục,
các linh hồn vừa mới qua đời,
các linh hồn đang hấp hối v.v…
cho sự hiệp nhất những giáo
hộitrên thế gian,,, các linh mục
của Chúa, nhất là các linh mục
trẻ, các linh mục đang truyền
giáo xa xôi hẻo lánh….Đên hết
chặng mƣời lăm là con chạm
vào cánh cửa nhà dòng. Đây là
chặng thứ mƣời sáu. Con ngại
ngùng không dám gõ cửa, vì
con sợ chạm phải sự khó chịu
của ngƣời mở cửa, (vì sáng qua
con đã chứng kiến cảnh này),
nên thôi, con quay trở lại, luyện
đôi chân xuống mấy chục bậc
cấp.
Về đến nhà dòng với nỗi
vui tràn ngập của cô bé đƣợc
qùa. Vì từ khi biết Chúa đến giờ
con chƣa bao giờ đi chặng
đàng thánh gía một cách trọn
vẹn nhƣ hôm nay. Nhất là lại
một mình. Con sung sƣớng qúa,
gặp ai cũng muốn khoe, muốn
chia sẻ, nhƣng lại sợ làm phiền
mọi ngƣời vì ai cũng đang làm
linh thao, họ cũng đang có
những tâm tình vui sƣớng riêng
với Chúa, mình phải tôn trọng
chứ.
Buổi chiều con vào nhà
nguyện thăm Chúa, nhƣ một
đứa bé, con khoe với Chúa
thành tích của mình và dâng
Chúa tất cả tâm tƣ của con từ
sáng tới giờ. Rồi cứ thế con
ngồi nghỉ ngơi bên Chúa. Giờ
ăn chiều con gặp một Sr. phục
vụ mập map, con chào, Sr.
không trả lời và khi Sr. đem
thức ăn ra con nói lời cám ơn,
Sr. cũng không đáp lại. Con lại
có ngay nhận xét: Các Sr. ốm
ốm ở đây bà nào cũng dễ
thƣơng tƣơi vui, còn các bà Sr.
mập thì hơi hơi khó chịu và hơi
hà tiện nụ cƣời. Vừa nhận xét
xong là con biết mình đã phạm
tội xét đoán ngƣời khác. Câu
kinh thánh „ngƣơi là ai mà dám
xét đoán ngƣời khác. Nó đứng
hay nó ngã…….“ lại hiện ra
trong đầu nhắc nhở con. Trong
suốt giờ ăn, con vừa ăn bánh
mì vừa ăn năn tội, xin Chúa tha
thứ cho ý nghĩ này của con.
Giờ đây chúng con ngồi
quây quần quanh Chúa. Mỗi
chúng con đều có một tâm sự
với Chúa. Yêu Chúa mà cũng
yêu nhau thật đậm đà. Những
em trẻ tuổi trong khóa con cảm
thấy yêu mến nhƣ các con mình
nên dễ dàng hỏi han tâm sự với
nhau thật là dễ thƣơng. Lúc này
lòng con lại gợn lên một chút
buồn vì ƣớc ao con mình cũng
được hiện diện trong các khóa
linh thao nhƣ các em này. Con
cảm tạ Chúa.
Xin Chúa chúc phúc cho chúng
con một đêm ngủ ngon và thêm
sức cho chúng con một ngày
mai tƣơi đẹp trọn vẹn, ngày
cuối của khóa với những hoa
đẹp, trái ngon đem về làm qùa
cho những ngƣời thân trong gia
đình. Và tràn đầy những ân
sủng Chúa cho những ngày
tháng sống nơi cuộc đời bon
chen ô trọc. Tạ ơn Chúa.
Nguyên Thi
LỜI TẠ ƠN
Linh Thao Trang 11
Trang 12 Linh Thao
TÓC MÂY VÀ THORNBIRD
Ở Sài gòn thời thập niên '60, truyện Tóc Mây đã trở thành như một cái "mốt" cho nhiều người tìm đọc. Tác giả Lệ Hằng khai thác đúng lúc cái đề tài rất ư ăn khách mà trước đó chưa ai đụng tới. Nó gợi tò mò. Ông cha mà cũng biết yêu thương cơ à! Đọc một tí để khám phá cái thế giới huyền bí đàng sau vẻ trang trọng của một linh mục, lại chẳng phải là chuyện hấp dẫn sao?! Rồi bài hát do Nguyễn Đức Quang phổ nhạc lời thơ "rất khều mặt trời" của Nguyễn Tất Nhiên, đã len lỏi vào khắp mọi ngóc ngách, làm rung lên những sợi tơ trời. Tôi nhớ lõm bõm được mấy câu lúc đầu nghe thật ngộ nghĩnh:
vì tôi là linh mục
giảng lời tình nhân gian
nên không có Thánh Kinh
nên không có bổn đạo
nên không có giáo đường
(một tín đồ duy nhất vừa thiêu hủy lầu chuông!) vì tôi là linh mục
phổ lời tình nhân gian
thành câu thơ buồn bã
nên hạnh phúc đâu còn... vì tôi là linh mục
không biết rửa tội người nên âm thầm lúc chết tội mình còn thâm vai.
Truyện Tóc Mây thời mới là Thornbird, hư cấu từ khung cảnh bên Úc, đã được đóng thành phim chiếu đi chiếu lại dài dài, chuyên chở nhiều cơn phấn đấu dai dẳng với đủ mùi đắng ngọt
của cả một đời người. Thornbird là một loại chim thật lạ, cành cây thơ mộng bên hồ không thèm đậu, lại thích lao mình vào cây gai trên rừng cho chảy máu mà hót lên cung điệu bài "thú đau thương!"
QUYỀN NĂNG LÀ TÍN ĐỒ
Một hôm được mời tham dự Đêm Thơ Nhạc Du Tử Lê ở California, tôi ngồi bên một nhà văn không Công giáo. Trong lúc chờ khai mạc chương trình, sau một số trao đổi chuyện trò, ông ta hỏi tôi có dịp đọc cuốn truyện Thornbird của một tác giả người Úc nào chưa? Tôi chưa kịp trả lời thì ông hỏi tiếp ngay: tại sao ở Việt Nam chế độ không
Lm. Trần Cao Tường HỒN TÔI BAY ĐẾN BAO GIỜ MỚI ĐẬU
Ảnh của Nguyễn Tầm Thường, S.J.
Phải mất cả một buổi sáng mới chụp được hình con chim Thornbird tại New Zealand
Úc châu, là bối cảnh và tựa đề của cuốn tiểu thuyết đã đóng thành phim gây khá nhiều tò mò. Thornbird là loài chim thích gai đâm cho
chảy máu! Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu,
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu. (Thơ Hàn Mặc Tử)
Bài hát quen thuộc hồi nào văng vẳng bên tai với lời tâm sự mới: Vì tôi là linh mục, chung phận kiếp lưu đầy, nên suốt đời phiêu bạt, nên mãi là mây bay.
Linh Thao Trang 13
ưa gì Công giáo mà lại cho chiếu phim đó hoài vậy? Không chút do dự, tôi trả lời ngay: "Có thể người ta muốn rêu rao cho thấy bề trái của hàng linh mục: quá nhiều bê bối thấy chưa, phải đáng hồ nghi là vừa!"
Ông ta liền buông một câu tỏ ra hết sức ngỡ ngàng: "Thế à! Tôi chưa bao giờ nghĩ ra điều đó. Ngược lại, với cá nhân tôi là một người không Công giáo, khi đọc truyện Thornbird, tôi hiểu và thương mến các linh mục nhiều hơn, vì nhận ra chất người nơi họ, rất gần gũi và rất nhân bản. Dĩ nhiên đã là người thì cũng có thể vấp ngã, đó là con số nhỏ. Họ cũng là người như tôi, thế mà họ lại có thể phấn đấu với chính mình để ra đi cứu nhân độ thế. Biết bao nhiêu người như thế. Tôi phục quá chứ!
Nhận xét của ông nhà văn này làm tôi suy nghĩ và thấy ông nói đúng. Có một số người chỉ thích nhìn hình ảnh người tình trong phim là một cô gái. Nhưng đang khi đó tác giả lại muốn trình bày về những phấn đấu tất nhiên của con người để bước tới mà cũng có thể quị ngã vì những hướng chiều từ trong mạch máu, vẫn gọi là tham sân si, trong đó khuynh hướng tham vọng mê quyền năng mới là người tình ác quỉ đứng hàng đầu trong bẩy người tình là những mối tội đầu mai phục trường kỳ bên dưới những tế bào. Bên Mỹ cũng có truyện Cardinal Sins của Andrew Greeley khá nổi tiếng. Đề
sách là một kiểu chơi chữ: vừa có nghĩa là Những Mối Tội Đầu là những "tội gốc chưa tan", mà vừa có nghĩa là Hồng Y Phạm Tội! Đứng đầu bẩy mối tội gốc của mọi thứ tội là kiêu ngạo, là yêu người tình danh vọng thường phá hủy lầu chuông, đúng như lời thơ Nguyễn Tất Nhiên.
tín đồ là người tình
người tình là ác quỉ ác quỉ là quyền năng
quyền năng là tín đồ
tín đồ là người tình
thiêu hủy lầu chuông tôi.
Lần đầu tiên một số người phát giác ra rằng ”ông cha” cũng có một con tim bằng thịt biết lúc lắc bồi hồi chứ đâu phải gỗ đá. Trước kia cứ tưởng linh mục là một loại thụ tạo thiêng liêng sáng láng từ trên trời rơi xuống. Liên hệ giữa giáo dân và linh mục luôn có một ngăn cách kiểu ”kính nhi viễn chi.” Bây giờ người ta có dịp nhận ra linh mục vẫn còn là một người nguyên vẹn hình hài, biết khóc biết cười, biết đói biết no, biết đau khổ, biết đối diện với những lúc đen tối, biết vui mừng biết hy vọng, biết lo âu biết sợ hãi. Và cũng có khuynh hướng con người cho những đam mê tham sân si với đầy đủ lễ bộ hỉ nộ ái ố.
Chúa Giêsu khi làm người, Ngài cũng đã chấp nhận thân phận như vậy. Satan biết thế nên trong sa mạc đã gạ gẫm Ngài bằng những màn hấp dẫn vật chất quyền hành danh vọng. Đấy chỉ là cơn cám
dỗ điển hình. Kinh Thánh nói rõ: ”Sau khi làm đủ cách cám dỗ, ma quỉ rút lui để chờ dịp khác” (Lc 4:13). Điều đó chứng tỏ rằng cả cuộc đời của Chúa Giêsu luôn là một phấn đấu chọn lựa bước tới hoặc bước lui, như một con người, như một tư tế, như một linh mục đã chọn sống độc thân để có thể phục vụ trọn vẹn, trong khi vẫn có thể chọn khác như bất cứ ai.
CƠN CÁM DỖ CUỐI CÙNG
Karanzakis đã từng viết truyện Cơn Cám Dỗ Cuối C ù n g ( T h e L a s t Temptation), cũng muốn nói lên phần nào cái nhìn trên. Vào lúc kết thúc sứ vụ ở trần gian, Đức Giêsu đã bị ghìm chặt vào thập giá nhưng vẫn phải quằn quại giẫy giụa. Ngài cũng vẫn bị cám dỗ tìm ra kiểu cứu nhân độ thế bằng một lối khác, như dùng quyền năng biểu diễn một trò ngoạn mục là nhẩy xuống khỏi thập giá trước mặt bá quan văn võ để thiên hạ lác mắt mà bái phục. Cơn cám dỗ này giống y chang cơn cám dỗ trong sa mạc lúc khởi đầu. Gọi là cơn cám dỗ cuối cùng, vì chỉ khi chết rồi mới hết phải phấn đấu thôi.
Linh mục cũng không thể ra khỏi thân phận đó. Cuộc đời linh mục cũng luôn là một phấn đấu chọn lựa giữa việc dừng chân ở một đối tượng ”tóc mây,” ở những kiếm tìm xây dựng lâu đài thành công chói sáng, và sự dấn thân bước
Trang 14 Linh Thao
tới lý tưởng. Nhìn một cách tích cực qua truyện Tóc Mây hay Thornbird, thì đây là dịp để người ta có thể nhìn rõ được những phấn đấu không ngừng của linh mục, như lời Thánh Kinh trong thư gửi giáo đoàn Do Thái. Và từ đó sẽ cùng với cả nhiệm thể Chúa Kitô là Hội Thánh hỗ trợ, cảm thông và chia sẻ trách nhiệm gầy dựng thân thương.
“Linh mục là người được chọn giữa người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người mà giao tiếp với Thiên Chúa để dâng lễ vật và lễ tế đền tội. Linh mục có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính mình cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên linh mục phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy." (Do Thái 5:1-3)
Lm. Trần Cao Tường (từ tác phẩm Khúc Sáo Ân Tình,
Thời Điểm Xuất bản)
rong Thánh Lễ Chúa Nhật
II/C chúng ta đọc Phúc Âm
về Tiệc Cƣới Cana (Ga 2,1-11).
Nhiều cập dùng đoạn này trong
Lễ Cƣới, nhƣng đoạn nầy cũng
có thể giúp tất cả những ai
muốn sống hăng say, yêu Chúa
mến ngƣời và mang niềm hân
hoan đến tha nhân.
“Có tiệc cƣới tại Cana. Trong
tiệc cƣới có thân mẫu Đức Giê
-su. Đức Giê-su và các môn đệ
cũng đƣợc mời tham dự”. Đây
có thể là chuyện cuộc sống mỗi
ngƣời chúng ta, nếu coi nó nhƣ
một chuyện tình vui vẻ, đầy
tràn niềm hy vọng. Một chuyện
tình đang thúc đẩy tôi học hành,
làm việc, đi tu hay lập gia đình
với ngƣời bạn trăm năm của tôi.
Tôi mời bà con, bạn bè cùng
chia sẻ niềm vui của chuyện
tình tôi. May mắn cho tôi, nếu
trong số ngƣời đƣợc mời có
thân mẫu Đức Giê-su, và có
chính Ngài. Có lẽ, lúc mọi sự
diễn tiến vui vẻ, nhƣ mình đã
tính trƣớc, hai ngƣời khách cao
quý này chẳng có vai trò đặc
biệt trong chuyện tình của tôi.
Tuy nhiên, trong tiệc cƣới Cana
có lúc “hết rƣợu”. Có lẽ, không
biết từ bao giờ, trong chuyện
tình của tôi cũng xẩy ra là đã
hết rƣợu. Rƣợu tôi rót vào ly
các bạn là rƣợu nhà, đơn sơ,
khá ngon (theo cảm tƣởng của
tôi). Bằng chứng là chung
quanh tôi tôi không bao giờ
thiếu bạn bè, nụ cƣời. Tuy
nhiên, bây giờ „hết rƣợu rồi‟.
Tại sao? Chính tôi chẳng hiểu
rƣợu tôi hết từ bao giờ. Ngay từ
đầu, tôi đâu có nhiều rượu. Hai
ba ngƣời uống thì hy vọng
không thiếu; có ngƣời mang
theo một hai chai, thì càng bảo
đảm. Nhưng, nếu kẻ uống hơi
đông, tôi không bảo đảm sẽ đủ
rƣợu.
Tôi hết rƣợu, hay là rƣợu tôi
không ngon, nói cách bóng bẩy
hơn đó là những nghèo nàn của
tôi, những giới hạn, những
khuyết điểm tôi gặp phải khi
tiếp xúc với ngƣời khác. Từ
trƣớc đến bây giờ, có lẽ tôi
buồn vì những khuyết điểm đó.
Nhìn lại Phúc Âm chúng ta thấy
một sự thay đổi lớn lao trong
tiệc cƣới Cana hể từ lúc „hết
rƣợu‟. Khi hết rƣợu, hai tân
lang cùng toàn thể khách mời
mới uống đƣợc rƣợu ngon, là
quà tặng của Đức Giê-su. Giai
đoạn vui nhất bắt đầu khi hai
tân lang cám ơn Đức Mẹ và
mời Đức Giê-su ngồi cạnh bên
mình. Đức Giê-su biến thành
tâm điểm của tiệc cƣới.
Nhƣng, chúng ta hãy theo dỗi
mọi sự xẩy ra từng bƣớc một.
Đang giúp một tay trong bếp,
Đức Mẹ nhận ra tình trạng sắp
sửa hết rƣợu. Vừa chạy đến gặp
Đức Giê-su, vừa bước vào bếp
Đức Mẹ căn dặn với gia nhân:
“Ngƣời bảo gì, các anh cứ việc
làm theo”. Nhƣ vậy, điều quan
trọng là làm theo những gì Đức
Linh Thao Trang 15
Giê-su bảo. Nhƣng Ngài nói gì
với tôi? Chúa đâu có nói với
tôi bao giờ! Lúc nào tôi nghe
Ngài bảo tôi? Chúng ta nghe
bằng cách nào?
Đề tài này rất quan trọng bởi vì
nghe Chúa chúng ta mới có thể
„làm theo Ý Ngài‟ đƣợc.
Nhƣng, Chúa nói thế nào?
“Tiếng nói của Chúa là tác
động thần linh trong tâm hồn
chúng ta”. Ngài không nói dài
dòng nhƣ loài ngƣời. Khi Ngài
nói, tâm hồn chúng ta hƣớng
thƣợng và thêm sức sống;
chúng ta nhận thấy một ánh
sáng đổi mới các mối liên hệ:
với Chúa, với anh em, với
chính mình; chúng ta thích đọc
Kinh Thánh và thấy Lời Chúa
có ý nghĩa đối với mình, thấy
Chúa thƣơng yêu chúng ta và
chính chúng ta cũng yêu Ngài
mến ngƣời. Lúc đó, chúng ta
thấy rõ hơn nên làm gì và có
sức thực hiện hành động đó.
Thánh I-nhã tin rằng Thiên
Chúa muốn soi sáng và khuyến
khích mọi ngƣời, không phân
biệt bậc sống lập gia đình, tận
hiến hay độc thân. Chúa muốn
„nói‟ với chúng ta không chỉ
khi cấm phòng linh thao nơi
yên tĩnh mà ngay ở trần gian,
bất cứ lúc nào và khắp mọi
nơi. Chúng ta có thể làm chứng
cho niềm tin của I-nhã vì đã
từng „nghe‟ Chúa không chỉ
khi Linh thao mà ngay trong
cuộc sống thƣờng ngày.
Vậy thì nếu lúc này tôi ít nghe
Thiên Chúa nói với tôi, có phải
là vì Ngài hết muốn với mình
hay là vì lí do gì? I-nhã lại mời
chúng ta nhìn hai lí do mà trả
lời thắc mắc này. Theo ngài,
nếu trong thời gian hơi lâu
chúng ta chẳng nhận thấy một
tác động nào của Chúa có lẽ vì
chúng ta lƣời biếng hay là vì
một tinh thần bất chính đang
làm chủ trái tim ta. Chúng ta
hãy xem chi tiết hơn:
„Lƣời biếng‟. Cảm xúc lƣời
biếng có liên hệ mặt thiết và
trái ngƣợc với niềm hy vọng và
lòng hăng hái. Ai hy vọng
nhiều, ít lƣời biếng. Nhƣng,
khi thất vọng, nản lòng hay
nghi ngờ, lúc đó chúng ta cảm
thấy lƣời biếng không muốn cố
gắng nữa. Lƣời biếng là không
để dành thì giờ trong ngày để
tâm tình với Chúa. „Lƣời
biếng‟ cũng là „miệng đọc
kinh‟ nhƣng „tâm hồn lo ra‟.
Sở dĩ chúng ta “nhƣ kẻ điếc
chẳng nghe gì” (TV 37,14)
cũng có thể là vì một tinh thần
bất chính đang làm chủ trái tim
mình. Thiên Chúa rất tôn trọng
quyền tự do loài ngƣời. Ngài
gõ cửa trái tim, nhƣng nếu
không đƣợc đón tiếp, Ngài đợi
chờ ở ngoài. Nhiều thần tƣợng
bao vây con ngƣời (tiêàn bạc,
địa vị, quyền thế, thành
công...). Chƣa muốn kiềm chế,
thì chúng ta làm lơ. Chỉ cần
một thời gian lơ là với Chúa,
các thần tƣợng chiếm cả trái
tim.
Có nhiều tinh thần bất chính,
chăng hạn: nghi ngờ, sợ sệt
hay thù hận Thiên Chúa. Có
thể là vì một chuyên rất buồn
xẩy ra cho tôi, hay cho gia
đình tôi và người ta nói đó là ý
Chúa. Hay là tôi đã cầu nguyện
tha thiết xin Chúa một ơn duy
nhất, và Ngài đã không ban
cho. Một thành kiến sai lầm là
đủ để làm ngăn trở cho Ngài
vào. Thiên Chúa là thần linh,
thì chỉ có thể là tâm điểm trái
tim chúng ta.
Nghĩ rằng chỉ các thánh mới
nghe đƣợc Chúa nói là sai.
Ngƣời chăn chiên tốt lành đến
để kiếm chiên lạc, Thầy thuốc
đến để chữa lành bệnh nhân.
Nếu tôi còn nhiều tật xấu, hay
nghi ngờ và nản lòng, tôi vẫn
có thể mang những vấn đề đó
mà chia sẻ với Ngài. Là con
của Ngài, tôi có thể thắc mắc
và than khóc với Ngài. Nhƣ
Gia-cóp vật lộn với Thiên
Chúa, tôi không „buông Ngài
ra bao lâu Ngài không chúc
phúc cho tôi‟ (St 32, 23-33).
Vật lộn xong, tôi lắng tai nghe,
tôi mở hết lòng cho Ngài, thì
Ngài sẽ nói, Ngài sẽ chỉ cho tôi
nên làm gì.
Làm nhƣ vậy, trong chuyện
tình cuộc sống tôi, Chúa Giêsu
và Đức Mẹ luôn luôn sẽ là tâm
điểm của tôi, tôi sẽ nghe những
gì Thầy „bảo tôi làm‟, khách
của tôi sẽ không thiếu rƣợu, và
rƣợu của tôi sẽ rất ngon.
Câu hỏi gợi ý
1. Tôi thấy rượu hơi hiếm
trong chuyện tình của tôi từ
bao giờ?
2. Đức Giê-su là tâm điểm
cuộc sống mang nghĩa gì đối
với tôi?
3. Tật lười biếng đe dọa tôi
dƣới hình thức nào?
4. Tôi chưa sẵn sàng kiềm
chế tinh thần bất chính nào?
Eli Thành sj Saigon, 24 tháng Giêng, 2007
• Con đến khóa linh thao
với biết bao ƣu phiền vì gánh
nặng gia đình và bổn phận của
một con ngƣời. Con vẫn trách
Chúa hoài: Sao Ngài không
thƣơng con. Sao Ngài bỏ con.
Qua ba ngày này con đã đƣợc
cha hƣớng dẫn và Chúa Thánh
Thần soi sáng để nhìn lại mình
nên gánh nặng trên vai đã nhẹ
đi nhiều và cảm nhận được
Chúa thƣơng yêu mình vô vàn,
Ngài đã ban cho biết bao nhiêu
Hồng Ân, thế mà mình không
nhìn thấy, không nhận ra nên
trách cứ Chúa hoài. Con xin lỗi
Chúa và xin Ngài thánh hóa để
mỗi ngày con trở nên sống tốt
đẹp theo Ý Ngài.
• Nhờ mỗi năm con tham
dự một khóa linh thao, mà từ
ba năm nay tâm hồn con đƣợc
biến đổi hoàn toàn từ tâm hồn
đến thể xác. Linh hồn con như
đã chết mà được sống lại hay
nói cách khác nhƣ nắng hạn
gặp mƣa rào. Từ đó đến nay
linh hồn con luôn vui sƣớng
trong Ân Sủng Chúa.
• Mỗi lần đi linh thao là
mỗi lần con nhận đƣợc nén bạc
Chúa trao cho và lần khác con
đến khóa trình Chúa xem nén
bạc sinh sôi nảy nở tới đâu.
Nếu không có Ơn Chúa thì nén
bạc không thể sinh lợi đƣợc.
• Cuộc sống của con trong
gia đình qúa êm ả, nhiều khi
thấy nhàm chán. Con luôn luôn
cảm thấy thiếu thiếu cái gì và
khao khát cái gì. Con đến
khoá linh thao vì con biết chỉ
có Chúa mới biết đƣợc và bù
đắp được cho con cái thiếu
thiếu đó.Con chƣa biết Chúa
dạy con điều gì và con phải
làm gì với đoạn Kinh Thánh:
Bà góa cho Elia dầu và bột.
• Con học được nhiều qua
những bài huấn đức của cha,
cũng học đƣợc nhiều điều rất
hay qua các anh chị em trong
khóa về gƣơng sống đức tin.
Những giờ thinh lặng trong
Chúa thật tuyệt vời để nghe
Chúa nói với mình: “Xin Chúa
phán một lời thì linh hồn con
sẽ lành mạnh”. Nếu mình và
mọi ngƣời cùng xôn xao ồn ào
thì làm thế nào mà nghe đƣợc
tiếng Chúa, để biết Chúa phán
lời gì cho mình?.
• Lần đầu tiên con đi dự
linh thao. Con là một ngƣời đi
sinh hoạt rất nhiều, đi hành
hƣơng rất nhiều và tổ chức
hành hƣơng v.v…Qua khóa
linh thao con nhận thấy giờ cầu
nguyện với Kinh Thánh thật
tuyệt vời. Mọi ngƣời đƣợc sự
tác động của Chúa Thánh Thần
qua những câu hay những chữ
trong Kinh Thánh rồi chia sẻ
qua những lời cầu nguyện bộc
phát rất là chân thành, xúc
động. Xin tạ ơn chúa và cám
ơn cha cùng ban tổ chức.
*Riêng con, những kinh
nghiệm sống đức tin nhận
được trong các khóa linh thao
đã giúp cho gia đình con có
cuộc sống bình thản hơn. Lần
vừa qua khi nghe tin chồng con
bị mang bệnh nan y, nhờ kinh
nghiệm linh thao con đã giúp
anh thêm can đảm, giúp các
con cái trong gia đình bình tĩnh
đón nhận tin khủng hoảng đó.
Qua biến cố này gia đình sống
hạnh phúc yêu thƣơng nhau
hơn. Họ hàng cũng qúy mến
dịu dàng với mình hơn. Con
chỉ biết dâng lên Chúa lời tạ
ơn. Cám ơn cha và những
ngƣời có công tổ chức các
khóa linh thao.
NTT ghi lại
Trang 16 Linh Thao
ài giảng trong Thánh
Lễ, linh mục đã mời
gọi mỗi ngƣời quay lại với đời
sống nội tâm của mình để tự
kiểm điểm, xem xét đƣờng lối
và cách sống của mình. Khi
đó, chắc hẳn mỗi người chúng
ta sẽ ngạc nhiên, ngỡ ngàng vì
thấy những bổn phận thiếu sót
của mình và những phần chia
sẻ với ngƣời khác thật qúa ít
ỏi.
Chúng ta đang ở vị trí
nào, khi chúng ta nói chúng ta
tin Chúa ? Phải chăng vì lơ là
mà chúng ta không để ý nghe
Lời Chúa qua bài Thánh Thƣ
hay qua đọan Phúc Âm ? Phải
chăng, chúng ta chƣa đủ
trƣởng thành để cảm nghiệm
được sự hiện diện của Ngài
Phải chăng chúng ta cần có ơn
soi sáng của Chúa Thánh
Thần, để có thể hiểu Lời nhắn
nhủ của Ngài trong Lề Luật ?
Thật ra, Lề Luật của
Chúa là niềm vui cho trái tim
và là ánh sáng cho mắt, khi
chúng ta nhìn thấy và yêu mến
mục đích thật của sự sống. Lề
Luật cần có Ngƣời Cha Trên
Trời và Lề Luật đã đƣợc nhắn
nhủ qua các tiên tri, qua Moi-
sen và sau cùng chính Chúa
Giêsu đã đích thân xuống thế
gian, để rao giảng Lề Luật của
Chúa Cha.
Hôm nay, chúng ta đề
cập đến sự chia sẻ cho ngƣời
anh em đồng loại. Chúng ta có
nhớ chăng, Chúa Giêsu đã
giảng : « Vì xƣa Ta đói mà các
ngƣơi đã cho Ta ăn, Ta khát
mà các ngƣơi đã cho Ta uống,
Ta là khách lạ mà các ngƣơi
đã tiếp rước, Ta mình trần mà
các ngƣơi đã cho ta mặc, Ta
đau yếu mà các ngươi đã thăm
viếng, Ta ở tù mà các ngƣơi đã
đến với Ta (Matthêu 25, 35)
Cũng nhƣ lời « Qủa thật, ta
bảo các ngƣơi : những gì các
ngƣơi đã làm cho một ngƣời
trong các anh em hèn mọn
nhất này của Ta, là các ngƣơi
đã làm cho chính mình
Ta » (Mt.25, 40)
Chúa Giêsu là ai ? Chúa
Giêsu là ngƣời đã sống và thi
hành lề luật của Chúa Cha.
Chúa Giêsu áp dụng lề luật với
hết lòng MẾN và để lại cho
chúng ta gƣơng yêu mến phục
vụ anh em đồng lọai. « Nếu Ta
là Thầy, là Chúa mà đã rửa
chân cho các ngƣơi thì các
ngƣơi cũng phải rửa chân cho
nhau. Ta nêu gƣơng cho các
ngƣơi ngõ hầu nhƣ Ta đã làm
cho các ngƣơi thế nào, thì các
ngƣơi cũng làm nhƣ
vậy » (Ga.13, 14-15)
Chúa Giêsu đã để lại cho
chúng ta nhiều lời giảng, nhiều
ví dụ để kêu gọi chúng ta hãy
sống phó thác, đừng tham lam
của cải, đừng bon chen chức
vị, quyền hành. « Vì thế Ta bảo
các ngƣơi : « Chớ lo mạng
sống, các ngƣơi ăn gì ? hay
cho thân xác : các ngƣơi mặc
gì ?. Chớ bồn chồn lo lắng…
Đừng sợ ! Hỡi đàn chiên nhỏ
bé !... Hãy sắm cho mình
những ví tiền không hề cũ nát,
kho tàng không hao trên trời…
Vì kho tàng các ngƣơi ở đâu,
thì lòng các ngƣơi ở
đó » (Luca.12, 22-34) « …Vì
chƣng ai nhỏ hơn trong các
ngƣơi, thì kẻ đó là lớn » (Luca.
9, 48)
Nhƣng, chúng ta yếu
đuối, Chúa tốt lành đã để cho
chúng ta tự do lựa chọn.
« Ngƣoi hãy bán tất cả những
gì ngƣơi có mà phân phát cho
kẻ khó và ngƣơi sẽ có một kho
tàng trên trời, đọan hãy đến
theo Ta »Nghe thế, ngƣời ấy
rất đỗi buồn rầu, vì giàu có
qúa đỗi » (Luca 18, 22-23)
Lề Luật: Yêu Thương
Linh Thao Trang 17
Chúa Giêsu đã sống cho
Tình Yêu và chết cho Tình Yêu.
Chúa Giêsu đã về với
Chúa Cha và vào Thiên Đàng
với hai tay, hai chân và hai
mắt.
Còn chúng ta, thân phận
thấp hèn, chúng ta xin ơn soi
sáng của Chúa Thánh Thần, để
phân biệt sự phải, sự trái, sự
tốt, sự xấu. Chúng ta cần ơn
giúp đỡ của Chúa để cởi bỏ
dần sự tự do sai hƣớng của
chính mình. Tuy chúng ta còn
phải lo cuộc sống hằng ngày
và để ý, đáp ứng những nhu
cầu cần thiết cho gia đình của
chúng ta, nhƣng sự chia sẻ ở
đây, nói đến sự chia sẻ mà
chúng ta có thể làm. Chúng ta
không thể so sánh với trƣờng
hợp bà góa, Chỉ một đồng kẽm,
bà đã cho đi trọn vẹn, không
tính tóan và bà đã làm đẹp lòng
Chúa. Chúa lƣợng theo sức và
khả năng của mỗi ngƣời chúng
ta, mà ban cho chúng ta hồng
ân » Đƣợc những ân lộc khác
nhau tùy theo Ơn Thiên Chúa
ban cho ta » (Rm.12, 6)
Chúng ta hãy tránh, đừng
để đường lối của chúng ta đi
đến sự thèm muốn vật chất qúa
độ, sự tích trữ của cải, sự mơ
ƣớc chức vị, muốn đạt đến mọi
quyền thế, đƣa chúng ta đến
lòng khô khan, ích kỷ, cằn cỗi,
rồi đến cả xa Chúa.
Chúng ta hãy cố gắng
nghĩ đến ngƣời khác, nhƣ
Thánh Phaolo đã nhắn nhủ :
« Vì cũng nhƣ thân mình là
một, nhƣng lại có nhiều bộ
phận… một bộ phận phải đau,
thì hết các bộ phận đau chung,
một bộ phận đƣợc vinh, thì hết
c á c b ộ p h ậ n v i n h
chung! » (ICr. 12, 22-23).
Chúa biết chúng ta yếu đuối,
nên mỗi cử chỉ hy sinh, hãm
mình, mỗi cử chỉ mến yêu dƣới
bất cứ hình thức nào, chúng ta
cũng làm đẹp lòng Chúa.
Ngƣời Cha Trên Trời có
liên hệ với ngƣời cha thế gian,
vì làm Lề Luật cho con cái. Để
hiểu Lề Luật và theo Lề Luật
của Chúa, chúng ta cần phải có
Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ
giúp chúng ta bỏ lớp vật chất
nặng nề, để mặc lấy lòng MẾN
nhẹ nhàng. « … Vậy ta hãy vất
bỏ những việc tối tăm và hãy
mặc lấy khí giới sự sáng. Nhƣ
giữa ban ngày, ta hãy sống
đoan trang, chứ không phải
trong chè chén và say sƣa,
trong dâm dật và phóng đãng,
trong kình địch và ghen tƣơng.
Nhƣng anh em hãy mặc lấy
Chúa Giesu Kitô… » (Rm 14,
12 -14) Chúng ta hãy đến ẩn
náu bên Chúa Giêsu và Mẹ
Maria, Mẹ của chúng ta. Hãy
cầu xin Thánh Cả Giuse và các
Thánh giúp chúng ta lắng dịu
xuống để chúng ta đến với
Chúa trong phần tâm linh cầu
nguyện, và cố gắng thực hành
lòng MẾN.
Thánh Phaolo đã viết:
« Thuở tôi bé bỏng, tôi nói
năng nhƣ trẻ bé, tôi suy nghĩ
nhƣ trẻ bé, tôi xét đóan nhƣ trẻ
bé. Một khi tôi trƣởng thành,
tôi liền loại đi những gì là trẻ
bé ».
Vậy nay, còn lại TIN,
CẬY, MẾN, ấy là bộ ba !
Nhƣng trong bộ ba ấy, MẾN là
hơn cả ! » (I Cr. 13, 11-13)
« …vậy YÊU MẾN là chu toàn
cả Lề Luật » (Rm. 14, 10)
Khi chúng ta ra đời, đã
được đánh dấu là sự tội, và
đường đến với Chúa là đường
hẹp, thật gập ghềnh khó đi, vì
vậy Chúa Giêsu đã đến với
chúng ta, chịu chung số phận
và để cứu chúng ta. Chúng ta
hãy tin tƣởng vào Chúa Giêsu
và chiêm ngƣỡng tình yêu của
Ngài, để có can đảm mà cố
gắng bƣớc đi trên đƣờng phó
thác.
Khi đến tham dự một
Thánh Lễ và lên rƣớc lễ là
chúng ta muốn đến với Cha và
vào thế giới của Cha, thế giới
an bình, đầy Lòng Thƣơng Xót
Mến Yêu, thế giới nhân từ bác
ái cứu độ, thế giới hết lòng cho
đi, luôn mở vòng tay tha thứ
đón chờ, thế giới luôn sáng
ngời bởi Lửa Tình Yêu.
Chúng ta bé nhỏ, thấp
hèn, không thể am tƣờng để
hiểu nổi Tình Thƣơng Xót của
Cha trong quyền năng của
Cha. Với lòng khiêm nhu,
chúng ta chỉ biết xin, tất cả tùy
theo Thánh Ý Cha.
TK ghi lại.
(Paray le Monial,
Chúa Nhật 01.10.2006,
nơi nhà nguyện Chúa Giêsu
Thăm Viếng và Mặc Khải
Mầu Nhiệm Trái Tim Chúa
cho Thánh Nữ Maria
Mageurite Alacoque)
Trang 18 Linh Thao
húa ơi! Nếu
phải đọc kinh
và lễ lạy hết
ba ngày chăc
là T. chết mất“.
Tôi đã nói với cô
bạn thân ngồi cùng
xe khi chiếc xe bắt
đầu lăn bánh nhắm
hƣớng Norden. Khi
vừa sinh ra, cũng nhƣ rất nhiều
những gia đình khác, đƣợc cha
mẹ đƣa tới nhà thờ rửa tội. Rồi
lớn lên trong một gia đình tràn
đầy yêu thương của cha mẹ, tôi
cảm nhận đƣợc hạnh phúc và
giáo dục đã nuôi lớn tôi.
Thế nhƣng, hình ảnh Thiên
Chúa chỉ lờ mờ trong trí tôi
thôi. Và tôi chỉ tới vơí Ngài
những lúc cô đơn, khi đau yếu
hay khó khăn… chơ vơ giữa
dòng đời nhƣ một ngƣời sắp
chìm giữa biển cả mênh mông,
bám đƣợc mảnh ván và rồi khi
vào tới bờ, mảnh ván đó sẽ bị
quăng vào đám cỏ bụi gai và
dần dần đi vào quên lãng.
Thế đó các bạn ạ! Tôi bƣớc tới
linh thao với với những bƣớc
chân khập khiễng, hay nói đúng
hơn là sự tò mò của một con
ngƣời, nhƣng lòng thì rất bình
yên. Và rồi Chúa đến trong tôi
thật nhẹ nhàng, tôi đã cảm nhận
được sự hiện diện của Ngài với
đôi mắt hiền từ nhưng thật
nghiêm nghị… Ngài nhìn tôi
nhƣ muốn nhắn gởi tôi điều gì
(thật không giấy bút nào tả
được)…
Rồi ánh mắt đó cứ từng giây
từng phút hiện diện trong tâm
hồn bé nhỏ của tôi.
Tôi đã run lẩy bẩy và rung động
thật sự khi mỗi lần bƣớc vào
phòng cầu nguyện… Tôi không
tài nào cầm đƣợc những giọt
nƣớc mắt của mình, tôi đã khóc
thật sự các bạn ạ!!! Chỉ cần một
câu hát hay một lời cầu nguyện
của một ngƣời nào cất lên đều
làm tôi nghẹn ngào không cầm
được nước mắt… Và cứ thế, tôi
đã sống ba ngày trong những
giọt nƣớc mắt… Trong tôi một
niềm hạnh phúc dâng trào nhƣ
chƣa từng có.
Bây giờ tôi không còn chỉ thấy
cái xấu của ngƣời chung quanh,
mà tôi chỉ biết thông cảm đƣợc
cái xấu của họ, con mắt của tôi
đã biêt khoan dung chứ không
còn khắt khe nữa.
Sau ba ngày tĩnh tâm, tôi đã tự
tội nghiệp cho chính mình. Vợ
chồng tôi đã bƣớc vào cuộc
sống hôn nhân vơí một hành
trang qúa ít ỏi, nghèo nàn. Sau
hơn hai mƣơi năm song hành,
túi hành trang ít ỏi đó đã vơi đi
rồi trở nên trống rỗng. Nhƣng
may mắn làm sao! Chúng tôi đi
dự khóa linh thao này, đƣợc
linh mục Nguyễn Trọng Tƣớc
hƣớng dẫn, qua những bài huấn
đức và những hướng dẫn cầu
nguyện qua Kinh Thánh, đã cho
vợ chồng chúng tôi biết nhìn lại
mình để thấy cuộc sống hôn
nhân của mình còn
biết bao thiếu sót vì
thiếu Hồng Ân của
Chúa. Bây giờ hành
trang của chúng tôi
được đổ đầy với
tràn Ân Sủng của
Thiên Chúa.
Lễ cƣới hơn hai
mƣơi năm trƣớc, chúng tôi dã
„Dạ“ nhưng không phải chúng
tôi „Dạ“. Lần này chúng tôi đã
có một lễ cƣới không áo đẹp,
không tiệc tùng linh đình,
không qùa tặng… nhƣng lần
này chúng tôi đã có một lễ cƣới
thật sự của hai tâm hồn tìm
nhau, hai tâm hồn nên một với
nhau. Tối qua tôi đã hạnh phúc
nói vơi chồng tôi „chúng mình
đang trong tuần trăng mật“
Tâm hồn tôi nhƣ một thửa
ruộng đầy cỏ dại và gai góc …
Sau ba ngày linh thao tâm hồn
tôi thật nhẹ nhàng, cỏ dại và gai
góc đã đƣợc nhổ sạch… và
những hạt giống tốt đã đƣợc
gieo vào. Chúng sẽ nẩy mầm,
phát triển và đâm hoa kết trái,
hay rồi sẽ bị làn gió lạ mang
theo những hạt cỏ mây vào, để
rồi những hạt giống kia lại
nghẹt thở và chết đi khi chƣa
kịp nẩy mầm, bởi vì con ngƣời
tôi qúa yếu đuối.
Nhƣng tôi mong rằng những hạt
giống tốt sẽ nẩy mầm, bởi vì tôi
đã cảm nhận được đôi mắt
Chúa đầy yêu thƣơng nhƣ bài
hát „Chúa nhìn con yêu thƣơng,
âu yếm kêu mời… Ngài luôn
bên con đôi mắt nhân từ dõi
theo đời con…“
Một tham dự viên.
Linh Thao Trang 19
ình yêu hôn nhân là tình yêu trọn vẹn
của con ngƣời. Tình yêu hôn nhân có
mục đích nuôi dƣỡng và gia tăng tình yêu
qua những vui buồn trong đời sống hằng ngày
để vợ chồng tâm đồng ý hiệp và cùng nhau đạt
tới sự trọn vẹn của con ngƣời mình……… Con
cái là ân huệ qúy giá nhất của hôn nhân và góp
phần lớn lao vào hạnh phúc của cha mẹ“
(Hiến chế mục vụ số 50)
***
Đức Hồng y Franxisco Xavier Nguyễn Văn
Thuận đã nói: ”Nghề làm cha làm mẹ, làm vợ
chồng là nghề khó nhât mà không đƣợc học”
Trong đời sống vợ chồng, ngƣời vợ và ngƣời
chồng phải học biết những nhu cầu của nhau để
cân bằng sự sống hài hòa trong gia đình:
*BẢN CHẤT CỦA ĐÀN BÀ:
- Luôn quan tâm đến mọi việc
- Hay lo lắng thái qúa nên làm phiền các ông
chồng
- Hay nói nhiều, nói không đúng lúc, không
đúng thời
- Đàn bà luôn luôn cần có ngƣời hiểu tôi
- Cần có ngƣời thông cảm với tôi
- Cần có ngƣời để tôi tâm sự
*BẢN CHẤT CỦA ĐÀN ÔNG:
- Khả năng lãnh đạo
-Luôn luôn giải quyết vấn đề theo thứ tự ƣu tiên
(td: khi chƣa cƣới, ƣu tiên là o bế nàng. Khi
cƣới rồi, ƣu tiên là làm việc kiếm tiền để lo
cuộc sống gia đình)
-Đàn ông cần thinh lặng nên họ cần có khỏang
trống cho riêng mình
*VẤN ĐỀ CHĂN GỐI:
Ngƣời đàn bà chỉ có thể sinh lý khi họ cảm thấy
được yêu thương; ngòai ra chỉ là sự cưỡng bức.
Đàn ông thì chỉ cần giải quyết sinh lý. Vì thế 10
hay 20 năm sau đó sinh lý vợ chồng không bao
giờ còn đẹp nhƣ giai đoạn đầu.
*GIÁO DỤC CON CÁI
“Đừng nhốt cứng con cái bạn trong cái khung
hiểu biết của bạn, vì chúng đã đƣọc sinh ra
trong một thời đại khác” (Lời của một Rabbi)
*Một trong những lỗi lầm lớn nhất của cha mẹ
là phƣơng pháp giáo dục con không đồng nhất.
- Hãy cẩn thận lời nói với nhau và với con cái
- Không nên cãi nhau trƣớc mặt con cái (nhƣ
thế là gieo vết thƣơng vào tâm hồn trong trắng
của con cái)
- Nên giải thích nhẹ nhàng với con cái về mọi
việc, mọi hòan cảnh , mọi tình huống.
Khi vợ chồng bất đồng ý kiến hay giận nhau,
không nên chiều con để kéo nó về phía mình
(nhƣ thế là gieo cỏ lùng vào tâm hồn trong trắng
của chúng)
Trẻ ở khoảng 5 tuổi: nên giáo dục cho con biết
sự tự do và sống trong tự do.
Trẻ ở khỏang 10 tuổi: tập cho con biết cảm
Trang 20 Linh Thao
(Tặng các cặp vợ chồng trẻ. Riêng tặng các con yêu qúy: trai, gái, dâu rể).
nghiệm về đức tin (có thể hƣớng dẫn cho em
làm hƣớng dẫn buổi cầu nguyện hay tập làm
phút hồi tâm trƣớc khi đi ngủ)
Trẻ ở khoảng 15 tuổi: Tập cho các em biết chia
sẻ bằng những việc tong đồ nhẹ nhàng (td: một
bà mẹ muốn hƣớng dẫn con giúp những trẻ em
đói nghèo ở Phi Châu. Bà mua một tờ báo có
đăng tin này và đem về nhờ con đọc giùm. Rồi
bà gợi ý cho con về lòng thƣơng xót kẻ thiếu
thốn so với cuộc sống qúa đầy đủ cuả cậu bé,
và bà gợi ý cho con trai ngày mai rút một chút
tiền tiết kiệm và tự tay cậu gởi giúp các em bé
nghèo đó)
*Hằng ngày theo dõi con cái xem nhu cầu trẻ
nhƣ thế nào bằng cách quan sát những lúc trẻ
chơi một mình hay chơi chung với các trẻ khác
để hướng dẫn các em cầu nguyện và dẫn vào
sự giáo dục cho hữu hiệu.
“Con trẻ yêu những điều khờ dại. Roi vọt giúp
chúng bỏ tật xấu ấy” (Cách ngôn22,15)
Hãy tặng cho chúng vài roi khi “cần thiết”.
Song hãy đánh vừa đủ cho nó “”khóc” và hối
tiếc” hành động khờ dại của nó.
Đừng đánh con “cho hả cơn giận” Đừng làm
cho chúng bị thƣơng tích
Nghĩa là đừng đánh con trên đầu hay những bộ
phận nguy hiểm trên cơ thể.
Kết: Đời sống vợ chồng luôn luôn PHẢI
SONG SONG với nhau nhƣ hai đƣờng rầy xe
lửa.
(Ghi theo lời giảng của LM. Nguyễn Trọng
Tƣớc)
đôi dép
Bài thơ đầu anh viết tặng em
Là bài thơ anh kể về đôi dép
Khi nổi nhớ ở trong lòng da diết
Những vật tầm thƣờng cũng viết thành thơ
Hai chiếc dép kia gặp nhau tự bao giờ
Có yêu nhau đâu mà chẳng rời nữa bƣớc
Cùng gánh vác những nẻo đƣờng
xuôi ngược
Lên thảm nhung xuống cát bụi cùng nhau
Cùng bƣớc, cùng mòn, không kẻ thấp
ngƣời cao
Cùng chia xẻ sức ngƣời đời chà đạp
Dẫu vinh nhục không đi cùng ngƣời khác
Số phận chiếc này phụ thuộc chiếc kia
Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi
Mọi thay thế đều trở nên khập khiểng
Giống nhau lắm nhƣng ngƣời đời sẽ biết
Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu
Cũng nhƣ mình trong những lúc vắng nhau
Bƣớc hụt hẫng cứ nghiêng về một phía
Dẫu bên cạnh đã có ngƣời thay thế
Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh
Đôi dép vô tri khắng khít song hành
Chẳng thề nguyền mà không hề giả dối
Chẳng hứa hẹn mà không hề phản bội
Lối đi nào cũng có mặt cả đôi
Không thể thiếu nhau trên bƣớc đƣờng đời
Dẫu mỗi chiếc ở một bên phải trái
Nhƣng tôi yêu em bởi những điều ngƣợc lại
Gắn bó đời nhau bằng một lối đi chung
Hai mảnh đời thầm lặng bƣớc song song
Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc
Chỉ còn một là không còn gì hết
Nếu không tìm đƣợc chiếc thứ hai kia .
Thơ Nguyễn Trung Kiên
Linh Thao Trang 21
Hôm nay ngày kỷ niệm
Sinh nhật cha bẩy mƣơi
Chúng con ba nhóm nhỏ
Anh, Đức; Vƣơng Quốc Bỉ
Ở xứ lạnh Âu Châu
Xin có một món qùa
Tặng cha làm kỷ niệm
Vào ngày chín tháng ba
Năm một chín ba bẩy
(9.3.1937)
Ở thành phố Navarre
Thuộc xứ Tây Bán Nhà
Một bé đƣợc sinh ra
Tên là Julian
Trong căn nhà trên núi
Có bảy anh chị em
Trong gia đình hạnh phúc
Với cha phƣớc mẹ hiền
Năm một chín bốn bẩy (1947)
Julian lên mƣời
Mẹ cho vào chủng viện
Julian không muốn
Nên lòng bé chẳng vui
Có một ngáy đẹp trời
Julian trúng gió
Rồi tìm cách trốn đi
Ví bé chẳng muốn tu
Nhƣng rồi trốn không đƣợc
Vì mƣu sự tại Julian
Mà thành sự tại Thiên
Nên Julian ở lại
Đành ca bài “Xin Vâng”
Sống cuộc sống tu trì
Và bình yên từ đó.
Năm một chín năm sáu (1956)
Vào nhà tập Dòng Tên
Thuộc Tỉnh Dòng Lyon
Thầy nhận đƣợc bài sai
Về Việt Nam phục vụ
Năm một chín sáu một (1961)
Thầy học tiếng Việt Nam
Thật nhanh và thật giỏi
Thơ và nhạc Việt Nam
Đã biến thầy Julian
Thành một ngƣời Việt Nam
Dƣới tên Phạm Công Thành
Năm một chín sáu ba (1963)
được qua Philippin
Học thần học Baguio
Ngày 29 tháng tƣ
Năm một chín sáu sáu (1966)
Thầy nhậm chức linh mục
Tại nhà thờ Đức Bà
Thành Sàigòn hoa lệ
Nhận bài sai ra Huế
Chăn đoàn chiên sóc nhỏ
Trƣờng Trung Học Tiến Đức
Vừa mới đƣợc hai năm
Thì Tết Mậu Thân đến
Việt Cộng chiếm Huế Đô
Bắt giữ cha một tuần
Hai bên còn bắn nhau
Tiếng súng nổ vang trời
Tƣởng cha đã đi đời
được về chầu Thiên Chúa
Nhƣng rồi Việt Cộng thua
Cha lại về Sàigòn
Rồi đi Tây Ban Nha
Vào nhà tập ba năm
Để học thêm tâm lý
Tháng 10 năm bẩy mƣơi
(1970)
Chúa lại sai cha về
Sàigòn quê hƣơng mới
Làm giám đốc thƣ viện
tại trung tâm « Đắc Lộ »
dạy học thêm « Minh Đức »
Rồi sinh hoạt thanh niên
Trang 22 Linh Thao
Linh Thao Trang 23
Tổ chức giảng linh thao
Chính ở tại nơi này
sáu nhóm nhỏ linh thao
Thành hình trong năm đầu
Thật là tuyệt cú mèo
Chúng ta cùng với cha
Tạ Ơn Chúa Thánh Thần
Ngày 31 tháng bẩy
Năm một chín bẩy hai (1972)
Lễ Thánh Ynhaxo
Cha làm lễ khấn trọng
Trong dịp Bề Trên Cả
Pedro Arrupe
Ghé thăm bến Sàigòn
Năm một chín bẩy năm (1975)
Việt Cộng tràn thành phố
Cấm sinh hoạt thanh niên
Cấm tĩnh tâm giảng phòng
Tiếp thu nhà Đắc Lộ
Chúa Thánh Thần soi sáng
Cha tổ chức tĩnh tâm
Cấm phòng chui với Chúa
Ở nhà Dòng Saint Paul
Anh chị em thanh niên
Ở khắp nẻo Saigon
Từng ngƣời từng ngƣời một
Đạp xe đạp thảnh thơi
Đi đến nhà cấm phòng
tĩnh tâm thật sốt sắng
Qua mặt các công an
Mà mắt cả chính quyền
một cách thật điệu nghệ
Vào một ngày tháng bẩy
Năm một chín bẩy sáu (1976)
Được mời khỏi Việt nam
Cha bay đến Vớ Đen
Ý quên đến Denver
Nhận bài sai « cha xứ »
Cũng chính ở nơi đây
Những sinh viên Đắc Lộ
Đã đến tìm gặp cha
Tâm sự và cầu nguyện
Chúa Thánh Thần thƣơng qúa
Khoá linh thao đầu tiên
Ở Hoa Kỳ ra đời
(Mở đầu cho phong trào
Đồng Hành CLC
Mà cho đến ngày nay
Là vùng thứ mƣời một
CLC thế giới)
Nhƣng mà lúc bấy giờ
lòng cha luôn ao ƣớc
Muốn phục vụ đàn chiên
Tị nạn đang bơ vơ
Đói khổ ở bên Phi
Cha tìm ngƣời thay thế
Thế là vào tháng chín
Năm một chín bẩy tám (1978)
Cha về Manila
Dạy học trƣờng Xavier
Nhƣng cha hay “trốn trƣờng”
đến thăm trại tị nạn
để tổ chưc cấm phòng
an ủi bao linh hồn
Xoa dịu những vết thƣơng
Cho thuyền nhân Việt Nam
Năm một chín tám một (1981)
Cha lại về Hoa Kỳ
Làm tuyên úy linh thao
Đi khắp vùng Bắc Mỹ
Canada – Hawai
Và cả Japan nữa
Mỗi năm cha đã đi
khoảng hơn ba ngàn dậm
O! La lá là la
Trang 24 Linh Thao
Năm một chín chín một (1991)
Bài sai về Roma
Cha nhận làm Tuyên Úy
CLC thế giới
Thời gian này cha đi
Khắp năm châu bốn bể
Bất cứ nơi nào cần
Là có bƣớc chân cha
Riêng chỉ cuối tuần này
Cha nghe tiếng mời gọi
của nhóm nhỏ Âu Châu
Bỉ, Anh, và Đức Quốc
Khóa “Thao luyện nhẹ nhàng”
Để đời sống đức tin
Chúng con trong đời thƣờng
Nhẹ nhàng nhƣ ý Chúa.
Ginsheim 13.01.2007
Elisabeth
Trích Phát Thanh ASTM
Phỏng vấn LM Julian Elizaldé
Thành, SJ ngày 5 tháng 9,
2004
ASTM: Con xin chào cha đại
diện cho qúy thính giả của
chƣơng trình phát thanh Ánh
Sáng Tin Mừng. Con đƣợc biết
cha là một trong những ngƣời
giúp khởi xƣớng Phong Trào
Đồng Hành. Xin cha cho
chúng con một vài lời giải
thích và tâm tình của cha về
Phong Trào. Trƣớc hết xin cho
chúng con biết mối liên hệ của
cha với ngƣời Việt Nam bắt
đầu từ hồi nào?
Cha Thành: Cám ơn anh. Cha
được hân hạnh vào dòng Tên
năm 1956, các bề trên gởi cha
về Việt Nam vào năm 1961 lúc
đó ông Diệm còn làm Tổng
Thống. Sau khi học tiếng Việt
rồi học thần học năm 1966 cha
được chịu chức linh mục ở Sai-
gon. Mãi đến khi cả hai miền
Nam và Bắc thống nhất thì cha
ở Việt Nam. Năm 1976 tất cả
các cha ngoại quốc bị trục
xuất kể cả cha nữa. Lúc đó cha
tƣởng là không đƣợc làm việc
với ngƣời Việt Nam nữa,
nhƣng mà lại đƣợc hân hạnh
bề trên gởi về Hoa Kỳ làm việc
phục vụ các cộng đoàn Việt
Nam nói chung. Năm 1981 cha
sang Mỹ đi vòng vòng giảng
cấm phòng. Các khóa cấm
phòng thƣờng thƣờng là cơ hội
để một số anh chị em lập nhóm
và ngay từ đầu khi cha cầu
nguyện và hỏi những ngƣời
nồng cốt những ý kiến đầu tiên
khi cha đi hƣớng dẫn Linh
thao (là anh Cƣờng, chị Tuyết,
anh Đạt, anh Hồ, ...) thì chúng
tôi đã liên lạc với Christian
Life Community ở Hoa Kỳ để
xin họ huấn luyện những nhóm
của chúng ta, tức là ngay từ
năm 1981 chúng tôi đã liên lạc
với CLC Hoa Kỳ rồi.
ASTM: Thƣa cha, mới đây
con có nghe nói phong trào
Christian Life Community có
một Đại Hội ở Miami. Đại Hội
có ý nghĩa gì đặc biệt và
Phong Trào Đồng Hành Việt
Nam có liên hệ gì trong dịp
này?
Cha Thành: Ngày 27 tháng 7,
2004 vừa qua CLC Hoa Kỳ
chính thức chấp nhận Phong
Trào Đồng Hành của chúng ta
ở Hoa Kỳ và Canada trở thành
vùng thứ 11 của CLC quốc gia
Hoa Kỳ. Đó là do ý kiến của
CLC toàn cầu mời chúng ta
liên lạc với CLC Hoa Kỳ để họ
nhận mình là thành viên của
CLC quốc gia. Nhƣ vậy chúng
ta chính thức nối liền với CLC
trong toàn cầu. Đó là biến cố
rất lớn vì dù chúng ta chia xẻ
tinh thần của CLC nhƣng chƣa
chính thức tham gia. Chúng ta
kể nhƣ ở trong Giáo Hội
nhƣng chƣa chính thức thuộc
về một hội đoàn của Giáo Hội.
Và các anh chị cũng nên biết
là CLC có vai trò đặc biệt
trong Giáo Hội bởi vì đã hoạt
động với giáo dân kể từ thời
thánh Inhaxio từ năm 1560.
Năm 1584 đã đƣợc Giáo hội
chuẩn thuận là Hiệp Hội
Thánh Mẫu. CLC nối tiếp Hiệp
Hội Thánh Mẫu và là một hội
đoàn tín hữu quốc tế thuộc
quyền Tòa Thánh. Đặc biệt khi
tôi ở LaMã phục vụ với tƣ cách
Tuyên Úy Phong Trào, tôi hỏi
bên Văn Phòng Tòa Thánh lo
về giáo dân xem có bao nhiêu
hội đoàn có tƣ cách quốc tế
thuộc về quyền Tòa Thánh thì
ông Tổng Thƣ Ký nói chỉ có
hai thôi: CLC và Cộng đoàn
Sant’Egidio. Tức là Đức Giáo
Hoàng giới thiệu với cả Giáo
Hội rằng hội đoàn này là hội
đoàn đáng tin cậy -- có gốc rễ
rất lâu năm trong Giáo Hội
cho nên có phần nào đáng tin
cậy rằng đƣờng hƣớng của
CLC thực sự phục vụ Chúa
trong Giáo Hội của chúng ta.
ASTM: Thƣa cha, Phong Trào
CLC có mặt hầu hết trên các
quốc gia trên thế giới, còn ở
Việt Nam thì sao?
Cha Thành: Bây giờ thành
viên của CLC Quốc tế gồm
trên dƣới 60 quốc gia. Mỗi
năm có thêm vào một hoặc hai
quốc gia. Còn Việt Nam có
nhiều ngƣời Công Giáo rất sốt
sắng nhƣng bên đó không có
cơ cấu tổ chức. Tình trạng ở
Linh Thao Trang 25
Trang 26 Linh Thao
bên nhà vẫn tế nhị cho nên các
cha phục vụ từng ngƣời một
chứ không có cơ cấu tổ chức,
chỉ có ngƣời Việt Nam ở hải
ngoại mới thuộc về CLC Quốc
tế thôi.
ASTM: Tức là cũng có linh
thao theo linh đạo Inhã, cũng
có cầu nguyện nhƣng không có
hình thức?
Cha Thành: Rất mạnh, các
cha ở Việt Nam hƣớng dẫn
Linh Thao rất nhiều với giới tu
sĩ cũng nhƣ với giáo dân. Có
thể nói việc làm chính của
dòng Tên ở Việt Nam là hƣớng
dẫn cấm phòng.
ASTM: Nhƣ thế có nghiã là
ngƣời Việt ở Hoa Kỳ, Canada
và một số nƣớc Âu Châu trong
Phong Trào Đồng Hành là
thuộc về vùng thứ 11 của CLC
Hoa Kỳ phải không ạ ?
Cha Thành: Đúng rồi.
ASTM: Xin cha cho biết cách
tổ chức của Phong Trào, hình
dáng ra sao?
Cha Thành: Khi CLC Hoa Kỳ
chấp thuận Đồng Hành nhƣ
vùng 11 của cộng đoàn CLC
quốc gia, họ vẫn tôn trọng cơ
cấu tổ chức của Đồng Hành.
Chúng tôi có ban Điều hành
gồm có những ngƣời Trƣởng
Vùng. Ban Điều Hành tổ chức
những sinh hoạt của Phong
Trào cũng nhƣ phụ trách tờ
báo, những khóa Huấn Luyện,
những khóa Họp Mặt Vùng. Có
thể nói đây là ban trẻ nhất bởi
vì cứ 4 năm đƣợc bầu lại và có
sự thay đổi từ năm này qua
năm khác. Nhƣ vậy Phong
Trào vẫn trẻ trung và những
ngƣời điều hành Phong Trào
là những máu mới. Song song
với cơ cấu điều hành thì có
những ngƣời dấn thân trong
những khóa Huấn Luyện địa
phƣơng cũng nhƣ cho cả
Phong Trào và có những ngƣời
làm linh hƣớng, hoặc nói một
cách khiêm nhƣờng hơn là làm
bạn đƣờng cầu nguyện. Những
ngƣời trong ban Huấn Luyện
đương nhiên không phải do
được bầu lên mà do ơn sủng
Chúa cho. Những kinh nghiệm
huấn luyện thì không phân biệt
tuổi già hay trẻ, Ông Nội thì
cũng đóng góp vào việc huấn
luyện. Mỗi năm vào mùa hè tôi
về Hoa Kỳ giúp một chút. Nhƣ
vậy sự liên tục của Phong Trào
một phần lớn là do Ban Huấn
Luyện và hƣớng dẫn trong khi
điều hành thì mang máu mới
cho tổ chức. Ngoài ra còn có
các cha Tuyên Úy. Có một
Tuyên Úy của tổng Phong
Trào do bề trên dòng Tên bổ
nhiệm và sau đó có vài cha
cũng trực tiếp ở trong phong
trào. Có những cha không chỉ
dòng Tên mà là thuộc về dòng
khác và các cha thuộc về địa
phận giúp những khóa Linh
Thao và có sự đóng góp của
các thầy nữa, cũng rất qúi.
ASTM: Theo cha nhận xét thì
Phong Trào đem đến những
hoa trái nào cho anh em trong
Phong Trào?
Cha Thành: Đây là niềm vui
lớn. Từ năm này qua năm khác
tôi trở về với Phong Trào thấy
hoa trái của Phong Trào ngày
càng chín chắn, ngày càng
ngon. Có khi cha có cảm tƣởng
nhƣ ở trong tiệc cƣới Cana, tôi
chỉ múc nƣớc thôi rồi từ từ khi
đem ra uống thấy biến thành
rƣợu rất ngon. Chỉ biết ca tụng
Chúa thôi. Tôi tƣởng là những
cố gắng của chúng ta Chúa
đang ban phúc lành chẳng hạn
nhƣ chƣơng trình Thao Luyện
Nhẹ Nhàng - có dịp nào đó xin
các anh cắt nghiã trong đài
phát thanh - Thao Luyện Nhẹ
Nhàng đang giúp rất nhiều
Nhóm cầu nguyện trong đời
sống hằng ngày và đào sâu
tình thân mật ở trong Nhóm.
Cũng có chƣơng trình từ 3
năm nay huấn luyện những
ngƣời hƣớng dẫn về linh
hƣớng mà Đại Học Seattle ủng
hộ và có nhiều hy vọng. Các
địa phương có những người có
khả năng hƣớng dẫn ngƣời ta
đến gặp Chúa đáp lại tiếng kêu
của Chúa hữu hiệu hơn. Tôi
thấy Họp Mặt Vùng ngày càng
có mục đích rõ ràng và đang
giúp nhiều giới trẻ cũng nhƣ
giới lớn tuổi. Họp Mặt Vùng
Đông Bắc cũng như Trung Tây
và sắp sửa có họp mặt Can-
ada. Đây là sinh hoạt đang
sinh hoa trái. Nói chung các
Nhóm còn sống dù đôi khi các
Nhóm có cảm tƣởng là mình
không giống ai mình yếu ớt
thôi nhƣng mà Nhóm sống là
qúy lắm rồi và giúp đỡ nhau
rất nhiều. Cũng không quên
được những ơn gọi Phong
Trào đã cung cấp cho Giáo
Hội, những ơn gọi nam nữ
không chỉ ở trong dòng Tên
nhƣng trong những dòng khác
cũng có nhiều ơn gọi phục vụ
với tƣ cách là tận hiến ở trong
Giáo Hội.
ASTM: Vậy theo cha nghĩ
Phong Trào hiện đang giúp ở
khiá cạnh nào nhiều nhất?
Cha Thành: May ra, đây là
một ƣớc ao, một phần nào
cũng là thực tế - trong Phong
Trào anh chị em nếu trung
thành trong sinh hoạt Nhóm và
đi Linh Thao hàng năm, từ từ
tìm ra ơn kêu gọi Chúa dành
cho mình, tìm vocation trong
Giáo Hội. Ơn kêu gọi lúc ban
đầu là một cái gì xa vời nhưng
từ từ biến thành tình thân mật
với chính Đức Giêsu, và muốn
chia xẻ sứ mệnh của Chúa
Giêsu. Đồng thời giữa Ngài
với mình có một tình bạn rất
là thắm thía làm cả cuộc sống
của mình có một không khí
mới, một ý nghiã mới, niềm
vui mới vì mình là bạn của
Con Thiên Chúa mà! Cho nên
khi đã tìm ơn kêu gọi trong đời
sống gia đình, độc thân cũng
nhƣ đời sống tận hiến đi tu thì
thấy cuộc sống của chúng ta
có một ý nghiã sâu xa hơn,
một tình yêu sâu xa hơn. Ơn
kêu gọi đi đôi với sứ mệnh, khi
chúng ta nghe Chúa kêu mời
thì thƣờng thƣờng chúng ta
cũng thấy ý nghiã của cuộc
sống của mình là mình đang
cộng tác với Ngài trong sứ
mệnh của Ngài là mang Nƣớc
của Cha trong thế giới ngày
nay. Đây là đóng góp qúy nhất
của Phong Trào cho những
ngƣời trung thành sinh hoạt
Nhóm, đi cấm phòng đều đều
hàng năm. Nói một cách khác
ngày xƣa trong Phong Trào
nói về kiềng ba chân, chắc
chắn đó là một nhận xét sâu,
Phong Trào giúp những ngƣời
tham gia đều đều có một đời
sống cầu nguyện hàng ngày và
một mối liên hệ mật thiết với
Chúa nhờ đời sống thân mật
với Ngài, cùng giúp chia xẻ
với anh chị em những vui buồn
trong cuộc sống qua những
buổi họp Nhóm để anh chị em
nâng đỡ nhau và không bỏ
cuộc. Tôi nhớ ở Rôma, một lần
tôi gặp một Đức Giám Mục
chuẩn bị tham gia buổi họp
của các Giám Mục có chia xẻ
với tôi rằng: “Chúa Thánh
Thần hoạt động hữu hiệu qua
các nhóm.” Ngài muốn nói là
chƣa chắc Chúa Thánh Thần
thành công nhiều qua cá nhân
một ngƣời. Nhƣng khi anh em
nhân danh Chúa họp lại trong
Nhóm, Chúa Thánh Thần hoạt
động một cách đặc biệt. Rút
cuộc, CLC giúp anh em trung
thành với sứ mệnh của mình
và không nản lòng, không bỏ
cuộc dù gặp nhiều khó khăn,
đôi khi gặp thất bại cũng vẫn
tiếp tục phục vụ. Cái điều đó
rất qúy.
ASTM: Cha đã nhiều năm
sinh hoạt với Phong trào, xin
cha cho vài nhận xét về những
trở ngại những khó khăn và
những điều gì cha thấy Phong
trào vẫn còn cần phải cải
tiến?
Cha Thành: Có thể chia xẻ
một hai nỗi buồn mà ai phục
vụ Chúa không thể tránh
được. Đó là gặp những người
rất có khả năng, rất có tài của
Chúa ban vậy mà có vẻ không
có ƣớc muốn mãnh liệt, chỉ an
phận với nếp sống không rộng
rãi cho lắm, chỉ muốn Nhóm
thôi, khi nào mƣa hơi nhiều,
trời hơi lạnh là cũng trốn phi-
ên họp luôn, hoặc là có
chƣơng trình TV hấp dẫn thì
thôi để đi lần sau. Những
ngƣời không có ƣớc muốn
mạnh thì cũng làm cho cha có
khi hơi buồn, sao không sống
một đời sống say mê hơn,
hăng hái hơn. Cha có những
ngƣời bạn qúy nhƣng khi đi
vòng vòng thì không thấy mặt
mũi họ nữa, từ từ họ rút lui.
Những ngƣời vẫn phục vụ đều
đều từ năm này qua năm khác,
không bỏ cuộc là một niềm vui
lớn lao của cha.
ASTM: Ngoài ra cha có mong
ƣớc gì về Phong trào không?
Cha Thành: Việt Nam có câu:
“Con hơn cha là nhà có
phƣớc”, tôi hy vọng các con
khá hơn cha nhiều, rồi thƣơng
Chúa một cách tha thiết hơn
và cũng đặc biệt làm sao mà
anh chị em cởi mở với các văn
hóa, làm sao không chỉ hoạt
động trong môi trường của
cộng đoàn Việt Nam, nhân dịp
đã vào CLC Mỹ, mà cởi mở
cộng tác với những cộng đoàn
khác nhƣ cộng đoàn Đại Hàn,
cộng đoàn Mễ, có rất nhiều tài
năng trong đó. Làm sao chúng
ta biết làm việc với họ và mở
đường cho con cháu mình
cũng tìm những môi trƣờng
phong phú mà trong đó mang
tin mừng của Chúa.
ASTM: Con có một câu hỏi
chót, cha qua Việt Nam lúc
cha còn là thầy và đã chịu
chức ở Việt Nam, năm nay cha
ở với ngƣời Việt Nam đƣợc
bao nhiêu năm rồi? Đi nhiều
nơi, cha có cảm tƣởng gì khi
các em gọi cha là Ông Nội?
Cha Thành: Hơn 43 năm cha
ở với ngƣời Việt Nam. Cha
cũng mừng vì Chúa ban cho
mình có con có cái thì đó là
niềm vui lớn thấy Chúa đã
dùng mình để chuyển cho họ
một chút niềm vui, một chút
niềm tin, một chút tình yêu.
Cha cũng không mong gì hơn.
ASTM: Con xin đại diện cho
các thính giả của chƣơng trình
Ánh Sáng Tin Mừng cảm ơn
cha và xin Chúa chúc lành,
ban cho cha nhiều hồng ân và
sức khỏe.
Cha Thành: Cám ơn anh. Xin
chuyển tất cả tình thƣơng và
những lời nguyện đến tất cả
các thính giả.
(Hương Lì ghi) ĐH số2/2004
Linh Thao Trang 27
hông nhƣ anh chị em
khác trong Phong
Trào Đồng Hành đã đƣợc hân
hạnh quen biết cha Julian Eli-
zalde Phạm Công Thành từ
thập niên 60, 70 ở VN; đƣợc
hƣởng biết bao yêu thƣơng của
một nhà truyền giáo nhiệt tình,
được học hỏi bao nhiêu kinh
nghiệm sống đức tin từ ngài.
Cho mãi đến năm 1995
tôi mới đƣợc quen biết cha. Hồi
đó chúng tôi mới tập tễnh đến
với linh thao và tự tổ chức mỗi
năm một khóa 3 ngày cho mình
và anh chị em khác cùng
hƣởng, cùng nếm chất ngọt
ngào tuyệt vời của phƣơng
pháp linh thao này. Đầu tiên,
năm 1992 đƣợc cha Nguyễn
Thế Minh SJ ở Paris nhận lời
giảng khóa đầu tiên tại Đức
Quốc; Chúng tôi mới dần hiểu
rõ phƣơng pháp thao luyện linh
hồn này của Thánh Inhaxo thật
hữu ích cho giáo dân trong đời
sống đức tin với Chúa Giêsu.
Vì thế năm nào chúng tôi cũng
mời cha giúp cho một khóa.
Cha rất sẵn sàng và ngài đã nói
với chúng tôi: dù khóa chỉ có 5,
7 người cha vẫn giảng . Đây
cũng chính là ao ƣớc của cha:
muốn đƣa linh thao phát triển
tại Đức Quốc mà mãi đến nay
Chúa mới cho cơ hội.
Năm 1995 cha Nguyễn
Thế Minh nhận lời giảng nhiều
khóa 5 ngày và 7 ngày tại USA
nên ngài không còn thì giờ
dành cho chúng tôi, ngài đã
giới thiệu cho chúng tôi cha
Elirzalde Thành đang ở Roma.
Lần đầu tiên đƣợc thƣa chuyện
với cha trong điện thoại, cha đã
nói với chúng tôi những lời lẽ
thật khiêm nhƣờng và đầy yêu
thƣơng: „Cha rất mừng có diễm
phúc đƣợc chị mời qua Đức
hƣớng dẫn các bạn đến gặp
Chúa. Sở dĩ cha nói và giảng
tiếng Việt vì với tƣ cách linh
mục thì cha là linh mục Việt
Nam. Vì thế cha cám ơn con và
cha nghĩ đây là một diễm phúc
mà Chúa muốn cha nhận lời“.
Thế là từ đó đến nay cha
vẫn gắn bó với chúng tôi trong
các khóa linh thao; nhờ ơn
Chúa Thánh Thần, có những
năm cha sang Đức giảng 3, 4
khóa ở Stuttgart, Ở Ahrweiler,
ở Neuenkirchen, ở Nieder-
viehbach… Cũng có năm
chúng tôi có khóa huấn luyện
nhóm tại Muenchen. Phƣơng
pháp linh thao nhờ thế đã nở rộ
khắp cả Đức Quốc. Tạ ơn
Chúa.
Năm 2006, nhân dịp cha giảng
khóa linh thao tại Đức vào cuối
tháng 3 đầu tháng 4/2006,
chúng tôi, những tham dự viên
đã cùng nhau mừng kỷ niệm 40
năm linh mục của cha. Dịp này,
nhóm Tin Yêu ở Vƣơng Quốc
Bỉ mời cha đi nghỉ một tuần tại
Thụy Sĩ. Hồi đầu năm 2006,
chúng tôi cũng nhận đƣợc lịch
„Mừng 50 năm trong Dòng
Tên“ của cha do gia đình Đồng
Hành USA thực hiện để Tạ Ơn
Chúa đã ban „Ngƣời Truyền
Giáo Từ Xứ Tây Ban Nha“ cho
giáo dân Việt Nam – Cách ri-
êng, cho phong trào Đồng Hành
CLC Việt Nam tại Hải Ngoại.
Gia đình Đồng Hành ở Haỉ
Ngoại âu yếm gọi cha là „Ông
Nội, Ông Ngoại“. Mỗi buổi
sáng khi trời vừa rạng sáng, vạn
vật còn lấp lánh sƣơng mai, bất
kể trời mƣa hay nắng, khô ráo
hay tuyết rơi „Ông Nội“ đều
chạy bộ cả tiếng đồng hồ và
Trang 28 Linh Thao
Yêu thương về „Ông Nội“ „Ông Ngoại“
uống cả lít nƣớc lã, sau đó
tắm gội rồi mới ăn sáng.
Cha rất yêu thích món ăn
Việt Nam, nhất là phở và
chả giò. Có lần sau 3 ngày
tĩnh tâm trở về; có ngƣời
mời cha về nhà ăn phở và
chúng tôi đƣợc ăn theo. Cha
rất thích thú, khen luôn
miệng và nói: về nhà đƣợc
ăn cơm Việt nam thích qúa.
Trong bữa ăn nào cha cũng
uống một chút rƣợu đỏ để
đưa cay cho những trái ớt
hiểm „ngọt ngào“. Nhờ thế
mà chƣa lần nào cha bị bịnh
gì cả.
Bây giờ, mái tóc cha
đã bạc, khuôn mặt cha đã in
đậm nét thời gian, cha cũng
đã cần đến máy trợ thính
nhƣng nụ cƣời của cha luôn
tƣơi nở thật đẹp, thật ngời
sáng yêu thƣơng dành cho
mọi ngƣời, mọi dân tộc.
Cha vẫn bay khắp năm châu
không mỏi mệt. Cha đƣợc
Thiên Chúa ban cho khả
năng biết nhiều ngôn ngữ,
và để giảng thuyết, cha xử
dụng đƣợc 8 thứ tiếng.
Ngày 3.12.2006 ở
thành phố Saigon, tôi cùng
cô em dâu và em gái đến dự
„Đại Hội Giới Trẻ“ tại
Trung Tâm Mục Vụ Tổng
Giáo Phận Saigon. Trong
khoảng 3, 4 ngàn ngƣời, tóc
đen da vàng mũi tẹt, tôi
nhìn thấy cha, một ông tây
cao lớn bƣớc đi giữa rừng
ngƣời trẻ, dáng ngƣời cha
cao cao, nét mặt thanh tú
vui tƣơi, mái tóc bạc trắng
nổi bật giữa đòan ngƣời tóc
đen. Nhìn cha như một một
cây cổ thụ sừng sững giữa
đám cỏ non xanh. Một hình
ảnh đẹp tuyệt vời, tim tôi
nhói lên một niềm hạnh
phúc , cảm thấy thƣơng và
kính phục cha vô cùng. Tôi
sung sƣớng cứ đứng ngắm
nhìn hình ảnh đó cho đến
khi cha đến gần, tôi mới
bƣớc ra chào cha. Cha cũng
ngạc nhiên không kém tôi,
cha cƣời tƣơi, tay chỉ vào
ngƣời tôi và thốt ra: Ơ! chị
Tiết! thế là hai cha con ôm
chào nhau trƣớc những cặp
mắt ngạc nhiên của các cô
em tôi.
Với tuổi đời 70, sau
gần 40 năm miệt mài trên
đường truyền giáo, từ Âu
sang Á, Mỹ Châu, Úc Châu,
Phi Châu và Châu Mỹ La
Tinh, cha vẫn gắn bó và
thƣơng yêu nhất Giáo Hội
Việt Nam. Cha xin Bề Trên
về VN dạy học . Từ đây
mỗi năm cha dành cho VN
vài tháng, hiện cha đang
giúp hƣớng dẫn cho khoảng
40 chủng sinh đang theo tu
học tại nhà Dòng Tên Thủ
Đức.
Hồi cuối tháng 4/2006,
sau khóa linh thao tại Đức,
cha bay thẳng về Việt
Nam,sau đó về Roma, tháng
6, 7, 8/2006 USA, tháng
9/2006 Vương Quốc Bỉ,
Roma. Vậy mà bây giờ đây
tôi lại gặp cha ở Việt Nam.
Tạ ơn Chúa! Đôi chân cha
vẫn còn dẻo dai qúa!
Chúng con nguyện
xin Thiên Chúa luôn ban
cho cha dồi dào sức khỏe,
đầy Ơn Khôn Ngoan và xin
Ngài gìn giữ cùng đồng
hành với đôi chân truyền
giáo không biết mỏi của
„Ông Nội“ „Ông Ngọai“
yêu qúy của chúng con, gia
đình Đồng Hành Hải Ngọai.
Ginsheim 16.01.2007
Elisabeth Nguyễn Thị Tiết
Linh Thao Trang 29
Mừng Sinh Nhật Cha
Hoa tay tô điểm đẹp đời, "Hoa chân" dấn bước, không lời
thở than (1) Bảy mươi năm chẳng vội vàng
Đông, Tây, Nam, Bắc ngút ngàn vết chân
Tóc cha bạc, trí lâng lâng Con đàn, cháu đống... độc thân
suốt đời Môi cha luôn sáng nụ cười
Mắt cha hiền dịu, những lời thiết tha Ai hỏi: "Cha, Tây Ban Nhạ..?" "Chúa ôi! Ho. PHẠM, quê nhà
Việt Nam!" Cha mong có dịp về thăm
Trung tâm Đắc Lộ những năm vui buồn
Cha đi khắp mọi nẻo đường Sài Gòn ra Huế yêu thương chan hòa
Nước Việt còn, nay đã xa Nối vòng tay lớn một nhà Linh Thao
Dẫu chúng con tận phương nào Cha đâu quản ngại, dạt dào, đỡ nâng
Chúng con rải rác, lớn dần Âu lo, sầu khổ, bao lần long đong
Như chim nhỏ lại chờ mong Cha già an ủi tất lòng yên vui
Bruxelle chỉ biết một lời: "CÔNG cha: tạc dạ; THÀNH người:
ơn cha!"
(1) Các anh chi. Đồng Hành hay trêu là cha Thành có hoa chân nên đi cùng khắp,
khéo đi!!!
Kính Tặng cha Thành Con Thanh Trang
London tha’ng 3 2007
Trang 30 Linh Thao
gồi trò chuyện với một số
ngƣời quen. Họ chia sẻ với tôi
những khó khăn trong cuộc
đời. Tai lắng nghe mà lòng tôi
quặn đau theo tiếng nói nghẹn
ngào của những tâm hồn thật
đẹp, nhưng đang bị cuộc đời
xấu xa đe dọa.Chẳng lẽ những
tâm hồn đối diện sẽ không còn
tìm đƣợc niềm vui, bình an sẽ
không còn đến gõ cửa nhà họ,
và vẻ đẹp cuộc đời sẽ vắng
bóng trong cuộc sống?
Không thể đƣợc! Dù bóng tối
có bủa vây, dù thú dữ có gầm
gừ, nhƣng Chân-Thiện và Mỹ
vẫn đứng vững! Vâng, làm sao
bóng tối có thể nuốt chửng
Ánh Sáng, khi Ánh Sáng kia
không bao giờ tắt đi? Làm sao
sự dữ chiếm đoạt đƣợc các
tâm hồn kia, khi họ kiên tâm
bám vào Đấng „lớn“ hơn sự
dữ?
„Vì thế, Các Bạn ơi, dù ở trong
hoàn cảnh nào đi nữa, chúng ta
hãy vẫn tiếp tục đi tìm vẻ đẹp
cho cuộc đời! Vẻ đẹp của Ánh
Sáng, của Chân-Thiện và Mỹ!“
„Trời ơi trời! Tìm vẻ đẹp thế
nào đƣợc, khi cuộc đời đang
tan nát trong khổ đau? Anh có
biết rằng, hơn một năm xa quê
hƣơng tôi chƣa có đƣợc một
ngày bình an. Nhƣ vậy, thử hỏi
làm sao có thể tìm vẻ đẹp cho
đời, khi tôi còn chưa tìm được
vẻ đẹp cho tôi?“ Một ngƣời đối
diện phản ứng.
„Vẫn biết vậy, nhưng ngay lúc
này và trong hoàn cảnh đau
khổ hiện tại, Bạn hãy thử đi
tìm vẻ đẹp cho Bạn và cho
Đời! Tôi chắc chắn rằng Bạn
sẽ tìm thấy.“
„Nhưng vẻ đẹp đang núp nơi
nào?“
Bạn hãy nhìn qua cửa sổ. Đã
mấy tuần qua, trời mùa Đông
nặng trĩu những bóng mây u
ám, nhƣng hôm nay Ánh Nắng
đang chiếu tỏa ngoài sân. Bạn
hãy đứng dƣới nắng và mở
lòng „múc lấy“ Ánh Mặt Trời,
Bạn không chỉ tìm đƣợc hơi
ấm dịu dàng sƣởi ấm lòng Bạn,
mà Ánh Nắng Mặt Trời còn
làm cho khuôn mặt của Bạn
đẹp hơn.
Vẻ đẹp cuộc đời cũng đang
hiện diện ở giữa chúng ta. Bạn
hãy nhìn bình Hoa trên bàn và
ánh nến đang vui mừng cháy
sáng. Hoa kia thật đẹp và đẹp
hơn, khi một ngƣời trong
chúng ta đã khéo léo gìn giữ và
chăm bón Hoa, để rồi hôm nay
- giữa trời mùa Đông, Hoa vẫn
nở hƣơng thơm cho Bạn và
cho Chị, cho Em và cho tôi..
Bạn thấy đấy, Bạn không chỉ
tìm thấy vẻ đẹp ở bên ngoài,
mà ngay trong căn phòng nhỏ
bé. Nhƣng đẹp hơn nữa, khi
Đi tìm vẻ đẹp cho đời
Linh Thao Trang 31
trong không gian nhỏ bé này
những tâm hồn khát khao sống
Chân-Thiện-Mỹ, tay đang
trong tay và vai đang kề sát
bên nhau, để niềm vui thì đƣợc
chia, nỗi buồn mình cùng sẻ.
Vâng, Bạn đã cho đời vẻ đẹp,
bạn đã cho tôi „ăn ké“ đời vẻ
đẹp đó, khi Bạn tin tưởng và
cởi mở chia sẻ cho đời và cho
tôi những thao thức, những băn
khoăn và những khổ đau của
Bạn.
Vẻ đẹp cũng nở rộ ngay giữa
khổ đau, nhƣ hoa sen tƣơi nở
giữa đầm lầy, khi mỗi lần Bạn
bƣớc chân vào nhà nguyện với
một tâm hồn nặng mang nặng
khổ đau, với cái đầu thật nhiều
căng thẳng. Rồi Bạn nhìn lên
Thánh Giá. Kìa Giêsu trao ánh
mắt đáp lời. Một sự cảm thông
và một chút ủi an đã đến với
Bạn. Thật đẹp, phải không
Bạn?!
Nào, giờ đây chúng ta hãy
dừng lại trong giây lát! Chúng
ta hãy cảm nhận nhịp đập của
cảm thông, nhịp đập của tình
ngƣời và tình Chúa đang đƣa
lại một nhịp điệu của hy vọng,
của vẻ đẹp cho mỗi ngƣời
chúng ta.
Vài giây thinh lặng đẹp đẽ trôi
qua, tiếng nói của ngƣời đối
diện vang lên:
„Cám ơn „Giời“ về những vẻ
đẹp của hôm nay, nhưng tiếc
rằng trong thực tế cuộc đời của
tôi lúc này, đau khổ thì tràn
lan, bất công nhiều vô kể và sự
dữ luôn ngấp nghé ngoài cửa
nhà tôi, đến nỗi tôi luôn phải
suy nghĩ coi mình sẽ đối đầu,
sẽ trả lời với cuộc đời xấu xa
thế nào đây. Anh có biết rằng
tôi luôn phải canh phòng. Có
nhiều đêm mắt không thể
nhắm. Lòng tôi nặng trĩu
những buồn đau. Trong hoàn
cảnh đó tôi không thể tìm thấy
vẻ đẹp cho tôi và cho Đời.“
„Đúng là Bạn không thể đi tìm
vẻ đẹp trong những khi khổ
đau lên cao, sự dữ như con
sóng dâng tràn đang đe dọa.
Nhƣng Bạn ơi, nếu Bạn không
thể tìm thấy những vẻ đẹp thì
Bạn hãy làm ra những vẻ đẹp.
Mà Bạn cũng đã làm ra nhiều
vẻ đẹp lắm đó!“
„Cái gì?“ Người đối diện sửng
sỡ hỏi lại
Bạn hãy nhìn lại thời gian đau
khổ vừa qua. Vẻ đẹp Bạn làm
ra đó chính là tấm lòng thẳng
thắn, rõ ràng và luôn can đảm
không khuất phục trƣớc sự dữ.
Hơn nữa, Bạn còn dám can
đảm lên tiếng để bênh vực sự
thật, tố cáo bất công và kiến
tạo hòa bình cùng công chính.
Vẻ Đẹp Bạn làm ra cũng chính
là khả năng chịu đựng trƣớc sự
đè bẹp của bất nhân, nhưng
chịu đựng không phải là đƣờng
cùng, mà Bạn đã nhẹ nhàng
nhƣng rất kiên quyết, để rồi
trong nửa đêm ngày hôm đó,
Bạn đã thẳng thắn nói vào mặt
cuộc đời xấu xa đã từ lâu dụ dỗ
Bạn: „Là ngƣời con của Chúa,
là ngƣời thuộc về Chân-Thiện
và Mỹ tôi không thể sống nhƣ
vậy đƣợc!“
„Oh! tuyệt vời!“
Tôi mến phục Bạn về thái độ
thật kiên quyết đó. Một thái độ
lắc đầu với sự dữ. Nhƣng Bạn
ơi, Bạn hãy tiếp tục lắc đầu với
cuộc đời xấu xa nhé. Lần đầu
tiên sự dữ bị Bạn chối từ, nó sẽ
quay đi, nhƣng quay đi để rồi
lại tìm cách „chơi xấu“ Bạn
đó. Một điều nguy hiểm là sự
dữ có thể sẽ làm cho Bạn điêu
đứng, khi bao nhiêu chuyện
không có nó dựng nên cho có,
khi nó chẳng xấu hổ kết án
Bạn thế này thế kia. Tất cả nó
muốn hại Bạn, muốn chọc tức
Bạn và chờ Bạn „sôi máu“ lên,
để rồi „chơi“ lại nó. Vâng, nếu
Bạn phản ứng lại bằng bạo lực
(giận mất khôn ấy mà), thì
cuộc đời xấu xa và sự dữ kia sẽ
đứng đó và cười vào mặt Bạn.
Có thể nó sẽ nói rằng: „Tƣởng
là ngon cơm lắm chứ, đâu ngờ
cũng xấu xa vô vàn.“ Cuối
cùng, thì cuộc đời xấu xa đã hả
dạ, vì giờ đây Bạn cũng xấu xa
nhƣ nó. Tệ hơn, Bạn đã khổ
đau rồi, giờ Bạn còn đau khổ
gấp bội, vì mọi ngƣời cho Bạn
là ngƣời xấu. Tới đây tôi nhớ
lại lời của một danh nhân:
„Đừng làm điều xấu như kẻ
xấu, nếu không Bạn sẽ trở
thành một kẻ xấu.“
Vì thế, hãy kiên nhẫn và cầu
nguyện luôn, để Chúa luôn ở
với Bạn, để sức mạnh và sự
khôn ngoan của Thánh Thần
Chúa luôn bao phủ lấy Bạn.
Nếu Bạn thấy mình bị đe dọa
đến nỗi sức người không chịu
được, thì Bạn hãy kêu gào lên
với Chúa, nhƣ xƣa kia mấy
ông môn đệ sắp bị sóng gió và
nƣớc nhấn chìm hốt hoảng kêu
Chúa. Dù Ngài ngủ, nhƣng
Ngài sẽ dậy và điều đầu tiên là
Ngài sẽ quát mắng sóng gió và
bắt chúng im lặng. Sau đó,
Chúa sẽ „mắng yêu“: „sao mà
yếu tin vậy?“ Vâng, chúng ta
yếu tin và yếu sức lắm. Nhƣng
những kẻ bé nhỏ và yếu đuối
vẫn có quyền kêu lên Chúa mà.
Kêu lên Chúa còn hơn là chạy
theo tiếng kêu của sự dữ.
Kêu lên Chúa, để niềm tin của
mình đƣợc củng cố hơn.
Kêu lên Chúa, để mình nhìn rõ
hơn sự hiện diện của Ngài trên
con thuyền của cuộc đời.
Kêu lên Chúa, để lời của Chúa
sẽ vang lại: „Đừng sợ, vì có Ta
ở với con!“
Kêu lên Chúa chính là một
hành động Bạn làm ra vẻ đẹp
đó. Vẻ đẹp của niềm tin. Vẻ
đẹp của con cái Sự Sáng.
Nhƣng tôi còn thấy Bạn không
chỉ kêu lên Chúa, mà Bạn còn
kêu Anh Chị Em nữa. Vâng, sự
đoàn kết thương yêu là một
điều thật quý báu. Bạn kêu
Chị, Chị sẽ đáp lời. Vì thái độ
quá bất nhân của sự dữ, Bạn
giận quá muốn trả đũa, Chị mở
lời khuyên can và „thắng“ Bạn
lại, trƣớc khi Bạn „vƣợt rào“
rơi bẫy sự dữ. „Một cây đắp
chẳng nên non, Ba cây chụm
lại nên hòn núi cao“. Lời Ông
Cha mình vẫn còn vang vọng
đâu đây. Lời này cần được
sống động hơn, khi ngƣời
Nƣớc Nam bị cuộc đời xấu xa
đe dọa.
Bạn thân mến, đọc tới đây nếu
Bạn để ý Bạn sẽ thấy rằng, khi
nhắc đến xấu xa, tôi thƣờng
nói là cuộc đời xấu xa chứ tôi
không nói tới „con ngƣời xấu
xa“; còn những gì liên quan
đến sự dữ thì tôi chỉ cũng chỉ
sử dụng hai từ „sự dữ“, chứ tôi
không nói là „con ngƣời dữ“.
Bạn biết sao không? Vì một
ngƣời Bạn thân của tôi đã dạy
tôi biết phân biệt giữa Thần Dữ
và con ngƣời, giữa Thần Xấu
và mỗi tâm hồn. Vâng, lòng
ngƣời luôn hƣớng thiện, đời
ngƣời luôn khát khao sự thật.
Nhƣng tiếc thay nhiều khi
Thần Dữ đã mê hoặc lòng
ngƣời và đã gieo mầm mống
ác độc trong đời ngƣời từ khi
nào rồi đó. Mầm mống đó là
ghen tị, là chiếm đoạt, là kiêu
ngạo, là ích kỷ và chỉ biết có
mình thôi: „Tất cả đều phải qui
về tôi. Ai cũng phải lệ thuộc
vào tôi. Vâng, tôi là „cái rốn“
của vũ trụ mà lại.“
Dù có ai nói ngả nói ngiêng
nhƣ vậy, nhƣng lòng tôi vẫn
không bị lay động, vì tôi biết
rằng, „Cái Rốn thực“ của Vũ
Trụ, của mỗi tâm hồn là chính
Thiên Chúa chứ chẳng là ai cả.
Vì vậy, tôi vẫn tin tƣởng và hy
vọng vào Đấng là Chủ của
Chân-Thiện-Mỹ, là Chúa của
mỗi một tâm hồn. Với niềm tin
này, tôi mời Bạn thay vì ghét
cay, ghét đắng và hận ngƣời
hại Bạn, thì Bạn hãy cầu
nguyện cho họ. Hãy thƣơng
yêu họ! Vâng, ngƣời Bạn thân
của tôi đã nói thêm rằng: „Hãy
tập để làm điều gì tốt cho họ!“
Tuyệt! Chỉ có Thiên Chúa mới
thay đổi đƣợc con ngƣời, chỉ
có tình yêu mới hoán cải sự dữ
và thứ tha sẽ làm cho lòng
ngƣời ấm lại.
Đi tìm vẻ đẹp cho đời và chính
bản thân vừa dễ và vừa khó
bạn nhỉ!
Khó khi đôi mắt mình bị bao
„ghèn“ của khổ đau, „ghèn“
của hận thù, „ghèn“ của sợ sệt
và „ghèn“ của sự dữ và của
cuộc đời xấu xa che đậy.
Dễ khi cuộc đời mình hạnh
phúc và bình an. Và dễ khi mà
đôi mắt mình được „rửa sạch“
thƣờng xuyên bằng nguồn
nƣớc Tình Yêu, nguồn suối
Tin Tƣởng và nguồn Hy Vọng
tràn đầy nơi Thiên Chúa.
Vì thế, hãy bám vào Chúa mà
sống Bạn nhé!
Với Chúa Bạn sẽ dễ dàng tìm
được vẻ đẹp cho Đời.
Với Chúa khuôn mặt, tâm hồn
và đời sống Bạn đã đẹp thì mỗi
ngày sẽ đẹp hơn.
Cuối cùng với Chúa, Bạn sẽ
nhận ra rằng:
„Cuộc đời thật là đáng sống, vì
cuộc đời thật đẹp - Life ist
beautiful“.
Frankfurt những ngày đầu năm
Ngọc Thế SJ
Trang 32 Linh Thao
Linh Thao Trang 33
ỗi năm mùa chay lại
về , đặc biệt nhắc
nhở trái tim mở ra để cho
Chúa vào ngự. Để sám hối hồi
tâm xét lại, sẽ thấy rõ cuộc
sống vội vàng của xã hội tân
tiến hiện nay lôi cuốn con
ngƣời vào trong cơn lốc của
công ăn việc làm, khiến quên
đi điều gì là quan trọng điều
gì là thứ yếu. Nhiều lúc quên
cả hồng ân và hạnh phúc mình
đang thụ hưởng, quên luôn
những ngƣời thân thƣơng
đang nỗ lực làm cho cuộc đời
của mình an nhàn và tƣơi sáng
hơn. Thậm chí quên tỏ lòng
tri ân để nói lên lời tạ ơn cảm
mến đến Chúa Giêsu. Ngƣời
luôn hy sinh tha thứ và chịu
khổ nạn đau buồn để cứu
chuộc nhân loại… Ôi ! máu
và nƣớc tuôn ra từ trái tim
Chúa Giêsu là nguồn mạch
lòng thƣơng xót Chúa.
Thƣơng xót chúng con, chúng
con trông cậy nơi Ngài….
Nhắc đến trái tim mở ra thì
có một sự tích về con Tim Biết
Yêu mà cha Micae Nguyễn
Trƣờng Luân đã kể trên đài
Ánh Sáng Tin Mừng nhƣ sau.
Ngày xưa lúc tạo thiên lập
địa , trước khi có đất liền.
Đấng tối cao dựng nên một
hòn đảo để cho mọi loài, mọi
vật, mọi cảm xúc có nơi tạm
trú. Trên hòn đảo ấy mọi cảm
xúc sống chung với nhau. Nào
là em Phƣớc Lạc nào là bà Âu
Sầu nào là bác Kiến Thức…
v..v.. và tất cả những cảm xúc
khác ở cùng một chỗ và cũng
có cả con Tim Biết Yêu nữa.
Một ngày kia Thiên Thần
hiện đến loan báo cho mọi
loài hay. Đấng tối cao đã
hoàn tất công trình tạo dựng
đất liền, mọi người phải chuẩn
bị dọn đi, bởi vì không lâu hòn
đảo sẽ bị lặn chìm xuống đáy
biển. Nghe vậy mọi loài mọi
vật mọi cảm xúc đều lo cho
mình đóng lấy một chiếc tầu
để tẩu thoát tai hoạ, chỉ trừ
một mình con Tim Biết Yêu.
Thấy có nhiều người trên
đảo lo lắng hoang mang
không biết tƣơng lai sẽ nhƣ
thế nào, nên con Tim tìm đến
từng ngƣời mà ủi an khích lệ.
Hễ ở đâu có ai neo đơn một
mình thì con Tim Biết Yêu lu-
ôn có mặt để đỡ nâng trợ giúp.
Vì quá bận tâm với công việc
cứu trợ những ngƣời bơ vơ
đau khổ, con Tim quên mất
chuẩn bị cho mình một chiếc
ghe. Cho đến phút cuối cùng
khi hòn đảo sắp chìm xuống
lòng biển, không có giờ để
đóng ghe nữa. Lúc ấy con Tim
Biết Yêu bèn lên tiếng kêu
cứu. Thấy anh Sang Giầu lái
một chiếc tầu to lớn ngang
qua, con Tim Biết Yêu liền xin
anh Sang Giầu thƣơng tình
giúp.
Anh Sang Giầu đáp:
„Không được đâu, tầu của tôi
chở rất nhiều vàng bạc châu
báu hết chỗ rồi.“ Nói xong
anh chạy đi mất.
Con Tim Biết Yêu thấy chị
Xa Hoa đang ngồi trên một
chiếc thuyền thật đẹp, liền kêu
xin: „Chị Xa Hoa ơi! xin chị
làm ơn cứu em với.“
Nàng Xa Hoa vén tóc lên
để lộ khuôn mặt mỹ miều, rồi
với một giọng nói lãng mạn
yêu kiều đáp: „Em yêu à! Em
đang ở dưới nước ướt như
chuột lột, là sao cho em lên
tầu chị đƣợc. Em có mắt mà
không nhìn thấy sao, chiếc tầu
của chị sang trọng sạch sẽ
Trang 34 Linh Thao
nhƣ thế nầy, em lên đây làm dơ
bẩn chiếc tầu của chị , không
được đâu em.“ Rồi Xa Hoa rồ
ga chạy đi khuất.
Thấy lòng người bạc bẽo,
con Tim chỉ biết ngậm đắng
lẳng lặng để cho những làn
sóng vô tình cuốn trôi đi. Bỗng
con Tim thấy cái bè trôi dạt ở
gần, có bà Âu Sầu ngồi trên bè
một mình, conTim Biết Yêu
liền hỏi: „Lạy bà Âu Sầu, xin
bà làm ơn làm phƣớc cho tôi
lên bè với bà đi.“
Bà thở dài đáp: „Thôi, thôi đi
con à! con để cho bà đƣợc yên
thân, cuộc đời của bà là một
chuỗi ngày buồn chán, hết cái
họa nầy rồi đến cái họa kia,
khổ đau cứ chồng chất thêm
khổ đau, chẳng một ngày nào
bà đƣợc yên thân cả. Bây giờ
bà không còn biết ai trên đời
này nữa, để cho bà yên một
mình đi con.“
Lại một lần nữa bị hất hủi,
nhƣng con Tim Biết Yêu vẫn
không đánh mất niềm tin, bất
chợt một tia hy vọng lóe lên vì
con Tim Biết Yêu thấy có em
Phƣớc Lạc đang chèo thuyền
về hƣớng mình, miệng thì cứ
nghêu ngao hát thật vui vẻ.
Con Tim liền kêu cứu, nhƣng
chẳng thấy Phƣớc Lạc ngó
ngàng gì cả, dù có kêu gào bao
nhiêu Phƣớc Lạc cũng không
nghe, vì quá vui vẻ và chỉ vui
với một mình, Phƣớc Lạc
không để ý đến ngƣời khác và
cảnh vật chung quanh.
Bỗng nhiên có một tiếng gọi
trầm ấm dịu dàng vọng lên:
„Con Tim Biết Yêu ơi ! ta đến
cứu con đây, con hãy lên cùng
ta.“
Bước lên thì thấy đó chính
là một cụ già trông thật khả
kính. Lạ lùng thay cụ già lại
bƣớc đi trên mặt nƣớc nhƣ đi
trên mặt đất, con Tim với tay
ra thì cụ nắm lấy kéo vào lòng
và cụ bồng ẵm con Tim trên
tay chạy nhƣ bay vào đất liền,
mừng quá con Tim Biết Yêu
quên hỏi tên cụ là gì và đang
định đưa mình đi về đâu? Khi
lên đến đất, cụ già lâp tức rời
khỏi nơi đó để tiếp tục đi cứu
ngƣời. Lúc ấy con Tim Biết
Yêu chợt nhớ mình đã quên đi
ân tình của cụ.
Chưa kịp tỏ lòng biết ơn và
nói lên lời cảm tạ thì cụ đã đi
mất rồi, con Tim Biết Yêu lấy
làm áy náy bèn tìm đến bác
Kiến Thức và hỏi: „Thƣa bác ,
bác có biết ngƣời cứu con là ai
không?“
Bác Kiến Thức đáp:
“Ngƣời cứu mạng con vừa rồi
chính là cụ Thời Gian đó
con.“
Con Tim Biết Yêu vẫn thắc
mắc: „cụ Thời Gian! nhƣng vì
sao cụ Thời Gian lại đến cứu
con?“
Bác Kiến Thức gật gù mủm
mỉm rồi điềm nhiên trả lời:
„Bởi vì chỉ một mình Thời Gi-
an mới có đủ khả năng và kiên
nhẫn để thấu hiểu giá trị cao
thƣợng của con Tim Biết Yêu
thôi.“
T.H.
BÔNG HỒNG THỜI GIAN
Lm. Nguyễn Công Ðoan, S.J.
Mỗi giây phút là bông hồng đang nở Hãy lặng yên cho hoa nở thật xinh
Đừng vội vã kẻo hoa nhầu mất cánh, Cũng đừng buồn khi em chẳng chọn hoa.
Gặp bông nào cũng ngợi khen cảm tạ, Bởi Tình Yêu muốn được dâng tất cả,
Rất tự do và luôn đầy mới lạ Như mặt trời ôm mặt đất bao la
Linh Thao Trang 35
“Ước muốn” là khởi đầu của
mọi việc,… (Nelly Sachs).
Chúng ta có thể nhận ra tâm
tình này của Nelly Sachs một
cách rõ ràng trong thực tế cuộc
sống thƣờng ngày. Không có
gì tồi tệ hơn trƣờng hợp một
em bé, một cậu học sinh hay
một ngƣời trƣởng thành không
còn biết mình muốn gì trong
cuộc sống. Muốn, khao khát
thực sự là bƣớc khởi đầu của
mọi sự.
Với Thánh I-Nhã, ƣớc
muốn đóng một vai trò rất
quan trọng. Ngay trong những
chú dẫn sách linh thao, Inhã đã
đặt vấn đề và khuyên người
làm linh thao, cần phải bƣớc
vào linh thao với lòng sâu
thẳm muốn sắp xếp lại đời
mình theo tinh thần của Chúa
Kitô. Nghĩa là ƣớc muốn tự
thắng mình, xa lánh những
quyến luyến lệch lạc và cố
gắng sắp xếp cuộc đời mình
cho có trật tự mà không quyết
định theo một tình cảm lệch
lạc nào. Điều quan trọng là
ƣớc muốn tìm Thánh Ý Chúa và coi Thánh Ý Chúa là kim
chỉ nam cho cuộc sống mình (Xem LT. 1 và 21). Cũng nhƣ
khi vào linh thao với lòng
quảng đại và hào hiệp với
Đấng Tạo Hóa và Chúa mình,
dâng trot cả ý muốn và tự do
của mình cho Chúa chí tôn, để
Ngài sử dụng chính mình cũng
nhƣ mọi sự mình có theo
Thánh ý Ngài (xem LT.5).
Ngoài ra, I-Nhã còn đặt
ƣớc muốn vào trong từng giờ
cầu nguyện và chiêm niệm
trong Linh Thao. Đó là phần
xin ơn mình ƣớc muốn, mình
khao khát trong từng giờ cầu
nguyện. Đến đây, tôi nhớ lại
những ngày còn ngồi trong
ghế nhà tẫp. Cha Giáo của
chúng tôi luôn nhấn mạnh và
nhắc chúng tôi luôn ý thức xin
ơn mình khao khát. Sau đó
theo thời gian, trong những
giờ phút cầu nguyện thƣờng
ngày, cũng nhƣ trong những
dịp Linh Thao, tôi đều cảm
thấy rõ rang tầm quan trọng
của ƣớc muốn, của lòng khao
khát đƣợc gói ghém trong lời
xin ơn trong phần đầu của mỗi
gìờ cầu nguyện. Thực sự Chúa
đã ban cho tôi những gì tôi
khao khát xin Ngài. Tuy nhiên
nói thế không phải là mọi điều
tôi xin đều đƣợc Chúa ban
cho. Cái tế nhị ở đây chính là
chỗ, tôi ƣớc muốn nhƣng ƣớc
muốn của tôi có đúng theo tinh
thần của Phúc Âm, tinh thần
của Thiên Chúa hay không.
Trong LT.46 I-Nhã đã nói
rất rõ về việc ƣớc muốn, về
tâm tình xin ơn: “Khi dọn lòng
cốt xin ơn Thiên Chúa cho tất
cả ý chí, hành vi và hoạt động
của tôi hoàn toàn hƣớng về
việc phụng sự và ca tụng Chúa
chí tôn.” Nhƣ vậy, ƣớc muốn
Góc Linh Đạo Inhã
Trang 36 Linh Thao
của ngƣời làm Linh Thao, của
ngƣời sống linh đạo I-Nhã có nền
tảng đàng hoàng, nhƣ chính ngôi
nhà xây trên đá chứ không phải
trên cát. Nền tảng đó chính là
hƣớng lòng hoàn toàn về Chúa, là
đặt chính Thánh ý Chúa trên hết.
Mọi sự để cho Ngài, vì chính khi
cho Ngài, thì tôi đƣợc hạnh phúc,
chứ không phải khi tôi dâng hiến
cho Ngài, thì tôi sễ bị mất đi tất
cả.
Ngoài ra, trong LT.16 Thánh
I-Nhã cũng đặt lại vấn đề cho
ngƣời làm Linh Thao, xem ƣớc
muốn của mình có thực sự là ƣớc
muốn đúng đắn và tốt cho chính
mình hay không, cũng nhƣ dựa
vào đâu để biết rằng ƣớc muốn
của tôi thực sự là đúng. Ngƣời
làm Linh Thao cần để cho chính
Thiên Chúa hoạt động trong
chính bản thân mình, và đặt mình
vào con đƣờng thích hợp hơn cả
để phụng sự Chúa sau này.
Vì thế nếu ngƣời đó tha thiết
hƣớng chiều về một điều gì đó
cách lệch lạc, họ sễ đƣợc nhiều
lợi ích nếu phản ứng lại và đêm
hết sức hƣớng về điều ngƣợc lại
với điều mình tha thiết. Chẳng
hạn một ngƣời hƣớng chiều về
một chức vụ hay bổng lộc, không
phải để làm vinh danh Thiên
Chúa chúng ta và mƣu ích cho
các linh hồn, nhƣng để tìm ích
riêng và lợi lộc đời tạm. Linh hồn
đó phải đem lòng hướng chiều về
điều ngược lại bằng cách van nài
Thiên Chúa trong khi cầu nguyện
và trong các việc đạo đức khác,
xin ngài ban cho mình lòng ƣớc
muốn ngƣợc lại, nghĩa là không
ƣớc muốn chức vụ bổng lộc ấy,
hoặc bất cứ sự gì khác, trừ khi
Chúa chí tôn thay đổi chiều
hƣớng lòng tha thiết trƣớc kia
bằng cách chỉnh đốn lại những
ƣớc muốn của mình.
Mừng Ông
Phương xa tụ lại thành gần
Cùng nhau tiếp nhận hồng ân Chúa trời
Mừng Ông mạnh khỏe suốt đời
Giúp cho con cháu ngàn lời khuyên răn
Tim Ông bác ái trăm lần
Tai Ông lời Chúa mừng thầm gẫm suy
Chân Ông nhanh bước uy nghi
Mắt Ông trong sáng niềm tin chói ngời
Miệng Ông chúc tụng không ngơi
Lòng tin cậy mến muôn đời hiến dâng
Tê Hát
(mừng sinh nhật Ông Ngoại 95 tuổi )
Tóm lại ƣớc muốn là một
yếu tố quan trọng cho cuộc
sống. Vì chính khi ngƣời ta
còn muốn điều này, điều
nọ, thì cuộc sống của họ
còn thú vị, còn hấp dẫn.
Hơn nữa, trong linh đạo của
I-Nhã, thì ƣớc muốn cần
được xây dựng trên nền
tảng là chính Thánh ý của
Chúa. Tôi muốn cái mà
Chúa muốn. Tôi muốn
Chúa đƣợc vinh danh hơn,
chứ không phải tôi nổi nang
hơn. Chính khi tôi hƣớng
ƣớc muốn của mình theo
Thánh ý Chúa, thì lúc đó
cuộc đời tôi đƣợc hạnh
phúc. Lúc đó ƣớc muốn
thực sự của đời tôi mà đôi
khi tôi chẳng nhận ra đƣợc
hiện thực hóa cách trọn
vẹn.
Nguyễn Ngọc Thế SJ
Linh Thao Trang 37
hoảng giữa năm 1950,
bừng mắt tỉnh dậy vào
một buổi sáng tôi vẫn
thấy mình vẫn còn là một tù
nhân trong khám đƣờng Toun-
goo với một tâm hồn rã rời
trong than xác bải hoải. Tôi và
một nhóm bạn tù đã tìm cách
phá nhà tù để vƣợt ngục buổi
tối qua nhƣng bất thành, sau
khi bị bắt trở lại, các cai tù
hành hạ, đánh đập chúng tôi
suốt đêm.
Chúng tôi là những sĩ quan
trong quân đội Miến Điện bị
quân đội của nhóm Karen bắt
làm tù binh trong cuộc đảo
chánh bất thành hồi tháng hai
năm 1949. Tính đến nay,
chúng tôi đã ở tù đƣợc một
năm rƣỡi. Sau cuộc vƣợt ngục
bất thành, họ quyết định nhốt
chúng tôi vào nhà đá. Trong tôi
chợt nảy ra một ý tƣởng đó là
nhân cơ hội này và để có thể
vƣợt qua đƣợc những khổ cực
của tù tội, tôi quyết định thực
tập phƣơng pháp tu luyện tinh
thần theo Phật pháp. Cũng đã
có một thời gian trong quá khứ
tôi thực tập phƣơng pháp này,
lúc đó tôi có đƣợc sáu tháng
thảnh thơi trƣớc khi tái nhập
học tại đại học, nhƣng không
đạt được kết quả như đã được
mô tả trong sách hƣớng dẫn.
Nhƣng lần này, tôi hy vọng với
thời gian của hai mƣơi bốn giờ
một ngày, lại không bị ngoại
cảnh chi phối và chẳng biết
đến bao giờ mới được thả ra,
tôi quyết định theo đuổi con
đường tu luyện thiêng liêng.
Tôi cảm thấy hăng hái, dĩ
nhiên không thể trong một lần
mình có thể đạt đƣợc trạng thái
siêu nhiên, nhƣng chỉ dù một
phần thôi mình vẫn có thể cảm
nhận đƣợc mình đang sống
trong con đƣờng siêu nhiên
qúy báu ấy.
Tôi cầu nguyện và lần chuỗi
Phật. Nỗi ngày nhiều lần, tôi
ngồi tĩnh tọa hằng giờ và suy
niệm những chân lý tôn giáo
đã được liệt kê trong Abid-
hama, một hệ phái siêu nhiên
trong Phật pháp. Trong những
lần tĩnh tọa này, tôi cũng suy
niệm cả về Anapana Kamahtan
và áp dụng phƣơng pháp hô
hấp giống nhƣ nguyên tắc
Thiền của Ấn Độ giáo.
Trong một cuốn sách tôi đã
đọc cho biết rằng chỉ cần với
hai tuần lễ thực tập phƣơng
pháp Kamahtan, ngƣời ta sẽ
đạt được đến trạng thái
Samahdi, một trạng thái khiến
mình cảm thấy đƣợc hòa hợp
trong siêu nhiên, tách rời khỏi
(Tác giả : Augustine
Sinh trƣởng trong một gia đình Phật giáo, năm lên 15 tuổi theo truyền thống của dân tộc, tác giả
nhập tu làm chú tiểu tại một ngôi chùa ở Miến Điện, đƣợc giáo huấn về Phật pháp và tuân giữ
các giới luật của nhà Chùa. Sau khi học xong Trung học ông theo chƣơng trình Đại học và sau là
sĩ quan trong quân đội. Tác giả luôn luôn học hỏi, ao ƣớc phát triển con đƣờng thiêng liêng nội
tâm.
Thông thạo Anh ngữ và ngôn ngữ Miến Điện. Trong thời gian còn đi học, ông cũng đã đọc một
số sách văn chƣơng Kitô giáo nhƣng không quan tâm lắm. Ông luôn luôn đào sâu thêm về Phật
pháp và Ấn Độ giáo, ông tìm sự soi sáng và sức mạnh thiêng liêng bằng cách ngồi thiền và thực
tập để tự làm chủ lấy mình, nhƣng những cố gắng này không đƣa đến nhiều kết quả.
Là một ngƣời yêu nƣớc, ông gia nhập quân đội. Quốc gia Miến Điện dù đã độc lập từ năm 1948,
nhƣng Karen, một phe nhóm chủ trƣơng một Miến Điện hiệp nhất vẫn còn chiến đấu chống lại
chính phủ. Trong một cuộc phục kích tấn công quân chính phủ, phe Karen đã bắt giữ một số
những sĩ quan quân đội cầm tù, trong đó có ông.
Câu chuyện đƣợc tác giả thuật lại sau đây bắt đầu từ một cuộc vƣợt ngục bất thành……)
Trang 38 Linh Thao
thế gian tục lụy. Tuy nhiên
không phải ai cũng thành công
nhƣ thế trong hai tuần lễ, có
ngƣời mất cả đời mình vẫn
chƣa toại nguyện. Lý do để
giải thích đó là những ngƣời
đạt được ơn siêu nhiên đã có
được nhiều ơn ban cho họ từ
tiền kiếp, còn những ai không
có ơn đó, họ khó lòng có thể
đạt được. Phật giáo Miến Điện
tin có sự luân hồi, ngƣời ta sẽ
được đầu thai lại nhiều lần
khác, với những hình thái và
cách thế khác, không nhất thiết
phải là con ngƣời, nhƣng có
thể là một sinh vật nào đó ở
những mức độ cao hơn hay
thấp hơn mức độ con ngƣời.
Ngƣời Phật tử Miến Điện nào
cũng tin rằng rồi họ sẽ phải
chết và vật chất, của cải không
giúp gì đƣợc cho họ sau khi
chết. có chăng là làm hại họ
nhiều hơn bằng cách lôi cuốn,
cám dỗ họ xuống địa ngục nếu
họ không vƣợt qua đƣợc những
yếu đuối trong đời sống con
ngƣời. Muốn vƣợt qua đƣợc,
họ phải tu thân bằng cách
nƣơng mình trong tu viện (điều
này diễn tả việc từ chối của cải
thế gian) phân phát của cải của
mình cho ngƣời nghèo và hy
sinh làm các việc từ thiện giúp
đỡ kẻ khác. Qua cách sống đó,
họ hy vọng khi tái sinh họ sẽ
được đầu thai làm một người
tốt hơn thay vì phải đầu thai
làm một loại sinh vật nào khác
và cuối cùng họ sẽ đạt đƣợc
cõi niết bàn.
Trong thời gian bị cầm tù, hầu
hết những ngƣời Phật tử chúng
tôi đều giữ đạo một cách sốt
sắng. Riêng tôi, tôi bỏ ra thật
nhiều giờ để cầu nguyện. Mỗi
lần ăn cơm xong, tôi bỏ ra cả
giờ để đọc sách, một cuốn sách
có sẵn trong nhà tù là cuốn
Kinh Thánh dùng cho những
ngƣời cai tù đặt tay thề khi
nhận nhiệm vụ. Tôi cũng có
một cuốn Kinh Phật do một
ngƣời tử tù hình sự cho. Cuốn
sách này đƣợc viết do một Vị
Sƣ Trƣởng, những giáo huấn
trong cuốn đó cũng chính là
những giáo huấn tôi đã học
thời còn trong tu viện.
Sau mỗi lần tĩnh tọa, tôi cầu
nguyện với Thƣợng Đế, bất cứ
là Đấng nào, giúp tôi thành
công trong việc đạt đến ơn giải
thoát. Tôi đặc biệt chú ý tới
Đức Phật Dhamma. Ngài chính
là cha đẻ của đời sống thiêng
liêng, thuyết linh hồn, thiên
văn và cả các truyền thống văn
hóa. Tôi cũng còn biết thêm
rằng giáo huấn của Đức Phật
Dhamma đã đƣợc nhiều Vị Sƣ
Trƣởng và các Phật tử uyên
bác chú giải.
Tôi thực tập đời sống tôn giáo
nhiều tháng trời, dù không chú
ý, tôi vẫn cảm thấy có một sự
tiến triển đáng kể về đời sống
thiêng liêng, tôi thật sự bình
an, lòng bác ái vị tha quy
hƣớng về tha nhân kể cả kẻ
thù, tôi sống với một lƣơng
tâm thật yên ổn.
Thời gian trong tù đối với tôi
không quan trọng lắm, tôi chỉ
ƣớc ao một điều trƣớc khi một
sự đáng tiếc nào xảy ra thì ít là
tôi đã đạt đƣợc một mức độ
nào đó trong đời sống thiêng
liêng.
Những ngƣòi cầm tù chúng tôi
họ thực cực đoan, nhƣng vì
chính quyền mỗi ngày một
vững mạnh, nên tôi nghĩ rằng
đến một ngày nào đó họ sẽ bị
dẹp tan và nếu họ bị đánh tan
số phận của chúng tôi sẽ ra
sao, tôi có thể đoán đƣợc. Tù
nhân chúng tôi ngoài những
Phật tử còn có một ngƣời đạo
Hồi giáo và hai ngƣời Kitô
hữu, một nguời gốc Anh theo
Anh giáo và một ngƣời Công
giáo.
Trong một buổi gặp mặt nọ,
anh bạn Công giáo xin những
ngƣời cai tù cho phép anh
được gặp một vị Linh mục
thƣờng xuyên, đồng thời có
một Linh mục Công giáo gần
đó cũng đang xin được gặp anh
thƣờng xuyên nhƣ thế. Cuối
cùng, vị Linh mục đƣợc phép
vào thăm anh bạn Công giáo.
Có một vấn đề ở đây là anh
Linh Thao Trang 39
bạn Công giáo rất đƣợc những
ngƣời cai tù kính nể. Dù theo
đạo Baptist, họ rất trọng các
nghi lễ. Họ cho rằng họ phải
chịu trách nhiệmnếu anh bạn
Công giáo nọ chết mà không
được gặp một Linh mục để
lãnh nhận những nghi lễ cuối
cùng. Nếu chuyện nhƣ thế xảy
ra không phải chỉ anh bạn
Công giáo nọ bị thiệt thòi, tai
hại mà chính họ phải chịu
trách nhiệm một phần lớn:
Một Linh mục truyền giáo từ
Toungoo đƣợc phép đến thăm
anh bạn tù Công giáo mỗi tuần,
chúng tôi cũng đƣợc hƣởng
nhờ những lần thăm viếng này.
Sau mỗi lần gặp gỡ vị Linh
mục, anh bạn Công giáo đều
chia sẻ với chúng tôi các loại
sách vở anh có đƣợc từ vị Linh
mục.
Anh trao cho tôi các loại sách
báo thông thƣờng. Tôi gập khó
khăn khi đọc các sách báo của
đạo Công giáo, không hiểu nổi
những biến cố đƣợc đề cập đến
trong Kinh Thánh, đặc biệt là
trong Cựu Ƣớc. Tôi nhờ anh
qua vị Linh mục kiếm cho tôi
những sách báo giải nghĩa rõ
ràng hơn về tiến trình Đức tin
của ngƣời Công giáo thời
MôiSen và các Tiên tri. Tôi
thấy thời Cựu Ƣớc là một thời
kỳ hung bạo, mặc dù qua đó,
tôi vẫn cảm nhận đƣợc tình
yêu và lòng nhân từ của Thiên
Chúa. Đối với Phật tử khác,
Cựu Ƣớc là một câu chuyện cổ
tích kỳ thú. Cựu Ƣớc hấp dẫn
tôi khiến tôi thƣơng cảm cho
dân Do Thái.
Tân Ƣớc với Chúa Giêsu càng
xúc động hơn. Đời sống đơn
giản và giáo lý thực tế của
Chúa đánh động tâm hồn tôi
giống nhƣ vừa đọc qua một hồ
sơ về Đức tin. Tuy nhiên, vì là
một Phật tử chân chính, tôi
không áp dụng giáo lý ấy vào
đời sống được.
Hơn nữa, kiến thức về Khoa
học từ Đại học, ảnh hƣởng của
các sách vở và tƣ tƣởng của
nhà Xã hội Anh, đặc biệt Marx
và Lênin khiến tôi khó lòng
chấp nhận một tôn giáo mặc
khải.
Qua lời yêu cầu, tôi nhận đƣợc
một số sách:
Đầu tiên là cuốn sách nói về
đời sống của Thánh Nữ Têrêsa
Hài Đồng Giêsu.
Cuốn thứ hai của Ronald
Knox:”Câu chuyện về đời sống
Chúa Giêsu”. Cuốn sách là
một tổng hợp về bốn Phúc Âm
được chỉ dẫn và chú giải theo
phong tục tập quán của ngƣời
Palestine thời Chúa Giêsu.
Cuốn sách này đã giúp tôi thật
nhiều trong việc hiểu thấu đáo
hơn về sứ điệp của Đấng Thiên
Sai giữa nhân loại và lý do tại
sao những ngƣời lãnh đạo Do
Thái thời ấy chối từ Ngài. Điều
này giúp tôi có cái nhìn đúng
đắn hơn về Phúc Âm. Tôi bị
cuốn hút bởi Sự Thƣơng Khó,
sự đơn sơ và tự hiến của Chúa
Giêsu đã đƣợc Ronald Knox kể
lại bằng một giọng văn cảm
động.
Tuy nhiên, tôi vẫn còn cảm
thấy việc hứa hẹn cứu rỗi cho
những ngƣời tin theo có vẻ
ngây thơ đầy màu sắc tôn giáo.
Chúng tôi những ngƣời Miến
Điện đang sống trong một môi
trƣờng với những tƣ tƣởng tôn
giáo phức tạp, chúng tôi đƣợc
dạy dỗ rằng mỗi ngƣời phải tự
tìm cho mình một con đƣờng
cứu rỗi và chắc chắn không có
một con đƣờng tắt nào ngắn
hơn để đạt tới Niết Bàn hay
Nirvana.
Tôi vẫn tiếp tục thực hành
phƣơng pháp tĩnh tọa và cầu
nguyện theo Phật giáo mặc dù
tôi đọc sách và suy nghĩ nhiều
về Công giáo.
Đọc thêm các sách báo Công
giáo, dần dần tôi bị ảnh hƣởng.
Tôi nhận thấy có những khác
biệt lớn lao giữa Công giáo và
các nhóm Thệ phản. Tôi ngạc
nhiên tại sao lại có quá nhiều
nhóm khác biệt trong một tôn
giáo đơn giản và rõ rang nhƣ
thế. Tôi ghi trên một mảnh
giấy trao cho anh bạn tù Công
giáo cho anh biết tôi không đủ
sức để tin đạo. Anh lại xin vị
Linh mục gởi thêm sách vở
vào cho tôi đọc. Tôi lại có
thêm đƣợc các sách nhƣ “Tự
Thú” của Thánh Augustinô,
“Thần Học Yếu Lƣợc” của
Thánh Tôma Aquina, Thánh
Phanxicô Assisi, Thánh Tôma
Moore, các sách về Hộ giáo
của Đức Tổng Giám Mục
Sheehan và nhiều các sách
khác tôi không còn nhớ tên.
Tôi thật sự xúc động khi đọc
tập Radio Replies, một cuốn
sách gom góp lại những câu
hỏi của các thính giả và những
câu trả lời của Cha Rumble
được phát thanh trên đài phát
thanh Úc Châu.
Sau khi đọc các sách vở trên
và tham cứu về tín lý, tôi bắt
đầu hiểu hơn về tôn giáo mặc
khải này. Trƣớc kia, tôi thờ ơ
lãnh đạm với đạo, giờ đây tôi
đã thấu hiểu và yêu thích giá
trị của những Sứ Điệp trong
Kinh Thánh.
Tuy vậy, tôi vẫn chƣa thật sự
tin. Công giáo vẫn còn là một
Trang 40 Linh Thao
tôn giáo xa lạ với dân tộc tôi.
Lối sống của Dân Chúa trong
Cựu Ƣớc quá khác biệt với
phong tục tập quán của chúng
tôi. Hơn nữa, Kitô giáo còn là
tôn giáo của những ngƣời thực
dân cai trị các quốc gia láng
giềng, tôi vô tình đồng hóa tôn
giáo với Đế quốc, vì thế đời
sống tâm linh của tôi với hình
ảnh Chúa Giêsu bị tắc nghẽn
bởi lòng ái quốc và quan niệm
lâu đời trong tôi theo Phật giáo
Ấn Độ.
Tôi đã tìm thấy chân lý qua
giáo huấn của Chúa Kitô. Tôi
tự nhủ: Giá mà tôi tin đƣợc, có
lẽ tôi sẽ đạt đƣợc ơn cứu độ.
Có một giằng co mạnh mẽ
trong tâm tƣ tôi. Tôi vẫn tiếp
tục là một Phật tử.
Càng đọc nhiều sách vở về
đạo, tôi càng cảm thấy tin và
yêu Chúa Giêsu. Nhƣng nhìn
tổng quát, truyền thống Juda
trong Cựu Ƣớc, nền văn minh
của các quốc gia theo Kitô
giáo và những vấn nạn khác
nữa vẫn còn là một chƣớng
ngại tôi không vƣợt qua đƣợc
để chấp nhận Chúa Giêsu là
Đấng Cứu chuộc.
Phải mãi đến một năm sau đó,
tôi mới thật sự chấp nhận các
tín điều, tín lý của Công giáo.
Tôi cũng đã đọc một số sách
báo Thệ phản nữa, nhƣng
những tác giả Công giáo
dƣờng nhƣ xác tín hơn trong
các vấn đề thần học, họ diễn tả
một đức tin xác quyết hơn và
họ hƣớng dẫn rõ rang, chắc
chắn hơn. Tôi nghĩ rằng nếu
tôi trở thành ngƣời Kitô hữu,
tôi sẽ là ngƣời Công giáo hơn
là lại cả đời lần mò, tìm tòi
một hƣớng thần học cho riêng
mình. Tôi cho rằng nếu tôi tin
vào các Phúc Âm, tôi sẽ tin tất
cả những gì nói về đời sống
Chúa GiêSu là sự thật. Tôi còn
tin tất cả giáo lý về sự hiện
diện thật sự của Chúa Giêsu
bằng chính Mình và Máu Ngài
trong Bí tích Thánh Thể, năng
quyền giảng dạy của các Tông
Đồ và những người kế vị các
ngài và các Bí tích nữa.
Điều đáng yêu nhất của Giáo
hội Công giáo là sự tự hiến của
các Tu sĩ trong Dòng tu, đời
sống thiêng liêng, sự làm việc,
sự từ bỏ chính mình và việc hy
sinh đời sống làm chứng nhân
cho Thiên Chúa nhất là của
những vịi tử đạo thời Rôma.
Thật ra, tôi không chú ý lắm về
Kitô giáo nói chung, tôi chỉ
biết rõ về Giáo hội Công giáo
và đời sống của Chúa Giêsu.
Trong tâm thức, tôi chấp nhân
Thiên Chúa của Israel trong
Cựu Ƣớc, chính là Thiên Chúa
trung tín, mặc dù với những
linh ứng khó hiểu và những
hình phạt nặng nề đƣợc kể lại.
Khi nghĩ rằng Thiên Chúa vẫn
trung tín với dân tuyển chọn
khiến tôi yên tâm trên đƣờng
thiêng liêng.
Tôi vẫn tiếp tục cầu nguyện và
trau dồi nhân đức, tôi chắc
chắn rằng trƣớc sau gì, tôi
cũng nhận đƣợc ơn lạ.
Thế là đã gần hết năm 1950.
Tôi biết đƣợc rằng Đức Giáo
Hoàng Pio XII đã công bố năm
nay là năm Thánh. Tôi nói với
anh bạn tù Công giáo khấn với
Đức Mẹ Fatima cho chúng tôi
được thoát cảnh tù tội trước
khi bƣớc sang năm mới. Nếu
được như thế tôi sẵn sang tin
đạo (tôi đã đọc qua sứ điệp
Đức Mẹ đạ loan báo tại Fatima
năm 1917). Thật ra lúc đó, tôi
vẫn chƣa hiểu ơn Chúa ban thế
nào và đƣợc thực hiện ra sao,
vì tôi mới chỉ đƣợc đọc qua
các sách vở Thần học đại
cƣơng và những phép lạ các
Thánh đã nhận đƣợc. Vào một
buổi sáng nọ, tôi hứa với Đức
Mẹ Maria rằng tôi sẽ rửa tội
ngay nếu Đức Mẹ làm phép lạ
cho chúng tôi đƣợc thả tù trƣớc
dịp tết Dƣơng lịch. Tuy vậy,
tôi vẫn tiếp tục không giảm bớt
việc cầu nguyện theo cách thế
của ngƣời Phật tử.
Sau một thời gian, tôi cảm thấy
mình vô lý trong việc thề hứa
vào đạo nếu đƣợc trả tự do.
Tôi thấy tôi đang đi đúng trên
con đƣờng của những ngƣời
giả hình trong Phúc Âm yêu
cầu Chúa Giêsu làm phép lạ để
chứng tỏ Ngƣời là Con Thiên
Chúa.
Vì vậy, thay vì thực hiện đúng
nhƣ sự xin xỏ vô lý của tôi,
Chúa đã gửi đến cho chúng tôi
những việc khó khăn hơn: Lễ
Giáng Sinh sắp đến, tin tức thả
tù vẫn biệt tăm. Vào dịp đầu
năm, quân đội Karen bị thất
bại trong một trận chiến gay go
tại Toungoo và họ quyết định
di tản.
Một buổi tối nọ, những ngƣời
cai tù yêu cầu chúng tôi bƣớc
ra khỏi xà lim, xếp hang một
úp mặt vào bức tƣờng đối diện.
Tôi nghĩ họ sẽ xử bắn chúng
tôi, tôi không hề khiếp đảm, tôi
đã sống một đời sống với tinh
thần tu đức trong suốt những
ngày tù tội.
Sau một thời gian căng thẳng,
những ngƣời cai tù dẫn đến hai
sĩ quan Karen và cho chúng tôi
biết họ quyết định giữ chúng
tôi làm con tin trong cuộc di
tản của họ.
Bị trói cả tay chân, chúng tôi
nằm chồng chất lên nhau trong
lòng chiếc xe chật hẹp di
chuyển trong đêm đen vƣợt
qua địa giới nơi quân Karen
chiếm đóng vùng đồi núi phía
đông. Đêm hôm sau nữa,
chúng tôi lại đƣợc di chuyển
qua một vùng khác, nơi những
ngƣời dân bán khai vừa đến cƣ
ngụ. Ở đây, chúng tôi lại bị
nhốt vào những nhà tù làm
bằng tre mới chặt về. Nhà tù
mới không ngăn chia phòng,
nên chúng tôi ở chung với
nhau, nói chuyện tự do, thoải
mái.
Tôi cho anh bạn tù Công giáo
biết về cảm tƣởng của tôi đối
với Kinh Thánh Cựu Ƣớc. Anh
khuyên tôi nên đọc sách Thánh
Vịnh. Tôi nghe theo và tìm
thấy nơi Thánh Vịnh thật nhiều
nguồn sống êm dịu: Tình yêu
và sự tôn thờ Thiên Chúa đƣợc
diễn tả thật tuyệt vời trong các
Thánh Vịnh bao trùm đời sống
tôi. Anh bạn Công giáo còn có
thêm cuốn sách quí giá
“Gƣơng Chúa Giêsu” của Tho-
mas à Kempis. Trong những
ngày ở tù chung nhƣ vậy, tôi
đã mượn được cuốn sách
thiêng liêng quí giá này của
anh vài ngày. Cuốn sách này,
cộng với các Thánh Vịnh và
Tân Ƣớc đã lay động và nâng
tâm hồn tôi lên cao vút. Nhƣng
tôi vẫn chƣa phải là ngƣời
Công giáo.
Sáu ngày sau khi di chuyển
đến vị trí mới, chúng tôi được
các cai tù hƣớng dẫn từng
nhóm một đi tắm tại một con
suối dƣới thung lũng. Hầu hết
chúng tôi đều trở về nhà tù khi
trời còn nhá nhem, bỗng có
một nhóm dân làng đến làm ồn
ào la mắng chúng tôi rồi một
ngƣời cai tù đến lớn tiếng chửi
rủa về việc một ngƣời tù đã
trốn tìm đƣờng vƣợt ngục và
vừa bị bắn chết. Họ cho biết
rằng hình phạt cho những
ngƣời trốn tù, vƣợt ngục là xử
bắn. Ngƣời giám thị nhà tù lên
đạn khẩu sung trên tay cho biết
rằng đa số dân đề nghị bắn
chết hết tù nhân, nhƣng cuối
cùng họ quyết định thay vì
bắn, họ sẽ bỏ đói các tù nhân
cho đến chết.
Vì là một sĩ quan cao cấp nhất
trong đám tù nhân, tôi lên tiếng
với họ và thƣa rằng chúng tôi,
những ngƣời còn lại trong tù
không hề lien can đến việc
vƣợt ngục của ngƣời đã bị bắn
chết. Ngƣời tù vắn số kém may
mắn là một ngƣời trƣớc kia
làm chủ tiệm “cầm đồ bình
dân”, bị bắt vì từ chối không
chỉ nơi chon dấu vàng… Đáp
lại ngƣời cai tù chửi rủa chúng
tôi và nói nếu có quyền trong
tay ông ta sẽ bắn chết hết
chúng tôi. Tất cả chúng tôi
không ai dám nói gì thêm nữa.
Sau một ngày bỏ đói chúng tôi,
họ đã suy nghĩ lại. Tuy nhiên,
mỗi ngày họ chỉ cho chúng tôi
ăn một bữa không đủ no. Vài
ngày sau đó, một cấp chỉ huy
cao cấp của họ đến xem xét và
ra lệnh cho quân sĩ của ông
rằng chúng tôi là những tù binh
chiến tranh . Thế là từ hôm đó,
mỗi ngày chúng tôi đƣợc hai
bữa cơm sống, cơm khê…
chúng tôi chia sẻ với nhau
ngƣời đói ngƣời no trong tình
Huynh đệ đồng cảnh.
Thấm thoát lại sắp đến một lễ
Giáng Sinh khác. Ngƣời cai tù
yêu cầu chúng tôi làm quen và
tỏ tình thân thiện với dân
chúng quanh bằng cách hát
những bài hát Giáng Sinh cho
họ nghe. Trong bọn chúng tôi
có ba ngƣời biết những bài hát
này, nhất là anh bạn Công
giáo, vì thế, anh giúp tập cho
chúng tôi hát những bài về
Chúa Giáng Sinh. Vào ngày lễ,
từ trong nhà tù, tiếng hát
những bản Thánh nhạc của
chúng tôi vọng ngân ra bên
ngoài. Buổi chiều, ngƣời cai tù
đến cho chúng tôi biết dân làng
rất ngạc nhiên và thích thú khi
được nghe hát.
Sau ngày lễ Giáng Sinh có vài
Mục sƣ Baptist và Anh giáo
ngƣời Karen đến thăm an ủi
chúng tôi. Ông Mục sƣ Anh
giáo rát tử tế. Rồi tiếp đến, vợ
của một sĩ quan Karen đến tổ
chức một buổi cầu nguyện
trong nhà tù có cả dân chúng
hiện diện. Trong buổi cầu
nguyện, bà có đi quyên tiền và
sau đó trao số tiền quyên đƣợc
cho ngƣời cai tù, yêu cầu ông
mua thịt thêm vào các bữa ăn
của chúng tôi. Từ đó trở đi, bà
tổ chức quyên tiền cho những
tù nhân chúng tôi mỗi tháng
một lần. Chính ngƣời cai tù đề
nghị chúng tôi đan những
chiếc nón lá bán cho những
ngƣời dân làm việc ngoài trời,
chúng tôi bắt đầu và lấy tiền
bán đƣợc mua thêm thức ăn.
Sự liên hệ của chúng tôi với
dân làng chung quanh càng
ngày càng trở nên thân thiện
hơn.
Linh Thao Trang 41
Trong thời gian này, tôi bắt
đầu đọc thêm những lời cầu
nguyện của đạo Công giáo khi
cầu nguyện mỗi ngày và trƣớc
đó, tôi đã bắt đầu đeo một
Tƣợng Thánh Tâm Chúa
Giêsu. Câu chuyện về tấm ảnh
này đã xảy ra nhƣ sau:
Khi tôi còn đang học tại Trung
học, chịi tôi có cho tôi một
chiếc nhẫn vàng với một hột
cẩm thạch màu đỏ rất đẹp. Tôi
rất quí chiếc nhẫn này, vì thế,
khi đi tù, sợ bị tịch thu, tôi đã
dấu nó bằng cách khâu nó bên
trong chiếc áo trấn thủ. Chúng
tôi vì ở tù thiếu thốn thức ăn,
một ngày nọ mọi ngƣời đề
nghị tôi bán chiếc nhẫn để mua
thịt cá và thuốc lá. Để bù lại,
anh bạn Công giáo trao cho tôi
tấm ảnh Thánh Tâm Chúa
Giêsu. Tôi nhận tấm ảnh với ý
nghĩ khi đeo nó sễ đƣợc may
mắn, hơn nữa anh bạn còn giải
thích thêm rằng khi cầu
nguyện, tôi sẽ đƣợc Đấng
thiêng liêng bảo vệ, điều này
tôi cũng đã biết qua khi đọc
trong sách vở lúc còn tại nhà tù
ở Toungoo. Nhận thấy rằng
nếu bán chiếc nhẫn đi, tôi có
thể giúp đƣợc các bạn và tôi đã
bán. Từ đó, tôi đeo tấm ảnh
Thánh Tâm quanh cổ. Sau đó
một thời gian, tôi bắt đầu cầu
nguyện với Chúa Giêsu và lần
chuỗi Kính Đức Mẹ thay vì
đọc kinh Phật.
Dần dà, tôi nhận thấy rằng lời
cầu nguyện với Đấng thiêng
liêng của tôi đã đƣợc chấp
nhận khiến tôi nghĩ rằng tất cả
những khó khăn, đau khổ tôi
đang gánh chịu chính là những
chuẩn bị cho tôi bƣớc vào Giáo
hội Công Giáo. Tôi nhận thức
được sự hiện diện của Thiên
Chúa và Chúa Giêsu chính là
con của Ngài, và cả Chúa
Thánh Thần nữa… Tôi tha
thiết nguyện cầu đến một ngày
nọ chúng tôi đƣợc trả tự do và
tôi sẽ thong dong nhận lãnh Bí
tích Rửa tội.
Đối với người Công giáo ,
tháng Năm là tháng kính Đức
Mẹ, Mẹ của Chúa Giêsu. Tôi
quyết định thực hiện một tuần
Cửu nhật cầu nguyện đặc biệt
trong tháng này với ý nguyện
xin Mẹ can thiệp trực tiếp với
Chúa cho chúng tôi đƣợc trả tự
do: tôi cầu nguyện tha thiết
hơn, lần chuỗi nhiều hơn, đọc
tất cả những kinh mà tôi đã
thuộc…
Vào ngày thứ tƣ và thứ năm
trong tháng, chúng tôi đã bắt
đầu liên lạc được với hai người
bạn do cấp chỉ huy của chúng
tôi gửi đến. Đang đêm, họ liên
lạc với chúng tôi bằng mật
hiệu và đƣa ra một chƣơng
trình vƣợt ngục. Sau đó, họ trở
về Toungoo đƣa thêm lực
lƣợng và vũ khí để phá nhà tù
dẫn chúng tôi đi trốn.
Một tuần lễ sau đó, vào lúc nửa
đêm, lực lượng cướp tù đã phá
tan cánh cửa nhà giam giữ
bằng một trái lựu đạn. Tiếng
nổ phá tan bầu khí tĩnh mịch
của đêm khuya, tiếp theo là
súng nổ vang trời… Kết quả
xảy ra là hai ngƣời trong lực
lƣợng bị bắn chết, một ngƣời
tù bị giết và hai ngƣời khác bị
thƣơng do lựu đạn, một số
ngƣời khác bị giết khi đi trốn
do dân trong các làng lân cận.
Chúng tôi đƣợc dẫn đi do sáu
ngƣời trong lực lƣợng và vì
không quen đƣờng lối trong
đêm khuya, chúng tôi lạc mất
nhau. Nhóm của tôi còn bốn
ngƣời kể cả hai ngƣời bị
thƣơng.
Suốt ba đêm và hai ngày sau
đó, chúng tôi lang thang dưới
những cơn mƣa rả rích trong
rừng già, đói mệt và chẳng biết
mình đang ở đâu. Đến ngày
thứ ba chúng tôi bị lộ do một
nhóm phụ nữ đang làm việc
ngoài đồng, họ kêu lính tới và
chúng tôi lại một lần nữa đầu
hàng vô điều kiện.
Tƣởng rằng họ sẽ giết chúng
tôi ngay, nhƣng không, họ đối
xử thật tử tế. Họ cho chúng tôi
ăn uống, dẫn chúng tôi về làng,
một ngƣời trong bọn cõng tôi
đi nữa, cho chúng tôi vào một
mái nhà bên cạnh nhà thờ của
họ. Những ngƣời trong làng
gồm cả ông Mục sƣ và vợ của
các sĩ quan đến thăm và sửa
Trang 42 Linh Thao
soạn cho chúng tôi một bữa
cơm thịnh soạn.
Sau hai ngày sống tại đó, họ
đưa chúng tôi đến nhà thương
nơi một thị trấn, nhà thƣơng
này đã trở thành bản doanh của
quân đội Karens. Ở đây, chúng
tôi gặp lại hai ngƣời nữa trong
số tù đã trốn và bị bắt lại. Kể
lại chuyện vƣợt ngục với nhau
và cuối cùng chúng tôi biết
rằng tất cả anh em trong lực
lƣợng giải cứu đều bị bắn chết.
Một tin buồn nhất đối với tôi
đó là anh bạn Công giáo cũng
đã chết, đối với mọi người
trong tù, anh là một ngƣời đã
khuyến khích, nâng đỡ mọi
ngƣời trong đời sống thiêng
liêng. Mặc dù anh không chủ
trƣơng vƣợt ngục, anh cũng đã
bị bắn chết, anh là một ngƣời
rất can đảm, để trợ giúp mọi
ngƣời, anh không hề nghĩ tới
chính bản thân anh, là một sĩ
quan, anh can đảm và bất chấp
hiểm ngua, anh đánh cờ rất
khá, chơi bài rất giỏi đồng thời
anh còn là một ngƣời khôi hài,
giúp anh em vui vẻ, tự tin
trong mọi hoàn cảnh. Anh là
một ngƣời sống đức tin, biết
phó thác mọi sự trong Chúa và
chƣa bao giờ thấy anh than
vãn. Tôi nghĩ rằng anh phải là
ngƣời thành công trong cuộc
vƣợt ngục vừa qua mới phải,
nhƣng ai mà biết đƣợc ý Chúa?
Trong suốt những ngày vƣợt
ngục, lang thang trong rừng,
tôi vẫn mang theo một cái túi
nhỏ, trong đó có một cuốn
Kinh Thánh và một vài cuốn
sách đạo đức. Tôi đã cầu
nguyện liên tục. Trong nhà
thƣơng , có hai Mục su Baptist
và Anh giáo, tất cả đều là
ngƣời Karens. Họ cho tôi
những sách đạo đức, một
quyển Kinh Thánh bằng tiếng
Miến Điện bọc bao da rất đẹp.
Những y tá săn sóc chúng tôi
thật thân thiện và gần gũi.
Sau sáu tuần lễ, sức khoẻ
chúng tôi dần dần hồi phục,
những vết thƣơng đã lành, họ
di chuyển chúng tôi ra một căn
nhà bên ngoài làng, căn nhà
khang trang hơn nơi chúng tôi
bị giam giữ trƣớc khi vƣợt
ngục. Nhƣng chƣa phải là tự
do, số mạng của chúng tôi tùy
thuộc vào những trận chiến
thua đƣợc của họ. Gần hết mùa
mƣa vào cuối tháng Mƣời,
chính quyền quyết định tấn
công mạnh hơn, quân đội
Karens chắc chắn phải rút lui.
Trong trƣờng hợp này, họ phải
di chuyển chúng tôi vào các
làng xa hơn trong rừng già,
chúng tôi có cảm tƣởng họ đã
quyết định về số phận của
chúng tôi rồi.
Tôi nghĩ rằng đã đến lúc tôi
phải xin Chúa ban cho đƣợc tự
do. Mặc dù chƣa đƣợc rửa tội,
tôi đã coi tôi là một ngƣời
Công giáo thật sự. Các bạn
Kitô giáo của tôi đều đã chết
kể cả ngƣời bạn Công giáo là
nguồn an ủi thiêng liêng dẫn
đưa tôi về với Chúa trong
nhũng ngày tù tội, anh bạn
theo Anh giáo bị chết vì một
mảnh lựu đạn, anh bạn Baptist
bị dân làng giết chết. Bây giờ,
nếu chẳng may tôi bị chết chắc
trong lúc thập tử nhất sanh sẽ
không còn ai giúp tôi đƣợc rửa
tội.
Một ngày vào cuối tháng Tám,
tôi quyết định bắt đầu một tuần
cửu nhật cầu nguyện với
Thánh Tâm về việc đƣợc trả tự
do. Sau sáu ngày cầu nguyện,
một buổi trƣa nọ, một ngƣời
bạn Karen đến cho chúng tôi
biết quân đội của chúng tôi
đang tiến đánh rất mạnh vào
các cơ sở của họ, vì thế họ phải
rút lui và dẫn chúng tôi đi.
Họ đƣa chúng tôi đến một
ngọn đồi gần nhà thƣơng rồi
bỏ chúng tôi ở lại đó.
Sau nửa giờ đồng hồ, tên
chúng tôi đƣợc những ngƣời
lính đầu tiên của quân đội đã
tiến chiếm mục tiêu gần nơi
chúng tôi bị giam giữ kêu gọi
cùng với những lời dẫn dụ
quân đội Karen hãy đầu hàng.
Chúng tôi vui mừng đáp lại họ
và chúng tôi gặp gỡ nhau trong
Linh Thao Trang 43
niềm vui sƣớng thoát nạn.
Chúng tôi yêu cầu quân đội
đừng bắn vào làng. Gặp các y
tá đang tìm cách trốn tránh,
chúng tôi yêu cầu họ hãy trở
lại nhà thƣơng và nhắn với dân
chúng hãy về nhà. Quân đội
đối xử với họ rất tử tế và đầy
tình cảm.
Chúng tôi theo các đơn vị quân
đội trở về Toungoo mất ba
ngày đi bộ xuyên qua rừng già.
Dọc đƣờng, tôi vẫn tiếp tục
chƣơng trình cầu nguyện và tạ
ơn Thánh Tâm Chúa. Vào
ngày cuối cùng của tuần cửu
nhật chúng tôi đến Toungoo.
Đêm trước khi chúng tôi đến
nơi, chúng tôi có đƣợc một
đêm thật vui mừng. Các sĩ
quan và vị chỉ huy cuộc hành
quân cùng hoạt động trong
phong trào Độc lập trƣớc kia
đã đến chào đón và chúc mừng
chúng tôi, thức trắng đêm để
hàn huyên tâm sự…
Tôi cho họ biết về quyết định
theo đạo Công giáo và ƣớc
muốn đi truyền giáo của tôi,
không ai có ý kiến chống đối,
tất cả đều lắng nghe với sự
hiểu biết và thông cảm.
Ngay khi tới Toungoo, tôi đến
tìm vị Linh mục trƣớc kia
thƣờng đến thăm anh bạn Công
giáo trong tù cách đó hai năm,
kể với ông về cái chết của anh
bạn Công giáo nọ và xin đƣợc
Rửa tội.
Vị Linh mục khuyên tôi trƣớc
tiên nên gặp cha Linh hƣớng,
học hỏi thêm về giáo lý và rồi
sau đó mới quyết định vào đạo
hay không cho kỹ càng hơn.
Thật là một đề nghị hữu lý, tôi
vui mừng chấp thuận và xin
cha một giấy giới thiệu đến
một Linh mục tại Rangoon.
Hai tháng sau ngày đƣợc giải
thoát, tôi đƣợc đón nhận vào
Giáo hội với tên Thánh là
Augustine, không ai trong gia
đình tôi kể cả cha tôi, bà kế
mẫu, các chị em tôi, các bạn bè
tôi chống đối. Thiên Chúa đã
cho tôi thấy lòng thƣơng của
Ngài, Ngài đã ban cho tôi đầy
ân sủng và Ngài đã giúp tôi
hiểu một phần nào ý định của
Ngài. Từng bƣớc một, Ngài đã
hƣớng dẫn tôi đến với Ngài
bằng con đƣờng của Ngài,
không phải con đƣờng của tôi.
Tôi đã muốn gia nhập vào một
Dòng tu nhƣng ý Chúa chƣa
muốn.
Tất cả những gì xảy ra cho tôi
trong ý Chúa, tôi sẵn sàng đón
nhận. (Theo MẢNH XƢƠNG KHÔ TRONG
SA MẠC của Lm. Jos. BÙI-ĐỨC-TIẾN)
Trang 44 Linh Thao
Đầu cúi thấp, lệ rơi con gọi Mẹ
Đường con đi, con gởi Mẹ đã nhiều Nhớ hộ giùm con, giọt lệ hôm qua Mẹ cất giữ giùm, ngày về con nhận
Mẹ ơi!
Con bao lần hứa với Chúa nhiều phen Đã quên lời, Chúa vẫn kiên nhẫn đợi Tâm hồn con đã bao năm như ngủ
Con chỉ hứa nhưng chưa lần thực hiện Chúa mong chờ con u buồn đôi mắt Con nhìn Chúa cõi lòng con tan nát Mắt lệ rơi, nguyện xin Chúa thứ tha
Con bướng bỉnh, u mê Chúa vẫn thương Lòng thương xót Chúa bao la
Con đi tìm, tìm đến dấu chân cha Thánh đường Chúa Thương Xót ở Balan
Con đã đến
Trước Thánh Nhan con không dám ngẩng mặt Mắt lệ rơi, con xin Chúa thứ tha
Bao lời thề hứa, con vẫn chưa thực hiện Chúa ơi, dưới chân Ngài hôm nay
Ký thác vào Chúa, xin để Chúa lo. Ký thác vào Ngài. Con xin lắng nghe.
Hân Hân (Paderbonn)
(Kỷ niệm 4 ngày hành hương đến viếng Thánh Đường KRAKOW-LAGIEWNIKI)
Linh Thao Trang 45
i cũng muốn có hạnh
phúc và cầu mong cho ngƣời
khác cũng đƣợc nhƣ vậy.
Ai cũng hằng tìm cách kiến
tạo, xây dựng hạnh phúc cho
bản thân mình và cho những
ngƣời mình có trách nhiệm lo
cho. Đó là điều chính đáng
phải đạo.
Ai cũng hằng mong tìm cơ hội,
mong tìm ra chìa khoá mang
lại hạnh phúc.
Có chiếc khoá mang lại hạnh
phúc không? Và nếu có, thì
chiếc chìa khoá đó nhƣ thế
nào?
Ngày nay hầu nhƣ ai cũng có
chùm chìa khoá với nhiều chìa
khoá khác nhau: khoá nhà,
khoá phòng, khoá xe đạp, khoá
xe hơi, khoá hòm đựng
tiền....Chúng ta cần nhiều chìa
khoá, vì cuộc sống ngày nay
nhƣ thế.
Với chiếc chìa khoá xe hơi
chúng ta có thể đi đó đây, đi
làm, đi du lịch thƣởng lãm
thắng cảnh, thăm bạn bè thân
hữu, thăm ngƣời quen thân ở
nơi xa...
Vậy phải chăng chiếc chìa
khoá này có thể mang laị hạnh
phúc cho ta?
Xe hơi là phƣơng tiện di
chuyển cần thiết, trợ giúp đời
sống con ngƣời trong nhiều
lãnh vực. Nhƣng xe hơi cũng
gây ra nguy hiểm cho con
ngƣời không ít. Ngày nay môi
trƣờng sinh sống bị ô nhiễm do
chất khói xe hơi thải ra làm
chết cây cối, gây nên bệnh tật
đang là vấn đề cho con người,
cho thiên nhiên. Vấn đề tai nạn
lƣu thông xảy ra khắp nơi do
xe hơi gây ra cũng không phải
là ít.
Nhƣ thế chiế chìa khoá xe hơi,
có thể nói, chƣa chắc gì đã
mang lai hạnh phúc cho con
ngƣời. Vì xe hơi tạo ra những
vấn đề khác cho cuộc sống
không ít.
Còn chiếc chìa khoá tủ đựng
tiền mang lại nhiều hứa hẹn, an
sinh cho cuộc sống. Vì có tiền
bạc, có của cải con ngƣời có
thể mua sắm đƣợc nhiều sự
mong muốn. Từ quốc gia đất
nƣớc đến cá nhân ai cũng cần
tiền bạc để sinh sống, để mở
mang...
Nhƣng phải chăng hễ có nhiều
tiền là có hạnh phúc?
Tiền bạc là phƣơng tiện cần
thiết cho nhu cầu cuộc sống,
nhƣng nó cũng có mặt trái của
nó, nhƣ một bài vè trong dân
gian nói về tiền bạc:
“ Tiền là Tiên, là Phật,
là sức bật lò xo,
là thƣớc đo lòng ngƣời,
là tiếng cƣời tuổi trẻ,
là sức khoẻ tuổi gìa,
là cái đà danh vọng,
là thòng lọng cuộc đời.“
Nhƣ thế, đã chắc gì khi có đầy
đủ hay nhiều tiền bạc là đã có
hạnh phúc! Không thiếu gì
những ngƣời có dƣ thừa của
cải tiền bạc mà đời sống vẫn
cô đơn héo hắt bệnh tật.
Ngƣời ta đâu có thể dùng tiền
bạc mua đƣợc sức khoẻ. Bạn
bè thân hữu, tình yêu, lòng
trung thành, niềm vui, niềm hy
vọng, tình liên đới đâu phải là
những hàng hoá bày bán trong
các siêu thị, trong các cửa
hàng, hay nhƣ các cổ phiếu ở
sàn thị trƣờng chứng khoán,
mà có thể dùng tiền mua đƣợc.
Với chiếc chìa khoá nhà chúng
ta có thể bất cứ lúc nào về nhà,
về phòng cũng đƣợc. Nhà cửa
là không gian thu gọn nhỏ hẹp,
nhƣng ấm cúng; là tổ ấm cho
mỗi con ngƣời; là nơi ăn chốn
nghỉ ngơi, là nôi của tình yêu
mến, của phát triển lớn lên.
Nhà cửa không chỉ bao gồm
những đồ đạc tủ bàn ghế,
giƣờng chiếu, nhƣng còn có
ngƣời thân thuộc sinh sống
trong đó: cha mẹ, anh chị em,
vợ chồng, con cháu ruột thịt.
Vì thế chiếc chìa khoá nhà hứa
hẹn mang lại hạnh phúc cho
con ngƣời nhiều hơn các chìa
khoá khác. Vì với chiếc chìa
Lm.NGUYỄN NGỌC LONG
Trang 46 Linh Thao
khoá này, tôi mở cửa đi về tổ
ấm tình yêu. Trong nhà, tôi tiếp
nhận tình yêu từ ngƣời thân và
tôi trao tặng tình yêu cho ngƣời
thân. Tình yêu mang lại hạnh
phúc cho con ngƣời. Tình yêu
mang lại cho đời sống niềm
vui, làm quên đi những mệt
nhọc lo lắng buồn phiền trong
cuộc sống.
Chúa Giêsu, sau khi sống laị,
bỏ các môn đệ, các ngƣời tin
theo ngài ở lại trần gian, đi về
trời. Ngài trở về nhà. Nhƣng
ngài hứa gửi Chúa Thánh Thần
xuống với họ. Ngài không để
họ sống bơ vơ, cô đơn một
mình. ( Gioan 14,15-21)
Chúa Thánh Thần đến cùng
đồng hành với họ trong cuộc
sống. Ngài hiện diện trong tâm
hồn họ. Ngài là tình yêu và
mang niềm an ủi phấn khởi cho
họ.
Chiếc chìa khoá nhà ta luôn
mang theo trong ngƣời, dù đi
xa bất cứ nơi đâu. Khi có chiếc
chìa khoá này trong ngƣời, ta
cảm thấy an tâm. Vì ngôi nhà
tổ ấm tình yêu luôn theo bên
mình. ta về nhà lúc nào cũng
được và biết rằng những người
thân yêu hằng chờ đợi ta ở nhà.
Chúa Giêsu gửi Chúa Thánh
Thần xuống, cũng giống nhƣ
trao cho các Tông đồ và những
ngƣời tin theo ngài, chiếc chìa
khoá nhà. Và lúc nào Chiếc
chìa khóa này cũng theo với họ
bên mình. Vì Chúa Thánh Thần
hằng ở trong tâm hồn họ.
Thần linh Thiên Chúa là chìa
khoá mở cửa vào nhà Chúa, nơi
là nguồn tình yêu, nguồn an ủi
nguồn hạnh phúc cho con
ngƣời.
Lm. Nguyễn ngọc long
Kính thƣa cha,
Khóa linh thao khai giảng từ
ngày thứ năm, hôm nay là thứ
bẩy, con có caí hẹn gặp cha.
Không hiểu sao con rất hồi hộp,
lo lắng và cả lo sợ trƣớc giờ hẹn
gặp cha. Tim con chạy nhanh
hơn cả chiếc đồng hồ, thời gian
cứ ngắn dần,,, ngắn dần… niềm
lo lắng lại càng tăng. Và bây giờ
- Giờ đã đến.
Bƣớc vaò phòng cha, ngồi đối
diện với cha, niềm run sợ trong
con dâng cao tột độ theo dòng
nƣớc mắt tuôn rơi, tuôn rơi
không ngừng. Niềm lo sợ vì bị
quở mắng, vì hối hận, bởi vì con
tội lỗi, đã bao lần hứa với Chúa
nhiều phen mà chƣa lần nào
thực hiện đƣợc lời hứa. Một lúc
sau, nƣớc mắt vơi dần… vơi
dần…con ngồi yên lặng. Từ lúc
ngồi đối diện với cha cho đến
bây giờ, cha chƣa hỏi con một
câu nào và con cũng chƣa trình
thƣa với cha một lời nào. Cha
chỉ nhìn con đang nức nở, nƣớc
mắt chan hòa, khóc nhƣ một đứa
bé yếu đuối lo sợ bị trừng phạt
đánh đòn…
Thƣa cha, vì mang một ấn tƣợng
lo lắng buồn phiền hoang
mang , tất cả chỉ là tƣởng tƣợng
nên con đã để cha phải chờ đợi.
Cha lên tiếng hỏi: Bây giờ con
đã bình tĩnh chưa. Con gục đầu
khe khẽ nói xin nghe. Tiếng cha
êm dụi, nhẹ nhàng nhƣ một
giòng suối mát, tiếng cha con
nghe mỗi lúc một nhỏ. Con lên
tiếng: Thƣa cha, cha nói to hơn
con nghe không rõ. Cha noí tiếp:
Con lắng tai nghe nhé, con nhƣ
một ngƣời đã đƣợc Chúa đối đáp
và nghe đƣợc tiếng Chúa nói.
Đây là tiếng của Chúa nói với
con. Chúa ơi, con vui mừng qúa,
muốn khóc, nghẹn ngào muốn
khóc nhƣng không dám khóc nhƣ
lúc ban đầu vào gặp cha. Chúa
ơi! từ bây gìơ trái tim con thật
bình an trong Chúa.
Ngẩng mặt nhìn cha, cha đang
nhắm nghiền đôi mắt, con ngắm
nhìn cha mà con cứ tƣởng nhƣ
Chúa đang ở trƣớc mặt con.
Chúa thật hiền hòa nhân ái,
không có một dấu hiệu nào là
trách phạt con. Con can đảm
trông cậy, phó thác vào Chúa
hơn. Tiếng cha vẫn đều
đều:“Chúa nhìn thấy trong tâm
hồn con có dành riêng cho Chúa
một ngôi nhà. (Tôi buột miệng ,
cả cho Mẹ nữa, thƣa cha) nhƣng
căn nhà đó có nhiều cửa sổ
không đóng lại, có nhiều tiếng lạ
lọt vào, nào là tiếng chợ búa ì
xèo hỗn độn, tiếng gia súc ùa
vào ồn ào qúa, vì vậy con đã
không nghe đƣợc tiếng Chúa
đang nói với con. Vậy từ bây giờ
con đóng tất cả cánh cửa lại, chỉ
để một cánh cửa cho Chúa đi
vào mà thôi thì con mới nghe
được tiếng Chúa nói, bây gìơ
con đã đóng tất cả các cửa lại
rồi, tâm hồn con đã cảm thấy
bình an chƣa? Chỉ một cánh
cửa mở để đón Chúa vào thôi,
(con lại buột miệng cả Mẹ nữa
thƣa cha). Bây giờ con đã hiểu
và nghe đƣợc lời Chúa nói?
Tiếng cha thật ôn nhu, hiền hòa,
êm ái đầy yêu thƣơng, lời cha
nhƣ một giòng suối mát. Con
khẽ gật đầu trong nƣớc mắt nói:
Cám ơn Chúa, cám ơn cha con
hiểu rồi. Thƣa cha, bây giờ
những dòng nƣớc mắt con đang
tuôn trào trƣớc mặt cha đây là
những dòng lệ con thống hối và
tạ ơn Chúa.
Cuối thƣ con xin kính chúc cha
được thật nhiều Hồng Ân Thiên
Chúa. Xin cha nhận nơi đây lòng
chân thành ghi nhớ công ơn của
cha trong khóa linh thao 2006.
Hẹn gặp lại cha trong khoá
2007. Kính thư.
Hân Hân (Paderbonn)
Kính gởi : cha Thành SJ Roma
ó một lần, trong một
khóa Linh Thao, Ngài
đã đánh động tôi và cho
tôi nhận ra rằng Ngài đã sống
nhƣ một trong những ngƣời
bình thƣờng khác, Ngài đã chỉ
cho tôi con đƣờng Ngài đi qua,
và mời gọi tôi tập sống giống
nhƣ Ngài.
1- Ngài đã sống như một
người bình thường trong
muôn vàn người bình thường
khác vì: „Chúa Giêsu, sau khi chịu
phép rửa, đƣợc Thần Khí dẫn
vào sa mạc để chịu ma quỷ
cám dỗ. Và Ngài đã giữ chay
bốn mƣơi ngày và bốn mƣơi
đêm, sau đó Ngài cảm thấy
đói.“ (Mt 4, 1-2)
Trong đoạn Phúc Âm ngắn
ngủi này, chúng ta thấy Chúa
Giêsu đã có ít nhất 4 ƣớc
muốn, hay ít nhất 4 hành động
có ƣớc muốn hoạt động:
- Ƣớc muốn đƣợc thánh hoá và
được nhìn nhận là con của
Chúa Cha qua phép rửa: „ Đây
là con yêu dấu của Ta, kẻ mà
T a y ê u t h ƣ ơ n g h ế t
lòng.“ (Mathiêu 3, 17)
- Ƣớc muốn đƣợc thực hiện
theo chƣơng trình của Chúa
Cha qua việc để Thần Khí dẫn
dắt vào trong sa mạc.
- Ƣớc muốn phản ứng lại
những thử thách qua việc chịu
để ma quỷ cám dỗ.
- Ƣớc muốn phản ứng lại
những yếu đuối của xác thịt
qua việc nhịn đói ăn chay 40
ngày đêm. Và để xác nhận việc
làm của Chúa Giêsu là sự thật,
thánh Mathiêu còn thêm rằng:
„...Ngài cảm thấy đói.“
Con ngƣời là một tạo vật đƣợc
sinh ra từ ƣớc muốn và để sống
theo ƣớc muốn. Vì vậy, trong
cuộc sống hằng ngày của
chúng ta, chúng ta luôn ở trƣớc
một ngã ba đƣờng (có khi đến
ngã bốn hoặc ngã năm !). Và
chúng ta luôn bối rối vì bị
giằng co giữa ƣớc muốn và sự
lựa chọn. Chúng ta phải ƣớc
muốn và phải chọn lựa nhƣ thế
nào để có đƣợc một cuộc sống
hạnh phúc và tự do ?
„...Chúa cho con người chẳng
kém thần linh là mấy,
Ban vinh quang, danh dự làm
mũ triều thiên,
Cho làm chủ công trình tay
Chúa sáng tạo,
Đặt muôn loài, muôn sự dưới
chân...“ (Thánh Vịnh 8)
Có ngƣời cho rằng ƣớc muốn
là khả năng riêng của loài
ngƣời, vì tất cả những loài vật
khác chỉ làm theo bản năng tự
nhiên mà thôi.
Đúng, nhưng chúng ta không
quên nhấn mạnh rằng: con
ngƣời không có „độc quyền“
về ƣớc muốn. Vì trƣớc khi tạo
dựng nên loài ngƣời, ƣớc
muốn đã có, đó chính là ƣớc
muốn của Thiên Chúa muốn
dựng nên loài ngƣời.
Trong xã hội hiện nay, con
ngƣời muốn kiểm soát tất cả,
muốn quyết định tất cả: từ
ngày giờ sinh ra đến ngày giờ
chết đi (ƣớc muốn của con
ngƣời). Nhƣng họ lại muốn
chối bỏ sự hiện diện của Thiên
Chúa và bàn tay can thiệp của
Ngài (ƣớc muốn của Thiên
Chúa)!
Nói đến ƣớc muốn thì không
thể không nói đến tình yêu, vì
tình yêu phải là căn bản của
ƣớc muốn. Ƣớc muốn không
có giá trị gì nếu không có tình
yêu. Chúng ta hãy suy nghĩ
nhiều về câu này, nó thật đơn
giản nhƣng cũng thật căn bản
vì có thể áp dụng cho tất cả
những trƣờng hợp thực tế.
„Thầy ở cùng với chúng con
mỗi ngày cho đến tận
thế.“ (Mathiêu 28, 20) Còn gì
đẹp cho bằng ước muốn của
Chúa Giêsu!? Giá trị của ƣớc
muốn này chính ở chỗ là nó
bộc phát từ trái tim và đặc tính
lâu dài trƣờng kỳ của nó. Một
ƣớc muốn trong chốc lát thì có
giá trị gì !?
Con ngƣời khi sinh ra không
làm chủ đƣợc ƣớc muốn,
nhƣng con ngƣời đƣợc sinh ra
để tiến tới làm chủ ước muốn
của mình. Và những hành động
hay ý thức hãm mình, kiên
nhẫn và hy sinh, hoặc chay
tịnh... đó là những phƣơng tiện
để chúng ta tiến tới làm chủ
ƣớc muốn của mình.
Linh Thao Trang 47
Có ngƣời cho rằng Lễ Tro là
để nhắc nhở chúng ta từ tro bụi
sẽ trở về tro bụi. Nhƣng chúng
ta cũng có thể lý luận thêm
rằng: Có tro bụi tức là đã có
lửa sáng, và lửa sáng chính là
sự hy sinh hãm mình để tro bụi
có một giá trị nào đó.
„Ai thắng sẽ được thừa hưởng
mọi sự ấy làm cơ nghiệp; và
Ta sẽ là Thiên Chúa của nó, và
nó sẽ là con của Ta.“ (Khải
Huyền 21, 7)
Khi chúng ta nói về việc Thiên
Chúa tạo dựng nên vũ trụ,
chúng ta thƣờng dùng những
danh từ nhƣ thể vũ trụ đã đƣợc
hoàn tất. Nhƣng sự thật không
phải vậy. Các khoa học gia đã
chứng minh rằng vũ trụ này, từ
sau Big Bang, vẫn còn đang
tiếp tục „giãn nở“ và các ngôi
sao cùng các hành tinh vẫn còn
đang chuyển vận không ngừng
để đạt đến một trạng thái nào
đó!!
Ngay trái đất của chúng ta nữa,
các thềm lục địa và mọi tạo vật
cũng đang còn biến đổi không
ngừng, nên đã gây ra những
thiên tại và động đất mà chúng
ta vừa diễn kiến trong những
tháng vừa qua...
Không phải chỉ có các khoa
học gia mới hiểu biết nhƣ vậy.
Thánh Phaolô trong lá thƣ gửi
cho các tín hữu thành Rôma đã
nói rằng: „Các tạo vật khắp nơi
cón đang đau đớn chuyển bụng
sinh ra.“ (Rôma 8, 22)
Sự tạo dựng chƣa hoàn tất có
nghĩa là Thiên Chúa muốn
(désirer) chúng ta tự do: Ngài
không muốn dựng nên chúng
ta „có sẵn“ mà phải có sự đóng
góp của chúng ta. Khi tạo dựng
nên chúng ta một cách chƣa
hoàn hảo, Thiên-Chúa mời gọi
chúng ta tự quyết định lấy
tƣơng lai của chúng ta. Điều
này có lẽ khó đối với chúng ta,
đôi khi nguy hiểm. Nhưng giao
ƣớc của Thiên-Chúa vẫn còn
đó, và Ngài luôn ở bên cạnh để
phù trợ chúng ta: „Thầy ở
cùng với chúng con mỗi ngày
cho đến tận thế.“ (Mathiêu 28,
20)
Do đó, sự tin tƣởng vào sự
quan phòng của Thiên Chúa là
một điều kiện thật thiết yếu.
Nhƣ Chúa Giêsu đã chọn sa
mạc và ăn chay 40 ngày đêm
theo sự thúc đẩy của Thần Khí
(một sự lựa chọn mà có lẽ
không một ngƣời đời nào có
thể giải thích nổi), trong ƣớc
muốn phải luôn có sự lựa
chọn, và trong lựa chọn luôn
kèm theo ít nhiều hãm mình và
hy sinh.
2- Cách lựa chọn thứ nhất
của Chúa Giêsu:
„Đây là Con Ta yêu dấu, kẻ
mà Ta thƣơng yêu hết lòng,
Các ngƣơi hãy nghe lời
Ngài.“ (Mathiêu 17, 5)
Rất thông thƣờng, chúng ta
cho rằng cuộc sống của chúng
ta là CỦA CẢI của chúng ta, là
QUYỀN sở hữu của chúng ta
(la vie comme un du, et com-
me un droit), không một ai, kể
cả Thiên Chúa, cũng không
được đụng đến hay can thiệp
vào.
Do đó, chúng ta sử dụng cuộc
sống của chúng ta nhƣ chúng
ta muốn, nhƣ chúng ta nghĩ,
mà không cần đếm xỉa đến lời
khuyên bảo của ngƣời khác.
Thậm chí đến cả lời của Chúa,
chúng ta cũng không cần áp
dụng trong cuộc sống (!).
Chúng ta chỉ chạy theo những
lý thuyết nào xuôi với tai của
chúng ta (hiện tƣợng này rất
thông thƣờng trong xã hội hôm
nay). Trong cuộc sống, chúng
ta cƣ xử nhƣ chúng ta sẽ sống
mãi ở trên thế gian này và
không bao giờ lìa bỏ nó...
Bài học của việc Chúa Biến
Hình trên núi không đặt trọng
tâm ở việc Chúa Giêsu hiện ra
ở giữa hai vị tiên tri Isaia và
Maisen (vì Chúa Giêsu đã căn
dặn các môn đệ không đƣợc
thuật lại liền cho những ngƣời
khác!), nhƣng chính là lời phán
của Chúa Cha: „Các ngƣơi hãy
nghe lời Ngài.“
Nếu chúng ta đọc lại đoạn
Phúc Âm của thánh Mathiêu 4,
8-10, thì nguyên tắc thứ nhất
để làm chủ ước muốn của
mình chính là phản ứng của
Chúa Giêsu trƣớc cám dỗ thứ
hai của ma quỷ: Hãy làm đi...
vì Ngài làm chủ thân phận của
mình mà, Chúa Cha sẽ phải
theo ý Ngài (mets Dieu à ton
service). Hãy làm tất cả những
điều điên cuồng nhất như Ngài
muốn, vì sẽ không có gì có thể
làm tổn hại đến cuộc sống và
cơ thể bất tử (corps immortel)
của Ngài, vì Chúa Cha sẽ sai
thiên thần đến cứu Ngài...
Nhƣng Chúa Giêsu đã làm
ngƣợc lại, Ngài đã từ chối khả
năng làm chủ lấy cuộc sống
của Ngài: Ngài muốn hiện hữu
nhƣng không muốn có sở hữu
gì cả, từ một cái nhỏ nhất cho
đến tất cả cơ thể của Ngài (Il
veut exister en ne possédant
rien, ni une chose ni toutes
choses ni soi-même). Ngài
muốn nhận lấy hoàn toàn từ
Chúa Cha.
„Các ngươi hãy nghe lời
Ngài.“ hay còn có thể nói là
„Hãy làm theo Ngài.“ Lời nhắn
nhủ này phải vọng mãi trong
trái tim của mỗi ngƣời chúng
Trang 48 Linh Thao
ta. Trong những ƣớc muốn và
những chọn lựa, chúng ta hãy
đặt mình làm kẻ phục vụ
Thiên Chúa, nhƣ Chúa Giêsu
đã đặt mình hoàn toàn theo
chƣơng trình của Chúa Cha.
3- Cách lựa chọn thứ hai của
Chúa Giêsu:
„Ai uống nước giếng này sẽ
còn khát: nhƣng ai uống một
lần nƣớc của Ta ban cho sẽ
không bao giờ khát nữa, vì
nƣớc Ta ban cho ai thì nơi
ngƣời ấy sẽ trở thành mạch
nƣớc vọt đến sự sống đời
đời.“ (Gioan 4, 13-14)
Đói và khát là những đòi hỏi tự
nhiên và chính đáng của xác
thịt, vì nó liên quan đến sự
sống còn của xác thịt. Riêng
đối với loài người, cảm giác sợ
thiếu (peur de manque) cũng
đủ làm cho con người đặc biệt
quan tâm chú ý đến: Con
ngƣời có thể lăn xả vào nhau
để giành giật một cách điên
cuồng và để chiếm lấy của ăn,
vật dụng tiêu xài, gom góp của
cải, hƣởng thụ một cách tối
đa,... theo những ước muốn
cấp kỳ của mình. Ngoài ra,
cảm giác sợ thiếu còn có ảnh
hƣởng trên một nhóm ngƣời
h a y m ộ t đ á m đ ô n g
(collectivement) trong những
cuộc chiến đổ máu với mục
đích cuối cùng là thỏa mãn cái
sợ thiếu của họ.
Chúa Giêsu, trƣớc cám dỗ của
ma quỷ (Mt 4, 3-4), Ngài
không chùng bƣớc vì những
đòi hỏi của xác thịt (đói),
nhƣng trái lại, Ngài để ƣu tiên
cho lời nói, cho sự trao đổi và
cảm thông (lời từ miệng Thiên-
Chúa phán ra). Chúa Giêsu
không đặt nặng trên cái đói,
không vì muốn chê bỏ hƣơng
vị và ích lợi của thức ăn,
nhƣng Ngài muốn nhấn mạnh
rằng: trƣớc miếng ăn, con
ngƣời phải chú trọng đến sự
chia sẻ, cảm thông và tƣơng
trợ.
Thật vậy, một bữa ăn sẽ mang
tính ngƣời nếu ngƣời ta không
lăn xả vào giành giật lấy thức
ăn để thỏa mãn cho riêng
mình, nhƣng là dịp để chia sẻ
miếng ăn, chia sẻ lời nói và là
nơi để gặp g“giữa ngƣời với
ngƣời. Nói cách khác, con
ngƣời sẽ mang trọn tính ngƣời
nếu con ngƣời làm chủ đƣợc
những đòi hỏi của xác thịt qua
những ƣớc muốn, qua lời nói,
và qua quan hệ giữa ngƣời với
ngƣời.
„Ai uống một lần nước của Ta
ban cho sẽ không bao giờ khát
nữa, vì nƣớc Ta ban cho ai thì
nơi ngƣời ấy sẽ trở thành mạch
nƣớc vọt đến sự sống đời
đời.“ : Nước của Chúa Giêsu
ban cho không chảy thấp tầm
thƣờng, những ai đã một lần
đón lấy nước này sẽ trở nên
mạch nƣớc vọt lên ! Phải
chăng làm chủ xác thịt, biết
dẹp bỏ những ƣớc muốn thấp
hèn của mình chính là trách
nhiệm của mỗi ngƣời trong
việc hoàn tất công trình tạo
dựng của Thiên Chúa, và tiến
đến làm con Thiên Chúa thật
sự...
4- Cách lựa chọn thứ ba của
Chúa Giêsu:
„... Chính để phán xét mà Ta
đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ
không thấy thì đƣợc thấy, và
kẻ thấy đƣợc lại hóa đui mù...
Nếu các ngƣơi mù, thì các
ngƣơi đã không mắc tội, nhƣng
vì các ngƣơi nói: chúng tôi
xem thấy, nên tội các ngƣơi
vẫn còn.“ (Gioan 9, 39 & 41)
Ngƣời không thấy thì đƣợc
thấy, vì đó là chuyện thƣờng
tình: Chúa Giêsu đến thế gian
cứu lấy họ. Nhƣng ở đây, tại
sao ngƣời thấy đƣợc lại hóa
đui mù?
Điều chắc chắn ở đây, Chúa
Giêsu không muốn ai bị đui
mù hết! Nhƣng họ tự làm cho
họ đui mù, vì họ không chấp
nhận việc làm của Chúa Giêsu,
không muốn chấp nhận sự thật.
Vì khi chấp nhận việc làm của
Chúa Giêsu, có nghĩa là họ
phải chấp nhận Chúa Giêsu
làm Thầy của họ (Gioan 9, 27),
và họ phải chấp nhận để cho
dân chúng nghe theo lời Chúa
Giêsu (Gioan 9, 22): tự ái, kiêu
Linh Thao Trang 49
Trang 50 Linh Thao
ngạo, quyền lực, quyền lợi...
của họ sẽ bị tan biến theo.
Cái giá phải trả cho sự ích kỷ,
tự ái, quyền lực và quyền lợi
bất chính... là cúi mình tuân
theo quyền lực của ma quỷ
(Mathiêu 4, 9). Do đó, trong
đoạn Phúc Âm của thánh
Gioan, chúng ta thấy: cha mẹ
có thể từ bỏ và không bênh
vực con chỉ vì quyền lợi cá
nhân, các biệt phái thiếu điều
muốn giết đi ngƣời mù đƣợc
chữa lành chỉ vì không cho dân
chúng biết sự thật về Chúa
Giêsu. Chúa Giêsu, trong sự tự
do của Ngài, đã quay mặt từ
chối tôn thờ sức mạnh (tôn thờ
ma quỷ) để nhấn mạnh là : chỉ
riêng có Thiên Chúa là Đấng
duy nhất để chúng ta tôn thờ,
và không một ngƣời nào có
quyền quyết định số phận của
ngƣời anh em mình (ngƣời
khác).
Chúa Giêsu, qua hành động
vƣợt thắng cám dỗ này, Ngài
hạ bệ mọi quyền lực của sức
mạnh, dẹp bỏ mọi vũ lực.
Chính bản thân của Ngài, Ngài
bƣớc vào đời bằng đôi bàn tay
trắng, nghèo khó và yếu đuối
nhƣ mọi con ngƣời khác.
Vì vậy, sống bình đẳng nhƣ
anh em một nhà, và sống hoà
hợp với mọi ngƣời không tìm
cách khống chế, là một cách
sống mà Thiên Chúa mời gọi
chúng ta cùng sống. Do đó,
ƣớc muốn của chúng ta không
bao giờ đƣợc đƣợm tính ích
kỷ, kiêu ngạo, tìm lấy quyền
lợi và quyền lực hơn những
ngƣời anh em của chúng ta.
Hãy tự nhủ mình: chúng ta có
nợ yêu thƣơng với mỗi ngƣời
mà chúng ta có dịp tiếp xúc
đến... Và chỉ có Thiên Chúa
mới có quyền tỏ ra uy lực của
Ngài. Đó chính là một đời
sống sáng suốt!
5- Cách lựa chọn thứ tư của
Chúa Giêsu:
Chúng ta nhìn về cuộc khổ nạn
của Chúa Giêsu, chắc chắn
chúng ta sẽ có dịp đặt câu hỏi
về cái chết của con ngƣời, và ý
nghĩa của nó.
Câu hỏi của mỗi ngƣời chắc
chắn sẽ hơi khác nhau, nhƣng
không qua khỏi 2 câu hỏi sau
đây: Tôi là một người đang
sống để đi đến cái chết, hay là
một xác phàm tục này sẽ mục
nát để đi đến cái sống ? (Suis-
je un être vivant dont l‟horizon
est la mort ou un être mortel
dont l‟horizon est la vie?)
Trong phần đầu tiên của câu
hỏi, chúng ta thấy rõ ràng là
ƣớc muốn của chúng ta bị giới
hạn bởi cái chết: vì khi cái chết
đến, nó chấm dứt mọi ước
muốn. Còn phần thứ hai của
câu hỏi, chúng ta thấy rằng:
ƣớc muốn của chúng ta vẫn
còn tiếp tục sau cái chết. Đặc
biệt hơn nữa, sau cái chết, ƣớc
muốn của chúng ta còn đạt
được chiều kích rộng lớn hơn
(chiều kích thực của nó! ).
Chúng ta đã nhìn đƣợc gƣơng
của Chúa Giêsu trƣớc 3 cơn
cám dỗ trong sa mạc. Bây giờ
chúng ta suy nghĩ về cách lựa
chọn thứ tƣ của Chúa Giêsu,
và cũng là sự lựa chọn cao vời
nhất: đó là biết mang cái ƣớc
muốn của mình xuyên qua và
thoát qua cái chết (porter le
désir à travers et au-delà de la
mort).
„Porter le désir à travers et au
-delà de la mort“, đó chính là
tâm tình của Chúa Giêsu trong
cuộc Thƣơng Khó của Ngài.
Chúng ta hãy tập mặc lấy tâm
tình này và chiêm niệm cuộc
Thƣơng Khó một lần nữa, chắc
chắn chúng ta sẽ nhìn Chúa
Giêsu với một con mắt khác,
và chúng ta sẽ hiểu rõ hơn mầu
nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh
của Ngài...
Cụ thể trong đời sống của mỗi
ngƣời trong chúng ta: việc
„porter le désir à travers et au-
delà de la mort“ chính là việc
sống trọn vẹn và đúng ơn kêu
gọi của mỗi ngƣời. Vì chắc
chắn khi sống trọn vẹn ơn kêu
gọi của mình, sẽ có những lúc
chúng ta phải trải qua cuộc
thƣơng khó. Và khi vƣợt qua
được nó, đó là lúc chúng ta
góp phần vào công cuộc Cứu
Độ của Chúa Giêsu…
Lạy Cha, xin cho con luôn biết
lắng nghe lời Con của Cha dạy
bảo và cho con biết can đảm
quyết định, cùng thực hiện
những lựa chọn trong đời sống.
NTH
Linh Thao Trang 51
rong một tỉnh nhỏ t ạ i
Việt Nam, có gia đình kia,
khá giả, đƣợc nhiều ngƣời kính
nể. Họ rất sùng đạo, ngoài việc
đi tham dự thánh lễ ngày Chủ
Nhật, và còn đi lễ mỗi ngày.
Họ có 5 ngƣời con: 4 trai và cô
gái út.
Ngƣời cha nghiêm khắc và thủ
cựu, bà mẹ vui vẻ, hoạt bát.
Mấy ngƣời con, ngoài việc học
luôn giúp đỡ gia đình. Đặc biệt
gia đình họ rất sốt sắng giúp
Giáo Xứ khi cần đến. Cô gái út
giúp Cha xứ hƣớng dẫn các
thiếu nhi cùng với những
huynh trƣởng khác, cô xinh
đẹp, dịu dàng, đạo đức nên
được nhiều người thương mến.
Mẹ cô thƣơng yêu chìu chuộng
săn sóc cô luôn, mặc dù cô đã
18 tuổi. Trái lại cha cô hay
kiểm soát cấm đoán cô. Vì ông
sợ tai tiếng, ông luôn nhắc nhở
các con gìn giữ phong tục, tập
quán, đạo đức... Ông có vẻ
nghiêng về 4 ngƣời con trai
hơn. Chính vì vậy, bà mẹ càng
bênh vực bao che cho cô út, có
khi còn đồng lõa nữa. Đối với
ngƣời cha, ông cho con trai là
quan trọng, là con mình, con
gái là con của ngƣời ta. Ông ta
thƣờng nói: "Nhất nam viết
hữu, thập nữ viết vô". Mỗi lần
nghe nhƣ vậy cô buồn lắm, cô
ít thân mật với cha, tuy thƣơng
cha rất nhiều nhƣng cô lại giữ
khoảng cách với cha. Có việc
gì cô hay trình bày với mẹ,
riêng với cha, cô không hề
dám nói.
Trong xứ đạo có vị linh mục
tuổi chừng 30, ông hiền lành
nhƣ con gái, nụ cƣời lúc nào
cũng nở trên môi, nếu không
có chiếc áo dòng, chắc không
ai biết ông là linh mục mà chỉ
nghĩ rằng đây là cậu thƣ sinh
mà thôi. Ông cũng sinh hoạt
hăng say với các thiếu nhi và
huynh trƣởng, mọi việc rất êm
đềm, vui vẻ. Thỉnh thoảng, vị
Linh Mục này cùng với huynh
trƣởng tổ chức cắm trại cho
các em thiếu nhi trong vƣờn
cây lớn của những tƣ nhân
giàu có, với những trò chơi vui
cƣời, sống động, dẫn vào học
hỏi Thánh Kinh.
Sau những lần sinh hoạt thiếu
nhi hay cắm trại, cô út thƣờng
kể cho mẹ nghe những chuyện
vui buồn. Nhƣng lần này, bà để
ý thấy con gái của bà không kể
cho bà nghe những chuyện
sinh hoạt, những trò chơi cƣời
bò nhƣ lúc trƣớc. Trái lại, bà
thấy cô đăm chiêu, suy nghĩ,
cô ít cƣỡi giỡn nhƣ lúc trƣớc,
cô thích ngồi một mình, thẫn
thờ, mỗi lần bà mẹ đến gần hỏi
thăm thì thấy cô có vẻ bối rối.
Từ lúc đó cô thƣờng ở trong
phòng hơn ra ngoài. Vài tuần
sau, cô bắt đầu biếng ăn, con
ngƣời ốm yếu, gƣơng mặt nhƣ
mất hồn, mắt quầng thâm mất
ngủ. Mẹ cô lo lắng, đƣa cô đi
bác sĩ, cô không có bệnh gì, cô
chỉ mệt mỏi, thiếu máu, không
trầm trọng. Từ lúc đi cắm trại
về, cô thay đổi khác thƣờng.
Cô thƣờng thở dài thất vọng
sau mỗi lần đi lễ về. Rồi cô bỏ
không đi sinh hoạt thiếu nhi,
mấy huynh trƣởng đến thăm
nhà cô, họ ngạc nhiên vô cùng.
Nhìn cô héo hắt, tàn tạ, nằm
liệt giƣờng. Hình ảnh cô thiếu
nữ xinh xắn, duyên dáng, tháo
vát không còn nữa, chỉ còn
thân xác gầy ốm, xanh xao,
bao nhiêu bác sĩ lắc đầu, bó tay
vì tìm không ra căn bịnh. Mọi
ngƣời trong gia đình lo lắng và
thất vọng về tình trạng sức
khoẻ của cô. Sau cùng cô nói
với cha mẹ và các anh cho cô
gặp vị Linh Mục để xƣng tội,
lập tức mọi ngƣời làm theo ý
cô. Khi vị Linh Mục đến để
giải tội, cha mẹ và các anh cô
tụ họp trong phòng khách cầu
nguyện cho cô. Nhƣng mọi
ngƣời đều thắc mắc, tại sao cô
xƣng tội mấy tiếng đồng hồ.
Sau khi vị Linh Mục ra về, lạ
lùng thay cô gái tỉnh hẳn, vui
cƣời nhƣ vừa uống thuốc tiên.
Một tuần sau, cô tiếp tục đi
học và sinh hoạt thiếu nhi trở
lại.
Thời gian nhƣ vậy gần một
năm. Một hôm, gần đến ngày
hẹn đi cắm trại thì vị linh mục
này đi vắng, không ai biết ông
đi đâu? Ngày này sang ngày
nọ, hỏi nhau, ai cũng không
biết và có vị linh mục khác đến
làm lễ, trông coi Giáo Xứ. Từ
đó, giáo dân bắt đầu xầm xì,
bàn tán, nghi ngờ, họ đƣa ra
giả thuyết này, nghi vấn kia,
cuối cùng không ai biết linh
mục này đi đâu? Tại sao ông ra
đi không một lời từ giã?
Sự ra đi không một lời từ giã
của vị linh mục trẻ làm cho
những ngƣời phụ tá cũng nhƣ
những huynh trƣởng đều đau
buồn, thƣơng mến. Riêng cô út
không đến giáo xứ nữa, cô bỏ
học luôn. Một ngày kia, cô xin
phép cha mẹ, các anh lên Sài
Gòn học buôn bán với dì
dƣợng. Dì dƣợng của cô có
tiệm buôn khá lớn. Khi nghe
cô có ý định nhƣ vậy, cha mẹ
và các anh nhất định không
cho. Nhƣng cô ráng thuyết
phục, nài nỉ, van xin mỗi ngày.
Thấy cô nhất quyết chọn nghề
thƣơng mại, cha mẹ, các anh
cũng đành chìu. Rồi cô lên Sài
Gòn ở. Dì dƣợng có một hãng
buôn lớn, nên cô có nhiều việc
để làm: Phụ giúp, học hỏi, cô
cũng đƣợc dì dƣợng trả lƣơng
khá cao, mỗi tháng cô đều về
thăm cha mẹ. Mọi việc đều đặn
nhƣ vậy, những ngƣời làm của
các hãng khác cô cũng đƣợc
quen biết qua những lần đặt
hàng. Dần dần cô có rất nhiều
bạn, thỉnh thoảng dì dƣợng cho
phép cô đi dự sinh nhật bạn bè,
và thƣờng ngủ qua đêm với các
bạn.
Nhƣ thƣờng lệ, cuối tháng cô
xin phép dì dƣợng về quê thăm
gia đình. Lần này, cô đi lâu
hơn những lần trƣớc, dì cô
nóng ruột vô phòng xem, mở
tủ ra, thì hỡi ơi quần áo và
những đồ cá nhân cô đã mang
theo tất cả. Dì kiếm thấy lá thƣ
để lại cho cha mẹ, các anh và
dì dƣợng, cô đã làm phiền mọi
ngƣời vì quá lo lắng cho cô.
Bây giờ cô phải rời khỏi mọi
ngƣời để sống cho hạnh phúc
và lý tƣởng của cô, xin mọi
ngƣời đừng báo cảnh sát vì nơi
cô ở rất an toàn và êm đềm.
Đọc thư của cô út xong, bà dì
về ngay gia đình của cô út và
đưa lá thư này cho gia đình cô
xem. Đọc thƣ xong, cha mẹ và
các anh khóc nhƣ đám ma của
cô vậy. Mọi ngƣời không ai
hiểu tại sao cô làm nhƣ thế?
Theo ai? Ở đâu? Sống nhƣ thế
nào? Gia đình của cô bắt đầu
sóng gió, cha cô cứ trách mắng
mẹ cô, các anh cô thì hăm doạ
những ai là ngƣời quyến dụ cô.
Gia đình của cô không còn êm
đềm, không còn những bữa
cơm chung, những lời nói nặng
nhẹ lẫn nhau, giông bão lớn
đang làm sụp đổ hạnh phúc
trong gia đình, trong từng cá
nhân. Gia đình của cô dấu
chuyện này với họ hàng, với
ngƣời chung quanh, nhƣng rồi
ai cũng biết tin con gái út của
ông bà đại điền chủ đã bỏ nhà
theo trai. Chuyện này thật nhục
nhã cho gia đình gia giáo và
thủ cựu của cha cô. Bây giờ,
ông không còn nhƣ xƣa, không
ăn mặc sang trọng đi dự tiệc
này, tiệc nọ nhƣ trƣớc đây,
tiếng nói của ông không còn
nữa, ông thu mình trong nhà.
Mọi công việc có mẹ và các
anh của cô lo.
Thời gian từ từ trôi qua, các
anh cũng có vợ, có con. Cái
đau khổ, buồn bã, bị người đời
chê trách tƣởng nhƣ đã làm tê
liệt mỗi ngƣời, nhƣng bây giờ
họ đã tỉnh dần lại. Sau khi
những đứa cháu nội kháu
khỉnh ra đời, gia đình cô bắt
đầu có tiếng cười, tiếng khóc
của trẻ thơ, những bận bịu, lo
lắng đã làm cho chuyện cô út
đươc lắng đọng xuống.
Gần 7 năm sau, bây giờ cũng
đến ngày mùa trăng sáng,
những tá điền gặt lúa mang về
góp lúa cho điền chủ, tiếng giã
gạo, tiếng chày khua, những
tiếng cƣời, tiếng nói của những
ngƣời tá điền làm vui hẳn lên.
Từ tờ mờ sáng nghe tiếng hót
của những đàn chim, tiếng
xuồng ghe nhộn nhịp làm cho
gia đình cô út sống lại. Vì bao
nhiêu năm, từ ngày cô út bỏ
nhà ra đi, họ đã bỏ quên và ngủ
yên trong đau khổ. Một hôm cả
nhà quây quần bên mâm cơm,
đang vui vẻ trò chuyện thì
ngƣời đƣa thƣ tới. Ngƣời anh
cả ra nhận thƣ. Anh không lầm
đây là nét chữ của em gái
mình, anh mừng quá, cha mẹ
ra lệnh cho ngƣời anh đọc thƣ
này để cả nhà cùng nghe.
Bây giờ mọi ngƣời biết rõ, cô
đã có chồng và 4 con, đang ở
rất xa quê nhà. Cô xin mọi
ngƣời thƣơng mà tha thứ cho
cô. Cô muốn gặp cha mẹ, các
anh trƣớc khi cô lên bàn mổ.
Được tin cô út cả nhà đều
mừng, bà mẹ vừa mừng vừa lo
lắng cho cô nên bà khóc. Còn
cha của cô, lần đầu tiên mọi
ngƣời thấy ông quá xúc động
chảy nƣớc mắt. Thế là cha mẹ,
hai anh đi tìm cô. Họ đi từ
sáng sớm đến chiều tối mới tới
nơi cƣ ngụ của vợ chồng cô.
Đến nơi, cha mẹ và hai anh
đứng ngoài nhìn ngắm căn nhà
của cô, căn nhà nghèo nàn, đơn
sơ, chứ không nhƣ căn nhà cô
sống khi xƣa với gia đình. Họ
đứng trước nhà như vậy một
lúc rồi mới gõ cửa. Khi chồng
cô nhìn thấy có ngƣời liền
chạy ra mở cửa và chào đón.
Mẹ cô miệng lắp bắp không
biết nói gì, còn cha cô với 2
anh đứng ngó chết sửng nhƣ
trời trồng. Nghe tiếng mở cửa
và chào hỏi của chồng, cô bế
đứa nhỏ nhất đi ra, vừa thấy
cha mẹ, 2 anh, cô mừng phát
khóc, cô gào lên nhƣ chƣa bao
giờ đƣợc khóc. Thấy ngƣời lạ
đến nhà, mẹ thì gào khóc, bố
đứng yên, mấy đứa bé quá sợ
nắm chặt tay bố, mắt ngơ ngác
nhìn ngƣời này đến ngƣời
khác. Qua những giây phút xúc
động như vậy, vợ chồng cô
mời mọi ngƣời vào nhà. Cha
mẹ và hai anh tƣởng nhƣ vừa
trải qua một cơn mê. Trƣớc
Trang 52 Linh Thao
mặt họ, chồng của cô út là vị
linh mục trẻ ngày nào, bây giờ
là con, là em rể trong gia đình.
Cách xƣng hô bây giờ khó quá.
Từ bấy lâu nay dƣ luận xôn
xao, họ xì xầm, bàn tán đến tai
ông bà, các anh, nhƣng họ
không tin, ngày nay sự thật đã
rõ ràng.
Bảy năm trƣớc đây, mỗi lần
gặp vị Linh Mục này, cha mẹ,
các anh của cô út cung kính
mỗi điều là cha xƣng con quá
quen thuộc. Giờ đây, gặp lại
cha mẹ, các anh của cô làm ông
ta sợ sệt, khúm núm. Suốt buổi
trò chuyện thật ngƣợng ngùng,
họ sống với nhau đã có 4 đứa
con, bây giờ trƣớc mặt những
ngƣời trong gia đình của vợ,
ông không biết phải làm sao,
qua lời nói, cử chỉ thật vụng về.
Ở đƣợc 2 ngày thì bầu không
khí thân mật hơn, đỡ vụng về,
ngƣợng ngập nhƣ lúc đầu. Nhìn
các cháu xinh đẹp, dễ thƣơng,
ngây thơ làm cha mẹ, hai anh
cũng hết giận.Chồng cô đƣa
cha và 2 anh ra ngoài uống cà
phê. Mẹ tìm cách ở nhà tâm
tình, trò chuyện với con út,
thừa dịp này mẹ cô dỗ dành
khuyên cô kể cho bà nghe hết
sự thật tại sao có ngày hôm
nay.
Trong giây phút im lặng, cô
vừa kể vừa khóc: Năm cô 17
tuổi, cha cô hay cấm đoán, rầy
la, khắt khe với cô, mỗi lần cô
đi sinh hoạt về thì cô thường
khóc. Cô đến tâm sự với vị linh
mục này, cô đƣợc an ủi, dỗ
dành, trong những lời nói ngọt
ngào, êm dịu. Qua những cử
chỉ nhẹ nhàng, đặt tay trên vai
cô rất là thƣơng mến, đặc biệt
là ánh mắt hiền từ của ông đã
làm cho cô thƣơng ông nhiều
hơn, cô thƣờng so sánh ông và
cha của cô, cha cô chƣa hề có
những lời nói với những cử chỉ
này. Cô thèm khát sự an ủi, dìu
dắt, nâng đỡ của ngƣời cha
nhƣng chƣa bao giờ đƣợc. Vì
thế, cô cảm thấy cô gần gũi với
vị Linh Mục này hơn cha của
cô. Trong tình thƣơng đó với
những lần sinh hoạt chung, làm
tình thƣơng gia tăng, cô bắt đầu
mơ mộng có ngƣời chồng
giống ông. Với ƣớc mơ khát
khao đó, cô hay ngủ mơ thấy đi
bên cạnh ông, đƣợc ông âu
yếm, trìu mến hôn nhau đắm
đuối như người tình. Nên từ đó,
mỗi ngày cô phải đến Giáo Xứ,
cha mẹ, các anh tƣởng cô
ngoan ngoãn, nhƣng sự thật cô
muốn nhìn vị linh mục mỗi
ngày. Cô đã yêu ông ta lúc nào
không biết, cô yêu thật nhiều.
Trong lòng luôn ngấm ngầm
nghĩ ông ta phải là của riêng
mình. Có một hôm, cũng nhƣ
những lần trƣớc tổ chức đi cấm
trại trong vƣờn cây. Vào vƣờn
thấy trái cây chín, xum xê, mọi
ngƣời mê mệt nhìn ngắm. Lợi
dụng cơ hội này cô đƣa vị linh
mục đi xa ra vƣờn, cô nhìn
quanh không thấy ai, cô làm bộ
té ngã, đứng lên không nổi, vị
Linh Thao Trang 53
linh mục buộc lòng phải dìu cô
đứng lên, cơ hội đã đến, cô vội
ôm chầm lấy ông hôn tới tấp.
Vì quá bất ngờ, ông ta không
kịp phản ứng, ông xô nhẹ cô
ra, lúc đó nhìn ông thật bối rối,
thế là ông ta đi nhanh vào chỗ
các huynh trƣởng đang cắm
lều. Tâm trạng của cô lúc đó
nửa tỉnh nửa mê thêm sự thẹn
thùng. Suốt buổi cắm trại cô
cảm thấy không đƣợc bình an.
Sau chuyến cắm trại đó, ông ta
tìm cách tránh né cô, cô buồn,
suy nghĩ nhiều làm cô mất ngủ,
thất vọng, bỏ học, bỏ ăn, bỏ
uống, tình yêu thầm kín đã ngự
trị trong lòng cô, thế là cô bị
bệnh tƣơng tƣ.
Một hôm, vì quá nhớ thƣơng vị
linh mục, nên cô xin đƣợc gặp
để xưng tội và xức dầu. Trong
lúc cô bệnh nặng muốn xƣng
tội và xức dầu nên vị linh mục
trẻ này không thể tránh né
được nữa. Ông phải đến giải
tội cho cô. Trong mấy tiếng
đồng hồ, thay vì xưng tội thì cô
tâm sự, cô tha thiết yêu thƣơng
ông, nếu không có ông chắc cô
không sống nổi, cô nói thao
thao bất tuyệt, ông ta chỉ ngồi
yên. Sau cùng, ông xin phép ra
về. Ông vuốt nhẹ tóc cô, chúc
cô mau bình phục. Chỉ có vậy
thôi mà cô tỉnh hẳn, thấy yêu
đời trở lại.
Sau khi hết bệnh, cô trở lại
sinh hoạt bình thƣờng, có lần
cha mẹ cô lên Sài Gòn thăm dì
dƣợng mấy ngày, cô đến Giáo
Xứ gặp riêng vị Linh mục. Lần
đó, vị Linh mục bị sa ngã vì
cô, rồi ông tìm cách đi xa, cởi
áo dòng để ẩn náu. Khi biết
ông cởi áo dòng đi xa, lòng cô
đau đớn vô cùng, tuyệt vọng,
chán chƣờng. Cô dứt khoát
nghỉ học để về Sài Gòn phụ
giúp dì dƣợng, cô hy vọng với
công việc mới sẽ giúp cô quên
vết thƣơng lòng đang rỉ máu. Ở
đây, cô cũng quen những
ngƣời bạn mới, những con
đường mới, những quán ăn
mới. Có lần cô xin phép dì
dƣợng đƣợc tiễn chân ngƣời
bạn gái ra bến xe Miền Đông.
Định mệnh xui khiến cô gặp
lại vị linh mục này. Ông ta
cũng nhƣ ngày nào, nét hiền
hòa, thƣ sinh dƣới đôi kính
trắng. Hai ngƣời cùng một lúc
trông thấy nhau, họ vội vàng
ôm nhau mừng rỡ, quên hết
những ngƣời chung quanh
đang nhìn họ. Lần này cô cảm
thấy tình yêu của cô đang bừng
cháy mãnh liệt, ông ta cũng
nhìn cô tha thiết.
Họ đƣa nhau vào quán nƣớc,
trò chuyện với nhau. Ông ta
nói, từ đêm ông bị sa ngã, bị
lôi cuốn vào sự đam mê, khi
tỉnh lại, ông luôn mặc cảm tội
lỗi. Trƣớc mặt Chúa, ông cảm
nhận con ngƣời của ông không
xứng đáng, lƣơng tâm dày vò,
đau khổ. Ông quyết định cởi
áo dòng, đi xa hầu quên hết
mọi sự. Ông cố tình đi xa để
không ai biết ông. Thế rồi, ông
đọc báo thấy ở trường tư thục
đang cần có giáo sư dạy toán
lý hoá, ông đến đó xin dạy học.
Lúc đầu họ trả lƣơng rất ít
nhƣng qua mấy tháng, họ nhận
thấy ông dạy giỏi, siêng năng,
cần mẫn, họ tăng lƣơng rất cao
để cố ý giữ chân ông lại. Ông ở
trọ trong căn nhà nhỏ cách Sài
Gòn mấy chục cây số. Hôm
nay, ông đi thăm một đứa học
trò bịnh nặng đang nằm bệnh
viện.
Còn cô út, từ lúc linh mục bỏ
đi, cô không còn tham vọng
nào nữa, bỏ tất cả để lên Sài
Gòn tìm quên lãng trong
những công việc buôn bán...
Hai ngƣời tâm sự đến đây thì
phải chia tay để trở về với bổn
phận của mình. Lần này, ông
ta không còn chạy trốn cô nữa
mà cho cô ta địa chỉ, hy vọng
gặp lại nhau.
Trở về nhà dì dƣợng, cô cảm
thấy lòng nôn nao, chao đảo,
tình yêu thúc đẩy cô dữ dội. Cô
sẽ đến địa chỉ này. Bây giờ cô
có tiền, có tự do hơn lúc sống
với cha mẹ, các anh. Cô đợi
đến cuối tuần, xin phép dì
dƣợng, cô nói dối đi ăn hỏi của
ngƣời bạn ở xa, phải ngủ lại
qua đêm. Thế là trƣa thứ bảy
đó, cô đã ở bên cạnh người cô
yêu quí, lúc này họ không thể
nào xa nhau nữa, họ quyết tâm
sống bên nhau. Chiều chủ nhật
đã đến, họ thật đau lòng vì
phải chia tay. Họ thề hứa với
nhau, dù trong hoàn cảnh nào
cũng phải có nhau bên cạnh.
Sau chuyến đi này, cô út thu
xếp mọi việc, áo quần gói gọn
lại, viết lá thƣ sẵn, cuối tháng
Trang 54 Linh Thao
cô nói về quê thăm cha mẹ là đi
luôn.
Bà mẹ nghe con gái kể chuyện
mà giật mình, bà không ngờ
con gái của bà thùy mị, đoan
trang, hiền lành mà dám làm
những việc tày trời nhƣ vậy.
Rồi cô kể tiếp, từ tháng đó cô
đã trở thành vợ của vị linh mục
này, cô đƣợc đi dạy học chung,
với số lƣơng của hai ngƣời
cuộc sống đƣợc dƣ giả. Khi cô
có con, cô phải mƣớn căn nhà
đang ở đây và nghỉ dạy học để
chăm sóc cho con. Vợ chồng
cô rất hạnh phúc. Nhƣng có
một điều lạ, nếu có tiền, con bị
bệnh, vợ chồng thay phiên
bệnh, nên lâm vào cảnh túng
thiếu. Tới khi sanh đứa con thứ
4, bác sĩ cho biết cô bị bứu nên
phải mổ. Cô đang chần chừ, lo
sợ, không biết bứu lành hay
bứu dữ, nếu có mệnh hệ nào,
cô bỏ lại chồng và 4 đứa con,
còn cha mẹ, các anh nữa. Nghĩ
đến cha mẹ, các anh, cô thấy
mình quá bất hiếu, tệ bạc. Sau
nhiều ngày suy nghĩ, cô quyết
định viết thư về cho cha mẹ,
các anh. Cô cũng tự nghĩ, vợ
chồng cô không thể nào sống
trong bóng tối hoài đƣợc. Ngày
nay, cô gặp lại cha mẹ, các anh,
cô chỉ biết khóc lóc xin lỗi thôi.
Qua câu chuyện tình của con
gái út, bà mẹ nhận thấy tất cả
tội lỗi do con của bà gây nên,
bà cảm thấy lạnh cả ngƣời, chỉ
vì yêu, mà tìm đủ mọi cách
chiếm đoạt, một ngƣời con gái
nhỏ bé mà dám làm điều mƣu
kế quỷ quyệt nhƣ vậy. Biết đâu
con của bà đang bị hình phạt,
bà cố yên ủi cô để cô đƣợc yên
tâm. Sau đó cha mẹ và hai anh
ra về, gom góp tiền bạc, thu
xếp mọi công việc rồi đƣa cô
lên Sài Gòn mổ. May mắn cho
cô, cô gặp bứu lành nên không
nguy hiểm gì đến tánh mạng.
Khi về nhà, cha mẹ họp các
anh lại để bàn việc đƣa cô út về
sống với gia đình. Lúc đầu mới
về sống chung không có gì xảy
ra. Nhƣng lâu dần cũng phải va
chạm, chị dâu, em chồng, cháu
nội, cháu ngoại, nên không khí
bắt đầu khó thở. Cha mẹ, các
anh đồng ý chia cho cô mấy
công ruộng, mấy công rẫy, cất
cho cô một căn nhà, một chiếc
ghe và một số vốn. Lúc này vợ
chồng cô bắt đầu làm quen với
việc đồng áng. Cô chỉ lo săn
sóc con cái và công việc nấu
nƣớng. Chồng cô cũng không
biết gì về ruộng rẫy, các anh
phải lo phụ và mƣớn thêm
ngƣời làm. Hết mùa lúa thì
phải làm rẫy, giăng câu, bắt
cá... Cứ đêm chồng cô giăng
câu, bắt cá, sáng sớm cô phải
mang cá ra chợ bán. Đáng lẽ
cuộc sống êm ấm, dƣ giả.
Nhƣng trái lại, mấy đứa con,
hết đứa này bệnh đến đứa kia,
vừa cực khổ, vừa không có
tiền. Nói chung nếu có tiền là
có chuyện, đầu tắt, mặt tối suốt
ngày. Một hôm, cô đang ngồi
bán cá ở chợ, thì gặp lại ngƣời
bạn học cũ, hai ngƣời quá
mừng vui, cô nhìn thấy bạn ăn
mặc sang trọng, lộng lẫy, còn
cô mặc chiếc áo bà ba tầm
thƣờng, cô thấy buồn cho số
phận. Ngƣời bạn này lên tiếng:
"Trời ơi! Bạn trẻ, đẹp nhƣ thế
này mà phải ngồi chợ bán cá
sao? thật uổng cho bạn quá,
nếu bạn muốn thì mình sẽ giúp
bạn, giới thiệu cho bạn một
việc làm trên Sài Gòn với
mình”. Cô út ngần ngại từ chối
vì còn chồng và 4 đứa con. Cô
bạn nói tiếp, “không sao, bạn
có 4 đứa con, nhƣng bạn còn
quá trẻ, bạn đi làm thì có tiền
giúp thêm cho chồng con, chứ
đi làm thì bỏ chồng con sao!
Bạn đi làm, hằng tháng về thăm
chồng con là đƣợc rồi. Cơ hội
đến mà không nhận, để mất
đừng tiếc nhé! Cứ suy nghĩ kỹ
rồi liên lạc với tôi, tôi hứa giúp
bạn hết khả năng”.
Trên đƣờng về nhà, cô suy nghĩ
miên man. Bạn mình nói đúng,
tuy mình có 4 đứa con, nhƣng
mình còn quá trẻ, nhiều ngƣời
nói mình càng sanh con càng
đẹp. Tại sao lại không nghe
theo lời bạn của mình, làm thƣ
ký không sung sƣớng hơn ngồi
bán cá sao? Nhƣng lên Sài Gòn
mỗi tháng chỉ về một lần, xa
chồng, xa con buồn quá, nay
mấy đứa con lại bệnh hoạn
nữa. Nghĩ đến đây cô tủi thân
dơm dớm nƣớc mắt. Về đến
nhà, cô hỏi ý kiến cha mẹ, các
anh. Cha cô và các anh không
đồng ý, chỉ riêng mẹ cô là chấp
nhận vì đây là cơ hội tốt cho
cô, tuy xa nhà nhƣng bà muốn
con bà có cuộc sống vƣơn lên
với mọi ngƣời, chứ ở nhà cô
quá cực khổ. Còn chồng cô, khi
nghe cô ngỏ ý muốn đi làm xa,
chàng yên lặng, cúi đầu buồn
bã, chàng cảm thấy xấu hổ vì
không đủ sức bảo bọc, lo lắng
cho vợ con, nên ngày nay vợ
muốn đi làm xa nhƣ vậy. Ông
càng buồn bã hơn nữa, khi vợ
ông trẻ, đẹp, con nhà giàu, vì
ông mà phải sống cực khổ, lam
lũ, nghĩ vậy nên ông không
dám lấy quyền làm chồng mà
ngăn cản cô, ông cũng biết bản
thân của ông giờ đây quá tầm
thƣờng. Ngoài việc ruộng, rẫy,
giăng câu, bắt cá..., đến việc
trong nhà. Ông không dám đi
đâu, vì mặc cảm luôn đè nặng
lên ông. Những lúc cực khổ
qúa ngƣời vợ trẻ còn cằn nhằn
những lời nặng nhẹ, ông vẫn
câm nín, nhịn nhục. Ông biết
thân phận của ông trong lúc
này, nếu lên tiếng không cho cô
đi làm xa thì thế nào cũng có
chuyện, ông để mặc cho cô
quyết định, cuối cùng cô nhất
định đi Sài Gòn làm việc. Mẹ
hứa tiếp tay với chồng cô để lo
cho các con.
Linh Thao Trang 55
Thế là cô liền tới nhà ngƣời
bạn này mƣợn ít bộ quần áo
hợp thời trang đi làm. Lâu lắm
rồi cô mới đƣợc mặc những
chiếc áo xinh đẹp, đƣợc phấn
son, chải chuốt, nhìn vô
gƣơng, cô nhận thấy mình còn
trẻ và xinh đẹp lắm, có thể hấp
dẫn hơn xƣa nữa. Khi tới Sài
Gòn cô đƣợc ở chung vói mấy
ngƣời bạn, họ độc thân nên
cuộc sống nhộn nhịp vui lắm.
Sáng hôm sau, ngƣời bạn dẫn
cô tới gặp ông thƣơng gia
ngƣời Hoa. Trong khi chờ đợi
gặp ông, cô hồi hộp, lo sợ
không biết ông có nhận cô vào
làm việc hay không? Với công
việc trong nhà buôn cô không
lạ gì vì cô đã có thời gian làm
cho dì dƣợng rồi. Còn đang
suy nghĩ thì ông thƣơng gia
nhận ngay và không cần xem
hồ sơ, lý lịch,... Vì vừa trông
thấy cô, ông ta đã ngất ngây
trƣớc sắc đẹp của cô. Cô đƣợc
nhận làm thƣ ký riêng cho ông
và đƣợc nhận làm việc ngay
sau những ngày kế tiếp. Cô
quá mừng nhƣ vừa nhận đƣợc
phần thƣởng to lớn. Với số tiền
lƣơng cao, đƣợc ngồi văn
phòng, cô thật sung sƣớng. Rồi
nghĩ đến những ngày ngồi chợ
bán cá, cô thấy hãi hùng. Ông
Thƣơng Gia thấy cô làm việc
siêng năng, thông thạo, nói
năng hoạt bát, không bao lâu
mọi ngƣời trong hãng ai cũng
mến cô. Mỗi khi ông thƣơng
gia đi hội họp, giao tế, ông
cũng đều cho cô đi theo. Khi
ngồi trên xe có máy lạnh, có
tài xế lái, cô nghĩ lại những
ngày sống bên cạnh chồng, đi
đâu chỉ có chiếc xe đạp cũ kỹ
là quí lắm rồi.
Đi làm được 1 tháng với số
lƣơng đầu tiên lãnh đƣợc, đã
cao mà đƣợc ông chủ tặng
thêm nữa làm cô hết sức vui
mừng. Về quê thăm cha mẹ,
chồng con. Nghe cô kể, cô làm
nhiều tiền, đƣợc lòng ông chủ
nữa, chồng cô không vui, ông
lo sợ cho cô nhiều hơn. Chỉ vài
lần cô về nhà vui vẻ, chuyện
trò, rồi những lần về kế tiếp, cô
ăn mặc khác hẳn, kiếm chuyện
chê bai, so sánh, hằn học, to
tiếng, thái độ bất cần, dần dần
cô ít về nhà, tiếng đồn đã tới
tai gia đình, lúc này cô út đã
trở thành vợ bé của ông chủ
rồi. Thật là tiếng sét đánh vào
đầu của chồng cô, nhưng ông
cố bình tĩnh chờ cô về hỏi. Đến
khi cô về thăm nhà lần kế tiếp,
sau khi gia đình ăn uống vui
vẻ, chồng cô mới hỏi: Ngƣời ta
đồn cô đã trở thành bà chủ
hãng phải không? Cô trả lời:
"Đúng." Cô không có một chút
ngƣợng ngùng mà thật thản
nhiên, còn lớn tiếng để mọi
ngƣời nghe rõ: "Tôi nói cho
anh biết, anh hỏi tôi đúng lúc,
tôi đang quá chán chƣờng anh,
tôi thấy làm bé một ông lớn,
giàu có vẫn sung sƣớng, sang
trọng, hạnh phúc hơn làm lớn
một ông bé." Khi nghe cô nói
vậy, những ngƣời trong gia
đình rất đỗi kinh ngạc. Họ
không ngờ cô ta có thể nói lên
những lời nhƣ thế này, cô thay
đổi quá nhiều. Từ một thiếu nữ
hiền ngoan, đã thành ngƣời
đàn bà đanh đá, chua ngoa,
ngang ngƣợc. Còn ông chồng,
nghe cô thốt lên những lời nói
quá cay đắng, ông chết điếng
trong lòng, mặc dầu ông biết sẽ
có cái kết qủa này từ những
ngày gần đây..
Còn một mình với nỗi đau xé
lòng, ông ra ngồi bên thửa
ruộng, mắt hƣớng về một nơi
rất xa xăm. Ông thầm nghĩ:
Ngƣời đàn bà ghê gớm thật.
Khi họ yêu, họ hiền lành,
ngoan ngoãn nhƣ thiên thần,
nhƣng khi họ giận dữ, thay đổi
không khác gì ác quỉ. Ngày
qua ngày, ông ngồi trầm ngâm
trƣớc cánh đồng mênh mông.
Vào những đêm khuya, ông
không thể nào ngủ đƣợc, có lẽ
ông đang suy nghĩ rất nhiều, ai
ai tình cờ đi qua nhà ông đều
nghe tiếng máy hát rất êm dịu
với lời: ”Bỏ Ngài con đi với
ai? Vì Ngài có lời ban sự sống.
Bỏ Ngài thân con héo hon, đời
cô liêu trên chốn dƣơng gian.
Bỏ Ngài con đi với ai, đƣờng
xa lắc tƣơng lai mịt mờ, nào ai
dẫn con đi trên đƣờng dài? Bỏ
Ngài con đi với ai?.....” Và
ngọn đèn trong nhà cũng tắt
lịm khi tiếng hát của máy
chấm dứt.
Không bao lâu sau, ông đã rời
khỏi căn nhà đi biệt tích và cho
đến mùa Giáng Sinh năm nay,
ông có can đảm đón nhận đƣợc
Thiên Thần đã loan báo:
”VINH DANH THIÊN CHÚA
TRÊN TRỜI.
BÌNH AN DƢỚI THẾ CHO
NGƢỜI LÒNG NGAY.”
Đến bao giờ, Chúa Hài Đồng
mới đƣợc tới thăm ông và ông
có sẵn sàng đón Chúa vào nhà
để nhận được lời chúc phúc
của Chúa: "HÔM NAY NHÀ
NÀY ĐƢỢC ƠN CỨU ĐỘ."
Lệ Nga (Mùa Vọng 2005)
Trang 56 Linh Thao
Cha Jos. Phạm Thanh Liêm SJ, Thủ Đức,
Việt Nam: Cảm ơn cha về món quà rất qúy
giá. Món quà thật lợi ích cho cả đời thƣờng và
đời sống Đức Tin của không những riêng con
mà cả gia đình. Mỗi lần giở một cuốn sách là
một lần Tạ ơn Chúa và cảm ơn cha. Kính
Liêm và Kim Anh. USA: Anh Chị đã ca bài
„Xin vâng“ khi được Trưởng và Phó Phong
Trào Đồng Hành giao nhiệm vụ đại diện đến
chia buồn và tiễn đƣa anh Giuse Nguyễn Văn
Hóa, phu quân chị Phan Thị Hƣơng (trƣởng
Nhóm I Nhã/tại München, Đức) về với Chúa.
Cha Lê Quốc Tuấn SJ, USA: Cảm ơn cha
những lời chúc Tết tốt đẹp của cha – Sau lần
gặp cha ở Louisianna và Pensilvania đến nay
đã 5,6 năm trôi qua rồi – Qua cơn bão Katina
tàn phá không biết bây giờ New Orleanz đã
phục hồi lại nhƣ thế nào? Biết đến bao giờ thì
nơi này mới có lại ngày Đại Hội nhƣ xƣa?
Kính nhớ cha.
Soeur Quy Nazareth: Nhớ đến chị luôn trong
cầu nguyện, xin Chúa luôn ban bình an và sức
khoẻ để chị phụng sự Ngài mỗi ngày một tốt
đẹp hơn đúng như lý tưởng dâng hiến cả cuộc
đời theo Chúa – Hy vọng sẽ có dịp gặp lại chị
trên đất Thánh. Vẫn luôn hiệp lời cầu nguyện
Hòa Bình cho Đất Thánh - Cảm ơn chị về
những tình thƣơng chị dành cho gia đình
chúng em.Thƣơng nhiều.
Linh Thao Trang 57
HOA HỒNG DÂNG MẸ
Dâng lên Mẹ Thiên tòa
Những hƣơng nhụy hồng hoa
Lòng con vào hoan lạc
Tim con nhịp lời ca
Lời Mẹ sao êm nhẹ
Đã vào nhẹ hồn con
Uống lời yêu nhỏ nhẹ
Dịu nhẹ làn môi ngon
Trong chiều nay êm ả
Ô ! Sao hồn hả hê
Thánh nhan nhìn say mê
Có Mẹ là tất cả
Lũng hồn vùng tối đen
Mẹ đến ngàn ánh sang
Đời con mà khó hèn
Gần Mẹ giàu vô tận
Đời con không có Mẹ
Chỉ là biển máu lệ
Hạnh phúc giàu biết bao
Thừa hƣởng gia tài Mẹ
Mẹ chia sẻ cho con
Những tâm cảm màu son
Cả hào quang rực rỡ
Cả lộng lẫy hoa lòng
Mẹ bài ca tuyệt mỹ
Đêm con về chân lý
Con thấm mệt dặm đời
Mẹ tổ ấm an nghỉ
Lê Ngọc Hồ
Lệ Nga, München: Bài của em chị cho đi trong
số này, đợi những cảm nhận mới nhƣng không
thấy tăm hơi. Hôm ở München gặp nhau mà
không có chút thì giờ nào thăm hỏi một câu.
Tiếc qúa phải không Nga?
Cha Nguyễn Xuân Thu, CSSR, Đalạt: Đã
chuyển thƣ cảm ơn của cha đến các ân nhân ở
Đức và Canada về tiền giúp đỡ người Dân tộc
Thƣợng nghèo ở Tùng Lâm Cảm ơn cha về
những chia sẻ qua điện thoại. Kính.
Chị Hân Hân : Cảm ơn chị về những ân tình chị
đã dành cho chúng em và đặc biệt riêng cho Đặc
San Linh Thao. Kỳ này xin đi bài thơ và thƣ gởi
cha Thành của chị. Kính.
Các Soeur Hương, Cảnh, Ngời, Điểm, Oanh,
Rôma : Cảm ơn các chị rất nhiều về tình thương
các chị đã dành cho em trong ngày em thăm
viếng Rôma và lƣu trú trong Nhà Dòng Tre Fon-
tane. Luôn nhớ đến qúy chị trong cầu nguyện.
xin Chúa ban sự an vui, sức khoẻ cho qúy chị.
Thân kính.
Nhóm Tin Yêu Bỉ Quốc, Nhóm LT Anh
Quốc : Cảm ơn các bạn về qùa tặng càphê và
bánh ngọt trong dịp ghé thăm 2006 – Cho đến
bây giờ hƣơng thơm càphê Belgique vẫn còn
đượm trong hồn vì tình thương của các bạn ướp
trong đó mặn mòi quá - Hẹn gặp các bạn tại
Brüssels tháng 3/2007 để cùng các bạn chia sẻ
đức tin, và học hỏi thao luyện nhẹ nhàng.. Thân.
Thu Phong và anh chị em nhóm Lên Đường,
New Orleanz, USA: Đã thấy trong lịch trình
linh thao có khóa ở New Orleanz vào tháng
7/2007. Tạ ơn Chúa đã cho anh chị em ĐH ở đó
sớm ổn định. Chúng tôi vô cùng vui mừng và bái
phục ý chí quật cƣờng của ace. nhóm „Lên
Đường“. Hẹn gặp một ngày gần. Trong Thầy.
Cục Đất, New Mexico, USA: Biết người tài
đang bận cũng như đang bịnh nhưng vẫn thích
quấy rầy. Vì biết Cục Đất rất yêu thƣơng Thiên
Chúa, biết phó thác và biết tận dụng khả năng
của mình vào việc ca ngợi Thiên Chúa, nên đã
xin Cục Đất bài nhạc Đợi Chờ - và sẽ đi trong
Đặc San kỳ này để mọi người cùng ngân nga ca
tụng Hồng ân Chúa. Nguyện xin Chúa ban ơn
hồi phục sức khoẻ cho Cục Đất - Hẹn cùng Cục
Đất ngày nào đó ngồi trà đàm, và nghe bạn đờn
ca những nhạc khúc tôn vinh Thiên Chúa – rồi
sau đó cùng đánh một vài quả tennis cho vui
cuộc đời. Thân.
Cha FX. Nguyễn Thanh Hoài SJ. Thủ Đức
Việt Nam: Cha ơi, thật hết sức cảm kích và cảm
động khi cha đã tự tay nấu những món ăn đầy
tình quê hƣơng đãi khách bơ vơ trở về. Bữa cơm
thật vui bên cạnh những ngƣời tình cờ gặp, qua
sự sắp đặt của Chúa, cha nhỉ. Nhờ hai món canh
bí ngô, bí đao mà con hết bí ngõ, bí lối. Nhớ
„Hoài“ những lời cầu nguyện bên nhau trong
nhà thờ, thật đơn sơ mà thật qúy trọng. Khi ra về
lại còn đƣợc hái tặng một qủa „đào trƣờng sinh“
mà không „bất tử“ nữa chứ. Tạ ơn Chúa và cám
ơn cha. Kính.
Dương + Tuyết, Aachen, Đức Quốc: Anh chị
cho đi bài của em đăng trên tờ Mục Vụ vùng
Bắc Đức để kỷ niệm khóa „Linh Thao Gia
Đình“ của chúng mình. Các em không ngạc nhi-
ên chứ. Mến nhiều.
Nguyên Thi
Trang 58 Linh Thao
Khóa cuối tuần (ba ngày)
Mục đích :
1)- Dẫn anh em trên đường làm quen và kết
thân với Thiên Chúa:
- Biết nghe,túc cảm nhận các tiếng kêu mời, tác
động soi sáng của Chúa.
- Vƣợt qua những hiểu lầm về Thiên Chúa
(quan tòa, độc tài, khó tính…)
- Biết „thinh lặng“ và giá trị của thinh lặng.
- Biết „mở lòng“ tức là để những tâm tình thầm
kín nẩn nở lên để Thiên Chúa chữa lành vết
thƣơng, đƣợc Ngài tha thứ tội lỗi, mang lại
niềm vui và bình an đích thực đến chúng ta.
2)- Hiểu và cảm nhận giá trị cao qúy của loài
ngƣời và mục tiêu cuộc sống theo Thánh Ý
Chúa :
- Vƣợt qua mọi mặt cảm tự ti, chán nản, tội lỗi
và các vết thƣơng nội tâm từ qúa khứ.
- Tha thứ và mở lòng chấp nhận tha nhân.
- Yêu mến anh em, tin tƣởng họ, yêu đời và hy
vọng.
- Mong muốn giúp tha nhân.
3)- Hiểu và thực sự ăn năn trở lại với Chúa :
- Bỏ cuộc sống tội lỗi, ích kỷ, lầm lạc.
- Bỏ tham vọng thần tƣợng trong cuộc sống.
- Dấn thân và phục vụ tha nhân cách rộng rãi.
- Lắng nghe ơn gọi Chúa dành cho mình.
4)- Biết nhận định Thánh Ý Chúa :
- Phân biệt thần loại, hiểu những mánh khóe
giả dối của thần dữ (mang đến sự chết),
- và hƣơng vị hiền lành, ngay thẳng của thần
lành (dẫn đến sự sống).
5)- Biết đọc và cầu nguyện với Kinh Thánh,
trong các thánh lễ, trong Bí Tích Hòa Giải, qua
thánh ca, khi cầu nguyện bộc phát, hoặc viết
nhật ký, làm phút hồi tâm…
Khóa năm, tám ngày
Mục đích :
Muốn tiến xa hơn trên đƣờng kết thân và làm
đẹp lòng Thiên Chúa :
- Qúy mến tình bạn với Chúa Kitô.
- Muốn hiểu đƣờng lối Chúa khác đƣờng lối
ích kỷ của chính mình ở chỗ nào.
- Muốn có lòng “bình tâm” thực sự để qúy mến
Thiên Chúa trên hết mọi sự.
- Sẵn sàng thoát khỏi những ràng buộc nội tâm,
các thần tƣợng và mở lòng cho tình yêu Chúa.
- Muốn tìm hiểu ơn kêu gọi Chúa dành cho
chính mình và lựa chọn tƣơng lai. Những ai chỉ
muốn “tránh tội trọng” và “cứu linh hồn mình”
thôi, tức là chỉ muốn tuân theo các điều răn tối
thiểu, sống một cuộc “sống đạo đức” và bảo
đảm “bình an” tâm hồn, chưa sẵn sàng cấm
phòng 5 hay 8 ngày.
Điều kiện cần thiết để đi linh thao năm ngày
hay tám ngày :
Anh chị sẵn sàng cầu nguyện một cách đơn
giản :
- Biết cầu nguyện, xét mình, suy niệm Thánh
Kinh một mình.
- Biết làm thời khóa biểu thích hợp cho mình :
Giờ suy niệm, xét gẫm, thong dong…
- Muốn tập cảm nhận các tác động của Thiên
Chúa không có “nguyên do”, tức không dùng
những hình thức có thể gây cảm xúc thiêng
liêng.
- Muốn tập phân biệt thần loại tinh vi hơn, giữa
“tốt thiệt” (từ lúc bắt đầu và kết thúc trong
Thánh Ý Chúa) và “tốt giả” tức là tốt lúc ban
đầu mà kết thúc ngoài Thánh Ý Chúa).
Đối với các anh chị này, thinh lặng không còn
là vấn đề. Ngƣợc lại, họ đi tìm thinh lặng hoàn
toàn và lâu dài nhƣ điều kiện cần thiết để đạt tới
các kết quả trên. Các anh chị cảm thấy Chúa
Kitô thu hút ngày càng nhiều.
- muốn nghe và đáp lại tiếng kêu mời của Ngài
một cách khiêm nhƣờng
- không mơ ƣớc có những kinh nghiệm cao
siêu theo ý muốn riêng
- biết rõ ràng lòng yếu đuối với tham vọng và
tự ái của mình
- đáng đƣợc Chúa cứu thoát để sống ngày càng
tự do và bình tâm…
Linh Thao Trang 59
Mục đích các khóa linh thao 3,5,8 ngày Cha Julian Thành SJ