Upload
dinhduong
View
234
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
__________
NGUYỄN THỊ CẨM TÚ
NHỮNG YẾU TỐ TRIẾT HỌC
TRONG TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN CỦA NGƢỜI VIỆT VÙNG
ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 92.29.002
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM DUY ĐỨC
Hà Nội, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết
quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và
chưa từng công bố ở bất cứ hội đồng khoa học nào, các thông tin trích dẫn
trong luận án đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, năm 2018
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Thị Cẩm Tú
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, NCS muốn bày tỏ lòng cảm kích và sự biết ơn sâu sắc đối với giảng
viên hướng dẫn PGS.TS Phạm Duy Đức đã giúp đỡ tận tình và làm việc với tất cả
tinh thần trách nhiệm, thầy đã có những ý kiến đóng góp quý báu, đồng thời sửa chữa
rất công phu để NCS hoàn thành được luận án của mình.
NCS xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến quý thầy, cô giáo trong khoa Triết học -
ọc Viện Khoa học xã hội, đặc biệt là GS.TS Phạm Văn Đức đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi để NCS có cơ hội thực hiện niềm đam mê khoa học của mình. NCS xin
được bày tỏ lòng cảm ơn trân thành và sâu sắc đến các thầy cô giáo trong Hội đồng
khoa học, đã tận tình đóng góp ý kiến với tinh thần khách quan và khoa học để luận
án của NCS được hoàn thiện hơn.
NCS không thể thực hiện được sự nghiệp học tập của mình nếu như không có
sự ủng hộ và tạo điều kiện mọi mặt từ phía cơ quan công tác, vì thế NCS vô cùng biết
ơn sự giúp đỡ quý báu của Ban Giám hiệu Trường Đại học Thủy lợi. Đặc biệt là sự
ủng hộ và giúp đỡ kịp thời của TS. Tô Mạnh Cường - trưởng khoa Lý luận Chính trị,
cùng các thầy cô giáo trong khoa đã tạo mọi điều kiện thuận nhất để NCS hoàn thành
luận án của mình. Bên cạnh đó, NCS muốn bày tỏ lòng cảm kích và vô cùng biết ơn
tới sự giúp đỡ tận tình GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn – nguyên Viện trưởng Viện Triết
học Việt Nam, PGS. TS Bùi Văn Dũng - trường Đại học Vinh đã giúp cho NCS đạt
được sự thành công ngày hôm nay.
NCS không xem luận án này là một công trình cá nhân, mà đằng sau luôn là
sự giúp đỡ và chia sẻ của thầy cô, bạn bè, gia đình và sự hiện diện vắng mặt vô giá
của những người NCS không thể nhắc hết tên, đặc biệt là bố mẹ hai bên nội ngoại của
NCS, người chồng mà NCS yêu thương nhất, cùng cô con gái 6 tuổi đã luôn sát cánh
bên NCS, ủng hộ NCS, chia sẻ và bao dung với NCS trong suốt quá trình NCS hoàn
thành luận án.
Hà Nội, năm 2018
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Thị Cẩm Tú
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
Chương 1 ..................................................................................................................... 7
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN
ÁN ............................................................................................................................... 7
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến một số vấn đề lý luận chung về tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ..................................... 7
1.1.1. Những công trình tiêu biểu bàn về khái niệm tín ngưỡng dân gian ............. 7
1.1.2. Những công trình tiêu biểu bàn về các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình
thành, tồn tại của tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ ......................... 11
1.1.3. Những công trình tiêu biểu bàn về một số loại hình tín ngưỡng dân gian
chủ yếu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ .................................................. 16
1.2. Tình hình nghiên cứu về những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ....................................................................... 27
1.2.2. Những công trình tiêu biểu bàn về các yếu tố triết học về con người trong
tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ............................. 30
1.2.3. Những công trình tiêu biểu bàn về các yếu tố triết học về xã hội trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ................................... 32
1.3. Những vấn đề cần tập trung giải quyết trong luận án .................................... 34
Chương 2 ................................................................................................................... 37
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN CỦA NGƯỜI
VIỆT VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ .................................................................... 37
2.1. Khái niệm tín ngưỡng dân gian ...................................................................... 37
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành, tồn tại của tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ...................................................................... 40
2.2.1. Điều kiện địa lý - tự nhiên .......................................................................... 40
2.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ............................................................................ 44
2.2.3. Ảnh hưởng của sự giao lưu văn hóa ........................................................... 47
2.3. Phân loại và một số đặc điểm nổi bật của tín ngưỡng dân gian của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ ........................................................................................ 54
2.3.1. Cơ sở phân loại tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc
Bộ .......................................................................................................................... 54
2.3.2. Khái lược về một số tín ngưỡng dân gian chủ yếu của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ ................................................................................................. 56
2.3.3. Một số đặc điểm của tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng
Bắc Bộ ................................................................................................................... 65
2.4. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu của luận án ......................................................... 70
Chương 3 ................................................................................................................... 74
QUAN NIỆM VỀ TỰ NHIÊN, VỀ CON NGƯỜI, VỀ XÃ HỘI TRONG TÍN
NGƯỠNG DÂN GIAN CỦA NGƯỜI VIỆT VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ ..... 74
3.1. Quan niệm về tự nhiên trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ .......................................................................................................... 74
3.1.1. Một số quan niệm về tự nhiên trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại .. 74
3.1.2. Nội dung một số quan niệm về tự nhiên trong tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ...................................................................... 76
3.2. Quan niệm về con người trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ ................................................................................................. 94
3.2.1. Một số quan niệm về con người trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại
............................................................................................................................... 94
3.3. Quan niệm về xã hội trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ ........................................................................................................ 109
3.3.1. Tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ phản ánh tư
tưởng về vai trò của người phụ nữ ..................................................................... 110
3.3.2. Tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ phản ánh
truyền thống yêu nước của dân tộc ta ................................................................. 115
Chương 4 ................................................................................................................. 123
GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CÁC QUAN NIỆM VỀ TỰ NHIÊN,VỀ CON
NGƯỜI, VỀ XÃ HỘI TRONG TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN CỦA NGƯỜI VIỆT
VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ............................................................................. 123
4.1. Giá trị của các quan niệm về tự nhiên, về con người, về xã hội trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ................................. 123
4.1.1. Giá trị của các quan niệm về tự nhiên ...................................................... 123
4.1.2. Giá trị của các quan niệm về con người ................................................... 127
4.1.3. Giá trị của các quan niệm về xã hội ......................................................... 132
4.2. Hạn chế của các quan niệm về tự nhiên, về con người, về xã hội trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ................................. 137
4.2.1. Tính chất duy tâm trong các quan niệm về tự nhiên................................. 137
4.2.2. Tính chất duy tâm trong các quan niệm về con người ............................. 141
4.2.3. Tính chất duy tâm trong các quan niệm về xã hội .................................... 144
Tiểu kết chương 4................................................................................................ 147
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 149
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đồng bằng Bắc Bộ là vùng đất lịch sử lâu đời, là cái nôi hình thành văn
hóa, văn minh của người Việt. Đây cũng là nơi bảo tồn nhiều giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc. Một trong những yếu tố tạo nên giá trị văn hóa
truyền thống trong đời sống tinh thần của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
chính là tín ngưỡng dân gian. Tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ là một loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần ra đời và lưu truyền
trong nhân dân từ xa xưa. Trải qua bao thăng trầm, nó đã đi vào mạch sống
của từng cộng đồng người Việt, tạo nên những nét văn hóa đậm đà mang bản
sắc đặc trưng của vùng châu thổ sông Hồng.
Ra đời và tồn tại trên cơ sở của phương thức sản xuất nông nghiệp
trồng lúa nước, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
phản ánh đời sống tinh thần của con người trong quá trình lao động sản xuất,
cải tạo tự nhiên, xây dựng đất nước và góp phần giáo dục đạo đức, nhân cách,
điều chỉnh hành vi của con người. Bên cạnh đó, nó còn góp phần bảo lưu và
gìn giữ bản sắc văn hóa của người Việt, củng cố sự cố kết cộng đồng, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là một bộ
phận của tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời là bộ phận cấu thành hình thái ý thức
xã hội. Do vậy, cũng giống như các hình thái ý thức xã hội khác, tín ngưỡng
dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ chịu sự quy định của tồn tại xã hội, phản
ánh tồn tại xã hội và có những ảnh hưởng nhất định đến tồn tại xã hội đã sản
sinh ra nó. Sự ra đời của tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ đã tạo
nên bức tranh sinh động phản ánh nhận thức của con người, đặc biệt là của
người lao động về giới tự nhiên, về con người và về xã hội. Với người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ, yếu tố tự nhiên được hiểu là các yếu tố cơ bản cho
2
việc sản xuất nông nghiệp, nó được phản ánh rõ trong tín ngưỡng dân gian và
là nơi để người dân gửi gắm ước mơ, khát vọng chinh phục tự nhiên. Yếu tố
con người và xã hội được khắc họa sắc nét và sinh động trong quan niệm tâm
linh về thế giới, về sức mạnh của con người, về tinh thần đoàn kết, cố kết
cộng đồng, truyền thống yêu nước, biết ơn nguồn cội… trong quá trình dựng
nước và giữa nước. Nền tảng đó là khởi nguồn cho tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ hình thành, tồn tại một cách đa dạng,
phong phú. Từ tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, đến tín
ngưỡng thờ Thành hoàng… giao hòa với các yếu tố tâm linh tôn giáo khác,
tạo nên một bức tranh về các vị thần đa dạng, phong phú như chính cuộc sống
xã hội của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Sự nhận thức đó tuy còn sơ
khai, song nó có những giá trị nhất định tác động mạnh mẽ đến đời sống tinh
thần của con người. Mặt khác, nó cũng có những tác động tiêu cực không
nhỏ, gây nên những hệ lụy đáng kể trong đời sống xã hội của vùng.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, Đảng và
Nhà nước ta khẳng định sự tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo là một trong
những vấn đề chính trị - xã hội mang tính quy luật trong tiến trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Do vậy, việc tăng cường nghiên cứu để thấy được tính quy
luật trong sự tồn tại của hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, góp phần khẳng
định các giá trị tích cực vốn có và chỉ ra các mặt hạn chế để có các chính sách
phù hợp trong việc giải quyết vấn đề tín ngưỡng dân gian của vùng hiện nay
là yêu cầu bức thiết.
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian nói
chung, tín ngưỡng dân gian của người Viêt vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng,
đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm ở nhiều chuyên ngành khác nhau,
như tôn giáo học, chính trị học, văn hóa học, tâm lý học, v.v.. Những nghiên
3
cứu này đã đạt được những thành tựu quan trọng góp phần làm rõ vai trò, vị
trí, chức năng của tín ngưỡng dân gian trong đời sống xã hội trước đây cũng
như hiện nay. Tuy nhiên, nghiên cứu tín ngưỡng dân gian từ góc độ triết học
nhằm rút ra những kết luận về bản chất, quy luật vận động của tín ngưỡng dân
gian, cũng như làm rõ các yếu tố triết học của tín ngưỡng dân gian, nhìn
chung còn ít và mới đạt được kết quả bước đầu. Vì vậy, việc kế thừa các
thành tựu nghiên cứu để đi sâu nghiên cứu những yếu tố triết học trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là việc làm cần
thiết, để góp phần nhận thức sâu sắc hơn về loại hình tín ngưỡng này.
Với lý do trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Những yếu tố triết
học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” làm
đề tài luận án tiến sĩ Triết học.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, luận án làm rõ một số yếu tố triết học
trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, rút ra giá
trị và hạn chế của các yếu tố triết học đó.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Luận án tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án.
- Luận án làm rõ một số vấn đề lý luận về tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ về cơ sở hình thành, đặc điểm, phân loại
tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ và xác định cơ
sở lý thuyết nghiên cứu của luận án.
- Luận án làm rõ nội dung của một số yếu tố triết học trong tín ngưỡng
dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ thông qua các quan niệm về
tự nhiên, về con người, về xã hội.
4
- Luận án làm rõ giá trị và hạn chế của các yếu tố triết học trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi của luận án chỉ giới hạn việc nghiên cứu một số yếu tố triết
học chủ yếu trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc
Bộ ở khía cạnh yếu tố triết học về tự nhiên, về con người và về xã hội, dựa
trên cơ sở nghiên cứu một số tín ngưỡng dân gian nổi bật của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ là: tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, tín
ngưỡng thờ Thành hoàng.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
+ Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo.
+ Luận án kế thừa một số kết quả nghiên cứu của các tác giả đã được
công bố có liên quan đến đề tài luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận chung của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với hệ thống các phương pháp
như:
+ Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu thứ cấp. Phương pháp này
cho phép nghiên cứu sinh thu thập tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước,
5
phân tích và tổng hợp tài liệu, đánh giá các kết quả nghiên cứu đã có để tiếp
thu, kế thừa trong quá trình thực hiện luận án;
+ Phương pháp logic và lịch sử, kết hợp với phương pháp so sánh nhằm
phân loại tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, rút ra
những đặc điểm nổi bật của nó;
+ Phương pháp viện dẫn và chứng minh nhằm chỉ ra một số yếu tố triết
học cơ bản trong tín ngưỡng dân gian của người Việt ở vùng đồng bằng Bắc
Bộ;
+ Phương pháp phân tích - tổng hợp kết hợp với phương pháp đối
chiếu, so sánh nhằm rút ra những giá trị và hạn chế của các yếu tố triết học
trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng Đồng bằng Bắc Bộ.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có những đóng góp khoa học như
sau:
- Một là, luận án hệ thống hóa những vấn đề lý luận về cơ sở hình
thành, đặc điểm, phân loại tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ.
- Hai là, luận án làm rõ một số yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân
gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ trên các khía cạnh quan niệm về
tự nhiên, về con người, về xã hội.
- Ba là, luận án làm rõ những giá trị và những hạn chế của yếu tố triết
học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
+ Về mặt lý luận:
Luận án góp phần làm rõ hơn nữa các yếu tố triết học trong tín ngưỡng
dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, làm rõ những giá trị và
6
những hạn chế của các yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
+ Về mặt thực tiễn:
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần vào việc gìn giữ và phát huy
những giá trị của các yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, khắc phục những mặt hạn chế của nó.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy những môn học có liên quan tới văn hóa truyền thống, tín ngưỡng, tôn
giáo.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương, 12 tiết.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
Chương 2: Một số vấn đề lý luận về tín ngưỡng dân gian của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Chương 3: Quan niệm về tự nhiên, về con người, về xã hội trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Chương 4: Giá trị và hạn chế của các quan niệm về tự nhiên, về con
người, về xã hội trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng
Bắc Bộ
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến một số vấn đề lý luận
chung về tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
1.1.1. Những công trình tiêu biểu bàn về khái niệm tín ngưỡng dân
gian
Cho đến nay, khái niệm tín ngưỡng dân gian vẫn còn đang được các
nhà nghiên cứu tranh luận. Mặc dù vậy, thuật ngữ này đã được dùng phổ biến
trong các công trình khoa học, các buổi hội thảo khoa học, các sinh hoạt văn
hóa tinh thần của người dân, cũng như trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Dù nghiên cứu ở góc độ nào chăng nữa, thì đa số các tác giả vẫn thừa
nhận tín ngưỡng dân gian là một loại hình sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng có
nguồn gốc ra đời từ chính hoạt động lao động, sáng tạo của người nông dân,
ăn sâu bén rễ từ ngàn đời nay, và nó phản ánh khát vọng, ước vọng của con
người về một cuộc sống mới tốt đẹp. Bàn về vấn đề này, có thể đề cập đến
một số công trình sau:
Trong công trình, “Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam” [79],
Nguyễn Minh San không sử dụng thuật ngữ tín ngưỡng dân gian mà sử dụng
thuật ngữ tín ngưỡng dân dã. Nhưng, thực chất, hai thuật ngữ này là giống
nhau khi đều dùng để chỉ những loại hình tín ngưỡng như: Tín ngưỡng phồn
thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng sùng bái con người [79, tr.8-
9]. Và như vậy, có thể hiểu, tín ngưỡng dân dã, chỉ là cách gọi khác của tín
ngưỡng dân gian, ra đời do chính hoạt động sáng tạo trong lao động của
người nông dân và phản ánh ước mơ của họ.
Trong cuốn “Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” [16], khi
bàn về khái niệm tín ngưỡng dân gian Nguyễn Đăng Duy cho rằng “… ở Việt
8
Nam từ xa xưa cho tới nay không hề có cái gọi là tôn giáo mà chỉ có các hình
thái tín ngưỡng: tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thần và tín
ngưỡng thờ Mẫu” [16, tr.24] và không thể gọi các loại hình tín ngưỡng này là
“tín ngưỡng dân gian” được; bởi “…vì không hề có cái gọi là tín ngưỡng dân
gian, tín ngưỡng bác học, tín ngưỡng quý tộc mà chỉ có tín ngưỡng nói chung
của cộng đồng người” [16, tr.25].
Theo chúng tôi, khi đã nói tới cái gọi là “dân gian” nghĩa là nói tới tính
phổ biến trong quần chúng nhân dân, ra đời từ hoạt động thực tiễn của quần
chúng nhân dân, gắn liền với sinh hoạt vật chất của người dân, mang tính
dung dị, gần gũi mà sâu sắc. Điều này cũng giống như văn học dân gian vậy,
câu chữ dễ hiểu, cách hành văn mộc mạc, dân dã, gần gũi mà vẫn mang được
tính triết lý nhân sinh sâu đậm. Do đó, trong tín ngưỡng có cái gọi là tín
ngưỡng dân gian.
Cùng với quan điểm nêu trên, trong công trình “Tín ngưỡng dân gian ở
Việt Nam” [34] do Lê Như oa (chủ biên) thừa nhận có cái gọi là tín ngưỡng
dân gian. Theo tác giả công trình, tín ngưỡng dân gian có thể hiểu “là hình
thái tôn giáo sơ khai, chúng được hình thành trên cơ sở những tâm cách
nguyên thủy (primitive mentality) để nhận thức hiện thực và tác động đến
hiện thực bằng các kĩ xảo (các biện pháp ma thuật) của thuyết hồn linh” [34,
tr.23]. Có thể thấy rằng, khi đã nói đến tính dân gian thì không thể gọi tín
ngưỡng dân gian là tôn giáo sơ khai được. Vì khi nói tới tôn giáo là nói tới
những lễ nghi, giáo lý, giáo luật, giáo hội, kể cả tôn giáo sơ khai, nguyên thủy
thì chúng đều có tất cả các yếu tố cấu thành đó. Còn tín ngưỡng dân gian, chỉ
đơn giản là một loại hình tín ngưỡng ra đời và tồn tại cùng với hoạt động thực
tiễn của con người. Nó được nảy sinh dựa trên sự phản ánh của ý thức trong
quá trình lao động sản xuất, phản ánh sự ngưỡng mộ, ngưỡng vọng và cả sự
sợ hãi trước sức mạnh của những lực lượng siêu nhiên, vô hình. Nó ăn sâu,
9
bén rễ trong lòng người dân, nó có tính chất lây lan tự phát và không có tính
ràng buộc chặt chẽ như tôn giáo. Bên cạnh đó, trên cơ sở “thuyết hồn linh”
của Tylor, tác giả công trình đã chỉ ra “thuyết hồn linh cơ sở của hệ thống tín
ngưỡng dân gian của người Việt” [34, tr.24]. Căn cứ trên thực tiễn và căn cứ
vào cách lý giải của tác giả công trình cho thấy, ở nước ta, “bằng thuyết hồn
linh, chúng ta có thể “giải mã” được vô số các hiện tượng Folklor của các tộc
người khác nhau”. Luận điểm này cung cấp cho tác giả luận án có được cách
nhìn sâu sắc hơn để có thêm cơ sở lý giải nguồn gốc cho việc hình thành tín
ngưỡng dân gian của người Việt ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ.
Xem xét dưới góc độ văn hóa học, trong cuốn “Góp phần tìm hiểu tín
ngưỡng dân gian ở Việt Nam” [66] do Nguyễn Đức Lữ chủ biên, cho rằng, tín
ngưỡng dân gian “là một nhân tố cấu thành văn hóa” [66, tr.8] và “cần được
xem như là một yếu tố, một bộ phận của văn hóa dân gian” [66, tr.8]. Các tác
giả khẳng định, tín ngưỡng dân gian “cũng có thể xem là loại hình tín
ngưỡng, tôn giáo do chính nhân dân - trước hết là nhân dân lao động - sáng
tạo ra trên cơ sở những tri thức phản ánh sai lạc dưới dạng kinh nghiệm cảm
tính từ cuộc sống thường nhật của bản thân mình” [66, tr.8]. Các tác giả chỉ rõ
sự tương đồng giữa tôn giáo và tín ngưỡng dân gian, chẳng hạn, “nhiều tôn
giáo và tín ngưỡng dân gian cũng dùng lửa, hương… làm vật xúc tác cho mối
quan hệ giữa tin và đối tượng tin; cũng dùng trang phục phù hợp với đối
tượng tin; cũng có sự kiêng kị giới tính trước ngày lễ, cũng tự xác định cho
mình một tâm thế khác ngày thường, khi thực hiện hành vi cũng bộc lộ niềm
tin trước đối tượng tin…” [66, tr.10]. Thực tế cho thấy, mọi loại hình tín
ngưỡng dân gian chưa hẳn đã là tôn giáo. Vì khi đã nói đến tôn giáo tức nói
đến một tổ chức xã hội có giáo chủ, giáo lý, giáo luật hết sức chặt chẽ và có tổ
chức nghiêm ngặt. Còn tín ngưỡng dân gian, dù được người dân lao động hay
tầng lớp xã hội nào đó sáng tạo cũng chỉ là những sinh hoạt văn hóa tinh thần
10
của cộng đồng người có thể tin hoặc không, hoặc đã tin nhưng đã từ bỏ. Tín
ngưỡng dân gian phản ánh nhận thức về tự nhiên, con người và các mối quan
hệ của con người với tự nhiên, xã hội một cách lệch lạc, cảm tính, được lý
giải bằng những câu chuyện thần thoại, những điển tích, điển cố… mang tính
chất là những dạng nhận thức sơ khai của con người về thế giới. Còn cách mà
tác giả công trình dẫn ra, đó chỉ là những biểu hiện của niềm tin, mà niềm tin
của cả hai loại hình này giống nhau là đều có niềm tin mãnh liệt vào đối
tượng chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy sự hiện hữu của nó. Còn sự khác biệt
giữa tín ngưỡng dân gian và tôn giáo không phải ở niềm tin mà ở các khía
cạnh khác.
Ngoài những công trình nghiên cứu được trình bày ở trên được xuất
bản dưới dạng sách, thì cũng có một số công trình về khái niệm tín ngưỡng
dân gian dưới dạng các bài báo trên các tạp chí nghiên cứu chuyên ngành của
các tác giả như: Nguyễn Quốc Phẩm (1998) “Góp phần bàn về tín ngưỡng dân
gian và mê tín dị đoan”, Tạp chí văn hóa nghệ thuật, số 11; Nguyễn Đăng
Duy (2000), “Cần đính chính lại cách gọi tín ngưỡng dân gian”, Tạp chí
Nghiên cứu tôn giáo, số 1; Hồng Nhuệ (2003), “Tản mạn về tín ngưỡng dân
gian”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 2; Nguyễn Tri Nguyên (2004) “Bản
chất và đặc trưng của tín ngưỡng dân gian”, Tạp chí di sản và văn hóa, số 7;
Hồ Bá Thâm (2005), “Tín ngưỡng dân gian – một lĩnh vực trong đời sống tâm
linh”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 4; Đặng Nghiêm Vạn (2007), “Tôn giáo
hay tín ngưỡng”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 1; Đỗ Thị Minh Thúy
(2010), “Biến động của tín ngưỡng dân gian Thăng Long - Hà Nội và ảnh
hưởng của nó đến đời sống văn hóa hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,
số 86(8); Nguyễn Thọ Khang (2013), “Đặc điểm và giá trị văn hóa của tín
ngưỡng dân gian ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 6… ầu hết,
trong các công trình này, khi bàn về khái niệm tín ngưỡng dân gian đều nhất
11
trí cho rằng, đó là một loại hình tín ngưỡng ra đời trên cơ sở hoạt động sản
xuất nông nghiệp là chủ yếu. Đồng thời, các tác giả cũng chỉ rõ, tín ngưỡng
dân gian là một lĩnh vực tinh thần không thể thiếu trong đời sống của người
dân. Nó ăn sâu, bén rễ trong tiềm thức của người dân và trở thành nét văn hóa
riêng của người Việt.
Qua khảo sát cho thấy, hầu hết các tác giả đều thừa nhận, ở Việt Nam có
cái gọi là tín ngưỡng dân gian. Nó được hình thành trên cơ sở niềm tin, là bộ
phận của tín ngưỡng, văn hóa. Nó không phải là một thứ tôn giáo sơ khai. Tuy
vậy, vẫn có những ý kiến cho rằng, tín ngưỡng dân gian là một tôn giáo sơ khai
của người Việt, dựa trên quan niệm niềm tin vào một sức mạnh thiêng liêng
nào đó. Như vậy, cho đến nay, thuật ngữ tín ngưỡng dân gian vẫn chưa ngã
ngũ, vẫn còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Do vậy, qua việc tổng quan các
công trình nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian, là cơ sở khoa học cho tác giả
luận án sử dụng để luận giải về khái niệm tín ngưỡng dân gian với tư cách là
khái niệm công cụ để giải quyết các vấn đề có liên quan tới mục đích, nhiệm vụ
của luận án.
1.1.2. Những công trình tiêu biểu bàn về các yếu tố ảnh hưởng đến
sự hình thành, tồn tại của tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ
Có thể kể đến các công trình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra
đời, tồn tại của tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
như sau:
Trước hết, đó là các công trình nghiên cứu chỉ ra ảnh hưởng của các
yếu tố thuộc về địa lý - tự nhiên, kinh tế - xã hội dẫn đến sự ra đời, tồn tại của
tín ngưỡng dân gian nói chung và tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc
Bộ nói riêng. Có thể kể đến các công trình sau đây:
Công trình “Tín ngưỡng dân gian Việt Nam” [34] của Lê Như oa.
Trong công trình này, tác giả chỉ rõ nguồn gốc hình thành của tín ngưỡng qua
12
việc phân tích điều kiện địa lý, lịch sử và phương thức sản xuất đã tác động
mạnh mẽ và là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời của các hình thái tín
ngưỡng dân gian của người Việt. Chẳng hạn, về nguồn gốc nhận thức, tác giả
chỉ rõ: “Ở thời kì sơ khai, khi mà cuộc sống con người rất gần gũi với vạn vật
của tự nhiên, con người thường xuyên, trực tiếp phải đối mặt với thiên nhiên;
đời sống của họ lệ thuộc chủ yếu vào tự nhiên thì thiên nhiên là đối tượng
nhận thức chính của họ” [34, tr.31] và “… bởi chính môi trường tự nhiên đã
quy định môi trường nông nghiệp (chăn nuôi hay trồng trọt); và do đó, nó đã
định hướng ứng xử cho các cư dân sống trong môi trường ấy; làm nảy sinh
những tín ngưỡng đặc thù của từng môi trường” [34, tr.31]. Về nguồn gốc xã
hội, tác giả chỉ rõ: “… tính chất đặc thù của một bán đảo… nông nghiệp ra
đời… trồng lúa được đẩy lên vị trí đứng đầu của nền nông nghiệp trồng trọt
trên lãnh thổ Việt Nam… Đây chính là mầm mống dẫn tới những nhận thức
và những ứng xử, tức mầm mống của những tín ngưỡng…” [34, tr.31-32] và
“… tín ngưỡng của cư dân Việt Nam, với tư cách là sự nhận thức được tập
trung vào cây lúa và công việc trồng lúa” [34, tr.34]. Quan điểm đó của Lê
Như oa đã chỉ ra điều kiện địa lý - tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến sự hình
thành tín ngưỡng dân gian nói chung và tín ngưỡng dân gian của người Việt
nói riêng.
Tương tự quan điểm của Lê Như oa, trong công trình “Tín ngưỡng và
văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” [96], tuy không trực tiếp bàn về các yếu tố
ảnh hưởng đến sự tồn tại của tín ngưỡng dân gian nói chung, và tín ngưỡng
dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, song Ngô Đức Thịnh cũng có
quan điểm thống nhất coi các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa và lịch
sử là xuất phát điểm cho sự ra đời và tồn tại của tín ngưỡng. Trong công trình
này, ông trình bày cụ thể từng loại tín ngưỡng và cơ sở hình thành của nó.
Công trình này giúp cho tác giả luận án có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn
13
về nguồn gốc ra đời, cũng như cơ sở hình thành nên tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Công trình “Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” [81] của Trần Đăng Sinh là một
trong số ít công trình chuyên nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian vùng đồng
bằng Bắc Bộ tiếp cận dưới góc độ triết học. Trong công trình này, khi bàn về
nguồn gốc, cơ sở hình thành, tồn tại của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tác giả
coi nó là một trong các loại hình sinh hoạt tín ngưỡng dân gian phổ biến của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tác giả cho rằng, sự ra đời của nó là do
chính phương thức sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước quyết định. Cùng với
đó, yếu tố xã hội, kết cấu tổ chức làng - nước cũng có ảnh hưởng không nhỏ
đến sự ra đời của tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Trong công trình “Đại cương lịch sử Triết học Việt Nam” [31],
Nguyễn Hùng Hậu cũng chỉ rõ các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời của tín
ngưỡng dân gian nói chung, tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ nói
riêng. Tác giả chỉ rõ, xét về mặt kinh tế “sở hữu chỉ tồn tại với tư cách là sở
hữu tập thể về ruộng đất... không có sở hữu tư nhân về ruộng đất và đó là tất
cả các hiện tượng của phương Đông, là chìa khóa để hiểu toàn bộ phương
Đông” [31, tr.43]. Đó chính là phương thức sản xuất Á châu mà tác giả nhắc
tới. Khi đi nghiên cứu phân tích phương thức sản xuất đó, tác giả kết luận, đó
chính là một trong những nguyên do cơ bản để hiểu, để giải thích về sự ra đời
của các hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có tín ngưỡng dân gian.
Công trình “Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ” [106] của Nguyễn Hữu Thụ cũng bàn về cơ sở hình
thành tín ngưỡng thờ Mẫu, và tác giả coi đó là một trong những sinh hoạt tín
ngưỡng nổi bật của vùng. Tác giả chỉ rõ, sự ảnh hưởng của các yếu tố địa lý -
tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa và lịch sử thúc đẩy sự ra đời và tồn tại của
14
tín ngưỡng thờ Mẫu,là một trong những loại hình tín ngưỡng dân gian của
vùng.
Tiếp theo, khi bàn về sự ảnh hưởng của sự giao lưu văn hóa, tư tưởng
đến sự ra đời, tồn tại của tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng
Bắc Bộ, hầu hết các công trình mà tác giả luận án lựa chọn để khảo sát đều
chung một quan điểm, khẳng định sự ảnh hưởng mạnh mẽ của ba tôn giáo lớn
đó là Phật Giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Có thể kể đến một số công trình sau:
Công trình “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” [96], Ngô Đức
Thịnh chỉ ra rằng, các tín ngưỡng bản địa, nhất là tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên, đều cởi mở “…tiếp thu ảnh hưởng của tôn giáo, tín ngưỡng, nhất là Đạo
Khổng” [96, tr.21], ngoài ra nó còn chịu ảnh hưởng của cả các tôn giáo khác
như Đạo giáo, Phật giáo [96, tr.33]. Bên cạnh đó, tác giả còn khẳng định ảnh
hưởng “… của đạo hiếu - một trong những tư tưởng cốt lõi nhất của Nho giáo
trong việc xây dựng hệ nguyên lý cho việc thờ cúng tổ tiên. Cùng quan điểm
nêu trên, trong công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian Việt
Nam” [66], Nguyễn Đức Lữ chủ biên, khẳng định, khi có sự du nhập của các
tôn giáo ngoại lai như Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo đã có ảnh hưởng lớn đến
sự tồn tại của tín ngưỡng dân gian nhất là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: “…khi
Nho giáo vào Việt Nam, với tư tưởng đề cao gia đình, dòng tộc, biến nước
thành nhà, xem chữ hiếu là nền tảng đạo lý… thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
được nâng lên một tầm cao mới” [66, tr.81]. Theo nghiên cứu của các tác giả
trong công trình này, thì tín ngưỡng, trong đó tín ngưỡng thờ anh hùng dân
tộc cũng chịu ảnh hưởng của các tôn giáo như Phật giáo, Lão giáo. Trong đó,
theo tác giả, “các hội đền mang dáng dấp nghi lễ của Nho giáo đồng thời cũng
có dấu hiệu của Phật giáo ở hội chùa” [66, tr.102]. Ảnh hưởng của các tôn
giáo đến sự ra đời, tồn tại của tín ngưỡng dân gian nói chung trong đó có tín
ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ được công trình “Các hình thái tín
15
ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” [16] của Nguyễn Đăng Duy phân tích và khẳng
định rằng, sự giao lưu tiếp biến giữa các tôn giáo và tín ngưỡng dân gian là
khách quan trong quá trình tồn tại. Do có sự ảnh hưởng của các tôn giáo đã
nêu trên nên các nghi lễ, nội dung tín ngưỡng dân gian được đầy đủ hơn, được
nâng lên một tầm cao mới. Dưới góc độ triết học, nghiên cứu về ảnh hưởng
của tôn giáo đến sự tồn tại của tín ngưỡng dân gian phải kể đến công trình
“Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ” [81] của Trần Đăng Sinh. Tác giả khẳng định rằng,
“các tín ngưỡng, tôn giáo ngoại nhập, trong đó đặc biệt là tam giáo có vai trò
to lớn trong sự hình thành và tồn tại của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” [81, tr.96].
Ngoài những công trình vừa nêu trên, còn có thể kể đến các công trình
khác như: Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát
triển của xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Đăng
Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Văn hoá
thông tin, Hà Nội; Trần Ngọc Thêm (2011), Cơ sở Văn hóa Việt Nam,
Nxb.Giáo dục, Hà Nội; Nguyễn Văn Minh (2013), Tôn giáo, tín ngưỡng các
dân tộc Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn Hữu Thụ (2013),
Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng
Bắc Bộ, Luận án Tiến sĩ Triết học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn,
Đ QG à Nội; Nguyễn Hữu Thụ (2012), “Về cơ sở hình thành và phát triển
của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo, số 1, tr.20-32, v.v… và nhiều công trình khác có đề
cập, nghiên cứu đến cơ sở hình thành, tồn tại của tín ngưỡng dân gian nói
chung trong đó có tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc
Bộ. Hầu hết trong số các công trình được khảo sát ít có các công trình nghiên
cứu khái quát về sự ảnh hưởng của tôn giáo đến sự ra đời, tồn tại của tín
16
ngưỡng dân gian trong đó có tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Tuy nghiên, từ việc nghiên cứu các quan điểm về sự ảnh hưởng của các tôn
giáo đến các loại hình tín ngưỡng cụ thể là cơ sở cho tác giả luận án có cơ sở
dữ liệu khoa học phụ vụ cho quá trình nghiên cứu vấn đề đặt ra trong luận án.
Tóm lại, tính đến thời điểm hiện tại, qua sự khảo sát của tác giả luận án,
chưa có bất cứ công trình khoa học độc lập nào chuyên nghiên cứu về tín
ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nhìn chung, những nghiên cứu về
tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được đan xen
trong các nghiên cứu về tín ngưỡng, văn hóa tín ngưỡng, tín ngưỡng dân gian
cả nước nói chung. Do vậy, khi tổng quan các công trình nghiên cứu đề cập tới
các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời của tín ngưỡng dân gian của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ, tác giả luận án lấy dữ liệu dựa trên kết quả của các
công trình nghiên cứu chung về tín ngưỡng dân gian, từ đó bóc tách các nghiên
cứu về tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ về cơ sở hình thành.
1.1.3. Những công trình tiêu biểu bàn về một số loại hình tín ngưỡng
dân gian chủ yếu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Qua khảo sát về các công trình nghiên cứu có đề cập đến tín ngưỡng
dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ cho thấy, hầu hết các công
trình chủ yếu đề cập tới ba loại hình tín ngưỡng dân gian nổi bật của vùng là
tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng thờ Thành
hoàng. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên
của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Xoay quanh vấn đề về tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên nói chung, trong đó
có tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, có
nhiều công trình đề cập tới. Cụ thể như sau:
17
Khi bàn về nguồn gốc hình thành của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, cho
đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi. Có ý kiến cho rằng, thờ cúng Tổ tiên của
người Việt bắt nguồn từ sự thờ cúng Tổ tiên của người án. Đó là quan điểm
của à Văn Tăng, Trương Thìn. Trong công trình, “Tín ngưỡng và mê tín”
[82], các tác giả chỉ rõ, “Thờ cúng tổ tiên có thể lúc đầu cử hành trong người
Hán, rồi lan sang người Việt. Và đến một thời điểm nào đó thì trở thành
phong tục phổ biến của người Việt” [82, tr.150]. Đó cũng là quan điểm của
Nguyễn Đức Lữ. Song, phủ nhận quan điểm đó, trong công trình, “Văn hóa
tâm linh” [14], Nguyễn Đăng Duy cho rằng, “việc thờ cúng tổ tiên của người
Việt đã có cái gốc, cái nền nội sinh chứ không phải do từ Trung Quốc xâm
nhập vào như nhiều sách báo từ trước tới nay đã khẳng định” [14, tr.181].
Các quan điểm trên tuy trái ngược nhau, song hầu hết, các tác giả đều
nhất trí cho rằng, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt được hình thành
trên cơ sở quan niệm tâm linh của con người về thế giới. Nói như Ngô Đức
Thịnh, nó bắt nguồn từ tín ngưỡng Tô tem, được thể chế hóa, hợp pháp hóa
nhờ hệ tư tưởng Nho giáo [96, tr.48]. Đó cũng là quan điểm của Nguyễn Đức
Lữ trong công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam”
[66], ông cho rằng, “tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là sản phẩm của sự kết hợp
giữa ba yếu tố cơ bản: ý niềm về linh hồn bất tử của người chết, tổ tiên Tô
tem và tổ tiên thật che chở cho gia đình thị tộc phụ quyền” [66, tr.74].
Khi bàn về bản chất của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, trong công trình
“Nếp cũ - Tín ngưỡng Việt Nam” [4], Toan Ánh viết, “thờ phụng tổ tiên
không phải là một thứ tôn giáo… mà là lòng thành kính và biết ơn của con
cháu đối với người đã khuất” [4, tr.23-24]. Đó cũng là quan điểm của Ngô
Đức Thịnh trong công trình “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam”,
ông cho rằng, “thờ cúng Tổ tiên là một tín ngưỡng dân gian của dân tộc có
nguồn gốc từ xa xưa và mang đạo lý nhân ái uống nước nhớ nguồn” [96,
18
tr.67]. Còn trong công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt
Nam”, Nguyễn Đức Lữ chủ biên, cho rằng, về bản chất, tín ngưỡng thờ cúng
Tổ tiên là một hiện tượng xã hội có tính phổ biến [66, tr.68]. Trong công trình
“Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ” [81], qua việc phân tích nguồn gốc, Trần Đăng Sinh
rút ra bản chất của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên là “một bộ phận của ý thức xã
hội, là một loại hình tín ngưỡng dân gian được hình thành từ thời nguyên thủy
với niềm tin thiêng liêng rằng, tổ tiên đã chết sẽ che chở, phù giúp con cháu”
[81, tr.57]. Như vậy, hầu hết các tác giả đều nhất trí cho rằng, bản chất của tín
ngưỡng thờ cúng Tổ tiên là một hiện tượng xã hội, có tính phổ biến, dựa trên
cơ sở niềm tin tâm linh của con người, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Khi bàn về các hình thức thờ cúng Tổ tiên ở nước ta, trong đó có tín
ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt, hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra
rằng: có hai hình thức cơ bản về thờ cúng Tổ tiên của người Việt là thờ cúng
trong phạm vi gia đình và thờ cúng phạm vi đất nước. Đó là quan điểm của
Ngô Đức Thịnh, Trần Đăng Sinh. Trong công trình, “Tín ngưỡng và văn hóa
tín ngưỡng ở Việt Nam”, Ngô Đức Thịnh cũng cho rằng, tín ngưỡng thờ cúng
Tổ tiên của nười Việt có hai hình thức là thờ cúng Tổ tiên trong gia đình và
dòng tộc và thờ cúng Tổ tiên ở phạm vi quốc gia (Lễ giỗ Tổ ùng Vương)
[96, tr.68-79]. Trong công trình, “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở
Việt Nam”, do Nguyễn Đức Lữ chủ biên cũng nhận định, thờ cúng Tổ tiên
được thể hiện dưới ba hình thức: gia đình, làng xã và đất nước [66, tr.91].
Ngoài ra, còn nhiều bài viết được công bố trên các tạp chí như: Nguyễn
Đức Lữ (2000), “Thờ cúng Tổ tiên - một hiện tương xã hội có tính phổ biến”,
Tạp chí Sinh hoạt Lý luận số xuân Canh Thìn (1/2000); Trần Đức Dương
(2010), “Phát huy những giá trị tích cực trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên
19
hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo;… cũng đề cập đến vấn đề tín
ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, nhưng dưới các góc độ tiếp cận khác nhau.
Như vậy, trên cơ sở khảo sát các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng
thờ cúng Tổ tiên của người Việt nói chung, trong đó có người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ, là cơ sở khoa học cho tác giả luận án tìm hiểu về nguồn gốc, quá
trình hình thành, bản chất, và các hình thức thờ tự của tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Khi bàn về nguồn gốc hình thành, hầu hết các
tác giả đều cho rằng, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên bắt nguồn từ quan niệm vạn
vật đều có linh hồn, từ hình thức sơ khai của tín ngưỡng Tô tem, cho đến khi
nó được hợp thức hóa nhờ vào sự ủng hộ của Nho giáo. Hình thức cũng như
nội dung sinh hoạt tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt có sự khác biệt
so với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Trung Quốc. Và do vậy, tác giả
luận án cũng đồng quan điểm với các tác giả Nguyễn Đăng Duy, Ngô Đức
Thịnh, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt là tín ngưỡng nội sinh, bắt
nguồn từ cội rễ văn hóa truyền thống của dân tộc, có sự giao thoa ảnh hưởng
trong quá trình tồn tại của nó. Điểm đáng chú ý, qua việc khảo sát các công
trình nghiên cứu cho thấy, các tác giả đều thừa nhận tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên là một loại hình tín ngưỡng dân gian phổ biến của người Việt, trong đó có
vùng đồng bằng Bắc Bộ. Do đó, kết quả nghiên cứu về tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên của các nhà khoa học đi trước là cơ sở khoa học để tác giả luận án tiếp tục
nghiên cứu, khái quát về tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ, làm cơ sở cho việc nghiên cứu các yếu tố triết học cơ bản
ẩn chứa trong loại hình tín ngưỡng nổi bật này.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Cho tới nay, có nhiều tư liệu nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu nói
chung, nhưng có ít công trình nghiên cứu độc lập về tín ngưỡng thờ Mẫu của
20
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Vì vậy, khi khảo sát về vấn đề này, tác
giả luận án dựa trên việc tổng quan các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng
thờ Mẫu của Việt Nam, trong đó, có đề cập tới tín ngưỡng thờ Mẫu của vùng.
Khi bàn về cơ sở của việc hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu của Việt
Nam nói chung, trong đó có thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ,
trong công trình “Nếp cũ - Tín ngưỡng Việt Nam”, Toan Ánh chỉ ra rằng, việc
thờ Mẫu nảy sinh và phát triển trên cơ sở thờ Nữ thần [4, tr.110]. Đó cũng là
quan điểm của Ngô Đức Thịnh. Trong công trình “Đạo Mẫu ở Việt Nam”,
ông chỉ rõ, tục thờ Mẫu và Tam tòa Thánh Mẫu có liên quan mật thiết với tục
thờ Nữ thần [95, tr.14]. Tiếp tục bàn về quan điểm này, trong công trình “Tín
ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam”, Ngô Đức Thịnh kết luận rằng,
“các Mẫu - Thánh Mẫu vừa có nguồn gốc thiên thần, vừa có nguồn gốc nhân
thần, là hình thức tín ngưỡng “nâng cao”, “lên khuôn” từ cái nền thờ Nữ thần
và rất phổ biến và cổ xưa của dân tộc ta” [96, tr.172]. Trong công trình “Văn
hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam” [48], Đinh Gia
Khánh cho rằng, “nguyên nhân khởi phát tín ngưỡng thờ Mẫu là từ chế độ
mẫu hệ. Trong thời kỳ nguyên thủy khi mà người phụ nữ đóng vai trò là chủ
gia đình, là người có quyền quyết định mọi vấn đề to lớn trong gia đình, bộ
tộc thì họ cũng góp phần quyết định vào sự tồn tại của xã hội” [48, tr.12].
Trong công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng thờ dân gian ở Việt Nam”
[66] do Nguyễn Đức Lữ chủ biên nhận định rằng, “tín ngưỡng thờ Mẫu là một
hình thức tín ngưỡng dân gian để tôn vinh người phụ nữ làm Thánh Mẫu,
Vương Mẫu,…” [66, tr.140]. Trong bài viết “Tín ngưỡng thờ Mẫu của người
Việt”, Nguyễn Thị Thọ nhận định rằng, “tín ngưỡng thờ Mẫu là sản phẩm của
xã hội nông nghiệp, ở đó còn những tàn dư của xã hội mẫu hệ, và vai trò của
người phụ nữ được đề cao” [103, tr.49]. Đó cũng là quan điểm của Trần Ngọc
Thêm, Nguyễn Hữu Thụ… khi nghiên cứu về nguồn gốc của tín ngưỡng thờ
21
Mẫu. Tác giả luận án cũng nhất trí cho rằng, xuất phát điểm cho sự hình thành
tín ngưỡng thờ Mẫu là từ vai trò của người phụ nữ đối với đời sống của con
người, tính nữ được đề cao, đó là điều kiện tiền đề cho sự ra đời của tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, trong đó có vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Bàn về bản chất của tín ngưỡng thờ Mẫu, trong công trình “Góp phần
tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam” [66], do Nguyễn Đức Lữ (chủ
biên) nhận định rằng, “tín ngưỡng thờ Mẫu là sự triển khai lòng kính trọng,
tôn vinh đối với phụ nữ, phản ánh khát vọng của con người luôn vươn tới
những điều tốt lành trong cuộc sống vốn đầy những bất trắc” [66, tr.141-142].
Trong công trình “Tục thờ Thánh - Mẫu ở Việt Nam” [55], Vũ Ngọc Khánh
cho rằng, xét về bản chất, tín ngưỡng thờ Mẫu là sự tôn thờ, tôn vinh người
Mẹ [55, tr.11]. Trong công trình “Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ
Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” [106], Nguyễn Hữu Thụ cho
rằng, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là một loại
hình tín ngưỡng dân gian được tích hợp bởi các lớp tín ngưỡng thờ Nữ thần,
thờ Mẫu thần và thờ Tam phủ - Tứ phủ với niềm tin thiêng liêng vào quyền
năng của Mẫu - đấng sáng tạo, bảo trợ cho sự tồn tại và sinh thành của tự
nhiên, xã hội và con người, v.v..
Về đối tượng thờ Mẫu, hầu hết các tác giả đều chỉ ra rằng, đó là thờ các
hiện tượng của tự nhiên (hiện tượng thời tiết), và hơn nữa, là sự tôn thờ những
người mẹ có công giúp dân làng trong cách làm ăn, là những người mẹ của
những bậc anh hùng, là những người có nguồn gốc nhiên thần hoặc nhân thần.
Điều đó được thể hiện trong các công trình như: trong công trình “Các hình
thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” [16], Nguyễn Đăng Duy viết: “Cốt lõi
của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam là tôn thờ bốn đối tượng Cây, Đất, Nước,
Trời” [16, tr.165]. Trong công trình, “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian
Việt Nam” [66], do Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) chỉ rõ, “tín ngưỡng thờ Mẫu ở
22
Việt Nam rất đa dạng, phong phú. Về tổng thể, nó bao gồm cả việc thờ Mẫu
thần và Mẫu Tứ phủ” [66, tr.142]. Ngô Đức Thịnh trong công trình “Tín
ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” cho rằng, hệ thống thờ Mẫu đa
dạng, phong phú, đó là hệ thống thần linh Tứ phủ gồm các nhiên thần và thiên
thần [96, tr.147]. Trong công trình “Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ
Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” [106], Nguyễn Hữu Thụ cho
rằng, thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ gồm có ba lớp: thờ Nữ
thần, thờ Mẫu thần và thờ Tam phủ - Tứ phủ.
Bên cạnh những công trình được xuất bản dưới dạng sách, thì còn có
những công trình được in trong các tạp chí như: Ngô Đức Thịnh (1992), "Tục
thờ Mẫu Liễu Hạnh - một sinh hoạt tín ngưỡng cộng đồng",Tạp chí văn học số 5
(275); Nguyễn Hữu Thụ (2012), “Về cơ sở hình thành và phát triển của tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí Nghiên cứu
Tôn giáo, số 1; Nguyễn Thị Thọ (2017), “Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt”,
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8, v.v.. Các công trình kể trên cũng đề cập
tới vấn đề về tín ngưỡng thờ Mẫu dưới những khía cạnh khác nhau.
Như vậy, trên cơ sở khảo sát các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng
thờ Mẫu của người Việt nói chung, trong đó có người Việt vùng đồng bằng
Bắc Bộ, là cơ sở khoa học cho tác giả luận án tìm hiểu về nguồn gốc, quá
trình hình thành, bản chất, và đối tượng thờ tự của tín ngưỡng thờ Mẫu ở vùng
Đồng bằng Bắc Bộ. Khi bàn về nguồn gốc hình thành, hầu hết các tác giả đều
cho rằng, tín ngưỡng thờ Mẫu bắt nguồn từ quan niệm về vai trò của người
phụ nữ trong xã hội, nó là bước phát triển từ tục thờ Nữ thần sang thờ Mẫu.
Về bản chất của tín ngưỡng thờ Mẫu, các tác giả khẳng định, đó là một loại
hình tín ngưỡng dân gian của người Việt, hình thành đầu tiên ở vùng đồng
bằng Bắc Bộ, sau đó lan rộng ra khắp các vùng trên cả nước. Tín ngưỡng thờ
mẫu là sự tôn thờ, vinh danh người phụ nữ, và nó có sự hòa quyện với các
23
hình thức tín ngưỡng khác, đặc biệt là tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, và chịu sự
ảnh hưởng sâu sắc từ Đạo giáo Trung Quốc. Do đó, kết quả nghiên cứu về tín
ngưỡng thờ Mẫu của các nhà khoa học đi trước là cơ sở khoa học cho tác giả
luận án tiếp tục nghiên cứu, khái quát về tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ với tư cách là một trong những loại hình tín ngưỡng
dân gian đặc trưng của vùng làm cơ sở nghiên cứu mục đích của của đề tài
luận án.
Thứ ba, những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng Thành hoàng của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Tính cho đến thời điểm hiện tại, có nhiều tư liệu nghiên cứu về tín
ngưỡng Thành hoàng, nhưng có ít công trình nghiên cứu độc lập về tín
ngưỡng Thành hoàng của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Vì vậy, khi
khảo sát về vấn đề này, tác giả luận án dựa trên việc tổng quan các công trình
nghiên cứu về tín ngưỡng Thành hoàng của Việt Nam (chủ yếu là những
nghiên cứu từ thế kỉ XX cho tới hiện tại), trong đó, có đề cập tới tín ngưỡng
Thành hoàng của vùng. Cụ thể như sau:
Khi bàn về nguồn gốc của tín ngưỡng Thành hoàng, hầu hết các tác giả
đều cho rằng, Thành hoàng ở nước ta nói chung, trong đó có Thành hoàng
vùng đồng bằng Bắc bộ, đều có nguồn gốc sâu xa và có ảnh hưởng mạnh mẽ
từ thờ cúng Thành hoàng ở Trung Quốc, song có sự khác biệt. Bàn về điều
này phải kể đến công trình “Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam” của Nguyễn
Duy Hinh. Ông chỉ rõ, tín ngưỡng Thành hoàng ở nước ta có nguồn gốc sâu
xa từ Trung Quốc, song khi du nhập vào nước ta, nó có sự biến thể rõ rệt. Ông
viết: “Rõ ràng trong Thành hoàng Việt Nam có hai dòng riêng biệt. Một dòng
mang đậm gần nguyên xi mô hình Đường - Minh: Hệ thống Thành hoàng cả
nước, tỉnh, huyện… dòng thứ hai là Thành hoàng - Làng. Đó là dòng chủ thể
phản ánh bản chất tư duy tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam” [32, tr.97]. Đó cũng
24
là quan điểm của ông trong bài viết “Thần làng và Thành hoàng”. Nguyễn
Duy Hinh chỉ rõ, “Thành hoàng là một khái niệm Hán, các triều đại phong
kiến nước ta đã tiếp thu khái niệm đó. Nhưng Thành hoàng Việt Nam khác
Thành hoàng án”. Đồng thời, đó cũng là quan điểm của Phan Kế Bính khi
nghiên cứu về tín ngưỡng Thành oàng được thể hiện trong công trình “Việt
Nam phong tục” [7]. Phan Kế Bính cho rằng, “xét về cái tục thờ Thần hoàng
này từ đời Tam Quốc trở về vẫn đã có, nhưng ngày xưa thì nhà vua nhân có
việc cầu đảo gì mới thiết đàn cúng tế mà thôi, đến đời nhà Đường, Lý Đức Dụ
làm tướng mới bắt đầu lập miếu Thần hoàng ở Thành Đô, đến nhà Tống, nhà
Minh, thiên hạ đâu đâu cũng cũng có lập miếu thờ” [7, tr.96].
Cùng với hai quan điểm nêu trên, trong công trình “Tín ngưỡng và văn
hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” [96], Ngô Đức Thịnh chỉ ra rằng, “cùng mang
tên Thành hoàng, nhưng ở Trung Quốc là vị thần của thành trì, Thành thị mà
nổi tiếng nhất là Thành hoàng của Thượng Hải, phổ biến nhất ở Trung Quốc
từ thời Đường - Tống; còn ở Việt Nam, Thành hoàng là vị thần của mỗi làng
xã, trong khi đó làng, thôn của Trung Quốc chỉ thờ các Thổ Thần” [96, tr.92].
Ông cũng chỉ ra rằng, đây là một loại hình tín ngưỡng bị “phong kiến hóa” do
có sự ảnh hưởng của Nho giáo và nhiều tôn giáo khác. Đó cũng là quan điểm
của Nguyễn Đức Lữ làm chủ biên trong công trình “Góp phần tìm hiểu tín
ngưỡng dân gian Việt Nam” [66]. Ông cho rằng, tín ngưỡng Thành hoàng “là
một phạm trù chỉ là một thứ thần linh bảo hộ thành trì mang đậm nét Trung
Hoa ở xã thôn Việt Nam, tín ngưỡng Thành hoàng đã trở thành một tín
ngưỡng mang tính cộng đồng chung của làng xã người Việt, một thứ thần linh
không chỉ có công hộ quốc mà còn “bảo dân”” [66, tr.125].
Trái với các quan điểm nêu trên, trong công trình “Các hình thái tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam” [16], Nguyễn Đăng Duy lại cho rằng: “Việt
Nam không hề có thần Thành hoàng của người Việt (kinh). Thành hoàng là
25
của Trung Hoa do tầng lớp phong kiến Trung oa áp đặt và do tầng lớp
phong kiến Việt Nam tiếp thu để thờ tế ở kinh đô và ở các lỵ sở chính quyền
cấp tỉnh, với nghĩa là thần bảo vệ thành và hào. Ở kinh đô gọi là miếu Đô
thành hoàng, ở các tỉnh gọi là miếu Thành hoàng… Thành hoàng Việt Nam
không hề do vua ban xuống, vua chỉ ban tước cho thần lập ấp, đã được dân
hình thành thờ cúng từ trước” [16, tr.97-98]. Và như vậy, theo ông, Việt Nam
chúng ta, trong đó có đồng bằng Bắc Bộ, chỉ có tín ngưỡng thờ thần, mà cụ
thể là thần làng xã, vì nó gắn liền với cấu trúc Nhà - Làng - Nước.
Khi bàn về quá trình hình thành, trong công trình “Việt điện u linh tập”
[126], của Lý Tế Xuyên, do Lê Hữu Mục dịch, cho biết năm 823, viên đô hộ
Giao Châu Lý Nguyên Gia xây La Thành, đã phong thần Tô Lịch làm Thành
hoàng, dựng đền thờ [126, tr.73-74]. Qua nghiên cứu đó cho thấy, tín ngưỡng
Thành hoàng chính thức được triều đình xác lập từ đó, là điều kiện đầu tiên để
sau này, tín ngưỡng Thành hoàng phát triển mở rộng. Trong “Lĩnh Nam
Chích Quái” [76], Trần Thế Pháp cho biết, khi Lý Thái Tổ cho xây dựng
thành Thăng Long xong, phong thần cho Long Đỗ làm Thăng Long Thành
oàng Đại Vương [76, tr.210]. Trong công trình “Các hình thái tín ngưỡng,
tôn giáo ở Việt Nam”, Nguyễn Đăng Duy cũng chỉ ra rằng, tín ngưỡng Thành
hoàng của nước ta được hình thành rõ nét nhất trong thời kì phong kiến [16,
tr.94-95]. Như vậy, qua các nghiên cứu trên cho thấy, tín ngưỡng Thành
hoàng ở nước ta xuất hiện từ rất sớm, nó là một sự biến thể, giao thoa với tín
ngưỡng Thành hoàng của Trung Quốc. Nói như các nhà nghiên cứu, tín
ngưỡng Thành hoàng ở Trung Quốc sang Việt Nam đã được Việt Hóa, thể
hiện bản chất tư duy tín ngưỡng của người Việt.
Về đối tượng thờ tự trong tín ngưỡng Thành hoàng, tính cho tới thời
điểm hiện tại, có rất nhiều công trình bàn tới. Trong số đó không thể không kể
đến công trình “Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam” [32] của Nguyễn Duy
26
Hinh. Ông chỉ ra rằng, tín ngưỡng Thành hoàng ở nước ta có hai loại được thờ
chủ yếu là, “một dòng mang đậm gần nguyên xi mô hình Đường - Minh…
dòng thứ hai là Thành hoàng - Làng” [32, tr.97]. Theo Phan Kế Bính, trong
công trình “Việt Nam phong tục” [7], ông chỉ rõ, có hai đối tượng thờ tự
trong tín ngưỡng Thành hoàng là phúc thần và tà thần. Phúc thần được chia
thành thượng đẳng thần, trung đẳng thần, hạ đẳng thần. Còn tà thần là thờ bậy
bạ, như thờ thần bán lợn, thần trẻ con, thần ăn xin… [7, tr.92-93]. Với ý nghĩa
tương tự như vậy, trong công trình “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt
Nam” [96], Ngô Đức Thịnh chỉ rõ, diện mạo thờ Thành hoàng ở đồng bằng
Bắc Bộ đa dạng và phong phú như chính đời sống của người dân. Đó là việc
thờ tự các vị Thành hoàng có nguồn gốc từ Thiên thần và nguồn gốc Nhân
thần [96, tr.96]. Có thể thấy, quan điểm về đối tượng thờ tự của các nhà
nghiên cứu chỉ ra là khác nhau, song giữa chúng có điểm chung nhất định.
Trong các quan điểm nêu trên đều chỉ ra rằng, có hai đối tượng được thờ cúng
chủ yếu, đó là thờ các vị thần có nguồn gốc rõ ràng, được vua tước phong, và
hai là, thờ các vị thần không rõ nguồn gốc, hoặc do nhân dân sáng tạo ra, và
thổi cho nó sức mạnh của thần.
Bên cạnh các công trình bàn về tín ngưỡng Thành hoàng của người
Việt, trong đó có vùng đồng bằng Bắc Bộ, còn có các công trình được xuất
bản dưới dạng các bài báo như: Nguyễn Duy inh (2004), “Thần làng và
Thành hoàng”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 9; Đỗ Thị Minh Thúy (2010),
“Biến động của tín ngưỡng Thăng Long - Hà Nội và ảnh hưởng của nó trong
đời sống văn hóa đô thị hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 8; Đinh
Khắc Thuân (2014), “Thờ cúng Thành hoàng Việt Nam qua tài liệu án nôm”
Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4; Nguyễn Minh Tường (2013), “Tín
ngưỡng thờ Thành hoàng trong các làng xã Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã
27
hội, số 10 (71); Doãn Hữu Minh (2017), “Giá trị văn hóa của Thăng Long Tứ
trấn”, Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, số 8, v.v..
Như vậy, trên cơ sở khảo sát các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng
thờ Thành hoàng của người Việt nói chung, trong đó có người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ, là cơ sở khoa học cho tác giả luận án khái lược về nguồn gốc,
quá trình hình thành, các hình thức thờ tự của tín ngưỡng Thành hoàng vùng
Đồng bằng Bắc Bộ. Hầu hết, các nhà khoa học đều cho rằng, tín ngưỡng thờ
Thành hoàng trở thành hệ thống và phát triển mở rộng từ khi có sự giao thoa
văn hóa với người Trung Quốc. Chính vì thế, các vị thần ở nước ta mang tên
gọi Thành hoàng theo nghĩa Việt hóa. Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng, tín
ngưỡng thờ Thành hoàng của người Việt có điểm khác biệt cơ bản, đó chính là
yếu tố làm nên bản sắc trong tư duy tín ngưỡng tôn giáo của người Việt. Những
nghiên cứu đó là cơ sở khoa học để tác giả luận án góp phần vào việc tiếp tục
nghiên cứu, khái quát về tín ngưỡng thờ Thành hoàng của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ, với tư cách là một trong những tín ngưỡng dân gian phổ
biến và đặc trưng của vùng.
1.2. Tình hình nghiên cứu về những yếu tố triết học trong tín
ngƣỡng dân gian của ngƣời Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Qua khảo sát, tính cho đến thời điểm hiện tại, số lượng các công trình
nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian ở góc độ triết học rất ít. Điển hình trong số
đó là công trình của Trần Đăng Sinh và Nguyễn Hữu Thụ. Bên cạnh đó, việc
bàn về các yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian nói chung và tín ngưỡng
dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, nằm rải rác trong các công trình
nghiên cứu chung ở các góc độ tiếp cận khác nhau. Cụ thể như sau:
1.2.1. Những công trình tiêu biểu bàn về các yếu tố triết học về tự
nhiên trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
28
Công trình “Những khía cạnh Triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay” [81] của Trần Đăng Sinh.
Khi bàn về khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tác giả đã
chỉ rõ những khía cạnh triết học đó là những “quan niệm về vũ trụ trong tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ” [81, tr.96]. Cụ
thể trong quan niệm về vũ trụ trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên đó là những
quan niệm về không gian, thời gian - tức những phương thức tồn tại của vật
chất. Không gian trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, theo tác giả, đó là
“không gian trong tâm linh người Việt mang tính đa diện, đa chiều”, không
chỉ có “tám phương trời” mà còn có “mười phương đất”, “trời bao giờ cũng
gắn liền với đất, âm với dương, cao với thấp, đực với cái, nắng với mưa” [81,
tr.110]. Tác giả còn chỉ rõ, “không gian trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Việt còn được thể hiện rõ nét trong việc xác định không gian thờ cúng”
[81, tr.110]. Tác giả kết luận, quan niệm về không gian “ít nhiều mang tính tự
nhiên, chất phác, song nhìn chung là thần bí và duy tâm, thể hiện sự nhận thức
của chủ nhân nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển” [81, tr.110]. Còn quan
niệm về thời gian, tác giả khẳng định, “việc thờ cúng tổ tiên tại gia đình tiến
hành quanh năm, xuất phát từ quan niệm về đạo Hiếu của con cháu đối với tổ
tiên, lòng hiếu thảo của con cháu được biểu hiện khá tập trung ở các ngày sóc,
vọng hàng tháng và lễ tiết chung nhất hàng năm…” [81, tr.112]. Bên cạnh đó,
theo tác giả người Việt quan niệm thời gian có ngày tốt, xấu, nên việc “chọn
ngày, giờ “xấu” ,“tốt” để tiến hành công việc thành thói quan trong nếp nghĩ”
[81, tr.112]. Nếu chỉ phân tích khía cạnh thời gian như vậy, phải chăng đó có
phải là điều gượng ép cho quan niệm về thời gian được biểu hiện trong tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên hay không? Vì thời gian trong triết học là khái niệm
gắn liền với hình thức tồn tại của vật chất. Vậy, nếu quan niệm con người có
phần xác và phần hồn tức có không gian khác nhau, tồn tại ở hai thế giới với
29
hệ quy chiếu về thời gian khác nhau - tức có sự biến đổi của không gian và
thời gian trong quan niệm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên v.v..
Công trình “Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người
Việt ở đồng bằng Bắc Bộ” [106] của Nguyễn Hữu Thụ, nghiên cứu quan niệm
về tự nhiên và mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong tín ngưỡng thờ
Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ [106, tr.123]. Tác giả cho rằng,
“trong quan niệm của tín ngưỡng thờ Mẫu, yếu tố tự nhiên mà người Việt tìm
cách giải thích không phải là cái quá xa lạ với con người… mà chính là cái
không gian mà người Việt đang sống, là những yếu tố chi phối trực tiếp đến
quá trình sản xuất nông nghiệp của họ. Đó là đất, nước, cây, các hiện tượng
thuộc về thời tiết…” [106, tr.124]. Trong đó, trời “… được hiểu là không gian
sinh sống của nhiều vị thánh thần, trong đó có Mẫu Thượng Thiên…” [106,
tr.127], đất được “tôn vinh là Mẹ - Mẫu Địa” [106, tr.130], nước “… là yếu tố
mang tính âm, là gốc của mọi sự sinh sôi nảy nở của các loài cây trồng… Mẹ
Nước - được gọi là Mẫu Thủy…” [106, tr.131] và trong tín ngưỡng thờ Mẫu,
theo tác giả còn có “Mẫu Thượng Ngàn có nhiệm vụ coi sóc vùng rừng núi”
[106, tr.132]. Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong tín ngưỡng thờ
Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được tác giả phân tích chi tiết,
mang đậm màu sắc triết học. Tác giả nhận định: “Trong mối quan hệ thứ nhất
(quan hệ Mẹ với con), khi coi tự nhiên là mẹ… thì có thể hiểu rằng người Việt
coi… giới tự nhiên đã sinh ra con người, hay nói cách khác, con người đã được
sinh ra từ giới tự nhiên, được tự nhiên nuôi dưỡng và che chở bằng nguồn của
cải vô tận của mình” [106, tr.140]. Mối quan hệ thứ hai là “quan hệ giữa người
con với người mẹ (sự kính trọng, tôn trọng người mẹ)” [106, tr.140].
Ngoài ra, có thể kể đến quan điểm của các tác giả khi nghiên cứu về tín
ngưỡng dân gian, nhưng không trực tiếp đề cập dưới góc độ triết học cũng đã
chỉ ra yếu tố triết học về tự nhiên ẩn chứa trong tín ngưỡng dân gian nói
30
chung trong đó có tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc
Bộ như: công trình “Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” của
Nguyễn Đăng Duy; công trình “Tư tưởng Việt Nam” của Nguyễn Đăng Thục;
công trình “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” của Ngô Đức
Thịnh; công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam” của
Nguyễn Đức Lữ... và nhiều các công trình nghiên cứu dưới dạng các bài viết
trên các báo và tạp chí khác. Hầu hết các công trình nêu trên đều thừa nhận,
trong quá trình lao động sản xuất, tự nhiên là đối tượng nhận thức chủ yếu của
con người. Họ phản ánh tư duy của mình về tự nhiên được gửi gắm trong tín
ngưỡng dân gian thông qua việc xây dựng nên hình ảnh các vị thần mang
trong mình sức mạnh siêu nhiên, đồng thời gửi gắm nhiều ước mơ, sự khát
khao chinh phục, chiến thắng tự nhiên của cư dân người Việt.
Tóm lại, nhìn chung các công trình nghiên cứu yếu tố triết học về tự
nhiên trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ còn
nằm rải rác trong số ít các nghiên cứu. Hầu hết trong các kết quả nghiên cứu
của các tác giả đều chỉ rõ, các yếu tố triết học về tự nhiên trong tín ngưỡng
dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được biểu hiện rõ nét trong
các quan niệm về tự nhiên là không gian sinh tồn của con người. Tuy vậy,
những nghiên cứu đó mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu yếu tố triết học về tự
nhiên trong từng loại hình tín ngưỡng (chủ yếu là tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên
và tín ngưỡng thờ Mẫu). Song, các kết quả nghiên cứu đó là cơ sở khoa học
để tác giả luận án tiếp tục nghiên cứu theo hướng mới về các yếu tố triết học
tự nhiên trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
1.2.2. Những công trình tiêu biểu bàn về các yếu tố triết học về con
người trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Có thể kể đến các công trình nghiên cứu yếu tố triết học về con người:
31
Công trình “Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” [81], Trần Đăng Sinh cho rằng,
“con người sinh ra, có sự khác nhau, ai sống lâu, ai chết non, ai được đầu
thai… đều do hai thần trên trời là Nam Tào và Bắc Đẩu quyết định” [81,
tr.114], “người Việt tin rằng khi chết đi thân xác con người trở về với đất
mẹ… còn linh hồn bay lên trời” [81, tr.115] - tức chết không phải là hết, mà
là về một thế giới khác… Về quan niệm nhân sinh quan trong tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên, tác giả phân tích giá trị của nó thể hiện ở các khía cạnh như: Thờ
cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ là sự thể hiện đạo hiếu làm
người; thể hiện ý thức tưởng nhớ đến cội nguồn; là nét đẹp trong sinh hoạt
văn hóa cộng đồng.
Trong công trình “Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” [106], khi nghiên cứu yếu tố triết học về
con người trong tín ngưỡng thờ Mẫu, Nguyễn Hữu Thụ luận giải rằng, trong
quan niệm của các tín đồ tín ngưỡng thờ Mẫu, thì “cá nhân là do căn số của
con người quy định và được sắp xếp từ trước” [106, tr.103]. Còn quan niệm
về mối quan hệ giữa con người với xã hội trong tín ngưỡng thờ Mẫu, tác giả
nhận định, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ phần nào
phản ánh mối quan hệ giữa con người với xã hội thông qua “khát vọng giải
phóng con người (mà trước hết là người phụ nữ) khỏi những ràng buộc và
chế ngự của các thể chế xã hội…” [106, tr.104]. Theo tác giả, tín ngưỡng thờ
Mẫu còn phản ánh những “mong muốn, khát vọng về tự do, hướng thiện, về
cuộc sống hạnh phúc của con người trong quan hệ với xã hội” [106, tr.114] và
“thể hiện truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt
Nam” [106, tr.114].
Ngoài ra, có thể kể đến quan điểm của các tác giả khi nghiên cứu chỉ ra
yếu tố triết học về tự nhiên ẩn chứa trong tín ngưỡng dân gian nói chung trong
32
đó có tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Chẳng
hạn, công trình “Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” của Nguyễn
Đăng Duy; công trình “Tư tưởng Việt Nam” của Nguyễn Đăng Thục; công
trình “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” của Ngô Đức Thịnh;
công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam” của Nguyễn
Đức Lữ (chủ biên); công trình “Tôn giáo, tín ngưỡng các dân tộc ở Việt
Nam” của Nguyễn Văn Minh, v.v.. Trong các công trình kể trên, ít nhiều
cũng bàn về và chỉ ra quan niệm về cuộc đời con người, số phận của con
người ẩn chứa trong tín ngưỡng dân gian của Việt Nam nói chung và tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng.
Như vậy, có thể thấy rằng, hầu hết trong các công trình nghiên cứu của
các tác giả đi trước, khi đề cấp đến vấn đề quan niệm về con người trong tín
ngưỡng dân gian nói chung, trong đó có tín ngưỡng dân gian của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ, đều khẳng định, yếu tố triết học về con người được
phản ánh sắc nét trong tín ngưỡng dân gian trong quan niệm về nguồn gốc, số
phận, cuộc sống của họ trong xã hội hiện tại, cũng như sau khi chết là sống ở
một thế giới khác. Tuy chưa được cụ thể và còn nằm rải rác trong các nghiên
cứu về từng loại hình tín ngưỡng dân gian của vùng, nhưng những công trình
đó là tài liệu quý báu để tác giả luận án tiếp tục nghiên cứu, góp phần làm
sáng tỏ hơn một cách có hệ thống về yếu tố triết học con người trong tín
ngưỡng dân gian của vùng đồng bằng Bắc Bộ.
1.2.3. Những công trình tiêu biểu bàn về các yếu tố triết học về xã hội
trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Cho tới nay, thực sự chưa có công trình nào chuyên nghiên cứu về yếu
tố xã hội trong tín ngưỡng dân gian được tiếp cận dưới góc độ triết học. Mặc
dù vậy, tìm trong hệ thống các công trình khoa học hiện có, thì công trình
“Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt
33
vùng đồng bằng Bắc Bộ” [81] của Trần Đăng Sinh và công trình “Khía cạnh
triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ”
[106] của Nguyễn Hữu Thụ có đề cập đến yếu tố triết học về xã hội trong hai
loại hình tín ngưỡng chủ yếu của vùng này là tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên và
tín ngưỡng thờ Mẫu. Khi đề cập tới các vấn đề xã hội trong các tín ngưỡng
dân gian của vùng, hai tác giả đều nhất trí lựa chọn các phương án phân tích
yếu tố xã hội xuất phát từ các mối quan hệ của con người được phản ánh
trong đó; từ đó nêu ra các giá trị ẩn chứa trong chúng. Đó là các truyền thống
tốt đẹp của dân tộc như: uống nước nhớ nguồn, truyền thống yêu nước, đoàn
kết, tương thân tương ái; trân trọng các giá trị cao đẹp của con người, tôn vinh
người phụ nữ… Đó là những cơ sở quan trọng để tác giả luận án kế thừa và
phát triển luận điểm triết học của mình.
Ngoài những công trình kể trên, nghiên cứu về yếu tố xã hội còn được
rất nhiều các các nhà khoa học khác đề cập. Song trong hầu hết, các công
trình nghiên cứu yếu tố triết học xã hội trong tín ngưỡng dân gian được biểu
hiện khá rời rạc. Có thể kể đến một số các công trình chủ yếu sau: Công trình
“Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” của Ngô Đức Thịnh; công
trình “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm; công trình “Góp phần
tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam” của Nguyễn Đức Lữ (chủ biên);
công trình “Tục thờ thánh Mẫu ở Việt Nam” của Vũ Ngọc Khánh; công trình
“Tín ngưỡng và sinh hoạt văn hóa cộng đồng” của Ngô Đức Thịnh (chủ
biên); công trình “Tôn giáo, tín ngưỡng các dân tộc ở Việt Nam” của Nguyễn
Văn Minh, cùng nhiều các công trình khác… Nhìn chung, trong các công
trình nêu trên, đều luận bàn, lý giải các vấn đề xã hội ẩn chứa trong tín
ngưỡng dân gian, trong đó có tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ. Đó là sự đề cao vai trò của người phụ nữ và khát vọng giải
phóng người phụ nữ; đó là tư tưởng đề cao độc lập chủ quyền quốc gia dân
34
tộc; là sự phản ánh truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết chống giặc
ngoại xâm; là tư tưởng cao đẹp về việc gìn giữ và phát huy giá trị đạo đức
truyền thống.
Như vậy, có thể thấy rằng, hầu hết trong các công trình nghiên cứu của
các tác giả đi trước, khi đề cấp đến các yếu tố triết học về xã hội trong tín
ngưỡng dân gian nói chung, trong đó có tín ngưỡng dân gian của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ, đều xoay quanh các quan niệm về xã hội và các mối
quan hệ xã hội. Nội dung của nó đề cập chủ yếu đến vấn đề về người phụ nữ,
về truyền thống yêu nước, truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm,
truyền thống hiếu nghĩa, tinh thần đoàn kết của nhân dân. Tuy nhiên, những
công trình đó mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu yếu tố triết học về xã hội
trong từng loại hình tín ngưỡng dân gian cụ thể, mà chưa có bất cứ công trình
nghiên cứu nào đề cập đến việc nghiên cứu yếu tố triết học về xã hội trong hệ
thống tín ngưỡng dân gian của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Cho nên, qua nghiên
cứu đề tài, tác giả luận án cố gắng làm sáng tỏ vấn đề này.
1.3. Những vấn đề cần tập trung giải quyết trong luận án
Việc nghiên cứu biểu hiện của một số yếu tố triết học cơ bản trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, rút ra những giá trị
và những hạn chế của nó đối với đời sống tinh thần của vùng là điều cần thiết.
Tính đến thời điểm hiện tại, thực sự chưa có công trình nào đi vào nghiên cứu
một cách có hệ thống và chuyên sâu. Để làm được điều này tác giả luận án lựa
chọn và xác định những vấn đề thuộc nội dung của luận án cần phải tập trung
giải quyết như sau:
Một là, trên cơ sở tiếp thu những thành tựu nghiên cứu của các tác giả
đi trước để tác giả luận án tìm hiểu thuật ngữ tín ngưỡng dân gian ở góc độ
tiếp cận triết học, qua đó, sử dụng nó như một công cụ để giải quyết các vấn
đề có liên quan đến luận án.
35
Hai là, tác giả luận án cố gắng làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra
đời, tồn tại của tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ, trên cơ sở đó,
phân loại, miêu tả khái quát và chỉ ra các đặc điểm cơ bản của tín ngưỡng dân
gian vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Ba là, tác giả luận án cố gắng hệ thống hóa, làm rõ hơn nữa một số yếu
tố triết học cơ bản trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng
Bắc Bộ, thông qua các quan niệm về tự nhiên, về con người và về xã hội
trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, thờ Mẫu và thờ Thành hoàng.
Bốn là, luận án cố gắng làm rõ những giá trị và những hạn chế của các
quan niệm về tự nhiên, về con người, về xã hội trong tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.
Tiểu kết chƣơng 1
Đồng bằng Bắc Bộ vốn được coi là cái nôi sản sinh ra các giá trị văn hóa
của cộng đồng người Việt, trong đó có tín ngưỡng dân gian. Cho tới nay, tín
ngưỡng dân gian của người Việt vẫn tồn tại và đang có chiều hướng gia tăng.
Nó là một món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của người dân
vùng châu thổ sông Hồng. Sở dĩ, cho tới nay, tín ngưỡng dân gian không bị
mai một, mà nó còn có chiều hướng ngày càng gia tăng là bởi tồn tại trong nó
có những giá trị nhất định. Chính vì lẽ đó, cho tới nay, bàn về tín ngưỡng dân
gian vùng đồng bằng Bắc Bộ, có nhiều học giả quan tâm nghiên cứu ở nhiều
khía cạnh tiếp cận khác nhau. Từ góc độ lịch sử, văn hóa, tôn giáo, tín
ngưỡng, cho đến triết học đều quan tâm nghiên cứu. Qua việc tổng quan các
công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, đồng thời đánh giá
những thành quả mà các tác giả đi trước đã đạt được và chưa đạt được một
cách khách quan, tác giả luận án nhận thấy nghiên cứu về một số yếu tố triết
học cơ bản trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc
Bộ, trên cơ sở đó rút ra những giá trị và những hạn chế của nó đối với hoạt
36
động tín ngưỡng dân gian của vùng, thực sự chưa có công trình nào đề cập
đến một cách chuyên sâu và có hệ thống. Do vậy, tác giả nhận thấy, đề tài
“Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ”, mà tác giả lựa chọn làm đề tài luận án Tiến sĩ hoàn toàn không
trùng lắp với bất cứ công trình nghiên cứu nào và hoàn toàn mới so với các
công trình đã công bố từ trước tới nay.
37
Chƣơng 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN CỦA
NGƢỜI VIỆT VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
2.1. Khái niệm tín ngƣỡng dân gian
Đây là khái niệm còn đang có nhiều tranh luận và chưa có sự thống
nhất. Cho đến nay, chúng ta chưa tìm thấy một định nghĩa nào tương đối hoàn
chỉnh về khái niệm này. Cũng chính từ sự chưa có sự phân định rạch ròi về
ngữ nghĩa của hai khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo, nên việc tìm hiểu những
thuật ngữ có liên quan như: tôn giáo nguyên thuỷ, tôn giáo sơ khai, tín
ngưỡng dân gian, tín ngưỡng dân dã... tất yếu sẽ không tránh khỏi lúng túng.
Trong khuôn khổ của luận án này, tác giả chỉ đưa ra quan điểm của mình về
khái niệm tín ngưỡng dân gian với mục đích sử dụng nó là công cụ để giải
quyết các vấn đề liên quan được đề cập.
Nhìn từ góc độ văn hoá, tín ngưỡng dân gian được coi là một hình thức
văn hóa tâm linh, là một thành tố cấu thành của văn hoá. Như vậy, tín ngưỡng
dân gian cũng được xem như một thành tố của văn hoá dân gian. Đây là quan
điểm của Phan Kế Bính, Toan Ánh, Nguyễn Đức Lữ, Trần Quốc Vượng, Trần
Ngọc Thêm và nhiều tác giả khác. Do vậy, nếu văn hoá dân gian được hiểu là
loại hình văn hoá được ra đời từ sự sáng tạo của nhân dân, thì tín ngưỡng dân
gian cũng có thể được xem là loại hình tín ngưỡng do chính nhân dân - trước
hết là những người nông dân - sáng tạo ra trên cơ sở những tri thức phản ánh
sai lệch dưới dạng kinh nghiệm, cảm tính từ cuộc sống hằng ngày. Tín
ngưỡng dân gian còn phản ánh những ước nguyện tâm linh của con người và
của cả cộng đồng, là niềm tin vào thần linh thông qua những nghi lễ thờ cúng,
gắn liền với phong tục, tập quán, truyền thống. Đó cũng chính là đặc điểm cơ
bản để phân biệt sự khác nhau giữa tín ngưỡng dân gian với tín ngưỡng, tôn
giáo. Hồ Bá Thâm cũng nhất trí với cách gọi tín ngưỡng dân gian và cho đấy
38
“là một lĩnh vực quan trọng trong đời sống tâm linh, rất cần đến sự quan tâm
của toàn xã hội" [88, tr.9].
Nguyễn Minh San gọi tín ngưỡng dân gian là “tín ngưỡng dân dã” có ý
khẳng định về tính nguyên sơ, nguyên thuỷ, tính phổ biến, tính quần chúng
của nó. Tín ngưỡng dân dã bắt nguồn từ niềm tin sơ khởi, ngây thơ, chất phác
của cư dân nông nghiệp, được lưu truyền từ đời này qua đời khác trong dân
gian [79, tr.9].
Nguyễn Thọ Khang thì cho rằng, “tuy có cùng bản chất (nhận thức thế
giới ảo) nhưng tín ngưỡng dân gian ở trình độ chưa phát triển như tôn giáo:
chỉ mới dừng ở các huyền thoại, thần tích, truyền thuyết mà chưa có hệ thống
giáo lý; chưa đối lập hẳn thế giới thần linh với con người nên chưa có tính
cứu thế đầy đủ” [46, tr.28].
Ngược lại, một số tác giả khác lại không tán thành với cách gọi tín
ngưỡng dân gian. Đặng Nghiêm Vạn cho rằng, “thuật ngữ tín ngưỡng dân
gian cần được bàn lại” [118, tr.23]. Nguyễn Đăng Duy cũng đồng tình với ý
kiến này và cho rằng: “...không nên gọi là tín ngưỡng dân gian hay tín ngưỡng
dân dã... cần phải đính chính lại...” [15, tr.25]. Bởi lẽ, theo tác giả, đã có khái
niệm tín ngưỡng dân gian thì phải có khái niệm tín ngưỡng bác học, cũng
giống như đã có khái niệm văn học nghệ thuật dân gian và khái niệm văn học
nghệ thuật bác học. Nếu không thể phân chia như vậy đối với tín ngưỡng thì
chỉ có tín ngưỡng nói chung của cộng đồng người, không có cái gọi là tín
ngưỡng dân gian.
Những quan điểm trên tuy có vẻ trái ngược nhau, nhưng đều chứa đựng
những yếu tố hợp lý nhất định. Bản thân tín ngưỡng vốn không bắt nguồn từ
niềm tin khoa học mà từ niềm tin phi khoa học, tức niềm tin từ những điều
thần bí trong chính cuộc sống của họ mà họ chưa lý giải được. ơn nữa, gọi
tín ngưỡng dân gian, vì các loại hình tín ngưỡng này ra đời từ hoạt động lao
39
động sản xuất của người dân, trước hết là những người nông dân, từ lâu vốn
đã ăn sâu bén rễ và lưu truyền rộng rãi, đông đảo trong các tầng lớp nhân dân
qua nhiều thế hệ. Do vậy, tác giả vẫn nhất trí với cách gọi “tín ngưỡng dân
gian”. Kế thừa những quan điểm nêu trên, tín ngưỡng dân gian được xem xét
trên những góc độ cụ thể như sau:
Xét về nguồn gốc hình thành, xuất phát từ chính hoạt động lao động
sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào môi trường tự nhiên, trong những điều kiện
bất định, thậm chí nguy hiểm, ở một số thời điểm con người tỏ ra bất lực. Do
đó, con người cần có nhu cầu, mong muốn tìm được một lời giải thích trước
sức mạnh thần bí của tự nhiên và niềm an ủi cho cuộc sống thực tại của họ.
Họ tìm tới niềm tin vào một lực lượng thần bí để giúp họ thích nghi với thực
tế. Do đó, có thể nhận thấy rằng, cũng giống như tín ngưỡng nói chung, tín
ngưỡng dân gian ra đời bắt nguồn từ niềm tin của con người vào cái thiêng,
được hình thành từ chính hoạt động sản xuất vật chất - trước tiên là hoạt động
sản xuất nông nghiệp thâm canh trồng lúa nước, được lưu truyền trong dân
gian từ đời này qua đời khác.
Xét theo hệ thống - cấu trúc, tín ngưỡng dân gian là một thành tố cấu
thành của văn hóa dân gian, là một bộ phận của ý thức xã hội. Bởi vì, các hoạt
động của tín ngưỡng dân gian luôn ẩn chứa những biểu hiện vốn của của văn
hóa dân gian thông qua các lễ hội dân gian truyền thống, gắn liền với các sinh
hoạt tín ngưỡng của người dân. Bên cạnh đó, tín ngưỡng dân gian được coi là
một bộ phận của hình thái ý thức xã hội, bởi vì, xét theo nguồn gốc ra đời thì
tín ngưỡng dân gian là kết quả phản ánh trực tiếp hoạt động lao động sản xuất
nông - lâm - ngư nghiệp của người dân. Nó phản ánh ước mơ, nguyện vọng cầu
bình an, cầu gió thuận mưa hòa, cầu mong được sự che chở của thần linh đối
với đời sống của họ.
40
Xét theo chức năng, cũng giống như tôn giáo, tín ngưỡng dân gian ra
đời nhằm mục đích giải thích thế giới theo lăng kính của người dân lao động,
phản ánh ước mơ nguyện vọng giản dị nhưng chính đáng của người dân, thể
hiện niềm tin, lòng kính trọng, sự ngưỡng vọng đối với các thực thể thần bí,
siêu nhiên của thế giới. Chẳng hạn, ở nước ta, phương thức sản xuất nông
nghiệp là chủ yếu, vị trí địa lý ba mặt giáp biển, để tồn tại được người dân cần
phải hiểu tự nhiên - tức thế giới mà họ đang sống. Vì thế, họ tìm cách lý giải
chúng theo lăng kính của họ. Tuy nhiên, nhận thức đó còn mang đậm màu sắc
ngây thơ, chất phác. Đồng thời, họ gửi gắm vào đó những ước mơ, nguyện
vọng chính đáng của bản thân, mong được che chở, phù hộ... để họ có cuộc
sống tốt đẹp hơn.
Tóm lại, ở góc độ triết học có thể hiểu tín ngưỡng dân gian là một bộ
phận của ý thức xã hội, tồn tại dưới dạng văn hóa tinh thần, được nhân dân
sáng tạo ra trong hoạt động lao động sản xuất nông nghiệp, được tạo dựng
trên cơ sở niềm tin vào “cái thiêng”, phản ánh đời sống tinh thần phong phú
của người Việt dưới dạng những tri thức kinh nghiệm, cảm tính về thế giới, về
con người, được lưu truyền từ đời này sang đời khác, gắn liền với phong tục,
tập quán trong cộng đồng làng, xã truyền thống của vùng, miền.
2.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến sự hình thành, tồn tại của tín
ngƣỡng dân gian của ngƣời Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
2.2.1. Điều kiện địa lý - tự nhiên
Để tồn tại và phát triển, loài người không chỉ thích ứng với tự nhiên
theo kiểu bản năng sinh tồn của con vật, mà còn cải tạo tự nhiên thông qua
hoạt động lao động sản xuất. Thông qua lao động, con người ngày càng tìm ra
nhiều nguồn thức ăn, giúp cho cơ thể và bộ não phát triển. Lao động giúp con
người hoàn thiện các giác quan, phát triển tư duy và nắm bắt được các quy
luật của tự nhiên. Nhờ bộ óc phát triển, con người từng bước biết so sánh, biết
41
tổng hợp, biết khái quát để rút ra tri thức bản chất về thế giới. Đặc biệt, thông
qua lao động, con người còn sáng tạo ra các hoạt động văn hóa tinh thần,
trong đó có các hình thái tín ngưỡng - tôn giáo. Các hình thái này phản ánh
ước mơ, nhu cầu nguyện vọng của con người, trước hết là của chính những
người lao động.
Mỗi sinh hoạt tín ngưỡng đều là sự đúc kết các mối quan hệ, phản ánh
mối quan hệ của con người với hiện thực khách quan - môi trường tự nhiên.
Chính môi trường tự nhiên và xã hội là cơ sở hình thành nên tín ngưỡng,
trong đó có tín ngưỡng dân gian. Ở thời kì sơ khai, khi họ phải thường xuyên
phải đối mặt với tự nhiên, cuộc sống của họ bị lệ thuộc chủ yếu vào tự nhiên,
thì tự nhiên là đối tượng nhận thức chính của họ. Do vậy, mối quan hệ giữa
con người với môi trường tự nhiên được coi là mối quan hệ chủ yếu, chi phối
và ảnh hưởng đến các mối quan hệ khác. Ngay cả khi con người có những
bước tiến mới trong lịch sử, thì điều kiện tự nhiên vẫn là nhân tố quyết định,
ảnh hưởng đến sự sinh tồn của họ.
Điều kiện địa lý tự nhiên bao gồm các điều kiện về đất, nước, khí hậu,
khoáng sản… được hiểu là môi trường sinh thái để con người tồn tại và phát
triển. Đó là không gian con người sinh sống, lao động sản xuất để tạo ra
nguồn của cải phục vụ cuộc sống của họ. Bên cạnh đó, con người còn chịu
những ảnh hưởng từ tự nhiên. Tự nhiên nuôi dưỡng con người, song cũng
chính tự nhiên lấy đi sự sống của con người. Tự nhiên không chỉ có vai trò to
lớn đối với sự tồn tại của xã hội, mà hơn thế nữa, nó còn là một trong những
nguyên nhân chính ảnh hưởng đến sự hình thành, tồn tại và phát triển của văn
hóa, trong đó có tín ngưỡng dân gian. Do vậy, nghiên cứu cơ sở hình thành tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ không thể không
nghiên cứu tới các yếu tố về điều kiện địa lý - tự nhiên của vùng.
42
Theo tài liệu của giới sử học và khoa học địa lý thì đồng bằng sông
Hồng (hay châu thổ sông Hồng, đồng bằng Bắc Bộ) là một vùng đất rộng lớn
nằm quanh khu vực hạ lưu sông ồng thuộc miền Bắc Việt Nam, vùng đất
bao gồm 11 tỉnh và thành phố như: Vĩnh Phúc, à Nội, Bắc Ninh, Hà Nam,
ưng Yên, ải Dương, ải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Quảng
Ninh. Gần như đồng nghĩa với đồng bằng sông Hồng là vùng trung châu,
khác với vùng chân núi trung du và núi cao thượng du. Không giống như
vùng đồng bằng sông Cửu Long, các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng
chỉ có 2 tỉnh Thái Bình và ưng Yên là không có núi, do đó khu vực này
thường được gọi là châu thổ sông Hồng.
Về vị trí, diện tích, đồng bằng Bắc Bộ trải rộng từ 19053’B (huyện
Nghĩa ưng) đến 21034’B (huyện Lập Thạch), từ 105
017’Đ (huyện Ba Vì)
đến 10707’Đ (trên đảo Cát Bà). Về địa lý, toàn bộ miền đồng bằng Bắc Bộ
nằm trên một lớp đá kết tinh cổ, loại giống nền đá ở vùng Đông bắc. Đồng
bằng Bắc Bộ có nhiều ô trũng tự nhiên, điển hình là ô trũng à Nam Ninh, ô
trũng ải ưng và ô trũng Nho Quan. Ngoài ra còn có rất nhiều đầm lầy.
Vùng có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình năm
khoảng 22,5-23,50C. Lượng mưa trung bình năm là 1400-2000mm, là điều
kiện thuận lợi cho thảm thực vật phát triển phong phú đa dạng cả về chủng
loại và giống loài, đặc biệt là điều kiện để cư dân nơi đây phát triển nông
nghiệp thâm canh trồng lúa nước.
Điều kiện địa lý - tự nhiên đó, đã mang đến cho cư dân vùng đồng bằng
Bắc Bộ thảm thực vật đa dạng và phong phú, bao gồm cả tài nguyên rừng, tài
nguyên biển; là môi trường rất thích hợp cho sự phát triển của các loài thực
vật, đa dạng về chủng loại và giống loài hơn là sự phát triển cho hệ động vật
riêng biệt. Đó cũng là điều kiện cho sự phát triển nền nông nghiệp của vùng.
Nhiều kết quả nghiên cứu của ngành khảo cổ học cho thấy, từ xa xưa, cư dân
43
Việt cổ đã biết thuần hóa các loài thực vật để phục vụ cuộc sống của mình.
Trong cuốn “Đại cương Lịch sử Việt Nam” [78], các nhà sử học Trương ữu
Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh viết:
Dựa vào sự phân tích bào tử phấn hoa ở hang Ma (Thái Lan), các
nhà khảo cổ học dự đoán rằng, có khả năng cư dân văn hóa òa
Bình đã biết đến nông nghiệp sơ khai, nông nghiệp trồng rau quả
hoặc cây cho củ. Cho đến khi bước sang cuối thời kì đá mới cách
chúng ta khoảng 6000 năm, trên cơ sở phát triển mạnh mẽ của kĩ
thuật chế tác đá và làm đồ gốm của cư dân bấy giờ đã đánh dấu
bước chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống. Phần lớn các bộ lạc đều
bước vào giai đoạn nông nghiệp trồng lúa nước [78, tr.18-20].
Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu về khảo cổ học cũng chỉ ra rằng,
sự tiến bộ về kĩ thuật chế tác đá và sự phong phú về loại hình công cụ lao
động sản xuất, nền kinh tế của cư dân người Việt bấy giờ đã có bước phát
triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Địa bàn cư trú của cư dân được mở rộng;
họ di chuyển từ vùng núi cao xuống vùng đồng bằng, ven biển và hải đảo với
các hoạt động kinh tế đa dạng. Xen lẫn với hoạt động nông nghiệp trồng lúa
nước là hoạt động đánh bắt cá ven sông, suối, ven biển. Những dấu vết về
lưỡi rìu, cuốc đá, dấu vết chì lưới, xương cá (phát hiện ở Gò Trũng - Thanh
Hóa, Hạ Long - Quảng Ninh)… là minh chứng cho sự phong phú trong lao
động sản xuất của cư dân nơi đây thời kì sơ khai trong lịch sử.
Như vậy, có thể thấy, đối với người Việt, vai trò của tự nhiên rất quan
trọng. Tự nhiên cung cấp cho họ những nguồn thức ăn cần thiết. Chính vì thế,
muốn tồn tại được, trước hết, họ phải hiểu môi trường họ đang sinh sống.
Giống như các dân tộc của nền văn minh nông nghiệp trên thế giới,
người Việt cũng sống rất hoà đồng, gắn bó với thiên nhiên, bởi chính thiên
nhiên đã đem lại nguồn của cải nuôi sống họ. Sự yêu mến, quý trọng, đã dẫn
44
họ đến ý thức bảo vệ, tôn thờ, sùng bái tự nhiên. Từ đó, tín ngưỡng thờ đất,
nước, cây cối, súc vật, sông, núi, biển, trời... đã hình thành. Có thể thấy rằng,
những sự vật mà tạo hoá sinh ra trong vũ trụ này - gắn liền với hoạt động sống
của con người đều được người Việt thờ cúng.
ơn nữa, đồng bằng Bắc Bộ với địa hình phức tạp, núi cao xen lẫn với
sông sâu, biển cả và đồng bằng, khí hậu biến đổi thất thường: lũ lụt, hạn hán,
bão tố kéo dài… nên với một nền nông nghiệp tự nhiên là chủ yếu, thì nhu
cầu trị thủy rất quan trọng. Do trình độ nhận thức còn thấp kém, họ bất lực
trước sức mạnh của tự nhiên. Trước sự sợ hãi đó, họ đã thần thánh hóa, ngụy
tạo cho tự nhiên một sức mạnh kì vỹ. Họ sùng bái tự nhiên với niềm tin tránh
khỏi sự trừng phạt. Hình ảnh về các vị thần sông, thần biển, thần mây, thần
mưa, thần sấm, thần chớp, các vị Thánh Mẫu cai quản các vùng trời, biển, đất,
núi rừng… cho đến ngày nay vẫn còn tồn tại. Nó phản ánh sự nhận thức của
con người, và cách ứng xử của con người trước tự nhiên. Đúng như nhận xét
của Ăngghen: “Tất cả mọi tôn giáo, chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào
trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc
sống hàng ngày của họ” [9, tr.437].
2.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Với phương thức sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, phát triển trên nền
tảng một nền kinh tế phức tạp đa thành phần, nên kết cấu xã hội trong suốt
chiều dài lịch sử phát triển của cư dân người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ đã
để lại những dấu ấn nhất định. Trong cơ cấu kinh tế của cư dân vùng đồng
bằng Bắc Bộ, tuy sản xuất nông nghiệp đóng vai trò chủ yếu, song những
ngành kinh tế khác như tiểu thủ công… cũng đóng vai trò quan trọng. Các
nghiên cứu khảo cổ học cho thấy, từ rất sớm, ở đồng bằng Bắc Bộ đã xuất
hiện những làng nghề truyền thống, có những làng đã làm ra các sản phẩm nổi
tiếng trong khu vực, và cho đến nay lan rộng trên khắp cả nước như: làng
45
chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình), dệt chiếu ưng à (Thái Bình), làm gốm
sứ Bát Tràng (Gia Lâm - Hà Nội), đúc đồng Nam Định… Với nền sản xuất
nhiều ngành nghề như vậy, tất yếu sẽ dẫn đến nhu cầu trao đổi, buôn bán,
thông thương giữa các vùng, các chợ được hình thành. Phạm vi hẹp có chợ
quê, rộng hơn có chợ huyện, tỉnh. Song, hoạt động thương nghiệp không phải
là hoạt động chủ yếu của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nền kinh tế
nông nghiệp trồng lúa nước mang tính tự nhiên, tự cấp, tự túc vẫn là chính
[81, tr.68]. Do vậy, với đặc trưng của sản xuất nông nghiệp, người Việt buộc
phải liên kết chặt chẽ trong các cộng đồng làng xóm để quai đê, lấn biển, khai
phá rừng, mở rộng địa bàn sinh sống, và chống lại sự bành trướng xâm nhập
lãnh thổ, đồng hóa văn hóa của kẻ thù.
Nhiều nhà nghiên cứu như Nguyễn Hùng Hậu, Trần Đăng Sinh… đã
chỉ ra rằng, phương thức sản xuất của cư dân nông nghiệp Việt Nam, trong đó
có cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, có dấu ấn của phương thức sản xuất châu
Á. Do đó, xét về mặt kinh tế, Nguyễn Hùng Hậu viết, “sở hữu chỉ tồn tại với
tư cách là sở hữu tập thể về ruộng đất, bởi vậy, không có sở hữu tư nhân
(không có chế độ tư hữu) về ruộng đất và đó là tất cả các hiện tượng của
phương Đông, là chiếc chìa khóa để hiểu toàn bộ phương Đông” [31, tr.43].
Và như vậy, ở Việt Nam cũng không loại trừ những đặc điểm chung đó. Xét
trong phương thức sản xuất châu Á, theo Nguyễn Hùng Hậu, về mặt xã hội,
“công xã nông thôn có tính chất biệt lập, nó giống như những ốc đảo độc lập,
như những mảnh nhỏ của con giun sau khi chặt đứt ra chúng vẫn sống và tồn
tại.” [31, tr.44]. Trên cơ sở đó, xét theo cấu trúc xã hội của người Việt nói
chung, và cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, thì “làng có cấu trúc chặt,
là đơn vị kinh tế - xã hội - quân sự - văn hóa hoàn chỉnh” [81, tr.69]. Làng là
tập hợp của những dòng họ, lấy gia đình làm hạt nhân nền tảng. Họ sống quần
tụ trong một không gian chung, lao động sản xuất và có những hình thức sinh
46
hoạt văn hóa tinh thần đáp ứng nhu cầu tâm linh tín ngưỡng của họ. Do vậy,
với tư cách là một đơn vị kinh tế trong phương thức sản xuất châu Á, thì làng
của người Việt Nam nói chung, trong đó có làng của người dân vùng đồng
bằng Bắc Bộ nói riêng, có vai trò hết sức quan trọng. Đó là, việc hình thành
và gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, tâm linh, tín ngưỡng, trong đó
có ý thức về cội nguồn, lòng biết ơn những người đã có công tạo dựng nghề
nghiệp và cả những người đã chiến đấu để bảo vệ cuộc sống cho mọi người.
Bên cạnh hoạt động lao động sản xuất, cư dân người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ luôn phải chống giặc ngoại xâm, chống lại sự bành trướng, xâm
lược lãnh thổ và đồng hóa văn hóa. Theo nhận định của các nhà nghiên cứu
thì, vào cuối giai đoạn văn minh sông ồng, trên cơ sở văn hóa Đông Sơn
phát triển rực rỡ, nhà nước Văn Lang ra đời. Mặc dù, đó là nhà nước phôi
thai, kết cấu cộng đồng nguyên thủy vẫn chưa hoàn toàn bị thủ tiêu, sự phân
hóa giai cấp, phân công lao động, sự xuất hiện của chế độ tư hữu, v.v.. chỉ
mới bắt đầu, thì đã bị nhà Tần, rồi đến nhà án xâm lược, đặt ách nô dịch hơn
nghìn năm. Cộng đồng đó, đáng lẽ bị phá vỡ trong quá trình phát triển của
Nhà nước Văn Lang, thì nay phải cố kết để tạo nên sức mạnh chống xâm lược
và chống đồng hóa. Phan Huy Lê cho rằng, chỉ tính từ cuộc kháng chiến
chống quân Tần thế kỉ III Tr.CN đến 1975, dân tộc ta đã phải tiến hành 15
cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, trong đó có 12 cuộc chiến tranh giành thắng
lợi hiển hách, chỉ có 3 cuộc kháng chiến bị thất bại tạm thời dẫn đến ba giai
đoạn mất nước đau thương và nguy hiểm [31, tr.36]. Cùng với quan niệm
cuộc sống của con người vẫn tồn tại sau khi chết, nên người Việt muốn bày tỏ
lòng biết ơn đối với những vị tướng tài ba, những vị anh hùng áo vải và các
nghĩa sĩ đã anh dũng hi sinh để đem lại cho họ cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Họ đã suy tôn các vị ấy thành những vị thần với những chức tước và phẩm
hàm qua sự cống hiến của họ. Chẳng hạn, việc thờ cúng vị vua Hùng, thờ
47
cúng các vị vua, vị tướng tài của các triều đại như oàng Mười (tức tướng Lê
Khôi dưới triều Lê, giúp Lê Lợi đánh tan giặc Minh), ưng Đạo Đại Vương
Trần Quốc Tuấn, cho đến việc thờ cúng Tổ tiên trong gia đình…
2.2.3. Ảnh hưởng của sự giao lưu văn hóa
Quá trình giao thoa văn hóa là một trong những điều kiện để tín
ngưỡng dân gian cũng như các yếu tố văn hóa, tư tưởng có thể dung hòa cùng
tồn tại. Đó có thể là sự giao thoa giữa văn hóa bản địa với các văn hóa ngoại
lai. Biểu hiện cụ thể ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, đó là sự ảnh hưởng mạnh mẽ
của các tư tưởng văn hóa ngoại lai, đặc biệt là tư tưởng của Nho giáo, Phật
giáo và Đạo giáo đối với các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của vùng. Bàn về
điều này, các nhà nhân học Mỹ cho rằng “giao lưu tiếp biến văn hóa là quá
trình trong đó một nên văn hóa thích nghi, ảnh hưởng một nền văn hóa khác
bằng cách vay mượn nhiều nét đặc trưng của nền văn hóa ấy” [56, tr.10]. Cụ
thể vấn đề này như sau:
- Sự ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với tín ngưỡng dân gian
của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ:
Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn của thế giới, có sức ảnh hưởng
và lan tỏa ra khắp các ngõ ngách trong đời sống tinh thần của người dân
những nơi mà nó xâm nhập. Phật giáo ra đời ở Ấn Độ, do thái tử Tất Đạt Đa
sáng lập, và sau này được các học trò của ông tổng kết lại những lời dạy của
Phật trong Tam Tạng Kinh. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau khi bàn
về sự du nhập của Phật giáo vào nước ta. Trong cuốn “Hỏi và đáp về văn hoá
Việt Nam” cũng nêu: “Đạo Phật vào đất Việt Nam từ rất sớm, sách Thủy
Kinh Chú (đời Đường - Trung Quốc) có ghi vào thế kỉ III Tr.CN, vua Asoka
đã cho dựng một ngôi tháp Phật ở núi Nê Lê (Đồ Sơn - Hải Phòng)” [74,
tr.137]. Lại có sách ghi rằng: “Phật giáo về đại thừa truyền vào nước ta
khoảng thế kỉ thứ II, thứ III” [1, tr.255]. oà thượng Thích Thanh Từ cũng
48
khẳng định: “Đạo Phật có mặt trên lãnh thổ Việt Nam khoảng cuối thế kỉ thứ
II, đầu thế kỉ thứ III” [116, tr.11]. Như vậy, cho dù có nhiều quan điểm khác
nhau về thời điểm Phật giáo được truyền bá vào Việt Nam, có thể khẳng định
Phật giáo du nhập vào nước ta từ rất sớm. Song, điều đáng chú ý là, trước khi
Phật giáo vào nước ta thì đã có sự hình thành những mầm mống tín ngưỡng
dân gian của người Việt - đây là điều không ai có thể phủ nhận.
Phù hợp với tinh thần vị tha, bao dung giữa người với người trong đời
sống tinh thần của người Việt, Phật giáo đã nhanh chóng hòa nhập và thâm
nhập sâu vào trong đời sống, thẩm thấu và đan xen vào các sinh hoạt tín
ngưỡng dân gian của người Việt nói chung và ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nói
riêng.
Sự tiếp nhận và ảnh hưởng của Phật giáo đối với tín ngưỡng dân gian
của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được thể hiện ở những nội dung cơ
bản sau:
Phật giáo từ Ấn Độ khi du nhập vào Việt Nam, đã có sự thay đổi cho
phù hợp với điều kiện thực tiễn. Điều đó có thể nhận thấy trong phật giáo Ấn
Độ, tính nam giới được đề cao, nhưng khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo
được nữ hóa. Trong tư duy của người Việt, người phụ nữ có vai trò hết sức
quan trọng. Thường thì khi để chỉ một điều gì đó quan trọng, người Việt
thường sử dụng các từ ngầm chỉ tới Mẹ như: đường cái, sông cái, đũa cả…
Và trong sinh hoạt tín ngưỡng, dựa trên cơ sở hoạt động sản xuất nông nghiệp
là chính, nên người Việt có các tục thờ Mẹ - biểu tượng của đất, nước, trời.
Do vậy, để thích nghi và tồn tại được, thì Phật giáo đã có những sự biến đổi,
và kết hợp nhuần nhuyễn một cách hòa bình với tín ngưỡng bản địa. Chẳng
hạn, hình ảnh Mẫu Man Nương là biểu tượng của tín ngưỡng thờ những vị
thần tự nhiên có vai trò to lớn trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của nước
ta. Những vị thần cai quản trong sản xuất nông nghiệp có thể kế đến như Bà
49
Dâu, Bà Đậu, Bà Tướng, Bà Dàn được Phật giáo hóa, trở thành những vị Phật
Bà, với những đặc điểm nổi bật của nền văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước,
gắn liền với việc cầu mong sự sinh sôi nảy nở, phồn thịnh, bội thu, mưa thuận
gió hòa. Hình ảnh Phật Mẫu Man Nương được xây dựng độc đáo trong Cổ
Châu Phật Bản Hạnh, đã phản ánh sự kết hợp một cách hài hòa, tinh tế trong
hòa bình của Phật giáo từ Ấn độ du nhập sang nước ta. Từ lâu, trong tâm thức
của người dân hình ảnh Mẫu Man Nương được ví như người mẹ Xứ sở -
giống như trong thần thoại Hi Lạp Gai-a được ví như mẹ của vị thần ngự trị
tam giới đó là thần Dớt. Sức mạnh cùng với sứ mệnh, Mẫu Man Nương được
người dân ca tụng và lập đàn thờ. Hệ thống chùa Tứ pháp là sự khẳng định
sức sống và xu hướng đề cao vai trò tính nữ trong tín ngưỡng bản địa của cư
dân nông nghiệp trồng lúa nước trước sự du nhập của đạo Phật vào nước ta.
Ngoài ra, có thể kể đến sự đan xen kết hợp hài hòa giữa Phật giáo và tín
ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh - tục thờ Tam phủ, Tứ Phủ. Có thể thấy rằng, bên
cạnh Chử Đồng Tử, thánh Tản Viên, thánh Gióng thì không thể thiếu hình
ảnh của thánh Mẫu Liễu Hạnh - được coi là một trong tứ bất tử trong tâm thức
của người Việt Nam. Nguyễn Hữu Thụ viết, “dựa theo truyền thuyết, mẫu
Liễu Hạnh được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cứu khi bà bị thua trọng trận
chiến Sòng Sơn với các ông Thánh của phái Nội Đạo Tràng. Từ đó, Mẫu đã
quy y Phật pháp trở thành một tín đồ của đạo Phật” [106, tr.59]. Ngày nay,
trong các chùa thường có gian thờ Mẫu trong quần thể thờ Phật. Sự đan xen,
kết hợp hài hòa giữa đạo Phật với tín ngưỡng thờ mẫu cho thấy tính dung hòa
trong tôn giáo và tín ngưỡng của người Việt.
Bên cạnh đó, sự kết hợp hài hòa giữa Phật giáo và tín ngưỡng bản địa
còn thể hiện cội nguồn sức mạnh của sự từ bi, hỉ xả, của bác ái, vị tha, tinh
thần tương thân tương ái. Tư tưởng về triết lý nhân sinh đã làm cho Phật giáo
có ảnh hưởng khá sâu đậm tới lối sống, nếp nghĩ của người Việt. Tinh thần
50
“từ bi hỉ xả”, “cứu một mạng người bằng xây bảy tòa tháp”, tinh thần “tự độ
độ tha, tự giác giác tha” nhắc nhở con người không phải sống chỉ vì mình mà
còn sống vì người khác. Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ triết lý nhân sinh của
Phật giáo, tín ngưỡng của người Việt, bên cạnh sự phong phú đa dạng còn thể
hiện tính nhân văn, vì con người. Hệ thống tín ngưỡng của người Việt không
chỉ dừng lại ở sự tôn sùng, thờ phụng sức mạnh siêu nhiên của một đấng tối
cao nào đó, hay suy tôn một lực lượng cá nhân nào đó có vai trò đối với đời
sống của họ mà còn thể hiện tính nhân văn cao cả. Đó là sự biết ơn đối với
những người có công với Tổ quốc, biết ơn Tổ tiên giống nòi, biết ơn các vị
thánh thần, biết ơn những bậc sư tổ, v.v… Tất cả đã mang đến sự kết hợp hài
hòa, nhuần nhuyễn giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian của người Việt. Sự
tồn tại tín ngưỡng dân gian, sự đan xen, ảnh hưởng của Phật giáo từ bao đời
nay trở thành cái nôi dung dưỡng tâm hồn người Việt.
Như vậy, sự xâm nhập, ảnh hưởng của Phật giáo với tín ngưỡng dân
gian của người Việt rất rõ nét. Điều đó không chỉ thể hiện trong hình thức thờ
cúng mà cả trong nội dung sinh hoạt tín ngưỡng cũng như trong tâm thức tín
ngưỡng tâm linh của người Việt. Sự giao thoa văn hóa đó thể hiện giá trị nhân
văn, nhân đạo, hướng con người tới những giá trị tốt đẹp của cuộc sống.
- Sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với tín ngưỡng dân gian của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ:
Nho giáo là một trong những trường phái triết học chính thống của
Trung Hoa cổ đại. Người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử, về sau này được
các học trò của ông biên tập lại các tư tưởng, tập trung chủ yếu trong Tứ Thư
và Ngũ Kinh. Cũng giống như Phật giáo, Nho giáo có ảnh hưởng sâu rộng
không chỉ trong lĩnh vực chính trị, mà còn cả trong đời sống tinh thần, trong
đó có các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian của người dân Việt Nam nói
chung, và cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Việc tiếp thu tư tưởng
51
của Nho giáo, ít nhiều đã ảnh hưởng đến sinh hoạt tín ngưỡng của dân tộc ta.
Đó là các tư tưởng về tam cương, ngũ thường, về xây dựng mẫu hình người
quân tử có nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, góp phần tô đậm hơn giá trị trong sinh hoạt
tín ngưỡng của người Việt nói chung và người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
nói riêng.
Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đến sinh hoạt tín ngưỡng dân gian
của người Việt thể hiện rõ nét trong các nội dung và sinh hoạt tín ngưỡng.
Như chúng ta đã biết, hầu như các nghi thức được tiến hành trong sinh hoạt
tín ngưỡng đều được các nhà Nho ghi lại, truyền lại và tổ chức sinh hoạt cho
người dân. Do vậy, sinh hoạt tín ngưỡng của người Việt ít nhiều bị ảnh
hưởng. Nho giáo coi chữ Nhân là đạo đức hoàn thiện nhất “Nhân dã, Nhân
giả” (kẻ có nhân ấy, ấy là con người vậy) “nhân giả ái nhân” (người có nhân
thì yêu con người). Vì thế, Nho giáo đã góp phần khắc họa và tô đậm hơn cho
giá trị nhân văn trong sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của dân tộc ta. Trong xã
hội ngày nay, tư tưởng đạo đức của Nho giáo vẫn được coi trọng và thể hiện
qua cách hiểu, cách sống “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, các phong
trào thực hiện nếp sống văn minh, văn hóa, uống nước nhớ nguồn, các nghĩa
cử tương thân tương ái. Bên cạnh đó, tư tưởng của Nho giáo luôn trọng gia
đình, xem gia đình là gốc của quốc gia, gia đình đó phải được xây dựng trên
nền tảng của luân lý thành kính tổ tiên, hiếu nghĩa với cha mẹ. Có thể thấy,
trong tâm thức của người Việt Nam, hiếu đễ với cha mẹ luôn là lẽ sống, là đạo
lý làm người. Khi Nho giáo xâm nhập vào nước ta đã góp phần nâng cao, hệ
thống hóa và làm sâu sắc hơn tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Tuy nhiên, hình
thức thể hiện của Nho giáo có phần khắt khe, nhưng khi thâm nhập vào đời
sống tinh thần của nhân dân ta, nó đã được cải biến cho phù hợp, nó không
còn khiên cưỡng, khắt khe giống như trong lễ nghi thờ tự của Nho giáo.
52
Ngoài ra, tư tưởng thiên - địa - nhân hợp nhất của Nho giáo được coi là
một trong những nội dung quan trọng và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ trong
sinh hoạt tín ngưỡng của người dân nước ta. Đối tượng mà Nho giáo hướng
tới không phải là quần chúng nhân dân, mà chủ yếu là vua quan, phong kiến
triều đình. Song, với sức ảnh hưởng lan rộng của mình, Nho giáo đã thấm
đượm vào các sinh hoạt văn hóa tinh thần, trong đó có sinh hoạt tín ngưỡng
dân gian. Chẳng hạn, trong sinh hoạt thờ Tam phủ, Tứ phủ, thờ các vị anh
hùng, thần linh, thờ thổ công, thổ địa, thờ các vị sơn thần, hà bá đều chịu ảnh
hưởng bởi tư tưởng thiên - địa - nhân hợp nhất của Nho giáo. Các hình thức
sinh hoạt tín ngưỡng có sự lồng ghép đan xen vào nhau giữa các yếu tố trời,
đất và con người để cầu mong mưa thuận, gió hòa, cầu bình an cho dân
chúng. Tư tưởng Nho giáo khi thâm nhập vào các sinh hoạt tín ngưỡng, đã
góp phần khắc họa đậm nét hơn, nâng cao hơn nữa giá trị tư tưởng của các
sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của người dân nói chung và của cư dân vùng
đồng bằng Bắc Bộ nói riêng.
Như vậy, ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đã góp phần tăng thêm giá
trị và sức sống bền lâu cho các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của người dân đất
Việt. Tiếp thu những giá trị tốt đẹp của tư tưởng Nho giáo đã tạo nên sức sống
lâu bền và tô đậm thêm giá trị nhân văn cho các sinh hoạt tín ngưỡng của cư
dân người Việt nói chung, và của cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng.
- Sự ảnh hưởng tư tưởng Đạo giáo đối với tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ:
Cùng với Phật giáo và Nho giáo, Đạo giáo du nhập vào nước ta từ khá
sớm. Phần lớn các nghiên cứu của nhiều học giả đều khẳng định rằng, “đạo
giáo Trung Quốc du nhập vào nước ta khá sớm, ít nhất là từ thời Bắc thuộc.
Với tính chất phương sĩ ma thuật vốn có nguồn gốc từ những tín ngưỡng
Saman giáo và ma thuật ở Trung quốc, Đạo giáo thâm nhập dễ dàng vào các
53
tín ngưỡng của nước ta, bởi sự tương đồng với tín ngưỡng bản địa: tính chất
đa thần và giàu chất trực quan. Ngay từ khi Nho giáo chưa tìm được chỗ đứng
trong xã hội ta, thì Đạo giáo (đặc biệt là Đạo giáo phù thủy) đã nhanh chóng
bắt nhịp, đan xen vào các sinh hoạt tín ngưỡng ở nước ta. Thời tiền sử, người
Việt đã biết dùng bùa chú, bởi họ tin rằng có thể trị tà ma, chữa bệnh, sai âm
binh, tàng hình, v.v.. Điều đó càng khiến người Việt càng tin vào các ma thuật
biến hóa của Đạo giáo, lấy đó làm cơ sở để nâng giá trị trong sinh hoạt tín
ngưỡng của mình. Đối tượng và nghi thức thờ cúng cùng với các tập tục của
Đạo giáo là môi trường thuận lợi cho những ông đồng, bà cốt, thầy cúng, thầy
địa lý, thầy tướng số hành nghề. Trần Ngọc Thêm viết:
Trong khi Nho giáo chưa tìm được chỗ đứng ở Việt Nam thì Đạo
giáo đã tìm thấy ngay những tín ngưỡng tương đồng có sẵn từ lâu…
Vì vậy dễ hiểu tại sao Đạo giáo, trước hết là Đạo giáo phù thủy, đã
thâm nhập nhanh chóng và hòa quyện dễ dàng với tín ngưỡng ma
thuật cổ truyền tới mức không còn ranh giới. Do vậy mà tình hình
Đạo giáo ở Việt Nam rất phức tạp, khiến cho không ít nhà nghiên
cứu đã quy hết mọi tín ngưỡng cổ truyền Việt Nam cho Đạo giáo, và
ngược lại, người Việt Nam sính đồng bóng, bùa chú thì lại chẳng biết
Đạo giáo là gì [90, tr.227].
Vì vậy, một số tín ngưỡng của nước ta hiện nay, nếu nhìn bề ngoài, thì
có vẻ là sản phẩm của Đạo giáo, nhưng kỳ thực đó là tín ngưỡng dân gian của
người Việt Nam với một vài ảnh hưởng của Đạo giáo. Chẳng hạn, Đạo Mẫu
là một hình thức Đạo giáo đậm chất Việt Nam. Hoặc, trong tục thờ Thần,
Thánh, thờ Tổ tiên đều mang màu sắc của Đạo giáo, nhưng nó lại là một hệ
thống tín ngưỡng vốn có của dân tộc ta, ra đời từ chính hoạt động sản xuất
nông nghiệp. Yếu tố tư tưởng của Đạo giáo chỉ là sự biểu hiện về mặt hình
54
thức, còn sự ảnh hưởng về nội dung đối với các sinh hoạt tín ngưỡng này là
không đáng kể.
Có thể thấy rằng, so với Phật giáo và Nho giáo, Đạo giáo thầm thấu một
cách tự nhiên vào trong đời sống tâm linh và các sinh hoạt tín ngưỡng của
người Việt. Giữa Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian của người Việt nói chung và
của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng rất khó có thể phân định rạch
ròi. Sự kết hợp đó, càng góp phần tô đậm thêm nét riêng của nền văn hóa Việt,
mang đậm phong cách Việt, tồn tại lâu dài cho tới tận ngày nay.
Tóm lại, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
hình thành từ thời nguyên thủy, nó là sự phản ánh hư ảo về thế giới và con
người. Điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội và văn hóa, tư tưởng là
những nhân tố trực tiếp tác động đến quá trình hình thành và tồn tại của tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ngày nay, tín
ngưỡng dân gian vẫn tồn tại khá phổ biến trong xã hội và đang có xu hướng
phát triển mạnh mẽ.
2.3. Phân loại và một số đặc điểm nổi bật của tín ngƣỡng dân gian
của ngƣời Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
2.3.1. Cơ sở phân loại tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ
Việc khảo sát các công trình nghiên cứu cho thấy, đến nay chưa có một
công trình nghiên cứu chuyên sâu về cách thức phân loại tín ngưỡng dân gian
của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Do vậy, dựa trên các kết quả nghiên
cứu của các nhà khoa học về tín ngưỡng và tín ngưỡng dân gian là cơ sở để
tác giả có những căn cứ khoa học phân loại tín ngưỡng dân gian của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Thứ nhất, dựa trên cơ sở đối tượng sùng bái:
55
+ Dựa trên cơ sở đặc trưng của đối tượng sùng bái, Toan Ánh phân chia
tín ngưỡng dân gian như sau: Thờ phụng Tổ tiên, thờ các vị thần thánh linh
thiêng: Thờ thần linh, thờ Thổ công, Thần tài, Tiên sư, Thánh sư, Nghệ sư;…
Tuy nhiên, với cách phân chia như vậy, thì không thể bao quát hết các loại
hình tín ngưỡng dân gian khác.
+ Dựa trên cơ sở phạm vi đối tượng sùng bái, Nguyễn Minh San phân
chia tín ngưỡng dân gian thành ba loại hình chủ yếu là: “tín ngưỡng phồn thực
;tín ngưỡng sùng bái con người; tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Đó cũng là
cách phân chia mà Nguyễn Đăng Duy đã làm. Theo Nguyễn Đăng Duy, dựa
trên cơ sở phạm vi tác động rộng hay hẹp của đối tượng sùng bái, tín ngưỡng
dân gian được phân chia thành ba nhóm cơ bản: tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên;
tín ngưỡng thờ Thần; tín ngưỡng thờ Mẫu.
Thứ hai, dựa trên cơ sở hình thái học, Ngô Đức Thịnh đã phân loại tín
ngưỡng như sau: 1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên (gia tộc, dòng họ, quốc gia)
tô tem giáo; 2. Tín ngưỡng cá nhân (vòng đời)…; 3. Tín ngưỡng nghề
nghiệp…; 4. Tín ngưỡng thờ Thần (đạo thờ Thần)
Thứ ba, căn cứ vào những nét chung chủ yếu của các loại hình tín
ngưỡng, Nguyễn Tri Nguyên tập hợp vào bốn nhóm chính là: tín ngưỡng thờ
cúng Tổ tiên, tín ngưỡng vòng đời người (tín ngưỡng và nghi lễ liên quan tới
sự sinh nở, thờ cúng ông tơ bà nguyệt, thờ bản mệnh, lễ tang ma và thờ cúng
người chết), tín ngưỡng nghề nghiệp (tín ngưỡng nông nghiệp, tín ngưỡng thờ
tổ nghề, thờ thần tài, thờ cá ông), tín ngưỡng thờ thần (thờ Thành hoàng, thờ
Mẫu, thờ các anh hùng dân tộc, thờ thổ thần, sơn thần, thủy thần).
Như vậy, có rất nhiều cách tiếp cận để phân chia tín ngưỡng dân gian
thành các loại hình khác nhau. Mỗi cách tiếp cận có những yếu tố hợp lý và
những hạn chế nhất định. Song, đó là cơ sở khoa học để tác giả luận án kế
thừa trong việc xác định các loại hình tín ngưỡng dân gian của người Việt
56
vùng đồng bằng Bắc Bộ. Qua việc nghiên cứu các tài liệu cho thấy, cũng
giống như các vùng khác trên cả nước, tín ngưỡng dân gian của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng có những loại hình tín ngưỡng dân gian giống
với các vùng khác trên cả nước, song lại mang đặc trưng vốn có của vùng,
miền. Thông qua nghiên cứu tài liệu khoa học của các tác giả tiêu biểu ở Việt
Nam như Trần Ngọc Thêm, Trần Quốc Vượng, Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Đức
Lữ và nhiều tác giả khác về phân loại tín ngưỡng dân gian, tác giả luận án
nhất trí theo cách phân loại dựa trên cơ sở đối tượng sùng bái. Do vậy, tín
ngưỡng dân gian chủ yếu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được phân
loại cụ thể như sau:
Một là, tín ngưỡng Phồn thực
Hai là, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên
Ba là, tín ngưỡng thờ Mẫu
Bốn là, tín ngưỡng thờ Thành hoàng
Năm là, một số tín ngưỡng nông nghiệp:
+ Tín ngưỡng thờ thần tự nhiên (thờ Tứ pháp)
+ Tín ngưỡng thờ hồn lúa
+ Tín ngưỡng thờ thần mặt trời
Tuy nhiên, để đạt được mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi
nghiên cứu của luận án, tác giả chỉ khái quát các hình thức tín ngưỡng dân
gian mang tính chất đặc trưng của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, đó là
tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng thờ Thành
hoàng.
2.3.2. Khái lược về một số tín ngưỡng dân gian chủ yếu của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
2.3.2.1. Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên
Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng dân gian phổ
57
biến và tiêu biểu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ra đời trên cơ sở
dựa trên quan niệm tâm linh của con người về thế giới, thể hiện ý thức hướng
về cội nguồn của người Việt. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của Nho giáo về
chữ hiếu, “trung chi quân, hiếu chi phụ mẫu, dữ chi bản” (trung với vua, hiếu
với cha mẹ là cùng một gốc vậy) mà tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên được hợp
thức hóa và thể chế hóa. ơn nữa, xuất phát từ chính phương thức sản xuất
chủ yếu là nông nghiệp, đã tạo nên quan hệ gần gũi, gắn bó giữa các thành
viên trong gia đình không chỉ về máu thịt mà còn cả về tâm linh. Về điều này,
Trần Đăng Sinh viết, “do đặc trưng khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm, gió mùa nên
Việt Nam sản xuất lúa nước theo kiểu truyền thống tiểu canh và cũng do đặc
điểm kiến tạo địa lý, với đồng cỏ vừa nhỏ vừa ít nên chỉ phù hợp với kiểu
chăn nuôi tiểu gia súc. Vì vậy, ở nước ta, sản xuất không đòi hỏi tập trung
nhân công theo quy mô lớn như ở nơi sản xuất lúa mì khô… Kết quả tất yếu
của quy trình sản xuất này khiến người Việt gắn bó với gia đình (thường là
gia đình hạt nhân) chặt hơn với dòng họ” [106, tr.43].
Các hình thức thờ cúng Tổ tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
hết sức đa dạng. Sự đa dạng đó là do đặc trưng về điều kiện địa lý tự nhiên và
phương thức sản xuất, cách thức tổ chức dân cư quy định. Nguyễn Đăng Duy
viết, ở miền Nam: Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên gọi là Đạo Ông bà,... ở Huế,
Quảng Nam, Quảng Ngãi thì gọi là Thần khai canh Khai cư. Nhưng quá vào
Nam Trung Bộ và khắp Nam Bộ, thì gọi thờ Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền
khai cơ… [16, tr.37-38]. Còn ở ngoài bắc nói chung và vùng đồng bằng Bắc
Bộ nói riêng, thì gọi chung là tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên.
Mặt khác, xét ở góc độ phạm vi thờ cúng, thì có thể nhận thấy rõ trong
sinh hoạt tín ngưỡng này có thể chia thành hai loại: thứ nhất, thờ cúng Tổ tiên
trong phạm vi gia đình, dòng tộc; thứ hai, thờ cúng Tổ tiên trong phạm vi
quốc gia dân tộc. Cả hai loại hình tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt
58
ở vùng đồng bằng Bắc Bộ đều được thể hiện đầy đủ.
Thứ nhất, xét trong phạm vi gia đình, dòng họ. Có thể thấy, hầu hết
trong các gian thờ của mỗi gia đình, không phân biệt là gia đình lớn nhỏ, thì
đều có ban thờ tự Tổ tiên. Ngay cả những gia đình theo đạo Thiên Chúa, trong
tư gia của họ cũng có gian thờ Tổ tiên của họ. Việc thờ cúng Tổ tiên trong các
dòng họ được tiến hành ở Từ đường. Từ đường thường được xây dựng ở một
khu đất riêng - gọi là đất của họ tộc. Mỗi họ tộc có các ngành, các chi hợp lại,
phân nhánh, phân khúc song họ đều có một đặc điểm chung đó là có cùng một
cội nguồn - chung một ông Tổ.
Thứ hai, xét ở phạm vi quốc gia, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên được thể
hiện trong tín ngưỡng thờ vua Hùng, thờ các vị có công cộng đồng làng xã.
Xuất phát từ câu chuyện dân gian truyền lại, người Việt ta được sinh ra từ
trong bọc trứng một trăm con của cha Lạc Long Quân và bà mẹ Âu Cơ. Ngoài
ra, đó còn là việc thờ phụng những người có công với cộng đồng làng, xã như
những vị có công khai khẩn lập làng, có công dạy dân học nghề, dạy dân học
chữ và coi họ là các vị Thành hoàng của nhân dân.
Như vậy, xét về bản chất, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên là một trong loại
hình tín ngưỡng dân gian phổ biến của người Việt. Nó được hình thành trên
cơ sở niềm tin của con người về sự bất tử của linh hồn, nó thể hiện lòng biết
ơn, đạo lý uống nước nhớ nguồn của nhân dân. Sự ra đời và tồn tại của tín
ngưỡng thờ cúng Tổ tiên trở thành một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa tinh
thần của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
2.3.2.2. Tín ngưỡng thờ Mẫu
Thờ Mẫu là một trong những loại hình tín ngưỡng dân gian nhiều sắc
thái nổi bật của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thực hành tín ngưỡng
thờ Mẫu được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thế giới vào
tháng 12 năm 2016. Tín ngưỡng thờ Mẫu gần gũi với tự nhiên, đất trời và gắn
59
với thân phận của người phụ nữ Việt Nam. Người ta đến với Mẫu để mong
cầu tìm được chỗ dựa về tinh thần, tìm được sự che chở của người mẹ. Tín
ngưỡng thờ Mẫu là một trong những loại hình sinh hoạt tín ngưỡng dân gian
phổ biến của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Qua nhiều nghiên cứu cho thấy, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ xuất phát từ tục thờ Nữ thần, xuất phát từ chính cuộc
sống, và từ quan niệm về vai trò của người phụ nữ trong sản xuất và chiến
đấu. Bàn về điều này, Vũ Ngọc Khánh viết: “Ngay từ những ngày đầu tiên ấy,
nhân dân ta đã coi các mẹ là bậc linh thiêng, vĩ đại. Các mẹ đã đẻ ra Trời, Đất,
Núi, Sông. Tất cả chúng ta cả con người và vạn vật đều là con của các mẹ…
Tất cả đều phải do mẹ sáng tạo và dạy dỗ” [55, tr.13]. Nhiều nghiên cứu cho
biết, tín ngưỡng thờ Mẫu của vùng là nơi hội tụ và biểu hiện rõ nét nhất về
thờ Mẫu trong cả nước. Thờ Mẫu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ còn là nơi để
nhân dân gửi gắm lòng biết ơn và sự tôn vinh người Mẹ.
Tín ngưỡng thờ Mẫu của vùng đồng bằng Bắc Bộ đa dạng, phong phú.
Nhưng tựu chung lại, tín ngưỡng thờ Mẫu biểu hiện tập trung ở hai lớp đối
tượng là thờ Mẫu thần và thờ Tam phủ - Tứ phủ (Tam tòa Thánh Mẫu). Cụ
thể như sau:
Một là, một số Mẫu thần chủ yếu trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ:
- Mẫu huyền thoại: là những vị thánh Mẫu được xây dựng từ những câu
chuyện huyền thoại trong dân gian như Mẫu Âu Cơ; Mẫu Man Nương, bà
chúa Liễu Hạnh tước hiệu là Thánh Mẫu Liễu Hạnh; Mẹ của Phù Đổng Thiên
Vương, v.v..
- Mẫu nhiên thần: thờ các Mẫu biểu trưng cho trời, đất, nước, rừng
phản ánh tâm tư nguyện vọng của người dân nơi đây cầu mưa thuận gió hòa,
trời yên biển lặng, cầu bình an cho nông vụ được tốt tươi, ruộng vườn xanh
60
tốt. Đó là Mẫu Thoải, Mẫu Địa, Mẫu Thiên, Mẫu Thượng Ngàn được thờ phổ
biến ở các nơi của khu vực vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng và cả nước nói
chung.
- Mẫu nhân thần: là việc thờ những người phụ nữ có tài năng, đức độ
và có công với nước nhà, sau khi mất được tôn xưng là Mẫu như: Mẹ của Vua
lê Thánh Tông, Tống Hậu, Thái Hậu họ Đỗ tương truyền là mẹ của Lý Thần
Tông; Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Giao; Ỷ Lan Hoàng Thái Hậu - nguyên phi
của vua Lý Thánh Tông; bà Phạm Thị Ngọc Trần - Hoàng Hậu, vợ cả của vua
Lê Thái Tổ và là mẹ của Lê Thái Tông; Thái Hậu họ Dương được tôn phong
là Quốc Mẫu Vương; Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung, v.v..
Bên cạnh Mẫu là những người có địa vị trong xã hội còn có Mẫu là
những người có xuất thân bình dân như Nàng Vũ Thị Khiết người con gái
nghèo ở bến Vũ Điện, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Định, là vợ chàng lính thú
Trương Sinh, nhưng rồi phải lấy cái chết để chứng minh cho tấm lòng cao cả
ấy của mình. Đời sau thương nàng, lập đền thờ, tôn là Thánh Mẫu. Bà mẹ của
ba người con đều có công giúp Vua Hùng chống giặc được phong là Soa
Nương Thánh Mẫu (thờ ở miếu Mạnh Lương- Đông Anh - Hà Nội).
Hai là, tín ngưỡng thờ Tam phủ - Tứ phủ (còn được gọi là Tam Tòa
Thánh Mẫu) của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Trong quan niệm dân gian của người Việt vùng Đồng bằng Bắc Bộ,
Tam phủ là danh từ để chỉ ba vị thần thánh trong hệ thống tín ngưỡng Việt
Nam gồm: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải, cai quản
những lĩnh vực quan trọng nhất của một xã hội nông nghiệp. Sau này, xuất
hiện Thánh Mẫu Liễu Hạnh, thì tín ngưỡng thờ Tam phủ chuyển thành thờ Tứ
phủ. Hiểu một cách nôm na, Tứ phủ là khái niệm dùng để chỉ 4 vùng: Địa
phủ, Thiên phủ, Nhạc phủ và Thoải phủ. Mẫu Tứ phủ được đánh giá “là một
bước phát triển cao so với tín ngưỡng thờ nữ thần nói chung đã có trước đó…
61
Mẫu Tứ phủ cũng là một hình thức làm rõ nét đặc thù của tín ngưỡng thờ Mẫu
ở Việt Nam” [16, 143].
Như vậy, tín ngưỡng thờ Mẫu là loại hình tín ngưỡng sinh hoạt đặc
trưng của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó ra đời dựa trên cơ sở
phương thức sản xuất nông nghiệp, được sáng tạo ra bởi chính người nông
dân. Nó phản ánh nhận thức sơ khai của con người về thế giơi, về chính bản
thân họ và qua đó, người dân gửi gắm ước mơ, khao khát tâm linh của con
người về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
2.3.2.3. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng
Tín ngưỡng Thành hoàng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ xuất hiện từ sớm,
nó là một sự biến thể, giao thoa với tín ngưỡng Thành hoàng của Trung Quốc.
Nói như các nhà nghiên cứu, tín ngưỡng Thành hoàng ở nước ta bị Hoa hóa,
song vẫn giữ được bản sắc riêng, là sự thể hiện bản chất tư duy tôn giáo của
người Việt [66, tr.125]. Tín ngưỡng Thành hoàng là một trong những loại
hình sinh hoạt tín ngưỡng dân gian phổ biến của người Việt vùng đồng bắc
Bộ, dựa trên cơ sở quan niệm tâm linh của con người về thế giới, là sự thể
hiện lòng ngưỡng mộ, sự biết ơn đối với những người có công với làng, với
nước; đồng thời qua đó còn gửi gắm những khát vọng đời thường của người
dân.
Cho đến nay, có nhiều cách phân chia đối tượng thờ tự trong tín
ngưỡng Thành hoàng vùng đồng bằng Bắc Bộ, song có hai đối tượng được
thờ cúng chủ yếu, đó là thờ các vị thần có nguồn gốc rõ ràng, được vua tước
phong, và thờ các vị thần không rõ nguồn gốc, hoặc do nhân dân sáng tạo ra.
Có thể phân chia tín ngưỡng Thành hoàng như sau:
Thứ nhất, Thành hoàng có nguồn gốc Thiên thần, tức là các vị thần có
nguồn gốc từ trời, được nhân hóa, mang dáng vẻ con người, thậm chí sống
cuộc sống của con người. Sở dĩ có hình thức tín ngưỡng thờ Thành hoàng có
62
nguồn gốc Thiên thần là do tính chất của nền sản xuất nông nghiệp phụ thuộc
vào thời tiết, nên họ tôn thờ các vị thần đại diện cho mây, mưa, sấm, chớp với
mục đích mong cầu trời yên biển lặng, mưa thuận, gió hòa.
Thứ hai, Thành hoàng có nguồn gốc nhiên thần tức là các vị thần có
nguồn gốc tự nhiên, có thể kể đến:
- Sơn thần là vị thần núi, ở đó, nhân dân gửi gắm ước mơ chinh phục tự
nhiên, chiến thắng lũ lụt. Tôn thờ thần núi, nên người Việt tôn thành Cao Sơn
Thánh Vương ùng trấn uy linh, Cao Sơn Quý Minh Đại Vương, Tản Viên
Sơn Thánh…
- Thổ thần thường được biểu hiện là thần Bản Cảnh được thờ phổ biến
ở nhiều nơi, phổ biến nhất ở Nam Định.
- Thành hoàng là thủy thần cũng được thờ phổ biến ở khắp các địa
phương vùng đồng bằng Bắc Bộ. Liên quan tới nghề sông nước của ngư dân
và lịch sử đấu tranh giành độc lập và giữ nước của dân tộc, hình ảnh các vị
thủy thần đã được nhân cách hóa trở thành những vị thần có tên tuổi, có gốc
tích, là các nhân vật lịch sử. Có thể kể đến các vị thần đó như: Bát ải Động
Đình (thờ ở đền Đồng Bằng – Thái Bình), Đông ải Đại Vương, Nam ải
Đại Vương, Nam ải Tứ vị Hồng Nương, Vĩnh ải Môn Thần, Linh Lang
Đại Vương,v.v..
Thứ ba, Thành hoàng có nguồn gốc nhân thần. Theo hầu hết các tài liệu
nghiên cứu của các nhà khoa học có thể thấy rằng, Thành hoàng có nguồn gốc
nhân thần chiếm đa số trong hệ thống Thành hoàng ở khắp các vùng trên cả
nước nói chung và ở khu vực vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Có thể phân
chia thành các loại như sau:
- Thành hoàng là các nhân vật lịch sử có công dựng nước, dựng làng.
Ngoài ra, có thể kể đến các nhân vật lịch sử được suy tôn thành các vị thần.
Bắt đầu là ùng Vương, sau đó đến các vị như ai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý
63
Bí, Mai Thúc Loan, Phùng ưng, Ngô Quyền, Trần ưng Đạo, Nguyễn Huệ.
Bên cạnh đó là các vị thần có công dựng nước, có công tụ dân lập làng. Trong
số các vị thần ở vùng đồng bằng Bắc Bộ phải kể đến Nguyễn Công Trứ. Ông
là người có công khai khẩn ra vùng đất Kim Sơn - Ninh Bình và Tiền Hải -
Thái Bình. Sau này, với công lao to lớn của ông, nhân dân ba vùng tôn ông
làm Thành hoàng và thờ tự để tỏ lòng biết ơn, v.v..
- Thành hoàng là các vị Thánh sư, Tổ nghề, là những người học rộng,
tài cao có nhiều công lao cho làng xã. Khi còn sống, những bậc anh tài đó là
niềm tự hào của quê hương, khi chết đi họ được nhân dân thờ phụng lập thành
Thành hoàng. Đúng như những gì C.Mác đã nhận định, thế giới thần thánh do
con người tạo ra, phản ánh chính xã hội của con người. Các vị Thành hoàng là
sự biểu đạt rõ nét nhất về các dạng người khác nhau trong xã hội mà người
Việt sinh sống, cũng đa dạng và phong phú, nhiều hình nhiều vẻ như thế giới
thần linh.
Như vậy, tín ngưỡng thờ Thành hoàng là một trong những hình thức
phổ biến của cộng đồng cư dân người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó được
hình thành dựa trên cơ sở niềm tin của con người, sự biết ơn của con người và
ước vọng được che chở của các vị thần, thánh mang trong mình sức mạnh
siêu nhiêu. Ẩn chứa trong loại hình sinh hoạt này là những tri thức mang tính
kinh nghiệm của con người về thế giới, về vai trò của con người và về các
mối quan hệ xã hội.
Bảng 2.1: So sánh các tín ngưỡng dân gian chủ yếu của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ
Tiêu chí Thờ cúng Tổ tiên Thờ Mẫu Thờ Thành hoàng
1. Cơ sở
hình thành
- Niềm tin vào sự
tồn tại của linh hồn
- Niềm tin vào sự
tồn tại của linh
- Niềm tin vào sự
tồn tại của linh hồn,
64
người chết, vào sự
ảnh hưởng của linh
hồn người chết với
con cháu.
- Bắt nguồn từ tín
ngưỡng Tô tem phát
triển thành tín
ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên; Từ quy mô gia
đình đến mở rộng
thành quy mô làng,
xã và quốc gia.
- Xuất phát từ lòng
biết ơn, tưởng nhớ
tới tổ tiên, tới người
có công với cộng
đồng làng xã.
hồn, vào sức mạnh
siêu nhiên của các
vị thần, thánh.
- Bắt nguồn từ tín
ngưỡng thờ Nữ
thần phát triển
thành tín ngưỡng
thờ Mẫu; Từ Mẫu
Tam phủ được
nâng lên thành
Mẫu Tứ phủ lam
cho tín ngưỡng thờ
Mẫu được thiện
hơn.
- Xuất phát từ lòng
biết ơn đến những
người có công với
cộng đồng làng xã.
vào sức mạnh siêu
nhiên của các vị
thần, thánh.
- Bắt nguồn từ tín
ngưỡng thờ Thành
hoàng của Trung
Quốc, song có
những nét đặc thù
thể hiện bản sắc
riêng trong tín
ngưỡng của người
Việt.
- Xuất phát từ lòng
biết ơn đến những
người có công với
cộng đồng làng xã.
2. Đối
tƣợng thờ
cúng
- Tổ tiên trong gia
đình, dòng họ đã
khuất.
- Những người có
công với đất nước.
- Các vị thần cai
quản các miền của
tự nhiên.
- Những người có
công với đất nước.
- Là các vị thần tự
nhiên
- Là các vị nhân
thần, có nguồn gốc,
có chiến tích, công
trạng với đất nước.
65
3. Phạm vi
thờ tự
- Gia đình
- Cộng đồng làng,
xã
- Quốc gia
- Cộng đồng làng,
xã
- Quốc gia
- Cộng đồng làng,
xã
- Quốc gia
4. Phạm vi
ảnh hƣởng
- Cả trong gia đình
và cộng đồng làng,
xã, quốc gia.
- Cộng đồng làng,
xã, quốc gia.
- Cộng đồng làng,
xã, quốc gia.
5. Nghi
thức thực
hành
- Thờ gia tiên
- Tế, lễ, rước và tục
hèm
- Tế, lễ, rước và tục
hèm
- Hầu bóng, nhập
đồng
- Tế, lễ, rước và tục
hèm
- Hầu bóng, nhập
đồng
2.3.3. Một số đặc điểm của tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ
Qua việc nghiên cứu cơ sở hình thành, các tín ngưỡng dân gian nổi bật,
cho thấy tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ có
những đặc điểm nổi bật sau:
Một là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là
tín ngưỡng đa thần, dựa trên quan niệm vạn vật hữu linh
Bàn về điều này, Trần Ngọc Thêm viết, “với người Việt sống bằng
nghề lúa nước… phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên dẫn đến
hậu quả trong lĩnh vực nhận thức là lối tư duy tổng hợp, và trong hình thức tín
ngưỡng là tín ngưỡng đa thần” [90, tr.132-133]. Trong quan niệm từ xưa, khi
xung quanh con người là thiên nhiên hùng vĩ, với nhiều bí ẩn, vào thời điểm
đó, con người chưa thể giải đáp. ọ tưởng tượng, sáng tạo ra thế giới thần
linh, bao trùm lên đó là sức mạnh siêu nhiên, và nó có thể mang tới điều tốt
lành hay rủi ro cho con người. Bất lực trước sức mạnh của thiên nhiên, mọi
hành động của con người đều hướng tới việc cầu xin các lực lượng siêu nhiên
66
giúp đỡ, che chở, cầu lành, tránh dữ. Và do vậy, “người Việt thờ rất nhiều
thần: từ thần cây, thần núi, thần song, thần mưa, thần sấm, thần chớp… đến
thờ Anh hùng dân tộc, thờ Tổ tiên, thờ Thành hoàng, v.v..” [66, tr,154].
Trong thế giới vô cùng rộng lớn ấy, con người thật nhỏ bé. Trước mắt
họ từ cỏ cây, hoa lá, đến thú rừng, đến các hiện tượng thời tiết cũng ẩn chứa
hình bóng của các vị thần. Thế giới thần linh vì thế không chỉ không tách biệt,
mà còn hòa nhập với cuộc sống con người, chi phối hành động của họ. Họ tin
theo, nương theo, và thể hiện niềm tin tín ngưỡng. Thông qua các sinh hoạt
văn hóa cộng đồng, họ bày tỏ lòng ngưỡng vọng, ngưỡng mộ đối với các bậc
thánh thần. Trong đời sống của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, sản xuất
nông nghiệp là chủ yếu. Do vậy, thiên nhiên là thứ có ảnh hưởng lớn nhất
trong hoạt động lao động sản xuất của họ. Để đảm bảo cho cây trồng, vật nuôi
được tươi tốt, họ tin tưởng vào sự che chở của các vị thần. Vì thế, tín ngưỡng
của họ tuy đa dạng, phong phú nhưng thực hành lại không mấy khó khăn,
phức tạp. Nguyễn Đức Lữ viết: “Cùng một lúc, ở một cá nhân có thể chấp
nhận niềm tin và sự sùng kính vào nhiều vị thần. Người ta có thể vừa đến Văn
Miếu để thắp hương Khổng Tử, thờ các vị tiền hiền của Đạo Khổng, lại đến
chùa cầu khấn Bồ Tát, Phật Tổ Như Lai, rồi họ lại về miếu làng thắp hương
thờ Thành hoàng làng, trở về nhà thắp hương thờ cúng ông bà, tổ tiên, đến
Phủ Mẫu cầu xin lộc Thánh” [66, tr.155]. Vậy nên, trong tư duy người Việt,
người và thần luôn gắn bó bên nhau không thể tách rời. Thần và người tuy ở
hai thế giới hoàn toàn khác nhau, nhưng dường như lại cùng tồn tại cạnh
nhau. Tuy họ không hiện hữu trước mắt, nhưng đang ở đâu đó bên cạnh để
sẵn sàng phù hộ, che chở cho con người.
Như vậy, qua sự phân tích nêu trên khẳng định tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là tín ngưỡng đa thần, dựa trên quan niệm
vạn vật hữu linh được thể hiện cả trong nghi lễ và thực hành sinh hoạt tín
67
ngưỡng. Tính chất đa thần được biểu hiện ở sự đa dang trong đối tượng thờ
tự, từ thờ Nam thần cho đến Nữ thần, từ thờ những người có quan hệ huyết
thống, đến những người vô danh, hữu danh nhưng ít nhiều có vai trò đối với
cộng đồng dân tộc. Nó là một trong những đặc điểm nổi bật trong tín ngưỡng
dân gian của vùng.
Hai là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
mang tính hỗn dung tôn giáo
Bàn về đặc điểm này, Ngô Đức Thịnh viết, “sự hỗn dung tôn giáo, tín
ngưỡng là một trong những nét đặc sắc của văn hóa truyền thống Việt Nam”
[96, tr.59]. Do tiếp thu những ảnh hưởng từ bên ngoài, tín ngưỡng dân gian có
nhiều sự biến đổi trong quá trình tồn tại. Mặc dù không có thiết chế riêng,
nhưng tín ngưỡng dân gian ở vùng đồng bằng Bắc Bộ luôn gắn với các thiết
chế tôn giáo cụ thể, nhất là với Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Hiếm có một
chùa thờ Phật nào ở vùng đồng bằng Bắc Bộ lại không có gian thờ Mẫu hay
thờ anh hùng dân tộc. Có nơi xây dựng phủ thờ Mẫu riêng bên cạnh chùa
chính, nhưng đại đa số đặt ngay bên phải cung Tam bảo, còn bên trái cung
Tam bảo thường là bản thờ Đức Ông.
Tính dung hợp đan xen, hoà đồng của tín ngưỡng dân gian với tôn giáo
còn được thể hiện rõ trên điện thờ của các đình, đền, miếu, phủ... ở vùng đồng
bằng Bắc Bộ. Đó cũng là nhận xét của Ngô Đức Thịnh: “Không chỉ có con
đường các điện Mẫu đi vào chùa, mà còn có con đường ngược lại - Phật đi
vào các đền phủ Mẫu thờ” [96, tr.179]. Đặc biệt là ở đình vốn thuộc thiết chế
phong kiến nhiều hơn tôn giáo, cũng có sự hiện diện của đủ các thần, thậm
chí là thờ cả Phật. Ở chùa thường có nhà thờ Tổ, giống như thờ cúng tổ tiên
trong gia đình vậy. Điều này minh chứng rằng, ngay từ thủa xa xưa, người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ đã hình thành ba cộng đồng gắn bó với nhau
chặt chẽ là gia đình, làng xóm và đất nước. Đối với việc thờ cúng tổ tiên, mỗi
68
gia đình dù giàu sang hay nghèo khó cũng đều có ban thờ gia tiên, để thể hiện
sự tri ân của con cháu đối với những người đã khuất và để tổ tiên hiển linh
phù trợ cho gia quyết luôn bình an, may mắn. Bởi vậy, dù Đạo Phật là một
tôn giáo lớn nhất nhì trên thế giới có được du nhập từ con đường Trung Hoa
hay Ấn Độ sang, cũng đều phải lựa chiều thay đổi để phù hợp với tín ngưỡng
dân gian bản địa. Việc thờ cúng tổ tiên vừa là tín ngưỡng, vừa là đạo lý tốt
đẹp của hậu thế đối với tiền nhân. Tín ngưỡng này đã hoà nhập một cách tự
nhiên, nhuần nhuyễn vào mọi tôn giáo ngoại nhập và trở thành một đạo lý, tuy
không ghi thành kinh sách nhưng lại rất linh động và phổ biến, được mọi
người chấp thuận.
Bên cạnh sự giao thoa giữa tư tưởng của Phật giáo với tín ngưỡng dân
gian, là sự giao thoa giữa tín ngưỡng dân gian và Đạo giáo. Chẳng hạn, trong
tín ngưỡng Tứ phủ, dễ thấy sự dung hợp nhiều yếu tố tôn giáo, tín ngưỡng
khác nhau. Trong khu thờ tự, ngôi cao nhất là Phật Thích Ca, chư Phật mười
phương, Phật Bà Quan Âm, các Bồ tát, Hộ Pháp, vua Đế Thích. Tiếp đến là
các nhân vật của đạo Giáo như Ngọc oàng, Ngũ nhạc Thần vương ở dương
phủ, Thập điện Minh Vương ở địa phủ, Bát hải Long vương ở thoải phủ, Tam
nguyên, Tam phẩm, Tam quan, Nam Tào, Bắc Đẩu, Thập nhị Bát tú, v.v…
sau đó mới đến các vị thánh. Đó là nét đặc sắc riêng có của tín ngưỡng Tứ
phủ của người Việt.
Như vậy, điểm nổi bật trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ là tính hỗn dung tôn giáo. Điều đó được thể hiện qua sự
đan xen trong lễ nghi, thờ tự và cả trong việc thực hành tín ngưỡng, tôn giáo
trong nhân dân.
Ba là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ thể
hiện tính dân chủ làng xã, giàu chất nhân văn
69
Tính dân chủ làng xã, giàu chất nhân văn trong tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được thể hiện rõ nét trong lễ nghi, thờ tự.
Đó là sự hài hòa trong việc thờ các vị thần, thánh là Nam thần và Nữ thần.
Bàn về điều này, Nguyễn Đức Lữ viết, “nhân dân ta từ sự tôn vinh đến sự tôn
thờ đã có sự công bằng, rằng không phân biệt là nam hay nữ nếu ai có công
với nước, với dân tộc và với cộng đồng, thì khi mất đi, đều được suy tôn là
thần linh cứu hộ dân gian” [66, tr.105]. Dưới sự đô hộ của phong kiến phương
Bắc, trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở vùng đồng bằng Bắc bộ, vai trò của người
phụ nữ được đề cao. Nhiều phụ nữ là người đã sớm thể hiện khí tiết anh hùng
không thua kém gì các trang nam tử anh hùng hảo hán, với tư tưởng “giặc đến
nhà đàn bà cũng đánh”. Dù xuất thân từ gia đình nông dân hay con nhà quyền
quý, khi họ lập nên chiến công đều được xét công trạng để ghi danh một cách
công bằng. Chẳng hạn, Bà Triệu Thị Trinh, đô đốc Bùi Thị Xuân, hay tiến sĩ
nữ đầu tiên của Việt Nam bà Nguyễn Thị Duệ được triều đình sắc phong là bà
Chúa sao sa. Điều đó giải thích cho việc, nhân dân ta thờ Mẫu cả ở trong đình
- nơi mà khi xưa chỉ có Vua tôi phong kiến và những bậc chính nhân quân tử
mới được đặt chân tới. Dường như xã hội càng dân chủ hoá thì thế giới thần
linh cũng ngày càng trở nên dân chủ hơn. Đối với tín ngưỡng thờ Mẫu, dưới
chế độ phong kiến “trọng nam khinh nữ” mà có một danh mục đông đảo các
Nữ Thần, Thánh Mẫu đến vậy, chứng tỏ người dân vùng đồng bằng Bắc bộ
sớm có tư tưởng nam nữ bình đẳng và biết tôn trọng đức sinh thành. Qua hành
động đó của nhân dân đã khắc họa thêm giá trị nhân văn ẩn chứa trong các
sinh hoạt tín ngưỡng.
Tính dân chủ, nhân văn trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ còn được thể hiện rất rõ trong sinh hoạt tín ngưỡng. Mọi
tầng lớp nhân dân dù giàu - nghèo, sang - hèn đều có thể thực hành một hay
một số tín ngưỡng, không có sự phân biệt về giới tính, đẳng cấp, trình độ.
70
Người ta có thể đến chốn cửa Phật, hay đình, đền, miếu, phủ… miễn sao tâm
của họ được thanh thản. Trong sinh hoạt tín ngưỡng không hề có cái gọi là
khuôn phép, giáo lý, giáo luật, giáo chủ như tôn giáo, mà ở đó, niềm tin, sự
ngưỡng vọng, ngưỡng mộ đối với các bậc thánh, thần là cơ sở chung cho các
sinh hoạt tín ngưỡng cộng đồng. Thông qua các sinh hoạt tín ngưỡng, thể hiện
tính cộng đồng, đoàn kết, tính nhân văn vốn có trong truyền thống văn hóa
của dân tộc ta.
Như vậy, trên cơ sở nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình
thành, tồn tại, phân loại các loại hình tín ngưỡng dân gian chủ yếu, chỉ ra đặc
điểm cơ bản, có thể hiểu tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng
Bằng Bộ như sau: Tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc
Bộ là một bộ phận của tín ngưỡng dân gian Việt Nam; nó được hình thành
trên cơ sở phương thức sản xuất nông nghiệp thâm canh cây lúa nước; do
người dân sáng tạo ra; nó được xây dựng trên cơ sở niềm tin, phản ánh
những nhận thức sơ khai mang tính kinh nghiệm cảm tính và những ước
nguyện tâm linh về tự nhiên, về con người và về xã hội.
2.4. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu của luận án
Thứ nhất, luận án vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu những yếu tố triết học trong
tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Cụ thể như sau:
- Luận án dựa trên quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng; mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và
ý thức xã hội làm cơ sở lý thuyết để nghiên cứu về những yếu tố triết học
trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, cũng như
giá trị và hạn chế của các yếu tố triết học đó.
- Luận án dựa trên quan điểm lịch sử - cụ thể để nghiên cứu về các yếu
tố triết học trong tín ngưỡng dân của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
71
Quan điểm này chỉ rõ, cần phải xuất phát từ điều kiện lịch sử - cụ thể hình
thành tín ngưỡng dân gian, cũng như những biểu hiện, những biến đổi của nó
trong quá trình tồn tại và phát triển.
Thứ hai, luận án vận dụng lý thuyết cấu trúc - chức năng để nghiên cứu
những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng
Bắc Bộ. Lý thuyết này được học giả A. Comte - nhà xã hội học cuối thế kỉ 19
với thuyết hữu cơ nổi tiếng, là người đầu tiên đặt nền móng cho lý thuyết
chức năng khi nghiên cứu về xã hội học nói chung và tôn giáo nói riêng. Sau
đó lý thuyết này được đặt nền tảng vững chắc và phát triển bởi E. Durkheim,
một nhà khoa học người Do Thái. Những tư tưởng chủ yếu của lý thuyết chức
năng được Durkheim phản ánh trong các tác phẩm "Sự phân công lao động xã
hội" (1893), "Các qui tắc của phương pháp xã hội học" (1895), "Sự tự sát"
(1897) và "Những hình thức sơ đẳng của tôn giáo" (1912). Lý thuyết cấu trúc
chức năng xem xã hội là một hệ thống phức tạp được tạo thành bởi các tiểu hệ
thống. Các tiểu hệ thống này thực hiện chức năng của mình trong mối liên kết
với các tiểu hệ thống khác để tạo nên sự ổn định và phát triển cho xã hội.
Lý thuyết này cho phép tìm hiểu cấu trúc của các yếu tố triết học trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ bao gồm ba thành tố:
- Yếu tố triết học về tự nhiên
- Yếu tố triết học về con người
- Yếu tố triết học về xã hội
Trên cơ sở đó, nghiên cứu sinh đi sâu tìm hiểu các giá trị và hạn chế của
các yếu tố triết học này, góp phần khẳng định chức năng xã hội của nó đối với
đời sống xã hội vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Ngoài ra, luận án dựa trên việc vận dụng kết hợp với các lý thuyết khác
như lý thuyết giao lưu và tiếp biến văn hóa, lý thuyết vùng văn hóa để nghiên
72
cứu các yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ.
Sơ đồ phân tích của luận án như sau:
Tiểu kết chƣơng 2
Tóm lại, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là
một hiện tượng lịch sử - xã hội, ra đời trên cơ sở tồn tại xã hội nhất định. Nó
không chỉ là một thành tố của văn hóa dân gian, mà còn là một bộ phận của ý
thức xã hội. Ra đời trên cơ sở của phương thức sản xuất nông nghiệp, chịu tác
động bởi các yếu tố văn hóa, lịch sử và các yếu tố tôn giáo ngoại lai, song tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ vẫn có những đặc
điểm riêng vốn có thể hiện bản sắc văn hóa đặc trưng của vùng miền. Sự ra
đời của tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ phản ánh
ước mơ, nguyện vọng chính đáng của người dân - đặc biệt của người nông
dân. Cho đến ngày nay, hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng vẫn còn tồn tại và có
xu hướng ngày càng phát triển nở rộ. Sự tồn tại đó là một hiện tượng khách
YẾU TỐ TRIẾT HỌC TRONG TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN CỦA
NGƯỜI VIỆT VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
QUAN NIỆM
VỀ TỰ NHIÊN
QUAN NIỆM
VỀ XÃ HỘI
QUAN NIỆM
VỀ CON NGƯỜI
ĐÁN GIÁ C UNG
73
quan. Khi khoa học vẫn chưa giải quyết được hết mảng tối của vũ trụ thì tôn
giáo, tín ngưỡng vẫn còn tồn tại. Do đó, nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến
sự hình thành, tồn tại, chỉ ra những đặc điểm chung của tín ngưỡng dân gian
của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, để thấy được sự tồn tại của tín
ngưỡng dân gian là một hiện tượng xã hội mang tính quy luật, và là một việc
làm hết sức cần thiết. Kết quả nghiên cứu này là cơ sở, là chất liệu cơ bản cho
việc phân tích, tìm ra các yếu tố triết học ẩn chứa trong các tín ngưỡng dân
gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
74
Chƣơng 3
QUAN NIỆM VỀ TỰ NHIÊN, VỀ CON NGƢỜI, VỀ XÃ HỘI TRONG
TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN CỦA NGƢỜI VIỆT VÙNG ĐỒNG BẰNG
BẮC BỘ
3.1. Quan niệm về tự nhiên trong tín ngƣỡng dân gian của ngƣời
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
3.1.1. Một số quan niệm về tự nhiên trong lịch sử tư tưởng triết học
nhân loại
Có thể hiểu tự nhiên theo nghĩa chung nhất, đó là toàn bộ thế giới vật
chất, bao gồm từ thế giới vi mô, đến thế giới vĩ mô, đến xã hội với hàng loạt
các mối quan hệ chằng chịt và vô cùng phức tạp, luôn có những ảnh hưởng
trực tiếp và gián tiếp đến cuộc sống của con người. Giới tự nhiên từ lâu vốn
được coi là mẹ của muôn loài, là cội rễ của mọi sinh vật, trong đó có con
người. Ngay từ khi con người được hình thành, nhu cầu hiểu về giới tự nhiên
dường như không thể thiếu được trong chuỗi hành trình dài đi chinh phục sự
sống. Cuộc sống thường nhật và cả trong lao động sản xuất, con người không
chỉ sống trong sự nuôi dưỡng từ những nguồn thức ăn sẵn có của tự nhiên, mà
còn có nhu cầu tạo ra nguồn của cải vô tận từ những thứ có sẵn mà tự nhiên
mang tới. Chính nhu cầu đó, đã thúc đẩy con người không ngừng khám phá,
chinh phục tự nhiên. Điều đó được thể hiện trong những nấc thang khám phá
tự nhiên trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại. Kết quả của quá trình nhận
thức giới tự nhiên phản ánh trình độ tư duy, trình độ chinh phục tự nhiên của
con người. Nó không giống nhau ở từng thời đại, từng lĩnh vực, từng vùng,
miền… song, nó là kết quả đáng ghi nhận trong chuỗi hành trình dài khám
phá và chinh phục tự nhiên trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Bởi, nói như
Mác, tự nhiên giống như là một lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống của
con người.
75
Bàn luận về vấn đề này, Nguyễn Đăng Thục cho rằng, “bất cứ ở trình
độ văn minh nào đều có những ý tưởng về thế giới và về sự vật trong thế giới
ấy, những ý tưởng ấy có thể phát triển hơn, hay kém minh bạch hay lờ mờ, ý
thức nhiều hay ít. Nhưng chúng có thật và người ta phô diễn ra bằng tiếng
nói” [108, tr.253]. Chẳng hạn, ở phương Tây, với đặc điểm nổi bật trong
phương thức sản xuất là lối du mục, chăn nuôi phát triển hơn trồng trọt. Do
đó, để tồn tại, buộc con người phải hiểu về tự nhiên. Từ việc quan sát các vì
sao trên bầu trời, từ nhu cầu hiểu về thời tiết, hiểu về những trận cuồng phong
trên sa mạc, những vụ cháy rừng, những cơn sấm sét… đã thôi thúc con người
khám phá, đi tìm câu trả lời. Ngay từ đầu, con người chưa thực sự hiểu hết
những hiện tượng bất thường của tự nhiên, nên họ đã xây dựng nên những
hình tượng các vị thần có sức mạnh là những chủ nhân của trời, đất, nước, núi
rừng,.. trong đó vị thần tối cao là thần Dớt - mang trong mình sức mạnh của
đất mẹ Gai-a. Về sau, họ giải thích tự nhiên là Chúa trời - người sinh ra vạn
vật và muôn loài… Khác với phương Tây, ở phương Đông, với phương thức
sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, trồng trọt phát triển hơn chăn nuôi, cư dân
tập trung ở những vùng đồng bằng màu mỡ bắt nguồn từ những con sông lớn
như sông Ấn, song Hằng, sông Hoàng Hà, sông Hắc Hải, sông Trường Giang,
sông Hồng, v.v.. Vì thế, phần lớn người phương Đông sống quần tụ, cố định ở
những khu đất lớn phù sa màu mỡ. Để tồn tại được, họ cũng cần phải hiểu tự
nhiên. Các tư tưởng về trời, đất, nước - là các yếu tố gắn liền với sản xuất
nông nghiệp được hình thành. Chẳng hạn, thời kì cổ đại, ở Ấn Độ, người ta
giải thích tự nhiên chủ yếu thông qua hình ảnh về các vị thần. Trong kinh
Veda chỉ rõ, linh hồn vũ trụ - đấng sáng tạo Brahman, vũ trụ chia thành ba
cõi: cõi trời Syria ngự trị thiên giới, thần gió Vayu ngự trị trung giới, và thần
lửa Agni ngự trị hạ giới. Còn trong Phật giáo quan niệm rằng, vũ trụ là cõi vô
thủy, vô chung; vạn vật là vô thường, vô ngã, vô giả tưởng, sinh thành chuyển
76
hóa theo luật nhân quả. Ở Trung Quốc, người ta giải thích về tự nhiên thông
qua các quan niệm khác nhau. Chẳng hạn, trong Nho giáo, tự nhiên được
quan niệm đó là trời. Trời mang trong mình sức mạnh, trời tồn tại khách quan
vừa chi phối, vừa không chi phối cuộc sống của con người. Khổng Tử nói,
trời có nói gì đâu mà bốn mùa vẫn thay nhau biến đổi. Lão Tử cho rằng, giới
tự nhiên được giải thích bằng thuật ngữ “Đạo”, nó tồn tại khách quan, và vận
động theo luật quân bình và luật phản phục, nó là nguồn cội hình thành nên
vạn vật.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng, ở phương Đông hay phương Tây, nhu
cầu nhận thức về giới tự nhiên là không thể thiếu. Tuy cách tiếp cận, và cách
giải thích khác nhau, song họ nhận thức về tự nhiên trong mối quan hệ với
con người chứ không phải nhận thức về tự nhiên một cách chung chung. Họ
giải thích về tự nhiên để hiểu tự nhiên, để sống và tồn tại được.
3.1.2. Nội dung một số quan niệm về tự nhiên trong tín ngưỡng dân
gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Việt Nam - một đất nước nhỏ bé nằm trong khu vực châu Á, nhưng
được tự nhiên ưu đãi ban tặng cho vùng đất trù phú và màu mỡ, khí hậu thuộc
vùng nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp trồng
trọt và chăn nuôi. Là một quốc gia độc lập, Việt Nam có nền văn hóa riêng, có
một nền văn minh, văn hiến lâu đời. Cũng giống như các quốc gia khác thuộc
khu vực châu Á, người Việt có những cách giải thích khác nhau về tự nhiên.
Về điều này, Nguyễn Đăng Duy viết, “ở thời kì sơ khai, khi mà cuộc sống con
người rất gần gũi với vạn vật của tự nhiên, con người thường xuyên, trực tiếp
phải đối mặt với thiên nhiên; đời sống của họ lệ thuộc chủ yếu vào tự nhiên,
thì thiên nhiên là đối tượng nhận thức chính của họ” [16, tr.31]. Cách giải
thích của người Việt về tự nhiên như nhận định của Nguyễn Đăng Thục, “…
bắt nguồn từ tín ngưỡng thần thoại… để đi đến tín ngưỡng cao hơn, chính xác
77
hơn… ở đấy chúng ta thấy được manh nha về cái vũ trụ quan Âm Dương vận
hành, nguồn sống chu lưu hết sức linh động của nhân loại nông nghiệp” [108,
tr.10-11]. Điều đó chứng tỏ rằng, bằng phương tiện diễn đạt khác nhau, cách
thức khác nhau, song người Việt cũng có những khám phá về giới tự nhiên
theo lối tư duy của người Việt.
Có nhận xét cho rằng, người Việt không có tư tưởng riêng khi giải
thích về thế giới, những tư tưởng đó là mượn của Phật Giáo, Nho Giáo, Đạo
Giáo và thậm chí là của cả Thiên chúa giáo. Song, có thể khẳng định, trong
tín ngưỡng dân gian, thông qua các huyền thoại và các sinh hoạt tín ngưỡng,
chúng ta có thể nhận thấy những sự giải thích về tự nhiên hết sức đa dạng,
phong phú và đầy tính thuyết phục. Điều này được thể hiện rõ nét trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ - nơi được coi là cái
nôi văn hóa tiêu biểu của cộng đồng người dân Việt Nam.
Nhận thức về tự nhiên chính là sự nhận thức về vị trí giữa con người
với vũ trụ. Sự nhận thức ấy quyết định cho cuộc sinh tồn của con người trong
từng hoàn cảnh nhất định. Việc lý giải về tự nhiên trong tín ngưỡng dân gian
của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ dựa trên chính các hiện tượng thuộc
về thiên nhiên, đang trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến cuộc sống của họ -
đó là những yếu tố gắn liền với không gian sinh tồn như trời, đất, nước, núi
rừng, biển cả, cây, con... Bởi vì, theo Nguyễn Đăng Duy, “tín ngưỡng là từ
thực tế cuộc sống, con người ta đặt ra những lực lượng tôn vinh, tôn thờ phù
hợp với cuộc sống của mình là thế” [16, tr.160]. Trong cùng dòng chảy tư
tưởng đó, thông qua hệ thống huyền thoại trong tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, đã làm cho cách giải thích về tự nhiên
càng trở nên phong phú, đa dạng và nhiều màu sắc, phản ánh sự sinh động,
muôn hình muôn vẻ của tự nhiên.
78
3.1.2.1. Quan niệm về trời
Trước tiên, điểm nổi bật là quan niệm về trời được lý giải trong hệ
thống tín ngưỡng dân gian của người Việt theo hai nghĩa: trời vừa là hiện
tượng thiên nhiên hữu hình, trời vừa là một vị thần tối cao được nhân cách
hóa với đủ các cung bậc. Với ý nghĩa thứ nhất, trời được lý giải là một hiện
tượng thời tiết tự nhiên bao hàm trong đó có mây, mưa, sấm chớp, có lúc trời
quang mây tạnh, có lúc mây đen kéo đến mịt mù. Trời mang tính dương, có
các mùa luân phiên nhau biến đổi. Song với ý nghĩa vật lý như vậy, chưa đủ
để giải thích ngọn ngành vì những bất thường của trời mà con người không
thể chống đỡ. Chính vì sự thần bí đó, trời được nhân cách hóa thành một lực
lượng siêu nhiên, là một “thế lực” thiện, che chở bảo vệ con người, nuôi
dưỡng vạn vật, để cho nhân loại nương tựa vào đấy mà sống còn, mà kính sợ,
làm thiện được thưởng, làm ác bị phạt.
Quan niệm về trời được thể hiện đa dạng phong phú dưới những lăng
kính khác nhau trong tín ngưỡng dân gian của người Việt. Là yếu tố quan
trọng bậc nhất trong tự nhiên, mỗi hành động của trời đều tác động đến cuộc
sống của họ. Có những lúc thời tiết thuận hòa, có những khi lại nổi cuồng
phong dữ dội. Do vậy, sợ hãi, bất lực trước sức mạnh thần bí của tự nhiên,
cảm quan người Việt về thế giới, về vũ trụ bao la đã dựng nên những hình ảnh
phong phú, đa dạng về trời.
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, trời “được hiểu là không gian sinh sống của
nhiều vị thần thánh, trong đó, Mẫu Thượng Thiên là người đứng đầu cai
quản” [106, tr.127-130]. Mẫu Thượng Thiên được dân gian tôn kính và tôn
làm Đệ Nhất Tiên Thiên Thánh Mẫu. Bàn về điều này, Vũ Ngọc Khánh viết:
“Thiên cung Thánh Mẫu: Bà mẹ lớn ở trên trời. Bà đẻ ra trời. Vì quá xa xôi
nên người ta gọi là Mẫu Cửu Trùng hay Mẫu Thượng Thiên” [55, tr.14]. Điều
đó nói lên rằng, Mẫu Thượng Thiên là người nắm quyền năng trong tay, cai
79
quản và làm chủ các hiện tượng của tự nhiên như mây, mưa, sấm, chớp… Cái
tên gọi Ngọc Hoàng là chủ nhân của miền trời trong quan niệm của Đạo giáo
thì trong tín ngưỡng thờ Mẫu, trong tư duy của người Việt Mẫu Thượng
Thiên cũng có vai trò tương đương Ngọc Hoàng. Mẫu Thượng Thiên không
chỉ là tên gọi cho vị thánh cai quản miền trời mà còn ẩn dấu ước mơ của
người Việt: Mẫu mang nghĩa là mẹ tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở, cho
sức mạnh che chở và thể hiện cả sự kính trọng đối với người mẹ… Trong quá
trình phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu, sau này khi Mẫu Tứ phủ xuất hiện, ta
còn bắt gặp hình ảnh về Mẫu Thiên qua sự tích về Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Tương truyền trong dân gian xưa, Mẫu Liễu Hạnh là con của Ngọc Hoàng
Thượng Đế xuống trần gian để cứu giúp con người. Mẫu Thượng Thiên trong
điện thờ được đặt ở vị trí cao nhất trong cung cấm, bà trùm khăn đỏ ngồi giữa.
Hình ảnh về Mẫu Thượng Thiên phản ánh tư duy người Việt về yếu tố trời
được nhân cách hóa đầy sinh động. Qua lăng kính của người Việt, trời tuy ở
cao, xa với cuộc sống của con người, song lại có những sợi dây liên kết chặt
chẽ với con người. Mang trong mình sức mạnh thần bí, trời được hình tượng
hóa thành người Mẹ với đủ các cung bậc cảm xúc thể hiện qua các vị thần
như mây, mưa, sấm, chớp. Nếu không bằng lòng thì sét đánh, sấm nổ, không
ưng thuận thì nổi trận cuồng phong, lúc hiền hòa thì trời yên gió thuận.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
cho rằng, trời là một trong những yếu tố của tự nhiên, và có vai trò quan trọng
đối với cuộc sống của con người. Theo Ngô Đức Thịnh, “Thiên” là trời, tức là
các vị thần có nguồn gốc từ trời, mang dáng vẻ con người và thậm chí cũng
có cuộc sống giống như con người [96, tr.96]. Đó là các vị tứ pháp: Pháp Vân,
Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Lôi. Do có sự đan xen với các loại hình tôn giáo
khác, nên trong tín ngưỡng thành hoàng làng khi giải thích về trời cũng xuất
hiện những hình ảnh về Nam Tào, Bắc Đẩu, Nam Đại Vương Tinh, thần Sao
80
Sa… Các vị thần đó đại diện cho mây, mưa, sấm, chớp với mục đích cầu
mong trời yên biển lặng, mưa thuận gió hòa; các vị thần đại diện cho việc cai
quan cả số phận con người như Nam Tào, Bắc Đẩu… với mục đích điều
chỉnh hành vi của con người. Các cụ ta thường nói, “trời có mắt” ý muốn nói
tới việc những gì chúng ta làm trời đều biết cả. Trời ở đây là các vị Nam Tào,
Bắc Đẩu luôn có nhiệm vụ theo dõi mọi cử chỉ hành động của con người. Có
thể thấy rõ, trong tín ngưỡng thờ thành Hoàng, trời được nhân cách hóa, được
xây dựng nên bởi nhiều hình ảnh đa dạng, phản ánh chính xã hội mà con
người đang tồn tại sinh sống.
Trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, quan niệm về trời thường được
hiểu là nơi sinh sống của các vị thần cai quản bầu trời và là nơi đón nhận
những vong hồn thanh sạch của người đã chết. Đối với người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ nói riêng, trời được sáng tạo bởi thần trụ trời. Theo truyền
thuyết dân gian cho biết, thần trụ trời lấy đất đá đắp thành cái cột nâng dần
trời lên cao, tách biệt trời và đất khỏi cõi hỗn mang, giúp loài người có được
ánh sáng mặt trời để sinh tồn, có đất để sinh sống, nương nhờ. Trong tâm linh
của người Việt, trời được coi là vị thần bản mệnh tối cao của cộng đồng dân
tộc. Họ quan niệm rằng, mỗi một vì tinh tú trên bầu trời (ông sao) được xem
như ứng với một sinh mệnh con người. Khi một vì sao biến mất khỏi bầu trời
ứng với việc một người đã chết. Do vậy, trong tục lệ tang ma của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ cho thấy, đi trước quan tài, người ta rước cây minh
tinh, trên đó, một bên đề tên húy của người đã chết, một bên đề chữ “Quỷ
Khốc linh thính”, “ý nói, tiếng khóc than của con cháu động tới quỷ thần, quỷ
thần đón linh hồn người chết về trời” [81, tr.105]. Do sự ảnh hưởng chủ yếu
của Phật giáo và Đạo giáo, về sau này, trong tục đưa tang của người chết,
phần lớn các gia đình thường có cầu pháp được xem như cầu vồng. Đó là một
tấm vải dài, hai bên rủ những tua vải nhỏ, được các cụ già đội lên đầu, vừa đi
81
vừa tụng kinh niệm Phật cầu cho linh hồn được siêu thoát lên cõi Thiên giới.
Bên cạnh đó, trong nghi lễ thờ cúng Tổ tiên là sự biểu hiện rõ quan niệm về
sự linh thiêng, là đấng tối cao không chỉ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến người
chết mà còn đến cả cuộc sống của con người. Bày tỏ lòng thiện tình của thứ
dân đối với đấng tối cao là trời, trong các lễ vật cúng gia tiên, họ không quên
dành cúng Trời - Đất. Câu cửa miệng của người Việt, trước khi cúng của gia
tiên, thường là “con lạy chín phương trời, con lạy mười phương Phật” với
mục đích cầu xin trời đất phù hộ cho mưa thuận gió hóa, gia đình được ấm
êm, và cũng là để cầu mong cho linh hồn của những người đã chết được siêu
thoát cõi Thiên giới. Như vậy, có thể thấy rằng, trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên, trời là yếu tố quan trọng đối với người Việt. Trời tuy cao, xa nhưng vẫn
có sức ảnh hưởng đáng kể đến cuộc sống của con người, đặc biệt là người đã
chết. Những người còn sống tin rằng, người thân của mình, sau khi chết đi,
nếu con cháu trên trần chu tất với trời, đất, thì linh hồn người thân của họ sẽ
được siêu thoát, được cõi Thiên giới đón nhận. ơn thế nữa, trời còn ban cho
con người ánh nắng, ban cho con người mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi
tốt, người an, vật thịnh, gia đình yên ấm. Do vậy, đây là một trong những yếu
tố quan trọng của vũ trụ không thể thiếu được đối với vạn vật trong thế gian,
đặc biệt là con người. Suy nghĩ đó đã ngấm vào từng mạch máu của người
Việt, nó trở thành tục lệ biểu hiện rõ nét mối quan hệ mật thiết giữa ba yếu tố
Thiên - Địa - Nhân.
Từ sự phân tích quan niệm về trời trong ba tín ngưỡng dân gian chủ
yếu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, lập bảng so sánh như sau:
Bảng 3.1: Quan niệm về trời trong tín ngưỡng dân gian của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Tiêu chí Thờ cúng Tổ tiên Thờ Mẫu Thờ Thành hoàng
1. Cơ sở - Xuất phát từ vai trò của yếu tố trời đối với cuộc sống của người
82
nhận
thức
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
- Xuất phát từ nhận thức trực quan, mang tính chất kinh nghiệm,
cảm tính.
- Xuất phát từ quan niệm duy tâm, thần bí.
2. Nguồn
gốc, bản
chất
- Do các vị thần
sáng tạo ra.
- Thường được hiểu
là nơi sinh sống của
các vị thần (Ngọc
Hoàng, Nam Tào,
Bắc Đẩu…), có mặt
trời, mặt trăng và có
các vì tinh tú.
- Thường được hiểu
là cha, mang tính
dương.
- Được nhân cách
hóa.
- Do Mẫu Thiên
sáng tạo và là người
cai quản vùng trời.
- Thường được hiểu
là nơi sinh sống của
các vị thần (Mẫu
Thiên, các vị Quan
Ông, Chầu Bà,
Thánh Cô, Thánh
Cậu…).
- Thường được hiểu
là Mẹ, mang tính
âm.
- Được nhân cách
hóa.
- Do các vị thần
sáng tạo ra.
- Thường được hiểu
là nơi sinh sống của
các vị thần (Ngọc
Hoàng, Tứ pháp,
Nam Tào, Bắc Đẩu,
các Thánh Mẫu) .
- Mang tính lượng
hợp (hòa quyện cả
tính âm và tính
dương)
- Được nhân cách
hóa.
3. Chức
năng
- Cai quan vận mệnh
của con người (mỗi
vì tinh tú trên bầu
trời thể hiện số
mệnh của một
người).
- Đón nhận những
linh hồn thanh sạch
của người chết về
cõi Thiên giới.
- Cai quản các hiện
tượng của tự nhiên
như mây, mưa, sấm,
chớp.
- Cai quản vận mệnh
của con người (ứng
với mỗi một con
người là một vị
Thánh Mẫu, hàng
- Cai quản các hiện
tượng của tự nhiên
như mây, mưa, sấm,
chớp.
- Bảo hộ vận mệnh
cho cộng đồng làng,
xã.
83
- Phù hộ, che chở,
ban mưa thuận gió
hòa, người an, vật
thịnh cho con người
Quan, hàng Cậu,
hàng Cô…)
- Phù hộ, che chở,
ban mưa thuận gió
hòa, người an, vật
thịnh cho con người.
- Ban mưa thuận gió
hòa, người an, vật
thịnh cho con
người.
4. Ý
nghĩa
- Giải thích về mối
quan hệ giữa trời -
người, mối quan hệ
giữa người sống với
người chết thông
qua yếu tố trời.
- Là nơi gửi gắm
ước mơ, nguyện
vọng của con người
về cuộc sống tốt đẹp
hơn cho cả người
sống và người chết.
- Giải thích về
nguồn gốc và các
hiện tượng của tự
nhiên (như các hiện
tượng thiên tai, lũ
lụt…).
- Thể hiện khí phách
và quyết tâm của
ông cha ta trong
việc chế ngự tự
nhiên để tồn tại và
phát triển.
- Giải thích về
nguồn gốc và các
hiện tượng của tự
nhiên (như các hiện
tượng thiên tai, lũ
lụt…).
- Thể hiện khí
phách và quyết tâm
của ông cha ta trong
việc chế ngự tự
nhiên để tồn tại và
phát triển.
Như vậy, nhận thức của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ về trời
được phản ánh sắc nét trong tín ngưỡng dân gian. Tuy còn sơ khai nhưng
phần nào đã cho thấy được sự nhận thức ban đầu về vũ trụ. Cảm quan của
người Việt về trời là hình ảnh những điều gần gũi với chính cuộc sống của họ.
Họ nhân cách hóa sức mạnh của trời. Trời là những con người cụ thể, nhưng
lại là những con người mang trong mình sức mạnh siêu nhiên, có đầy đủ
những cung bậc cảm xúc giống con người vừa thực, vừa hư. Nhận thức về trời
trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ đa dạng và
nhiều vẻ: có mây, mưa, sấm, chớp thì tương ứng với việc có các hình ảnh về
các vị thần cai quan các lĩnh vực thời tiết; có mặt trời là trung tâm của vũ trụ.
Tính cách của các vị thần biểu trưng cho các hiện tượng của thời tiết: lúc
84
nắng, lúc mưa, lúc bão giông vùi dập, sấm chớp cháy rực cả vùng trời, những
cơn thịnh nộ như những trận cuồng phong quét sạch tất cả. Song có những lúc
trời yên biển lặng, mưa gió thuận hòa… giống như người mẹ lúc thể hiện tình
yêu thương, chăm sóc và vui đùa cùng con cái. Tuy có nhiều điểm khác nhau
trong quan niệm về trời trong ba loại hình tín ngưỡng chủ yếu nêu trên, song
đều chung một điểm: thừa nhận trời là một yếu tố quan trọng của tự nhiên,
gắn liền với cuộc sống của con người; thừa nhận đấng sáng tạo ra trời, do vậy,
trời là yếu tố mang sức mạnh siêu nhiên; đều khẳng định giá trị nhận thức
trong tư duy của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ về tự nhiên.
3.1.2.2. Quan niệm về đất
Bên cạnh trời, thì đất là một yếu tố không thể thiếu trong sản xuất nông
nghiệp của cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trong tư duy của người Việt, ta
luôn bắt gặp hình ảnh “trời tròn, đất vuông” - được thể hiện trong sự tích bánh
chưng, bánh dầy. Hai hình ảnh trời và đất giống như cha và mẹ, không thể
thiếu cho sự tồn tại và sinh thành của vạn vật. Trời là yếu tố dương, thể hiện
sức mạnh của tự nhiên, đất là yếu tố âm thể hiện sự che chở đối với muôn
loài. Đối với người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, với phương thức sản xuất
chính là nền sản xuất nông nghiệp thâm canh cây lúa nước, thì đất là yếu tố
không thể thiếu. Đất là tư liệu sản xuất quan trọng bậc nhất đối với sản xuất
nông nghiệp. Nếu không có đất thì mọi hoạt động sản xuất, hoạt động sống
của con người và mọi sinh vật đều khó bề tồn tại. Chính vì thế, ngay từ sớm
người Việt đã chú ý đến vai trò của yếu tố đất. Vì vậy “muốn được sống yên
ổn, muốn cho đất đai màu mỡ, mùa màng bội thu, cây cối luôn tốt tươi thì
phải kính trọng và tôn thờ thần đất” [106, tr.127-130].
Trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, yếu
tố đất được phản ánh dưới nhiều góc độ. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, vị cai
thần quản đất chính là Mẫu Địa. Vì “có lẽ, trong tư duy của người Việt, họ
85
không muốn có bất kì khoảng không gian nào dành cho ma ta quỷ quái khống
chế cuộc sống con người, mà khắp trục không gian: trời, đất, núi rừng, nước
đều nằm trong quyền năng cai quản của Mẫu. Chính vì vậy mà bên cạnh Mẫu
Thượng Thiên, người Việt còn có cả Mẫu Địa - là người giữ quyền năng sáng
tạo và bảo trợ cho sự sinh sôi, phát triển của vùng đất” [96, tr.96]. Mẫu Địa
được tôn là Địa Tiên Thánh Mẫu, được khoác lên mình bộ áo vàng biểu tượng
của đất, được thờ trong cung cấm. Chầu Đệ Tứ là vị Thánh giữ vai trò khâm
sai Tứ phủ, đứng đầu Địa phủ. Mẫu Địa thể hiện sự che chở của mình cho con
người, là nơi ươm mầm cho sự sinh sôi nảy nở. Khác với Mẫu Thiên, Mẫu
Địa mang trong mình sự trầm lắng, bình lặng như chính bản tính tự nhiên của
đất vậy: cố kết chặt chẽ, mang trong mình nguồn dinh dưỡng cho muôn loài,
nâng niu, chở che cho vạn vật.
Trong tín ngưỡng Thành hoàng của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
cho rằng, đất là do các vị thần đất cai quản. Các vị thần đất cũng mang dáng
dấp của con người, có cuộc sống như con người. Tồn tại dưới tên gọi chung là
Bản cảnh Thành hoàng, trách nhiệm của họ là việc trông giữ đất đai. Vì thế
cần phải thờ phụng, kính nể các vị thần đất để mong cầu họ giúp sức cho con
người có cuộc sống ấm êm. Các vị Thổ thần ấy không chỉ trông coi nhà cửa,
con người, vật nuôi mà còn có trách nhiệm xua tà đuổi quỷ, đuổi những vong
linh xâm nhập vào ranh giới của mỗi gia đình. Vì thế, trong tâm thức người
Việt, khi họ muốn mời gia tiên về với gia đình người sống, thì trước tiên cần
phải xin phép thổ công, thổ địa cai quan trên vùng đất của họ. Ý thức về vai
trò của đất trong cuộc sống, hình ảnh các vị thần đất được tạc dựng đa sắc thái
như chính kết cấu của các yếu tố đất trong tự nhiên.
Còn trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt vùng đồng bằng
Bắc Bộ cho rằng, đất thuộc quyền cai quan của Diêm Vương, các vị Thổ
Công Long Mạch, Thổ Địa, là cõi âm… Sâu thẳm trong lòng đất là nơi tối
86
tăm, được xem như một thế giới riêng và được gọi là cõi âm ti, địa ngục, là
nơi ở của Diêm Vương, các vị Thần đất và các vong hồn chưa được siêu thoát
đang bị đày đọa ở ngục tối. Trần Đăng Sinh cho rằng, “cõi âm trong tâm linh
người Việt là thế giới của hồn ma. Người mới chết, trước khi nhập hồn vào
thế giới hồn ma cũng phải được Thổ Địa ở nơi đó cho phép” [81, tr.106]. Cho
nên, trong nghi lễ thờ cúng Tổ tiên, người ta rất coi trọng vai trò của đất. Đất
được coi là mẹ đất, sinh ra và nuôi sống con người, là nơi để người chết trở về
để tiếp tục sống một cuộc sống ở cõi âm với những người thân đã khuất, đúng
với câu “sinh gửi, thác về”. Do vậy, với người sống, trước khi làm nhà, họ
thường làm lễ cúng phần âm trước - tục gọi là mua long mạch. Còn trong tang
ma, trước khi thực hiện lễ mai táng, gia chủ cần phải tiến hành việc mua đất
phần âm, làm lễ báo cáo thần linh, thổ địa cho vong linh được nhập mộ phần
về vùng đất mới. Quan trọng hơn nữa, họ còn quan niệm cần phải chú ý
hướng phần mộ cho hợp với hướng của trời đất vì có như vậy mới giúp cho
người còn sống được bình yên, thuận lợi. Như vậy, có thể nhận thấy, quan
niệm về đất trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên cũng mang tính chất duy tâm,
thần bí, nhưng có nhiều giá trị tích cực. Nó không chỉ phản ánh cuộc sống khổ
cực, bị đày đọa của con người ở trần gian, vì theo quan niệm của các cụ thì
“trần sao, âm vậy”, mà còn gửi gắm niềm hi vọng hướng thiện, trừ ác cho con
người trên trần thế.
Từ việc phân tích quan niệm về đất trong ba loại hình tín ngưỡng trên,
lập bảng so sánh như sau:
Bảng 3.2: Quan niệm về đất trong tín ngưỡng dân gian của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Tiêu chí Thờ cúng Tổ tiên Thờ Mẫu Thờ Thành Hoàng
1. Cơ sở
của sự
- Xuất phát từ vai trò của yếu tố đất đối với cuộc sống của người
Viêt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
87
nhận thức - Xuất phát từ nhận thức trực quan, mang tính chất kinh nghiệm,
cảm tính.
- Xuất phát từ quan niệm duy tâm, thần bí.
2. Nguồn
gốc, bản
chất
- Do các vị thần cai
quản, đứng đầu là
Diêm Vương.
- Là nơi ở của Diêm
Vương và các vị Thổ
thần.
- Là nơi các vong hồn
chưa được siêu thoát,
đang bị đày đọa ở
tầng địa ngục.
- Được gọi là cõi âm
- Đất được nhân cách
hóa.
- Do các vị thần
cai quản, đứng
đầu là Mẫu Địa.
- Là nơi ở của của
Thánh Mẫu Địa
Tiên và các vị
Thổ thần.
- Đất được nhân
cách hóa.
- Do các vị thần
Thổ địa cai quản,
các vị thần đó được
gọi chung là Bản
Cảnh Thành hoàng.
- Là nơi ở của các
vị Thổ thần
- Đất được nhân
cách hóa.
3. Chức
năng
- Là không gian sinh
tồn của con người
- Là một thế giới
khác để vong hồn Tổ
tiên tiếp tục duy trì
cuộc sống.
- Dưới âm ti địa phủ
- Thể hiện vai trò
che chở của Mẫu
đối với cuộc sống
của con người.
- Là nơi ươm
- Trông coi nhà cửa,
đất đai, vườn tược
cho con người.
- Xua đuổi ma tà,
quỷ quái.
- Thể hiện chủ
88
làm nơi tra tấn, đày
đọa những vong hồn
làm nhiều việc ác.
mầm cho sự sinh
sôi, nảy nở, là
nguồn dinh dưỡng
cho muôn loài.
quyền đất đai phần
âm của mỗi gia
đình, làng xã, quốc
gia.
4. Ý nghĩa - ướng thiện cho
con người, khuyên
con người ăn ở có
tâm, có đức để sau
này không bị đày đọa
xuống cõi âm ty, địa
phủ.
- Khẳng định vai
trò của yếu tố đất
trong cuộc sống,
trong lao động
sản xuất của con
người.
- Khẳng định chủ
quyền lãnh thổ
không chỉ phần âm
mà cả phần trần của
mỗi gia đình, làng
xã, quốc gia.
Như vậy, trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng
Bắc Bộ, quan niệm về đất được giải thích trên nhiều khía cạnh. Tuy còn khác
nhau, nhưng về cơ bản, trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ, đất là yếu tố âm, do các vị thần linh, thánh Mẫu cai quản. Các
vị thần ấy mang dáng dấp của con người, phản ánh mối dây liên hệ gần gũi
giữa thần, thánh và người. Những nhận thức đó chứa đựng nhiều yếu tố duy
tâm, thần bí về yếu tố của tư nhiên nhưng phần nào đã phản ánh tư duy trừu
tượng của người Việt về tự nhiên một cách có ý thức.
3.1.2.3. Quan niệm về nước
Người xưa quan niệm rằng “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”
cho thấy nước có vai trò vô cùng quan trong đối với sự sống. Khoa học hiện
đại nhận định, cơ thể của con người và động thực vật chiếm tới gần 70% là
nước, trái đất của chúng ta có đến ¾ là nước, ở đâu có nước thì ở đó có sự
sống. Đặc biệt, với người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ nước là yếu tố giữ vai
trò hàng đầu cho sản xuất nông nghiệp và cho sự sống của con người. Nước
đem lại sự sinh trưởng cho cây lúa, cho sự sinh sôi nảy nở của vật nuôi, cho
89
sự sống và hiểm họa khôn lường của con người. Với vị trí địa lý đặc thù, vùng
đồng bằng Bắc Bộ nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa ẩm, với lượng mưa
trung bình năm lớn vừa là thuận lợi vừa khó khăn. àng năm, những cơn bão
mang nước từ biển khơi liên tiếp dội vào, gây nên những trận lụt lội dữ dội và
những trận hạn hán làm nứt nẻ ruộng đồng đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến
cuộc sống của con người. Nhận thức được điều này, người dân đã tạo dựng
những công trình thủy lợi để ngăn đê, đắp đập, để giữ nước cho những vụ hạn
hán… Nhưng con người vẫn không thắng nổi sức mạnh của thiên nhiên.
Quanh năm tiếp xúc với trời, đất, nắng mưa, với gió bão, với nước… con
người dần có ý thức về nó. Trong tư duy của người Việt, nước cũng mang
trong mình sức mạnh thần bí, do một lực lượng siêu nhiên tạo thành. Khi câu
chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh được hình thành, nó phản ánh tư duy của người
Việt trong cách giải thích hiện tượng lũ lụt. àng năm, vì Thủy Tinh không
lấy được Mị Nương nên Thủy Tinh đã dùng sức mạnh của mình dâng nước
đánh nhau với Sơn Tinh mong giành lại được vợ, đã gây ra những trận lụt lội
cho con người.
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ cho
rằng, nước là yếu tố âm, do các vị thánh, thần cai quản. Đứng đầu vùng nước
là Mẫu Thoải, hay còn được gọi là Mẹ nước. Giúp việc cho Mẫu Thoải là các
vị quan Bà - Chầu Đệ Tam, Cô Bơ và cả những con vật dưới sông nước…
Trong đó, “Chầu Đệ Tam là hóa thân của Mẫu Thoải. Đó là vị thánh có dáng
vẻ u buồn, y phục và khăn trùm màu trắng. Chầu Đệ Tứ là vị thánh giữ vai trò
khâm sai của Tứ phủ” [96, tr.136]. Cô Bơ là hóa thân của Thủy phủ, khi giáng
đồng mặc y phục màu trắng, thắt lưng hồng, múa điệu chèo đò. Cô Bơ xuất
hiện với vai trò “chữa bệnh cứu người bằng cách ban nước uống” [96, 138].
Như vậy, có thể thấy, nước trong quan niệm của tín ngưỡng thờ Mẫu là thế
giới của các vị thần thánh cư ngụ. Sức mạnh của dòng nước là biểu hiện sức
90
mạnh của các vị Thủy thần, đứng đầu trong số đó là Mẫu Thủy. Mẫu Thủy
biến hóa thành các vị thánh khác nhau, có tính cách khác nhau cũng giống
như sự thay đổi của dòng nước. Khi thì nước hiền hòa êm đềm trôi chảy,
mang đến mùa màng tốt tươi cho con người, được ví như bàn tay mẹ làm mát
mọi vật, làm sinh thành cho vạn vật trong trời đất. Khi thì nổi những dòng
nước cuồn cuộn thể hiện sự giận dỗi của Mẹ nước đối với những đứa con trần
thế của mình. Hình ảnh nước được giải thích một cách duy tâm, thần bí, thần
thánh hóa, nhân cách hóa yếu tố nước trong tự nhiên. Phản ánh trình độ nhận
thức thấp và sự kém phát triển của khoa học tự nhiên của người Việt lúc bấy
giờ.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng cho rằng, nước là do các vị thần linh cai
quản. Đó có thể là các vị thần Linh lang, hoặc có khi là các vị quan, tướng
triều đình có công đánh giặc giữ nước được phong làm Thủy thần cai quản
vùng sông nước. Hình ảnh các vị Thủy thần đã được nhân cách hóa thành
những vị thần có tên tuổi, có gốc tích, là các nhân vật lịch sử như Bát ải
Động Đình, Đông ải Đại Vương, Nam ải Đại Vương, Nam ải Tứ Vị
Hồng Nương, Linh Lang Đại Vương… đều là những vị thần cai quan các
miền sông nước. Hình ảnh dòng nước cuốn mình như rắn, được người dân
khắc họa đó là thần Linh Lang. Các vị thần khác như Bát ải Động Đình là vị
vua nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống quân xâm
lược. Ông được phong làm Thủy thần và được người dân thờ tự. Khi xây
dựng hình ảnh các vị thần cai quản miền sông nước, dân gian muốn gửi gắm
vào đó mong muốn được các vị thần che chở cho con người, chống đỡ cho
con người khỏi những trận lũ lụt hay những trận hạn hán. Ngoài ra, đối với
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ còn gắn liền với nghề sông nước. Nên
yếu tố nước luôn được họ quan tâm đến hàng đầu. Với quan niệm, “đất có thủ
công, sông có hà bá”, nên trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng, các vị thần cai
91
quản vùng sông nước đều có những vị trí nhất định. Nhìn dòng nước cuồn
cuộn, sâu thẳm trong lòng sông ắt hẳn là cuộc sống của Long Vương, của các
vị thần nước. Nhân gian có câu, không có gì mạnh bằng nước, cũng không có
gì mềm bằng nước, ý muốn nói tới sức mạnh vô cùng của nước. Cuộc sống
của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ xuất phát từ nghề canh tác trồng lúa
nước, chèo thuyền đánh cá, nên nước là yếu tố quan trọng hàng đầu. Những
khi, thời tiết hạn hán, nước sông, nước suốt cạn kiệt, hoặc trời đổ mưa gây
nên những trận lũ lụt cuốn trôi nhà cửa, ruộng vườn. Sợ hãi trước sức mạnh
siêu nhiên không thể chế ngự đó, dân gian gắn cho nó sức mạnh của các vị
thần linh mang dáng dấp của con người, để dân gian thờ cúng, mong cầu được
che chở, và phần nào thể hiện khát khao chinh phục được tự nhiên.
Trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc
Bộ cho rằng, cùng với trời, đất, thì nước cũng là một yếu tố quan trọng. Trong
tư duy của người Việt, nước mang tính âm, được ví như sữa mẹ, ý muốn
khẳng định công sinh thành của mẫu thân đối với con cái. Chính vì lẽ đó, khi
nhắc tới yếu tố nước, người Việt cho rằng, đó là nguồn gốc của mọi sư sinh
sôi, nảy nở của vạn vật, muôn loài. Biểu hiện quan niệm về nước trong tín
ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt cho thấy, trong các đồ lễ cúng gia
tiên ở các gia đình, hay cộng đồng làng xã đều không thể thiếu rượu (hoặc
bình nước thanh thủy) - phi tửu bất thành lễ. Theo nhận định của Trần Đăng
Sinh cho thấy “rượu biểu trưng cho nước trắng tinh khiết, là tấm lòng thành
tâm nguyện dâng cúng Tổ tiên. Nước làm cho linh hồn Tổ tiên mát mẻ, cũng
là sự phản ánh lòng mong muốn sự sinh sôi, phát triển và thịnh vượng của gia
đình, họ tộc” [81, tr.107].
Từ sự phân tích quan niệm về nước trong ba tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ nói trên, lập bảng so sánh như sau:
92
Bảng 3.3: Quan niệm về nước trong tín ngưỡng dân gian của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Tiêu chí Thờ cúng Tổ tiên Thờ Mẫu Thờ Thành hoàng
1. Cơ sở
nhận
thức
- Xuất phát từ vai trò của yếu tố nước đối với cuộc sống của
người Viêt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
- Xuất phát từ nhận thức trực quan, mang tính chất kinh nghiệm,
cảm tính.
- Xuất phát từ quan niệm duy tâm, thần bí.
2. Nguồn
gốc, bản
chất
- Do các vị thần cai
quản.
- Có tính âm.
- Nước được linh
thiêng hóa.
- Do các vị thánh,
thần cai quản, đứng
đầu là Mẫu Thoải.
- Là các vị thần có
nguồn gốc nhiên
thần
- Nước được nhân
cách hóa.
- Do các vị thánh,
thần cai quản, đứng
đầu có thể là vị thần
Linh Lang, các vị
anh hùng có công
dẹp giặc được
phong Thủy thần.
- Là các vị thần vừa
có nguồn gốc thiên
thần, vừa có nguồn
gốc nhân thần.
- Nước được nhân
cách hóa.
3. Chức
năng
- Là nguồn gốc của
mọi sư sinh sôi, nảy
nở của vạn vật,
muôn loài.
- Biểu trưng cho sự
- Cai quản vùng
nước.
- Ban sự sống cho
con người và vạn
vật.
- Giải thích về các
- Cai quản vùng
nước.
- Ban sự sống cho
con người và vạn
vật.
- Giải thích về các
93
tinh khiết của con
cháu dâng lên thành
kính cúng Tổ tiên,
của làng xã, đất
nước thành kính
cúng các vị thần.
- Làm cho linh hồn
của người thân được
mát mẻ.
hiện tượng lũ lụt,
hạn hán là do sự nổi
giận của các vị thần
linh.
hiện tượng lũ lụt,
hạn hán là do sự nổi
giận của các vị thần
linh.
4. Ý
nghĩa
- Thể hiện vai trò
quan trọng trong
cuộc sống của con
người
- Gửi gắm vào đó
mong muốn được
các vị thần che chở
cho con người,
chống đỡ cho con
người khỏi những
trận lũ lụt hay
những trận hạn hán.
- Phản ánh ước
vọng được che chở,
và phần nào thể
hiện khát khao
chinh phục được tự
nhiên của con
người.
Tóm lại, từ sự phân tích trên cho thấy, nhận thức về tự nhiên trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ tuy còn sơ khai về
cách giải thích song điều đó chứng tỏ rằng, người Việt đã có những nhận thức
riêng của mình về thế giới xung quanh hết sức đa dạng và phong phú. Sự nhận
thức đó có những giá trị nhất định thể hiện khả năng tư duy của người Việt về
tự nhiên, đó là các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của họ.
94
3.2. Quan niệm về con ngƣời trong tín ngƣỡng dân gian của ngƣời
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
3.2.1. Một số quan niệm về con người trong lịch sử tư tưởng triết học
nhân loại
Từ thủa bình minh của lịch sử, do hạn chế về nhận thức, con người
không hiểu được những sức mạnh của tự nhiên, vì vậy, “con người đã thờ
trời, thờ đất, thờ núi sông, thờ muông thú, nhiều lúc coi những thứ ấy là tổ
tiên của mình” [38, tr.609]. Khi thờ thần xuất hiện cũng là giai đoạn con
người bắt đầu khám phá về bản thân mình. Các mối quan hệ giữa thế giới hữu
hình và vô hình, giữa sự sống và cái chết đã khiến họ bận tâm, và họ đi tìm lời
giải đáp. Hàng loạt những câu hỏi như con người sinh ra từ đâu, con người
sau khi chết sẽ đi về đâu? Luôn cần một lời giải đáp.
Trong thần thoại Hy Lạp của nhà thơ ê-đi-ô, con người được sinh ra
bởi các vị thần Ô-lanh-pơ không hề biết đến tuổi già và cái chết. Các thần đã
tạo ra năm thời đại người. Giống người đầu tiên được các thần tạo ra là giống
người bằng vàng. Con người thời đại này cũng giống như các vị thần, họ
chẳng hề biết đến lo âu, phiền não. Họ cũng không phải làm việc cực nhọc
đến kiệt sức, không phải chịu cảnh đói rét, khổ cực, không bệnh tật, không
tuổi già và không hề biết đến sự gõ cửa của cái chết. Họ cứ sống mãi cho đến
khi họ từ dã cõi đời một cách bình thản, tự nhiên như một giấc ngủ sâu. Khi
đất đen phủ kín người Vàng, thì thần Dớt giao cho họ một sức mạnh cao cả đó
là giữ vai trò của những vị thần nhân hậu. Sau một thời gian dài qua đi, thời
đại người vàng không còn nữa, các vị thần Ô-lanh-pơ lại sáng tạo ra giống
người thứ hai bằng bạc. Họ cũng giống như lớp người bằng vàng, nhưng kém
đẹp hơn về hình dáng, và kém thông minh hơn về trí tuệ. Từ đấy, người mẹ
phải nuôi con vất vả hôm sớm, nuôi mãi ròng rã một trăm năm đứa con mới
khôn lớn trưởng thành. Mọc ra trong trái tim họ những cám dỗ về lòng ghen
95
tị, dối trá, tàn bạo… họ khinh thần linh. Họ đã làm cho thần Dớt nổi dận chôn
vùi họ xuống đất đen, bắt họ phải chết… bằng chính sự ngu ngốc của mình.
Các thần trên đỉnh Olanhpo vĩ đại lại tiếp tục sáng tạo ra giống người thứ ba
bằng đồng, được tạo ra từ cán của những ngọn lao đồng, khác hoàn toàn hai
giống người trước đó. ọ là những người rất hung hăng, đáng sợ, họ có trái
tim băng giá, họ chỉ ưa thích những cuộc giao tranh, và họ chìm đắm vào
những trận chiến đẫm máu. Chính vì lẽ đó, họ đã tự giết chết lẫn nhau, tự hủy
diệt chính mình. Lúc bấy giờ, các vị thần lại một lần nữa sáng tạo ra giống
người thứ tư cho mẹ Đất. Đó là các vị anh hùng mang trong mình dòng giống
thần linh. Cuộc sống của họ gắn liền với những chiến công hiển hách. Nhưng
rồi, chính những trận chiến đó lại cướp đi cuộc sống của họ. Đến thời đại
người thứ năm được các vị thần tạo ra bằng sắt với hai thái dương xám xịt,
suốt đêm ngày chìm đắm trong cuộc sống vất vả, cực nhọc, bận rộn và mang
trong mình bao nỗi ưu tư khó tả. Con người đối xử với nhau lạnh lùng tàn
nhẫn. Bất hòa, bạo lực, chiến tranh cứ đeo đuổi mãi cuộc sống của loài người.
Các vị thần Lương Tâm và Công Bằng đã phải từ bỏ cuộc sống của con người
để trở về cuộc sống của các vị thần đỉnh Ô-lanh-pơ. Điều đó đã làm các vị
thần nổi giận, họ không ban tặng cho con người những điều tốt đẹp như trước.
Từ đó, họ phải cực nhọc làm việc mới có miếng để ăn, tuổi thọ của họ vì thế
mà ngắn hơn, họ phải chịu nỗi khổ đau của bệnh tật của tuổi già và sự chết
chóc. Đó là câu chuyện về nguồn loài người trong thần thoại Hy Lạp. Con
người do các vị thần sinh ra, số phận con người là do các vị thần định đoạt.
Câu chuyện về sự hình thành loài người của Thiên Chúa giáo cũng có
những điểm tương đồng với câu chuyện của thần thoại Hy Lạp. Con người
được sinh ra từ Chúa, nghĩa là con người cũng được sinh ra từ sức mạnh của
các vị thần. Chúa tạo ra người đàn ông đầu tiên của thế giới bằng bùn non,
máu và thổi hồn sống vào đó. Chúa gọi là Adam. Sau đó, thấy Adam sống
96
hưu quạnh, Chúa tiếp tục tạo ra người đàn bà đầu tiên bằng chính rẻ xương
sườn của người đàn ông cùng với máu và bùn non rồi Chúa thổi hồn sống.
ai con người đầu tiên của thế giới được sống trên vườn địa đàng, sống cuộc
sống hạnh phúc không biết đến khổ đau. Nhưng họ đã quên mất lời Chúa dặn
khi nếm trái cấm. Họ bị chúa đẩy xuống trần gian sống cuộc sống của con
người với đầy đủ các cung bậc của cảm xúc: buồn vui, hạnh phúc, khổ đau,
hờn ghen, dối trá,… Theo Thiên Chúa giáo bản chất con người là kẻ có tội.
“Con người không chỉ có thể xác mà còn có cả linh hồn. Thể xác mất đi
nhưng linh hồn thì còn lại. Con người phải cứu lấy linh hồn của mình. Linh
hồn là phần tinh thần cao quý… thể xác là phần thấp hèn, phần gần gũi với
súc vật” [38, tr.610]. Cuộc sống trên trần thế chỉ là tạm bợ và chỉ khi trở về
với Chúa ở trên Thiên Đàng mới là cõi vĩnh hằng. Đó là câu chuyện của
Thiên Chúa Giáo về nguồn gốc của con người.
Khác với Thiên Chúa Giáo, Phật Giáo cho rằng con người là duyên hợp
của ngũ uẩn (sắc uẩn, thụ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn), ngũ uẩn được
chia thành phần danh và sắc. Trong đó, sắc là phần vật chất (sắc uẩn) - là sự
tụ tập của các pháp có tính chất ngoại và biến ngoại, và với riêng khía cạnh
dùng để chỉ con người thì sắc uẩn chính là cơ thể. Sắc uẩn luôn luôn trong
trạng thái biến dịch, thay đổi. Còn bốn uẩn còn lại hợp thành danh - là mặt
tinh thần hay tâm thức của con người. Ngũ uẩn được gọi là năm ràng buộc vì
chỉ có Phật hay Alahan mới không bị mắc phải vì chúng có đặc tính là vô
thường, vô ngã và khổ. Tính chất khổ và vô thường của ngũ uẩn là một trong
những quan điểm nổi bật của Phật giáo về cấu tạo con người. Phật Giáo cho
rằng, vì con người không nhận thức được trạng thái vô thường, vô ngã, giả
tướng, luân hồi, nghiệp báo nên con người khát ái, tham dục, tạo nên nghiệp
ác, chìm trong bể khổ triền miên. Vì thế, sự tồn tại của con người trải qua các
kiếp theo luân hồi nghiệp báo do căn nguyên chính là do vô minh. Như vậy,
97
Phật giáo giải thích nguồn gốc sinh ra con người không phải do một đấng siêu
nhiên hay một phép màu nhiệm nào đó tạo ra con người, mà theo quy luật
nhân quả, luân hồi. Con người ở hiện tại là kết quả của những hành động tạo
nghiệp trong kiếp trước của họ, và chính những hành động trong cuộc sống
hiện tại là nguyên nhân tiếp theo để kiếp sau họ được hình thành. Cách lý giải
đó về con người trong Phật giáo tuy có biện chứng hơn so với cách giải thích
của Thiên chúa giáo, song lại đi vào siêu hình khi cho rằng, “cuộc đời chỉ là
bể khổ, con người không tiếp tục sinh ra nữa, thì hết khổ, không sinh ra thì
không có lão, bệnh, tử” [16, tr.17].
Khác với hai tôn giáo nêu trên, khi bàn về con người, Đạo giáo lại cho
rằng, mỗi con người sinh ra trong trần thế đều có số phận gắn với một vì sao
trên trời. Cho đến khi vì sao ấy tắt, thì cuộc sống của con người trên trần thế
cũng lụi tàn theo, và khi con người chết đi, thì được trở về với cõi bồng lai
tiên cảnh. Đạo giáo luôn hướng con người tới phép tu để đạt đến sự bất tử,
muốn xoay vần số phận con người bằng phép thuật riêng của Đạo giáo. Đó là
cách giải thích về nguồn gốc hình thành con người một cách thần bí duy tâm.
Như vậy, qua viêc phân tích trên cho thấy, trong lịch sử tư tưởng nhân
loại có nhiều quan niệm khác nhau về con người, song đều có một điểm
chung nhất định. Hầu hết họ thừa nhận con người do một đấng tối cao tạo ra,
nên mỗi con người đều có một số phận nhất định. Số phận của họ là do các vị
thần tạo ra. Trong số các quan điểm ấy, có quan điểm của Phât giáo là khác
biệt về nguồn gốc, bản chất con người. Song, cũng giống như những quan
điểm trước đó, đều thừa nhận sự tồn tại của linh hồn ở một thế giới khác.
3.2.2. Nội dung một số quan niệm về con người trong tín ngưỡng dân
gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
3.2.2.1. Quan niệm về nguồn gốc, cấu tạo con người
98
Trong tư duy của người Việt, con người được được cấu tạo từ linh hồn
và thể xác. Không giống với phương Tây, linh hồn theo quan niệm của người
Việt gồm có ba loại: những hồn thượng đẳng - hồn và những hồn hạ đẳng -
“vía” (nam có bảy vía, nữ có ba vía), và nhiều sinh khí phức tạp khác. Đó
chính là cơ sở để giải thích các hiện tượng thường xuyên diễn ra đối với cuộc
sống của con người như hiện tượng ngủ mơ là do linh hồn lúc này đi chu du
khắp nơi; hiện tượng bị ốm do hồn tạm thời rời bỏ xác, đang lưu lạc khắp nơi
nên người thân cần phải “hú hồn” - gọi hồn quay trở về [90, tr.137]. Câu
chuyện đó được nhà văn Ngô Tất Tố miêu tả rất chi tiết cảnh anh Dậu bị ốm
nặng bị quan lính trả về, tưởng một hai sẽ chết. Ý thức được điều đó, chị Dậu
nhanh trí chạy ra đầu làng gọi hồn anh Dậu: “ba hồn bảy vía anh Nguyễn Văn
Dậu ở đâu thì về với vợ với con”. Câu chuyện của chị Dậu trong tác phẩm văn
học Việt Nam đã phần nào phản ánh tư duy của người Việt về cái mà người ta
gọi là “hồn”, nó ăn sâu bén rễ vào trong tiềm thức của người dân Việt Nam từ
ngàn xưa.
Trong nhận thức dân gian, thể xác và linh hồn vừa gắn bó, vừa tách
biệt, chúng gắn bó khi sống và tách biệt khi chết. Ngô Đức Thịnh viết: “thể
xác đã hòa vào cát bụi nhưng phần hồn vẫn tồn tại - chuyển sang “sống” ở
một thế giới khác” [96, tr.39]. Cho nên, đối với người Việt, cuộc sống thực
chỉ là tạm bợ, nên cái còn lại sau khi chết đi không phải là thể xác mà là linh
hồn. Đồng thời, trong nhận thức dân gian của người Viêt họ tin rằng “chết
không phải là hết”, mà “chết cũng là một dạng “sống” trong một môi trường
khác” [96, tr.39] - môi trường đó là cõi âm, cách xa cuộc sống thực của con
người, song song tồn tại và có ít nhiều ảnh hưởng đến cuộc sống của người
trần thế.
Khi giải thích về nguồn gốc của con người, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên
của Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng dựa trên cơ sở xuất phát từ nhận thức
99
“vạn vật hữu linh” - vạn vật đều có linh hồn. Với quan niệm như vậy, dân
gian tin rằng, trong mỗi con người đều có phần hồn và xác. Người ta lý giải
rằng, để có một con người hiện hữu cần có sự hội tụ của “tinh”, “khí”, qua 9
tháng 10 ngày bào thai trong bụng người mẹ mới hoàn chỉnh. Đó chính là
quan niệm về sự hình thành con người là do trời đất hợp thành. Số 9 thể hiện
9 phương trời, só 10 thể hiện 10 phương đất, đủ số trời đất mới hợp thành con
người. Và “9 tháng 10 ngày, tính ra 9 tháng bằng 270 ngày, cộng với 10 ngày
thành 280 ngày. 280 là tích của các số vốn có ở trong mỗi con người. Đó là số
4 thể hiện tứ chi, số 7 là 7 lỗ khiếu, số 10 là ngủ phủ, ngũ tạng… Như thế ta
có 10*7*4=280, đó là 280 ngày đêm, cũng là trái đất tự xoay quanh mình nó
280 vòng, thai nhi mới hình thành” [16, tr.50-51]. Khi quan niệm rằng, mỗi
con người đều có cả phần xác và phần hồn. Khi phần xác già yếu chết đi,
nhưng phần hồn thì tồn tại vĩnh viễn. Vì thế, khi con người chết đi, thì chỉ có
phần xác tiêu tan còn phần hồn vẫn còn tồn tại, chỉ là đang sống ở một thế
giới khác. Do vậy, trong gia đình khi có người chết, họ làm lễ an táng cùng
những vận dụng hàng ngày, với niềm tin người chết vẫn tiếp tục cuộc sống ở
một thế giới khác. Sau này, người ta thay thế các vật dụng đó bằng cách đốt
vàng, mã cho người đã chết. Ngô Đức Thịnh viết, người nhà thực hiện lễ cúng
3 ngày vì 3 ngày mới đủ điều kiện âm - dương hòa hợp, linh hồn ra đi phát
triển (3=1 dương + 2 âm). Cúng 7 tuần vì quan niệm con người ta có 7 lỗ
khiếu, 7 lỗ khiếu này “một đời hấp thụ vật chất và tinh thần của vũ trụ duy trì
sự sống nên cần phải cúng đủ 7 tuần thì thể xác mới tiêu tan, linh hồn mới
siêu thoát” [96, tr.48].
Bên cạnh đó, đi liền với quan niệm con người có 3 hồn 7 vía (đối với
nam), 9 vía (đối với nữ), vì 3 hồn là do con người đều được hợp thành bởi ba
yếu tố là tinh, khí, thần. Do sự ảnh hưởng của Phật giáo, con người sống trên
trái đất chịu sự chi phối của rất nhiều yếu tố như 7 vị tinh quân, mỗi vị tinh
100
quân lại cai quản một cung nên phải cúng đủ 49 ngày, thì linh hồn mới siêu
thoát. Ngoài ra, do ảnh hưởng của quan niệm phương Đông cho rằng mỗi con
người là một tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ trời đất. Ngô Đức Thịnh viết: “Đại vũ
trụ được hơp thành bởi lưỡng nghi, tứ tượng và bát quái, thì tiểu vũ trụ mỗi
con người cũng được hợp thành bởi lưỡng nghi, tứ tượng, bát quái… Do vậy,
cúng 49 ngày là cúng giải tỏa phần tiểu vũ trụ đã hình thành nên thể xác mỗi
con người có hồn và vía, mát mẻ tiêu đi để linh hồn đầu thai sang kiếp khác”
[96, tr.49-50].
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu cũng cho rằng, con người được cấu tạo từ
phần hồn và phần xác, nhưng lại nhấn mạnh rằng, sự kết hợp đó không phải là
ngẫu nhiên mà có luôn có sự định đoạt trước. Bàn về điều này, Nguyễn Hữu
Thụ viết, trong ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ chỉ
rõ, con người được hình thành cũng là sự kết hợp giữa linh hồn và thể xác để
tạo nên, song “sự kết hợp đó không phải một cách ngẫu nhiên, tự phát mà
luôn có sự định trước - tín ngưỡng thờ Mẫu gọi là “căn cơ”” [106, tr.95]. Chữ
“căn” theo nguyên nghĩa là gốc rễ, còn trong tín ngưỡng thờ Mẫu, quan niệm
về chữ “căn” có nghĩa dùng để chỉ nguyên nhân của sự vật hiện tượng. Số là
số mệnh, số phận của con người. Quả là kết quả có được theo luật Nhân Quả.
Dân gian cho rằng, số mệnh con người do con tạo xoay vần, do thiên cơ định
sẵn. Do vậy, mỗi một con người khi được sinh ra đều có một sự định trước -
giống như sự sắp đặt trước của số phận. Sự sắp đặt đó là do các vị thần cai
quản bản mệnh quyết định. Người ta cho rằng, mỗi người có một vị thần cai
quản số mệnh của mình.
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, các vị thần trông coi bản
mệnh của con người là các vị thần thuộc về hệ thống Tam, Tứ phủ. Đó là các
vị Quan lớn, Chầu Bà, Thánh Hoàng, Thánh Cô, Thánh Cậu… là các vị thần
trông coi bản mệnh đảm nhận công việc cai quản căn số của một người.
101
Chẳng hạn, các vị thánh trông coi bản mệnh theo thập lục hoa giáp (theo năm
sinh), thì những người sinh năm Giáp Tý do Chầu Bà Đệ Nhị Thượng Ngàn,
Đệ Tam Hoàng Thái Tử Vương quan, nam thủ mệnh Mai Hoa Công Chúa, nữ
thủ mệnh Hồng oa Công Chúa, Đoàn Tư Quân coi tội phúc. Tuổi Đinh Mão
do Chầu bà Đệ nhị Thượng Ngàn, Chúa Bán Thiên cai quản bản mệnh, nam
thủ mệnh Quế Hoa Công Chúa, nữ thủ mệnh Quế Hoa Công Chúa, Hứa Tư
Quân coi tội phúc. Tuổi Mậu Thìn do Đệ Tam Hoàng Thái Tử Vương quan,
Chầu bà Đệ Tam, 5 quan Hoàng (Cả, Đôi, Bơ, Bẩy, Mười), năm thủ mệnh
Lộc Hoa Công Chúa, nữ thủ mệnh Lộc Hoa Công Chúa, Mã Tư quân coi tội
phúc, v.v..
Trên cơ sở thừa nhận niềm tin vào sự tồn tại của linh hồn, khi giải thích
về nguồn gốc, cấu tạo của con người, tín ngưỡng thờ Thành hoàng cũng cho
rằng, con người được cấu tạo hai phần gồm thể xác và linh hồn. Các vị Thành
hoàng không chỉ giúp con người trông coi nhà cửa, ruộng vườn, đất đai, ban
phước lộc bảo vệ cuộc sống của con người trên trần thế, mà họ còn thực hiện
cả việc cai quản vong linh của người chết, tiễu trừ hoặc cho phép vong linh
người chết về gia đình. Rộng hơn nữa, trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng cho
rằng, những người có công lao to lớn với làng, xã, quốc gia thì bản thân sự
tồn tại của họ là do sự đầu thai của các vị thánh thần trên trời xuông để giúp
dân chống giặc, dạy dân cách làm ăn, buôn bán… nên khi họ chết đi, những
linh hồn của họ trở nên bất tử. Đó là quan niệm của tín ngưỡng thờ Thành
hoàng về nguồn gốc, cấu tạo của con người. Tuy không rõ nét như trong tín
ngưỡng thờ Mẫu và thờ Tổ tiên, song do có sự giao thoa, ảnh hưởng lẫn nhau
giữa các tín ngưỡng và tôn giáo, nên giữa chúng đều có quan niệm chung về
cấu tạo và nguồn gốc con người. Đều thừa nhận sự tồn tại của con người do
thần linh tạo dựng, con người đều có phần xác và phần hồn. Khi chết đi, phần
hồn còn tồn tại mãi, chỉ có phần xác là tiêu tan vào cát bụi. Những quan niệm
102
đó đã khiến cho quan niệm về nguồn gốc con người trở nên thần bí, khiến con
người sống thụ động vì tin rằng bản thân minh được sinh ra là có số phận sắp
đặt từ trước. Chính điều đó đã làm cho con người tiêu tan nghị lực, nhụt ý chí
đấu tranh, hạn chế quá trình vươn lên làm chủ cuộc sống.
Từ sự phân tích các quan niệm về con người trong ba loại hình tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, lập bảng so sánh sau:
Bảng 3.4: Quan niệm về nguồn gốc, cấu tạo con người trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Tiêu chí Thờ cúng Tổ tiên Thờ Mẫu Thờ Thành hoàng
1. Cơ sở
nhận
thức
- Xuất phát từ nhu cầu khám phá về chính bản thân mình
- Xuất phát từ quan niệm vạn vật hữu linh.
- Thừa nhận sự tồn tại của linh hồn con người
2. Nguồn
gốc, cấu
tạo con
ngƣời
- Gồm hai phần: thể
xác và linh hồn.
+ Thể xác là sự hội
tụ tinh khí của cha
mẹ và trời đất, khi
chết đi sẽ tan vào
cát bụi
+ Linh hồn do sự
đầu thai từ kiếp
trước mà thành.
- Sự kết hợp giữa
thể xác và linh hồn
tạo thành con người
do phúc đức của cha
mẹ, của tổ tiên và
- Gồm hai phần: Thể
xác và linh hồn.
+ Thể xác: do các vị
thánh Mẫu ban cho.
+ Linh hồn: do các
vị thánh Mẫu cai
quản
- Sự kết hợp giữa
thể xác và linh hồn
do thánh Mẫu cai
quản, sắp đặt, được
gọi là căn cơ.
- Gồm hai phần:
Thể xác và linh hồn.
- Đối với những
người có công vào
dân, với nước, thể
xác và linh hồn của
họ là do các bậc tiên
103
của chính bản thân.
- Sự tồn tại của thân
xác chỉ là tạm, linh
hồn mới thực sự tồn
tại.
- Sự tồn tại của thân
xác chỉ là tạm, linh
hồn mới thực sự tồn
tại
thánh đầu thai mà
thành.
- Sự tồn tại của thân
xác chỉ là tạm, linh
hồn mới thực sự tồn
tại
3.Ý nghĩa - Phản ánh sự nhận thức của con người về nguồn gốc của mình.
Tuy còn mang nặng màu sắc duy tâm, thần bí, song nó phản ánh
trình độ nhận thức ban đầu của người Việt về chính bản thân họ.
- Có tác dụng mạnh mẽ đối với việc điều chỉnh hành vi, hướng
thiện cho con người.
Như vậy, có thể thấy, cách giải thích về nguồn gốc con người, cấu tạo
con người trong tín ngưỡng dân gian của người Việt có những giá trị nhất
định, nó phản ánh trình độ nhận thức sơ khai của người Việt về chính bản
thân mình. Sự nhận thức đó, một phần đem lại những định hướng trong hoạt
động thực tiễn của con người: khuyên con người ăn ở có trước có sau, có tâm
có đức để linh hồn gắn bó với thể xác và khi thể xác già nua và chết đi thì linh
hồn ấy sẽ mau chóng được đầu thai sang kiếp khác được tốt lành. Cơ duyên
khiến con người ta tin tưởng vào tín ngưỡng dân gian, vào những quan niệm
dân gian, phải chăng do bởi chính giá trị nhân văn mà nó mang lại. Từ sự giải
thích đó đã khiến con người tự điều chỉnh hành vi của mình có lối sống tốt
đẹp hơn, lành mạnh hơn, nhân văn hơn. Tuy nhiên, bên cạnh giá trị tích cực
khi giải thích về nguồn gốc con người trong tín ngưỡng dân gian của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ còn mang tính chất thần bí, duy tâm, mang nặng
màu sắc của tôn giáo. Giải thích cơ sở của việc hình thành con người do số
phận, sự quyết định của một đấng siêu nhiên đã làm cho con người trở nên thụ
động, an phận, chấp nhận cuộc sống thực tại. Bên cạnh đó, chính sự thần bí,
104
mập mờ trong quan niệm về sự hình thành con người là cơ sở để rất nhiều kẻ
xấu lợi dụng buôn thần bán thánh lừa bịp quần chúng nhân dân vào các hoạt
động thương mại hóa tín ngưỡng dân gian, gây nên những hệ lụy không hề
nhỏ đối với toàn xã hội.
3.2.2.2. Quan niệm về cuộc đời con người
Bàn về cuộc đời con người, đạo Thiên Chúa giải thích rằng, những con
chiên biết nghe lời Chúa, sống ở cõi trần làm việc thiện tránh xa việc ác, thì
sau khi chết linh hồn sẽ được trở về bên Chúa, trở về với vườn Địa đàng - đó
là nơi có cuộc sống vĩnh hằng, không còn khổ đau. Ngược lại, những con
chiên không nghe lời chúa sẽ bị đày đọa xuống địa ngục, và họ phải chịu cuộc
đời tăm tối. Còn trong Phật giáo giải thích rằng, sau khi con người chết, tùy
thuộc vào nghiệp của họ được tạo ra lúc còn sống để quyết định cuộc sống
của họ sau khi chết. Nếu khi sống, họ làm nhiều việc thiện, thì khi chết, họ sẽ
không bị đọa đày xuống 18 tầng địa ngục, sẽ thoát khỏi kiếp nửa người, nửa
ngợm, thoát khỏi cõi A Tu La, được siêu sinh tịnh độ, trở về bên đức Phật,
sớm đầu thai thành kiếp khác.
Tương tự như vậy, khi bàn về cuộc đời con người, hầu như trong tôn
giáo, tín ngưỡng trong đó có tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ cũng chủ yếu bàn về cuộc đời của con người sau khi chết. Họ
coi cuộc đời sau khi chết là chiếc gương phản chiếu cuộc đời của con người
khi họ còn sống. Tuy không trực tiếp giải thích về cuộc sống của con người
sau khi chết, song qua nội dung sinh hoạt tín ngưỡng đã cho thấy, trong tâm
thức của người Việt, chết không phải là hết, chết là về với thế giới bên kia,
cũng vẫn làm những công việc giống như người sống, chỉ có sự khác biệt là
âm và dương. Bàn về điều này, Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Chết tức là cơ thể
từ trạng thái động sang trạng thái tĩnh, cho nên theo triết lý âm dương thì linh
hồn đi từ cõi Dương (Dương gian, Dương thế) sang cõi Âm (Âm ti, Âm phủ).
105
Đó là một thế giới bên kia” [90, tr.137]. Cùng chung quan điểm đó, tín
ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng thờ Thành hoàng
của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ đều cho rằng, những linh hồn của
người khi sống có công lao đối với nước với dân, với gia đình, dòng tộc, thì
khi chết, họ vẫn có ảnh hưởng tới những người đang sống. Tục thờ những
người có công với đất nước như những vị Thánh Mẫu, thờ các vị vua, vị
tướng, những vị anh hùng dân tộc hay những vị Thánh Sư, Tổ nghề, các vị
Thành hoàng, cho đến thờ gia tiên đều phản chiếu quan niệm về thế giới bên
kia của những con người. Chẳng hạn, trong tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần
cho thấy, không chỉ là thể hiện lòng biết ơn đối với một bậc đại tài của dân
tộc, một vị thánh có công dẹp loạn, đánh đuổi ngoại xâm, mà hơn thế nữa còn
bày tỏ sự ngưỡng mộ, ngưỡng vọng, và là nơi để dân gian cầu xin sự che chở
của Ngài. ay trong tín ngưỡng thờ Vua cha, thờ Mẫu đều phản ánh sức
mạnh siêu nhiên của những con người vừa hư, vừa thực. Trong tâm thức dân
gian, họ là những vị thánh bất tử, họ luôn nhìn thấy và thấu hiểu hết mọi khổ
đau trần gian. Họ luôn mang trong mình những phương thuốc có thể cứu chữa
những trái tim bé nhỏ nhưng lầm đường lạc lối. Chính vì vậy, cho đến nay
không cần một lời giải thích khoa học, nhưng tín ngưỡng và sinh hoạt tín
ngưỡng dân gian của vùng vẫn tồn tại và phát triển ngày càng nở rộ.
Bên cạnh việc lý giải về cuộc đời của con người sau khi chết, tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng bàn tới cuộc
đời trần thế của con người. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ cho rằng, số phận của con người còn được quyết định bởi
nghiệp của họ ở kiếp trước và hành động, hành vi của những người thân thích
(ông bà, cha mẹ) trong cuộc sống hiện tại, thậm chí chịu sự quyết định của
các vị thần, thánh nắm bản mệnh của mình. Tín ngưỡng thờ Mẫu cho rằng,
con người sinh ra không chỉ có căn số nhất định, mà còn giải thích cho ta hiểu
106
căn số đó là vì đâu. Đó là cách mà những ông đồng, bà đồng giải thích về số
phận của con người. Họ cho rằng, mỗi con người sinh ra có số phận định
trước, những người sinh cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng cùng năm nhưng lại
có số phận khác nhau, sướng hay khổ là do nghiệp của bản thân và phụ mẫu ở
kiếp trước. Sở dĩ, có quan niệm như vậy là vì, có sự ảnh hưởng của Phật giáo
về quan niệm nghiệp ở kiếp trước mà ra. Đạo Phật quan niệm rằng, hành động
của con người ở kiếp này, cũng như số phận của họ, là do nghiệp của kiếp
trước tạo nên. Phàm có những người khổ, có những người sướng là do chính
họ tự tạo ra từ trong tiền kiếp. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu còn chỉ ra rằng,
không chỉ quyết định số mệnh mà các vị thánh, vị thần còn quyết định cả sức
khỏe, bệnh tật, chỉ phối cả hành động của con người. Các đồng cô, đồng cậu
giải thích rằng, bị bệnh là do thánh của, thánh trách phạt; hoặc bị bệnh là do
thánh bắt đi hầu, thánh thử thách để cho ăn lộc… Các hiện tượng này thường
xuất hiện trong cuộc sống, và đã có nhiều người ốm, nhưng chữa bằng đông
y, tây y không khỏi, song khi mở phủ, hầu đồng, thì bệnh tình thuyên giảm...
Họ tin vào lời và cách giải thích của những đồng cô, đồng cậu.
Trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc
Bộ thì cho rằng, con cháu đời sau có được cuộc sống tốt đẹp là do quan niệm
về sự ảnh hưởng lẫn nhau của các thế hệ trong gia đình. Cuộc sống của con
cháu sung sướng, đầy đủ hay thiếu thốn khổ đau… là do “phúc ấm” của ông
bà tổ tiên để lại, đặc biệt là do cách sống của người phụ nữ. Các cụ ta thường
nói, “phúc đức tại mẫu bà ơi, xưa nay ai nói tại ông bao giờ”, đã trở thành
niềm tin phổ biến trong dân gian về cách sống để tạo phúc cho con, cháu sau
này. Do ảnh hưởng của Phật giáo, nên tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng cho rằng, nghiệp trong kiếp trước của bản
thân mỗi người cũng được cho là nguồn gốc tạo nên cuộc đời của mỗi người
trong hiện tại. Do vậy, những thứ mà con người được hoặc mất trong cuộc
107
sống hiện tại là do nghiệp của mình trong kiếp trước. Với lối tư duy như vậy
đã góp phần to lớn trong việc điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân trong gia
đình. Phàm những người làm cha, làm mẹ, làm ông bà đều mong con cháu
mình có được cuộc sống ấm êm, đầy đủ, ít sóng gió đã khiến cho họ ý thức
hơn về hành động tạo nghiệp của mình.
Từ sự phân tích quan niệm về cuộc đời con người trong ba loại hình tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, lập bảng so sánh
sau:
Bảng 3.5: Quan niệm về cuộc đời con người trong tín ngưỡng dân
gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
Tiêu chí Thờ Tổ tiên Thờ Mẫu Thờ Thành hoàng
1. Quan
niệm về số
phận của
con ngƣời
- Cuộc sống thực
chỉ là cõi tạm.
- Mỗi con người có
một số phận riêng,
do phúc đức của
phụ mẫu và do
nghiệp của bản
thân mà thành.
- Chết không phải
là hết, mà chỉ
chuyển từ trạng
thái động sang
trạng thái tĩnh, tức
từ dương sang âm,
- Cuộc sống thực chỉ
là cõi tạm.
- Số phận con người
được định đoạt từ
trước, kết hợp với
phúc đức của cha
mẹ và nghiệp của
bản thân mà thành.
- Sức khỏe, tài mệnh
của con người do
các vị thần, thánh
quyết định.
- Cuộc sống thực
chỉ là cõi tạm.
- Không trực tiếp
giải thích về số
phận của con người
xã hội, mà chủ yếu
giải thích về sự ảnh
hưởng của các vị
thần linh đến cuộc
sống con người.
- Cuộc đời con
người gắn liền với
sự trợ giúp của các
vị thần linh.
+ Những ai ăn ở
hiền lành, đức độ
108
chết là trở về với
thế giới bên kia.
- Người chết có sự
ảnh hưởng mạnh
mẽ tới cuộc đời
của những người
còn sống.
được các bậc thần
linh giúp đỡ.
+ Những người ăn ở
bạc ác sẽ bị thần
linh trách phạt.
2. Ý nghĩa - Phản ánh bức tranh nhiều vẻ về số phận của con người.
- Phản ánh sự bất lực của con người trước những biến động
trong chính cuộc sống của họ.
- Góp phần điều chỉnh hành vi, hướng con người đến điều thiện,
tu nhân, tích đức, sửa mình.
Như vậy, qua phân tích trên cho thấy, khi bàn về cuộc đời con người,
hầu hết trong tôn giáo hay trong tín ngưỡng dân gian chủ yếu bàn tới cuộc đời
của con người ở thế giới bên kia, song cũng không quên bàn tới cuộc đời của
con người ở cuộc sống thực. Trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ, do ảnh hưởng của các tư tưởng tôn giáo ngoại lai, nên
quan niệm về cuộc đời con người gắn liền với cuộc sống của họ sau khi chết.
Trong tín ngưỡng dân gian, cuộc đời con người là cả một chuỗi hành trình dài
bất tận, cuộc sống của họ ở kiếp này là do kiếp trước mà nên. Cuộc đời đầy
biến động, nhưng số phận của mỗi người dường như được định đoạt sẵn bởi
những vị thần linh, thượng đế. Trong tâm thức dân gian, cuộc sống thực sự
khi con người chết, còn cuộc sống thực chỉ là tạm thời. Số phận dẫn dắt con
người đến với những điều may rủi. Họ tin tưởng vào những vị thần linh cứu
rỗi cho linh hồn của họ ở cuộc sống sau khi họ chết. Với những quan niệm
như vậy, vô hình đã đẩy con người vào chỗ bị động, chấp nhận cuộc sống.
109
3.3. Quan niệm về xã hội trong tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ
Xã hội được hiểu là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên. Với nghĩa
như vậy, xã hội là điều kiện thường xuyên và tất yếu của quá trình sản xuất, là
môi trường sống khách quan vốn có của con người. Trong quá trình lao động
sản xuất, con người không chỉ cải biến tự nhiên, mà còn là cơ sở hình thành
nên các mối quan hệ xã hội. Do vậy, xã hội không phải bao gồm các cá nhân,
mà xã hội là sự biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các
cá nhân với nhau. Đúng như nhận định của C.Mác, “xã hội không phải bao
gồm các cá nhân, mà xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những
quan hệ của các cá nhân đối với nhau” [9, tr.355 ].
Vùng đồng bằng Bắc Bộ được xây dựng dựa trên cơ sở phương thức sản
xuất nông nghiệp thâm canh cây lúa nước, kết hợp với việc phải trải qua
nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, đã tạo nên một kết cấu xã hội phức tạp gồm
nhiều giai cấp, tầng lớp. Phương thức sản xuất nông nghiệp, kết hợp với nền
văn hóa bị án hóa là cơ sở hình thành nên các tư tưởng xã hội mang tính
chất bảo thủ, gia trưởng, đề cao vai trò của người đàn ông, hạ thấp vai trò của
người phụ nữ. Do vậy, một trong các quan hệ xã hội của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ được thể hiện tập trung chủ yếu qua khát vọng giải phóng
người phụ nữ, khát vọng bình quyền. Bên cạnh đó, sống trong cảnh hàng
nghìn năm phong kiến Bắc thuộc, trải qua nhiều cuộc chiến tranh lớn nhỏ,
người Việt kiên cường đứng dậy đấu tranh để bảo vệ độc lập chủ quyền cho
dân tộc. Vì thế truyền thống yêu nước đấu tranh giữ gìn độc lập dân tộc, giữ
gìn chủ quyền lãnh thổ, bờ cõi quốc gia, là một trong những truyền thống tốt
đẹp của người Việt Nam, là sự biểu hiện sâu sắc mối quan hệ xã hội về tinh
thần đoàn kết dân tộc.
110
Giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ, tín ngưỡng dân gian phản ánh đời sống xã hội, đồng thời
là nơi để nhân dân gửi gắm ước mơ, nguyện vọng chính đáng của mình. Một
trong những khía cạnh về xã hội được phản ánh rõ nét trong tín ngưỡng dân
gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là tư tưởng đề cao vai trò của
người phụ nữ và khát vọng giải phóng người phụ nữ. Cùng với khát vọng đó
là niềm tự hào dân tộc về truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại
xâm, bảo vệ chủ quyền của dân tộc cũng được phản ánh rõ nét trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
3.3.1. Tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
phản ánh tư tưởng về vai trò của người phụ nữ
- Một là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
phản ánh tư tưởng về vai trò làm mẹ của người phụ nữ
Truyền thuyết kể lại rằng, người Việt thuộc họ Hồng Bàng, cùng được
sinh ra bởi mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân. Mẹ Âu Cơ sinh ra một bọc
trứng, nở ra trăm con. Trăm người con đó, một nửa theo cha xuống biển lập
nghiệp, một nửa theo mẹ lên non khai phá rừng [4, tr.24-34]. Theo ý nghĩa đó,
người Mẹ được coi là biểu tượng đầu tiên, nuôi sống, che chở cho con người.
Bàn về điều này, Nguyễn Đăng Duy viết:
Đó là từ thời nguyên thủy, con người bắt đầu có ý thức sâu
sắc về sự sinh sản, sự sinh sôi nảy nở ấy, ý thức ấy thường biện lý
từ cái cụ thể. Mà cái cụ thể về giá trị sinh sôi nảy nở, không gì
khác ngoài người mẹ mang nặng đẻ đau, sinh ra nuôi dưỡng che
chở cho những đứa con, và những cái gì sinh sôi, nuôi sống che
chở bảo vệ cho con người, chiến thắng thiên tai và thú dữ ấy đều
được coi là Mẹ [16, tr.154-155].
111
Với ý nghĩa như vậy, người mẹ có vai trò lớn lao trong việc duy trì nòi
giống và cả việc bảo vệ, nuôi dưỡng, chăm sóc con cái của mình. Có rất nhiều
những người phụ nữ được nhân dân tôn vinh và trở thành biểu tượng thờ tự
trong sinh hoạt tín ngưỡng. Đó là, Mẹ Âu Cơ được nhân dân tôn thờ là Quốc
Mẫu, bà mẹ Thánh Gióng được tôn là Đổng phu nhân vương Mẫu, Mẫu còn
là mẹ của các vị vua… Để ghi nhận công lao to lớn của họ, nhân dân lập đền
thờ. Hằng năm tổ chức các lễ hội để bày tỏ lòng thành kính, biết ơn tới họ.
Trong tâm thức của người Việt, từ con đường, dòng sông, đến các vật dụng
sinh hoạt trong gia đình… đều bắt nguồn tên gọi chỉ người phụ nữ. Đó là các
tên gọi như sông cái, đường cái, đũa cả… Tất cả những hành động đó, đã
đánh thức một niềm tin thường trực trong tâm trí của mọi người về hình ảnh
người mẹ với sự bao dung, che chở.
- Hai là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ phản
ánh tư tưởng về về vai trò của người phụ nữ trong lao động sản xuất
Trên thực tế, ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, kinh tế dựa chủ yếu trên nền
sản xuất nông nghiệp, do vậy cần sức lao động của người đàn ông là chủ yếu.
Do đó, vai trò của người phụ nữ bị hạ thấp. Khi chế độ phong kiến xuất hiện,
tư tưởng trọng nam khinh nữ vốn đã ăn sâu bén rễ vào trong từng mạch máu,
từng thớ thịt của mỗi người dân, nay lại càng đè nặng lên vai người phụ nữ
với những thiệt thòi trong tất cả các mối quan hệ. Do ảnh hưởng của Nho giáo
đã làm gia tăng những rằng buộc cho người phụ nữ. Sự bó buộc của xã hội
phong kiến, sự tàn ác của những thế lực đen tối đã khiến cho cuộc đời cả họ
đầy những chông gai, sóng gió. Người phụ nữ thủa xưa, thường không được
làm chủ cuộc sống của mình. Quan niệm “tam tòng, tứ đức” khiến cho họ từ
khi sinh ra cho đến khi từ dã cõi đời, luôn phải sống, phải lo lắng, hi sinh cho
người khác. Họ là phái yếu, nhưng họ cũng có khả năng làm được điều mà
nam giới làm. Nhưng mấy ai dám ngông nghênh thốt lên như nữ sĩ họ Hồ
112
rằng: “Ví đây đổi phận làm trai được; Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”. Vì thế,
bứt phá khỏi tư tưởng tiêu cực về vai trò của người phụ nữ trong sản xuất
nông nghiệp, nhân dân đã xây dựng lên hình tượng Mẫu. Trong nhận thức của
họ về tự nhiên, hình ảnh mà họ xây dựng về người cai quản các yếu tố phục
vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp (trời, đất, nước, núi rừng…) chính là
hình tượng các Mẫu. Mẫu Thiên cai quản miền trời, Mẫu Địa cai quản miền
đất, Mẫu Thoải cai quản miền nước, và Mẫu Thượng Ngàn cai quan vùng
miền núi. Những quan niệm đó là sự phản kháng lại chính thực tại của xã hội,
nhân dân xây dựng lên hình tượng thánh Mẫu với sức mạnh siêu nhiên thể
hiện trong việc cai quản những yếu tố có ảnh hưởng to lớn đối với sự tồn tại
của con người. Điều đó nói lên rằng, cũng giống như nam giới, phụ nữ nếu có
cơ hội, họ vẫn có thể làm tốt nhiệm vụ của mình.
- Ba là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
phản ánh tư tưởng về vai trò của người phụ nữ trong việc đấu tranh chống lại
những hà khắc của xã hội phong kiến xưa kia
Vì cũng như tôn giáo, tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ Mẫu ra đời là kết quả
và biểu hiện của quá trình con người phản ánh các mối quan hệ xã hội mà
mình đang tham gia. Nói như C. Mác “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu
hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại sự nghèo
nàn hiện thực ấy” [1, tr.570]. Sự xuất hiện của Mẫu Liễu trong xã hội phong
kiến đang bộc lộ rõ những hạn chế, tiêu cực như một sự đấu tranh chống lại
xã hội phong kiến, chống lại những hà khắc của luật lệ xã hội ép buộc người
phụ nữ vào những khuôn phép đè nặng lên họ. Nguyễn Đăng Duy viết, Mẫu
lả lơi với đàn ông háo sắc, trăng hoa, thậm chí mỗi lần giáng trần Mẫu lại sinh
một đứa con. Hình ảnh Mẫu dám bỡn cợt với hoàng tử con vua và khi bị vua
trừng phạt thì Mẫu cãi lại, thậm chí chống lại và đánh cho quân của vua tan
tác [2, tr.177-178]… Tất cả những hành động đó của Mẫu khi đặt dưới con
113
mắt của Nho giáo, thì đó là sự chống lại những chuẩn mực của xã hội phong
kiến đương thời. Nguyễn Hữu Thụ viết, “Mẫu đã làm được việc tự giải phóng
mình, tự thể hiện mình và tự khẳng định mình trong mọi lĩnh vực. Đó chính là
sự thể hiện tính người cao nhất… con người được cứu rỗi, được giải tỏa khỏi
những bức xúc, được hướng tới một niềm tin thanh thản vô biên mà có nó thì
sẽ làm được tất cả” [6, tr.111]. Qua hình ảnh Mẫu Liễu, thể hiện khát vọng
chân chính của người nông dân, và hơn hết là của người phụ nữ mong muốn
được giải phóng khỏi những quy định hà khắc, gia trưởng của xã hội phong
kiến. Niềm tin vào Mẫu giúp cho người dân tìm được niềm tin, niềm hi vọng
trong cuộc sống.
- Bốn là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
phản ánh tư tưởng về vai trò của người phụ nữ trong các cuộc kháng chiến
chống quân xâm lược
Bàn về điều này, Nguyễn Thị Nga viết, không chỉ trong sản xuất, mà
ngay cả “việc chống giặc ngoại xâm, người phụ nữ cũng là một lực lượng
đáng kể, góp phần tạo nên những chiến thắng hào hùng của dân tộc” [66,
tr.141]. Thực tế cho thấy, đất nước ta trong suốt chiều dài lịch sử hình thành
và phát triển, đặc biệt trong thời kì phong kiến, liên tục đối đầu với những
cuộc chiến tranh chống xâm lược của các thế lực thù địch phương Bắc.
Nguyễn Đăng Duy Viết, đó là những cuộc nội chiến. Mở đầu là sự tranh
giành, nổi loạn của nhà Mạc soán ngôi nhà Lê (1527). Tiếp đó, là cuộc chiến
tranh liên miên giữa Trịnh - Mạc phân tranh (1527 -1570). Sau đó, chiến tranh
Trịnh - Nguyễn (1600 - 1697) [16, tr.175]. Các cuộc chiến tranh là nguyên
nhân dẫn đến sự đói khổ, tù túng đến cùng cực của người dân. Sự khủng
hoảng về chính trị thời đó xuất phát từ chính sự biến đổi cơ cấu kinh tế xã hội.
Đặc điểm nổi bật của chế độ xã hội phong kiến nước ta thời kì đó, bị ảnh
hưởng nặng nề bởi tư tưởng Nho giáo, nên rất coi trọng sản xuất nông nghiệp,
114
và tìm đủ mọi cách để bài trừ thương nghiệp. Điều này đã góp phần dẫn đến
khủng hoảng nặng nề về kinh tế, chính trị, xã hội ở nước ta. Hậu quả của
những sự khủng hoảng đó dường như dồn lên vai người nông dân nói chung
và người phụ nữ nói riêng.
Khẳng định lại giá trị của người phụ nữ, được thể hiện qua hệ thống thờ
nữ thần rất phong phú, trong đó nổi bật là hiện tượng thờ Mẫu. Người phụ nữ
không chỉ tần tảo lo toan cuộc sống hằng ngày, mà khi có chiến tranh loạn lạc,
thì họ sẵn lòng ra trận như: ai Bà Trưng, Triệu Ẩu, Dương Vân Nga, Ỷ Lan,
Bùi Thị Xuân, vợ ba Đề Thám, Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Theo truyên thuyết,
Mẫu Liễu Hạnh với tài thần thông biến hóa, có lòng cảm thương đối với dân
nghèo, nên đã không ít lần sử dụng phép thuật để giúp dân chống giặc, cứu
nước… Vì thế, Thánh Mẫu Liễu Hạnh được phong là một trong Tứ bất tử của
Việt Nam. Hình ảnh những người phụ nữ hiên ngang nơi trận mạc như ai Bà
Trưng, Triệu Thị Trinh, đô đốc Bùi Thị Xuân và hàng ngàn những nữ anh
hùng khác, đã tô đẹp hơn cho giá trị của người phụ nữ Việt Nam. Trong gia
đình họ là những người mẹ, người vợ đảm đang, bao dung, nơi trận mạc họ là
những vị anh hùng.
Ngoài ra, nhận thức về vai trò của người phụ nữ, đồng thời tín ngưỡng
dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ đề cao giá trị của người phụ
nữ xưa kia. Hình ảnh Mẫu Liễu được người Việt xây dựng thiêng liêng trong
cả đời sống tâm linh và trong cả cuộc sống đời thường. Do sự ảnh hưởng của
tư tưởng Nho, Phật, Đạo, mà tín ngưỡng Mẫu Liễu Hạnh càng sắc nét trong
quá trình phản ánh tư duy của con người về giá trị của người phụ nữ xưa kia.
Điều đó đúng với luận điểm của Mác, đó là vì con người tạo ra thần thánh của
mình không ngoài thực tế sống của họ. Theo truyền thuyết, họ cho Mẫu Liễu
từ con vua cha trên trời giáng xuống được đất mẹ nuôi dưỡng, có tài hoa văn
học để đàm đạo, vịnh thơ với các nho sĩ. Mẫu Liễu luân hồi hóa kiếp mấy lần,
115
và đều trở thành người giúp dân chữa bệnh. Bàn về vấn đề này, Ngô Đức
Thịnh viết, “đạo Mẫu vốn gần với thiên nhiên, trời, đất, nay được “đời thường
hóa”, gắn liền và đáp ứng nhu cầu khát vọng của con người, thân phận của
con người nhất là người phụ nữ trong đời sống hàng ngày: tài lộc, chữa bệnh,
ban phúc, giáng họa…” [96, tr.174]. Bên cạnh đấy, thông qua huyền thoại về
Mẫu Liễu, người nông dân, và hơn hết là người phụ nữ đã tìm thấy sự cảm
thông sâu sắc với chính thân phận của mình. Đó là hình ảnh người phụ nữ lo
toan, tần tảo, đức hạnh vì chồng, vì con. ình tượng Mẫu trong huyền thoại
Mẫu xuống trần kết hôn rồi sinh con đẻ cái, khi hết hạn Mẫu phải về trời,
nhưng lòng dạ lúc nào cũng đau đáu nhớ về chồng, về con, đã lay động đến
vua cha… càng tô thắm thêm hình ảnh về đức hạnh của người phụ nữ trong
xã hội phong kiến xưa.
Như vậy, tư tưởng về vai trò của người phụ nữ trong tín ngưỡng dân
gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được phản ánh rõ nét trên nhiều
khía cạnh. Đó là vai trò về thiên chức làm mẹ của người phụ nữ góp phần duy
trì nòi giống cho gia đình, đất nước; là vai trò của người phụ nữ xưa kia trong
lao động sản xuất, trong cuộc đấu tranh chống lại những luật lệ hà khắc của
xã hội phong kiến đương thời. Đồng thời, tư tưởng đó còn là vai trò của người
phụ nữ trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Qua đó, tín ngưỡng thờ
Mẫu đã khắc họa rõ nét về hình ảnh người phụ nữ với những giá trị nhân văn
và phản ánh những khát vọng chính đáng của họ.
3.3.2. Tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
phản ánh truyền thống yêu nước của dân tộc ta
Giáo sư Trần Văn Giàu nhận xét, truyền thống yêu nước chống giặc
ngoại xâm như là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử mấy nghìn năm của
Việt Nam [28, tr.42]. Như vậy, có thể thấy, trong suốt chiều dài lịch sử dựng
nước và giữ nước, bên cạnh các truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam
116
như truyền thống uống nước nhớ nguồn, truyền thống hiếu học, truyền thống
tôn sư trọng đạo,.. thì truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm trở thành
truyền thống quý báu hơn cả. Sở dĩ vì, lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử
chống giặc ngoại xâm. Bàn về vấn đề này, Ngô Đức Thịnh viết:
Nếu tính từ cuộc kháng chiến chồng Tần vào thế kỉ III tr.CN cho
đến kháng chiến chống Mĩ kết thúc năm 1975, Việt Nam đã phải
tiến hành hàng chục cuộc kháng chiến chống ngoại xâm để bảo vệ
độc lập, tự do; hàng chục cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng
dân tộc để giành lại độc lập, trong đó có thời kì Bắc thuộc hơn một
nghìn năm, Minh thuộc hai mươi năm, Pháp thuộc gần một thế kỉ.
Thời gian chống giặc ngoại xâm và đô hộ của nước ngoài lên đến
12 thế kỉ, chiếm quá nửa thời gian lịch sử [100, tr.52-53].
Chính vì thế, không khỏi ngạc nhiên khi thấy tư tưởng yêu nước, chống
giặc ngoại xâm trở thành “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt chiều dài lịch sử dựng nước
và giữ nước, ăn sâu, len lỏi vào khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống và trong
lòng mỗi người dân. Điều đó được cắt nghĩa bởi nước Việt Nam tồn tại và
phát triển trong điều kiện đấu tranh chống sự bành trướng và xâm lược của
phong kiến phương Bắc cùng các đế quốc khác. Tư tưởng yêu nước, đấu tranh
chống giặc ngoại xâm là “cái phản ánh tồn tại đã được sản sinh ra và phát
triển trong điều kiện phục vụ cho sự đấu tranh sống còn đó” [38, tr.119]. Tư
tưởng đó được phản ánh trong rất nhiều trong các tác phẩm văn học, trong
văn hóa dân gian và được chú trọng đề cao trong hệ thống tín ngưỡng dân
gian của người Việt. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, truyền thống yêu nước được phản ánh trong tín ngưỡng dân
gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ thông qua nhận thức về dân tộc
và độc lập chủ quyền dân tộc
117
Cũng như bất cứ một dân tộc nào trên thế giới, cộng đồng người Việt
đầu tiên cũng xuất phát từ sự hình thành các bộ lạc, bộ tộc… sau đó hình
thành nên dân tộc. Để đảm bảo tính ổn định cho sự tồn tại lâu dài của dân tộc,
thì cần thiết phải giữ những nét riêng của nó, sao cho đó là cơ sở để phân biệt
với các dân tộc khác. Điểm khác biệt đó chính là văn hóa. Trong quá trình lao
động sản xuất, người lao động không chỉ góp công trong việc tạo ra của cải,
mà còn tạo nên một nền văn hóa, phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên và
những sáng tạo về giá trị tinh thần. Một trong những kết quả đáng ghi nhận,
đó là nhân dân đã xây dựng hệ thống tín ngưỡng dân gian mang đậm bản sắc
văn hóa dân tộc. Trong đó, một trong những giá trị cốt lõi cần đề cập đến đó
là tư tưởng về dân tộc và độc lập chủ quyền dân tộc được khắc họa rõ nét
trong các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của vùng. Nhân dân đã xây dựng lên
hình tượng các Mẫu với quyền lực vô biên cai quản các vùng miền và có vị
thế ngang hàng với Ngọc oàng hay Chúa… Sức mạnh quyền năng của các
Mẫu thể hiện chủ quyền riêng của dân tộc, nói lên tiếng nói của dân tộc về
ranh giới quốc gia. Câu nói cửa miệng của người Việt “đất có thổ công, sông
có hà bá” đã phần nào phản ánh ý thức về sự độc lập chủ quyền của dân tộc.
Ngoài ra, hình ảnh về các vị vua trong các triều đại, hình ảnh các vị anh
hùng (trong cả huyền thoại, truyền thuyết và chính sử của dân tộc) được
phong thành thần, thánh và vẫn trường tồn trong tâm thức của dân tộc. Hệ
thống tín ngưỡng thờ những vị có công với đất nước, nói như Nguyễn Đức
Lữ, nó như một biểu tượng để “cắt nghĩa cho nguồn gốc của quốc gia dân tộc.
Nó nhằm mục đích đoàn kết chặt chẽ mọi người, mọi tầng lớp để xây dựng
đất nước, và đặc biệt, để chống quân xâm lược thường đông và mạnh hơn
mình” [66, tr.98]. Sức mạnh của họ thể hiện sức mạnh của cả dân tộc. Những
vị hàng quan như Quan oàng Mười, Quan Hoàng Bảy,.. những vị thánh như
Đức Thánh Trần, Thánh Tản Viên, Thánh Mẫu Liễu Hạnh… đều là những
118
hình ảnh, những con người bất tử, trường tồn với thời gian, đó cũng là biểu
tượng tiêu biểu cho sự tồn tại bất diệt của dân tộc ta. Đúng như nhận xét của
Vũ Ngọc Khánh: “Dân gian Việt Nam đã lựa chọn trong số nhiều vị thần linh
của mình để suy tôn được bốn vị thần linh là Tứ Bất Tử. Đó là biểu tượng của
sự trường tồn, bất diệt của dân tộc ta từ xưa tới nay” [55, tr.25].
Thứ hai, truyền thống yêu nước được phản ánh trong tín ngưỡng dân
gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ thông qua lịch sử đấu tranh
chống giặc ngoại xâm
Ý thức độc lập chủ quyền quốc gia dân tộc còn bắt nguồn từ chính thực
tiễn đấu tranh giành và giữ nước. Một dân tộc trong quá trình phát triển luôn
có sự song hành với các cuộc chiến tranh đã tạo nên điểm khác biệt trong bề
dày lịch sử dân tộc. Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước ấy, sự kết
hợp sức mạnh của toàn dân tộc, trong đó có sức mạnh của hồn thiêng sống
núi, đã góp phần to lớn vào những chiến công còn lưu danh sử sách. Đúng
như Giáo sư Trần Văn Giàu đã nhận xét: “Núi cao, sông sâu biển rộng, rừng
già đều như có hồn thiêng góp phần vào việc chống giặc; thực ra ấy là tinh
thần của các thế hệ đã đổ mồ hôi xương máu xấy dựng nước non nhà. Non
sông linh tú và con người đang chiến đấu, các thế hệ đã chết và các thế hệ
đang sống đều trở thành một khối thống nhất” [28, tr.169]. Như vậy, những vị
được phong thần, thánh đều đáng trân trọng, và trong số đó, đông đảo nhất
vẫn là các vị có công trong sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Chẳng hạn, các vị
thần trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được
thần thánh hóa mang bóng dáng của con người: có tên tuổi, có lai lịch rõ ràng.
Và quan trọng hơn cả, các vị thần đó được xây dựng nên luôn gắn bó, gần gũi
với cuộc sống con người, và trở thành một phần không thể thiếu trong lịch sử
Việt Nam. Bàn về điều này, Vũ Ngọc Khánh viết, “Đức Thánh Gióng được
nhân dân tôn thờ như một lẽ sống, một đạo lý của con người Việt Nam. Đó là
119
dư âm, hào khí bản hùng ca hoành tráng từ ngàn xưa vọng lại, niềm tự hào,
ngưỡng mộ về sức mạnh đoàn kết của một dân tộc trong cuộc chiên đấu
chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước” [55, tr.26].
Hào khí của dân tộc, của nhân dân được nhân lên gấp bội bởi tinh thần
bất khuất trong chiến đấu của các vị anh hùng, vì độc lập dân tộc, chủ quyền
quốc gia. Trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm, họ là những người
có công lớn.Ví như truyền thuyết Mẫu Thượng Ngàn đã từng báo mộng giúp
Lê Lợi tránh được hiểm nguy trong cuộc kháng chiến chống quân Minh,…
Quan Đệ Ngũ được đồng nhất với tướng Cao Lỗ - một võ tướng của An
Dương Vương, con trai của Trần ưng Đạo là Trần Quốc Tảng… hoặc như
Ông oàng Đệ Nhất được đồng nhất với danh tướng Lê Lợi, Ông oàng Đôi,
Ông oàng Bơ… có công phò vua đánh giặc, Ông Hoàng Lục là tướng Trần
Lựu, có công chống giặc Minh… ay khi nhắc tới Vua Cha Bát Hải Đại
Vương, có rất nhiều truyền thuyết nói về công lao của ông. Ngô Đức Thịnh
viết, “khi đất nước có giặc, vua Hùng ra chiếu kêu gọi người tài ra giúp đất
nước, con rắn lớn nhất hóa thành người, đem đoàn quân gồm cả thuồng luồng,
rồng rắn, cá sấu… đi đánh giặc. Sau khi chiến thắng trở về, ông được nhà vua
phong là Trấn Tây Nam vĩnh cống Bát Hải Đại Vương” [96, tr.164].
Bên cạnh những vị thần không có thật được dân gian nhân cách hóa,
còn có rất nhiều vị thần là người thật được chính sử ghi chép công lao bởi khi
còn sống họ đã có công trong việc đấu tranh giữ gìn bờ cõi dân tộc. Có thể kể
đến các vị thần, thánh như: ai Bà Trưng, Nguyên Phi Ỷ Lan, Trần ưng
Đạo… Khi nhắc tới Thánh ưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, trong tâm
thức của người Việt, đó là vị anh hùng dân tộc gắn liền với chiến công lừng
lẫy của quân và dân nhà Trần thế kỉ XIII, ba lần đánh bại quân Nguyên Mông.
Trong hệ thống thần linh của người Việt, Đức Thánh Trần là một nhân thần -
một vị Thần - người có thật trong lịch sử. Lịch sử dân tộc ghi nhận công lao
120
của ông trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc. Một vị tướng nhà
Trần không chỉ là một nhà lý luận quân sự giỏi, mà còn là một vị tướng tài ba
nơi trận mạc. Trân trọng công lao to lớn đó, nhân dân bày tỏ lòng thành kính,
và sau này, khi qua đời, ông được vua phong Thượng đẳng thần để ghi nhận
công lao, và khẳng định sự bất tử của ông với dân tộc. Lý Thường Kiệt là một
vị tướng lĩnh tài ba được phong là Thái úy trung phụ dũng vũ uy thắng công
thần để tôn vinh công lao của ông đối với dân tộc… Trong quá trình kháng
chiến chống giặc ngoại xâm, biểu tượng về sức mạnh dân tộc được nâng lên
hơn bao giờ hết. Tư tưởng về sức mạnh cộng đồng được dân gian xây dựng
trong hệ thống tín ngưỡng thờ Thành hoàng. Biểu tượng ấy không chỉ là chỗ
dựa tinh thần mà còn nói lên sự đoàn kết, cố kết cộng đồng trong cuộc kháng
chiến chống quân xâm lược của toàn thể dân tộc. Nó không chỉ là biểu tượng
đơn thuần về sự đoàn kết, mà hơn thế nữa, nó còn có khả năng cổ vũ, động
viên cả một tập thể. Nguyễn Đức Lữ viết, “Thành hoàng không chỉ là chỗ dựa
tinh thần mà còn như biểu tượng của sức mạnh cộng đồng, đôi khi có khả
năng, cổ vũ, động viên cả một tập thể” [66, tr.85].
Như vậy, có thể thấy, trong hệ thống tín ngưỡng dân gian của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, thờ những vị anh hùng có công với dân tộc
phản ánh về một quá trình lịch sử hết sức hào hùng của đất nước ta. Quá trình
liên tục vươn lên, đấu tranh để khẳng định mình, dân tộc ta đã sinh ra nhiều
anh hùng. Thờ cúng họ trở thành một nét đẹp trong truyền thống văn hóa của
chúng ta, thể hiện sức mạnh cộng đồng, thể hiện lòng biết ơn, kính trọng của
người dân Việt, và như một niềm tự hào, một lời hứa không ngừng vươn lên
để bày tỏ lòng yêu nước để khẳng định sự trường tồn của dân tộc. Đúng như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói, chúng ta có quyền tự hào về những trang
sử vẻ vang của thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần ưng Đạo, Lê Lợi, Quang
121
Trung… chúng ta cần ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị
ấy là tiêu biểu cho một dân tộc anh hùng.
Tiểu kết chƣơng 3
Một số yếu tố triết học cơ bản trong tín ngưỡng dân gian của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được thể hiện trong quan niệm về tự nhiên, quan
niệm về con người và quan niệm về các mối quan hệ xã hội. Tự nhiên được
giải thích trên cơ sở hệ thống các vị thần mang trong mình sức mạnh siêu
nhiên vừa gần gũi, gắn bó với con người, vừa ảo, vừa thực. Tự nhiên trong tín
ngưỡng dân gian được nhân cách hóa, thần thánh hóa, thể hiện sự bất lực của
con người trước tự nhiên, đồng thời gửi gắm ước mơ chinh phục tự nhiên,
mong muốn được tự nhiên che chở. Yếu tố con người cũng được phản ánh rõ
nét, sinh động trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc
Bộ. Trong quan niệm của tín ngưỡng dân gian, con người được sinh ra, tồn tại
và tiêu vong là do sự cai quản của các vị thần nắm giữ vận mệnh, và con
người đều có hai phần là thể xác và linh hồn. Số phận của con người đều được
sắp đặt trước bởi sự chi phối của các vị thần. Vấn đề xã hội được phản ánh
trong tín ngưỡng dân gian của người Việt như một bức tranh sống động của
thế giới các vị thần. Các mối quan hệ của họ, hành động của họ phản ánh
chính xã hội đương thời. Những lễ nghi, lễ giáo của xã hội phong kiến đè
nặng lên đôi vai của người phụ nữ. Do vậy, họ tìm đến sự giải thoát trong tín
ngưỡng, đem ước mơ bình quyền, giải phóng bản thân gửi gắm trong tín
ngưỡng dân gian. Sống trong xã hội loạn lạc, chiến tranh liên miên, một dân
tộc nhỏ bé những không ít lần đương đầu với kẻ thù phương Bắc đã nhen
nhóm lên trong tư tưởng của nhân dân ý thức về độc lập chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ và tinh thần đoàn kết đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Bên cạnh đó,
tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ còn phản ánh
bức tranh chung về cộng đồng làng, xã. Đó là sự cố kết cộng đồng, là nơi hình
122
thành nên những chuẩn mực về đạo đức, lối sống trọng tình, trọng nghĩa. Nó
không chỉ phản ánh hiện thực cuộc sống của nhân dân vùng đồng bằng Bắc
Bộ, mà nó còn góp phần điều chỉnh hành vi của con người, hướng con người
tới những giá trị nhân văn cao cả, tới bến bờ của chân - thiện - mĩ.
123
Chƣơng 4
GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CÁC QUAN NIỆM VỀ TỰ NHIÊN,VỀ
CON NGƢỜI, VỀ XÃ HỘI TRONG TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN CỦA
NGƢỜI VIỆT VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
4.1. Giá trị của các quan niệm về tự nhiên, về con ngƣời, về xã hội
trong tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
4.1.1. Giá trị của các quan niệm về tự nhiên
4.1.1.1. Giá trị tâm linh
Cách giải thích về tự nhiên trong tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng
Bắc Bộ đã phần nào thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người. Xưa kia,
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ đều sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp,
nên các yếu tố tác động của tự nhiên như sấm sét, mưa bão, lũ lụt… ảnh
hưởng lớn đến cuộc sống. Vì thế, họ đặt niềm tin và cầu mong sự che chở,
phù hộ của các vị thần tự nhiên. Các vị thần cai quản tự nhiên trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được nhân cách hóa
rõ nét. Đó là những vị thần mang trong mình sức mạnh của tự nhiên, thể hiện
ý chí của tự nhiên, nhưng lại tồn tại trong vóc dáng của con người. Trong tín
ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ, dường như tự nhiên và con người
hòa làm một. Con người vừa là chủ thể - các vị thần đại diện cho con người
cai quản tự nhiên, vừa là bộ phận của tự nhiên - các vị thần của tự nhiên cai
quản số phận của con người. Bên cạnh đó, sự hiện diện của các vị thần trong
tự nhiên còn phản ánh ước mơ chinh phục tự nhiên của con người. Với hình
ảnh Tam phủ, Tứ phủ trong tín ngưỡng thờ Mẫu thể hiện rõ nét ước mơ của
người Việt mong muốn nhận được sự che chở của người mẹ để có được mưa
thuận, gió hòa, đủ nước, đủ đất cho mùa màng bội thu. Hình ảnh về vị Thánh
Tản Viên được xây dựng, phản ánh mong muốn chế ngự tự nhiên. Bàn vê vấn
đề này, Nguyễn Đăng Duy viết, “Tản Viên Sơn Thần - Sơn Tinh thắng Thủy
124
Tinh tiêu biểu cho tinh thần trị thủy của người Việt. Thể hiện ở việc đắp đê
ngăn lũ ở đồng bằng Bắc Bộ. Cũng là khẳng định vai trò của con người, chế
ngự miền núi, trung du” [16, tr.114]. Hình ảnh về các vị Thổ Địa, Thổ Công,
Thủy Thần, Hà Bá,.. đều phản ánh niềm hi vọng của người dân có được cuộc
sống đầy đủ, không ai vi phạm đất đai, nhà cửa. Thần Mặt Trời mang theo
ánh sáng, đồng nghĩa với việc luôn mang theo sự sống cho muôn loài, phản
ánh ước mơ có được cuộc sống sinh sôi nảy nở không còn bóng tối, không
còn chết chóc… Tất cả những ước mơ, nguyện vọng đó, do con người không
tự chiến thắng được thiên nhiên, nên đã xây dựng thành những hình ảnh vừa
thực, vừa hư, vừa gần, vừa xa, để cầu mong sự che chở. Thiên nhiên mang
trong mình sức mạnh hùng vĩ, là nơi tạo nên sự sống, nhưng cũng là nơi lấy đi
sự sống của con người.
Trong sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng
Bắc Bộ diễn ra hàng năm phản ánh rõ ước vọng tâm linh của con người. Hàng
năm, các lễ hội được tổ chức với nghi lễ trang nghiêm và thu hút được đông
đảo quần chúng nhân dân tham gia, phần nào thỏa mãn nhu cầu tâm linh của
người dân. Họ tổ chức các nghi lễ thể hiện sự tôn sùng tự nhiên. Chẳng hạn,
tục rước nước của người dân Thái Bình trong lễ hội Bổng Điền, lễ hội Cửa
Lân, lễ hội Tiên La, tục rước các vị Tứ Pháp mỗi năm một lần trong lễ hội ở
Bắc Ninh… Điều đó thể hiện sự trân trọng tự nhiên của con người. Các yếu tố
của tự nhiên luôn được đề cao, luôn được con người sùng bái. Hình ảnh các vị
thần đại diện cho các yếu tố như trời, đất, nước, núi rừng, cỏ cây… được khắc
họa trong tâm thức của con người luôn là hình ảnh uy nghi, có tầm vóc, tướng
mạo. Các lễ hội diễn ra trong không khí trang nghiêm thể hiện sự tôn thờ các
vị thần của dân chúng. Ở đó, không phải là biểu hiện của sự sợ hãi trước sức
mạnh của tự nhiên mà là sự gửi gắm ước mơ, nguyện vọng chính đáng của
con người, nhất là người nông dân, khi công việc của họ gắn liền với thời tiết,
125
với các yếu tố của tự nhiên. Mang trong mình sức mạnh của các vị thần, con
người gắn vào đó ước mơ có được sự che chở của tự nhiên. Vì, trong tâm thức
của họ, sức mạnh của thần bao giờ cũng đối lập với quỷ quái, yêu ma. Cuộc
chiến giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sức mạnh siêu nhiên của trời đất bảo vệ
con người. Tuy là hai thế lực đối lập nhau thần - quỷ, yêu ma. Song trong tâm
thức của họ, tự nhiên có mạnh mẽ đến bao nhiêu chăng nữa, thì đó cũng là
sức mạnh để giúp họ chiến đấu để tồn tại. Thế giới thần linh phong phú, phản
ánh chính cuộc sống đa dạng của con người. Họ gửi gắm vào đó không chỉ là
ước mơ được che chở, bảo vệ, mà còn gửi gắm cả vào đó sự chiến thắng
chính bản thân mình. Đó chính là giá trị tâm linh của các yếu tố triết học về tự
nhiên đối với hoạt động tín ngưỡng của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.
4.1.1.2. Giá trị giáo dục ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên
Ẩn chứa trong các tín ngưỡng nói chung, và trong tín ngưỡng dân gian
của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng là ý thức bảo vệ tự nhiên,
sống gần gũi gắn bó với tự nhiên. Bởi, hơn bao giờ hết, như C.Mác đã nhận
định, “tự nhiên là thân thể vô cơ của con người”. Tự nhiên mang lại sự sống
cho con người. Con người là kết quả tiến hóa hàng tỉ năm từ giới tự nhiên,
điều này được minh chứng bằng các nghiên cứu khoa học, đặc biệt là trong
thuyết tiến hóa của Đác-uyn. Chính vì thế, dù trong thời đại nào đi chăng nữa,
trình độ của con người càng cao, thì càng phải có ý thức duy trì và bảo vệ tự
nhiên. Đó cũng là bảo vệ chính cuộc sống của con người. Gửi gắm vào hình
tượng các vị thần trong tín ngưỡng dân gian, tuy mang đậm màu sắc huyền
thoại, nhưng cho đến nay, tín ngưỡng và các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian
vẫn diễn ra sôi nổi. Một phần nó thể hiện sức sống lâu bền của hoạt động tín
ngưỡng. Một phần nó khẳng định giá trị nhận thức thể hiện văn hóa ứng xử
của con người đối với tự nhiên trong quá trình chinh phục tự nhiên.
126
Sùng bái tự nhiên là quy luật tất yếu trong quá trình sinh sống của con
người. Đó cũng chính là văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên, mà con
người đóng vai trò là chủ thể. Trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ thể hiện rõ nét mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa con người
với tự nhiên. Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, trong tư duy của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ, các yếu tố của tự nhiên và con người có mối giao
hòa. Tư tưởng thiên - địa - nhân hợp nhất luôn là mối quan tâm của con
người. Trong thực tiễn, trong sản xuất nông nghiệp, người ta trông trời, trông
đất, trông mây… thể hiện sự tôn trọng quy luật của tự nhiên. Từ đó, hình
thành nên văn hóa ứng xử của con người với tự nhiên. Các vị thần trong tín
ngưỡng dân gian như Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Ngàn,
hay các vị Tứ Pháp, các vị Thủy thần, Sơn thần, Thổ thần… được khắc họa
với diện mạo của con người, nhưng mang tướng mạo của những con người
phi thường. Tin vào sức mạnh thần bí của tự nhiên, đồng thời cũng xuất phát
từ chính vai trò vốn có của tự nhiên đối với con người. Nên, trong tâm thức
của người dân, các yếu tố cơ bản của tự nhiên luôn được đặt lên hàng đầu với
biểu tượng các bà mẹ - Thánh Mẫu. Nhắc tới mẹ, người ta nghĩ ngay đến sự
nâng niu, chăm sóc, che chở cho con cái, thì tự nhiên trong suy nghĩ của họ
cũng vậy. Họ trân trọng tự nhiên, nên họ mượn những hình ảnh của bà mẹ để
khắc họa. Các hoạt động tín ngưỡng dân gian cho ta thấy rõ văn hóa ứng xử
của con người với tự nhiên. Mỗi khi tết đến xuân về, các địa phương trong cả
nước lại tổ chức lễ hội, một phần để duy trì truyền thống văn hóa qua lễ hội
dân gian, một phần như để nhắc nhở con cháu về lòng biết ơn đối với trời, đất,
nước. Bên cạnh đó, đối với người Việt, mọi sự vật, hiện tượng sinh hóa trong
vũ trụ huyền bí này đều trở thành đối tượng thờ cúng. Đó có thể là một hòn
đá, một gốc cây cổ thụ, một rừng sâu, một con sông… đều là cơ sở của thần
linh, thần linh hiện hữu ở khắp mọi nơi, và tất cả đều là thần. Điều đó nói lên
127
tình cảm cũng như mối quan hệ gần gũi, gắn bó của người Việt với giới tự
nhiên, nói lên cách ứng xử thân thiện tự nhiên.
Tóm lại, qua việc nghiên cứu giá trị của các yếu tố triết học về tự nhiên
trong tín ngưỡng dân gian của người việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, cho thấy ý
nghĩa của nó đối với các hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng dân gian hiện nay
của vùng. Trên cơ sở nghiên cứu các giá trị, giúp ta có thêm cơ sở để giải
thích sự tồn tại của tín ngưỡng hiện nay. Bên cạnh đó, thông qua các yếu tố
triết học ẩn chứa trong tín ngưỡng dân gian, phản ánh văn hóa ứng xử đối với
tự nhiên của con người. Hiểu tự nhiên, sống gắn bó với tự nhiên là việc làm
xuất phát từ chính nhu cầu lao động sản xuất để sinh tồn của người Việt.
Nhận thức về tự nhiên là một trong những nhu cầu không thể thiếu trong suốt
hành trình dài khám phá, chinh phục tự nhiên của con người. òa đồng với tự
nhiên, cảm nhận tự nhiên, lắng nghe tự nhiên, và với mục đích cuối cùng là
bảo vệ tự nhiên một cách hữu hiệu hơn, trở thành một vấn đề quan trọng khi
hành tinh của chúng ta đang đứng trước thực tế bị tàn phá, dẫn đến sự biến
đổi khí hậu, là mối hiểm họa đe dọa chính cuộc sống và nền văn minh mà
nhân loại xây dựng lâu nay. Do vậy, nghiên cứu về các yếu tố của tự nhiên tự
nhiên trong tín ngưỡng dân gian góp phần khẳng định lại những giá trị nhận
thức, khẳng định lại giá trị tâm linh hàm chứa trong đó, giúp con người biết
yêu quý và trân trọng tự nhiên hơn.
4.1.2. Giá trị của các quan niệm về con người
4.1.2.1. Giá trị nhân văn và bác ái
Cuộc sống là hành trình con người đi tìm và tự khẳng định mình. Ngay
từ buổi bình minh, trong tâm thức người Việt đã chú ý đến vấn đề con người.
Bằng tư duy trực quan, bằng trí tưởng tượng phong phú, họ đã giải thích về
nguồn gốc hình thành con người hết sức sinh động. Con người được cấu tạo
từ hai phần, đó là linh hồn và thể xác. Khi linh hồn và thể xác hòa hợp, con
128
người được hình thành. Khi thể xác già nua, ốm yếu, linh hồn sẽ từ bỏ, và lại
tiếp tục chu du trong trời đất để nhập vào một thể xác mới. Cứ như thế, sự
sống của con người tiếp tục được sinh sôi nảy nở. Điều đó có nghĩa, cuộc
sống của con người là bất tận, con người tồn tại mãi với thời gian. Cái mất đi
chỉ là thân xác tạm bợ, mà ở đó, linh hồn con người gửi gắm. Do vậy, trong
tín ngưỡng dân gian của người Việt, cuộc sống của con người sau khi chết
còn dài hơn rất nhiều so với lúc sống. Cùng với niềm tin cho rằng, mỗi một
con người đều có một lực lượng siêu nhiên quyết định số phận, mang lại giá
trị định hướng trong hoạt động thực tiễn, khuyên con người ăn ở có trước, có
sau, tu tâm, tích đức để linh hồn gắn bó với thể xác, và khi thể xác già nua,
chết đi, thì linh hồn ấy mau chóng được đầu thai sang kiếp khác tốt đẹp hơn.
Chính vì vậy, trong mỗi hành động khiến con người ta chú ý hơn, để mong
tạo nghiệp thiện, tích nghiệp thiện cho bản thân, cho con cháu và gia đình.
Bên cạnh đó, sự tồn tại của yếu tố thiêng trong quan niệm về con người
trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, giúp điều
chỉnh nhận thức và hành vi của con người, hướng con người đến sự hoàn
thiện nhân cách cá nhân theo chuẩn mực đạo đức chung của xã hội. Đến
những nơi linh thiêng, nhiều người, kể cả những người trẻ tuổi, đều rất chú ý
đến lời ăn, tiêng nói, cử chỉ và trang phục của mình. Có lẽ, tâm lý trước cái
thiêng đã khiến mọi người đều phải chế ngự bản thân, không dám hành động
càn quấy. Những lời hứa hẹn, thề nguyền của con cháu trước tổ tiên, thần
thánh cũng tạo nên một tinh thần phấn chấn, ý chí quyết tâm, nỗ lực vượt khó
để hoàn thành tốt những mục tiêu mà bản thân và gia đình hướng tới. Bàn về
điều này, tác giả Toan Ánh cho rằng, “sự tin tưởng vong hồn ông bà cha mẹ
ngự trên bàn thờ có ảnh hưởng nhiều đến hành động của người sống. Nhiều
người vì sợ vong hồn cha mẹ buồn đã tránh những hành vi xấu xa, và đôi khi
định làm một việc gì cũng suy tính kỹ lưỡng, xem công việc đó lúc sinh thời
129
cha mẹ có chấp nhận hay không. Người ta sợ mang tội bất hiếu nếu làm cho
vong hồn cha mẹ phải tủi hổ qua hành động của mình” [4, tr.25].
Quan niệm cho rằng, cuộc sống của con người sau khi chết là trở về với
thế giới bên kia. Ở thế giới đó, con người vẫn tồn tại nhưng ở một trạng thái
khác cũng có những ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động thực tiễn và nhận thức
của con người. Cũng tương tự như truyền thuyết trong kinh thánh, con người
sẽ chịu phán quyết sau khi chết. Hàng loạt các câu chuyện thần thoại, huyền
thoại về thế giới cõi âm của người chết đã phần nào thức tỉnh con người trước
khi họ hành động. Những bức tranh miêu tả về những vụ tra tấn dã man, chỉ ở
nơi của Thập Diện Diêm Vương mới có, khiến cho người sống không khỏi
bàng hoàng, tự vấn về những điều mình đã làm. Có thể thấy, sức mạnh vô
hình trong quan niệm về thế giới bên kia trong tín ngưỡng dân gian có tác
dụng không nhỏ đến cuộc sống của người trần thế. Phàm là con người ai cũng
đều sợ chết. Thậm chí khi còn sống đã chuẩn bị cho mình hành trang, tâm lý
trước khi đón nhận cái chết. Họ ý thức về cuộc sống sau khi chết của mình
nên ngay lúc còn sống quan niệm đó đã có tác động mạnh mẽ đến họ, góp
phần điều chỉnh hành vi của họ cho phù hợp vơi chuẩn mực chung của xã hội.
Giá trị nhân văn trong các yếu tố triết học về con người làm cho hoạt
động tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ càng trở
nên ý nghĩa. Các sinh hoạt tín ngưỡng diễn ra không chỉ thỏa mãn nhu cầu
tâm linh, mà còn là nơi điều chỉnh hành vi của con người, là nơi gắn kết con
người lại gần nhau. Họ tin có một thế giới tồn tại chờ đón họ sau khi họ chết.
Chính vì vậy, các sinh hoạt tín ngưỡng diễn ra như là nơi để họ gửi gắm niềm
tin, cầu bình an cho kiếp sống hiện tại, và mong có một cuộc sống yên ổn sau
khi họ chết. Ngày nay, các lễ hội dân gian thường gắn liền với sinh hoạt tín
ngưỡng ở hầu khắp các địa phương của vùng diễn ra thường xuyên hơn, và có
tính chất lan tỏa. Người dân tham gia vào các lễ hội, các sinh hoạt tín ngưỡng
130
không chỉ thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng, mà còn là nơi để họ được
sám hối, sửa mình. Đến với các sinh hoạt tín ngưỡng, dù là già - trẻ, gái - trai,
giàu - nghèo đều nhận được sự bình yên trong tâm hồn, bởi niềm tin vào sức
mạnh của một thế giới khác đang lắng nghe họ, hiểu họ và sẵn sàng che chở
cho họ. Vì thế, giá trị nhân văn của tín ngưỡng vùng đồng bằng Bắc Bộ gióp
phần không nhỏ vào nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của vùng.
4.1.2.2. Giá trị hướng thiện
Do ảnh hưởng trong quan niệm của tín ngưỡng dân gian về sự hình
thành con người được tạo tiền đề từ nhiều yếu tố. Từ việc xem xét đến hành
động của con người ở kiếp trước, cho đến xét tới việc phúc ấm trong gia đình
để quyết định số phận cho họ. Cho nên, ngay khi còn đang sống, họ chú ý đến
những hành động của mình, tu thân, tích đức, mong cầu tạo nghiệp thiện để
sau khi chết đi có cơ hội được trở lại làm người. Họ chăm sóc, phụng dưỡng
cha mẹ - bởi cha mẹ là những người có công dưỡng dục, tích đức để họ có
được cuộc sống vuông tròn như ngày nay. Bởi hơn tất thảy, “công cha như
núi Thái Sơn; Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Phải hiếu thảo với
cha mẹ khi còn sống, thành kính, biết ơn, thương tiếc cha mẹ khi khuất núi về
với tổ tiên. Kính hiếu cha mẹ là phải phụng dưỡng cha mẹ lúc về già. Bởi lẽ,
chúng ta may mắn được có mặt trên đời, được nhìn thấy trời trăng, sơn thủy,
được sống cuộc sống của một kiếp người là do kiếp trước cha mẹ mình ăn ở
có tâm, có đức. Khi còn bé, nhờ hơi ấm, dòng sữa của mẹ, sự chăm sóc, giáo
dưỡng của cha chúng ta mới nên người. Vì thế, khi cha mẹ già chúng ta cần
phải có trách nhiệm chăm sóc cha mẹ để tỏ lòng kính hiếu và đó cũng là việc
thiện chúng ta nên làm để sau này có cơ hội được đầu thai kiếp khác. Tôn
trọng cha mẹ, có hiếu với cha mẹ đồng nghĩa với việc không được đùn đẩy
trách nhiệm chăm sóc cha mẹ cho người khác. Sự quan tâm, chăm sóc cha mẹ
giúp cha mẹ có thể sống bên cạnh chúng ta lâu hơn. Bởi nói theo một nhà văn
131
unggari: “Mẹ là mặt trời của ta; Ai không yêu mẹ thì ra đứng đường”. Mẹ
cha được ví giống như mặt trời. Vì thế, cha mẹ với ta chỉ có một. Có hiếu với
cha mẹ khi còn sống mới là điều nên làm, để sau này khi cha mẹ khuất núi
không còn gì để tiếc nuối, ân hận.
Tu thân, sửa mình, có hiếu với cha mẹ, sống cuộc sống vuông tròn là
đạo lý từ bấy lâu nay ông cha ta truyền dạy cho con cháu. Cac cụ ví rằng:
“cha mẹ hiền lành để phúc cho con”. Nếp sống nếp nghĩ này bấy lâu nay đã
mang lại nhiều điều tốt đẹp cho hiện thực cuộc sống mà không ai có thể chối
cãi được. Người ta cứ thấm sâu tinh thần ở thiện, cưu mang, cứu giúp thiên
hạ, không những cho đời mình, mà còn cho cả con cháu sau này. Do vậy, tư
tưởng đó từ lâu đã ăn sâu, bén rễ trong tâm thức người Việt Nam. Bên cạnh
đó, đạo làm người không chỉ nhắc nhở họ có hiếu với cha mẹ mà còn phải
hiếu đễ với anh chị em trong gia tộc. Bởi vì “anh em như chân như tay”, “tay
đứt ruột đau”, “một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”, “kính trên nhường dưới”.
Làm anh, làm chị phải biết kính trên, nhường dưới, gương mẫu. Ngoài việc
thể hiện sự quan tâm của mình trong gia đình, dòng họ mà còn chú ý tới các
mối quan hệ trong cộng đồng làng, xã. Bởi trong quan niệm của người Việt,
chúng ta được sinh ra trong cùng một bọc trứng của mẹ Âu Cơ va cha Lạc
Long Quân. Quan niệm đó khiến chúng ta biết yêu thương, đùm bọc, chia sẻ,
giúp đỡ lẫn nhau những lúc hoạn nạn khó khăn. ành động đó, góp phần tích
nghiệp thiện, tạo nghiệp thiện cho con người, giúp họ có thể vượt qua được số
phận của mình và hơn thế nữa, có thể giúp họ sau này có được một cuộc sống
tốt đẹp hơn ở kiếp sau.
Tóm lại, có thể thấy, quan niệm về con người trong tín ngưỡng dân
gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ về số phận của họ, cuộc sống sau
khi chết của họ, số kiếp của họ… đã góp phần giúp con người điều chỉnh
hành vi của mình, sống tốt hơn, chan hòa, gắn bó, yêu thương và biết chia sẻ
132
hơn. Những hành động đó, thể hiện giá trị nhân văn ẩn chứa trong tín ngưỡng
dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tuy chưa thực sự rõ nét,
nhưng đã phần nào thể hiện đạo làm người, thể hiện lối sống tốt đẹp giữa
người với người, đưa họ đến bến bờ Chân - Thiện - Mĩ.
4.1.3. Giá trị của các quan niệm về xã hội
4.1.3.1. Giá trị đạo hiếu
Từ lâu, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” vốn
là giá trị đạo đức truyền thống của người Việt nói chung và người dân vùng
đồng bằng Bắc Bộ nói riêng và là biểu hiện tập trung của giá trị đạo hiếu.
Trước hết, đạo hiếu được thể hiện trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ như một phương thức nhắc nhở con cháu
cần biết bày tỏ lòng hiếu nghĩa với Tổ tiên của mình. Chữ hiếu trong tín
ngưỡng thờ cúng Tổ tiên không chỉ dừng lại ở ý thức, giáo dục đạo đức mà
dần trở thành những nghi thức, tập tục, khuôn mẫu thường xuyên nhắc nhở
con cháu có trách nhiệm với quá khứ, hiện tại và tương lai; với anh em, làng
xóm và xã hội. Bàn về điều này, Ngô Đức Thịnh viết: “Một mặt, con cháu
bày tỏ long nhớ ơn đối với các bậc sinh thành, lúc họ chết cũng như khi còn
sống. Mặt khác, nó cũng thể hiện trách nhiệm liên tục và lâu dài của con cháu
đối với nhu cầu của Tổ tiên” [96, tr.53].
Trong tâm thức của người dân Việt Nam ba yếu tố gia đình, làng, nước
không thể tách rời. Với quan niệm nước là ngôi nhà lớn, nhà là nước thu nhỏ;
“trả thù nhà” gắn liền với “trả nợ nước”. Nên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ
Mẫu, thờ Thành hoàng, ngoài nhu cầu tâm linh còn thể hiện nhu cầu hướng về
cội nguồn của gia đình và dân tộc. Nó ăn sâu bén rễ vào đời sống của người
dân từ thế hệ này sang thế hệ khác và ngày càng trở nên phồn thịnh. Không có
thánh đường nguy nga, không có những khuôn phép hay nghi lễ chặt chẽ,
không hứa hẹn về điều gì đó tốt đẹp ở thiên đường hay thượng giới, song các
133
loại hình tín ngưỡng dân gian đó đã góp phần không nhỏ trong việc định
hướng lối sống của thế hệ con cháu. Tuy chỉ là ảo tưởng về một sự tồn tại siêu
hình nào đó của những người đã khuất, song người ta vẫn cảm thấy yên tâm
khi duy trì mối quan hệ đó như một món ăn tinh thần không thể thiếu.
Tiếp theo, thông qua tín ngưỡng thờ các vị Thánh Sư, Tổ Nghề, những
vị có công khai phá lập làng, lập ấp..., qua đó nhân dân muốn nhắc nhở con
cháu ý thức về long biết ơn đối với những người có công với làng, nước. Bàn
về điều này, Lê Thị Lan viết, “tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng song
Hồng… là phương thức để người dân bày tỏ tinh thần yêu nước, biết ơn hiền
tài và lòng tự hào dân tộc” [57, tr.72]. Tuy chỉ là những người nông dân, song
trong tâm trí họ, truyền thống trọng sự học, quý trọng bậc hiền tài, học rộng,
tài cao có nhiều công lao cho làng xã. Khi còn sống, những bậc anh tài đó là
niềm tự hào của quê hương, khi chết đi họ được nhân dân thờ phụng lập thành
Thành hoàng. Trước hết, đó là những vị có công mở mang trường học khai
sáng dân trí cho người dân có thể kể đến ông giáo Cảnh và cụ Tú Cự có công
dạy học và sau khi mất được thờ ở Thống Dương, ải Hậu, Nam định. Phạm
Trấn là tiến sĩ thời Lê, có công mở trường dạy học sau khi chết được người
dân tôn thờ ở Sơn Đà, Ba Vì. Ba anh em họ Chu là Chu Cần, Chu Khiêm và
Chu Đàm có công mở trường dạy học, khi mất được thờ ở xã Phú Kim, Thạch
Thất, Hà Tây. Vị nữ tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam đó là bà Nguyễn Thị Duệ
được sắc phong là Bà Chúa Sao được thờ ở Văn miếu Mao Điền Hải Dương
cùng với Khổng Tử và bảy vị đại khoa danh tiếng của Việt Nam… Bên cạnh
đó, ngoài những vị có công mở trường khai trí cho người dân được thờ phụng
còn có những vị có công trong việc truyền nghề cho nhân dân. Những vị đó
được tước phong là Thành hoàng Tổ nghề. Có thể kể đến một số vị như ở
Thái Bình có Tổ nghề trồng dâu, nuôi tắm có tên là Phạm Thị Xuân Dung; Tổ
nghề dệt chiếu có Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ người làng Hải Triều - tổng
134
Thanh Triều (nay thuộc xã Tân Lễ, huyện ưng à); Tổ nghề kim hoàn có
Nguyễn Kim Lâu vốn xuất thân từ nghề “bổ trữ đồng oa” (tức hàn xoong nồi),
lên châu Bảo Long học được nghề kim hoàn; Tổ nghề dệt lụa thờ bà A Lã Thị
Nương là vợ của tướng quân Cao Biền, theo chồng sang nước Nam cai trị…
và còn rất nhiều các vị Thành hoàng khác trên khắp các địa phương của vùng
đồng bằng Bắc Bộ. Bên cạnh các vị Thành hoàng đó, không thể không kể đến
các vị Thành hoàng là các nhân vật lịch sử có công tụ dân, lập làng. Trong số
đó, không thể không nhắc tới Nguyễn Công Trứ có công khai khẩn mở mang
vùng đất màu mỡ: Hải Hậu - Nam Định, Kim Sơn - Ninh Bình, Tiền Hải -
Thái Bình, hầu hết người dân các làng của ba huyện đều thờ Nguyễn Công
Trứ làm thần Thành hoàng. Ngoài ra, còn có ông Văn Sỹ Thành (thời Trần)
giúp dân chữa bệnh, được phong là Thành hoàng Thủy Hội, Đan Phượng, Hà
Tây. Quận công Bùi Nghĩa Phổ có công giúp dân lập làng mở chợ được tôn
làm thân thờ ở làng Đình Thị, Trúc Sơn, Chương Mỹ, à Tây… Ngoài ra,
còn rất nhiều các vị khác có công khai phá làng xã, giúp dân khai khẩn, canh
tác ruộng đất… họ được chính người dân phong làm những vị Thành hoàng
thể hiện lòng biết ơn của họ đối với những người có công lập làng, dựng xã.
Việc ghi nhận những công lao đó của các vị Thánh Sư, Tổ nghề, các vị có
công lập làng, khai khẩn… như khắc họa đậm nét hơn về truyền thống “tôn sư
trọng đạo”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn” - một nét đẹp
văn hóa trong đạo đức, lối sống trọng tình, nghĩa của người Việt vùng đồng
bằng Bắc Bộ.
4.1.3.2. Giá trị gắn kết cộng đồng
Giá trị gắn kết cộng đồng được thể hiện rõ nét trong hoạt động tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thông qua sinh
hoạt tín ngưỡng dân gian, họ biết vận dụng uy linh, quyền năng thần thánh để
gắn kết các thành viên cộng đồng mình, tạo dựng một khối vững chắc trong
135
suốt hành trình dài dựng nước và giữ nước. Các hoạt động tín ngưỡng dân
gian của vùng vô hình đã trở thành chất keo kết dính cộng đồng nhà - làng -
nước, là ngọn nguồn của tinh thần yêu nước, là biểu tượng cho sức mạnh
trường tồn của dân tộc.
Một trong những yếu tố tạo nên sự thành công của lịch sử dân tộc đó
chính là sự cố kết công đồng. Đúng như nhận xét của Trần Ngọc Thêm, tính
cộng đồng làng xã và tính trọng âm chính là hai lý do làm nên lòng yêu nước
và tinh thần dân tộc đặc biệt mạnh mẽ của người Việt Nam, nhờ thế mà trải
qua hàng nghìn năm bị đô hộ, văn hóa Việt Nam, dân tộc Việt Nam chỉ có thể
biến đổi, làm giàu lên chứ không bị đồng hóa [91].
Thông qua sinh hoạt tín ngưỡng dân gian, giá trị cố kết cộng đồng được
biểu hiện rõ nét. Trong sinh hoạt tín ngưỡng dân gian thờ Thành hoàng, Toan
Ánh nhận định rằng, “Thành hoàng ở đây chính là vị chỉ huy tối cao không
những về phần thiêng liêng mà còn có thể nói cả một phần về đời sống thực tế
của dân làng nữa. Ngài đã đoàn kết dân xã, và chính sự đoàn kết dân xã là cái
sức mạnh về phần thực tế của Ngài” [3, tr.127]. Đó cũng là quan điểm của
Đào Duy Anh. Ông viết, “thần Thành hoàng là biểu hiện của lịch sử, phong
tục, đạo đức, pháp lệ, cùng hi vọng chung của dân làng, lại cũng là một thứ
quyền uy siêu việt, một mối liên lạc vô hình, khiến cho hương thôn thành một
đoàn thể có tổ chức và hệ thống chặt chẽ” [1, tr.252-253]. Trong tín ngưỡng
thờ Mẫu, là biểu tượng cho tinh thần đoàn kết vì cùng chung một nguồn gốc,
chung một tinh thần đấu tranh chống thiên tai, chống giặc ngoại xâm của
người Việt. Thờ cúng Tổ tiên là biểu tượng cho sự biết ơn về nguồn cội, là sự
kính hiếu với Tổ tiên, là biểu tượng của sự đoàn kết biểu trưng cho sức mạnh
nguồn cội dân tộc. Thánh Gióng không chỉ là biểu tượng của tinh thần yêu
nước, ý chí quật cường của dân tộc, mà còn là biểu tượng của tinh thần đoàn
kết của dân tộc. Dân làng chung tay, chung sức gánh gạo nuôi Gióng lớn nghe
136
tiếng Gióng gọi, tiếng vó ngựa của Gióng phi, nhân dân đang đập đất dưới
ruộng liền xách vồ theo chân Gióng ra trận. ào khí đó thể hiện tinh thần
đoàn kết của dân tộc được ấn chứa sâu sắc trong tín ngưỡng dân gian của
người Viêt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những hoạt động tín ngưỡng dân gian
đó, hầu hết là các hoạt động tập thể, bởi vậy, nó gắn bó, đoàn kết cá nhân với
cộng đồng, bảo vệ lợi ích chung. Nó có ảnh hưởng tích cực trong việc xây
dựng lối sống, nếp sống văn hoá ở mỗi gia đình, làng xóm, tổ dân phố, khu
dân cư; đồng thời có tác dụng giáo dục, khuyến khích phát huy truyền thống
hiếu học của các gia đình, dòng họ ở mỗi địa phương. Chính nhờ duy trì tín
ngưỡng dân gian, đặc biệt là duy trì các lễ hội, sẽ góp phần gìn giữ những nét
văn hoá truyền thống đang dần bị mai một, đồng thời tiếp nhận những giá trị
văn hoá mới để hướng đến xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Ngày xưa, cha ông ta đoàn kết để trị thủy, đoàn kết để chống giặc ngoại
xâm. Ngày nay, chúng ta đoàn kết để chung tay xây dựng đất nước. Giá trị
gắn kết cộng đồng trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng
Bắc Bộ có tác dụng mạnh mẽ đối với đời sống tinh thần của nhân dân. Cùng
với xu hướng thế tục hoá của tín ngưỡng dân gian, nó đã hoà mình vào mọi
hoạt động sống của xã hội ở trong từng gia đình cho đến ngoài cộng đồng. Nó
trở thành sợi dây vô hình gắn kết các giai cấp, tầng lớp trong một lợi ích
chung, tạo nên tinh thần đoàn kết trong cộng đồng dân cư. Vì lẽ đó, tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ đã tạo nên sự đồng
thuận xã hội lớn, gióp phần thúc đẩy việc mở rộng và thực thi dân chủ, tiến
tới công bằng xã hội. Cuộc vận động thực thi dân chủ ở các địa phương cũng
sẽ không thể thành công nếu thiếu sự đoàn kết thống nhất trong nhân dân.
137
4.2. Hạn chế của các quan niệm về tự nhiên, về con ngƣời, về xã hội
trong tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
4.2.1. Tính chất duy tâm trong các quan niệm về tự nhiên
Thứ nhất, xét về mặt thế giới quan, tín ngưỡng dân gian của người Việt
vùng Đồng bằng Bắc Bộ thừa nhận tự nhiên được sáng tạo và cai quản bởi
các vị thần, thánh. Chẳng hạn, trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ ứng với bốn
phương, bốn miền của vũ trụ. Theo Ngô Đức Thịnh, “Mẫu là quyền năng
sáng tạo vũ trụ duy nhất, nhưng lại hóa thân thành Tam vị, Tứ vị Thánh Mẫu
cai quản các miền khác nhau của vũ trụ: Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải và
Mẫu Thượng Ngàn. Trong đó, Mẫu Thượng Thiên sáng tạo và làm chủ các
hiện tượng mây, mưa, sấm, chớp… Mẫu Thượng Ngàn là hóa thân của Thánh
Mẫu trông coi miền rừng núi… Mẫu Thoải… đó là vị thần trị vì vùng sông
nước…” [96, tr.131-133]. Từ Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải cho đến Mẫu
Thượng Ngàn đều được dân gian xây dựng thông qua các câu chuyện mang
màu sắc thần thoại. Đó là những con người bình thường, song họ lại được
sinh ra khác thường. Bàn về điều này, Nguyễn Đăng Duy viết, “…thần vốn đã
thiêng liêng, song để cho thần khác thường thiêng liêng hơn nữa, người Việt
(Kinh) còn huyền thoại hóa các thần thờ” [16, tr.112].
Bên cạnh những câu chuyện về các vị Thánh Mẫu còn là những câu
chuyện về các vị thần rừng, thần sông nước. Chẳng hạn, khi nói thới thần Tản
Viên, trong quan niệm của dân gian, thần Tản Viên “được sinh ra từ một cây
cổ thụ thành một chú bé, được dê rừng cho bú, chim chóc ấp ủ, lớn lên bằng
sự thiêng liêng của núi rừng. Thần Mộc Trang giúp vua Đinh Tiên oàng dẹp
loạn 12 Sứ quân, được sinh ra từ bà mẹ nằm ngủ, mơ thấy sao sa vào miệng
có thai, sinh thần vào ngày 9 tháng 10 (9 phương trời, 10 phương đất)…” [16,
tr.112], Thần Linh Lang - vị thần đại diện cho sức mạnh của nước, theo
truyền thuyết kể rằng “… thần là con vua Lý Thánh Tông, nhưng mẹ là người
138
ở động Bồng Sơn, mang thai 14 tháng sinh thần, giúp vua dẹp xong giặc, khi
hóa nói là con phù thủy, biến thành con rắn trườn xuống hồ Dâm Đàm ( ồ
Tây) biến mất” [16, tr.111].
Qua sự lý giải đó cho ta thấy, thông qua lăng kính tín ngưỡng dân gian
của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, các yếu tố của tự nhiên được sáng
tạo bởi các vị thần, thánh. Họ là những con người được thần thánh hóa, mang
trong mình sức mạnh kì bí chi phối tự nhiên, đồng thời chi phối cả cuộc sống
của con người. Sự lý giải đó càng khiến cho tự nhiên trở nên huyền bí, linh
thiêng, mang màu sắc duy tâm.
Thứ hai, xét về mặt nhận thức luận, tín ngưỡng dân gian của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ thừa nhận sự nhận thức về tự nhiên của con người
thực chất là sự nhận thức về các vị thần, thánh cai quản tự nhiên. Bởi lẽ, ngay
từ buổi đầu, người Việt sống chủ yếu dựa vào tự nhiên. Các yếu tố của tự
nhiên như trời, đất, nước, cây, muông thú… là những yếu tố chính nuôi
dưỡng con người. Trong quá trình lao động, có lúc được mùa, có lúc mất
mùa. Từ việc trồng trọt là hoạt động sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào thời tiết,
họ “trông trời, trông đất, trông mây”. Cho đến việc chăn nuôi, họ cũng chưa
giải thích được vì sao con vật có bệnh tật, chết chóc, vì sao phải có sự phối
hợp giữa con đực và con cái, thì con vật nuôi mới được sinh ra… từ đó nảy
sinh thờ Thần Đực, Thần Cái [16, tr.74-75]. Từ thực tế cuộc sống, con người
không thể tách khỏi môi trường tự nhiên. Ngay từ thời xa xưa, các hiện tượng
của tự nhiên đã có những ảnh hưởng vô cùng lớn đến cuộc sống của họ. Từ
các hiện tượng mưa, bão gây ra những trận lụt lội, gây ra bệnh tật, cuốn trôi
gia súc, của cải, cho đến sự tàn phá chính cuộc sống của con người. Bất lực
trước sức mạnh thần bí đó, con người tin rằng, do sự trừng phạt của thần trong
dòng nước, sinh ra thờ thần nước. Những trận cuồng phong, những luồng sấm
sét làm lở núi, chết người, lại càng khiến con người khiếp sợ… và họ cho
139
rằng, có lực lượng thiêng liêng nào đó gây ra, từ đó sinh ra việc thờ các vị
thần như Trời, Núi, Cây… Sự hùng vĩ của những cánh rừng, sự âm u, mịt mù
của đồi núi cũng khiến con người ta hoảng sợ, sinh ra thờ thần, trong đó có
hiện tượng thờ Mẫu Sơn Lâm, Mẫu Thượng Ngàn. Bàn về điều này, Nguyễn
Đăng Duy cho rằng, do “trình độ văn hóa khoa học còn thấp kém, con người
không thể giải thích được vì sao lại có sự thất bại hay thành công ấy, con
người tưởng tượng ra một lực lượng vô hình nào đó “tài giỏi” hoặc “hung ác”
tác động vào sự thành công hay thất bại ấy, con người sinh ra sợ hãi hoặc kính
phục lực lượng vô hình ấy, dẫn đến tôn thờ… thần linh xuất hiện” [16, tr.73-
74]. Trình độ nhận thức hạn chế, khiến người ta không thể biết được rằng,
hiện tượng mưa là do sự bốc hơi của nước, lên không trung, gặp lạnh, ngưng
tụ tạo thành mưa. iện tượng gió là do sự chuyển động của các khối khí, hay
hiện tượng sấm sét là do hiện tượng phóng điện của các đám mây tích điện
trái dấu… Tất cả sự nhận thức về thế giới xung quanh họ thực chất là sự nhận
thức và giải thích trên cơ sở nguồn gốc và bản chất của các vị thần, thánh.
Ở thời kì sơ khai đó, xuất phát từ việc quan sát trực tiếp các hiện tượng
của tự nhiên, nên sự nhận thức mang tính chất chất phác, thể hiện lối tư duy
trực quan, cảm tính duy tâm về thế giới. Trong tâm thức của họ, bầu trời rộng
lớn là nơi có các vị thần, thánh ngự trị và cai quản. Đó là Mẫu Thượng Thiên,
là các vị Tứ Pháp là các Chầu Ông, Chầu Bà… Vùng núi rừng âm u, mịt mù
là thế giới của các vị thần, thánh đại diện cho miền rừng núi như Sơn Thần,
Mẫu Thượng Ngàn, Bà Chúa Sơn Lâm. Vùng nước thì có thần Hà Bá cai
quản, có Mẫu Thoải đứng đầu cùng với các vị cận thần theo hầu Thánh Mẫu.
Trong tâm thức dân gian, đâu đâu cũng là sự hiển linh của các vị thần. Để có
được thời tiết thuận hòa, mùa màng bội thu, con người và vật nuôi yên ổn thì
họ cần phải tôn kính và biết ơn các vị thần, thánh.
140
Do ảnh hưởng của các yếu tố Nho, Phật, Đạo, đặc biệt là các yếu tố của
Đạo giáo, các yếu tố của tự nhiên được giải thích thông qua sự tồn tại của các
vị thần. Các vị thần, thánh đó tồn tại bất tử. Chẳng hạn, Mẫu Thượng Thiên là
sự hóa thân của Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Theo truyền thuyết, bà tái sinh nhiều
lần: từ Nho giáo, họ cho Mẫu Liễu từ con vua cha trên trời giáng xuống (Nho
giáo đề cao mệnh trời) được mẹ đất nuôi dưỡng… Cũng từ Nho giáo mà họ
cho Mẫu Liễu tài hoa văn học… Từ Phật giáo mà họ cho Mẫu Liễu luân hồi
hóa kiếp mấy lần, hay như Mẫu Liễu được Phật Bà Quan Âm cứu thoát khi bị
mắc mưu sa lưới, hay Mẫu hóa thành bà già, chữa thuốc cứu độ chúng sinh…
Từ Đạo giáo thần tiên mà Mẫu Liễu là Tiên từ trên trời giáng xuống và trường
sinh bất tử… Từ Đạo giáo phù thủy mà Mẫu Liễu thần thông hóa phép…
thoắt ẩn, thoắt hiện… [16, tr.176].
Như vậy, có thể thấy, các yếu tố triết học trong quan niệm về tự nhiên
trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng Đồng bằng Bắc Bộ thể hiện
thế giới quan duy tâm trong cách nhìn nhận và giải thích về thế giới. Các yếu
tố của tự nhiên là sự hiện thân của các vị thần chứ không phải tự thân nó tồn
tại, vận động và phát triển theo quy luật vốn có của nó. Bên cạnh đó, xét về
mặt nhận thức luận, thông qua các quan niệm về tự nhiên trong tín ngưỡng
dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ cho thấy sự nhận thức về các
yếu tố của tự nhiên thực chất là sự nhận thức về thế giới các vị thần, thánh.
Nhận thức để tôn sùng họ, cầu mong các vị thần, thánh che chở cho con
người, tránh được các trận thiên tai, địch họa, cầu mong sự sinh sôi nay nở do
mẹ thiên nhiên ban phát. Tự nhiên vốn đã kì vĩ và chứa nhiều điều bí ấn, song
thông qua lăng kính của tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng
Bắc Bộ nó càng trở nên thần bí, ảo lấn át thực, thần lấn át người.
141
4.2.2. Tính chất duy tâm trong các quan niệm về con người
Thứ nhất, xét về mặt nguồn gốc, cấu tạo con người, tín ngưỡng dân
gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ thừa nhận sự sáng tạo ra con
người bởi các vị thần, thánh. Tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ
cho rằng, con người được cấu tạo từ hai phần thể xác và linh hồn. Sự kết hợp
của thể xác và linh hồn không phải là ngẫu nhiên, mà do sự sắp đặt của một vị
thánh, thần cai quản số mệnh quyết định. Người ta ngầm hiểu, số phận của
mình luôn được định đoạt từ trước. Do vậy, ai giàu, ai nghèo, ai sướng, ai khổ
là do số mệnh. Mọi hành động, sự nỗ lực, cố gắng của họ trong cuộc sống chỉ
giúp họ giảm bớt đi phần nào những số phận hẩm hiu. Do đó, họ mong cầu
cuộc sống an nhiên ở một thế giới huyền ảo - thế giới vô hình, mà người sống
chưa có ai một lần chạm chân tới. Sự nhận thức đó khiến con người ta trở nên
bị động, ỉ lại vào số phận, vào một lực lượng siêu nhiên nào đó mà họ cho
rằng đó là vị thần đã có công tạo ra họ. Chẳng hạn như, trong tín ngưỡng thờ
Mẫu, quan niệm cho rằng, mỗi một người được sinh ra là do một bà chúa độ
mạng. Bà chúa độ mạng được gọi nôm na là mẹ sanh, mẹ độ; đó là các nữ
thần quen thuộc trong tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Bắc Bộ. Tùy
theo hằng tâm của người phụ nữ mà chọn nữ thần độ mạng cho mình. Các Bà
độ mạng được thờ trong gia đình gồm một trong số: Mẹ Thai Sinh, Chúa Tiên
nương nương; Linh Sơn Thánh mẫu; Thiên Hậu, Cửu Thiên Huyền Nữ, Địa
mẫu, Quan Âm Bồ tát... Tin vào điều đó, họ thờ các vị thần cai quản bản
mệnh với niềm hi vọng sẽ được họ che chở, nâng đỡ, thay đổi số phận của
mình, mà không tự ý thức được việc thay đổi sô phận là do chính từ hoạt động
thực tiễn cải tạo bản thân. Nhiều gia đình đã tốn kém không biết bao nhiêu
tiền của để tổ chức mở phủ, hầu đồng. Vì họ nghĩ rằng, người thân của họ có
số phải hầu thánh, phục vụ thánh. Nhiều người tin vào lời bói toán của các
đồng cô, đồng cậu về số phận của cuộc đời mình, khiến họ trở nên thụ động
142
với chính cuộc đời. Như vậy, nhận thức sai lệch về nguồn gốc con người là
nguyên nhân dẫn tới hiện tượng mê tín, dị đoan trong đời sống văn hóa tinh
thần của người dân, nhất là khi bị lợi dụng để “buôn thần, bán thánh”, hù họa
người dân để trục lợi.
Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của Phật giáo, tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ cho rằng, con người được sinh thành là
kết quả của hành động tốt xấu của cha mẹ họ khi trước. Do vậy, theo Nguyễn
Đăng Duy, “tôi tồn tại đây là tôi đang mang cái cha mẹ tôi định sẵn để lại…
cái nghiệp tôi mang đây đã được báo trước từ cha mẹ tôi, và cũng là cái báo
sắp tới của con tôi, vì thế gọi là nghiệp báo” [16, tr.408]. Đây chính là quan
niệm duy tâm chủ quan về cuộc đời con người. Bởi theo quan niệm đó, thì
những điều tốt xấu ở trong mỗi con người đã được định sẵn từ trước, chỉ có tu
tâm, tích đức mới mong được giải thoát. Điểm tích cực ở đây là nó nhấn mạnh
đến sự tự tu dưỡng đạo đức của con người, nhưng mặt trái ở đây là nó đã
khiến con người trở nên thụ động, tin vào định mệnh. Đôi khi, trong cuộc
sống gặp điều trắc trở thất bại, người ta chỉ biết than thân, trách và họ chấp
nhận điều đó như một lẽ tự nhiên.
Thứ hai, xét về mặt nhân sinh quan, tín ngưỡng dân gian của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ thừa nhận sự tồn tại của số phận con người,
đồng thời thừa nhận sự tồn tại của một thế giới vô hình sau khi con người chết
đi. Và với họ, đó mới là cuộc sống vĩnh hằng, bởi vì “sống gửi, thác về”. Số
phận của con người là khác nhau do phúc ấm gia tiên, do nghiệp từ tiền kiếp,
hoặc do thần thánh tạo nên. Cuộc sống sau khi chết được dân gian thêu dệt
nên trong nhiều những câu chuyện huyễn hoặc. Nào là khi chết phải đi qua
nhiều cửa ải. Cứ chiểu ở trần thế mắc những tội gì, thì xuống đó phải chịu sự
trừng phạt của Diêm Vương. Thậm chí, có họ quan niệm rằng, người ăn ở bạc
ác, thất đức… bị đày xuống mười tám tầng địa ngục, vĩnh viễn không được
143
đầu thai kiếp người. Chính sự hiểu biết sai lệch đó, càng khiến họ sợ hãi trước
cái chết, sợ hãi trước sự tồn tại vô hình của thần linh. Niềm tin vào cái thiêng
bị lợi dụng, đẩy tới mức cực đoan, đôi khi khiến họ mất phương hướng trong
hoạt động thực tiễn. Cũng như quan điểm của đạo Thiên Chúa, bản chất con
người là kẻ có tội, hay quan điểm của đạo Phật, cuộc đời con người là bể khổ,
còn Đạo giáo hướng con người tới cuộc sống bất tử ở cõi bồng lai tiên cảnh…
càng khiến con người trở nên thụ động trước cuộc đời đầy biến động.
Niềm tin vào số phận của con người được tạo nên bởi một vị thần linh
thiêng cai quản đã khiến cho người dân tin tưởng thái quá dẫn đến làm bùng
nổ không ít các hiện tượng mê tín, dị đoan. Bàn về điều này, Nguyễn Đức Lữ
viết, “niềm tin phi khoa học khi đi quá ngưỡng của nó trở thành niềm tin mù
quáng, khiến con người dễ dàng đi đên những hoạt động mù quáng” [66,
tr.162]. Thực tế đã xảy, khi người ta bị bệnh, chữa trị khắp các bệnh viện
không khỏi, khiến người ta nghĩ ngay đến việc bị thần linh, thánh thần trách
phạt. Nhiều gia đình không ngần ngại bỏ ra cả núi tiền để thực hiện lập đàn
chữa bệnh, hầu đồng để giải trừ tai ương. Trong làm ăn, may rủi là điều khó
tránh khỏi. Chính vì lẽ đó, khiến họ càng tin theo sức mạnh vô hình của các
đấng thiêng, làm cho hoạt động buôn thần bán thánh ngày càng trở nên nở rộ.
Hoạt động thương mại hóa các hoạt động tín ngưỡng dân gian đã khiến cho
nó mất đi bản chất tốt đẹp.
Đối vơi phương Tây, vấn đề về vũ trụ quan được đưa lên hàng đầu, thì
đối vơi người phương Đông nói chung và người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
nói riêng, họ coi trọng vấn đề về nhân sinh. Việc hiểu con người, truy tìm bản
chất con người được đặt ra ngay từ buổi sơ khai của lịch sử dân tộc. Niềm tin
vào linh hồn, sự tồn tại của thế giơi bên kia hay niềm tin vào sức mạnh của
một vị thần sáng tạo số phận của con người đã ăn sâu bén rễ vào tâm thức của
mỗi người dân Việt.
144
Cho đến ngày nay, khoa học vẫn chưa phát triển để có thể lý giải hết tất
cả mọi ngóc ngách của vũ trụ, của con người. Cuộc sống của con người vẫn
chịu nhiều rủi ro, bất trắc, vẫn chịu những tai họa không thể lường trước. Do
vậy, họ vẫn tin vào cách giải thích trong tín ngưỡng dân gian về cuộc đời của
họ, và coi đó là nơi để họ có thể tìm được sự cứu cánh khi họ vấp ngã trên
đường đời. Đó cũng là nguyên nhân chính dẫn đến sự xuất hiện của không ít
những kẻ chuyên giả mạo, lừa bịp để thực hiện những chiêu trò buôn thần,
bán thánh, lừa bịp quần chúng nhân dân, đội lốt dưới danh nghĩa ông đồng bà
cốt đi làm việc thiện cứu người. Về vấn đề này, dân gian đã từng tự chế giễu
mình: “Ăn trộm ăn cướp thành Phật thành tiên. Đi chùa đi chiền bán thân bất
toại”, hoặc “hòn đất mà biết nói năng, thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn”.
Thế nhưng, mỗi khi bế tắc do bất lực trước những vấn đề phức tạp nảy sinh
trong cuộc sống, người dân lại tin vào bói toán, cúng bái. Đó là những mâu
thuẫn thường nhật trong đời sống của con người.
4.2.3. Tính chất duy tâm trong các quan niệm về xã hội
Bức tranh về xã hội được dựng lại với muôn hình màu sắc, phản chiếu
mọi khía cạnh của xã hội được biểu hiện trong tín ngưỡng dân gian của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Mặt tích cực phản ánh ước mơ, nguyện vọng
chính đáng của người dân, đặc biệt là của người nông dân. Mặt tiêu cực phản
chiếu ước vọng của người dân một cách hoang đường, thần bí, mang nặng
tính chất duy tâm về xã hội. Bàn về điều này, Phan Kế Bính cho rằng, “xem
như các nước Âu châu, trừ ra thờ Giáo tổ là để tỏ lòng kỷ niệm, còn không có
thờ đến thần thánh nào, không phải nhờ đến sức âm phù mặc hộ bao giờ, vậy
sao mà nước nào cũng thịnh vượng, dân nào cũng phú cường. Mà Á Đông
này thờ thần thành kính là thế, sao thần lại chẳng phù hộ cho giàu mạnh bằng
các nước đi? Một lẽ ấy đủ làm chứng cho ta tin nhảm ” [7, tr.98]. Tuy nhiên,
đây không chỉ là lý do nhận thức đơn giản mà còn là lý do lịch sử và văn hóa.
145
Một câu hỏi lớn đặt ra là, liệu không có tín ngưỡng dân gian thì văn hóa Việt
Nam sẽ như thế nào? Liệu truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta có được bảo lưu
và phát triển nếu không có tín ngưỡng dân gian? Ở phần trên, luận án đã
khẳng định những giá trị tích cực của các yếu tố triết học trong tín ngưỡng
dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những giá trị đó góp phần
khẳng định vai trò và vị thế của tín ngưỡng dân gian trong đời sống văn hóa
của dân tộc. Mặc dù vậy, ở đây cũng cần chỉ rõ một số điểm hạn chế trong các
quan niệm về xã hội và sự ảnh hưởng của nó đối với đời sống của con người.
Thứ nhất, các quan niệm về xã hội trong tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ bị bao phủ, bị khoác lên một thứ niềm tin
thần bí, khiến con người trở nên thụ động, mong cầu vào sự thiêng liêng nào
đó. Niềm tin về sự thiêng liêng của thần thánh của người Việt do ảnh hưởng
không nhỏ của Đạo giáo thần tiên, cầu trường sinh bất tử đã khiến con người
trong xã hội trông mong về phép màu thiêng liêng. Họ dựng lên hình ảnh các
vị thánh bất tử với niềm hi vọng được giải thoát ở một cõi linh thiêng nào đó,
mà không phải là cuộc sống hiện tại. Hiện tượng tín ngưỡng thờ Tứ bất tử
được dựng lên là do vào khoảng thế kỉ XVI trở đi, khi Mạc Đăng Dung thoán
ngôi nhà Lê, xã hội phong kiến nước ta rơi vào bế tắc. Các tôn giáo ngoại lai
ngự trị từ bây lâu nay như Phật Giáo, Đạo Giáo đã không đủ sức mạnh để
mang lại niềm tin giải thoát cho con người. Trong khi đó, nhà nước trọng
dụng tư tưởng của đạo Nho - với tư tưởng “dĩ nông vi bản”, trọng nông ức
thương đã khiến cho nền kinh tế xã hội đương thời càng trở nên kém phát
triển. Nhân dân quanh quẩn trong cái vòng kinh tế nông nghiệp bị chiến tranh,
dịch bệnh, thiên tai. Xã hội đầy rẫy bất công, nông dân bị ức hiếp, kèm theo
đói khổ triền miên càng khiến con người mong muốn tìm được một niềm tin
linh thiêng làm chỗ dựa tinh thần cho họ. Họ cần một sức mạnh siêu nhiên từ
những người những vị thánh thần. Xuất phát từ chính nhu cầu đó, dân gian
146
dựng lên hình ảnh về các vị thánh bất tử - là nơi gửi gắm khát khao được giải
thoát khỏi khổ ải trần gian. Thế nhưng, những khát khao đó chỉ là những ước
vọng có được một cuộc sống tốt đẹp ở một thế giới siêu hình nào đó mà
dường như chưa ai chạm chân tới.
Xã hội bất công, các quan lại triều đình chỉ lo cho túi tiền của họ, mặc
cho dân tình đói khổ. Chiến tranh liên miên, thiên tai, địch họa, quân xâm
lược liên tục lăm le xâm lược nước ta. Gánh nặng chồng chất lên đôi vai
người dân. Họ không còn đủ sức tin vào tầng lớp cầm quyền. Cuộc sống đói
khổ, chết chóc, bệnh tật, bất công đã khiến họ mơ về một xã hội tốt đẹp hơn -
đó là nơi họ tìm đến là sự linh thiêng của các vị thần. Thiên tai lũ lụt khiến họ
tin vào sức mạnh của Tản Viên Sơn Thánh. Kinh tế kém phát triển, họ mong
muốn phá vỡ vòng vây kinh tế, họ gửi gắm ước mơ vào một lực lượng siêu
nhiên Chử Đồng Tử - theo sách Lĩnh Nam Chích Quái, đó là người mở mang
thương nghiệp. Đất nước bị xâm lược, họ mong muốn được độc lập, nên đã
dựng lên hình ảnh vị Thánh Gióng với sức mạnh phi thường giúp họ thỏa khát
vọng, niềm tin chiến đấu chiến thắng mọi kẻ thù. Đó là những khát vọng
chính đáng của người dân. Họ muốn thay đổi cuộc đời của họ, nhưng đó
không phải là sự thay đổi bằng cách lao động, cải tạo hiện thực cuộc sống mà
bằng cách dựa vào một lực lượng siêu nhiêu, mong cầu ở đó sự che chở, giúp
đỡ.
Bên cạnh đó, các quan niệm về xã hội trong tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng Đồng bằng Bắc Bộ còn là sự biểu hiện của việc lợi dụng sự
linh thiêng của các vị thần, thánh để các tầng lớp thống trị trong xã hội đương
thời dễ bề cai quản nhân dân. Bàn về điều này, Nguyễn Đức Lữ viết, “Tín
ngưỡng Thành hoàng làng trước hết xuất phát không phải vì lợi ích của thứ
“dân” nơi bỉ dã, ngược lại nó góp phần làm thiêng liêng hơn vị thế và quyền
uy của hạng người đứng ở tầng lớp trên của xã hội” [66, tr.123]. Vấn đề ở đây
147
đặt ra là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ xuất
hiện từ rất sớm, những tới thời phong kiến, nó phát triển mạnh mẽ nhất. Hiện
tượng thờ cúng, các sinh hoạt tín ngưỡng diễn ra thường xuyên ở các vùng
quê, không chỉ thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người, mà ở đó còn ẩn
chứa ngụ ý sử dụng thần, thánh để dễ bề cai quản thứ dân. Nói như nhận định
của Nguyễn Duy inh thì, “Thành hoàng đại diện cho vua thường được
phong tước vương, quản lý phần hồn; lý trưởng đại diện cho vua cai quản
phần xác của dân làng” [33, tr.57].
Như vậy, bên cạnh những giá trị tích cực trong quan niệm về xã hội
trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là những
hạn chế. Niềm tin mãnh liệt của con người vào sức mạnh siêu nhiên đã khiến
cho họ trở nên bị động, mong cầu vào sự che chở của các vị thần hơn là lao
động để thay đổi số phận, thay đổi cuộc đời. Tín ngưỡng dân gian của người
Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ dựng nên một bức tranh đa dạng, phong phú về
các mối quan hệ xã hội mà ở đó ảo lấn át thực, thần lấn át người, mang đầy
tính duy tâm, thần bí về xã hội.
Tiểu kết chƣơng 4
Các yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ mang nhiều giá trị, đồng thời cũng có nhiều hạn chế. Các
giá trị tích cực trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc
Bộ phản ảnh tư duy sắc sảo của người Việt về tự nhiên, con người và xã hội,
góp phần định hướng, điều chỉnh hành vi, hướng thiện cho con người, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân, để cùng hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn.
Đồng thời, thông qua các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian, đề cao ý thức hướng
về cội nguồn, khơi dậy lòng biết ơn đối với thế hệ đi trước. Bên cạnh những
giá trị tích cực là những hạn chế của các yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân
148
gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đó là hạn chế trong các quan
niệm về tự nhiên, quan niệm về con người và quan niệm về xã hội. Có thể
nhận thấy rõ nét trong thế giới quan của người Việt được phản ánh trong tín
ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ đều mang màu sắc duy tâm, thần bí,
thể hiện trình độ nhận thức hạn chế mang tính kinh nghiệm, cảm tính. Cách
họ giải thích về tự nhiên, về con người và xã hội đều dựa trên những huyền
thoại có nguồn gốc dân gian. Xã hội và các mối quan hệ xã hội bị bao phủ bởi
màu sắc của thần linh. Do vậy, trên cơ sở nghiên cứu các yếu tố triết học
trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, rút ra
những giá trị và hạn chế của nó, góp phần không nhỏ trong việc định hướng
hoạt động tín ngưỡng dân gian của vùng đồng bằng Bắc Bộ.
149
KẾT LUẬN
Trên cơ sở nghiên cứu những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian
của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, tác giả có một số kết luận chung cơ
bản sau:
Một là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là
một bộ phận của văn hóa dân gian Việt Nam, là yếu tố cơ bản của hình thái ý
thức xã hội, là một hiện tượng mang tính xã hội - lịch sử. Được hình thành
trên cơ sở của các yếu tố về điều kiện địa lý - tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã
hội, lịch sử, văn hóa và chịu sự ảnh hưởng, tác động của các yếu tố văn hóa,
tư tưởng đã làm cho tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc
Bộ vừa có những đặc điểm chung vừa có những đặc điểm riêng có của vùng.
Đặc biệt, khi các tôn giáo du nhập vào nước ta, tín ngưỡng dân gian của người
Việt đã có sự dung hợp cả những yếu tố tiêu cực và tích cực. Yếu tố tích cực
khiến cho tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được
nâng lên một tầm cao mới cả về nội dung và hình thức. Yếu tố tiêu cực khiến
cho tín ngưỡng dân gian càng tăng thêm tính huyền bí và càng làm gia tăng
yếu tố mê tín dị đoan. Do vậy, có thể thấy rằng, trong suốt quá trình tồn tại,
tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đông bằng Bắc Bộ có sự biến đổi
không ngừng để tồn tại và phù hợp với nhu cầu của thực tiễn trên cả hai bình
diện tích cực và tiêu cực.
Hai là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ
chứa đựng nhiều yếu tố triết học. Nổi bật trong số đó là các quan niệm về tự
nhiên, về con người và về xã hội. Quan niệm về tự nhiên được phản ánh trong
tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ biểu hiện trong
việc giải thích về các yếu tố gắn liền với phương thức sản xuất nông nghiệp
của người dân. Đó là các yếu tố trời, đất, nước, cỏ cây,.. Tự nhiên được phản
ánh phong phú đa dạng, nhiều vẻ thông qua biểu tượng về sự tồn tại của các
150
vị thần linh cai quản từng vùng. Bên cạnh các yếu tố về tự nhiên, yếu tố con
người cũng được phản ánh rõ nét, sinh động trong tín ngưỡng dân gian của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trong tín ngưỡng dân gian, con người
đều có hai phần là thể xác và linh hồn; con người được sinh ra, tồn tại và mất
là do sự cai quản của các vị thần nắm giữ vận mệnh. Trong quan niệm về xã
hội, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ phản ánh xã
hội như một bức tranh sống động về thế giới các vị thần. Bức tranh đó phản
ánh xã hội đương thời sâu sắc. Đó là ước mơ bình quyền, giải phóng người
phụ nữ, là ý thức về dân tộc và độc lập chủ quyền, là tinh thần đoàn kết đấu
tranh chống giặc ngoại xâm. Bên cạnh đó, tín ngưỡng dân gian của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ còn phản ánh bức tranh chung về cộng đồng làng, xã.
Đó là sự cố kết cộng đồng, là nơi hình thành nên những chuẩn mực về đạo
đức, lối sống trọng tình, trọng nghĩa. Nó không chỉ phản ánh hiện thực cuộc
sống của nhân dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, mà nó còn góp phần điều chỉnh
hành vi của con người, hướng con người tới những giá trị nhân văn cao cả, tới
bến bờ của chân - thiện - mĩ.
Ba là, các yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt
vùng đồng bằng Bắc Bộ chứa đựng nhiều giá trị đồng thời cũng có nhiều yếu
tố hạn chế, có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh thần của nhân dân
vùng đồng bằng Bắc Bộ. Qua nghiên cứu cho thấy, giá trị tích cực của các
yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc
Bộ mang lại nhiều đóng góp cho xã hội. Nó góp phần định hướng nhận thức,
gắn kết cộng đồng, góp phần tô đẹp thêm giá trị nhân văn trong văn hóa của
người Việt. Đồng thời, sự tồn tại của tín ngưỡng dân gian góp phần gìn giữ
những giá trị bản sắc văn hóa riêng của người Việt. Tuy nhiên, các yếu tố triết
học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ mang
màu sắc duy tâm nên cần phải chú ý khắc phục những tác động tiêu cực của
151
nó. Vì, một mặt nó sẽ khiến con người trở nên thụ động, trông chờ vào sức
mạnh siêu nhiên; mặt khác, nó là ngọn nguồn của sự xuất hiện các hiện tượng
mê tín, dị đoan, buôn thần bán thánh, thương mại hóa các hoạt động tín
ngưỡng dân gian của vùng.
Do vậy, nghiên cứu các yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của
vùng đồng Bằng Bắc Bộ có ý nghĩa cấp thiết, góp phần bảo tồn và phát huy
những giá trị tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực, gạn đục, khơi trong,
góp phần trong việc xây dựng thành công đời sống văn hóa mới trong thời kì
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa về hội nhập quốc tế hiện nay.
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
[1]. Nguyễn Thị Cẩm Tú (2018), “Quan niệm về vai trò của người phụ nữ
trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Tuyển
tập Hội nghị Khoa học thường niên, Trường Đại học Thủy Lợi.
[2]. Nguyễn Thị Cẩm Tú (2018), “Quan niệm về tự nhiên trong tín ngưỡng
dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí Khoa học xã hội,
số 3, 2018, tr.82-90.
[3]. Nguyễn Thị Cẩm Tú (2017), “Quan niệm về con người trong tín ngưỡng
dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí Công tác Tôn
giáo, số 10 (134), 2017, tr.19-20;32.
[4]. Nguyễn Thị Cẩm Tú (2017), “Các yếu tố ảnh hưởng đến tín ngưỡng dân
gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt
Nam, số 6 (115), 2017, tr.32-39.
[5]. Nguyễn Thị Cẩm Tú (2016), “Tín ngưỡng dân gian trong đời sống tinh
thần của người Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (106),
2016, tr.71-75.
[6]. Nguyễn Thị Cẩm Tú (2015), “Ảnh hưởng của tín ngưỡng dân gian đến
đời sống tinh thần của người dân tỉnh Thái Bình hiện nay”, Tạp chí Công tác
Tôn giáo, số 1+2 (101,102), 2015, tr.78-82.
[7]. Nguyễn Thị Cẩm Tú (2013), “Giá trị nhân văn từ những lễ hội dân gian ở
tỉnh Thái Bình”, Nội san Nghiên cứu và trao đổi, trường Chính trị tỉnh Thái
Bình, 2013, tr.22-24.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb. Văn hoá thông
tin, à Nội.
2. Thái Văn Anh (2015), “Tín ngưỡng, tôn giáo và niềm tin tôn giáo ở Việt
Nam dưới góc độ Tâm lý học”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 3,
tr.89-98.
3. Toan Ánh (1991), Phong tục Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.
4. Toan Ánh (1992), Nếp cũ - Tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng, Nxb.
Thành phố ồ Chí Minh.
5. Toan Ánh (2005), Nếp cũ: Văn minh đồng ruộng, hội hè đình đám, Tết lễ
khao vọng, Con người Việt Nam, Nxb. Trẻ, Thành phố ồ Chí Minh.
6. Nguyễn Chí Bền (1999), Văn hoá dân gian Việt Nam, những suy nghĩ…,
Nxb. Văn hoá dân tộc, à Nội.
7. Phan Kế Bính (2014) Việt Nam Phong Tục, Nxb. Văn học, à Nội.
8. Bộ giáo dục và đào tạo (2003), Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb.
Chính trị quốc gia, à Nội.
9. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập (1994), t.20, Nxb. Chính trị quốc gia,
à Nội.
10. C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập (1998), t.46, ph.I, Nxb. Chính trị Quốc
gia, à Nội.
11. Paul Doumer (2016), Xứ Đông Dương, Nxb.Thế giới.
12. Trần Quang Dũng (2017), Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ - chốn thiêng nơi
cõi thực, Nxb. Thế giới, 2017.
13. Vũ Dũng (1998), Tâm lý học tôn giáo, Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.
14. Nguyễn Đăng Duy (1996); Văn hóa tâm linh, Nxb. à Nội, à Nội.
15. Nguyễn Đăng Duy (2000), “Cần đính chính lại cách gọi tín ngưỡng dân
gian”, Nghiên cứu tôn giáo, số 1, tr.65-66.
16. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam,
Nxb. Văn hoá thông tin, à Nội.
17. Nguyễn ồng Dương (2010), “Một số vấn đề Tôn giáo ở Việt Nam”, Tạp
chí Nghiên cứu Tôn giáo, 85 (7), tr.14.
18. Trần Đức Dương (2010), “Phát huy những giá trị tích cực trong tín ngưỡng
thờ cúng Tổ tiên hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, 80 (2), tr.36-40.
19. Đại Việt sử kí toàn thư (1968), tập 4, bản dịch Viện Sử học, Nxb. Khoa
học xã hội, à Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, BCH TƯ
khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, à Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, BCH TƯ
khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, à Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, à Nội, tr.122-123.
23. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, à Nội , tr.51, tr.81, tr.245
24. Trần uy Đĩnh, Vũ Quang Liễn, Phạm Vũ Đỉnh, Vũ Quang Dũng (sưu
tầm) (2012), Sự tích Thành Hoàng làng ở Phú Xuyên, Hà Nội, Nxb. Lao
động, à Nội.
25. Phạm văn Đồng (1994), Văn hoá và đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, à
Nội.
26. Phạm Duy Đức (chủ biên) (2010), Phát triển văn hóa Việt nam giai đoạn
2011 - 2020: Những vấn đề phương pháp luận, xuất bản lần thứ 2, Nxb.
ành chính Quốc gia, à Nội.
27. Phạm Minh Đức, Bùi Duy Lan (2005), Nữ Thần và Thánh Mẫu Thái Bình,
Nxb. Văn hoá thông tin, à Nội.
28. Trần Văn Giàu (1996), Sự phát triển của hệ tư tưởng Việt Nam từ thế kỉ
XIX đến cách mạng tháng Tám, Hệ ý thức phong kiến và sự hất bại của nó
trước các nhiệm vụ lịch sử, tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, à Nội.
29. Nguyễn Thị Lệ à (2017), “Các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam
thời kì hội nhập quốc tế”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (6), tr.82-91.
30. Nguyễn ùng ậu (2004), Triết lý trong văn hóa phương Đông, Nxb. Đại
học Sư phạm, à Nội.
31. Nguyễn ùng ậu (2010), Đại cương lịch sử triết học Việt Nam, Nxb.
Chính trị Quốc gia, à Nội.
32. Nguyễn Duy inh (1996), Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam, Nxb. Khoa
học xã hội, à Nội.
33. Nguyễn Duy inh (2004), “Thần làng và Thành hoàng”, Tạp chí Di sản
văn hóa, số 9, 2004, tr.56-63.
34. Lê Như oa (2001), Tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa
thông tin, à Nội.
35. Nguyễn Thị Anh oa (2011), “Tín ngưỡng dân gian vùng châu thổ Bắc Bộ
dưới góc nhìn du lịch học”, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 4 (37), tr.74-77.
36. ội đồng Trung Ương chỉ đạo biên soạn giáo trình chuẩn quốc gia (2004),
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Chính trị quốc gia, à Nội.
37. ội đồng Trung Ương chỉ đạo biên soạn giáo trình chuẩn quốc gia các
môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng ồ Chí Minh (2004), Giáo trình
Triết học Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, à Nội.
38. ội đồng Trung Ương chỉ đạo biên soạn giáo trình chuẩn quốc gia các
môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng ồ Chí Minh (2014), Giáo trình
Triết học Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, à Nội.
39. Nguyễn Văn uyên (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, Nxb.
Khoa học xã hội, à Nội.
40. Đặng Văn ường (2014), Tìm hiểu một số tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb.
Quân đội, à Nội.
41. Chu Hy (2009), Chuyện kể về làng quê người Việt, Nxb. Giáo dục, à
Nội.
42. Chu Hy (2010), Một số đền chùa nổi tiếng đất Thăng Long, Nxb. Phụ nữ,
à Nội.
43. Chu y, Nguyễn Như Ý (2011), Từ điển văn hóa phong tục cổ truyền Việt
Nam, Nxb. Giáo dục Việt Nam, à Nội.
44. Chu Hy (2012), Sổ tay kiến thức văn hóa dân gian Việt Nam, Nxb. Giáo
dục, tái bản lần thứ 2, à Nội.
45. Chu Hy (2014), Nếp quê xưa, Nxb. Phụ nữ, à Nội.
46. Nguyễn Thọ Khang (2013), “Đặc điểm và giá trị văn hóa của tín ngưỡng
dân gian ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 6, tr.27-32.
47. Đinh Gia Khánh, Lê ữu Tầng (chủ biên) (1994), Lễ hội truyền thống
trong xã hội hiện đại, Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.
48. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của
xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, à Nội.
49. Vũ Ngọc Khánh (1990), Lược truyện thần tổ các ngành nghề, Nxb. Khoa
học xã hội, à Nội.
50. Vũ Ngọc Khánh (1993), Tín ngưỡng làng xã, Nxb. Văn hóa dân tộc, à
Nội.
51. Vũ Ngọc Khánh (1995), Thờ cúng Thành hoàng làng ở đồng bằng Bắc Bộ,
Đề tài cấp bộ, Viện nghiên cứu Văn hóa dân gian, à Nội.
52. Vũ Ngọc Khánh (2000), Đền miếu Việt Nam, Nxb. Thanh niên, à Nội.
53. Vũ Ngọc Khánh, Mai Ngọc Chúc, Phạm ồng à (2002), Nữ thần và
Thánh Mẫu Việt Nam, Nxb Thanh niên, à Nội.
54. Vũ Ngọc Khánh (2007), Lễ hội Việt Nam, Nxb. Thanh niên, à Nội.
55. Vũ Ngọc Khánh (2014), Tục thờ Thành - Mẫu ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa
thông tin, à Nội.
56. Khoa Nhân học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (2008), Nhân học
đại cương, Nxb. Đại học Quốc gia TP ồ Chi Minh.
57. Lê Thị Lan (2017), “Vai trò của tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng
sông ồng”, Tạp chí khoa học xã hội, số 2 (111), tr.71-76.
58. Lênin (1979), Toàn tập, tập 17, Nxb. Tiến Bộ, Matxcova.
59. Thanh Lê (2003), Từ điển xã hội học, Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.
60. ồ Liên (2002), Đôi điều về cái thiêng và văn hóa, Nxb. Văn hóa dân tộc,
à Nội.
61. Nguyễn Thanh Lợi (2014), Tín ngưỡng dân gian: những góc nhìn, Nxb.
Thời đại, à Nội.
62. Nguyễn Thanh Lợi (2015), Theo dòng văn hóa dân gian, Nxb. Khoa học
xã hội, à Nội.
63. Đặng Văn Lung (1991), Tam tòa thánh Mẫu, Nxb. Văn hóa dân tộc, à
Nội.
64. Nguyễn Đức Lữ (2000), “Thờ cúng Tổ tiên - một hiện tượng xã hội có tính
phổ biến”, Tạp chí Sinh hoạt Lý luận số xuân Canh Thìn (1/2000), tr.56.
65. Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) (2005), Những đặc điểm cơ bản của một số tôn
giáo lớn ở Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, à Nội.
66. Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) (2007), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân
gian ở Việt nam, Nxb. Tôn giáo, à Nội.
67. Lê ồng Lý (2010), Tìm hiểu lễ hội Hà Nội, Nxb. à Nội, à Nội.
68. Lê ồng Lý (2017), “Vai trò của văn hóa phi vật thể trong phát triển bền
vững của Việt Nam hiện nay - nhìn từ lễ hội truyền thống”, Tạp chí Di sản
văn hóa, số 3 (60), tr.10-14.
69. Nguyễn Ngọc Mai (2011), Hiện tượng lên đồng trong bối cảnh mới
(nghiên cứu trường hợp ở đồng bằng Bắc Bộ), Viện hàn lâm Khoa học xã
hội, à Nội, luận án Tiến sĩ.
70. Doãn ữu Minh (2017), “Giá trị văn hóa của Thăng Long Tứ trấn”, Tạp
chí khoa học xã hội Việt Nam, số 8, tr.55-62.
71. ồ Chí Minh (2003), Về công tác tôn giáo, Nxb. Chính trị Quốc gia, à
Nội.
72. Nguyễn Văn Minh (2013), Tôn giáo, tín ngưỡng các dân tộc Việt Nam,
Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.
73. Nhiều tác giả (1999), Múa dân gian ở Thái Bình, Sở văn hoá thông tin
Thái Bình - Viện âm nhạc và múa Việt Nam.
74. Nhiều tác giả (2000), Hỏi và đáp về văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân
tộc, à Nội.
75. Nguyễn Tri Nguyên (2004) “Bản chất và đặc trưng của tín ngưỡng dân
gian trong lễ hội cổ truyền Việt Nam”, Tạp chí di sản và văn hóa, số 7,
tr.27-32.
76. Trần Thế Pháp (2017), Lĩnh nam chích quái, Nxb. Kim Đồng, à Nội.
77. ồ Sỹ Quý (2006), Về giá trị và giá trị châu Á, Nxb. Chính trị Quốc gia,
à Nội.
78. Trương ữu Quýnh (chủ biên) (2015), Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb.
Giáo dục Việt Nam, à Nội.
79. Nguyễn Minh San (1998), Tiếp cận tín ngưỡng dân giã Việt Nam, Nxb.
Văn hóa dân tộc, à Nội.
80. Trần Đăng Sinh, Đào Đức Doãn (2005), Giáo trình tôn giáo học, Nxb. Đại
học sư phạm à Nội, à Nội.
81. Trần Đăng Sinh (2002), Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia à
Nội.
82. à Văn Tăng, Trương Thìn (chủ biên) (1999), Tín ngưỡng và mê tín, Nxb.
Thanh niên, à Nội.
83. Nhất Thanh, Vũ Văn Khiêu (1992), Đất lề quê thói - Phong tục Việt Nam,
Nxb. Đồng Tháp.
84. Nguyễn Thanh (1998), Nhận diện văn hoá làng Thái Bình, Sở văn hoá
thông tin và thể thao Thái Bình.
85. Nguyễn Thanh (2000), Lễ hội truyền thống ở Thái Bình, Nxb. Khoa học xã
hội, à Nội.
86. Phạm Minh Thảo, Trần Thị An, Bùi Xuân Mỹ (1997), Thành hoàng Việt
Nam, 2 tập, Nxb. Văn hoá Thông tin, à Nội
87. Đinh Ngọc Thắng (2015), “Quyền tự do tín ngưỡng trong pháp luật quốc
tế và pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, (3).
88. ồ Bá Thâm (2005), “Tín ngưỡng dân gian - một linh vực đời sống tâm
linh - rất cần sự quan tâm của toàn xã hội”, Nghiên cứu tôn giáo, (4), tr.9-
13.
89. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb.
Thành phố ồ Chí Minh.
90. Trần Ngọc Thêm (2011), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, à
Nội.
91. Trần Ngọc Thêm (chủ biên) (2016), Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống
đến hiện đại và con đường đi tới tương lai, Nxb. Văn hóa Nghệ thuật.
92. Trương Thìn (2005), Tôn trọng tự do tín ngưỡng và bài trừ mê tín dị đoan,
Nxb. Văn hóa thông tin, à Nội.
93. Ngô Đức Thịnh (1992), "Tục thờ Mẫu Liễu ạnh - một sinh hoạt tín
ngưỡng cộng đồng", Tạp chí văn học số 5 (275), tr.17 - 23.
94. Ngô Đức Thịnh, Văn hóa và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb. Khoa
học xã hội, 1993
95. Ngô Đức Thịnh (1996), Đạo Mẫu ở Việt Nam, tập 1;2, Nxb. Văn hoá
thông tin, à Nội.
96. Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt Nam,
Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.
97. Ngô Đức Thịnh (2001), Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc
người ở Việt Nam và Châu Á, Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.
98. Ngô Đức Thịnh (2007), Về tín ngưỡng và lễ hội, Nxb. Văn hóa thông tin,
à Nội.
99. Ngô Đức Thịnh (2008), Lên đồng, hành trình của thần linh và thân phận,
Nxb. Trẻ, à Nội.
100. Ngô Đức Thịnh (2010), Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, Nxb. Khoa học xã
hội, à Nội.
101. Ngô Đức Thịnh (2014), Tín ngưỡng và sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.
102. Ngô Đức Thịnh (2014), Giá trị văn hóa Việt Nam - truyền thống và
biến đổi, Nxb. Chính trị quốc gia, à Nội.
103. Nguyễn Thị Thọ (2017), “Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt”, Tạp
chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8, tr.48-55.
104. Nguyễn ữu Thông (chủ biên) (2001), Tục thờ Mẫu ở miền Trung Việt
Nam, Nxb. uế.
105. Nguyễn ữu Thụ (2012), “Về cơ sở hình thành và phát triển của tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí Nghiên
cứu Tôn giáo, số 1, tr.20-32.
106. Nguyễn ữu Thụ (2013), Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ
Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, Luận án Tiến sĩ Triết học, Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn, Đ QG à Nội.
107. Đinh Khắc Thuân (2014), “Thờ cúng Thành hoàng Việt Nam qua tài
liệu án nôm” Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4, tr.115-125.
108. Nguyễn Đăng Thục (1964), Tư tưởng Việt nam, Nxb. Khai trí, Sài
Gòn.
109. Đỗ Thị Minh Thúy (2010), “Biến động của tín ngưỡng Thăng Long -
à Nội và ảnh hưởng của nó trong đời sống văn hóa đô thị hiện nay”, Tạp
chí Nghiên cứu Tôn giáo, 86 (8), tr.33-39.
110. Trần Thị Ngọc Thúy (2010), “Tôn giáo là sự tự ý thức đã bị tha hóa của
con người”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, 86 (8), tr.3-6.
111. Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, T.I,
Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.
112. Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, Viện ngôn ngữ học (1992), Từ điển
Tiếng Việt, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn, à Nội.
113. Trần Quốc Tuấn (2015), Tín ngưỡng thờ thủy thần ở Hải Phòng. Luận
án tiến sĩ Văn hóa học, ọc viện Khoa học xã hội Việt Nam.
114. Lê Thanh Tùng (2012), Lễ hội cổ truyền cư dân ven biển Hải Phòng
và sự biến đổi trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ, Viện Văn hóa
nghệ thuật Việt Nam.
115. Tuyển tập tục ngữ ca dao Việt Nam (2001), Nxb. Văn học, à Nội.
116. T.Thích Thanh Từ (2005), Phật giáo trong mạch sống dân tộc, Nxb.
Tôn giáo, à Nội.
117. Nguyễn Minh Tường (2013), “Tín ngưỡng thờ Thành hoàng trong các
làng xã Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội, số 10 (71), tr.96-103.
118. Đặng Nghiêm Vạn (1996), Về tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam hiện nay,
Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.
119. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở
Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, à Nội.
120. Viện án Nôm (1991), Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb. Khoa
học xã hội, à Nội.
121. Lê Trung Vũ (1992), Lễ hội cổ truyền, Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.
122. Lê Trung Vũ, Lê ồng Lý (đồng chủ biên) (2005), Lễ hội Việt Nam,
Nxb. Văn hóa Thông tin, à Nội.
123. Nguyễn ữu Vui (chủ biên) (2004), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị
Quốc gia, à Nội.
124. Trần Quốc Vượng (1996), Theo dòng lịch sử, Nxb. Văn hóa, à Nội.
125. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb.
Đại học quốc gia, à Nội.
126. Lý Tế Xuyên (1960), Việt điện u linh tập, Nxb. Khai Trí, Sài Gòn, Bản
dịch của Lê ữu Mục.
127. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Bộ giáo
dục và đào tạo - Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam.
128. http://www.baogiaothong.vn/ky-2-dang-vien-hanh-nghe-me-tin-chinh-
quyen-khong-hay-d83968.html
129. http://www.24h.com.vn/an-ninh-hinh-su/nhung-vu-an-dau-xe-long-vi-
tin-loi-thay-boi-c51a921183.html
130. http://baophapluat.vn/xa-hoi/nhung-cai-chet-oan-uong-vi-tin-loi-thay-
boi-141922.html
131. https://vnexpress.net/tin-tuc/cong-dong/8-000-le-hoi-moi-nam-khien-
nguoi-viet-tut-hau-2952576.html