168
VIN HÀN LÂM KHOA HC XÃ HI VIT NAM HC VIN KHOA HC XÃ HI __________ NGUYỄN THỊ CẨM TÚ NHNG YU TTRIT HC TRONG TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN CỦA NGƢỜI VIT VÙNG ĐỒNG BNG BC BChuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS Mã s: 92.29.002 LUN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HC NGƢỜI HƢỚNG DN KHOA HC: PGS.TS. PHẠM DUY ĐỨC Hà Ni, 2018

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

__________

NGUYỄN THỊ CẨM TÚ

NHỮNG YẾU TỐ TRIẾT HỌC

TRONG TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN CỦA NGƢỜI VIỆT VÙNG

ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS

Mã số: 92.29.002

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM DUY ĐỨC

Hà Nội, 2018

Page 2: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết

quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và

chưa từng công bố ở bất cứ hội đồng khoa học nào, các thông tin trích dẫn

trong luận án đều được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, năm 2018

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Thị Cẩm Tú

Page 3: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

LỜI CẢM ƠN

Trước hết, NCS muốn bày tỏ lòng cảm kích và sự biết ơn sâu sắc đối với giảng

viên hướng dẫn PGS.TS Phạm Duy Đức đã giúp đỡ tận tình và làm việc với tất cả

tinh thần trách nhiệm, thầy đã có những ý kiến đóng góp quý báu, đồng thời sửa chữa

rất công phu để NCS hoàn thành được luận án của mình.

NCS xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến quý thầy, cô giáo trong khoa Triết học -

ọc Viện Khoa học xã hội, đặc biệt là GS.TS Phạm Văn Đức đã tạo mọi điều kiện

thuận lợi để NCS có cơ hội thực hiện niềm đam mê khoa học của mình. NCS xin

được bày tỏ lòng cảm ơn trân thành và sâu sắc đến các thầy cô giáo trong Hội đồng

khoa học, đã tận tình đóng góp ý kiến với tinh thần khách quan và khoa học để luận

án của NCS được hoàn thiện hơn.

NCS không thể thực hiện được sự nghiệp học tập của mình nếu như không có

sự ủng hộ và tạo điều kiện mọi mặt từ phía cơ quan công tác, vì thế NCS vô cùng biết

ơn sự giúp đỡ quý báu của Ban Giám hiệu Trường Đại học Thủy lợi. Đặc biệt là sự

ủng hộ và giúp đỡ kịp thời của TS. Tô Mạnh Cường - trưởng khoa Lý luận Chính trị,

cùng các thầy cô giáo trong khoa đã tạo mọi điều kiện thuận nhất để NCS hoàn thành

luận án của mình. Bên cạnh đó, NCS muốn bày tỏ lòng cảm kích và vô cùng biết ơn

tới sự giúp đỡ tận tình GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn – nguyên Viện trưởng Viện Triết

học Việt Nam, PGS. TS Bùi Văn Dũng - trường Đại học Vinh đã giúp cho NCS đạt

được sự thành công ngày hôm nay.

NCS không xem luận án này là một công trình cá nhân, mà đằng sau luôn là

sự giúp đỡ và chia sẻ của thầy cô, bạn bè, gia đình và sự hiện diện vắng mặt vô giá

của những người NCS không thể nhắc hết tên, đặc biệt là bố mẹ hai bên nội ngoại của

NCS, người chồng mà NCS yêu thương nhất, cùng cô con gái 6 tuổi đã luôn sát cánh

bên NCS, ủng hộ NCS, chia sẻ và bao dung với NCS trong suốt quá trình NCS hoàn

thành luận án.

Hà Nội, năm 2018

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Thị Cẩm Tú

Page 4: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1

Chương 1 ..................................................................................................................... 7

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN

ÁN ............................................................................................................................... 7

1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến một số vấn đề lý luận chung về tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ..................................... 7

1.1.1. Những công trình tiêu biểu bàn về khái niệm tín ngưỡng dân gian ............. 7

1.1.2. Những công trình tiêu biểu bàn về các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình

thành, tồn tại của tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ ......................... 11

1.1.3. Những công trình tiêu biểu bàn về một số loại hình tín ngưỡng dân gian

chủ yếu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ .................................................. 16

1.2. Tình hình nghiên cứu về những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ....................................................................... 27

1.2.2. Những công trình tiêu biểu bàn về các yếu tố triết học về con người trong

tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ............................. 30

1.2.3. Những công trình tiêu biểu bàn về các yếu tố triết học về xã hội trong tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ................................... 32

1.3. Những vấn đề cần tập trung giải quyết trong luận án .................................... 34

Chương 2 ................................................................................................................... 37

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN CỦA NGƯỜI

VIỆT VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ .................................................................... 37

2.1. Khái niệm tín ngưỡng dân gian ...................................................................... 37

2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành, tồn tại của tín ngưỡng dân gian của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ...................................................................... 40

2.2.1. Điều kiện địa lý - tự nhiên .......................................................................... 40

2.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ............................................................................ 44

2.2.3. Ảnh hưởng của sự giao lưu văn hóa ........................................................... 47

2.3. Phân loại và một số đặc điểm nổi bật của tín ngưỡng dân gian của người Việt

vùng đồng bằng Bắc Bộ ........................................................................................ 54

2.3.1. Cơ sở phân loại tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc

Bộ .......................................................................................................................... 54

2.3.2. Khái lược về một số tín ngưỡng dân gian chủ yếu của người Việt vùng

đồng bằng Bắc Bộ ................................................................................................. 56

2.3.3. Một số đặc điểm của tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng

Bắc Bộ ................................................................................................................... 65

2.4. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu của luận án ......................................................... 70

Page 5: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

Chương 3 ................................................................................................................... 74

QUAN NIỆM VỀ TỰ NHIÊN, VỀ CON NGƯỜI, VỀ XÃ HỘI TRONG TÍN

NGƯỠNG DÂN GIAN CỦA NGƯỜI VIỆT VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ ..... 74

3.1. Quan niệm về tự nhiên trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng

bằng Bắc Bộ .......................................................................................................... 74

3.1.1. Một số quan niệm về tự nhiên trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại .. 74

3.1.2. Nội dung một số quan niệm về tự nhiên trong tín ngưỡng dân gian của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ...................................................................... 76

3.2. Quan niệm về con người trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng

đồng bằng Bắc Bộ ................................................................................................. 94

3.2.1. Một số quan niệm về con người trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại

............................................................................................................................... 94

3.3. Quan niệm về xã hội trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng

bằng Bắc Bộ ........................................................................................................ 109

3.3.1. Tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ phản ánh tư

tưởng về vai trò của người phụ nữ ..................................................................... 110

3.3.2. Tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ phản ánh

truyền thống yêu nước của dân tộc ta ................................................................. 115

Chương 4 ................................................................................................................. 123

GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CÁC QUAN NIỆM VỀ TỰ NHIÊN,VỀ CON

NGƯỜI, VỀ XÃ HỘI TRONG TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN CỦA NGƯỜI VIỆT

VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ............................................................................. 123

4.1. Giá trị của các quan niệm về tự nhiên, về con người, về xã hội trong tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ................................. 123

4.1.1. Giá trị của các quan niệm về tự nhiên ...................................................... 123

4.1.2. Giá trị của các quan niệm về con người ................................................... 127

4.1.3. Giá trị của các quan niệm về xã hội ......................................................... 132

4.2. Hạn chế của các quan niệm về tự nhiên, về con người, về xã hội trong tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ ................................. 137

4.2.1. Tính chất duy tâm trong các quan niệm về tự nhiên................................. 137

4.2.2. Tính chất duy tâm trong các quan niệm về con người ............................. 141

4.2.3. Tính chất duy tâm trong các quan niệm về xã hội .................................... 144

Tiểu kết chương 4................................................................................................ 147

KẾT LUẬN ............................................................................................................. 149

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Page 6: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Đồng bằng Bắc Bộ là vùng đất lịch sử lâu đời, là cái nôi hình thành văn

hóa, văn minh của người Việt. Đây cũng là nơi bảo tồn nhiều giá trị văn hóa

truyền thống của dân tộc. Một trong những yếu tố tạo nên giá trị văn hóa

truyền thống trong đời sống tinh thần của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

chính là tín ngưỡng dân gian. Tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng

bằng Bắc Bộ là một loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần ra đời và lưu truyền

trong nhân dân từ xa xưa. Trải qua bao thăng trầm, nó đã đi vào mạch sống

của từng cộng đồng người Việt, tạo nên những nét văn hóa đậm đà mang bản

sắc đặc trưng của vùng châu thổ sông Hồng.

Ra đời và tồn tại trên cơ sở của phương thức sản xuất nông nghiệp

trồng lúa nước, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

phản ánh đời sống tinh thần của con người trong quá trình lao động sản xuất,

cải tạo tự nhiên, xây dựng đất nước và góp phần giáo dục đạo đức, nhân cách,

điều chỉnh hành vi của con người. Bên cạnh đó, nó còn góp phần bảo lưu và

gìn giữ bản sắc văn hóa của người Việt, củng cố sự cố kết cộng đồng, xây

dựng khối đại đoàn kết toàn dân.

Tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là một bộ

phận của tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời là bộ phận cấu thành hình thái ý thức

xã hội. Do vậy, cũng giống như các hình thái ý thức xã hội khác, tín ngưỡng

dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ chịu sự quy định của tồn tại xã hội, phản

ánh tồn tại xã hội và có những ảnh hưởng nhất định đến tồn tại xã hội đã sản

sinh ra nó. Sự ra đời của tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ đã tạo

nên bức tranh sinh động phản ánh nhận thức của con người, đặc biệt là của

người lao động về giới tự nhiên, về con người và về xã hội. Với người Việt

vùng đồng bằng Bắc Bộ, yếu tố tự nhiên được hiểu là các yếu tố cơ bản cho

Page 7: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

2

việc sản xuất nông nghiệp, nó được phản ánh rõ trong tín ngưỡng dân gian và

là nơi để người dân gửi gắm ước mơ, khát vọng chinh phục tự nhiên. Yếu tố

con người và xã hội được khắc họa sắc nét và sinh động trong quan niệm tâm

linh về thế giới, về sức mạnh của con người, về tinh thần đoàn kết, cố kết

cộng đồng, truyền thống yêu nước, biết ơn nguồn cội… trong quá trình dựng

nước và giữa nước. Nền tảng đó là khởi nguồn cho tín ngưỡng dân gian của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ hình thành, tồn tại một cách đa dạng,

phong phú. Từ tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, đến tín

ngưỡng thờ Thành hoàng… giao hòa với các yếu tố tâm linh tôn giáo khác,

tạo nên một bức tranh về các vị thần đa dạng, phong phú như chính cuộc sống

xã hội của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Sự nhận thức đó tuy còn sơ

khai, song nó có những giá trị nhất định tác động mạnh mẽ đến đời sống tinh

thần của con người. Mặt khác, nó cũng có những tác động tiêu cực không

nhỏ, gây nên những hệ lụy đáng kể trong đời sống xã hội của vùng.

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, Đảng và

Nhà nước ta khẳng định sự tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo là một trong

những vấn đề chính trị - xã hội mang tính quy luật trong tiến trình xây dựng

chủ nghĩa xã hội. Do vậy, việc tăng cường nghiên cứu để thấy được tính quy

luật trong sự tồn tại của hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, góp phần khẳng

định các giá trị tích cực vốn có và chỉ ra các mặt hạn chế để có các chính sách

phù hợp trong việc giải quyết vấn đề tín ngưỡng dân gian của vùng hiện nay

là yêu cầu bức thiết.

Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian nói

chung, tín ngưỡng dân gian của người Viêt vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng,

đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm ở nhiều chuyên ngành khác nhau,

như tôn giáo học, chính trị học, văn hóa học, tâm lý học, v.v.. Những nghiên

Page 8: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

3

cứu này đã đạt được những thành tựu quan trọng góp phần làm rõ vai trò, vị

trí, chức năng của tín ngưỡng dân gian trong đời sống xã hội trước đây cũng

như hiện nay. Tuy nhiên, nghiên cứu tín ngưỡng dân gian từ góc độ triết học

nhằm rút ra những kết luận về bản chất, quy luật vận động của tín ngưỡng dân

gian, cũng như làm rõ các yếu tố triết học của tín ngưỡng dân gian, nhìn

chung còn ít và mới đạt được kết quả bước đầu. Vì vậy, việc kế thừa các

thành tựu nghiên cứu để đi sâu nghiên cứu những yếu tố triết học trong tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là việc làm cần

thiết, để góp phần nhận thức sâu sắc hơn về loại hình tín ngưỡng này.

Với lý do trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Những yếu tố triết

học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” làm

đề tài luận án tiến sĩ Triết học.

2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu:

Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về tín ngưỡng dân gian của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, luận án làm rõ một số yếu tố triết học

trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, rút ra giá

trị và hạn chế của các yếu tố triết học đó.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Luận án tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án.

- Luận án làm rõ một số vấn đề lý luận về tín ngưỡng dân gian của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ về cơ sở hình thành, đặc điểm, phân loại

tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ và xác định cơ

sở lý thuyết nghiên cứu của luận án.

- Luận án làm rõ nội dung của một số yếu tố triết học trong tín ngưỡng

dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ thông qua các quan niệm về

tự nhiên, về con người, về xã hội.

Page 9: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

4

- Luận án làm rõ giá trị và hạn chế của các yếu tố triết học trong tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Một số yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng

đồng bằng Bắc Bộ.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi của luận án chỉ giới hạn việc nghiên cứu một số yếu tố triết

học chủ yếu trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc

Bộ ở khía cạnh yếu tố triết học về tự nhiên, về con người và về xã hội, dựa

trên cơ sở nghiên cứu một số tín ngưỡng dân gian nổi bật của người Việt vùng

đồng bằng Bắc Bộ là: tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, tín

ngưỡng thờ Thành hoàng.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn

+ Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin

và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về tín

ngưỡng, tôn giáo.

+ Luận án kế thừa một số kết quả nghiên cứu của các tác giả đã được

công bố có liên quan đến đề tài luận án.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp luận chung của Chủ nghĩa duy vật biện

chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với hệ thống các phương pháp

như:

+ Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu thứ cấp. Phương pháp này

cho phép nghiên cứu sinh thu thập tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước,

Page 10: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

5

phân tích và tổng hợp tài liệu, đánh giá các kết quả nghiên cứu đã có để tiếp

thu, kế thừa trong quá trình thực hiện luận án;

+ Phương pháp logic và lịch sử, kết hợp với phương pháp so sánh nhằm

phân loại tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, rút ra

những đặc điểm nổi bật của nó;

+ Phương pháp viện dẫn và chứng minh nhằm chỉ ra một số yếu tố triết

học cơ bản trong tín ngưỡng dân gian của người Việt ở vùng đồng bằng Bắc

Bộ;

+ Phương pháp phân tích - tổng hợp kết hợp với phương pháp đối

chiếu, so sánh nhằm rút ra những giá trị và hạn chế của các yếu tố triết học

trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng Đồng bằng Bắc Bộ.

5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án

Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có những đóng góp khoa học như

sau:

- Một là, luận án hệ thống hóa những vấn đề lý luận về cơ sở hình

thành, đặc điểm, phân loại tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng

bằng Bắc Bộ.

- Hai là, luận án làm rõ một số yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân

gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ trên các khía cạnh quan niệm về

tự nhiên, về con người, về xã hội.

- Ba là, luận án làm rõ những giá trị và những hạn chế của yếu tố triết

học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

+ Về mặt lý luận:

Luận án góp phần làm rõ hơn nữa các yếu tố triết học trong tín ngưỡng

dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, làm rõ những giá trị và

Page 11: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

6

những hạn chế của các yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.

+ Về mặt thực tiễn:

- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần vào việc gìn giữ và phát huy

những giá trị của các yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, khắc phục những mặt hạn chế của nó.

- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng

dạy những môn học có liên quan tới văn hóa truyền thống, tín ngưỡng, tôn

giáo.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án

gồm 4 chương, 12 tiết.

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án

Chương 2: Một số vấn đề lý luận về tín ngưỡng dân gian của người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

Chương 3: Quan niệm về tự nhiên, về con người, về xã hội trong tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

Chương 4: Giá trị và hạn chế của các quan niệm về tự nhiên, về con

người, về xã hội trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng

Bắc Bộ

Page 12: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

7

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến một số vấn đề lý luận

chung về tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

1.1.1. Những công trình tiêu biểu bàn về khái niệm tín ngưỡng dân

gian

Cho đến nay, khái niệm tín ngưỡng dân gian vẫn còn đang được các

nhà nghiên cứu tranh luận. Mặc dù vậy, thuật ngữ này đã được dùng phổ biến

trong các công trình khoa học, các buổi hội thảo khoa học, các sinh hoạt văn

hóa tinh thần của người dân, cũng như trên các phương tiện thông tin đại

chúng. Dù nghiên cứu ở góc độ nào chăng nữa, thì đa số các tác giả vẫn thừa

nhận tín ngưỡng dân gian là một loại hình sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng có

nguồn gốc ra đời từ chính hoạt động lao động, sáng tạo của người nông dân,

ăn sâu bén rễ từ ngàn đời nay, và nó phản ánh khát vọng, ước vọng của con

người về một cuộc sống mới tốt đẹp. Bàn về vấn đề này, có thể đề cập đến

một số công trình sau:

Trong công trình, “Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam” [79],

Nguyễn Minh San không sử dụng thuật ngữ tín ngưỡng dân gian mà sử dụng

thuật ngữ tín ngưỡng dân dã. Nhưng, thực chất, hai thuật ngữ này là giống

nhau khi đều dùng để chỉ những loại hình tín ngưỡng như: Tín ngưỡng phồn

thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng sùng bái con người [79, tr.8-

9]. Và như vậy, có thể hiểu, tín ngưỡng dân dã, chỉ là cách gọi khác của tín

ngưỡng dân gian, ra đời do chính hoạt động sáng tạo trong lao động của

người nông dân và phản ánh ước mơ của họ.

Trong cuốn “Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” [16], khi

bàn về khái niệm tín ngưỡng dân gian Nguyễn Đăng Duy cho rằng “… ở Việt

Page 13: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

8

Nam từ xa xưa cho tới nay không hề có cái gọi là tôn giáo mà chỉ có các hình

thái tín ngưỡng: tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thần và tín

ngưỡng thờ Mẫu” [16, tr.24] và không thể gọi các loại hình tín ngưỡng này là

“tín ngưỡng dân gian” được; bởi “…vì không hề có cái gọi là tín ngưỡng dân

gian, tín ngưỡng bác học, tín ngưỡng quý tộc mà chỉ có tín ngưỡng nói chung

của cộng đồng người” [16, tr.25].

Theo chúng tôi, khi đã nói tới cái gọi là “dân gian” nghĩa là nói tới tính

phổ biến trong quần chúng nhân dân, ra đời từ hoạt động thực tiễn của quần

chúng nhân dân, gắn liền với sinh hoạt vật chất của người dân, mang tính

dung dị, gần gũi mà sâu sắc. Điều này cũng giống như văn học dân gian vậy,

câu chữ dễ hiểu, cách hành văn mộc mạc, dân dã, gần gũi mà vẫn mang được

tính triết lý nhân sinh sâu đậm. Do đó, trong tín ngưỡng có cái gọi là tín

ngưỡng dân gian.

Cùng với quan điểm nêu trên, trong công trình “Tín ngưỡng dân gian ở

Việt Nam” [34] do Lê Như oa (chủ biên) thừa nhận có cái gọi là tín ngưỡng

dân gian. Theo tác giả công trình, tín ngưỡng dân gian có thể hiểu “là hình

thái tôn giáo sơ khai, chúng được hình thành trên cơ sở những tâm cách

nguyên thủy (primitive mentality) để nhận thức hiện thực và tác động đến

hiện thực bằng các kĩ xảo (các biện pháp ma thuật) của thuyết hồn linh” [34,

tr.23]. Có thể thấy rằng, khi đã nói đến tính dân gian thì không thể gọi tín

ngưỡng dân gian là tôn giáo sơ khai được. Vì khi nói tới tôn giáo là nói tới

những lễ nghi, giáo lý, giáo luật, giáo hội, kể cả tôn giáo sơ khai, nguyên thủy

thì chúng đều có tất cả các yếu tố cấu thành đó. Còn tín ngưỡng dân gian, chỉ

đơn giản là một loại hình tín ngưỡng ra đời và tồn tại cùng với hoạt động thực

tiễn của con người. Nó được nảy sinh dựa trên sự phản ánh của ý thức trong

quá trình lao động sản xuất, phản ánh sự ngưỡng mộ, ngưỡng vọng và cả sự

sợ hãi trước sức mạnh của những lực lượng siêu nhiên, vô hình. Nó ăn sâu,

Page 14: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

9

bén rễ trong lòng người dân, nó có tính chất lây lan tự phát và không có tính

ràng buộc chặt chẽ như tôn giáo. Bên cạnh đó, trên cơ sở “thuyết hồn linh”

của Tylor, tác giả công trình đã chỉ ra “thuyết hồn linh cơ sở của hệ thống tín

ngưỡng dân gian của người Việt” [34, tr.24]. Căn cứ trên thực tiễn và căn cứ

vào cách lý giải của tác giả công trình cho thấy, ở nước ta, “bằng thuyết hồn

linh, chúng ta có thể “giải mã” được vô số các hiện tượng Folklor của các tộc

người khác nhau”. Luận điểm này cung cấp cho tác giả luận án có được cách

nhìn sâu sắc hơn để có thêm cơ sở lý giải nguồn gốc cho việc hình thành tín

ngưỡng dân gian của người Việt ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ.

Xem xét dưới góc độ văn hóa học, trong cuốn “Góp phần tìm hiểu tín

ngưỡng dân gian ở Việt Nam” [66] do Nguyễn Đức Lữ chủ biên, cho rằng, tín

ngưỡng dân gian “là một nhân tố cấu thành văn hóa” [66, tr.8] và “cần được

xem như là một yếu tố, một bộ phận của văn hóa dân gian” [66, tr.8]. Các tác

giả khẳng định, tín ngưỡng dân gian “cũng có thể xem là loại hình tín

ngưỡng, tôn giáo do chính nhân dân - trước hết là nhân dân lao động - sáng

tạo ra trên cơ sở những tri thức phản ánh sai lạc dưới dạng kinh nghiệm cảm

tính từ cuộc sống thường nhật của bản thân mình” [66, tr.8]. Các tác giả chỉ rõ

sự tương đồng giữa tôn giáo và tín ngưỡng dân gian, chẳng hạn, “nhiều tôn

giáo và tín ngưỡng dân gian cũng dùng lửa, hương… làm vật xúc tác cho mối

quan hệ giữa tin và đối tượng tin; cũng dùng trang phục phù hợp với đối

tượng tin; cũng có sự kiêng kị giới tính trước ngày lễ, cũng tự xác định cho

mình một tâm thế khác ngày thường, khi thực hiện hành vi cũng bộc lộ niềm

tin trước đối tượng tin…” [66, tr.10]. Thực tế cho thấy, mọi loại hình tín

ngưỡng dân gian chưa hẳn đã là tôn giáo. Vì khi đã nói đến tôn giáo tức nói

đến một tổ chức xã hội có giáo chủ, giáo lý, giáo luật hết sức chặt chẽ và có tổ

chức nghiêm ngặt. Còn tín ngưỡng dân gian, dù được người dân lao động hay

tầng lớp xã hội nào đó sáng tạo cũng chỉ là những sinh hoạt văn hóa tinh thần

Page 15: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

10

của cộng đồng người có thể tin hoặc không, hoặc đã tin nhưng đã từ bỏ. Tín

ngưỡng dân gian phản ánh nhận thức về tự nhiên, con người và các mối quan

hệ của con người với tự nhiên, xã hội một cách lệch lạc, cảm tính, được lý

giải bằng những câu chuyện thần thoại, những điển tích, điển cố… mang tính

chất là những dạng nhận thức sơ khai của con người về thế giới. Còn cách mà

tác giả công trình dẫn ra, đó chỉ là những biểu hiện của niềm tin, mà niềm tin

của cả hai loại hình này giống nhau là đều có niềm tin mãnh liệt vào đối

tượng chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy sự hiện hữu của nó. Còn sự khác biệt

giữa tín ngưỡng dân gian và tôn giáo không phải ở niềm tin mà ở các khía

cạnh khác.

Ngoài những công trình nghiên cứu được trình bày ở trên được xuất

bản dưới dạng sách, thì cũng có một số công trình về khái niệm tín ngưỡng

dân gian dưới dạng các bài báo trên các tạp chí nghiên cứu chuyên ngành của

các tác giả như: Nguyễn Quốc Phẩm (1998) “Góp phần bàn về tín ngưỡng dân

gian và mê tín dị đoan”, Tạp chí văn hóa nghệ thuật, số 11; Nguyễn Đăng

Duy (2000), “Cần đính chính lại cách gọi tín ngưỡng dân gian”, Tạp chí

Nghiên cứu tôn giáo, số 1; Hồng Nhuệ (2003), “Tản mạn về tín ngưỡng dân

gian”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 2; Nguyễn Tri Nguyên (2004) “Bản

chất và đặc trưng của tín ngưỡng dân gian”, Tạp chí di sản và văn hóa, số 7;

Hồ Bá Thâm (2005), “Tín ngưỡng dân gian – một lĩnh vực trong đời sống tâm

linh”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 4; Đặng Nghiêm Vạn (2007), “Tôn giáo

hay tín ngưỡng”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 1; Đỗ Thị Minh Thúy

(2010), “Biến động của tín ngưỡng dân gian Thăng Long - Hà Nội và ảnh

hưởng của nó đến đời sống văn hóa hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,

số 86(8); Nguyễn Thọ Khang (2013), “Đặc điểm và giá trị văn hóa của tín

ngưỡng dân gian ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 6… ầu hết,

trong các công trình này, khi bàn về khái niệm tín ngưỡng dân gian đều nhất

Page 16: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

11

trí cho rằng, đó là một loại hình tín ngưỡng ra đời trên cơ sở hoạt động sản

xuất nông nghiệp là chủ yếu. Đồng thời, các tác giả cũng chỉ rõ, tín ngưỡng

dân gian là một lĩnh vực tinh thần không thể thiếu trong đời sống của người

dân. Nó ăn sâu, bén rễ trong tiềm thức của người dân và trở thành nét văn hóa

riêng của người Việt.

Qua khảo sát cho thấy, hầu hết các tác giả đều thừa nhận, ở Việt Nam có

cái gọi là tín ngưỡng dân gian. Nó được hình thành trên cơ sở niềm tin, là bộ

phận của tín ngưỡng, văn hóa. Nó không phải là một thứ tôn giáo sơ khai. Tuy

vậy, vẫn có những ý kiến cho rằng, tín ngưỡng dân gian là một tôn giáo sơ khai

của người Việt, dựa trên quan niệm niềm tin vào một sức mạnh thiêng liêng

nào đó. Như vậy, cho đến nay, thuật ngữ tín ngưỡng dân gian vẫn chưa ngã

ngũ, vẫn còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Do vậy, qua việc tổng quan các

công trình nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian, là cơ sở khoa học cho tác giả

luận án sử dụng để luận giải về khái niệm tín ngưỡng dân gian với tư cách là

khái niệm công cụ để giải quyết các vấn đề có liên quan tới mục đích, nhiệm vụ

của luận án.

1.1.2. Những công trình tiêu biểu bàn về các yếu tố ảnh hưởng đến

sự hình thành, tồn tại của tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ

Có thể kể đến các công trình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra

đời, tồn tại của tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

như sau:

Trước hết, đó là các công trình nghiên cứu chỉ ra ảnh hưởng của các

yếu tố thuộc về địa lý - tự nhiên, kinh tế - xã hội dẫn đến sự ra đời, tồn tại của

tín ngưỡng dân gian nói chung và tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc

Bộ nói riêng. Có thể kể đến các công trình sau đây:

Công trình “Tín ngưỡng dân gian Việt Nam” [34] của Lê Như oa.

Trong công trình này, tác giả chỉ rõ nguồn gốc hình thành của tín ngưỡng qua

Page 17: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

12

việc phân tích điều kiện địa lý, lịch sử và phương thức sản xuất đã tác động

mạnh mẽ và là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự ra đời của các hình thái tín

ngưỡng dân gian của người Việt. Chẳng hạn, về nguồn gốc nhận thức, tác giả

chỉ rõ: “Ở thời kì sơ khai, khi mà cuộc sống con người rất gần gũi với vạn vật

của tự nhiên, con người thường xuyên, trực tiếp phải đối mặt với thiên nhiên;

đời sống của họ lệ thuộc chủ yếu vào tự nhiên thì thiên nhiên là đối tượng

nhận thức chính của họ” [34, tr.31] và “… bởi chính môi trường tự nhiên đã

quy định môi trường nông nghiệp (chăn nuôi hay trồng trọt); và do đó, nó đã

định hướng ứng xử cho các cư dân sống trong môi trường ấy; làm nảy sinh

những tín ngưỡng đặc thù của từng môi trường” [34, tr.31]. Về nguồn gốc xã

hội, tác giả chỉ rõ: “… tính chất đặc thù của một bán đảo… nông nghiệp ra

đời… trồng lúa được đẩy lên vị trí đứng đầu của nền nông nghiệp trồng trọt

trên lãnh thổ Việt Nam… Đây chính là mầm mống dẫn tới những nhận thức

và những ứng xử, tức mầm mống của những tín ngưỡng…” [34, tr.31-32] và

“… tín ngưỡng của cư dân Việt Nam, với tư cách là sự nhận thức được tập

trung vào cây lúa và công việc trồng lúa” [34, tr.34]. Quan điểm đó của Lê

Như oa đã chỉ ra điều kiện địa lý - tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến sự hình

thành tín ngưỡng dân gian nói chung và tín ngưỡng dân gian của người Việt

nói riêng.

Tương tự quan điểm của Lê Như oa, trong công trình “Tín ngưỡng và

văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” [96], tuy không trực tiếp bàn về các yếu tố

ảnh hưởng đến sự tồn tại của tín ngưỡng dân gian nói chung, và tín ngưỡng

dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, song Ngô Đức Thịnh cũng có

quan điểm thống nhất coi các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa và lịch

sử là xuất phát điểm cho sự ra đời và tồn tại của tín ngưỡng. Trong công trình

này, ông trình bày cụ thể từng loại tín ngưỡng và cơ sở hình thành của nó.

Công trình này giúp cho tác giả luận án có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn

Page 18: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

13

về nguồn gốc ra đời, cũng như cơ sở hình thành nên tín ngưỡng dân gian của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Công trình “Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ

tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” [81] của Trần Đăng Sinh là một

trong số ít công trình chuyên nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian vùng đồng

bằng Bắc Bộ tiếp cận dưới góc độ triết học. Trong công trình này, khi bàn về

nguồn gốc, cơ sở hình thành, tồn tại của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tác giả

coi nó là một trong các loại hình sinh hoạt tín ngưỡng dân gian phổ biến của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tác giả cho rằng, sự ra đời của nó là do

chính phương thức sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước quyết định. Cùng với

đó, yếu tố xã hội, kết cấu tổ chức làng - nước cũng có ảnh hưởng không nhỏ

đến sự ra đời của tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Trong công trình “Đại cương lịch sử Triết học Việt Nam” [31],

Nguyễn Hùng Hậu cũng chỉ rõ các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời của tín

ngưỡng dân gian nói chung, tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ nói

riêng. Tác giả chỉ rõ, xét về mặt kinh tế “sở hữu chỉ tồn tại với tư cách là sở

hữu tập thể về ruộng đất... không có sở hữu tư nhân về ruộng đất và đó là tất

cả các hiện tượng của phương Đông, là chìa khóa để hiểu toàn bộ phương

Đông” [31, tr.43]. Đó chính là phương thức sản xuất Á châu mà tác giả nhắc

tới. Khi đi nghiên cứu phân tích phương thức sản xuất đó, tác giả kết luận, đó

chính là một trong những nguyên do cơ bản để hiểu, để giải thích về sự ra đời

của các hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có tín ngưỡng dân gian.

Công trình “Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt

vùng đồng bằng Bắc Bộ” [106] của Nguyễn Hữu Thụ cũng bàn về cơ sở hình

thành tín ngưỡng thờ Mẫu, và tác giả coi đó là một trong những sinh hoạt tín

ngưỡng nổi bật của vùng. Tác giả chỉ rõ, sự ảnh hưởng của các yếu tố địa lý -

tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa và lịch sử thúc đẩy sự ra đời và tồn tại của

Page 19: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

14

tín ngưỡng thờ Mẫu,là một trong những loại hình tín ngưỡng dân gian của

vùng.

Tiếp theo, khi bàn về sự ảnh hưởng của sự giao lưu văn hóa, tư tưởng

đến sự ra đời, tồn tại của tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng

Bắc Bộ, hầu hết các công trình mà tác giả luận án lựa chọn để khảo sát đều

chung một quan điểm, khẳng định sự ảnh hưởng mạnh mẽ của ba tôn giáo lớn

đó là Phật Giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Có thể kể đến một số công trình sau:

Công trình “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” [96], Ngô Đức

Thịnh chỉ ra rằng, các tín ngưỡng bản địa, nhất là tín ngưỡng thờ cúng Tổ

tiên, đều cởi mở “…tiếp thu ảnh hưởng của tôn giáo, tín ngưỡng, nhất là Đạo

Khổng” [96, tr.21], ngoài ra nó còn chịu ảnh hưởng của cả các tôn giáo khác

như Đạo giáo, Phật giáo [96, tr.33]. Bên cạnh đó, tác giả còn khẳng định ảnh

hưởng “… của đạo hiếu - một trong những tư tưởng cốt lõi nhất của Nho giáo

trong việc xây dựng hệ nguyên lý cho việc thờ cúng tổ tiên. Cùng quan điểm

nêu trên, trong công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian Việt

Nam” [66], Nguyễn Đức Lữ chủ biên, khẳng định, khi có sự du nhập của các

tôn giáo ngoại lai như Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo đã có ảnh hưởng lớn đến

sự tồn tại của tín ngưỡng dân gian nhất là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: “…khi

Nho giáo vào Việt Nam, với tư tưởng đề cao gia đình, dòng tộc, biến nước

thành nhà, xem chữ hiếu là nền tảng đạo lý… thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên

được nâng lên một tầm cao mới” [66, tr.81]. Theo nghiên cứu của các tác giả

trong công trình này, thì tín ngưỡng, trong đó tín ngưỡng thờ anh hùng dân

tộc cũng chịu ảnh hưởng của các tôn giáo như Phật giáo, Lão giáo. Trong đó,

theo tác giả, “các hội đền mang dáng dấp nghi lễ của Nho giáo đồng thời cũng

có dấu hiệu của Phật giáo ở hội chùa” [66, tr.102]. Ảnh hưởng của các tôn

giáo đến sự ra đời, tồn tại của tín ngưỡng dân gian nói chung trong đó có tín

ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ được công trình “Các hình thái tín

Page 20: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

15

ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” [16] của Nguyễn Đăng Duy phân tích và khẳng

định rằng, sự giao lưu tiếp biến giữa các tôn giáo và tín ngưỡng dân gian là

khách quan trong quá trình tồn tại. Do có sự ảnh hưởng của các tôn giáo đã

nêu trên nên các nghi lễ, nội dung tín ngưỡng dân gian được đầy đủ hơn, được

nâng lên một tầm cao mới. Dưới góc độ triết học, nghiên cứu về ảnh hưởng

của tôn giáo đến sự tồn tại của tín ngưỡng dân gian phải kể đến công trình

“Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt

vùng đồng bằng Bắc Bộ” [81] của Trần Đăng Sinh. Tác giả khẳng định rằng,

“các tín ngưỡng, tôn giáo ngoại nhập, trong đó đặc biệt là tam giáo có vai trò

to lớn trong sự hình thành và tồn tại của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” [81, tr.96].

Ngoài những công trình vừa nêu trên, còn có thể kể đến các công trình

khác như: Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát

triển của xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Đăng

Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Văn hoá

thông tin, Hà Nội; Trần Ngọc Thêm (2011), Cơ sở Văn hóa Việt Nam,

Nxb.Giáo dục, Hà Nội; Nguyễn Văn Minh (2013), Tôn giáo, tín ngưỡng các

dân tộc Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn Hữu Thụ (2013),

Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng

Bắc Bộ, Luận án Tiến sĩ Triết học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn,

Đ QG à Nội; Nguyễn Hữu Thụ (2012), “Về cơ sở hình thành và phát triển

của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí

Nghiên cứu Tôn giáo, số 1, tr.20-32, v.v… và nhiều công trình khác có đề

cập, nghiên cứu đến cơ sở hình thành, tồn tại của tín ngưỡng dân gian nói

chung trong đó có tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc

Bộ. Hầu hết trong số các công trình được khảo sát ít có các công trình nghiên

cứu khái quát về sự ảnh hưởng của tôn giáo đến sự ra đời, tồn tại của tín

Page 21: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

16

ngưỡng dân gian trong đó có tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Tuy nghiên, từ việc nghiên cứu các quan điểm về sự ảnh hưởng của các tôn

giáo đến các loại hình tín ngưỡng cụ thể là cơ sở cho tác giả luận án có cơ sở

dữ liệu khoa học phụ vụ cho quá trình nghiên cứu vấn đề đặt ra trong luận án.

Tóm lại, tính đến thời điểm hiện tại, qua sự khảo sát của tác giả luận án,

chưa có bất cứ công trình khoa học độc lập nào chuyên nghiên cứu về tín

ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nhìn chung, những nghiên cứu về

tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được đan xen

trong các nghiên cứu về tín ngưỡng, văn hóa tín ngưỡng, tín ngưỡng dân gian

cả nước nói chung. Do vậy, khi tổng quan các công trình nghiên cứu đề cập tới

các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời của tín ngưỡng dân gian của người Việt

vùng đồng bằng Bắc Bộ, tác giả luận án lấy dữ liệu dựa trên kết quả của các

công trình nghiên cứu chung về tín ngưỡng dân gian, từ đó bóc tách các nghiên

cứu về tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ về cơ sở hình thành.

1.1.3. Những công trình tiêu biểu bàn về một số loại hình tín ngưỡng

dân gian chủ yếu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

Qua khảo sát về các công trình nghiên cứu có đề cập đến tín ngưỡng

dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ cho thấy, hầu hết các công

trình chủ yếu đề cập tới ba loại hình tín ngưỡng dân gian nổi bật của vùng là

tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng thờ Thành

hoàng. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên

của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

Xoay quanh vấn đề về tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên nói chung, trong đó

có tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, có

nhiều công trình đề cập tới. Cụ thể như sau:

Page 22: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

17

Khi bàn về nguồn gốc hình thành của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, cho

đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi. Có ý kiến cho rằng, thờ cúng Tổ tiên của

người Việt bắt nguồn từ sự thờ cúng Tổ tiên của người án. Đó là quan điểm

của à Văn Tăng, Trương Thìn. Trong công trình, “Tín ngưỡng và mê tín”

[82], các tác giả chỉ rõ, “Thờ cúng tổ tiên có thể lúc đầu cử hành trong người

Hán, rồi lan sang người Việt. Và đến một thời điểm nào đó thì trở thành

phong tục phổ biến của người Việt” [82, tr.150]. Đó cũng là quan điểm của

Nguyễn Đức Lữ. Song, phủ nhận quan điểm đó, trong công trình, “Văn hóa

tâm linh” [14], Nguyễn Đăng Duy cho rằng, “việc thờ cúng tổ tiên của người

Việt đã có cái gốc, cái nền nội sinh chứ không phải do từ Trung Quốc xâm

nhập vào như nhiều sách báo từ trước tới nay đã khẳng định” [14, tr.181].

Các quan điểm trên tuy trái ngược nhau, song hầu hết, các tác giả đều

nhất trí cho rằng, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt được hình thành

trên cơ sở quan niệm tâm linh của con người về thế giới. Nói như Ngô Đức

Thịnh, nó bắt nguồn từ tín ngưỡng Tô tem, được thể chế hóa, hợp pháp hóa

nhờ hệ tư tưởng Nho giáo [96, tr.48]. Đó cũng là quan điểm của Nguyễn Đức

Lữ trong công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam”

[66], ông cho rằng, “tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là sản phẩm của sự kết hợp

giữa ba yếu tố cơ bản: ý niềm về linh hồn bất tử của người chết, tổ tiên Tô

tem và tổ tiên thật che chở cho gia đình thị tộc phụ quyền” [66, tr.74].

Khi bàn về bản chất của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, trong công trình

“Nếp cũ - Tín ngưỡng Việt Nam” [4], Toan Ánh viết, “thờ phụng tổ tiên

không phải là một thứ tôn giáo… mà là lòng thành kính và biết ơn của con

cháu đối với người đã khuất” [4, tr.23-24]. Đó cũng là quan điểm của Ngô

Đức Thịnh trong công trình “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam”,

ông cho rằng, “thờ cúng Tổ tiên là một tín ngưỡng dân gian của dân tộc có

nguồn gốc từ xa xưa và mang đạo lý nhân ái uống nước nhớ nguồn” [96,

Page 23: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

18

tr.67]. Còn trong công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt

Nam”, Nguyễn Đức Lữ chủ biên, cho rằng, về bản chất, tín ngưỡng thờ cúng

Tổ tiên là một hiện tượng xã hội có tính phổ biến [66, tr.68]. Trong công trình

“Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt

vùng đồng bằng Bắc Bộ” [81], qua việc phân tích nguồn gốc, Trần Đăng Sinh

rút ra bản chất của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên là “một bộ phận của ý thức xã

hội, là một loại hình tín ngưỡng dân gian được hình thành từ thời nguyên thủy

với niềm tin thiêng liêng rằng, tổ tiên đã chết sẽ che chở, phù giúp con cháu”

[81, tr.57]. Như vậy, hầu hết các tác giả đều nhất trí cho rằng, bản chất của tín

ngưỡng thờ cúng Tổ tiên là một hiện tượng xã hội, có tính phổ biến, dựa trên

cơ sở niềm tin tâm linh của con người, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn.

Khi bàn về các hình thức thờ cúng Tổ tiên ở nước ta, trong đó có tín

ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt, hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra

rằng: có hai hình thức cơ bản về thờ cúng Tổ tiên của người Việt là thờ cúng

trong phạm vi gia đình và thờ cúng phạm vi đất nước. Đó là quan điểm của

Ngô Đức Thịnh, Trần Đăng Sinh. Trong công trình, “Tín ngưỡng và văn hóa

tín ngưỡng ở Việt Nam”, Ngô Đức Thịnh cũng cho rằng, tín ngưỡng thờ cúng

Tổ tiên của nười Việt có hai hình thức là thờ cúng Tổ tiên trong gia đình và

dòng tộc và thờ cúng Tổ tiên ở phạm vi quốc gia (Lễ giỗ Tổ ùng Vương)

[96, tr.68-79]. Trong công trình, “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở

Việt Nam”, do Nguyễn Đức Lữ chủ biên cũng nhận định, thờ cúng Tổ tiên

được thể hiện dưới ba hình thức: gia đình, làng xã và đất nước [66, tr.91].

Ngoài ra, còn nhiều bài viết được công bố trên các tạp chí như: Nguyễn

Đức Lữ (2000), “Thờ cúng Tổ tiên - một hiện tương xã hội có tính phổ biến”,

Tạp chí Sinh hoạt Lý luận số xuân Canh Thìn (1/2000); Trần Đức Dương

(2010), “Phát huy những giá trị tích cực trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên

Page 24: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

19

hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo;… cũng đề cập đến vấn đề tín

ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, nhưng dưới các góc độ tiếp cận khác nhau.

Như vậy, trên cơ sở khảo sát các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng

thờ cúng Tổ tiên của người Việt nói chung, trong đó có người Việt vùng đồng

bằng Bắc Bộ, là cơ sở khoa học cho tác giả luận án tìm hiểu về nguồn gốc, quá

trình hình thành, bản chất, và các hình thức thờ tự của tín ngưỡng thờ cúng Tổ

tiên ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Khi bàn về nguồn gốc hình thành, hầu hết các

tác giả đều cho rằng, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên bắt nguồn từ quan niệm vạn

vật đều có linh hồn, từ hình thức sơ khai của tín ngưỡng Tô tem, cho đến khi

nó được hợp thức hóa nhờ vào sự ủng hộ của Nho giáo. Hình thức cũng như

nội dung sinh hoạt tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt có sự khác biệt

so với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Trung Quốc. Và do vậy, tác giả

luận án cũng đồng quan điểm với các tác giả Nguyễn Đăng Duy, Ngô Đức

Thịnh, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt là tín ngưỡng nội sinh, bắt

nguồn từ cội rễ văn hóa truyền thống của dân tộc, có sự giao thoa ảnh hưởng

trong quá trình tồn tại của nó. Điểm đáng chú ý, qua việc khảo sát các công

trình nghiên cứu cho thấy, các tác giả đều thừa nhận tín ngưỡng thờ cúng Tổ

tiên là một loại hình tín ngưỡng dân gian phổ biến của người Việt, trong đó có

vùng đồng bằng Bắc Bộ. Do đó, kết quả nghiên cứu về tín ngưỡng thờ cúng Tổ

tiên của các nhà khoa học đi trước là cơ sở khoa học để tác giả luận án tiếp tục

nghiên cứu, khái quát về tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt vùng

đồng bằng Bắc Bộ, làm cơ sở cho việc nghiên cứu các yếu tố triết học cơ bản

ẩn chứa trong loại hình tín ngưỡng nổi bật này.

Thứ hai, những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

Cho tới nay, có nhiều tư liệu nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu nói

chung, nhưng có ít công trình nghiên cứu độc lập về tín ngưỡng thờ Mẫu của

Page 25: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

20

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Vì vậy, khi khảo sát về vấn đề này, tác

giả luận án dựa trên việc tổng quan các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng

thờ Mẫu của Việt Nam, trong đó, có đề cập tới tín ngưỡng thờ Mẫu của vùng.

Khi bàn về cơ sở của việc hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu của Việt

Nam nói chung, trong đó có thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ,

trong công trình “Nếp cũ - Tín ngưỡng Việt Nam”, Toan Ánh chỉ ra rằng, việc

thờ Mẫu nảy sinh và phát triển trên cơ sở thờ Nữ thần [4, tr.110]. Đó cũng là

quan điểm của Ngô Đức Thịnh. Trong công trình “Đạo Mẫu ở Việt Nam”,

ông chỉ rõ, tục thờ Mẫu và Tam tòa Thánh Mẫu có liên quan mật thiết với tục

thờ Nữ thần [95, tr.14]. Tiếp tục bàn về quan điểm này, trong công trình “Tín

ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam”, Ngô Đức Thịnh kết luận rằng,

“các Mẫu - Thánh Mẫu vừa có nguồn gốc thiên thần, vừa có nguồn gốc nhân

thần, là hình thức tín ngưỡng “nâng cao”, “lên khuôn” từ cái nền thờ Nữ thần

và rất phổ biến và cổ xưa của dân tộc ta” [96, tr.172]. Trong công trình “Văn

hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam” [48], Đinh Gia

Khánh cho rằng, “nguyên nhân khởi phát tín ngưỡng thờ Mẫu là từ chế độ

mẫu hệ. Trong thời kỳ nguyên thủy khi mà người phụ nữ đóng vai trò là chủ

gia đình, là người có quyền quyết định mọi vấn đề to lớn trong gia đình, bộ

tộc thì họ cũng góp phần quyết định vào sự tồn tại của xã hội” [48, tr.12].

Trong công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng thờ dân gian ở Việt Nam”

[66] do Nguyễn Đức Lữ chủ biên nhận định rằng, “tín ngưỡng thờ Mẫu là một

hình thức tín ngưỡng dân gian để tôn vinh người phụ nữ làm Thánh Mẫu,

Vương Mẫu,…” [66, tr.140]. Trong bài viết “Tín ngưỡng thờ Mẫu của người

Việt”, Nguyễn Thị Thọ nhận định rằng, “tín ngưỡng thờ Mẫu là sản phẩm của

xã hội nông nghiệp, ở đó còn những tàn dư của xã hội mẫu hệ, và vai trò của

người phụ nữ được đề cao” [103, tr.49]. Đó cũng là quan điểm của Trần Ngọc

Thêm, Nguyễn Hữu Thụ… khi nghiên cứu về nguồn gốc của tín ngưỡng thờ

Page 26: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

21

Mẫu. Tác giả luận án cũng nhất trí cho rằng, xuất phát điểm cho sự hình thành

tín ngưỡng thờ Mẫu là từ vai trò của người phụ nữ đối với đời sống của con

người, tính nữ được đề cao, đó là điều kiện tiền đề cho sự ra đời của tín

ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, trong đó có vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Bàn về bản chất của tín ngưỡng thờ Mẫu, trong công trình “Góp phần

tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam” [66], do Nguyễn Đức Lữ (chủ

biên) nhận định rằng, “tín ngưỡng thờ Mẫu là sự triển khai lòng kính trọng,

tôn vinh đối với phụ nữ, phản ánh khát vọng của con người luôn vươn tới

những điều tốt lành trong cuộc sống vốn đầy những bất trắc” [66, tr.141-142].

Trong công trình “Tục thờ Thánh - Mẫu ở Việt Nam” [55], Vũ Ngọc Khánh

cho rằng, xét về bản chất, tín ngưỡng thờ Mẫu là sự tôn thờ, tôn vinh người

Mẹ [55, tr.11]. Trong công trình “Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ

Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” [106], Nguyễn Hữu Thụ cho

rằng, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là một loại

hình tín ngưỡng dân gian được tích hợp bởi các lớp tín ngưỡng thờ Nữ thần,

thờ Mẫu thần và thờ Tam phủ - Tứ phủ với niềm tin thiêng liêng vào quyền

năng của Mẫu - đấng sáng tạo, bảo trợ cho sự tồn tại và sinh thành của tự

nhiên, xã hội và con người, v.v..

Về đối tượng thờ Mẫu, hầu hết các tác giả đều chỉ ra rằng, đó là thờ các

hiện tượng của tự nhiên (hiện tượng thời tiết), và hơn nữa, là sự tôn thờ những

người mẹ có công giúp dân làng trong cách làm ăn, là những người mẹ của

những bậc anh hùng, là những người có nguồn gốc nhiên thần hoặc nhân thần.

Điều đó được thể hiện trong các công trình như: trong công trình “Các hình

thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” [16], Nguyễn Đăng Duy viết: “Cốt lõi

của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam là tôn thờ bốn đối tượng Cây, Đất, Nước,

Trời” [16, tr.165]. Trong công trình, “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian

Việt Nam” [66], do Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) chỉ rõ, “tín ngưỡng thờ Mẫu ở

Page 27: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

22

Việt Nam rất đa dạng, phong phú. Về tổng thể, nó bao gồm cả việc thờ Mẫu

thần và Mẫu Tứ phủ” [66, tr.142]. Ngô Đức Thịnh trong công trình “Tín

ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” cho rằng, hệ thống thờ Mẫu đa

dạng, phong phú, đó là hệ thống thần linh Tứ phủ gồm các nhiên thần và thiên

thần [96, tr.147]. Trong công trình “Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ

Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” [106], Nguyễn Hữu Thụ cho

rằng, thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ gồm có ba lớp: thờ Nữ

thần, thờ Mẫu thần và thờ Tam phủ - Tứ phủ.

Bên cạnh những công trình được xuất bản dưới dạng sách, thì còn có

những công trình được in trong các tạp chí như: Ngô Đức Thịnh (1992), "Tục

thờ Mẫu Liễu Hạnh - một sinh hoạt tín ngưỡng cộng đồng",Tạp chí văn học số 5

(275); Nguyễn Hữu Thụ (2012), “Về cơ sở hình thành và phát triển của tín

ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí Nghiên cứu

Tôn giáo, số 1; Nguyễn Thị Thọ (2017), “Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt”,

Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8, v.v.. Các công trình kể trên cũng đề cập

tới vấn đề về tín ngưỡng thờ Mẫu dưới những khía cạnh khác nhau.

Như vậy, trên cơ sở khảo sát các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng

thờ Mẫu của người Việt nói chung, trong đó có người Việt vùng đồng bằng

Bắc Bộ, là cơ sở khoa học cho tác giả luận án tìm hiểu về nguồn gốc, quá

trình hình thành, bản chất, và đối tượng thờ tự của tín ngưỡng thờ Mẫu ở vùng

Đồng bằng Bắc Bộ. Khi bàn về nguồn gốc hình thành, hầu hết các tác giả đều

cho rằng, tín ngưỡng thờ Mẫu bắt nguồn từ quan niệm về vai trò của người

phụ nữ trong xã hội, nó là bước phát triển từ tục thờ Nữ thần sang thờ Mẫu.

Về bản chất của tín ngưỡng thờ Mẫu, các tác giả khẳng định, đó là một loại

hình tín ngưỡng dân gian của người Việt, hình thành đầu tiên ở vùng đồng

bằng Bắc Bộ, sau đó lan rộng ra khắp các vùng trên cả nước. Tín ngưỡng thờ

mẫu là sự tôn thờ, vinh danh người phụ nữ, và nó có sự hòa quyện với các

Page 28: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

23

hình thức tín ngưỡng khác, đặc biệt là tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, và chịu sự

ảnh hưởng sâu sắc từ Đạo giáo Trung Quốc. Do đó, kết quả nghiên cứu về tín

ngưỡng thờ Mẫu của các nhà khoa học đi trước là cơ sở khoa học cho tác giả

luận án tiếp tục nghiên cứu, khái quát về tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt

vùng đồng bằng Bắc Bộ với tư cách là một trong những loại hình tín ngưỡng

dân gian đặc trưng của vùng làm cơ sở nghiên cứu mục đích của của đề tài

luận án.

Thứ ba, những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng Thành hoàng của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

Tính cho đến thời điểm hiện tại, có nhiều tư liệu nghiên cứu về tín

ngưỡng Thành hoàng, nhưng có ít công trình nghiên cứu độc lập về tín

ngưỡng Thành hoàng của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Vì vậy, khi

khảo sát về vấn đề này, tác giả luận án dựa trên việc tổng quan các công trình

nghiên cứu về tín ngưỡng Thành hoàng của Việt Nam (chủ yếu là những

nghiên cứu từ thế kỉ XX cho tới hiện tại), trong đó, có đề cập tới tín ngưỡng

Thành hoàng của vùng. Cụ thể như sau:

Khi bàn về nguồn gốc của tín ngưỡng Thành hoàng, hầu hết các tác giả

đều cho rằng, Thành hoàng ở nước ta nói chung, trong đó có Thành hoàng

vùng đồng bằng Bắc bộ, đều có nguồn gốc sâu xa và có ảnh hưởng mạnh mẽ

từ thờ cúng Thành hoàng ở Trung Quốc, song có sự khác biệt. Bàn về điều

này phải kể đến công trình “Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam” của Nguyễn

Duy Hinh. Ông chỉ rõ, tín ngưỡng Thành hoàng ở nước ta có nguồn gốc sâu

xa từ Trung Quốc, song khi du nhập vào nước ta, nó có sự biến thể rõ rệt. Ông

viết: “Rõ ràng trong Thành hoàng Việt Nam có hai dòng riêng biệt. Một dòng

mang đậm gần nguyên xi mô hình Đường - Minh: Hệ thống Thành hoàng cả

nước, tỉnh, huyện… dòng thứ hai là Thành hoàng - Làng. Đó là dòng chủ thể

phản ánh bản chất tư duy tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam” [32, tr.97]. Đó cũng

Page 29: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

24

là quan điểm của ông trong bài viết “Thần làng và Thành hoàng”. Nguyễn

Duy Hinh chỉ rõ, “Thành hoàng là một khái niệm Hán, các triều đại phong

kiến nước ta đã tiếp thu khái niệm đó. Nhưng Thành hoàng Việt Nam khác

Thành hoàng án”. Đồng thời, đó cũng là quan điểm của Phan Kế Bính khi

nghiên cứu về tín ngưỡng Thành oàng được thể hiện trong công trình “Việt

Nam phong tục” [7]. Phan Kế Bính cho rằng, “xét về cái tục thờ Thần hoàng

này từ đời Tam Quốc trở về vẫn đã có, nhưng ngày xưa thì nhà vua nhân có

việc cầu đảo gì mới thiết đàn cúng tế mà thôi, đến đời nhà Đường, Lý Đức Dụ

làm tướng mới bắt đầu lập miếu Thần hoàng ở Thành Đô, đến nhà Tống, nhà

Minh, thiên hạ đâu đâu cũng cũng có lập miếu thờ” [7, tr.96].

Cùng với hai quan điểm nêu trên, trong công trình “Tín ngưỡng và văn

hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” [96], Ngô Đức Thịnh chỉ ra rằng, “cùng mang

tên Thành hoàng, nhưng ở Trung Quốc là vị thần của thành trì, Thành thị mà

nổi tiếng nhất là Thành hoàng của Thượng Hải, phổ biến nhất ở Trung Quốc

từ thời Đường - Tống; còn ở Việt Nam, Thành hoàng là vị thần của mỗi làng

xã, trong khi đó làng, thôn của Trung Quốc chỉ thờ các Thổ Thần” [96, tr.92].

Ông cũng chỉ ra rằng, đây là một loại hình tín ngưỡng bị “phong kiến hóa” do

có sự ảnh hưởng của Nho giáo và nhiều tôn giáo khác. Đó cũng là quan điểm

của Nguyễn Đức Lữ làm chủ biên trong công trình “Góp phần tìm hiểu tín

ngưỡng dân gian Việt Nam” [66]. Ông cho rằng, tín ngưỡng Thành hoàng “là

một phạm trù chỉ là một thứ thần linh bảo hộ thành trì mang đậm nét Trung

Hoa ở xã thôn Việt Nam, tín ngưỡng Thành hoàng đã trở thành một tín

ngưỡng mang tính cộng đồng chung của làng xã người Việt, một thứ thần linh

không chỉ có công hộ quốc mà còn “bảo dân”” [66, tr.125].

Trái với các quan điểm nêu trên, trong công trình “Các hình thái tín

ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam” [16], Nguyễn Đăng Duy lại cho rằng: “Việt

Nam không hề có thần Thành hoàng của người Việt (kinh). Thành hoàng là

Page 30: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

25

của Trung Hoa do tầng lớp phong kiến Trung oa áp đặt và do tầng lớp

phong kiến Việt Nam tiếp thu để thờ tế ở kinh đô và ở các lỵ sở chính quyền

cấp tỉnh, với nghĩa là thần bảo vệ thành và hào. Ở kinh đô gọi là miếu Đô

thành hoàng, ở các tỉnh gọi là miếu Thành hoàng… Thành hoàng Việt Nam

không hề do vua ban xuống, vua chỉ ban tước cho thần lập ấp, đã được dân

hình thành thờ cúng từ trước” [16, tr.97-98]. Và như vậy, theo ông, Việt Nam

chúng ta, trong đó có đồng bằng Bắc Bộ, chỉ có tín ngưỡng thờ thần, mà cụ

thể là thần làng xã, vì nó gắn liền với cấu trúc Nhà - Làng - Nước.

Khi bàn về quá trình hình thành, trong công trình “Việt điện u linh tập”

[126], của Lý Tế Xuyên, do Lê Hữu Mục dịch, cho biết năm 823, viên đô hộ

Giao Châu Lý Nguyên Gia xây La Thành, đã phong thần Tô Lịch làm Thành

hoàng, dựng đền thờ [126, tr.73-74]. Qua nghiên cứu đó cho thấy, tín ngưỡng

Thành hoàng chính thức được triều đình xác lập từ đó, là điều kiện đầu tiên để

sau này, tín ngưỡng Thành hoàng phát triển mở rộng. Trong “Lĩnh Nam

Chích Quái” [76], Trần Thế Pháp cho biết, khi Lý Thái Tổ cho xây dựng

thành Thăng Long xong, phong thần cho Long Đỗ làm Thăng Long Thành

oàng Đại Vương [76, tr.210]. Trong công trình “Các hình thái tín ngưỡng,

tôn giáo ở Việt Nam”, Nguyễn Đăng Duy cũng chỉ ra rằng, tín ngưỡng Thành

hoàng của nước ta được hình thành rõ nét nhất trong thời kì phong kiến [16,

tr.94-95]. Như vậy, qua các nghiên cứu trên cho thấy, tín ngưỡng Thành

hoàng ở nước ta xuất hiện từ rất sớm, nó là một sự biến thể, giao thoa với tín

ngưỡng Thành hoàng của Trung Quốc. Nói như các nhà nghiên cứu, tín

ngưỡng Thành hoàng ở Trung Quốc sang Việt Nam đã được Việt Hóa, thể

hiện bản chất tư duy tín ngưỡng của người Việt.

Về đối tượng thờ tự trong tín ngưỡng Thành hoàng, tính cho tới thời

điểm hiện tại, có rất nhiều công trình bàn tới. Trong số đó không thể không kể

đến công trình “Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam” [32] của Nguyễn Duy

Page 31: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

26

Hinh. Ông chỉ ra rằng, tín ngưỡng Thành hoàng ở nước ta có hai loại được thờ

chủ yếu là, “một dòng mang đậm gần nguyên xi mô hình Đường - Minh…

dòng thứ hai là Thành hoàng - Làng” [32, tr.97]. Theo Phan Kế Bính, trong

công trình “Việt Nam phong tục” [7], ông chỉ rõ, có hai đối tượng thờ tự

trong tín ngưỡng Thành hoàng là phúc thần và tà thần. Phúc thần được chia

thành thượng đẳng thần, trung đẳng thần, hạ đẳng thần. Còn tà thần là thờ bậy

bạ, như thờ thần bán lợn, thần trẻ con, thần ăn xin… [7, tr.92-93]. Với ý nghĩa

tương tự như vậy, trong công trình “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt

Nam” [96], Ngô Đức Thịnh chỉ rõ, diện mạo thờ Thành hoàng ở đồng bằng

Bắc Bộ đa dạng và phong phú như chính đời sống của người dân. Đó là việc

thờ tự các vị Thành hoàng có nguồn gốc từ Thiên thần và nguồn gốc Nhân

thần [96, tr.96]. Có thể thấy, quan điểm về đối tượng thờ tự của các nhà

nghiên cứu chỉ ra là khác nhau, song giữa chúng có điểm chung nhất định.

Trong các quan điểm nêu trên đều chỉ ra rằng, có hai đối tượng được thờ cúng

chủ yếu, đó là thờ các vị thần có nguồn gốc rõ ràng, được vua tước phong, và

hai là, thờ các vị thần không rõ nguồn gốc, hoặc do nhân dân sáng tạo ra, và

thổi cho nó sức mạnh của thần.

Bên cạnh các công trình bàn về tín ngưỡng Thành hoàng của người

Việt, trong đó có vùng đồng bằng Bắc Bộ, còn có các công trình được xuất

bản dưới dạng các bài báo như: Nguyễn Duy inh (2004), “Thần làng và

Thành hoàng”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 9; Đỗ Thị Minh Thúy (2010),

“Biến động của tín ngưỡng Thăng Long - Hà Nội và ảnh hưởng của nó trong

đời sống văn hóa đô thị hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 8; Đinh

Khắc Thuân (2014), “Thờ cúng Thành hoàng Việt Nam qua tài liệu án nôm”

Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4; Nguyễn Minh Tường (2013), “Tín

ngưỡng thờ Thành hoàng trong các làng xã Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã

Page 32: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

27

hội, số 10 (71); Doãn Hữu Minh (2017), “Giá trị văn hóa của Thăng Long Tứ

trấn”, Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, số 8, v.v..

Như vậy, trên cơ sở khảo sát các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng

thờ Thành hoàng của người Việt nói chung, trong đó có người Việt vùng đồng

bằng Bắc Bộ, là cơ sở khoa học cho tác giả luận án khái lược về nguồn gốc,

quá trình hình thành, các hình thức thờ tự của tín ngưỡng Thành hoàng vùng

Đồng bằng Bắc Bộ. Hầu hết, các nhà khoa học đều cho rằng, tín ngưỡng thờ

Thành hoàng trở thành hệ thống và phát triển mở rộng từ khi có sự giao thoa

văn hóa với người Trung Quốc. Chính vì thế, các vị thần ở nước ta mang tên

gọi Thành hoàng theo nghĩa Việt hóa. Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng, tín

ngưỡng thờ Thành hoàng của người Việt có điểm khác biệt cơ bản, đó chính là

yếu tố làm nên bản sắc trong tư duy tín ngưỡng tôn giáo của người Việt. Những

nghiên cứu đó là cơ sở khoa học để tác giả luận án góp phần vào việc tiếp tục

nghiên cứu, khái quát về tín ngưỡng thờ Thành hoàng của người Việt vùng

đồng bằng Bắc Bộ, với tư cách là một trong những tín ngưỡng dân gian phổ

biến và đặc trưng của vùng.

1.2. Tình hình nghiên cứu về những yếu tố triết học trong tín

ngƣỡng dân gian của ngƣời Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

Qua khảo sát, tính cho đến thời điểm hiện tại, số lượng các công trình

nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian ở góc độ triết học rất ít. Điển hình trong số

đó là công trình của Trần Đăng Sinh và Nguyễn Hữu Thụ. Bên cạnh đó, việc

bàn về các yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian nói chung và tín ngưỡng

dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, nằm rải rác trong các công trình

nghiên cứu chung ở các góc độ tiếp cận khác nhau. Cụ thể như sau:

1.2.1. Những công trình tiêu biểu bàn về các yếu tố triết học về tự

nhiên trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

Page 33: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

28

Công trình “Những khía cạnh Triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ

tiên của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay” [81] của Trần Đăng Sinh.

Khi bàn về khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tác giả đã

chỉ rõ những khía cạnh triết học đó là những “quan niệm về vũ trụ trong tín

ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ” [81, tr.96]. Cụ

thể trong quan niệm về vũ trụ trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên đó là những

quan niệm về không gian, thời gian - tức những phương thức tồn tại của vật

chất. Không gian trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, theo tác giả, đó là

“không gian trong tâm linh người Việt mang tính đa diện, đa chiều”, không

chỉ có “tám phương trời” mà còn có “mười phương đất”, “trời bao giờ cũng

gắn liền với đất, âm với dương, cao với thấp, đực với cái, nắng với mưa” [81,

tr.110]. Tác giả còn chỉ rõ, “không gian trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của

người Việt còn được thể hiện rõ nét trong việc xác định không gian thờ cúng”

[81, tr.110]. Tác giả kết luận, quan niệm về không gian “ít nhiều mang tính tự

nhiên, chất phác, song nhìn chung là thần bí và duy tâm, thể hiện sự nhận thức

của chủ nhân nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển” [81, tr.110]. Còn quan

niệm về thời gian, tác giả khẳng định, “việc thờ cúng tổ tiên tại gia đình tiến

hành quanh năm, xuất phát từ quan niệm về đạo Hiếu của con cháu đối với tổ

tiên, lòng hiếu thảo của con cháu được biểu hiện khá tập trung ở các ngày sóc,

vọng hàng tháng và lễ tiết chung nhất hàng năm…” [81, tr.112]. Bên cạnh đó,

theo tác giả người Việt quan niệm thời gian có ngày tốt, xấu, nên việc “chọn

ngày, giờ “xấu” ,“tốt” để tiến hành công việc thành thói quan trong nếp nghĩ”

[81, tr.112]. Nếu chỉ phân tích khía cạnh thời gian như vậy, phải chăng đó có

phải là điều gượng ép cho quan niệm về thời gian được biểu hiện trong tín

ngưỡng thờ cúng tổ tiên hay không? Vì thời gian trong triết học là khái niệm

gắn liền với hình thức tồn tại của vật chất. Vậy, nếu quan niệm con người có

phần xác và phần hồn tức có không gian khác nhau, tồn tại ở hai thế giới với

Page 34: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

29

hệ quy chiếu về thời gian khác nhau - tức có sự biến đổi của không gian và

thời gian trong quan niệm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên v.v..

Công trình “Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người

Việt ở đồng bằng Bắc Bộ” [106] của Nguyễn Hữu Thụ, nghiên cứu quan niệm

về tự nhiên và mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong tín ngưỡng thờ

Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ [106, tr.123]. Tác giả cho rằng,

“trong quan niệm của tín ngưỡng thờ Mẫu, yếu tố tự nhiên mà người Việt tìm

cách giải thích không phải là cái quá xa lạ với con người… mà chính là cái

không gian mà người Việt đang sống, là những yếu tố chi phối trực tiếp đến

quá trình sản xuất nông nghiệp của họ. Đó là đất, nước, cây, các hiện tượng

thuộc về thời tiết…” [106, tr.124]. Trong đó, trời “… được hiểu là không gian

sinh sống của nhiều vị thánh thần, trong đó có Mẫu Thượng Thiên…” [106,

tr.127], đất được “tôn vinh là Mẹ - Mẫu Địa” [106, tr.130], nước “… là yếu tố

mang tính âm, là gốc của mọi sự sinh sôi nảy nở của các loài cây trồng… Mẹ

Nước - được gọi là Mẫu Thủy…” [106, tr.131] và trong tín ngưỡng thờ Mẫu,

theo tác giả còn có “Mẫu Thượng Ngàn có nhiệm vụ coi sóc vùng rừng núi”

[106, tr.132]. Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong tín ngưỡng thờ

Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được tác giả phân tích chi tiết,

mang đậm màu sắc triết học. Tác giả nhận định: “Trong mối quan hệ thứ nhất

(quan hệ Mẹ với con), khi coi tự nhiên là mẹ… thì có thể hiểu rằng người Việt

coi… giới tự nhiên đã sinh ra con người, hay nói cách khác, con người đã được

sinh ra từ giới tự nhiên, được tự nhiên nuôi dưỡng và che chở bằng nguồn của

cải vô tận của mình” [106, tr.140]. Mối quan hệ thứ hai là “quan hệ giữa người

con với người mẹ (sự kính trọng, tôn trọng người mẹ)” [106, tr.140].

Ngoài ra, có thể kể đến quan điểm của các tác giả khi nghiên cứu về tín

ngưỡng dân gian, nhưng không trực tiếp đề cập dưới góc độ triết học cũng đã

chỉ ra yếu tố triết học về tự nhiên ẩn chứa trong tín ngưỡng dân gian nói

Page 35: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

30

chung trong đó có tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc

Bộ như: công trình “Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” của

Nguyễn Đăng Duy; công trình “Tư tưởng Việt Nam” của Nguyễn Đăng Thục;

công trình “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” của Ngô Đức

Thịnh; công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam” của

Nguyễn Đức Lữ... và nhiều các công trình nghiên cứu dưới dạng các bài viết

trên các báo và tạp chí khác. Hầu hết các công trình nêu trên đều thừa nhận,

trong quá trình lao động sản xuất, tự nhiên là đối tượng nhận thức chủ yếu của

con người. Họ phản ánh tư duy của mình về tự nhiên được gửi gắm trong tín

ngưỡng dân gian thông qua việc xây dựng nên hình ảnh các vị thần mang

trong mình sức mạnh siêu nhiên, đồng thời gửi gắm nhiều ước mơ, sự khát

khao chinh phục, chiến thắng tự nhiên của cư dân người Việt.

Tóm lại, nhìn chung các công trình nghiên cứu yếu tố triết học về tự

nhiên trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ còn

nằm rải rác trong số ít các nghiên cứu. Hầu hết trong các kết quả nghiên cứu

của các tác giả đều chỉ rõ, các yếu tố triết học về tự nhiên trong tín ngưỡng

dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được biểu hiện rõ nét trong

các quan niệm về tự nhiên là không gian sinh tồn của con người. Tuy vậy,

những nghiên cứu đó mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu yếu tố triết học về tự

nhiên trong từng loại hình tín ngưỡng (chủ yếu là tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên

và tín ngưỡng thờ Mẫu). Song, các kết quả nghiên cứu đó là cơ sở khoa học

để tác giả luận án tiếp tục nghiên cứu theo hướng mới về các yếu tố triết học

tự nhiên trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.

1.2.2. Những công trình tiêu biểu bàn về các yếu tố triết học về con

người trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

Có thể kể đến các công trình nghiên cứu yếu tố triết học về con người:

Page 36: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

31

Công trình “Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ

tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” [81], Trần Đăng Sinh cho rằng,

“con người sinh ra, có sự khác nhau, ai sống lâu, ai chết non, ai được đầu

thai… đều do hai thần trên trời là Nam Tào và Bắc Đẩu quyết định” [81,

tr.114], “người Việt tin rằng khi chết đi thân xác con người trở về với đất

mẹ… còn linh hồn bay lên trời” [81, tr.115] - tức chết không phải là hết, mà

là về một thế giới khác… Về quan niệm nhân sinh quan trong tín ngưỡng thờ

cúng tổ tiên, tác giả phân tích giá trị của nó thể hiện ở các khía cạnh như: Thờ

cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ là sự thể hiện đạo hiếu làm

người; thể hiện ý thức tưởng nhớ đến cội nguồn; là nét đẹp trong sinh hoạt

văn hóa cộng đồng.

Trong công trình “Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” [106], khi nghiên cứu yếu tố triết học về

con người trong tín ngưỡng thờ Mẫu, Nguyễn Hữu Thụ luận giải rằng, trong

quan niệm của các tín đồ tín ngưỡng thờ Mẫu, thì “cá nhân là do căn số của

con người quy định và được sắp xếp từ trước” [106, tr.103]. Còn quan niệm

về mối quan hệ giữa con người với xã hội trong tín ngưỡng thờ Mẫu, tác giả

nhận định, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ phần nào

phản ánh mối quan hệ giữa con người với xã hội thông qua “khát vọng giải

phóng con người (mà trước hết là người phụ nữ) khỏi những ràng buộc và

chế ngự của các thể chế xã hội…” [106, tr.104]. Theo tác giả, tín ngưỡng thờ

Mẫu còn phản ánh những “mong muốn, khát vọng về tự do, hướng thiện, về

cuộc sống hạnh phúc của con người trong quan hệ với xã hội” [106, tr.114] và

“thể hiện truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt

Nam” [106, tr.114].

Ngoài ra, có thể kể đến quan điểm của các tác giả khi nghiên cứu chỉ ra

yếu tố triết học về tự nhiên ẩn chứa trong tín ngưỡng dân gian nói chung trong

Page 37: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

32

đó có tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Chẳng

hạn, công trình “Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” của Nguyễn

Đăng Duy; công trình “Tư tưởng Việt Nam” của Nguyễn Đăng Thục; công

trình “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” của Ngô Đức Thịnh;

công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam” của Nguyễn

Đức Lữ (chủ biên); công trình “Tôn giáo, tín ngưỡng các dân tộc ở Việt

Nam” của Nguyễn Văn Minh, v.v.. Trong các công trình kể trên, ít nhiều

cũng bàn về và chỉ ra quan niệm về cuộc đời con người, số phận của con

người ẩn chứa trong tín ngưỡng dân gian của Việt Nam nói chung và tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng.

Như vậy, có thể thấy rằng, hầu hết trong các công trình nghiên cứu của

các tác giả đi trước, khi đề cấp đến vấn đề quan niệm về con người trong tín

ngưỡng dân gian nói chung, trong đó có tín ngưỡng dân gian của người Việt

vùng đồng bằng Bắc Bộ, đều khẳng định, yếu tố triết học về con người được

phản ánh sắc nét trong tín ngưỡng dân gian trong quan niệm về nguồn gốc, số

phận, cuộc sống của họ trong xã hội hiện tại, cũng như sau khi chết là sống ở

một thế giới khác. Tuy chưa được cụ thể và còn nằm rải rác trong các nghiên

cứu về từng loại hình tín ngưỡng dân gian của vùng, nhưng những công trình

đó là tài liệu quý báu để tác giả luận án tiếp tục nghiên cứu, góp phần làm

sáng tỏ hơn một cách có hệ thống về yếu tố triết học con người trong tín

ngưỡng dân gian của vùng đồng bằng Bắc Bộ.

1.2.3. Những công trình tiêu biểu bàn về các yếu tố triết học về xã hội

trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

Cho tới nay, thực sự chưa có công trình nào chuyên nghiên cứu về yếu

tố xã hội trong tín ngưỡng dân gian được tiếp cận dưới góc độ triết học. Mặc

dù vậy, tìm trong hệ thống các công trình khoa học hiện có, thì công trình

“Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt

Page 38: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

33

vùng đồng bằng Bắc Bộ” [81] của Trần Đăng Sinh và công trình “Khía cạnh

triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ”

[106] của Nguyễn Hữu Thụ có đề cập đến yếu tố triết học về xã hội trong hai

loại hình tín ngưỡng chủ yếu của vùng này là tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên và

tín ngưỡng thờ Mẫu. Khi đề cập tới các vấn đề xã hội trong các tín ngưỡng

dân gian của vùng, hai tác giả đều nhất trí lựa chọn các phương án phân tích

yếu tố xã hội xuất phát từ các mối quan hệ của con người được phản ánh

trong đó; từ đó nêu ra các giá trị ẩn chứa trong chúng. Đó là các truyền thống

tốt đẹp của dân tộc như: uống nước nhớ nguồn, truyền thống yêu nước, đoàn

kết, tương thân tương ái; trân trọng các giá trị cao đẹp của con người, tôn vinh

người phụ nữ… Đó là những cơ sở quan trọng để tác giả luận án kế thừa và

phát triển luận điểm triết học của mình.

Ngoài những công trình kể trên, nghiên cứu về yếu tố xã hội còn được

rất nhiều các các nhà khoa học khác đề cập. Song trong hầu hết, các công

trình nghiên cứu yếu tố triết học xã hội trong tín ngưỡng dân gian được biểu

hiện khá rời rạc. Có thể kể đến một số các công trình chủ yếu sau: Công trình

“Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” của Ngô Đức Thịnh; công

trình “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm; công trình “Góp phần

tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam” của Nguyễn Đức Lữ (chủ biên);

công trình “Tục thờ thánh Mẫu ở Việt Nam” của Vũ Ngọc Khánh; công trình

“Tín ngưỡng và sinh hoạt văn hóa cộng đồng” của Ngô Đức Thịnh (chủ

biên); công trình “Tôn giáo, tín ngưỡng các dân tộc ở Việt Nam” của Nguyễn

Văn Minh, cùng nhiều các công trình khác… Nhìn chung, trong các công

trình nêu trên, đều luận bàn, lý giải các vấn đề xã hội ẩn chứa trong tín

ngưỡng dân gian, trong đó có tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng

bằng Bắc Bộ. Đó là sự đề cao vai trò của người phụ nữ và khát vọng giải

phóng người phụ nữ; đó là tư tưởng đề cao độc lập chủ quyền quốc gia dân

Page 39: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

34

tộc; là sự phản ánh truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết chống giặc

ngoại xâm; là tư tưởng cao đẹp về việc gìn giữ và phát huy giá trị đạo đức

truyền thống.

Như vậy, có thể thấy rằng, hầu hết trong các công trình nghiên cứu của

các tác giả đi trước, khi đề cấp đến các yếu tố triết học về xã hội trong tín

ngưỡng dân gian nói chung, trong đó có tín ngưỡng dân gian của người Việt

vùng đồng bằng Bắc Bộ, đều xoay quanh các quan niệm về xã hội và các mối

quan hệ xã hội. Nội dung của nó đề cập chủ yếu đến vấn đề về người phụ nữ,

về truyền thống yêu nước, truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm,

truyền thống hiếu nghĩa, tinh thần đoàn kết của nhân dân. Tuy nhiên, những

công trình đó mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu yếu tố triết học về xã hội

trong từng loại hình tín ngưỡng dân gian cụ thể, mà chưa có bất cứ công trình

nghiên cứu nào đề cập đến việc nghiên cứu yếu tố triết học về xã hội trong hệ

thống tín ngưỡng dân gian của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Cho nên, qua nghiên

cứu đề tài, tác giả luận án cố gắng làm sáng tỏ vấn đề này.

1.3. Những vấn đề cần tập trung giải quyết trong luận án

Việc nghiên cứu biểu hiện của một số yếu tố triết học cơ bản trong tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, rút ra những giá trị

và những hạn chế của nó đối với đời sống tinh thần của vùng là điều cần thiết.

Tính đến thời điểm hiện tại, thực sự chưa có công trình nào đi vào nghiên cứu

một cách có hệ thống và chuyên sâu. Để làm được điều này tác giả luận án lựa

chọn và xác định những vấn đề thuộc nội dung của luận án cần phải tập trung

giải quyết như sau:

Một là, trên cơ sở tiếp thu những thành tựu nghiên cứu của các tác giả

đi trước để tác giả luận án tìm hiểu thuật ngữ tín ngưỡng dân gian ở góc độ

tiếp cận triết học, qua đó, sử dụng nó như một công cụ để giải quyết các vấn

đề có liên quan đến luận án.

Page 40: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

35

Hai là, tác giả luận án cố gắng làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra

đời, tồn tại của tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ, trên cơ sở đó,

phân loại, miêu tả khái quát và chỉ ra các đặc điểm cơ bản của tín ngưỡng dân

gian vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Ba là, tác giả luận án cố gắng hệ thống hóa, làm rõ hơn nữa một số yếu

tố triết học cơ bản trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng

Bắc Bộ, thông qua các quan niệm về tự nhiên, về con người và về xã hội

trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, thờ Mẫu và thờ Thành hoàng.

Bốn là, luận án cố gắng làm rõ những giá trị và những hạn chế của các

quan niệm về tự nhiên, về con người, về xã hội trong tín ngưỡng dân gian của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.

Tiểu kết chƣơng 1

Đồng bằng Bắc Bộ vốn được coi là cái nôi sản sinh ra các giá trị văn hóa

của cộng đồng người Việt, trong đó có tín ngưỡng dân gian. Cho tới nay, tín

ngưỡng dân gian của người Việt vẫn tồn tại và đang có chiều hướng gia tăng.

Nó là một món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của người dân

vùng châu thổ sông Hồng. Sở dĩ, cho tới nay, tín ngưỡng dân gian không bị

mai một, mà nó còn có chiều hướng ngày càng gia tăng là bởi tồn tại trong nó

có những giá trị nhất định. Chính vì lẽ đó, cho tới nay, bàn về tín ngưỡng dân

gian vùng đồng bằng Bắc Bộ, có nhiều học giả quan tâm nghiên cứu ở nhiều

khía cạnh tiếp cận khác nhau. Từ góc độ lịch sử, văn hóa, tôn giáo, tín

ngưỡng, cho đến triết học đều quan tâm nghiên cứu. Qua việc tổng quan các

công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, đồng thời đánh giá

những thành quả mà các tác giả đi trước đã đạt được và chưa đạt được một

cách khách quan, tác giả luận án nhận thấy nghiên cứu về một số yếu tố triết

học cơ bản trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc

Bộ, trên cơ sở đó rút ra những giá trị và những hạn chế của nó đối với hoạt

Page 41: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

36

động tín ngưỡng dân gian của vùng, thực sự chưa có công trình nào đề cập

đến một cách chuyên sâu và có hệ thống. Do vậy, tác giả nhận thấy, đề tài

“Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng

bằng Bắc Bộ”, mà tác giả lựa chọn làm đề tài luận án Tiến sĩ hoàn toàn không

trùng lắp với bất cứ công trình nghiên cứu nào và hoàn toàn mới so với các

công trình đã công bố từ trước tới nay.

Page 42: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

37

Chƣơng 2

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN CỦA

NGƢỜI VIỆT VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

2.1. Khái niệm tín ngƣỡng dân gian

Đây là khái niệm còn đang có nhiều tranh luận và chưa có sự thống

nhất. Cho đến nay, chúng ta chưa tìm thấy một định nghĩa nào tương đối hoàn

chỉnh về khái niệm này. Cũng chính từ sự chưa có sự phân định rạch ròi về

ngữ nghĩa của hai khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo, nên việc tìm hiểu những

thuật ngữ có liên quan như: tôn giáo nguyên thuỷ, tôn giáo sơ khai, tín

ngưỡng dân gian, tín ngưỡng dân dã... tất yếu sẽ không tránh khỏi lúng túng.

Trong khuôn khổ của luận án này, tác giả chỉ đưa ra quan điểm của mình về

khái niệm tín ngưỡng dân gian với mục đích sử dụng nó là công cụ để giải

quyết các vấn đề liên quan được đề cập.

Nhìn từ góc độ văn hoá, tín ngưỡng dân gian được coi là một hình thức

văn hóa tâm linh, là một thành tố cấu thành của văn hoá. Như vậy, tín ngưỡng

dân gian cũng được xem như một thành tố của văn hoá dân gian. Đây là quan

điểm của Phan Kế Bính, Toan Ánh, Nguyễn Đức Lữ, Trần Quốc Vượng, Trần

Ngọc Thêm và nhiều tác giả khác. Do vậy, nếu văn hoá dân gian được hiểu là

loại hình văn hoá được ra đời từ sự sáng tạo của nhân dân, thì tín ngưỡng dân

gian cũng có thể được xem là loại hình tín ngưỡng do chính nhân dân - trước

hết là những người nông dân - sáng tạo ra trên cơ sở những tri thức phản ánh

sai lệch dưới dạng kinh nghiệm, cảm tính từ cuộc sống hằng ngày. Tín

ngưỡng dân gian còn phản ánh những ước nguyện tâm linh của con người và

của cả cộng đồng, là niềm tin vào thần linh thông qua những nghi lễ thờ cúng,

gắn liền với phong tục, tập quán, truyền thống. Đó cũng chính là đặc điểm cơ

bản để phân biệt sự khác nhau giữa tín ngưỡng dân gian với tín ngưỡng, tôn

giáo. Hồ Bá Thâm cũng nhất trí với cách gọi tín ngưỡng dân gian và cho đấy

Page 43: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

38

“là một lĩnh vực quan trọng trong đời sống tâm linh, rất cần đến sự quan tâm

của toàn xã hội" [88, tr.9].

Nguyễn Minh San gọi tín ngưỡng dân gian là “tín ngưỡng dân dã” có ý

khẳng định về tính nguyên sơ, nguyên thuỷ, tính phổ biến, tính quần chúng

của nó. Tín ngưỡng dân dã bắt nguồn từ niềm tin sơ khởi, ngây thơ, chất phác

của cư dân nông nghiệp, được lưu truyền từ đời này qua đời khác trong dân

gian [79, tr.9].

Nguyễn Thọ Khang thì cho rằng, “tuy có cùng bản chất (nhận thức thế

giới ảo) nhưng tín ngưỡng dân gian ở trình độ chưa phát triển như tôn giáo:

chỉ mới dừng ở các huyền thoại, thần tích, truyền thuyết mà chưa có hệ thống

giáo lý; chưa đối lập hẳn thế giới thần linh với con người nên chưa có tính

cứu thế đầy đủ” [46, tr.28].

Ngược lại, một số tác giả khác lại không tán thành với cách gọi tín

ngưỡng dân gian. Đặng Nghiêm Vạn cho rằng, “thuật ngữ tín ngưỡng dân

gian cần được bàn lại” [118, tr.23]. Nguyễn Đăng Duy cũng đồng tình với ý

kiến này và cho rằng: “...không nên gọi là tín ngưỡng dân gian hay tín ngưỡng

dân dã... cần phải đính chính lại...” [15, tr.25]. Bởi lẽ, theo tác giả, đã có khái

niệm tín ngưỡng dân gian thì phải có khái niệm tín ngưỡng bác học, cũng

giống như đã có khái niệm văn học nghệ thuật dân gian và khái niệm văn học

nghệ thuật bác học. Nếu không thể phân chia như vậy đối với tín ngưỡng thì

chỉ có tín ngưỡng nói chung của cộng đồng người, không có cái gọi là tín

ngưỡng dân gian.

Những quan điểm trên tuy có vẻ trái ngược nhau, nhưng đều chứa đựng

những yếu tố hợp lý nhất định. Bản thân tín ngưỡng vốn không bắt nguồn từ

niềm tin khoa học mà từ niềm tin phi khoa học, tức niềm tin từ những điều

thần bí trong chính cuộc sống của họ mà họ chưa lý giải được. ơn nữa, gọi

tín ngưỡng dân gian, vì các loại hình tín ngưỡng này ra đời từ hoạt động lao

Page 44: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

39

động sản xuất của người dân, trước hết là những người nông dân, từ lâu vốn

đã ăn sâu bén rễ và lưu truyền rộng rãi, đông đảo trong các tầng lớp nhân dân

qua nhiều thế hệ. Do vậy, tác giả vẫn nhất trí với cách gọi “tín ngưỡng dân

gian”. Kế thừa những quan điểm nêu trên, tín ngưỡng dân gian được xem xét

trên những góc độ cụ thể như sau:

Xét về nguồn gốc hình thành, xuất phát từ chính hoạt động lao động

sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào môi trường tự nhiên, trong những điều kiện

bất định, thậm chí nguy hiểm, ở một số thời điểm con người tỏ ra bất lực. Do

đó, con người cần có nhu cầu, mong muốn tìm được một lời giải thích trước

sức mạnh thần bí của tự nhiên và niềm an ủi cho cuộc sống thực tại của họ.

Họ tìm tới niềm tin vào một lực lượng thần bí để giúp họ thích nghi với thực

tế. Do đó, có thể nhận thấy rằng, cũng giống như tín ngưỡng nói chung, tín

ngưỡng dân gian ra đời bắt nguồn từ niềm tin của con người vào cái thiêng,

được hình thành từ chính hoạt động sản xuất vật chất - trước tiên là hoạt động

sản xuất nông nghiệp thâm canh trồng lúa nước, được lưu truyền trong dân

gian từ đời này qua đời khác.

Xét theo hệ thống - cấu trúc, tín ngưỡng dân gian là một thành tố cấu

thành của văn hóa dân gian, là một bộ phận của ý thức xã hội. Bởi vì, các hoạt

động của tín ngưỡng dân gian luôn ẩn chứa những biểu hiện vốn của của văn

hóa dân gian thông qua các lễ hội dân gian truyền thống, gắn liền với các sinh

hoạt tín ngưỡng của người dân. Bên cạnh đó, tín ngưỡng dân gian được coi là

một bộ phận của hình thái ý thức xã hội, bởi vì, xét theo nguồn gốc ra đời thì

tín ngưỡng dân gian là kết quả phản ánh trực tiếp hoạt động lao động sản xuất

nông - lâm - ngư nghiệp của người dân. Nó phản ánh ước mơ, nguyện vọng cầu

bình an, cầu gió thuận mưa hòa, cầu mong được sự che chở của thần linh đối

với đời sống của họ.

Page 45: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

40

Xét theo chức năng, cũng giống như tôn giáo, tín ngưỡng dân gian ra

đời nhằm mục đích giải thích thế giới theo lăng kính của người dân lao động,

phản ánh ước mơ nguyện vọng giản dị nhưng chính đáng của người dân, thể

hiện niềm tin, lòng kính trọng, sự ngưỡng vọng đối với các thực thể thần bí,

siêu nhiên của thế giới. Chẳng hạn, ở nước ta, phương thức sản xuất nông

nghiệp là chủ yếu, vị trí địa lý ba mặt giáp biển, để tồn tại được người dân cần

phải hiểu tự nhiên - tức thế giới mà họ đang sống. Vì thế, họ tìm cách lý giải

chúng theo lăng kính của họ. Tuy nhiên, nhận thức đó còn mang đậm màu sắc

ngây thơ, chất phác. Đồng thời, họ gửi gắm vào đó những ước mơ, nguyện

vọng chính đáng của bản thân, mong được che chở, phù hộ... để họ có cuộc

sống tốt đẹp hơn.

Tóm lại, ở góc độ triết học có thể hiểu tín ngưỡng dân gian là một bộ

phận của ý thức xã hội, tồn tại dưới dạng văn hóa tinh thần, được nhân dân

sáng tạo ra trong hoạt động lao động sản xuất nông nghiệp, được tạo dựng

trên cơ sở niềm tin vào “cái thiêng”, phản ánh đời sống tinh thần phong phú

của người Việt dưới dạng những tri thức kinh nghiệm, cảm tính về thế giới, về

con người, được lưu truyền từ đời này sang đời khác, gắn liền với phong tục,

tập quán trong cộng đồng làng, xã truyền thống của vùng, miền.

2.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến sự hình thành, tồn tại của tín

ngƣỡng dân gian của ngƣời Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

2.2.1. Điều kiện địa lý - tự nhiên

Để tồn tại và phát triển, loài người không chỉ thích ứng với tự nhiên

theo kiểu bản năng sinh tồn của con vật, mà còn cải tạo tự nhiên thông qua

hoạt động lao động sản xuất. Thông qua lao động, con người ngày càng tìm ra

nhiều nguồn thức ăn, giúp cho cơ thể và bộ não phát triển. Lao động giúp con

người hoàn thiện các giác quan, phát triển tư duy và nắm bắt được các quy

luật của tự nhiên. Nhờ bộ óc phát triển, con người từng bước biết so sánh, biết

Page 46: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

41

tổng hợp, biết khái quát để rút ra tri thức bản chất về thế giới. Đặc biệt, thông

qua lao động, con người còn sáng tạo ra các hoạt động văn hóa tinh thần,

trong đó có các hình thái tín ngưỡng - tôn giáo. Các hình thái này phản ánh

ước mơ, nhu cầu nguyện vọng của con người, trước hết là của chính những

người lao động.

Mỗi sinh hoạt tín ngưỡng đều là sự đúc kết các mối quan hệ, phản ánh

mối quan hệ của con người với hiện thực khách quan - môi trường tự nhiên.

Chính môi trường tự nhiên và xã hội là cơ sở hình thành nên tín ngưỡng,

trong đó có tín ngưỡng dân gian. Ở thời kì sơ khai, khi họ phải thường xuyên

phải đối mặt với tự nhiên, cuộc sống của họ bị lệ thuộc chủ yếu vào tự nhiên,

thì tự nhiên là đối tượng nhận thức chính của họ. Do vậy, mối quan hệ giữa

con người với môi trường tự nhiên được coi là mối quan hệ chủ yếu, chi phối

và ảnh hưởng đến các mối quan hệ khác. Ngay cả khi con người có những

bước tiến mới trong lịch sử, thì điều kiện tự nhiên vẫn là nhân tố quyết định,

ảnh hưởng đến sự sinh tồn của họ.

Điều kiện địa lý tự nhiên bao gồm các điều kiện về đất, nước, khí hậu,

khoáng sản… được hiểu là môi trường sinh thái để con người tồn tại và phát

triển. Đó là không gian con người sinh sống, lao động sản xuất để tạo ra

nguồn của cải phục vụ cuộc sống của họ. Bên cạnh đó, con người còn chịu

những ảnh hưởng từ tự nhiên. Tự nhiên nuôi dưỡng con người, song cũng

chính tự nhiên lấy đi sự sống của con người. Tự nhiên không chỉ có vai trò to

lớn đối với sự tồn tại của xã hội, mà hơn thế nữa, nó còn là một trong những

nguyên nhân chính ảnh hưởng đến sự hình thành, tồn tại và phát triển của văn

hóa, trong đó có tín ngưỡng dân gian. Do vậy, nghiên cứu cơ sở hình thành tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ không thể không

nghiên cứu tới các yếu tố về điều kiện địa lý - tự nhiên của vùng.

Page 47: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

42

Theo tài liệu của giới sử học và khoa học địa lý thì đồng bằng sông

Hồng (hay châu thổ sông Hồng, đồng bằng Bắc Bộ) là một vùng đất rộng lớn

nằm quanh khu vực hạ lưu sông ồng thuộc miền Bắc Việt Nam, vùng đất

bao gồm 11 tỉnh và thành phố như: Vĩnh Phúc, à Nội, Bắc Ninh, Hà Nam,

ưng Yên, ải Dương, ải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Quảng

Ninh. Gần như đồng nghĩa với đồng bằng sông Hồng là vùng trung châu,

khác với vùng chân núi trung du và núi cao thượng du. Không giống như

vùng đồng bằng sông Cửu Long, các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng

chỉ có 2 tỉnh Thái Bình và ưng Yên là không có núi, do đó khu vực này

thường được gọi là châu thổ sông Hồng.

Về vị trí, diện tích, đồng bằng Bắc Bộ trải rộng từ 19053’B (huyện

Nghĩa ưng) đến 21034’B (huyện Lập Thạch), từ 105

017’Đ (huyện Ba Vì)

đến 10707’Đ (trên đảo Cát Bà). Về địa lý, toàn bộ miền đồng bằng Bắc Bộ

nằm trên một lớp đá kết tinh cổ, loại giống nền đá ở vùng Đông bắc. Đồng

bằng Bắc Bộ có nhiều ô trũng tự nhiên, điển hình là ô trũng à Nam Ninh, ô

trũng ải ưng và ô trũng Nho Quan. Ngoài ra còn có rất nhiều đầm lầy.

Vùng có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình năm

khoảng 22,5-23,50C. Lượng mưa trung bình năm là 1400-2000mm, là điều

kiện thuận lợi cho thảm thực vật phát triển phong phú đa dạng cả về chủng

loại và giống loài, đặc biệt là điều kiện để cư dân nơi đây phát triển nông

nghiệp thâm canh trồng lúa nước.

Điều kiện địa lý - tự nhiên đó, đã mang đến cho cư dân vùng đồng bằng

Bắc Bộ thảm thực vật đa dạng và phong phú, bao gồm cả tài nguyên rừng, tài

nguyên biển; là môi trường rất thích hợp cho sự phát triển của các loài thực

vật, đa dạng về chủng loại và giống loài hơn là sự phát triển cho hệ động vật

riêng biệt. Đó cũng là điều kiện cho sự phát triển nền nông nghiệp của vùng.

Nhiều kết quả nghiên cứu của ngành khảo cổ học cho thấy, từ xa xưa, cư dân

Page 48: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

43

Việt cổ đã biết thuần hóa các loài thực vật để phục vụ cuộc sống của mình.

Trong cuốn “Đại cương Lịch sử Việt Nam” [78], các nhà sử học Trương ữu

Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh viết:

Dựa vào sự phân tích bào tử phấn hoa ở hang Ma (Thái Lan), các

nhà khảo cổ học dự đoán rằng, có khả năng cư dân văn hóa òa

Bình đã biết đến nông nghiệp sơ khai, nông nghiệp trồng rau quả

hoặc cây cho củ. Cho đến khi bước sang cuối thời kì đá mới cách

chúng ta khoảng 6000 năm, trên cơ sở phát triển mạnh mẽ của kĩ

thuật chế tác đá và làm đồ gốm của cư dân bấy giờ đã đánh dấu

bước chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống. Phần lớn các bộ lạc đều

bước vào giai đoạn nông nghiệp trồng lúa nước [78, tr.18-20].

Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu về khảo cổ học cũng chỉ ra rằng,

sự tiến bộ về kĩ thuật chế tác đá và sự phong phú về loại hình công cụ lao

động sản xuất, nền kinh tế của cư dân người Việt bấy giờ đã có bước phát

triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Địa bàn cư trú của cư dân được mở rộng;

họ di chuyển từ vùng núi cao xuống vùng đồng bằng, ven biển và hải đảo với

các hoạt động kinh tế đa dạng. Xen lẫn với hoạt động nông nghiệp trồng lúa

nước là hoạt động đánh bắt cá ven sông, suối, ven biển. Những dấu vết về

lưỡi rìu, cuốc đá, dấu vết chì lưới, xương cá (phát hiện ở Gò Trũng - Thanh

Hóa, Hạ Long - Quảng Ninh)… là minh chứng cho sự phong phú trong lao

động sản xuất của cư dân nơi đây thời kì sơ khai trong lịch sử.

Như vậy, có thể thấy, đối với người Việt, vai trò của tự nhiên rất quan

trọng. Tự nhiên cung cấp cho họ những nguồn thức ăn cần thiết. Chính vì thế,

muốn tồn tại được, trước hết, họ phải hiểu môi trường họ đang sinh sống.

Giống như các dân tộc của nền văn minh nông nghiệp trên thế giới,

người Việt cũng sống rất hoà đồng, gắn bó với thiên nhiên, bởi chính thiên

nhiên đã đem lại nguồn của cải nuôi sống họ. Sự yêu mến, quý trọng, đã dẫn

Page 49: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

44

họ đến ý thức bảo vệ, tôn thờ, sùng bái tự nhiên. Từ đó, tín ngưỡng thờ đất,

nước, cây cối, súc vật, sông, núi, biển, trời... đã hình thành. Có thể thấy rằng,

những sự vật mà tạo hoá sinh ra trong vũ trụ này - gắn liền với hoạt động sống

của con người đều được người Việt thờ cúng.

ơn nữa, đồng bằng Bắc Bộ với địa hình phức tạp, núi cao xen lẫn với

sông sâu, biển cả và đồng bằng, khí hậu biến đổi thất thường: lũ lụt, hạn hán,

bão tố kéo dài… nên với một nền nông nghiệp tự nhiên là chủ yếu, thì nhu

cầu trị thủy rất quan trọng. Do trình độ nhận thức còn thấp kém, họ bất lực

trước sức mạnh của tự nhiên. Trước sự sợ hãi đó, họ đã thần thánh hóa, ngụy

tạo cho tự nhiên một sức mạnh kì vỹ. Họ sùng bái tự nhiên với niềm tin tránh

khỏi sự trừng phạt. Hình ảnh về các vị thần sông, thần biển, thần mây, thần

mưa, thần sấm, thần chớp, các vị Thánh Mẫu cai quản các vùng trời, biển, đất,

núi rừng… cho đến ngày nay vẫn còn tồn tại. Nó phản ánh sự nhận thức của

con người, và cách ứng xử của con người trước tự nhiên. Đúng như nhận xét

của Ăngghen: “Tất cả mọi tôn giáo, chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào

trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc

sống hàng ngày của họ” [9, tr.437].

2.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

Với phương thức sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, phát triển trên nền

tảng một nền kinh tế phức tạp đa thành phần, nên kết cấu xã hội trong suốt

chiều dài lịch sử phát triển của cư dân người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ đã

để lại những dấu ấn nhất định. Trong cơ cấu kinh tế của cư dân vùng đồng

bằng Bắc Bộ, tuy sản xuất nông nghiệp đóng vai trò chủ yếu, song những

ngành kinh tế khác như tiểu thủ công… cũng đóng vai trò quan trọng. Các

nghiên cứu khảo cổ học cho thấy, từ rất sớm, ở đồng bằng Bắc Bộ đã xuất

hiện những làng nghề truyền thống, có những làng đã làm ra các sản phẩm nổi

tiếng trong khu vực, và cho đến nay lan rộng trên khắp cả nước như: làng

Page 50: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

45

chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình), dệt chiếu ưng à (Thái Bình), làm gốm

sứ Bát Tràng (Gia Lâm - Hà Nội), đúc đồng Nam Định… Với nền sản xuất

nhiều ngành nghề như vậy, tất yếu sẽ dẫn đến nhu cầu trao đổi, buôn bán,

thông thương giữa các vùng, các chợ được hình thành. Phạm vi hẹp có chợ

quê, rộng hơn có chợ huyện, tỉnh. Song, hoạt động thương nghiệp không phải

là hoạt động chủ yếu của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nền kinh tế

nông nghiệp trồng lúa nước mang tính tự nhiên, tự cấp, tự túc vẫn là chính

[81, tr.68]. Do vậy, với đặc trưng của sản xuất nông nghiệp, người Việt buộc

phải liên kết chặt chẽ trong các cộng đồng làng xóm để quai đê, lấn biển, khai

phá rừng, mở rộng địa bàn sinh sống, và chống lại sự bành trướng xâm nhập

lãnh thổ, đồng hóa văn hóa của kẻ thù.

Nhiều nhà nghiên cứu như Nguyễn Hùng Hậu, Trần Đăng Sinh… đã

chỉ ra rằng, phương thức sản xuất của cư dân nông nghiệp Việt Nam, trong đó

có cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, có dấu ấn của phương thức sản xuất châu

Á. Do đó, xét về mặt kinh tế, Nguyễn Hùng Hậu viết, “sở hữu chỉ tồn tại với

tư cách là sở hữu tập thể về ruộng đất, bởi vậy, không có sở hữu tư nhân

(không có chế độ tư hữu) về ruộng đất và đó là tất cả các hiện tượng của

phương Đông, là chiếc chìa khóa để hiểu toàn bộ phương Đông” [31, tr.43].

Và như vậy, ở Việt Nam cũng không loại trừ những đặc điểm chung đó. Xét

trong phương thức sản xuất châu Á, theo Nguyễn Hùng Hậu, về mặt xã hội,

“công xã nông thôn có tính chất biệt lập, nó giống như những ốc đảo độc lập,

như những mảnh nhỏ của con giun sau khi chặt đứt ra chúng vẫn sống và tồn

tại.” [31, tr.44]. Trên cơ sở đó, xét theo cấu trúc xã hội của người Việt nói

chung, và cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng, thì “làng có cấu trúc chặt,

là đơn vị kinh tế - xã hội - quân sự - văn hóa hoàn chỉnh” [81, tr.69]. Làng là

tập hợp của những dòng họ, lấy gia đình làm hạt nhân nền tảng. Họ sống quần

tụ trong một không gian chung, lao động sản xuất và có những hình thức sinh

Page 51: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

46

hoạt văn hóa tinh thần đáp ứng nhu cầu tâm linh tín ngưỡng của họ. Do vậy,

với tư cách là một đơn vị kinh tế trong phương thức sản xuất châu Á, thì làng

của người Việt Nam nói chung, trong đó có làng của người dân vùng đồng

bằng Bắc Bộ nói riêng, có vai trò hết sức quan trọng. Đó là, việc hình thành

và gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, tâm linh, tín ngưỡng, trong đó

có ý thức về cội nguồn, lòng biết ơn những người đã có công tạo dựng nghề

nghiệp và cả những người đã chiến đấu để bảo vệ cuộc sống cho mọi người.

Bên cạnh hoạt động lao động sản xuất, cư dân người Việt vùng đồng

bằng Bắc Bộ luôn phải chống giặc ngoại xâm, chống lại sự bành trướng, xâm

lược lãnh thổ và đồng hóa văn hóa. Theo nhận định của các nhà nghiên cứu

thì, vào cuối giai đoạn văn minh sông ồng, trên cơ sở văn hóa Đông Sơn

phát triển rực rỡ, nhà nước Văn Lang ra đời. Mặc dù, đó là nhà nước phôi

thai, kết cấu cộng đồng nguyên thủy vẫn chưa hoàn toàn bị thủ tiêu, sự phân

hóa giai cấp, phân công lao động, sự xuất hiện của chế độ tư hữu, v.v.. chỉ

mới bắt đầu, thì đã bị nhà Tần, rồi đến nhà án xâm lược, đặt ách nô dịch hơn

nghìn năm. Cộng đồng đó, đáng lẽ bị phá vỡ trong quá trình phát triển của

Nhà nước Văn Lang, thì nay phải cố kết để tạo nên sức mạnh chống xâm lược

và chống đồng hóa. Phan Huy Lê cho rằng, chỉ tính từ cuộc kháng chiến

chống quân Tần thế kỉ III Tr.CN đến 1975, dân tộc ta đã phải tiến hành 15

cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, trong đó có 12 cuộc chiến tranh giành thắng

lợi hiển hách, chỉ có 3 cuộc kháng chiến bị thất bại tạm thời dẫn đến ba giai

đoạn mất nước đau thương và nguy hiểm [31, tr.36]. Cùng với quan niệm

cuộc sống của con người vẫn tồn tại sau khi chết, nên người Việt muốn bày tỏ

lòng biết ơn đối với những vị tướng tài ba, những vị anh hùng áo vải và các

nghĩa sĩ đã anh dũng hi sinh để đem lại cho họ cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Họ đã suy tôn các vị ấy thành những vị thần với những chức tước và phẩm

hàm qua sự cống hiến của họ. Chẳng hạn, việc thờ cúng vị vua Hùng, thờ

Page 52: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

47

cúng các vị vua, vị tướng tài của các triều đại như oàng Mười (tức tướng Lê

Khôi dưới triều Lê, giúp Lê Lợi đánh tan giặc Minh), ưng Đạo Đại Vương

Trần Quốc Tuấn, cho đến việc thờ cúng Tổ tiên trong gia đình…

2.2.3. Ảnh hưởng của sự giao lưu văn hóa

Quá trình giao thoa văn hóa là một trong những điều kiện để tín

ngưỡng dân gian cũng như các yếu tố văn hóa, tư tưởng có thể dung hòa cùng

tồn tại. Đó có thể là sự giao thoa giữa văn hóa bản địa với các văn hóa ngoại

lai. Biểu hiện cụ thể ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, đó là sự ảnh hưởng mạnh mẽ

của các tư tưởng văn hóa ngoại lai, đặc biệt là tư tưởng của Nho giáo, Phật

giáo và Đạo giáo đối với các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của vùng. Bàn về

điều này, các nhà nhân học Mỹ cho rằng “giao lưu tiếp biến văn hóa là quá

trình trong đó một nên văn hóa thích nghi, ảnh hưởng một nền văn hóa khác

bằng cách vay mượn nhiều nét đặc trưng của nền văn hóa ấy” [56, tr.10]. Cụ

thể vấn đề này như sau:

- Sự ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với tín ngưỡng dân gian

của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ:

Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn của thế giới, có sức ảnh hưởng

và lan tỏa ra khắp các ngõ ngách trong đời sống tinh thần của người dân

những nơi mà nó xâm nhập. Phật giáo ra đời ở Ấn Độ, do thái tử Tất Đạt Đa

sáng lập, và sau này được các học trò của ông tổng kết lại những lời dạy của

Phật trong Tam Tạng Kinh. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau khi bàn

về sự du nhập của Phật giáo vào nước ta. Trong cuốn “Hỏi và đáp về văn hoá

Việt Nam” cũng nêu: “Đạo Phật vào đất Việt Nam từ rất sớm, sách Thủy

Kinh Chú (đời Đường - Trung Quốc) có ghi vào thế kỉ III Tr.CN, vua Asoka

đã cho dựng một ngôi tháp Phật ở núi Nê Lê (Đồ Sơn - Hải Phòng)” [74,

tr.137]. Lại có sách ghi rằng: “Phật giáo về đại thừa truyền vào nước ta

khoảng thế kỉ thứ II, thứ III” [1, tr.255]. oà thượng Thích Thanh Từ cũng

Page 53: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

48

khẳng định: “Đạo Phật có mặt trên lãnh thổ Việt Nam khoảng cuối thế kỉ thứ

II, đầu thế kỉ thứ III” [116, tr.11]. Như vậy, cho dù có nhiều quan điểm khác

nhau về thời điểm Phật giáo được truyền bá vào Việt Nam, có thể khẳng định

Phật giáo du nhập vào nước ta từ rất sớm. Song, điều đáng chú ý là, trước khi

Phật giáo vào nước ta thì đã có sự hình thành những mầm mống tín ngưỡng

dân gian của người Việt - đây là điều không ai có thể phủ nhận.

Phù hợp với tinh thần vị tha, bao dung giữa người với người trong đời

sống tinh thần của người Việt, Phật giáo đã nhanh chóng hòa nhập và thâm

nhập sâu vào trong đời sống, thẩm thấu và đan xen vào các sinh hoạt tín

ngưỡng dân gian của người Việt nói chung và ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nói

riêng.

Sự tiếp nhận và ảnh hưởng của Phật giáo đối với tín ngưỡng dân gian

của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được thể hiện ở những nội dung cơ

bản sau:

Phật giáo từ Ấn Độ khi du nhập vào Việt Nam, đã có sự thay đổi cho

phù hợp với điều kiện thực tiễn. Điều đó có thể nhận thấy trong phật giáo Ấn

Độ, tính nam giới được đề cao, nhưng khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo

được nữ hóa. Trong tư duy của người Việt, người phụ nữ có vai trò hết sức

quan trọng. Thường thì khi để chỉ một điều gì đó quan trọng, người Việt

thường sử dụng các từ ngầm chỉ tới Mẹ như: đường cái, sông cái, đũa cả…

Và trong sinh hoạt tín ngưỡng, dựa trên cơ sở hoạt động sản xuất nông nghiệp

là chính, nên người Việt có các tục thờ Mẹ - biểu tượng của đất, nước, trời.

Do vậy, để thích nghi và tồn tại được, thì Phật giáo đã có những sự biến đổi,

và kết hợp nhuần nhuyễn một cách hòa bình với tín ngưỡng bản địa. Chẳng

hạn, hình ảnh Mẫu Man Nương là biểu tượng của tín ngưỡng thờ những vị

thần tự nhiên có vai trò to lớn trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của nước

ta. Những vị thần cai quản trong sản xuất nông nghiệp có thể kế đến như Bà

Page 54: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

49

Dâu, Bà Đậu, Bà Tướng, Bà Dàn được Phật giáo hóa, trở thành những vị Phật

Bà, với những đặc điểm nổi bật của nền văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước,

gắn liền với việc cầu mong sự sinh sôi nảy nở, phồn thịnh, bội thu, mưa thuận

gió hòa. Hình ảnh Phật Mẫu Man Nương được xây dựng độc đáo trong Cổ

Châu Phật Bản Hạnh, đã phản ánh sự kết hợp một cách hài hòa, tinh tế trong

hòa bình của Phật giáo từ Ấn độ du nhập sang nước ta. Từ lâu, trong tâm thức

của người dân hình ảnh Mẫu Man Nương được ví như người mẹ Xứ sở -

giống như trong thần thoại Hi Lạp Gai-a được ví như mẹ của vị thần ngự trị

tam giới đó là thần Dớt. Sức mạnh cùng với sứ mệnh, Mẫu Man Nương được

người dân ca tụng và lập đàn thờ. Hệ thống chùa Tứ pháp là sự khẳng định

sức sống và xu hướng đề cao vai trò tính nữ trong tín ngưỡng bản địa của cư

dân nông nghiệp trồng lúa nước trước sự du nhập của đạo Phật vào nước ta.

Ngoài ra, có thể kể đến sự đan xen kết hợp hài hòa giữa Phật giáo và tín

ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh - tục thờ Tam phủ, Tứ Phủ. Có thể thấy rằng, bên

cạnh Chử Đồng Tử, thánh Tản Viên, thánh Gióng thì không thể thiếu hình

ảnh của thánh Mẫu Liễu Hạnh - được coi là một trong tứ bất tử trong tâm thức

của người Việt Nam. Nguyễn Hữu Thụ viết, “dựa theo truyền thuyết, mẫu

Liễu Hạnh được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cứu khi bà bị thua trọng trận

chiến Sòng Sơn với các ông Thánh của phái Nội Đạo Tràng. Từ đó, Mẫu đã

quy y Phật pháp trở thành một tín đồ của đạo Phật” [106, tr.59]. Ngày nay,

trong các chùa thường có gian thờ Mẫu trong quần thể thờ Phật. Sự đan xen,

kết hợp hài hòa giữa đạo Phật với tín ngưỡng thờ mẫu cho thấy tính dung hòa

trong tôn giáo và tín ngưỡng của người Việt.

Bên cạnh đó, sự kết hợp hài hòa giữa Phật giáo và tín ngưỡng bản địa

còn thể hiện cội nguồn sức mạnh của sự từ bi, hỉ xả, của bác ái, vị tha, tinh

thần tương thân tương ái. Tư tưởng về triết lý nhân sinh đã làm cho Phật giáo

có ảnh hưởng khá sâu đậm tới lối sống, nếp nghĩ của người Việt. Tinh thần

Page 55: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

50

“từ bi hỉ xả”, “cứu một mạng người bằng xây bảy tòa tháp”, tinh thần “tự độ

độ tha, tự giác giác tha” nhắc nhở con người không phải sống chỉ vì mình mà

còn sống vì người khác. Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ triết lý nhân sinh của

Phật giáo, tín ngưỡng của người Việt, bên cạnh sự phong phú đa dạng còn thể

hiện tính nhân văn, vì con người. Hệ thống tín ngưỡng của người Việt không

chỉ dừng lại ở sự tôn sùng, thờ phụng sức mạnh siêu nhiên của một đấng tối

cao nào đó, hay suy tôn một lực lượng cá nhân nào đó có vai trò đối với đời

sống của họ mà còn thể hiện tính nhân văn cao cả. Đó là sự biết ơn đối với

những người có công với Tổ quốc, biết ơn Tổ tiên giống nòi, biết ơn các vị

thánh thần, biết ơn những bậc sư tổ, v.v… Tất cả đã mang đến sự kết hợp hài

hòa, nhuần nhuyễn giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian của người Việt. Sự

tồn tại tín ngưỡng dân gian, sự đan xen, ảnh hưởng của Phật giáo từ bao đời

nay trở thành cái nôi dung dưỡng tâm hồn người Việt.

Như vậy, sự xâm nhập, ảnh hưởng của Phật giáo với tín ngưỡng dân

gian của người Việt rất rõ nét. Điều đó không chỉ thể hiện trong hình thức thờ

cúng mà cả trong nội dung sinh hoạt tín ngưỡng cũng như trong tâm thức tín

ngưỡng tâm linh của người Việt. Sự giao thoa văn hóa đó thể hiện giá trị nhân

văn, nhân đạo, hướng con người tới những giá trị tốt đẹp của cuộc sống.

- Sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với tín ngưỡng dân gian của người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ:

Nho giáo là một trong những trường phái triết học chính thống của

Trung Hoa cổ đại. Người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử, về sau này được

các học trò của ông biên tập lại các tư tưởng, tập trung chủ yếu trong Tứ Thư

và Ngũ Kinh. Cũng giống như Phật giáo, Nho giáo có ảnh hưởng sâu rộng

không chỉ trong lĩnh vực chính trị, mà còn cả trong đời sống tinh thần, trong

đó có các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian của người dân Việt Nam nói

chung, và cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Việc tiếp thu tư tưởng

Page 56: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

51

của Nho giáo, ít nhiều đã ảnh hưởng đến sinh hoạt tín ngưỡng của dân tộc ta.

Đó là các tư tưởng về tam cương, ngũ thường, về xây dựng mẫu hình người

quân tử có nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, góp phần tô đậm hơn giá trị trong sinh hoạt

tín ngưỡng của người Việt nói chung và người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

nói riêng.

Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đến sinh hoạt tín ngưỡng dân gian

của người Việt thể hiện rõ nét trong các nội dung và sinh hoạt tín ngưỡng.

Như chúng ta đã biết, hầu như các nghi thức được tiến hành trong sinh hoạt

tín ngưỡng đều được các nhà Nho ghi lại, truyền lại và tổ chức sinh hoạt cho

người dân. Do vậy, sinh hoạt tín ngưỡng của người Việt ít nhiều bị ảnh

hưởng. Nho giáo coi chữ Nhân là đạo đức hoàn thiện nhất “Nhân dã, Nhân

giả” (kẻ có nhân ấy, ấy là con người vậy) “nhân giả ái nhân” (người có nhân

thì yêu con người). Vì thế, Nho giáo đã góp phần khắc họa và tô đậm hơn cho

giá trị nhân văn trong sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của dân tộc ta. Trong xã

hội ngày nay, tư tưởng đạo đức của Nho giáo vẫn được coi trọng và thể hiện

qua cách hiểu, cách sống “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, các phong

trào thực hiện nếp sống văn minh, văn hóa, uống nước nhớ nguồn, các nghĩa

cử tương thân tương ái. Bên cạnh đó, tư tưởng của Nho giáo luôn trọng gia

đình, xem gia đình là gốc của quốc gia, gia đình đó phải được xây dựng trên

nền tảng của luân lý thành kính tổ tiên, hiếu nghĩa với cha mẹ. Có thể thấy,

trong tâm thức của người Việt Nam, hiếu đễ với cha mẹ luôn là lẽ sống, là đạo

lý làm người. Khi Nho giáo xâm nhập vào nước ta đã góp phần nâng cao, hệ

thống hóa và làm sâu sắc hơn tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Tuy nhiên, hình

thức thể hiện của Nho giáo có phần khắt khe, nhưng khi thâm nhập vào đời

sống tinh thần của nhân dân ta, nó đã được cải biến cho phù hợp, nó không

còn khiên cưỡng, khắt khe giống như trong lễ nghi thờ tự của Nho giáo.

Page 57: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

52

Ngoài ra, tư tưởng thiên - địa - nhân hợp nhất của Nho giáo được coi là

một trong những nội dung quan trọng và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ trong

sinh hoạt tín ngưỡng của người dân nước ta. Đối tượng mà Nho giáo hướng

tới không phải là quần chúng nhân dân, mà chủ yếu là vua quan, phong kiến

triều đình. Song, với sức ảnh hưởng lan rộng của mình, Nho giáo đã thấm

đượm vào các sinh hoạt văn hóa tinh thần, trong đó có sinh hoạt tín ngưỡng

dân gian. Chẳng hạn, trong sinh hoạt thờ Tam phủ, Tứ phủ, thờ các vị anh

hùng, thần linh, thờ thổ công, thổ địa, thờ các vị sơn thần, hà bá đều chịu ảnh

hưởng bởi tư tưởng thiên - địa - nhân hợp nhất của Nho giáo. Các hình thức

sinh hoạt tín ngưỡng có sự lồng ghép đan xen vào nhau giữa các yếu tố trời,

đất và con người để cầu mong mưa thuận, gió hòa, cầu bình an cho dân

chúng. Tư tưởng Nho giáo khi thâm nhập vào các sinh hoạt tín ngưỡng, đã

góp phần khắc họa đậm nét hơn, nâng cao hơn nữa giá trị tư tưởng của các

sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của người dân nói chung và của cư dân vùng

đồng bằng Bắc Bộ nói riêng.

Như vậy, ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đã góp phần tăng thêm giá

trị và sức sống bền lâu cho các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của người dân đất

Việt. Tiếp thu những giá trị tốt đẹp của tư tưởng Nho giáo đã tạo nên sức sống

lâu bền và tô đậm thêm giá trị nhân văn cho các sinh hoạt tín ngưỡng của cư

dân người Việt nói chung, và của cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng.

- Sự ảnh hưởng tư tưởng Đạo giáo đối với tín ngưỡng dân gian của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ:

Cùng với Phật giáo và Nho giáo, Đạo giáo du nhập vào nước ta từ khá

sớm. Phần lớn các nghiên cứu của nhiều học giả đều khẳng định rằng, “đạo

giáo Trung Quốc du nhập vào nước ta khá sớm, ít nhất là từ thời Bắc thuộc.

Với tính chất phương sĩ ma thuật vốn có nguồn gốc từ những tín ngưỡng

Saman giáo và ma thuật ở Trung quốc, Đạo giáo thâm nhập dễ dàng vào các

Page 58: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

53

tín ngưỡng của nước ta, bởi sự tương đồng với tín ngưỡng bản địa: tính chất

đa thần và giàu chất trực quan. Ngay từ khi Nho giáo chưa tìm được chỗ đứng

trong xã hội ta, thì Đạo giáo (đặc biệt là Đạo giáo phù thủy) đã nhanh chóng

bắt nhịp, đan xen vào các sinh hoạt tín ngưỡng ở nước ta. Thời tiền sử, người

Việt đã biết dùng bùa chú, bởi họ tin rằng có thể trị tà ma, chữa bệnh, sai âm

binh, tàng hình, v.v.. Điều đó càng khiến người Việt càng tin vào các ma thuật

biến hóa của Đạo giáo, lấy đó làm cơ sở để nâng giá trị trong sinh hoạt tín

ngưỡng của mình. Đối tượng và nghi thức thờ cúng cùng với các tập tục của

Đạo giáo là môi trường thuận lợi cho những ông đồng, bà cốt, thầy cúng, thầy

địa lý, thầy tướng số hành nghề. Trần Ngọc Thêm viết:

Trong khi Nho giáo chưa tìm được chỗ đứng ở Việt Nam thì Đạo

giáo đã tìm thấy ngay những tín ngưỡng tương đồng có sẵn từ lâu…

Vì vậy dễ hiểu tại sao Đạo giáo, trước hết là Đạo giáo phù thủy, đã

thâm nhập nhanh chóng và hòa quyện dễ dàng với tín ngưỡng ma

thuật cổ truyền tới mức không còn ranh giới. Do vậy mà tình hình

Đạo giáo ở Việt Nam rất phức tạp, khiến cho không ít nhà nghiên

cứu đã quy hết mọi tín ngưỡng cổ truyền Việt Nam cho Đạo giáo, và

ngược lại, người Việt Nam sính đồng bóng, bùa chú thì lại chẳng biết

Đạo giáo là gì [90, tr.227].

Vì vậy, một số tín ngưỡng của nước ta hiện nay, nếu nhìn bề ngoài, thì

có vẻ là sản phẩm của Đạo giáo, nhưng kỳ thực đó là tín ngưỡng dân gian của

người Việt Nam với một vài ảnh hưởng của Đạo giáo. Chẳng hạn, Đạo Mẫu

là một hình thức Đạo giáo đậm chất Việt Nam. Hoặc, trong tục thờ Thần,

Thánh, thờ Tổ tiên đều mang màu sắc của Đạo giáo, nhưng nó lại là một hệ

thống tín ngưỡng vốn có của dân tộc ta, ra đời từ chính hoạt động sản xuất

nông nghiệp. Yếu tố tư tưởng của Đạo giáo chỉ là sự biểu hiện về mặt hình

Page 59: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

54

thức, còn sự ảnh hưởng về nội dung đối với các sinh hoạt tín ngưỡng này là

không đáng kể.

Có thể thấy rằng, so với Phật giáo và Nho giáo, Đạo giáo thầm thấu một

cách tự nhiên vào trong đời sống tâm linh và các sinh hoạt tín ngưỡng của

người Việt. Giữa Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian của người Việt nói chung và

của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng rất khó có thể phân định rạch

ròi. Sự kết hợp đó, càng góp phần tô đậm thêm nét riêng của nền văn hóa Việt,

mang đậm phong cách Việt, tồn tại lâu dài cho tới tận ngày nay.

Tóm lại, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

hình thành từ thời nguyên thủy, nó là sự phản ánh hư ảo về thế giới và con

người. Điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội và văn hóa, tư tưởng là

những nhân tố trực tiếp tác động đến quá trình hình thành và tồn tại của tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ngày nay, tín

ngưỡng dân gian vẫn tồn tại khá phổ biến trong xã hội và đang có xu hướng

phát triển mạnh mẽ.

2.3. Phân loại và một số đặc điểm nổi bật của tín ngƣỡng dân gian

của ngƣời Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

2.3.1. Cơ sở phân loại tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng

bằng Bắc Bộ

Việc khảo sát các công trình nghiên cứu cho thấy, đến nay chưa có một

công trình nghiên cứu chuyên sâu về cách thức phân loại tín ngưỡng dân gian

của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Do vậy, dựa trên các kết quả nghiên

cứu của các nhà khoa học về tín ngưỡng và tín ngưỡng dân gian là cơ sở để

tác giả có những căn cứ khoa học phân loại tín ngưỡng dân gian của người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Thứ nhất, dựa trên cơ sở đối tượng sùng bái:

Page 60: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

55

+ Dựa trên cơ sở đặc trưng của đối tượng sùng bái, Toan Ánh phân chia

tín ngưỡng dân gian như sau: Thờ phụng Tổ tiên, thờ các vị thần thánh linh

thiêng: Thờ thần linh, thờ Thổ công, Thần tài, Tiên sư, Thánh sư, Nghệ sư;…

Tuy nhiên, với cách phân chia như vậy, thì không thể bao quát hết các loại

hình tín ngưỡng dân gian khác.

+ Dựa trên cơ sở phạm vi đối tượng sùng bái, Nguyễn Minh San phân

chia tín ngưỡng dân gian thành ba loại hình chủ yếu là: “tín ngưỡng phồn thực

;tín ngưỡng sùng bái con người; tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Đó cũng là

cách phân chia mà Nguyễn Đăng Duy đã làm. Theo Nguyễn Đăng Duy, dựa

trên cơ sở phạm vi tác động rộng hay hẹp của đối tượng sùng bái, tín ngưỡng

dân gian được phân chia thành ba nhóm cơ bản: tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên;

tín ngưỡng thờ Thần; tín ngưỡng thờ Mẫu.

Thứ hai, dựa trên cơ sở hình thái học, Ngô Đức Thịnh đã phân loại tín

ngưỡng như sau: 1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên (gia tộc, dòng họ, quốc gia)

tô tem giáo; 2. Tín ngưỡng cá nhân (vòng đời)…; 3. Tín ngưỡng nghề

nghiệp…; 4. Tín ngưỡng thờ Thần (đạo thờ Thần)

Thứ ba, căn cứ vào những nét chung chủ yếu của các loại hình tín

ngưỡng, Nguyễn Tri Nguyên tập hợp vào bốn nhóm chính là: tín ngưỡng thờ

cúng Tổ tiên, tín ngưỡng vòng đời người (tín ngưỡng và nghi lễ liên quan tới

sự sinh nở, thờ cúng ông tơ bà nguyệt, thờ bản mệnh, lễ tang ma và thờ cúng

người chết), tín ngưỡng nghề nghiệp (tín ngưỡng nông nghiệp, tín ngưỡng thờ

tổ nghề, thờ thần tài, thờ cá ông), tín ngưỡng thờ thần (thờ Thành hoàng, thờ

Mẫu, thờ các anh hùng dân tộc, thờ thổ thần, sơn thần, thủy thần).

Như vậy, có rất nhiều cách tiếp cận để phân chia tín ngưỡng dân gian

thành các loại hình khác nhau. Mỗi cách tiếp cận có những yếu tố hợp lý và

những hạn chế nhất định. Song, đó là cơ sở khoa học để tác giả luận án kế

thừa trong việc xác định các loại hình tín ngưỡng dân gian của người Việt

Page 61: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

56

vùng đồng bằng Bắc Bộ. Qua việc nghiên cứu các tài liệu cho thấy, cũng

giống như các vùng khác trên cả nước, tín ngưỡng dân gian của người Việt

vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng có những loại hình tín ngưỡng dân gian giống

với các vùng khác trên cả nước, song lại mang đặc trưng vốn có của vùng,

miền. Thông qua nghiên cứu tài liệu khoa học của các tác giả tiêu biểu ở Việt

Nam như Trần Ngọc Thêm, Trần Quốc Vượng, Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Đức

Lữ và nhiều tác giả khác về phân loại tín ngưỡng dân gian, tác giả luận án

nhất trí theo cách phân loại dựa trên cơ sở đối tượng sùng bái. Do vậy, tín

ngưỡng dân gian chủ yếu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được phân

loại cụ thể như sau:

Một là, tín ngưỡng Phồn thực

Hai là, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên

Ba là, tín ngưỡng thờ Mẫu

Bốn là, tín ngưỡng thờ Thành hoàng

Năm là, một số tín ngưỡng nông nghiệp:

+ Tín ngưỡng thờ thần tự nhiên (thờ Tứ pháp)

+ Tín ngưỡng thờ hồn lúa

+ Tín ngưỡng thờ thần mặt trời

Tuy nhiên, để đạt được mục đích nghiên cứu, đối tượng và phạm vi

nghiên cứu của luận án, tác giả chỉ khái quát các hình thức tín ngưỡng dân

gian mang tính chất đặc trưng của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, đó là

tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng thờ Thành

hoàng.

2.3.2. Khái lược về một số tín ngưỡng dân gian chủ yếu của người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

2.3.2.1. Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên

Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng dân gian phổ

Page 62: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

57

biến và tiêu biểu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ra đời trên cơ sở

dựa trên quan niệm tâm linh của con người về thế giới, thể hiện ý thức hướng

về cội nguồn của người Việt. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của Nho giáo về

chữ hiếu, “trung chi quân, hiếu chi phụ mẫu, dữ chi bản” (trung với vua, hiếu

với cha mẹ là cùng một gốc vậy) mà tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên được hợp

thức hóa và thể chế hóa. ơn nữa, xuất phát từ chính phương thức sản xuất

chủ yếu là nông nghiệp, đã tạo nên quan hệ gần gũi, gắn bó giữa các thành

viên trong gia đình không chỉ về máu thịt mà còn cả về tâm linh. Về điều này,

Trần Đăng Sinh viết, “do đặc trưng khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm, gió mùa nên

Việt Nam sản xuất lúa nước theo kiểu truyền thống tiểu canh và cũng do đặc

điểm kiến tạo địa lý, với đồng cỏ vừa nhỏ vừa ít nên chỉ phù hợp với kiểu

chăn nuôi tiểu gia súc. Vì vậy, ở nước ta, sản xuất không đòi hỏi tập trung

nhân công theo quy mô lớn như ở nơi sản xuất lúa mì khô… Kết quả tất yếu

của quy trình sản xuất này khiến người Việt gắn bó với gia đình (thường là

gia đình hạt nhân) chặt hơn với dòng họ” [106, tr.43].

Các hình thức thờ cúng Tổ tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

hết sức đa dạng. Sự đa dạng đó là do đặc trưng về điều kiện địa lý tự nhiên và

phương thức sản xuất, cách thức tổ chức dân cư quy định. Nguyễn Đăng Duy

viết, ở miền Nam: Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên gọi là Đạo Ông bà,... ở Huế,

Quảng Nam, Quảng Ngãi thì gọi là Thần khai canh Khai cư. Nhưng quá vào

Nam Trung Bộ và khắp Nam Bộ, thì gọi thờ Tiền hiền khai khẩn, Hậu hiền

khai cơ… [16, tr.37-38]. Còn ở ngoài bắc nói chung và vùng đồng bằng Bắc

Bộ nói riêng, thì gọi chung là tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên.

Mặt khác, xét ở góc độ phạm vi thờ cúng, thì có thể nhận thấy rõ trong

sinh hoạt tín ngưỡng này có thể chia thành hai loại: thứ nhất, thờ cúng Tổ tiên

trong phạm vi gia đình, dòng tộc; thứ hai, thờ cúng Tổ tiên trong phạm vi

quốc gia dân tộc. Cả hai loại hình tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt

Page 63: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

58

ở vùng đồng bằng Bắc Bộ đều được thể hiện đầy đủ.

Thứ nhất, xét trong phạm vi gia đình, dòng họ. Có thể thấy, hầu hết

trong các gian thờ của mỗi gia đình, không phân biệt là gia đình lớn nhỏ, thì

đều có ban thờ tự Tổ tiên. Ngay cả những gia đình theo đạo Thiên Chúa, trong

tư gia của họ cũng có gian thờ Tổ tiên của họ. Việc thờ cúng Tổ tiên trong các

dòng họ được tiến hành ở Từ đường. Từ đường thường được xây dựng ở một

khu đất riêng - gọi là đất của họ tộc. Mỗi họ tộc có các ngành, các chi hợp lại,

phân nhánh, phân khúc song họ đều có một đặc điểm chung đó là có cùng một

cội nguồn - chung một ông Tổ.

Thứ hai, xét ở phạm vi quốc gia, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên được thể

hiện trong tín ngưỡng thờ vua Hùng, thờ các vị có công cộng đồng làng xã.

Xuất phát từ câu chuyện dân gian truyền lại, người Việt ta được sinh ra từ

trong bọc trứng một trăm con của cha Lạc Long Quân và bà mẹ Âu Cơ. Ngoài

ra, đó còn là việc thờ phụng những người có công với cộng đồng làng, xã như

những vị có công khai khẩn lập làng, có công dạy dân học nghề, dạy dân học

chữ và coi họ là các vị Thành hoàng của nhân dân.

Như vậy, xét về bản chất, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên là một trong loại

hình tín ngưỡng dân gian phổ biến của người Việt. Nó được hình thành trên

cơ sở niềm tin của con người về sự bất tử của linh hồn, nó thể hiện lòng biết

ơn, đạo lý uống nước nhớ nguồn của nhân dân. Sự ra đời và tồn tại của tín

ngưỡng thờ cúng Tổ tiên trở thành một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa tinh

thần của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.

2.3.2.2. Tín ngưỡng thờ Mẫu

Thờ Mẫu là một trong những loại hình tín ngưỡng dân gian nhiều sắc

thái nổi bật của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thực hành tín ngưỡng

thờ Mẫu được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thế giới vào

tháng 12 năm 2016. Tín ngưỡng thờ Mẫu gần gũi với tự nhiên, đất trời và gắn

Page 64: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

59

với thân phận của người phụ nữ Việt Nam. Người ta đến với Mẫu để mong

cầu tìm được chỗ dựa về tinh thần, tìm được sự che chở của người mẹ. Tín

ngưỡng thờ Mẫu là một trong những loại hình sinh hoạt tín ngưỡng dân gian

phổ biến của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Qua nhiều nghiên cứu cho thấy, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt

vùng đồng bằng Bắc Bộ xuất phát từ tục thờ Nữ thần, xuất phát từ chính cuộc

sống, và từ quan niệm về vai trò của người phụ nữ trong sản xuất và chiến

đấu. Bàn về điều này, Vũ Ngọc Khánh viết: “Ngay từ những ngày đầu tiên ấy,

nhân dân ta đã coi các mẹ là bậc linh thiêng, vĩ đại. Các mẹ đã đẻ ra Trời, Đất,

Núi, Sông. Tất cả chúng ta cả con người và vạn vật đều là con của các mẹ…

Tất cả đều phải do mẹ sáng tạo và dạy dỗ” [55, tr.13]. Nhiều nghiên cứu cho

biết, tín ngưỡng thờ Mẫu của vùng là nơi hội tụ và biểu hiện rõ nét nhất về

thờ Mẫu trong cả nước. Thờ Mẫu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ còn là nơi để

nhân dân gửi gắm lòng biết ơn và sự tôn vinh người Mẹ.

Tín ngưỡng thờ Mẫu của vùng đồng bằng Bắc Bộ đa dạng, phong phú.

Nhưng tựu chung lại, tín ngưỡng thờ Mẫu biểu hiện tập trung ở hai lớp đối

tượng là thờ Mẫu thần và thờ Tam phủ - Tứ phủ (Tam tòa Thánh Mẫu). Cụ

thể như sau:

Một là, một số Mẫu thần chủ yếu trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ:

- Mẫu huyền thoại: là những vị thánh Mẫu được xây dựng từ những câu

chuyện huyền thoại trong dân gian như Mẫu Âu Cơ; Mẫu Man Nương, bà

chúa Liễu Hạnh tước hiệu là Thánh Mẫu Liễu Hạnh; Mẹ của Phù Đổng Thiên

Vương, v.v..

- Mẫu nhiên thần: thờ các Mẫu biểu trưng cho trời, đất, nước, rừng

phản ánh tâm tư nguyện vọng của người dân nơi đây cầu mưa thuận gió hòa,

trời yên biển lặng, cầu bình an cho nông vụ được tốt tươi, ruộng vườn xanh

Page 65: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

60

tốt. Đó là Mẫu Thoải, Mẫu Địa, Mẫu Thiên, Mẫu Thượng Ngàn được thờ phổ

biến ở các nơi của khu vực vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng và cả nước nói

chung.

- Mẫu nhân thần: là việc thờ những người phụ nữ có tài năng, đức độ

và có công với nước nhà, sau khi mất được tôn xưng là Mẫu như: Mẹ của Vua

lê Thánh Tông, Tống Hậu, Thái Hậu họ Đỗ tương truyền là mẹ của Lý Thần

Tông; Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Giao; Ỷ Lan Hoàng Thái Hậu - nguyên phi

của vua Lý Thánh Tông; bà Phạm Thị Ngọc Trần - Hoàng Hậu, vợ cả của vua

Lê Thái Tổ và là mẹ của Lê Thái Tông; Thái Hậu họ Dương được tôn phong

là Quốc Mẫu Vương; Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung, v.v..

Bên cạnh Mẫu là những người có địa vị trong xã hội còn có Mẫu là

những người có xuất thân bình dân như Nàng Vũ Thị Khiết người con gái

nghèo ở bến Vũ Điện, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Định, là vợ chàng lính thú

Trương Sinh, nhưng rồi phải lấy cái chết để chứng minh cho tấm lòng cao cả

ấy của mình. Đời sau thương nàng, lập đền thờ, tôn là Thánh Mẫu. Bà mẹ của

ba người con đều có công giúp Vua Hùng chống giặc được phong là Soa

Nương Thánh Mẫu (thờ ở miếu Mạnh Lương- Đông Anh - Hà Nội).

Hai là, tín ngưỡng thờ Tam phủ - Tứ phủ (còn được gọi là Tam Tòa

Thánh Mẫu) của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Trong quan niệm dân gian của người Việt vùng Đồng bằng Bắc Bộ,

Tam phủ là danh từ để chỉ ba vị thần thánh trong hệ thống tín ngưỡng Việt

Nam gồm: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải, cai quản

những lĩnh vực quan trọng nhất của một xã hội nông nghiệp. Sau này, xuất

hiện Thánh Mẫu Liễu Hạnh, thì tín ngưỡng thờ Tam phủ chuyển thành thờ Tứ

phủ. Hiểu một cách nôm na, Tứ phủ là khái niệm dùng để chỉ 4 vùng: Địa

phủ, Thiên phủ, Nhạc phủ và Thoải phủ. Mẫu Tứ phủ được đánh giá “là một

bước phát triển cao so với tín ngưỡng thờ nữ thần nói chung đã có trước đó…

Page 66: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

61

Mẫu Tứ phủ cũng là một hình thức làm rõ nét đặc thù của tín ngưỡng thờ Mẫu

ở Việt Nam” [16, 143].

Như vậy, tín ngưỡng thờ Mẫu là loại hình tín ngưỡng sinh hoạt đặc

trưng của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó ra đời dựa trên cơ sở

phương thức sản xuất nông nghiệp, được sáng tạo ra bởi chính người nông

dân. Nó phản ánh nhận thức sơ khai của con người về thế giơi, về chính bản

thân họ và qua đó, người dân gửi gắm ước mơ, khao khát tâm linh của con

người về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

2.3.2.3. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng

Tín ngưỡng Thành hoàng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ xuất hiện từ sớm,

nó là một sự biến thể, giao thoa với tín ngưỡng Thành hoàng của Trung Quốc.

Nói như các nhà nghiên cứu, tín ngưỡng Thành hoàng ở nước ta bị Hoa hóa,

song vẫn giữ được bản sắc riêng, là sự thể hiện bản chất tư duy tôn giáo của

người Việt [66, tr.125]. Tín ngưỡng Thành hoàng là một trong những loại

hình sinh hoạt tín ngưỡng dân gian phổ biến của người Việt vùng đồng bắc

Bộ, dựa trên cơ sở quan niệm tâm linh của con người về thế giới, là sự thể

hiện lòng ngưỡng mộ, sự biết ơn đối với những người có công với làng, với

nước; đồng thời qua đó còn gửi gắm những khát vọng đời thường của người

dân.

Cho đến nay, có nhiều cách phân chia đối tượng thờ tự trong tín

ngưỡng Thành hoàng vùng đồng bằng Bắc Bộ, song có hai đối tượng được

thờ cúng chủ yếu, đó là thờ các vị thần có nguồn gốc rõ ràng, được vua tước

phong, và thờ các vị thần không rõ nguồn gốc, hoặc do nhân dân sáng tạo ra.

Có thể phân chia tín ngưỡng Thành hoàng như sau:

Thứ nhất, Thành hoàng có nguồn gốc Thiên thần, tức là các vị thần có

nguồn gốc từ trời, được nhân hóa, mang dáng vẻ con người, thậm chí sống

cuộc sống của con người. Sở dĩ có hình thức tín ngưỡng thờ Thành hoàng có

Page 67: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

62

nguồn gốc Thiên thần là do tính chất của nền sản xuất nông nghiệp phụ thuộc

vào thời tiết, nên họ tôn thờ các vị thần đại diện cho mây, mưa, sấm, chớp với

mục đích mong cầu trời yên biển lặng, mưa thuận, gió hòa.

Thứ hai, Thành hoàng có nguồn gốc nhiên thần tức là các vị thần có

nguồn gốc tự nhiên, có thể kể đến:

- Sơn thần là vị thần núi, ở đó, nhân dân gửi gắm ước mơ chinh phục tự

nhiên, chiến thắng lũ lụt. Tôn thờ thần núi, nên người Việt tôn thành Cao Sơn

Thánh Vương ùng trấn uy linh, Cao Sơn Quý Minh Đại Vương, Tản Viên

Sơn Thánh…

- Thổ thần thường được biểu hiện là thần Bản Cảnh được thờ phổ biến

ở nhiều nơi, phổ biến nhất ở Nam Định.

- Thành hoàng là thủy thần cũng được thờ phổ biến ở khắp các địa

phương vùng đồng bằng Bắc Bộ. Liên quan tới nghề sông nước của ngư dân

và lịch sử đấu tranh giành độc lập và giữ nước của dân tộc, hình ảnh các vị

thủy thần đã được nhân cách hóa trở thành những vị thần có tên tuổi, có gốc

tích, là các nhân vật lịch sử. Có thể kể đến các vị thần đó như: Bát ải Động

Đình (thờ ở đền Đồng Bằng – Thái Bình), Đông ải Đại Vương, Nam ải

Đại Vương, Nam ải Tứ vị Hồng Nương, Vĩnh ải Môn Thần, Linh Lang

Đại Vương,v.v..

Thứ ba, Thành hoàng có nguồn gốc nhân thần. Theo hầu hết các tài liệu

nghiên cứu của các nhà khoa học có thể thấy rằng, Thành hoàng có nguồn gốc

nhân thần chiếm đa số trong hệ thống Thành hoàng ở khắp các vùng trên cả

nước nói chung và ở khu vực vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Có thể phân

chia thành các loại như sau:

- Thành hoàng là các nhân vật lịch sử có công dựng nước, dựng làng.

Ngoài ra, có thể kể đến các nhân vật lịch sử được suy tôn thành các vị thần.

Bắt đầu là ùng Vương, sau đó đến các vị như ai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý

Page 68: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

63

Bí, Mai Thúc Loan, Phùng ưng, Ngô Quyền, Trần ưng Đạo, Nguyễn Huệ.

Bên cạnh đó là các vị thần có công dựng nước, có công tụ dân lập làng. Trong

số các vị thần ở vùng đồng bằng Bắc Bộ phải kể đến Nguyễn Công Trứ. Ông

là người có công khai khẩn ra vùng đất Kim Sơn - Ninh Bình và Tiền Hải -

Thái Bình. Sau này, với công lao to lớn của ông, nhân dân ba vùng tôn ông

làm Thành hoàng và thờ tự để tỏ lòng biết ơn, v.v..

- Thành hoàng là các vị Thánh sư, Tổ nghề, là những người học rộng,

tài cao có nhiều công lao cho làng xã. Khi còn sống, những bậc anh tài đó là

niềm tự hào của quê hương, khi chết đi họ được nhân dân thờ phụng lập thành

Thành hoàng. Đúng như những gì C.Mác đã nhận định, thế giới thần thánh do

con người tạo ra, phản ánh chính xã hội của con người. Các vị Thành hoàng là

sự biểu đạt rõ nét nhất về các dạng người khác nhau trong xã hội mà người

Việt sinh sống, cũng đa dạng và phong phú, nhiều hình nhiều vẻ như thế giới

thần linh.

Như vậy, tín ngưỡng thờ Thành hoàng là một trong những hình thức

phổ biến của cộng đồng cư dân người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó được

hình thành dựa trên cơ sở niềm tin của con người, sự biết ơn của con người và

ước vọng được che chở của các vị thần, thánh mang trong mình sức mạnh

siêu nhiêu. Ẩn chứa trong loại hình sinh hoạt này là những tri thức mang tính

kinh nghiệm của con người về thế giới, về vai trò của con người và về các

mối quan hệ xã hội.

Bảng 2.1: So sánh các tín ngưỡng dân gian chủ yếu của người Việt

vùng đồng bằng Bắc Bộ

Tiêu chí Thờ cúng Tổ tiên Thờ Mẫu Thờ Thành hoàng

1. Cơ sở

hình thành

- Niềm tin vào sự

tồn tại của linh hồn

- Niềm tin vào sự

tồn tại của linh

- Niềm tin vào sự

tồn tại của linh hồn,

Page 69: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

64

người chết, vào sự

ảnh hưởng của linh

hồn người chết với

con cháu.

- Bắt nguồn từ tín

ngưỡng Tô tem phát

triển thành tín

ngưỡng thờ cúng Tổ

tiên; Từ quy mô gia

đình đến mở rộng

thành quy mô làng,

xã và quốc gia.

- Xuất phát từ lòng

biết ơn, tưởng nhớ

tới tổ tiên, tới người

có công với cộng

đồng làng xã.

hồn, vào sức mạnh

siêu nhiên của các

vị thần, thánh.

- Bắt nguồn từ tín

ngưỡng thờ Nữ

thần phát triển

thành tín ngưỡng

thờ Mẫu; Từ Mẫu

Tam phủ được

nâng lên thành

Mẫu Tứ phủ lam

cho tín ngưỡng thờ

Mẫu được thiện

hơn.

- Xuất phát từ lòng

biết ơn đến những

người có công với

cộng đồng làng xã.

vào sức mạnh siêu

nhiên của các vị

thần, thánh.

- Bắt nguồn từ tín

ngưỡng thờ Thành

hoàng của Trung

Quốc, song có

những nét đặc thù

thể hiện bản sắc

riêng trong tín

ngưỡng của người

Việt.

- Xuất phát từ lòng

biết ơn đến những

người có công với

cộng đồng làng xã.

2. Đối

tƣợng thờ

cúng

- Tổ tiên trong gia

đình, dòng họ đã

khuất.

- Những người có

công với đất nước.

- Các vị thần cai

quản các miền của

tự nhiên.

- Những người có

công với đất nước.

- Là các vị thần tự

nhiên

- Là các vị nhân

thần, có nguồn gốc,

có chiến tích, công

trạng với đất nước.

Page 70: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

65

3. Phạm vi

thờ tự

- Gia đình

- Cộng đồng làng,

- Quốc gia

- Cộng đồng làng,

- Quốc gia

- Cộng đồng làng,

- Quốc gia

4. Phạm vi

ảnh hƣởng

- Cả trong gia đình

và cộng đồng làng,

xã, quốc gia.

- Cộng đồng làng,

xã, quốc gia.

- Cộng đồng làng,

xã, quốc gia.

5. Nghi

thức thực

hành

- Thờ gia tiên

- Tế, lễ, rước và tục

hèm

- Tế, lễ, rước và tục

hèm

- Hầu bóng, nhập

đồng

- Tế, lễ, rước và tục

hèm

- Hầu bóng, nhập

đồng

2.3.3. Một số đặc điểm của tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng

đồng bằng Bắc Bộ

Qua việc nghiên cứu cơ sở hình thành, các tín ngưỡng dân gian nổi bật,

cho thấy tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ có

những đặc điểm nổi bật sau:

Một là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là

tín ngưỡng đa thần, dựa trên quan niệm vạn vật hữu linh

Bàn về điều này, Trần Ngọc Thêm viết, “với người Việt sống bằng

nghề lúa nước… phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên dẫn đến

hậu quả trong lĩnh vực nhận thức là lối tư duy tổng hợp, và trong hình thức tín

ngưỡng là tín ngưỡng đa thần” [90, tr.132-133]. Trong quan niệm từ xưa, khi

xung quanh con người là thiên nhiên hùng vĩ, với nhiều bí ẩn, vào thời điểm

đó, con người chưa thể giải đáp. ọ tưởng tượng, sáng tạo ra thế giới thần

linh, bao trùm lên đó là sức mạnh siêu nhiên, và nó có thể mang tới điều tốt

lành hay rủi ro cho con người. Bất lực trước sức mạnh của thiên nhiên, mọi

hành động của con người đều hướng tới việc cầu xin các lực lượng siêu nhiên

Page 71: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

66

giúp đỡ, che chở, cầu lành, tránh dữ. Và do vậy, “người Việt thờ rất nhiều

thần: từ thần cây, thần núi, thần song, thần mưa, thần sấm, thần chớp… đến

thờ Anh hùng dân tộc, thờ Tổ tiên, thờ Thành hoàng, v.v..” [66, tr,154].

Trong thế giới vô cùng rộng lớn ấy, con người thật nhỏ bé. Trước mắt

họ từ cỏ cây, hoa lá, đến thú rừng, đến các hiện tượng thời tiết cũng ẩn chứa

hình bóng của các vị thần. Thế giới thần linh vì thế không chỉ không tách biệt,

mà còn hòa nhập với cuộc sống con người, chi phối hành động của họ. Họ tin

theo, nương theo, và thể hiện niềm tin tín ngưỡng. Thông qua các sinh hoạt

văn hóa cộng đồng, họ bày tỏ lòng ngưỡng vọng, ngưỡng mộ đối với các bậc

thánh thần. Trong đời sống của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, sản xuất

nông nghiệp là chủ yếu. Do vậy, thiên nhiên là thứ có ảnh hưởng lớn nhất

trong hoạt động lao động sản xuất của họ. Để đảm bảo cho cây trồng, vật nuôi

được tươi tốt, họ tin tưởng vào sự che chở của các vị thần. Vì thế, tín ngưỡng

của họ tuy đa dạng, phong phú nhưng thực hành lại không mấy khó khăn,

phức tạp. Nguyễn Đức Lữ viết: “Cùng một lúc, ở một cá nhân có thể chấp

nhận niềm tin và sự sùng kính vào nhiều vị thần. Người ta có thể vừa đến Văn

Miếu để thắp hương Khổng Tử, thờ các vị tiền hiền của Đạo Khổng, lại đến

chùa cầu khấn Bồ Tát, Phật Tổ Như Lai, rồi họ lại về miếu làng thắp hương

thờ Thành hoàng làng, trở về nhà thắp hương thờ cúng ông bà, tổ tiên, đến

Phủ Mẫu cầu xin lộc Thánh” [66, tr.155]. Vậy nên, trong tư duy người Việt,

người và thần luôn gắn bó bên nhau không thể tách rời. Thần và người tuy ở

hai thế giới hoàn toàn khác nhau, nhưng dường như lại cùng tồn tại cạnh

nhau. Tuy họ không hiện hữu trước mắt, nhưng đang ở đâu đó bên cạnh để

sẵn sàng phù hộ, che chở cho con người.

Như vậy, qua sự phân tích nêu trên khẳng định tín ngưỡng dân gian của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là tín ngưỡng đa thần, dựa trên quan niệm

vạn vật hữu linh được thể hiện cả trong nghi lễ và thực hành sinh hoạt tín

Page 72: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

67

ngưỡng. Tính chất đa thần được biểu hiện ở sự đa dang trong đối tượng thờ

tự, từ thờ Nam thần cho đến Nữ thần, từ thờ những người có quan hệ huyết

thống, đến những người vô danh, hữu danh nhưng ít nhiều có vai trò đối với

cộng đồng dân tộc. Nó là một trong những đặc điểm nổi bật trong tín ngưỡng

dân gian của vùng.

Hai là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

mang tính hỗn dung tôn giáo

Bàn về đặc điểm này, Ngô Đức Thịnh viết, “sự hỗn dung tôn giáo, tín

ngưỡng là một trong những nét đặc sắc của văn hóa truyền thống Việt Nam”

[96, tr.59]. Do tiếp thu những ảnh hưởng từ bên ngoài, tín ngưỡng dân gian có

nhiều sự biến đổi trong quá trình tồn tại. Mặc dù không có thiết chế riêng,

nhưng tín ngưỡng dân gian ở vùng đồng bằng Bắc Bộ luôn gắn với các thiết

chế tôn giáo cụ thể, nhất là với Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Hiếm có một

chùa thờ Phật nào ở vùng đồng bằng Bắc Bộ lại không có gian thờ Mẫu hay

thờ anh hùng dân tộc. Có nơi xây dựng phủ thờ Mẫu riêng bên cạnh chùa

chính, nhưng đại đa số đặt ngay bên phải cung Tam bảo, còn bên trái cung

Tam bảo thường là bản thờ Đức Ông.

Tính dung hợp đan xen, hoà đồng của tín ngưỡng dân gian với tôn giáo

còn được thể hiện rõ trên điện thờ của các đình, đền, miếu, phủ... ở vùng đồng

bằng Bắc Bộ. Đó cũng là nhận xét của Ngô Đức Thịnh: “Không chỉ có con

đường các điện Mẫu đi vào chùa, mà còn có con đường ngược lại - Phật đi

vào các đền phủ Mẫu thờ” [96, tr.179]. Đặc biệt là ở đình vốn thuộc thiết chế

phong kiến nhiều hơn tôn giáo, cũng có sự hiện diện của đủ các thần, thậm

chí là thờ cả Phật. Ở chùa thường có nhà thờ Tổ, giống như thờ cúng tổ tiên

trong gia đình vậy. Điều này minh chứng rằng, ngay từ thủa xa xưa, người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ đã hình thành ba cộng đồng gắn bó với nhau

chặt chẽ là gia đình, làng xóm và đất nước. Đối với việc thờ cúng tổ tiên, mỗi

Page 73: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

68

gia đình dù giàu sang hay nghèo khó cũng đều có ban thờ gia tiên, để thể hiện

sự tri ân của con cháu đối với những người đã khuất và để tổ tiên hiển linh

phù trợ cho gia quyết luôn bình an, may mắn. Bởi vậy, dù Đạo Phật là một

tôn giáo lớn nhất nhì trên thế giới có được du nhập từ con đường Trung Hoa

hay Ấn Độ sang, cũng đều phải lựa chiều thay đổi để phù hợp với tín ngưỡng

dân gian bản địa. Việc thờ cúng tổ tiên vừa là tín ngưỡng, vừa là đạo lý tốt

đẹp của hậu thế đối với tiền nhân. Tín ngưỡng này đã hoà nhập một cách tự

nhiên, nhuần nhuyễn vào mọi tôn giáo ngoại nhập và trở thành một đạo lý, tuy

không ghi thành kinh sách nhưng lại rất linh động và phổ biến, được mọi

người chấp thuận.

Bên cạnh sự giao thoa giữa tư tưởng của Phật giáo với tín ngưỡng dân

gian, là sự giao thoa giữa tín ngưỡng dân gian và Đạo giáo. Chẳng hạn, trong

tín ngưỡng Tứ phủ, dễ thấy sự dung hợp nhiều yếu tố tôn giáo, tín ngưỡng

khác nhau. Trong khu thờ tự, ngôi cao nhất là Phật Thích Ca, chư Phật mười

phương, Phật Bà Quan Âm, các Bồ tát, Hộ Pháp, vua Đế Thích. Tiếp đến là

các nhân vật của đạo Giáo như Ngọc oàng, Ngũ nhạc Thần vương ở dương

phủ, Thập điện Minh Vương ở địa phủ, Bát hải Long vương ở thoải phủ, Tam

nguyên, Tam phẩm, Tam quan, Nam Tào, Bắc Đẩu, Thập nhị Bát tú, v.v…

sau đó mới đến các vị thánh. Đó là nét đặc sắc riêng có của tín ngưỡng Tứ

phủ của người Việt.

Như vậy, điểm nổi bật trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng

đồng bằng Bắc Bộ là tính hỗn dung tôn giáo. Điều đó được thể hiện qua sự

đan xen trong lễ nghi, thờ tự và cả trong việc thực hành tín ngưỡng, tôn giáo

trong nhân dân.

Ba là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ thể

hiện tính dân chủ làng xã, giàu chất nhân văn

Page 74: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

69

Tính dân chủ làng xã, giàu chất nhân văn trong tín ngưỡng dân gian của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được thể hiện rõ nét trong lễ nghi, thờ tự.

Đó là sự hài hòa trong việc thờ các vị thần, thánh là Nam thần và Nữ thần.

Bàn về điều này, Nguyễn Đức Lữ viết, “nhân dân ta từ sự tôn vinh đến sự tôn

thờ đã có sự công bằng, rằng không phân biệt là nam hay nữ nếu ai có công

với nước, với dân tộc và với cộng đồng, thì khi mất đi, đều được suy tôn là

thần linh cứu hộ dân gian” [66, tr.105]. Dưới sự đô hộ của phong kiến phương

Bắc, trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở vùng đồng bằng Bắc bộ, vai trò của người

phụ nữ được đề cao. Nhiều phụ nữ là người đã sớm thể hiện khí tiết anh hùng

không thua kém gì các trang nam tử anh hùng hảo hán, với tư tưởng “giặc đến

nhà đàn bà cũng đánh”. Dù xuất thân từ gia đình nông dân hay con nhà quyền

quý, khi họ lập nên chiến công đều được xét công trạng để ghi danh một cách

công bằng. Chẳng hạn, Bà Triệu Thị Trinh, đô đốc Bùi Thị Xuân, hay tiến sĩ

nữ đầu tiên của Việt Nam bà Nguyễn Thị Duệ được triều đình sắc phong là bà

Chúa sao sa. Điều đó giải thích cho việc, nhân dân ta thờ Mẫu cả ở trong đình

- nơi mà khi xưa chỉ có Vua tôi phong kiến và những bậc chính nhân quân tử

mới được đặt chân tới. Dường như xã hội càng dân chủ hoá thì thế giới thần

linh cũng ngày càng trở nên dân chủ hơn. Đối với tín ngưỡng thờ Mẫu, dưới

chế độ phong kiến “trọng nam khinh nữ” mà có một danh mục đông đảo các

Nữ Thần, Thánh Mẫu đến vậy, chứng tỏ người dân vùng đồng bằng Bắc bộ

sớm có tư tưởng nam nữ bình đẳng và biết tôn trọng đức sinh thành. Qua hành

động đó của nhân dân đã khắc họa thêm giá trị nhân văn ẩn chứa trong các

sinh hoạt tín ngưỡng.

Tính dân chủ, nhân văn trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng

đồng bằng Bắc Bộ còn được thể hiện rất rõ trong sinh hoạt tín ngưỡng. Mọi

tầng lớp nhân dân dù giàu - nghèo, sang - hèn đều có thể thực hành một hay

một số tín ngưỡng, không có sự phân biệt về giới tính, đẳng cấp, trình độ.

Page 75: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

70

Người ta có thể đến chốn cửa Phật, hay đình, đền, miếu, phủ… miễn sao tâm

của họ được thanh thản. Trong sinh hoạt tín ngưỡng không hề có cái gọi là

khuôn phép, giáo lý, giáo luật, giáo chủ như tôn giáo, mà ở đó, niềm tin, sự

ngưỡng vọng, ngưỡng mộ đối với các bậc thánh, thần là cơ sở chung cho các

sinh hoạt tín ngưỡng cộng đồng. Thông qua các sinh hoạt tín ngưỡng, thể hiện

tính cộng đồng, đoàn kết, tính nhân văn vốn có trong truyền thống văn hóa

của dân tộc ta.

Như vậy, trên cơ sở nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình

thành, tồn tại, phân loại các loại hình tín ngưỡng dân gian chủ yếu, chỉ ra đặc

điểm cơ bản, có thể hiểu tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng

Bằng Bộ như sau: Tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc

Bộ là một bộ phận của tín ngưỡng dân gian Việt Nam; nó được hình thành

trên cơ sở phương thức sản xuất nông nghiệp thâm canh cây lúa nước; do

người dân sáng tạo ra; nó được xây dựng trên cơ sở niềm tin, phản ánh

những nhận thức sơ khai mang tính kinh nghiệm cảm tính và những ước

nguyện tâm linh về tự nhiên, về con người và về xã hội.

2.4. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu của luận án

Thứ nhất, luận án vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu những yếu tố triết học trong

tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Cụ thể như sau:

- Luận án dựa trên quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ

tầng và kiến trúc thượng tầng; mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và

ý thức xã hội làm cơ sở lý thuyết để nghiên cứu về những yếu tố triết học

trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, cũng như

giá trị và hạn chế của các yếu tố triết học đó.

- Luận án dựa trên quan điểm lịch sử - cụ thể để nghiên cứu về các yếu

tố triết học trong tín ngưỡng dân của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Page 76: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

71

Quan điểm này chỉ rõ, cần phải xuất phát từ điều kiện lịch sử - cụ thể hình

thành tín ngưỡng dân gian, cũng như những biểu hiện, những biến đổi của nó

trong quá trình tồn tại và phát triển.

Thứ hai, luận án vận dụng lý thuyết cấu trúc - chức năng để nghiên cứu

những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng

Bắc Bộ. Lý thuyết này được học giả A. Comte - nhà xã hội học cuối thế kỉ 19

với thuyết hữu cơ nổi tiếng, là người đầu tiên đặt nền móng cho lý thuyết

chức năng khi nghiên cứu về xã hội học nói chung và tôn giáo nói riêng. Sau

đó lý thuyết này được đặt nền tảng vững chắc và phát triển bởi E. Durkheim,

một nhà khoa học người Do Thái. Những tư tưởng chủ yếu của lý thuyết chức

năng được Durkheim phản ánh trong các tác phẩm "Sự phân công lao động xã

hội" (1893), "Các qui tắc của phương pháp xã hội học" (1895), "Sự tự sát"

(1897) và "Những hình thức sơ đẳng của tôn giáo" (1912). Lý thuyết cấu trúc

chức năng xem xã hội là một hệ thống phức tạp được tạo thành bởi các tiểu hệ

thống. Các tiểu hệ thống này thực hiện chức năng của mình trong mối liên kết

với các tiểu hệ thống khác để tạo nên sự ổn định và phát triển cho xã hội.

Lý thuyết này cho phép tìm hiểu cấu trúc của các yếu tố triết học trong tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ bao gồm ba thành tố:

- Yếu tố triết học về tự nhiên

- Yếu tố triết học về con người

- Yếu tố triết học về xã hội

Trên cơ sở đó, nghiên cứu sinh đi sâu tìm hiểu các giá trị và hạn chế của

các yếu tố triết học này, góp phần khẳng định chức năng xã hội của nó đối với

đời sống xã hội vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Ngoài ra, luận án dựa trên việc vận dụng kết hợp với các lý thuyết khác

như lý thuyết giao lưu và tiếp biến văn hóa, lý thuyết vùng văn hóa để nghiên

Page 77: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

72

cứu các yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng

bằng Bắc Bộ.

Sơ đồ phân tích của luận án như sau:

Tiểu kết chƣơng 2

Tóm lại, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là

một hiện tượng lịch sử - xã hội, ra đời trên cơ sở tồn tại xã hội nhất định. Nó

không chỉ là một thành tố của văn hóa dân gian, mà còn là một bộ phận của ý

thức xã hội. Ra đời trên cơ sở của phương thức sản xuất nông nghiệp, chịu tác

động bởi các yếu tố văn hóa, lịch sử và các yếu tố tôn giáo ngoại lai, song tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ vẫn có những đặc

điểm riêng vốn có thể hiện bản sắc văn hóa đặc trưng của vùng miền. Sự ra

đời của tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ phản ánh

ước mơ, nguyện vọng chính đáng của người dân - đặc biệt của người nông

dân. Cho đến ngày nay, hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng vẫn còn tồn tại và có

xu hướng ngày càng phát triển nở rộ. Sự tồn tại đó là một hiện tượng khách

YẾU TỐ TRIẾT HỌC TRONG TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN CỦA

NGƯỜI VIỆT VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

QUAN NIỆM

VỀ TỰ NHIÊN

QUAN NIỆM

VỀ XÃ HỘI

QUAN NIỆM

VỀ CON NGƯỜI

ĐÁN GIÁ C UNG

Page 78: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

73

quan. Khi khoa học vẫn chưa giải quyết được hết mảng tối của vũ trụ thì tôn

giáo, tín ngưỡng vẫn còn tồn tại. Do đó, nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến

sự hình thành, tồn tại, chỉ ra những đặc điểm chung của tín ngưỡng dân gian

của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, để thấy được sự tồn tại của tín

ngưỡng dân gian là một hiện tượng xã hội mang tính quy luật, và là một việc

làm hết sức cần thiết. Kết quả nghiên cứu này là cơ sở, là chất liệu cơ bản cho

việc phân tích, tìm ra các yếu tố triết học ẩn chứa trong các tín ngưỡng dân

gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Page 79: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

74

Chƣơng 3

QUAN NIỆM VỀ TỰ NHIÊN, VỀ CON NGƢỜI, VỀ XÃ HỘI TRONG

TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN CỦA NGƢỜI VIỆT VÙNG ĐỒNG BẰNG

BẮC BỘ

3.1. Quan niệm về tự nhiên trong tín ngƣỡng dân gian của ngƣời

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

3.1.1. Một số quan niệm về tự nhiên trong lịch sử tư tưởng triết học

nhân loại

Có thể hiểu tự nhiên theo nghĩa chung nhất, đó là toàn bộ thế giới vật

chất, bao gồm từ thế giới vi mô, đến thế giới vĩ mô, đến xã hội với hàng loạt

các mối quan hệ chằng chịt và vô cùng phức tạp, luôn có những ảnh hưởng

trực tiếp và gián tiếp đến cuộc sống của con người. Giới tự nhiên từ lâu vốn

được coi là mẹ của muôn loài, là cội rễ của mọi sinh vật, trong đó có con

người. Ngay từ khi con người được hình thành, nhu cầu hiểu về giới tự nhiên

dường như không thể thiếu được trong chuỗi hành trình dài đi chinh phục sự

sống. Cuộc sống thường nhật và cả trong lao động sản xuất, con người không

chỉ sống trong sự nuôi dưỡng từ những nguồn thức ăn sẵn có của tự nhiên, mà

còn có nhu cầu tạo ra nguồn của cải vô tận từ những thứ có sẵn mà tự nhiên

mang tới. Chính nhu cầu đó, đã thúc đẩy con người không ngừng khám phá,

chinh phục tự nhiên. Điều đó được thể hiện trong những nấc thang khám phá

tự nhiên trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại. Kết quả của quá trình nhận

thức giới tự nhiên phản ánh trình độ tư duy, trình độ chinh phục tự nhiên của

con người. Nó không giống nhau ở từng thời đại, từng lĩnh vực, từng vùng,

miền… song, nó là kết quả đáng ghi nhận trong chuỗi hành trình dài khám

phá và chinh phục tự nhiên trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Bởi, nói như

Mác, tự nhiên giống như là một lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống của

con người.

Page 80: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

75

Bàn luận về vấn đề này, Nguyễn Đăng Thục cho rằng, “bất cứ ở trình

độ văn minh nào đều có những ý tưởng về thế giới và về sự vật trong thế giới

ấy, những ý tưởng ấy có thể phát triển hơn, hay kém minh bạch hay lờ mờ, ý

thức nhiều hay ít. Nhưng chúng có thật và người ta phô diễn ra bằng tiếng

nói” [108, tr.253]. Chẳng hạn, ở phương Tây, với đặc điểm nổi bật trong

phương thức sản xuất là lối du mục, chăn nuôi phát triển hơn trồng trọt. Do

đó, để tồn tại, buộc con người phải hiểu về tự nhiên. Từ việc quan sát các vì

sao trên bầu trời, từ nhu cầu hiểu về thời tiết, hiểu về những trận cuồng phong

trên sa mạc, những vụ cháy rừng, những cơn sấm sét… đã thôi thúc con người

khám phá, đi tìm câu trả lời. Ngay từ đầu, con người chưa thực sự hiểu hết

những hiện tượng bất thường của tự nhiên, nên họ đã xây dựng nên những

hình tượng các vị thần có sức mạnh là những chủ nhân của trời, đất, nước, núi

rừng,.. trong đó vị thần tối cao là thần Dớt - mang trong mình sức mạnh của

đất mẹ Gai-a. Về sau, họ giải thích tự nhiên là Chúa trời - người sinh ra vạn

vật và muôn loài… Khác với phương Tây, ở phương Đông, với phương thức

sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, trồng trọt phát triển hơn chăn nuôi, cư dân

tập trung ở những vùng đồng bằng màu mỡ bắt nguồn từ những con sông lớn

như sông Ấn, song Hằng, sông Hoàng Hà, sông Hắc Hải, sông Trường Giang,

sông Hồng, v.v.. Vì thế, phần lớn người phương Đông sống quần tụ, cố định ở

những khu đất lớn phù sa màu mỡ. Để tồn tại được, họ cũng cần phải hiểu tự

nhiên. Các tư tưởng về trời, đất, nước - là các yếu tố gắn liền với sản xuất

nông nghiệp được hình thành. Chẳng hạn, thời kì cổ đại, ở Ấn Độ, người ta

giải thích tự nhiên chủ yếu thông qua hình ảnh về các vị thần. Trong kinh

Veda chỉ rõ, linh hồn vũ trụ - đấng sáng tạo Brahman, vũ trụ chia thành ba

cõi: cõi trời Syria ngự trị thiên giới, thần gió Vayu ngự trị trung giới, và thần

lửa Agni ngự trị hạ giới. Còn trong Phật giáo quan niệm rằng, vũ trụ là cõi vô

thủy, vô chung; vạn vật là vô thường, vô ngã, vô giả tưởng, sinh thành chuyển

Page 81: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

76

hóa theo luật nhân quả. Ở Trung Quốc, người ta giải thích về tự nhiên thông

qua các quan niệm khác nhau. Chẳng hạn, trong Nho giáo, tự nhiên được

quan niệm đó là trời. Trời mang trong mình sức mạnh, trời tồn tại khách quan

vừa chi phối, vừa không chi phối cuộc sống của con người. Khổng Tử nói,

trời có nói gì đâu mà bốn mùa vẫn thay nhau biến đổi. Lão Tử cho rằng, giới

tự nhiên được giải thích bằng thuật ngữ “Đạo”, nó tồn tại khách quan, và vận

động theo luật quân bình và luật phản phục, nó là nguồn cội hình thành nên

vạn vật.

Như vậy, có thể nhận thấy rằng, ở phương Đông hay phương Tây, nhu

cầu nhận thức về giới tự nhiên là không thể thiếu. Tuy cách tiếp cận, và cách

giải thích khác nhau, song họ nhận thức về tự nhiên trong mối quan hệ với

con người chứ không phải nhận thức về tự nhiên một cách chung chung. Họ

giải thích về tự nhiên để hiểu tự nhiên, để sống và tồn tại được.

3.1.2. Nội dung một số quan niệm về tự nhiên trong tín ngưỡng dân

gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

Việt Nam - một đất nước nhỏ bé nằm trong khu vực châu Á, nhưng

được tự nhiên ưu đãi ban tặng cho vùng đất trù phú và màu mỡ, khí hậu thuộc

vùng nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp trồng

trọt và chăn nuôi. Là một quốc gia độc lập, Việt Nam có nền văn hóa riêng, có

một nền văn minh, văn hiến lâu đời. Cũng giống như các quốc gia khác thuộc

khu vực châu Á, người Việt có những cách giải thích khác nhau về tự nhiên.

Về điều này, Nguyễn Đăng Duy viết, “ở thời kì sơ khai, khi mà cuộc sống con

người rất gần gũi với vạn vật của tự nhiên, con người thường xuyên, trực tiếp

phải đối mặt với thiên nhiên; đời sống của họ lệ thuộc chủ yếu vào tự nhiên,

thì thiên nhiên là đối tượng nhận thức chính của họ” [16, tr.31]. Cách giải

thích của người Việt về tự nhiên như nhận định của Nguyễn Đăng Thục, “…

bắt nguồn từ tín ngưỡng thần thoại… để đi đến tín ngưỡng cao hơn, chính xác

Page 82: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

77

hơn… ở đấy chúng ta thấy được manh nha về cái vũ trụ quan Âm Dương vận

hành, nguồn sống chu lưu hết sức linh động của nhân loại nông nghiệp” [108,

tr.10-11]. Điều đó chứng tỏ rằng, bằng phương tiện diễn đạt khác nhau, cách

thức khác nhau, song người Việt cũng có những khám phá về giới tự nhiên

theo lối tư duy của người Việt.

Có nhận xét cho rằng, người Việt không có tư tưởng riêng khi giải

thích về thế giới, những tư tưởng đó là mượn của Phật Giáo, Nho Giáo, Đạo

Giáo và thậm chí là của cả Thiên chúa giáo. Song, có thể khẳng định, trong

tín ngưỡng dân gian, thông qua các huyền thoại và các sinh hoạt tín ngưỡng,

chúng ta có thể nhận thấy những sự giải thích về tự nhiên hết sức đa dạng,

phong phú và đầy tính thuyết phục. Điều này được thể hiện rõ nét trong tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ - nơi được coi là cái

nôi văn hóa tiêu biểu của cộng đồng người dân Việt Nam.

Nhận thức về tự nhiên chính là sự nhận thức về vị trí giữa con người

với vũ trụ. Sự nhận thức ấy quyết định cho cuộc sinh tồn của con người trong

từng hoàn cảnh nhất định. Việc lý giải về tự nhiên trong tín ngưỡng dân gian

của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ dựa trên chính các hiện tượng thuộc

về thiên nhiên, đang trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến cuộc sống của họ -

đó là những yếu tố gắn liền với không gian sinh tồn như trời, đất, nước, núi

rừng, biển cả, cây, con... Bởi vì, theo Nguyễn Đăng Duy, “tín ngưỡng là từ

thực tế cuộc sống, con người ta đặt ra những lực lượng tôn vinh, tôn thờ phù

hợp với cuộc sống của mình là thế” [16, tr.160]. Trong cùng dòng chảy tư

tưởng đó, thông qua hệ thống huyền thoại trong tín ngưỡng dân gian của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, đã làm cho cách giải thích về tự nhiên

càng trở nên phong phú, đa dạng và nhiều màu sắc, phản ánh sự sinh động,

muôn hình muôn vẻ của tự nhiên.

Page 83: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

78

3.1.2.1. Quan niệm về trời

Trước tiên, điểm nổi bật là quan niệm về trời được lý giải trong hệ

thống tín ngưỡng dân gian của người Việt theo hai nghĩa: trời vừa là hiện

tượng thiên nhiên hữu hình, trời vừa là một vị thần tối cao được nhân cách

hóa với đủ các cung bậc. Với ý nghĩa thứ nhất, trời được lý giải là một hiện

tượng thời tiết tự nhiên bao hàm trong đó có mây, mưa, sấm chớp, có lúc trời

quang mây tạnh, có lúc mây đen kéo đến mịt mù. Trời mang tính dương, có

các mùa luân phiên nhau biến đổi. Song với ý nghĩa vật lý như vậy, chưa đủ

để giải thích ngọn ngành vì những bất thường của trời mà con người không

thể chống đỡ. Chính vì sự thần bí đó, trời được nhân cách hóa thành một lực

lượng siêu nhiên, là một “thế lực” thiện, che chở bảo vệ con người, nuôi

dưỡng vạn vật, để cho nhân loại nương tựa vào đấy mà sống còn, mà kính sợ,

làm thiện được thưởng, làm ác bị phạt.

Quan niệm về trời được thể hiện đa dạng phong phú dưới những lăng

kính khác nhau trong tín ngưỡng dân gian của người Việt. Là yếu tố quan

trọng bậc nhất trong tự nhiên, mỗi hành động của trời đều tác động đến cuộc

sống của họ. Có những lúc thời tiết thuận hòa, có những khi lại nổi cuồng

phong dữ dội. Do vậy, sợ hãi, bất lực trước sức mạnh thần bí của tự nhiên,

cảm quan người Việt về thế giới, về vũ trụ bao la đã dựng nên những hình ảnh

phong phú, đa dạng về trời.

Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, trời “được hiểu là không gian sinh sống của

nhiều vị thần thánh, trong đó, Mẫu Thượng Thiên là người đứng đầu cai

quản” [106, tr.127-130]. Mẫu Thượng Thiên được dân gian tôn kính và tôn

làm Đệ Nhất Tiên Thiên Thánh Mẫu. Bàn về điều này, Vũ Ngọc Khánh viết:

“Thiên cung Thánh Mẫu: Bà mẹ lớn ở trên trời. Bà đẻ ra trời. Vì quá xa xôi

nên người ta gọi là Mẫu Cửu Trùng hay Mẫu Thượng Thiên” [55, tr.14]. Điều

đó nói lên rằng, Mẫu Thượng Thiên là người nắm quyền năng trong tay, cai

Page 84: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

79

quản và làm chủ các hiện tượng của tự nhiên như mây, mưa, sấm, chớp… Cái

tên gọi Ngọc Hoàng là chủ nhân của miền trời trong quan niệm của Đạo giáo

thì trong tín ngưỡng thờ Mẫu, trong tư duy của người Việt Mẫu Thượng

Thiên cũng có vai trò tương đương Ngọc Hoàng. Mẫu Thượng Thiên không

chỉ là tên gọi cho vị thánh cai quản miền trời mà còn ẩn dấu ước mơ của

người Việt: Mẫu mang nghĩa là mẹ tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở, cho

sức mạnh che chở và thể hiện cả sự kính trọng đối với người mẹ… Trong quá

trình phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu, sau này khi Mẫu Tứ phủ xuất hiện, ta

còn bắt gặp hình ảnh về Mẫu Thiên qua sự tích về Thánh Mẫu Liễu Hạnh.

Tương truyền trong dân gian xưa, Mẫu Liễu Hạnh là con của Ngọc Hoàng

Thượng Đế xuống trần gian để cứu giúp con người. Mẫu Thượng Thiên trong

điện thờ được đặt ở vị trí cao nhất trong cung cấm, bà trùm khăn đỏ ngồi giữa.

Hình ảnh về Mẫu Thượng Thiên phản ánh tư duy người Việt về yếu tố trời

được nhân cách hóa đầy sinh động. Qua lăng kính của người Việt, trời tuy ở

cao, xa với cuộc sống của con người, song lại có những sợi dây liên kết chặt

chẽ với con người. Mang trong mình sức mạnh thần bí, trời được hình tượng

hóa thành người Mẹ với đủ các cung bậc cảm xúc thể hiện qua các vị thần

như mây, mưa, sấm, chớp. Nếu không bằng lòng thì sét đánh, sấm nổ, không

ưng thuận thì nổi trận cuồng phong, lúc hiền hòa thì trời yên gió thuận.

Tín ngưỡng thờ Thành hoàng của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

cho rằng, trời là một trong những yếu tố của tự nhiên, và có vai trò quan trọng

đối với cuộc sống của con người. Theo Ngô Đức Thịnh, “Thiên” là trời, tức là

các vị thần có nguồn gốc từ trời, mang dáng vẻ con người và thậm chí cũng

có cuộc sống giống như con người [96, tr.96]. Đó là các vị tứ pháp: Pháp Vân,

Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Lôi. Do có sự đan xen với các loại hình tôn giáo

khác, nên trong tín ngưỡng thành hoàng làng khi giải thích về trời cũng xuất

hiện những hình ảnh về Nam Tào, Bắc Đẩu, Nam Đại Vương Tinh, thần Sao

Page 85: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

80

Sa… Các vị thần đó đại diện cho mây, mưa, sấm, chớp với mục đích cầu

mong trời yên biển lặng, mưa thuận gió hòa; các vị thần đại diện cho việc cai

quan cả số phận con người như Nam Tào, Bắc Đẩu… với mục đích điều

chỉnh hành vi của con người. Các cụ ta thường nói, “trời có mắt” ý muốn nói

tới việc những gì chúng ta làm trời đều biết cả. Trời ở đây là các vị Nam Tào,

Bắc Đẩu luôn có nhiệm vụ theo dõi mọi cử chỉ hành động của con người. Có

thể thấy rõ, trong tín ngưỡng thờ thành Hoàng, trời được nhân cách hóa, được

xây dựng nên bởi nhiều hình ảnh đa dạng, phản ánh chính xã hội mà con

người đang tồn tại sinh sống.

Trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, quan niệm về trời thường được

hiểu là nơi sinh sống của các vị thần cai quản bầu trời và là nơi đón nhận

những vong hồn thanh sạch của người đã chết. Đối với người Việt vùng đồng

bằng Bắc Bộ nói riêng, trời được sáng tạo bởi thần trụ trời. Theo truyền

thuyết dân gian cho biết, thần trụ trời lấy đất đá đắp thành cái cột nâng dần

trời lên cao, tách biệt trời và đất khỏi cõi hỗn mang, giúp loài người có được

ánh sáng mặt trời để sinh tồn, có đất để sinh sống, nương nhờ. Trong tâm linh

của người Việt, trời được coi là vị thần bản mệnh tối cao của cộng đồng dân

tộc. Họ quan niệm rằng, mỗi một vì tinh tú trên bầu trời (ông sao) được xem

như ứng với một sinh mệnh con người. Khi một vì sao biến mất khỏi bầu trời

ứng với việc một người đã chết. Do vậy, trong tục lệ tang ma của người Việt

vùng đồng bằng Bắc Bộ cho thấy, đi trước quan tài, người ta rước cây minh

tinh, trên đó, một bên đề tên húy của người đã chết, một bên đề chữ “Quỷ

Khốc linh thính”, “ý nói, tiếng khóc than của con cháu động tới quỷ thần, quỷ

thần đón linh hồn người chết về trời” [81, tr.105]. Do sự ảnh hưởng chủ yếu

của Phật giáo và Đạo giáo, về sau này, trong tục đưa tang của người chết,

phần lớn các gia đình thường có cầu pháp được xem như cầu vồng. Đó là một

tấm vải dài, hai bên rủ những tua vải nhỏ, được các cụ già đội lên đầu, vừa đi

Page 86: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

81

vừa tụng kinh niệm Phật cầu cho linh hồn được siêu thoát lên cõi Thiên giới.

Bên cạnh đó, trong nghi lễ thờ cúng Tổ tiên là sự biểu hiện rõ quan niệm về

sự linh thiêng, là đấng tối cao không chỉ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến người

chết mà còn đến cả cuộc sống của con người. Bày tỏ lòng thiện tình của thứ

dân đối với đấng tối cao là trời, trong các lễ vật cúng gia tiên, họ không quên

dành cúng Trời - Đất. Câu cửa miệng của người Việt, trước khi cúng của gia

tiên, thường là “con lạy chín phương trời, con lạy mười phương Phật” với

mục đích cầu xin trời đất phù hộ cho mưa thuận gió hóa, gia đình được ấm

êm, và cũng là để cầu mong cho linh hồn của những người đã chết được siêu

thoát cõi Thiên giới. Như vậy, có thể thấy rằng, trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ

tiên, trời là yếu tố quan trọng đối với người Việt. Trời tuy cao, xa nhưng vẫn

có sức ảnh hưởng đáng kể đến cuộc sống của con người, đặc biệt là người đã

chết. Những người còn sống tin rằng, người thân của mình, sau khi chết đi,

nếu con cháu trên trần chu tất với trời, đất, thì linh hồn người thân của họ sẽ

được siêu thoát, được cõi Thiên giới đón nhận. ơn thế nữa, trời còn ban cho

con người ánh nắng, ban cho con người mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi

tốt, người an, vật thịnh, gia đình yên ấm. Do vậy, đây là một trong những yếu

tố quan trọng của vũ trụ không thể thiếu được đối với vạn vật trong thế gian,

đặc biệt là con người. Suy nghĩ đó đã ngấm vào từng mạch máu của người

Việt, nó trở thành tục lệ biểu hiện rõ nét mối quan hệ mật thiết giữa ba yếu tố

Thiên - Địa - Nhân.

Từ sự phân tích quan niệm về trời trong ba tín ngưỡng dân gian chủ

yếu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, lập bảng so sánh như sau:

Bảng 3.1: Quan niệm về trời trong tín ngưỡng dân gian của người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

Tiêu chí Thờ cúng Tổ tiên Thờ Mẫu Thờ Thành hoàng

1. Cơ sở - Xuất phát từ vai trò của yếu tố trời đối với cuộc sống của người

Page 87: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

82

nhận

thức

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.

- Xuất phát từ nhận thức trực quan, mang tính chất kinh nghiệm,

cảm tính.

- Xuất phát từ quan niệm duy tâm, thần bí.

2. Nguồn

gốc, bản

chất

- Do các vị thần

sáng tạo ra.

- Thường được hiểu

là nơi sinh sống của

các vị thần (Ngọc

Hoàng, Nam Tào,

Bắc Đẩu…), có mặt

trời, mặt trăng và có

các vì tinh tú.

- Thường được hiểu

là cha, mang tính

dương.

- Được nhân cách

hóa.

- Do Mẫu Thiên

sáng tạo và là người

cai quản vùng trời.

- Thường được hiểu

là nơi sinh sống của

các vị thần (Mẫu

Thiên, các vị Quan

Ông, Chầu Bà,

Thánh Cô, Thánh

Cậu…).

- Thường được hiểu

là Mẹ, mang tính

âm.

- Được nhân cách

hóa.

- Do các vị thần

sáng tạo ra.

- Thường được hiểu

là nơi sinh sống của

các vị thần (Ngọc

Hoàng, Tứ pháp,

Nam Tào, Bắc Đẩu,

các Thánh Mẫu) .

- Mang tính lượng

hợp (hòa quyện cả

tính âm và tính

dương)

- Được nhân cách

hóa.

3. Chức

năng

- Cai quan vận mệnh

của con người (mỗi

vì tinh tú trên bầu

trời thể hiện số

mệnh của một

người).

- Đón nhận những

linh hồn thanh sạch

của người chết về

cõi Thiên giới.

- Cai quản các hiện

tượng của tự nhiên

như mây, mưa, sấm,

chớp.

- Cai quản vận mệnh

của con người (ứng

với mỗi một con

người là một vị

Thánh Mẫu, hàng

- Cai quản các hiện

tượng của tự nhiên

như mây, mưa, sấm,

chớp.

- Bảo hộ vận mệnh

cho cộng đồng làng,

xã.

Page 88: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

83

- Phù hộ, che chở,

ban mưa thuận gió

hòa, người an, vật

thịnh cho con người

Quan, hàng Cậu,

hàng Cô…)

- Phù hộ, che chở,

ban mưa thuận gió

hòa, người an, vật

thịnh cho con người.

- Ban mưa thuận gió

hòa, người an, vật

thịnh cho con

người.

4. Ý

nghĩa

- Giải thích về mối

quan hệ giữa trời -

người, mối quan hệ

giữa người sống với

người chết thông

qua yếu tố trời.

- Là nơi gửi gắm

ước mơ, nguyện

vọng của con người

về cuộc sống tốt đẹp

hơn cho cả người

sống và người chết.

- Giải thích về

nguồn gốc và các

hiện tượng của tự

nhiên (như các hiện

tượng thiên tai, lũ

lụt…).

- Thể hiện khí phách

và quyết tâm của

ông cha ta trong

việc chế ngự tự

nhiên để tồn tại và

phát triển.

- Giải thích về

nguồn gốc và các

hiện tượng của tự

nhiên (như các hiện

tượng thiên tai, lũ

lụt…).

- Thể hiện khí

phách và quyết tâm

của ông cha ta trong

việc chế ngự tự

nhiên để tồn tại và

phát triển.

Như vậy, nhận thức của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ về trời

được phản ánh sắc nét trong tín ngưỡng dân gian. Tuy còn sơ khai nhưng

phần nào đã cho thấy được sự nhận thức ban đầu về vũ trụ. Cảm quan của

người Việt về trời là hình ảnh những điều gần gũi với chính cuộc sống của họ.

Họ nhân cách hóa sức mạnh của trời. Trời là những con người cụ thể, nhưng

lại là những con người mang trong mình sức mạnh siêu nhiên, có đầy đủ

những cung bậc cảm xúc giống con người vừa thực, vừa hư. Nhận thức về trời

trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ đa dạng và

nhiều vẻ: có mây, mưa, sấm, chớp thì tương ứng với việc có các hình ảnh về

các vị thần cai quan các lĩnh vực thời tiết; có mặt trời là trung tâm của vũ trụ.

Tính cách của các vị thần biểu trưng cho các hiện tượng của thời tiết: lúc

Page 89: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

84

nắng, lúc mưa, lúc bão giông vùi dập, sấm chớp cháy rực cả vùng trời, những

cơn thịnh nộ như những trận cuồng phong quét sạch tất cả. Song có những lúc

trời yên biển lặng, mưa gió thuận hòa… giống như người mẹ lúc thể hiện tình

yêu thương, chăm sóc và vui đùa cùng con cái. Tuy có nhiều điểm khác nhau

trong quan niệm về trời trong ba loại hình tín ngưỡng chủ yếu nêu trên, song

đều chung một điểm: thừa nhận trời là một yếu tố quan trọng của tự nhiên,

gắn liền với cuộc sống của con người; thừa nhận đấng sáng tạo ra trời, do vậy,

trời là yếu tố mang sức mạnh siêu nhiên; đều khẳng định giá trị nhận thức

trong tư duy của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ về tự nhiên.

3.1.2.2. Quan niệm về đất

Bên cạnh trời, thì đất là một yếu tố không thể thiếu trong sản xuất nông

nghiệp của cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trong tư duy của người Việt, ta

luôn bắt gặp hình ảnh “trời tròn, đất vuông” - được thể hiện trong sự tích bánh

chưng, bánh dầy. Hai hình ảnh trời và đất giống như cha và mẹ, không thể

thiếu cho sự tồn tại và sinh thành của vạn vật. Trời là yếu tố dương, thể hiện

sức mạnh của tự nhiên, đất là yếu tố âm thể hiện sự che chở đối với muôn

loài. Đối với người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, với phương thức sản xuất

chính là nền sản xuất nông nghiệp thâm canh cây lúa nước, thì đất là yếu tố

không thể thiếu. Đất là tư liệu sản xuất quan trọng bậc nhất đối với sản xuất

nông nghiệp. Nếu không có đất thì mọi hoạt động sản xuất, hoạt động sống

của con người và mọi sinh vật đều khó bề tồn tại. Chính vì thế, ngay từ sớm

người Việt đã chú ý đến vai trò của yếu tố đất. Vì vậy “muốn được sống yên

ổn, muốn cho đất đai màu mỡ, mùa màng bội thu, cây cối luôn tốt tươi thì

phải kính trọng và tôn thờ thần đất” [106, tr.127-130].

Trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, yếu

tố đất được phản ánh dưới nhiều góc độ. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, vị cai

thần quản đất chính là Mẫu Địa. Vì “có lẽ, trong tư duy của người Việt, họ

Page 90: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

85

không muốn có bất kì khoảng không gian nào dành cho ma ta quỷ quái khống

chế cuộc sống con người, mà khắp trục không gian: trời, đất, núi rừng, nước

đều nằm trong quyền năng cai quản của Mẫu. Chính vì vậy mà bên cạnh Mẫu

Thượng Thiên, người Việt còn có cả Mẫu Địa - là người giữ quyền năng sáng

tạo và bảo trợ cho sự sinh sôi, phát triển của vùng đất” [96, tr.96]. Mẫu Địa

được tôn là Địa Tiên Thánh Mẫu, được khoác lên mình bộ áo vàng biểu tượng

của đất, được thờ trong cung cấm. Chầu Đệ Tứ là vị Thánh giữ vai trò khâm

sai Tứ phủ, đứng đầu Địa phủ. Mẫu Địa thể hiện sự che chở của mình cho con

người, là nơi ươm mầm cho sự sinh sôi nảy nở. Khác với Mẫu Thiên, Mẫu

Địa mang trong mình sự trầm lắng, bình lặng như chính bản tính tự nhiên của

đất vậy: cố kết chặt chẽ, mang trong mình nguồn dinh dưỡng cho muôn loài,

nâng niu, chở che cho vạn vật.

Trong tín ngưỡng Thành hoàng của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

cho rằng, đất là do các vị thần đất cai quản. Các vị thần đất cũng mang dáng

dấp của con người, có cuộc sống như con người. Tồn tại dưới tên gọi chung là

Bản cảnh Thành hoàng, trách nhiệm của họ là việc trông giữ đất đai. Vì thế

cần phải thờ phụng, kính nể các vị thần đất để mong cầu họ giúp sức cho con

người có cuộc sống ấm êm. Các vị Thổ thần ấy không chỉ trông coi nhà cửa,

con người, vật nuôi mà còn có trách nhiệm xua tà đuổi quỷ, đuổi những vong

linh xâm nhập vào ranh giới của mỗi gia đình. Vì thế, trong tâm thức người

Việt, khi họ muốn mời gia tiên về với gia đình người sống, thì trước tiên cần

phải xin phép thổ công, thổ địa cai quan trên vùng đất của họ. Ý thức về vai

trò của đất trong cuộc sống, hình ảnh các vị thần đất được tạc dựng đa sắc thái

như chính kết cấu của các yếu tố đất trong tự nhiên.

Còn trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt vùng đồng bằng

Bắc Bộ cho rằng, đất thuộc quyền cai quan của Diêm Vương, các vị Thổ

Công Long Mạch, Thổ Địa, là cõi âm… Sâu thẳm trong lòng đất là nơi tối

Page 91: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

86

tăm, được xem như một thế giới riêng và được gọi là cõi âm ti, địa ngục, là

nơi ở của Diêm Vương, các vị Thần đất và các vong hồn chưa được siêu thoát

đang bị đày đọa ở ngục tối. Trần Đăng Sinh cho rằng, “cõi âm trong tâm linh

người Việt là thế giới của hồn ma. Người mới chết, trước khi nhập hồn vào

thế giới hồn ma cũng phải được Thổ Địa ở nơi đó cho phép” [81, tr.106]. Cho

nên, trong nghi lễ thờ cúng Tổ tiên, người ta rất coi trọng vai trò của đất. Đất

được coi là mẹ đất, sinh ra và nuôi sống con người, là nơi để người chết trở về

để tiếp tục sống một cuộc sống ở cõi âm với những người thân đã khuất, đúng

với câu “sinh gửi, thác về”. Do vậy, với người sống, trước khi làm nhà, họ

thường làm lễ cúng phần âm trước - tục gọi là mua long mạch. Còn trong tang

ma, trước khi thực hiện lễ mai táng, gia chủ cần phải tiến hành việc mua đất

phần âm, làm lễ báo cáo thần linh, thổ địa cho vong linh được nhập mộ phần

về vùng đất mới. Quan trọng hơn nữa, họ còn quan niệm cần phải chú ý

hướng phần mộ cho hợp với hướng của trời đất vì có như vậy mới giúp cho

người còn sống được bình yên, thuận lợi. Như vậy, có thể nhận thấy, quan

niệm về đất trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên cũng mang tính chất duy tâm,

thần bí, nhưng có nhiều giá trị tích cực. Nó không chỉ phản ánh cuộc sống khổ

cực, bị đày đọa của con người ở trần gian, vì theo quan niệm của các cụ thì

“trần sao, âm vậy”, mà còn gửi gắm niềm hi vọng hướng thiện, trừ ác cho con

người trên trần thế.

Từ việc phân tích quan niệm về đất trong ba loại hình tín ngưỡng trên,

lập bảng so sánh như sau:

Bảng 3.2: Quan niệm về đất trong tín ngưỡng dân gian của người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

Tiêu chí Thờ cúng Tổ tiên Thờ Mẫu Thờ Thành Hoàng

1. Cơ sở

của sự

- Xuất phát từ vai trò của yếu tố đất đối với cuộc sống của người

Viêt vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Page 92: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

87

nhận thức - Xuất phát từ nhận thức trực quan, mang tính chất kinh nghiệm,

cảm tính.

- Xuất phát từ quan niệm duy tâm, thần bí.

2. Nguồn

gốc, bản

chất

- Do các vị thần cai

quản, đứng đầu là

Diêm Vương.

- Là nơi ở của Diêm

Vương và các vị Thổ

thần.

- Là nơi các vong hồn

chưa được siêu thoát,

đang bị đày đọa ở

tầng địa ngục.

- Được gọi là cõi âm

- Đất được nhân cách

hóa.

- Do các vị thần

cai quản, đứng

đầu là Mẫu Địa.

- Là nơi ở của của

Thánh Mẫu Địa

Tiên và các vị

Thổ thần.

- Đất được nhân

cách hóa.

- Do các vị thần

Thổ địa cai quản,

các vị thần đó được

gọi chung là Bản

Cảnh Thành hoàng.

- Là nơi ở của các

vị Thổ thần

- Đất được nhân

cách hóa.

3. Chức

năng

- Là không gian sinh

tồn của con người

- Là một thế giới

khác để vong hồn Tổ

tiên tiếp tục duy trì

cuộc sống.

- Dưới âm ti địa phủ

- Thể hiện vai trò

che chở của Mẫu

đối với cuộc sống

của con người.

- Là nơi ươm

- Trông coi nhà cửa,

đất đai, vườn tược

cho con người.

- Xua đuổi ma tà,

quỷ quái.

- Thể hiện chủ

Page 93: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

88

làm nơi tra tấn, đày

đọa những vong hồn

làm nhiều việc ác.

mầm cho sự sinh

sôi, nảy nở, là

nguồn dinh dưỡng

cho muôn loài.

quyền đất đai phần

âm của mỗi gia

đình, làng xã, quốc

gia.

4. Ý nghĩa - ướng thiện cho

con người, khuyên

con người ăn ở có

tâm, có đức để sau

này không bị đày đọa

xuống cõi âm ty, địa

phủ.

- Khẳng định vai

trò của yếu tố đất

trong cuộc sống,

trong lao động

sản xuất của con

người.

- Khẳng định chủ

quyền lãnh thổ

không chỉ phần âm

mà cả phần trần của

mỗi gia đình, làng

xã, quốc gia.

Như vậy, trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng

Bắc Bộ, quan niệm về đất được giải thích trên nhiều khía cạnh. Tuy còn khác

nhau, nhưng về cơ bản, trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng

bằng Bắc Bộ, đất là yếu tố âm, do các vị thần linh, thánh Mẫu cai quản. Các

vị thần ấy mang dáng dấp của con người, phản ánh mối dây liên hệ gần gũi

giữa thần, thánh và người. Những nhận thức đó chứa đựng nhiều yếu tố duy

tâm, thần bí về yếu tố của tư nhiên nhưng phần nào đã phản ánh tư duy trừu

tượng của người Việt về tự nhiên một cách có ý thức.

3.1.2.3. Quan niệm về nước

Người xưa quan niệm rằng “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”

cho thấy nước có vai trò vô cùng quan trong đối với sự sống. Khoa học hiện

đại nhận định, cơ thể của con người và động thực vật chiếm tới gần 70% là

nước, trái đất của chúng ta có đến ¾ là nước, ở đâu có nước thì ở đó có sự

sống. Đặc biệt, với người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ nước là yếu tố giữ vai

trò hàng đầu cho sản xuất nông nghiệp và cho sự sống của con người. Nước

đem lại sự sinh trưởng cho cây lúa, cho sự sinh sôi nảy nở của vật nuôi, cho

Page 94: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

89

sự sống và hiểm họa khôn lường của con người. Với vị trí địa lý đặc thù, vùng

đồng bằng Bắc Bộ nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa ẩm, với lượng mưa

trung bình năm lớn vừa là thuận lợi vừa khó khăn. àng năm, những cơn bão

mang nước từ biển khơi liên tiếp dội vào, gây nên những trận lụt lội dữ dội và

những trận hạn hán làm nứt nẻ ruộng đồng đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến

cuộc sống của con người. Nhận thức được điều này, người dân đã tạo dựng

những công trình thủy lợi để ngăn đê, đắp đập, để giữ nước cho những vụ hạn

hán… Nhưng con người vẫn không thắng nổi sức mạnh của thiên nhiên.

Quanh năm tiếp xúc với trời, đất, nắng mưa, với gió bão, với nước… con

người dần có ý thức về nó. Trong tư duy của người Việt, nước cũng mang

trong mình sức mạnh thần bí, do một lực lượng siêu nhiên tạo thành. Khi câu

chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh được hình thành, nó phản ánh tư duy của người

Việt trong cách giải thích hiện tượng lũ lụt. àng năm, vì Thủy Tinh không

lấy được Mị Nương nên Thủy Tinh đã dùng sức mạnh của mình dâng nước

đánh nhau với Sơn Tinh mong giành lại được vợ, đã gây ra những trận lụt lội

cho con người.

Trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ cho

rằng, nước là yếu tố âm, do các vị thánh, thần cai quản. Đứng đầu vùng nước

là Mẫu Thoải, hay còn được gọi là Mẹ nước. Giúp việc cho Mẫu Thoải là các

vị quan Bà - Chầu Đệ Tam, Cô Bơ và cả những con vật dưới sông nước…

Trong đó, “Chầu Đệ Tam là hóa thân của Mẫu Thoải. Đó là vị thánh có dáng

vẻ u buồn, y phục và khăn trùm màu trắng. Chầu Đệ Tứ là vị thánh giữ vai trò

khâm sai của Tứ phủ” [96, tr.136]. Cô Bơ là hóa thân của Thủy phủ, khi giáng

đồng mặc y phục màu trắng, thắt lưng hồng, múa điệu chèo đò. Cô Bơ xuất

hiện với vai trò “chữa bệnh cứu người bằng cách ban nước uống” [96, 138].

Như vậy, có thể thấy, nước trong quan niệm của tín ngưỡng thờ Mẫu là thế

giới của các vị thần thánh cư ngụ. Sức mạnh của dòng nước là biểu hiện sức

Page 95: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

90

mạnh của các vị Thủy thần, đứng đầu trong số đó là Mẫu Thủy. Mẫu Thủy

biến hóa thành các vị thánh khác nhau, có tính cách khác nhau cũng giống

như sự thay đổi của dòng nước. Khi thì nước hiền hòa êm đềm trôi chảy,

mang đến mùa màng tốt tươi cho con người, được ví như bàn tay mẹ làm mát

mọi vật, làm sinh thành cho vạn vật trong trời đất. Khi thì nổi những dòng

nước cuồn cuộn thể hiện sự giận dỗi của Mẹ nước đối với những đứa con trần

thế của mình. Hình ảnh nước được giải thích một cách duy tâm, thần bí, thần

thánh hóa, nhân cách hóa yếu tố nước trong tự nhiên. Phản ánh trình độ nhận

thức thấp và sự kém phát triển của khoa học tự nhiên của người Việt lúc bấy

giờ.

Tín ngưỡng thờ Thành hoàng cho rằng, nước là do các vị thần linh cai

quản. Đó có thể là các vị thần Linh lang, hoặc có khi là các vị quan, tướng

triều đình có công đánh giặc giữ nước được phong làm Thủy thần cai quản

vùng sông nước. Hình ảnh các vị Thủy thần đã được nhân cách hóa thành

những vị thần có tên tuổi, có gốc tích, là các nhân vật lịch sử như Bát ải

Động Đình, Đông ải Đại Vương, Nam ải Đại Vương, Nam ải Tứ Vị

Hồng Nương, Linh Lang Đại Vương… đều là những vị thần cai quan các

miền sông nước. Hình ảnh dòng nước cuốn mình như rắn, được người dân

khắc họa đó là thần Linh Lang. Các vị thần khác như Bát ải Động Đình là vị

vua nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống quân xâm

lược. Ông được phong làm Thủy thần và được người dân thờ tự. Khi xây

dựng hình ảnh các vị thần cai quản miền sông nước, dân gian muốn gửi gắm

vào đó mong muốn được các vị thần che chở cho con người, chống đỡ cho

con người khỏi những trận lũ lụt hay những trận hạn hán. Ngoài ra, đối với

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ còn gắn liền với nghề sông nước. Nên

yếu tố nước luôn được họ quan tâm đến hàng đầu. Với quan niệm, “đất có thủ

công, sông có hà bá”, nên trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng, các vị thần cai

Page 96: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

91

quản vùng sông nước đều có những vị trí nhất định. Nhìn dòng nước cuồn

cuộn, sâu thẳm trong lòng sông ắt hẳn là cuộc sống của Long Vương, của các

vị thần nước. Nhân gian có câu, không có gì mạnh bằng nước, cũng không có

gì mềm bằng nước, ý muốn nói tới sức mạnh vô cùng của nước. Cuộc sống

của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ xuất phát từ nghề canh tác trồng lúa

nước, chèo thuyền đánh cá, nên nước là yếu tố quan trọng hàng đầu. Những

khi, thời tiết hạn hán, nước sông, nước suốt cạn kiệt, hoặc trời đổ mưa gây

nên những trận lũ lụt cuốn trôi nhà cửa, ruộng vườn. Sợ hãi trước sức mạnh

siêu nhiên không thể chế ngự đó, dân gian gắn cho nó sức mạnh của các vị

thần linh mang dáng dấp của con người, để dân gian thờ cúng, mong cầu được

che chở, và phần nào thể hiện khát khao chinh phục được tự nhiên.

Trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc

Bộ cho rằng, cùng với trời, đất, thì nước cũng là một yếu tố quan trọng. Trong

tư duy của người Việt, nước mang tính âm, được ví như sữa mẹ, ý muốn

khẳng định công sinh thành của mẫu thân đối với con cái. Chính vì lẽ đó, khi

nhắc tới yếu tố nước, người Việt cho rằng, đó là nguồn gốc của mọi sư sinh

sôi, nảy nở của vạn vật, muôn loài. Biểu hiện quan niệm về nước trong tín

ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt cho thấy, trong các đồ lễ cúng gia

tiên ở các gia đình, hay cộng đồng làng xã đều không thể thiếu rượu (hoặc

bình nước thanh thủy) - phi tửu bất thành lễ. Theo nhận định của Trần Đăng

Sinh cho thấy “rượu biểu trưng cho nước trắng tinh khiết, là tấm lòng thành

tâm nguyện dâng cúng Tổ tiên. Nước làm cho linh hồn Tổ tiên mát mẻ, cũng

là sự phản ánh lòng mong muốn sự sinh sôi, phát triển và thịnh vượng của gia

đình, họ tộc” [81, tr.107].

Từ sự phân tích quan niệm về nước trong ba tín ngưỡng dân gian của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ nói trên, lập bảng so sánh như sau:

Page 97: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

92

Bảng 3.3: Quan niệm về nước trong tín ngưỡng dân gian của người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

Tiêu chí Thờ cúng Tổ tiên Thờ Mẫu Thờ Thành hoàng

1. Cơ sở

nhận

thức

- Xuất phát từ vai trò của yếu tố nước đối với cuộc sống của

người Viêt vùng đồng bằng Bắc Bộ.

- Xuất phát từ nhận thức trực quan, mang tính chất kinh nghiệm,

cảm tính.

- Xuất phát từ quan niệm duy tâm, thần bí.

2. Nguồn

gốc, bản

chất

- Do các vị thần cai

quản.

- Có tính âm.

- Nước được linh

thiêng hóa.

- Do các vị thánh,

thần cai quản, đứng

đầu là Mẫu Thoải.

- Là các vị thần có

nguồn gốc nhiên

thần

- Nước được nhân

cách hóa.

- Do các vị thánh,

thần cai quản, đứng

đầu có thể là vị thần

Linh Lang, các vị

anh hùng có công

dẹp giặc được

phong Thủy thần.

- Là các vị thần vừa

có nguồn gốc thiên

thần, vừa có nguồn

gốc nhân thần.

- Nước được nhân

cách hóa.

3. Chức

năng

- Là nguồn gốc của

mọi sư sinh sôi, nảy

nở của vạn vật,

muôn loài.

- Biểu trưng cho sự

- Cai quản vùng

nước.

- Ban sự sống cho

con người và vạn

vật.

- Giải thích về các

- Cai quản vùng

nước.

- Ban sự sống cho

con người và vạn

vật.

- Giải thích về các

Page 98: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

93

tinh khiết của con

cháu dâng lên thành

kính cúng Tổ tiên,

của làng xã, đất

nước thành kính

cúng các vị thần.

- Làm cho linh hồn

của người thân được

mát mẻ.

hiện tượng lũ lụt,

hạn hán là do sự nổi

giận của các vị thần

linh.

hiện tượng lũ lụt,

hạn hán là do sự nổi

giận của các vị thần

linh.

4. Ý

nghĩa

- Thể hiện vai trò

quan trọng trong

cuộc sống của con

người

- Gửi gắm vào đó

mong muốn được

các vị thần che chở

cho con người,

chống đỡ cho con

người khỏi những

trận lũ lụt hay

những trận hạn hán.

- Phản ánh ước

vọng được che chở,

và phần nào thể

hiện khát khao

chinh phục được tự

nhiên của con

người.

Tóm lại, từ sự phân tích trên cho thấy, nhận thức về tự nhiên trong tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ tuy còn sơ khai về

cách giải thích song điều đó chứng tỏ rằng, người Việt đã có những nhận thức

riêng của mình về thế giới xung quanh hết sức đa dạng và phong phú. Sự nhận

thức đó có những giá trị nhất định thể hiện khả năng tư duy của người Việt về

tự nhiên, đó là các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của họ.

Page 99: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

94

3.2. Quan niệm về con ngƣời trong tín ngƣỡng dân gian của ngƣời

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

3.2.1. Một số quan niệm về con người trong lịch sử tư tưởng triết học

nhân loại

Từ thủa bình minh của lịch sử, do hạn chế về nhận thức, con người

không hiểu được những sức mạnh của tự nhiên, vì vậy, “con người đã thờ

trời, thờ đất, thờ núi sông, thờ muông thú, nhiều lúc coi những thứ ấy là tổ

tiên của mình” [38, tr.609]. Khi thờ thần xuất hiện cũng là giai đoạn con

người bắt đầu khám phá về bản thân mình. Các mối quan hệ giữa thế giới hữu

hình và vô hình, giữa sự sống và cái chết đã khiến họ bận tâm, và họ đi tìm lời

giải đáp. Hàng loạt những câu hỏi như con người sinh ra từ đâu, con người

sau khi chết sẽ đi về đâu? Luôn cần một lời giải đáp.

Trong thần thoại Hy Lạp của nhà thơ ê-đi-ô, con người được sinh ra

bởi các vị thần Ô-lanh-pơ không hề biết đến tuổi già và cái chết. Các thần đã

tạo ra năm thời đại người. Giống người đầu tiên được các thần tạo ra là giống

người bằng vàng. Con người thời đại này cũng giống như các vị thần, họ

chẳng hề biết đến lo âu, phiền não. Họ cũng không phải làm việc cực nhọc

đến kiệt sức, không phải chịu cảnh đói rét, khổ cực, không bệnh tật, không

tuổi già và không hề biết đến sự gõ cửa của cái chết. Họ cứ sống mãi cho đến

khi họ từ dã cõi đời một cách bình thản, tự nhiên như một giấc ngủ sâu. Khi

đất đen phủ kín người Vàng, thì thần Dớt giao cho họ một sức mạnh cao cả đó

là giữ vai trò của những vị thần nhân hậu. Sau một thời gian dài qua đi, thời

đại người vàng không còn nữa, các vị thần Ô-lanh-pơ lại sáng tạo ra giống

người thứ hai bằng bạc. Họ cũng giống như lớp người bằng vàng, nhưng kém

đẹp hơn về hình dáng, và kém thông minh hơn về trí tuệ. Từ đấy, người mẹ

phải nuôi con vất vả hôm sớm, nuôi mãi ròng rã một trăm năm đứa con mới

khôn lớn trưởng thành. Mọc ra trong trái tim họ những cám dỗ về lòng ghen

Page 100: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

95

tị, dối trá, tàn bạo… họ khinh thần linh. Họ đã làm cho thần Dớt nổi dận chôn

vùi họ xuống đất đen, bắt họ phải chết… bằng chính sự ngu ngốc của mình.

Các thần trên đỉnh Olanhpo vĩ đại lại tiếp tục sáng tạo ra giống người thứ ba

bằng đồng, được tạo ra từ cán của những ngọn lao đồng, khác hoàn toàn hai

giống người trước đó. ọ là những người rất hung hăng, đáng sợ, họ có trái

tim băng giá, họ chỉ ưa thích những cuộc giao tranh, và họ chìm đắm vào

những trận chiến đẫm máu. Chính vì lẽ đó, họ đã tự giết chết lẫn nhau, tự hủy

diệt chính mình. Lúc bấy giờ, các vị thần lại một lần nữa sáng tạo ra giống

người thứ tư cho mẹ Đất. Đó là các vị anh hùng mang trong mình dòng giống

thần linh. Cuộc sống của họ gắn liền với những chiến công hiển hách. Nhưng

rồi, chính những trận chiến đó lại cướp đi cuộc sống của họ. Đến thời đại

người thứ năm được các vị thần tạo ra bằng sắt với hai thái dương xám xịt,

suốt đêm ngày chìm đắm trong cuộc sống vất vả, cực nhọc, bận rộn và mang

trong mình bao nỗi ưu tư khó tả. Con người đối xử với nhau lạnh lùng tàn

nhẫn. Bất hòa, bạo lực, chiến tranh cứ đeo đuổi mãi cuộc sống của loài người.

Các vị thần Lương Tâm và Công Bằng đã phải từ bỏ cuộc sống của con người

để trở về cuộc sống của các vị thần đỉnh Ô-lanh-pơ. Điều đó đã làm các vị

thần nổi giận, họ không ban tặng cho con người những điều tốt đẹp như trước.

Từ đó, họ phải cực nhọc làm việc mới có miếng để ăn, tuổi thọ của họ vì thế

mà ngắn hơn, họ phải chịu nỗi khổ đau của bệnh tật của tuổi già và sự chết

chóc. Đó là câu chuyện về nguồn loài người trong thần thoại Hy Lạp. Con

người do các vị thần sinh ra, số phận con người là do các vị thần định đoạt.

Câu chuyện về sự hình thành loài người của Thiên Chúa giáo cũng có

những điểm tương đồng với câu chuyện của thần thoại Hy Lạp. Con người

được sinh ra từ Chúa, nghĩa là con người cũng được sinh ra từ sức mạnh của

các vị thần. Chúa tạo ra người đàn ông đầu tiên của thế giới bằng bùn non,

máu và thổi hồn sống vào đó. Chúa gọi là Adam. Sau đó, thấy Adam sống

Page 101: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

96

hưu quạnh, Chúa tiếp tục tạo ra người đàn bà đầu tiên bằng chính rẻ xương

sườn của người đàn ông cùng với máu và bùn non rồi Chúa thổi hồn sống.

ai con người đầu tiên của thế giới được sống trên vườn địa đàng, sống cuộc

sống hạnh phúc không biết đến khổ đau. Nhưng họ đã quên mất lời Chúa dặn

khi nếm trái cấm. Họ bị chúa đẩy xuống trần gian sống cuộc sống của con

người với đầy đủ các cung bậc của cảm xúc: buồn vui, hạnh phúc, khổ đau,

hờn ghen, dối trá,… Theo Thiên Chúa giáo bản chất con người là kẻ có tội.

“Con người không chỉ có thể xác mà còn có cả linh hồn. Thể xác mất đi

nhưng linh hồn thì còn lại. Con người phải cứu lấy linh hồn của mình. Linh

hồn là phần tinh thần cao quý… thể xác là phần thấp hèn, phần gần gũi với

súc vật” [38, tr.610]. Cuộc sống trên trần thế chỉ là tạm bợ và chỉ khi trở về

với Chúa ở trên Thiên Đàng mới là cõi vĩnh hằng. Đó là câu chuyện của

Thiên Chúa Giáo về nguồn gốc của con người.

Khác với Thiên Chúa Giáo, Phật Giáo cho rằng con người là duyên hợp

của ngũ uẩn (sắc uẩn, thụ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn), ngũ uẩn được

chia thành phần danh và sắc. Trong đó, sắc là phần vật chất (sắc uẩn) - là sự

tụ tập của các pháp có tính chất ngoại và biến ngoại, và với riêng khía cạnh

dùng để chỉ con người thì sắc uẩn chính là cơ thể. Sắc uẩn luôn luôn trong

trạng thái biến dịch, thay đổi. Còn bốn uẩn còn lại hợp thành danh - là mặt

tinh thần hay tâm thức của con người. Ngũ uẩn được gọi là năm ràng buộc vì

chỉ có Phật hay Alahan mới không bị mắc phải vì chúng có đặc tính là vô

thường, vô ngã và khổ. Tính chất khổ và vô thường của ngũ uẩn là một trong

những quan điểm nổi bật của Phật giáo về cấu tạo con người. Phật Giáo cho

rằng, vì con người không nhận thức được trạng thái vô thường, vô ngã, giả

tướng, luân hồi, nghiệp báo nên con người khát ái, tham dục, tạo nên nghiệp

ác, chìm trong bể khổ triền miên. Vì thế, sự tồn tại của con người trải qua các

kiếp theo luân hồi nghiệp báo do căn nguyên chính là do vô minh. Như vậy,

Page 102: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

97

Phật giáo giải thích nguồn gốc sinh ra con người không phải do một đấng siêu

nhiên hay một phép màu nhiệm nào đó tạo ra con người, mà theo quy luật

nhân quả, luân hồi. Con người ở hiện tại là kết quả của những hành động tạo

nghiệp trong kiếp trước của họ, và chính những hành động trong cuộc sống

hiện tại là nguyên nhân tiếp theo để kiếp sau họ được hình thành. Cách lý giải

đó về con người trong Phật giáo tuy có biện chứng hơn so với cách giải thích

của Thiên chúa giáo, song lại đi vào siêu hình khi cho rằng, “cuộc đời chỉ là

bể khổ, con người không tiếp tục sinh ra nữa, thì hết khổ, không sinh ra thì

không có lão, bệnh, tử” [16, tr.17].

Khác với hai tôn giáo nêu trên, khi bàn về con người, Đạo giáo lại cho

rằng, mỗi con người sinh ra trong trần thế đều có số phận gắn với một vì sao

trên trời. Cho đến khi vì sao ấy tắt, thì cuộc sống của con người trên trần thế

cũng lụi tàn theo, và khi con người chết đi, thì được trở về với cõi bồng lai

tiên cảnh. Đạo giáo luôn hướng con người tới phép tu để đạt đến sự bất tử,

muốn xoay vần số phận con người bằng phép thuật riêng của Đạo giáo. Đó là

cách giải thích về nguồn gốc hình thành con người một cách thần bí duy tâm.

Như vậy, qua viêc phân tích trên cho thấy, trong lịch sử tư tưởng nhân

loại có nhiều quan niệm khác nhau về con người, song đều có một điểm

chung nhất định. Hầu hết họ thừa nhận con người do một đấng tối cao tạo ra,

nên mỗi con người đều có một số phận nhất định. Số phận của họ là do các vị

thần tạo ra. Trong số các quan điểm ấy, có quan điểm của Phât giáo là khác

biệt về nguồn gốc, bản chất con người. Song, cũng giống như những quan

điểm trước đó, đều thừa nhận sự tồn tại của linh hồn ở một thế giới khác.

3.2.2. Nội dung một số quan niệm về con người trong tín ngưỡng dân

gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

3.2.2.1. Quan niệm về nguồn gốc, cấu tạo con người

Page 103: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

98

Trong tư duy của người Việt, con người được được cấu tạo từ linh hồn

và thể xác. Không giống với phương Tây, linh hồn theo quan niệm của người

Việt gồm có ba loại: những hồn thượng đẳng - hồn và những hồn hạ đẳng -

“vía” (nam có bảy vía, nữ có ba vía), và nhiều sinh khí phức tạp khác. Đó

chính là cơ sở để giải thích các hiện tượng thường xuyên diễn ra đối với cuộc

sống của con người như hiện tượng ngủ mơ là do linh hồn lúc này đi chu du

khắp nơi; hiện tượng bị ốm do hồn tạm thời rời bỏ xác, đang lưu lạc khắp nơi

nên người thân cần phải “hú hồn” - gọi hồn quay trở về [90, tr.137]. Câu

chuyện đó được nhà văn Ngô Tất Tố miêu tả rất chi tiết cảnh anh Dậu bị ốm

nặng bị quan lính trả về, tưởng một hai sẽ chết. Ý thức được điều đó, chị Dậu

nhanh trí chạy ra đầu làng gọi hồn anh Dậu: “ba hồn bảy vía anh Nguyễn Văn

Dậu ở đâu thì về với vợ với con”. Câu chuyện của chị Dậu trong tác phẩm văn

học Việt Nam đã phần nào phản ánh tư duy của người Việt về cái mà người ta

gọi là “hồn”, nó ăn sâu bén rễ vào trong tiềm thức của người dân Việt Nam từ

ngàn xưa.

Trong nhận thức dân gian, thể xác và linh hồn vừa gắn bó, vừa tách

biệt, chúng gắn bó khi sống và tách biệt khi chết. Ngô Đức Thịnh viết: “thể

xác đã hòa vào cát bụi nhưng phần hồn vẫn tồn tại - chuyển sang “sống” ở

một thế giới khác” [96, tr.39]. Cho nên, đối với người Việt, cuộc sống thực

chỉ là tạm bợ, nên cái còn lại sau khi chết đi không phải là thể xác mà là linh

hồn. Đồng thời, trong nhận thức dân gian của người Viêt họ tin rằng “chết

không phải là hết”, mà “chết cũng là một dạng “sống” trong một môi trường

khác” [96, tr.39] - môi trường đó là cõi âm, cách xa cuộc sống thực của con

người, song song tồn tại và có ít nhiều ảnh hưởng đến cuộc sống của người

trần thế.

Khi giải thích về nguồn gốc của con người, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên

của Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng dựa trên cơ sở xuất phát từ nhận thức

Page 104: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

99

“vạn vật hữu linh” - vạn vật đều có linh hồn. Với quan niệm như vậy, dân

gian tin rằng, trong mỗi con người đều có phần hồn và xác. Người ta lý giải

rằng, để có một con người hiện hữu cần có sự hội tụ của “tinh”, “khí”, qua 9

tháng 10 ngày bào thai trong bụng người mẹ mới hoàn chỉnh. Đó chính là

quan niệm về sự hình thành con người là do trời đất hợp thành. Số 9 thể hiện

9 phương trời, só 10 thể hiện 10 phương đất, đủ số trời đất mới hợp thành con

người. Và “9 tháng 10 ngày, tính ra 9 tháng bằng 270 ngày, cộng với 10 ngày

thành 280 ngày. 280 là tích của các số vốn có ở trong mỗi con người. Đó là số

4 thể hiện tứ chi, số 7 là 7 lỗ khiếu, số 10 là ngủ phủ, ngũ tạng… Như thế ta

có 10*7*4=280, đó là 280 ngày đêm, cũng là trái đất tự xoay quanh mình nó

280 vòng, thai nhi mới hình thành” [16, tr.50-51]. Khi quan niệm rằng, mỗi

con người đều có cả phần xác và phần hồn. Khi phần xác già yếu chết đi,

nhưng phần hồn thì tồn tại vĩnh viễn. Vì thế, khi con người chết đi, thì chỉ có

phần xác tiêu tan còn phần hồn vẫn còn tồn tại, chỉ là đang sống ở một thế

giới khác. Do vậy, trong gia đình khi có người chết, họ làm lễ an táng cùng

những vận dụng hàng ngày, với niềm tin người chết vẫn tiếp tục cuộc sống ở

một thế giới khác. Sau này, người ta thay thế các vật dụng đó bằng cách đốt

vàng, mã cho người đã chết. Ngô Đức Thịnh viết, người nhà thực hiện lễ cúng

3 ngày vì 3 ngày mới đủ điều kiện âm - dương hòa hợp, linh hồn ra đi phát

triển (3=1 dương + 2 âm). Cúng 7 tuần vì quan niệm con người ta có 7 lỗ

khiếu, 7 lỗ khiếu này “một đời hấp thụ vật chất và tinh thần của vũ trụ duy trì

sự sống nên cần phải cúng đủ 7 tuần thì thể xác mới tiêu tan, linh hồn mới

siêu thoát” [96, tr.48].

Bên cạnh đó, đi liền với quan niệm con người có 3 hồn 7 vía (đối với

nam), 9 vía (đối với nữ), vì 3 hồn là do con người đều được hợp thành bởi ba

yếu tố là tinh, khí, thần. Do sự ảnh hưởng của Phật giáo, con người sống trên

trái đất chịu sự chi phối của rất nhiều yếu tố như 7 vị tinh quân, mỗi vị tinh

Page 105: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

100

quân lại cai quản một cung nên phải cúng đủ 49 ngày, thì linh hồn mới siêu

thoát. Ngoài ra, do ảnh hưởng của quan niệm phương Đông cho rằng mỗi con

người là một tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ trời đất. Ngô Đức Thịnh viết: “Đại vũ

trụ được hơp thành bởi lưỡng nghi, tứ tượng và bát quái, thì tiểu vũ trụ mỗi

con người cũng được hợp thành bởi lưỡng nghi, tứ tượng, bát quái… Do vậy,

cúng 49 ngày là cúng giải tỏa phần tiểu vũ trụ đã hình thành nên thể xác mỗi

con người có hồn và vía, mát mẻ tiêu đi để linh hồn đầu thai sang kiếp khác”

[96, tr.49-50].

Trong tín ngưỡng thờ Mẫu cũng cho rằng, con người được cấu tạo từ

phần hồn và phần xác, nhưng lại nhấn mạnh rằng, sự kết hợp đó không phải là

ngẫu nhiên mà có luôn có sự định đoạt trước. Bàn về điều này, Nguyễn Hữu

Thụ viết, trong ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ chỉ

rõ, con người được hình thành cũng là sự kết hợp giữa linh hồn và thể xác để

tạo nên, song “sự kết hợp đó không phải một cách ngẫu nhiên, tự phát mà

luôn có sự định trước - tín ngưỡng thờ Mẫu gọi là “căn cơ”” [106, tr.95]. Chữ

“căn” theo nguyên nghĩa là gốc rễ, còn trong tín ngưỡng thờ Mẫu, quan niệm

về chữ “căn” có nghĩa dùng để chỉ nguyên nhân của sự vật hiện tượng. Số là

số mệnh, số phận của con người. Quả là kết quả có được theo luật Nhân Quả.

Dân gian cho rằng, số mệnh con người do con tạo xoay vần, do thiên cơ định

sẵn. Do vậy, mỗi một con người khi được sinh ra đều có một sự định trước -

giống như sự sắp đặt trước của số phận. Sự sắp đặt đó là do các vị thần cai

quản bản mệnh quyết định. Người ta cho rằng, mỗi người có một vị thần cai

quản số mệnh của mình.

Trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, các vị thần trông coi bản

mệnh của con người là các vị thần thuộc về hệ thống Tam, Tứ phủ. Đó là các

vị Quan lớn, Chầu Bà, Thánh Hoàng, Thánh Cô, Thánh Cậu… là các vị thần

trông coi bản mệnh đảm nhận công việc cai quản căn số của một người.

Page 106: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

101

Chẳng hạn, các vị thánh trông coi bản mệnh theo thập lục hoa giáp (theo năm

sinh), thì những người sinh năm Giáp Tý do Chầu Bà Đệ Nhị Thượng Ngàn,

Đệ Tam Hoàng Thái Tử Vương quan, nam thủ mệnh Mai Hoa Công Chúa, nữ

thủ mệnh Hồng oa Công Chúa, Đoàn Tư Quân coi tội phúc. Tuổi Đinh Mão

do Chầu bà Đệ nhị Thượng Ngàn, Chúa Bán Thiên cai quản bản mệnh, nam

thủ mệnh Quế Hoa Công Chúa, nữ thủ mệnh Quế Hoa Công Chúa, Hứa Tư

Quân coi tội phúc. Tuổi Mậu Thìn do Đệ Tam Hoàng Thái Tử Vương quan,

Chầu bà Đệ Tam, 5 quan Hoàng (Cả, Đôi, Bơ, Bẩy, Mười), năm thủ mệnh

Lộc Hoa Công Chúa, nữ thủ mệnh Lộc Hoa Công Chúa, Mã Tư quân coi tội

phúc, v.v..

Trên cơ sở thừa nhận niềm tin vào sự tồn tại của linh hồn, khi giải thích

về nguồn gốc, cấu tạo của con người, tín ngưỡng thờ Thành hoàng cũng cho

rằng, con người được cấu tạo hai phần gồm thể xác và linh hồn. Các vị Thành

hoàng không chỉ giúp con người trông coi nhà cửa, ruộng vườn, đất đai, ban

phước lộc bảo vệ cuộc sống của con người trên trần thế, mà họ còn thực hiện

cả việc cai quản vong linh của người chết, tiễu trừ hoặc cho phép vong linh

người chết về gia đình. Rộng hơn nữa, trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng cho

rằng, những người có công lao to lớn với làng, xã, quốc gia thì bản thân sự

tồn tại của họ là do sự đầu thai của các vị thánh thần trên trời xuông để giúp

dân chống giặc, dạy dân cách làm ăn, buôn bán… nên khi họ chết đi, những

linh hồn của họ trở nên bất tử. Đó là quan niệm của tín ngưỡng thờ Thành

hoàng về nguồn gốc, cấu tạo của con người. Tuy không rõ nét như trong tín

ngưỡng thờ Mẫu và thờ Tổ tiên, song do có sự giao thoa, ảnh hưởng lẫn nhau

giữa các tín ngưỡng và tôn giáo, nên giữa chúng đều có quan niệm chung về

cấu tạo và nguồn gốc con người. Đều thừa nhận sự tồn tại của con người do

thần linh tạo dựng, con người đều có phần xác và phần hồn. Khi chết đi, phần

hồn còn tồn tại mãi, chỉ có phần xác là tiêu tan vào cát bụi. Những quan niệm

Page 107: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

102

đó đã khiến cho quan niệm về nguồn gốc con người trở nên thần bí, khiến con

người sống thụ động vì tin rằng bản thân minh được sinh ra là có số phận sắp

đặt từ trước. Chính điều đó đã làm cho con người tiêu tan nghị lực, nhụt ý chí

đấu tranh, hạn chế quá trình vươn lên làm chủ cuộc sống.

Từ sự phân tích các quan niệm về con người trong ba loại hình tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, lập bảng so sánh sau:

Bảng 3.4: Quan niệm về nguồn gốc, cấu tạo con người trong tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

Tiêu chí Thờ cúng Tổ tiên Thờ Mẫu Thờ Thành hoàng

1. Cơ sở

nhận

thức

- Xuất phát từ nhu cầu khám phá về chính bản thân mình

- Xuất phát từ quan niệm vạn vật hữu linh.

- Thừa nhận sự tồn tại của linh hồn con người

2. Nguồn

gốc, cấu

tạo con

ngƣời

- Gồm hai phần: thể

xác và linh hồn.

+ Thể xác là sự hội

tụ tinh khí của cha

mẹ và trời đất, khi

chết đi sẽ tan vào

cát bụi

+ Linh hồn do sự

đầu thai từ kiếp

trước mà thành.

- Sự kết hợp giữa

thể xác và linh hồn

tạo thành con người

do phúc đức của cha

mẹ, của tổ tiên và

- Gồm hai phần: Thể

xác và linh hồn.

+ Thể xác: do các vị

thánh Mẫu ban cho.

+ Linh hồn: do các

vị thánh Mẫu cai

quản

- Sự kết hợp giữa

thể xác và linh hồn

do thánh Mẫu cai

quản, sắp đặt, được

gọi là căn cơ.

- Gồm hai phần:

Thể xác và linh hồn.

- Đối với những

người có công vào

dân, với nước, thể

xác và linh hồn của

họ là do các bậc tiên

Page 108: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

103

của chính bản thân.

- Sự tồn tại của thân

xác chỉ là tạm, linh

hồn mới thực sự tồn

tại.

- Sự tồn tại của thân

xác chỉ là tạm, linh

hồn mới thực sự tồn

tại

thánh đầu thai mà

thành.

- Sự tồn tại của thân

xác chỉ là tạm, linh

hồn mới thực sự tồn

tại

3.Ý nghĩa - Phản ánh sự nhận thức của con người về nguồn gốc của mình.

Tuy còn mang nặng màu sắc duy tâm, thần bí, song nó phản ánh

trình độ nhận thức ban đầu của người Việt về chính bản thân họ.

- Có tác dụng mạnh mẽ đối với việc điều chỉnh hành vi, hướng

thiện cho con người.

Như vậy, có thể thấy, cách giải thích về nguồn gốc con người, cấu tạo

con người trong tín ngưỡng dân gian của người Việt có những giá trị nhất

định, nó phản ánh trình độ nhận thức sơ khai của người Việt về chính bản

thân mình. Sự nhận thức đó, một phần đem lại những định hướng trong hoạt

động thực tiễn của con người: khuyên con người ăn ở có trước có sau, có tâm

có đức để linh hồn gắn bó với thể xác và khi thể xác già nua và chết đi thì linh

hồn ấy sẽ mau chóng được đầu thai sang kiếp khác được tốt lành. Cơ duyên

khiến con người ta tin tưởng vào tín ngưỡng dân gian, vào những quan niệm

dân gian, phải chăng do bởi chính giá trị nhân văn mà nó mang lại. Từ sự giải

thích đó đã khiến con người tự điều chỉnh hành vi của mình có lối sống tốt

đẹp hơn, lành mạnh hơn, nhân văn hơn. Tuy nhiên, bên cạnh giá trị tích cực

khi giải thích về nguồn gốc con người trong tín ngưỡng dân gian của người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ còn mang tính chất thần bí, duy tâm, mang nặng

màu sắc của tôn giáo. Giải thích cơ sở của việc hình thành con người do số

phận, sự quyết định của một đấng siêu nhiên đã làm cho con người trở nên thụ

động, an phận, chấp nhận cuộc sống thực tại. Bên cạnh đó, chính sự thần bí,

Page 109: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

104

mập mờ trong quan niệm về sự hình thành con người là cơ sở để rất nhiều kẻ

xấu lợi dụng buôn thần bán thánh lừa bịp quần chúng nhân dân vào các hoạt

động thương mại hóa tín ngưỡng dân gian, gây nên những hệ lụy không hề

nhỏ đối với toàn xã hội.

3.2.2.2. Quan niệm về cuộc đời con người

Bàn về cuộc đời con người, đạo Thiên Chúa giải thích rằng, những con

chiên biết nghe lời Chúa, sống ở cõi trần làm việc thiện tránh xa việc ác, thì

sau khi chết linh hồn sẽ được trở về bên Chúa, trở về với vườn Địa đàng - đó

là nơi có cuộc sống vĩnh hằng, không còn khổ đau. Ngược lại, những con

chiên không nghe lời chúa sẽ bị đày đọa xuống địa ngục, và họ phải chịu cuộc

đời tăm tối. Còn trong Phật giáo giải thích rằng, sau khi con người chết, tùy

thuộc vào nghiệp của họ được tạo ra lúc còn sống để quyết định cuộc sống

của họ sau khi chết. Nếu khi sống, họ làm nhiều việc thiện, thì khi chết, họ sẽ

không bị đọa đày xuống 18 tầng địa ngục, sẽ thoát khỏi kiếp nửa người, nửa

ngợm, thoát khỏi cõi A Tu La, được siêu sinh tịnh độ, trở về bên đức Phật,

sớm đầu thai thành kiếp khác.

Tương tự như vậy, khi bàn về cuộc đời con người, hầu như trong tôn

giáo, tín ngưỡng trong đó có tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng

bằng Bắc Bộ cũng chủ yếu bàn về cuộc đời của con người sau khi chết. Họ

coi cuộc đời sau khi chết là chiếc gương phản chiếu cuộc đời của con người

khi họ còn sống. Tuy không trực tiếp giải thích về cuộc sống của con người

sau khi chết, song qua nội dung sinh hoạt tín ngưỡng đã cho thấy, trong tâm

thức của người Việt, chết không phải là hết, chết là về với thế giới bên kia,

cũng vẫn làm những công việc giống như người sống, chỉ có sự khác biệt là

âm và dương. Bàn về điều này, Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Chết tức là cơ thể

từ trạng thái động sang trạng thái tĩnh, cho nên theo triết lý âm dương thì linh

hồn đi từ cõi Dương (Dương gian, Dương thế) sang cõi Âm (Âm ti, Âm phủ).

Page 110: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

105

Đó là một thế giới bên kia” [90, tr.137]. Cùng chung quan điểm đó, tín

ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng thờ Thành hoàng

của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ đều cho rằng, những linh hồn của

người khi sống có công lao đối với nước với dân, với gia đình, dòng tộc, thì

khi chết, họ vẫn có ảnh hưởng tới những người đang sống. Tục thờ những

người có công với đất nước như những vị Thánh Mẫu, thờ các vị vua, vị

tướng, những vị anh hùng dân tộc hay những vị Thánh Sư, Tổ nghề, các vị

Thành hoàng, cho đến thờ gia tiên đều phản chiếu quan niệm về thế giới bên

kia của những con người. Chẳng hạn, trong tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần

cho thấy, không chỉ là thể hiện lòng biết ơn đối với một bậc đại tài của dân

tộc, một vị thánh có công dẹp loạn, đánh đuổi ngoại xâm, mà hơn thế nữa còn

bày tỏ sự ngưỡng mộ, ngưỡng vọng, và là nơi để dân gian cầu xin sự che chở

của Ngài. ay trong tín ngưỡng thờ Vua cha, thờ Mẫu đều phản ánh sức

mạnh siêu nhiên của những con người vừa hư, vừa thực. Trong tâm thức dân

gian, họ là những vị thánh bất tử, họ luôn nhìn thấy và thấu hiểu hết mọi khổ

đau trần gian. Họ luôn mang trong mình những phương thuốc có thể cứu chữa

những trái tim bé nhỏ nhưng lầm đường lạc lối. Chính vì vậy, cho đến nay

không cần một lời giải thích khoa học, nhưng tín ngưỡng và sinh hoạt tín

ngưỡng dân gian của vùng vẫn tồn tại và phát triển ngày càng nở rộ.

Bên cạnh việc lý giải về cuộc đời của con người sau khi chết, tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng bàn tới cuộc

đời trần thế của con người. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng

bằng Bắc Bộ cho rằng, số phận của con người còn được quyết định bởi

nghiệp của họ ở kiếp trước và hành động, hành vi của những người thân thích

(ông bà, cha mẹ) trong cuộc sống hiện tại, thậm chí chịu sự quyết định của

các vị thần, thánh nắm bản mệnh của mình. Tín ngưỡng thờ Mẫu cho rằng,

con người sinh ra không chỉ có căn số nhất định, mà còn giải thích cho ta hiểu

Page 111: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

106

căn số đó là vì đâu. Đó là cách mà những ông đồng, bà đồng giải thích về số

phận của con người. Họ cho rằng, mỗi con người sinh ra có số phận định

trước, những người sinh cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng cùng năm nhưng lại

có số phận khác nhau, sướng hay khổ là do nghiệp của bản thân và phụ mẫu ở

kiếp trước. Sở dĩ, có quan niệm như vậy là vì, có sự ảnh hưởng của Phật giáo

về quan niệm nghiệp ở kiếp trước mà ra. Đạo Phật quan niệm rằng, hành động

của con người ở kiếp này, cũng như số phận của họ, là do nghiệp của kiếp

trước tạo nên. Phàm có những người khổ, có những người sướng là do chính

họ tự tạo ra từ trong tiền kiếp. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu còn chỉ ra rằng,

không chỉ quyết định số mệnh mà các vị thánh, vị thần còn quyết định cả sức

khỏe, bệnh tật, chỉ phối cả hành động của con người. Các đồng cô, đồng cậu

giải thích rằng, bị bệnh là do thánh của, thánh trách phạt; hoặc bị bệnh là do

thánh bắt đi hầu, thánh thử thách để cho ăn lộc… Các hiện tượng này thường

xuất hiện trong cuộc sống, và đã có nhiều người ốm, nhưng chữa bằng đông

y, tây y không khỏi, song khi mở phủ, hầu đồng, thì bệnh tình thuyên giảm...

Họ tin vào lời và cách giải thích của những đồng cô, đồng cậu.

Trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người Việt vùng đồng bằng Bắc

Bộ thì cho rằng, con cháu đời sau có được cuộc sống tốt đẹp là do quan niệm

về sự ảnh hưởng lẫn nhau của các thế hệ trong gia đình. Cuộc sống của con

cháu sung sướng, đầy đủ hay thiếu thốn khổ đau… là do “phúc ấm” của ông

bà tổ tiên để lại, đặc biệt là do cách sống của người phụ nữ. Các cụ ta thường

nói, “phúc đức tại mẫu bà ơi, xưa nay ai nói tại ông bao giờ”, đã trở thành

niềm tin phổ biến trong dân gian về cách sống để tạo phúc cho con, cháu sau

này. Do ảnh hưởng của Phật giáo, nên tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng cho rằng, nghiệp trong kiếp trước của bản

thân mỗi người cũng được cho là nguồn gốc tạo nên cuộc đời của mỗi người

trong hiện tại. Do vậy, những thứ mà con người được hoặc mất trong cuộc

Page 112: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

107

sống hiện tại là do nghiệp của mình trong kiếp trước. Với lối tư duy như vậy

đã góp phần to lớn trong việc điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân trong gia

đình. Phàm những người làm cha, làm mẹ, làm ông bà đều mong con cháu

mình có được cuộc sống ấm êm, đầy đủ, ít sóng gió đã khiến cho họ ý thức

hơn về hành động tạo nghiệp của mình.

Từ sự phân tích quan niệm về cuộc đời con người trong ba loại hình tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, lập bảng so sánh

sau:

Bảng 3.5: Quan niệm về cuộc đời con người trong tín ngưỡng dân

gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

Tiêu chí Thờ Tổ tiên Thờ Mẫu Thờ Thành hoàng

1. Quan

niệm về số

phận của

con ngƣời

- Cuộc sống thực

chỉ là cõi tạm.

- Mỗi con người có

một số phận riêng,

do phúc đức của

phụ mẫu và do

nghiệp của bản

thân mà thành.

- Chết không phải

là hết, mà chỉ

chuyển từ trạng

thái động sang

trạng thái tĩnh, tức

từ dương sang âm,

- Cuộc sống thực chỉ

là cõi tạm.

- Số phận con người

được định đoạt từ

trước, kết hợp với

phúc đức của cha

mẹ và nghiệp của

bản thân mà thành.

- Sức khỏe, tài mệnh

của con người do

các vị thần, thánh

quyết định.

- Cuộc sống thực

chỉ là cõi tạm.

- Không trực tiếp

giải thích về số

phận của con người

xã hội, mà chủ yếu

giải thích về sự ảnh

hưởng của các vị

thần linh đến cuộc

sống con người.

- Cuộc đời con

người gắn liền với

sự trợ giúp của các

vị thần linh.

+ Những ai ăn ở

hiền lành, đức độ

Page 113: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

108

chết là trở về với

thế giới bên kia.

- Người chết có sự

ảnh hưởng mạnh

mẽ tới cuộc đời

của những người

còn sống.

được các bậc thần

linh giúp đỡ.

+ Những người ăn ở

bạc ác sẽ bị thần

linh trách phạt.

2. Ý nghĩa - Phản ánh bức tranh nhiều vẻ về số phận của con người.

- Phản ánh sự bất lực của con người trước những biến động

trong chính cuộc sống của họ.

- Góp phần điều chỉnh hành vi, hướng con người đến điều thiện,

tu nhân, tích đức, sửa mình.

Như vậy, qua phân tích trên cho thấy, khi bàn về cuộc đời con người,

hầu hết trong tôn giáo hay trong tín ngưỡng dân gian chủ yếu bàn tới cuộc đời

của con người ở thế giới bên kia, song cũng không quên bàn tới cuộc đời của

con người ở cuộc sống thực. Trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng

đồng bằng Bắc Bộ, do ảnh hưởng của các tư tưởng tôn giáo ngoại lai, nên

quan niệm về cuộc đời con người gắn liền với cuộc sống của họ sau khi chết.

Trong tín ngưỡng dân gian, cuộc đời con người là cả một chuỗi hành trình dài

bất tận, cuộc sống của họ ở kiếp này là do kiếp trước mà nên. Cuộc đời đầy

biến động, nhưng số phận của mỗi người dường như được định đoạt sẵn bởi

những vị thần linh, thượng đế. Trong tâm thức dân gian, cuộc sống thực sự

khi con người chết, còn cuộc sống thực chỉ là tạm thời. Số phận dẫn dắt con

người đến với những điều may rủi. Họ tin tưởng vào những vị thần linh cứu

rỗi cho linh hồn của họ ở cuộc sống sau khi họ chết. Với những quan niệm

như vậy, vô hình đã đẩy con người vào chỗ bị động, chấp nhận cuộc sống.

Page 114: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

109

3.3. Quan niệm về xã hội trong tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Việt

vùng đồng bằng Bắc Bộ

Xã hội được hiểu là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên. Với nghĩa

như vậy, xã hội là điều kiện thường xuyên và tất yếu của quá trình sản xuất, là

môi trường sống khách quan vốn có của con người. Trong quá trình lao động

sản xuất, con người không chỉ cải biến tự nhiên, mà còn là cơ sở hình thành

nên các mối quan hệ xã hội. Do vậy, xã hội không phải bao gồm các cá nhân,

mà xã hội là sự biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các

cá nhân với nhau. Đúng như nhận định của C.Mác, “xã hội không phải bao

gồm các cá nhân, mà xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những

quan hệ của các cá nhân đối với nhau” [9, tr.355 ].

Vùng đồng bằng Bắc Bộ được xây dựng dựa trên cơ sở phương thức sản

xuất nông nghiệp thâm canh cây lúa nước, kết hợp với việc phải trải qua

nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, đã tạo nên một kết cấu xã hội phức tạp gồm

nhiều giai cấp, tầng lớp. Phương thức sản xuất nông nghiệp, kết hợp với nền

văn hóa bị án hóa là cơ sở hình thành nên các tư tưởng xã hội mang tính

chất bảo thủ, gia trưởng, đề cao vai trò của người đàn ông, hạ thấp vai trò của

người phụ nữ. Do vậy, một trong các quan hệ xã hội của người Việt vùng

đồng bằng Bắc Bộ được thể hiện tập trung chủ yếu qua khát vọng giải phóng

người phụ nữ, khát vọng bình quyền. Bên cạnh đó, sống trong cảnh hàng

nghìn năm phong kiến Bắc thuộc, trải qua nhiều cuộc chiến tranh lớn nhỏ,

người Việt kiên cường đứng dậy đấu tranh để bảo vệ độc lập chủ quyền cho

dân tộc. Vì thế truyền thống yêu nước đấu tranh giữ gìn độc lập dân tộc, giữ

gìn chủ quyền lãnh thổ, bờ cõi quốc gia, là một trong những truyền thống tốt

đẹp của người Việt Nam, là sự biểu hiện sâu sắc mối quan hệ xã hội về tinh

thần đoàn kết dân tộc.

Page 115: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

110

Giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người Việt vùng

đồng bằng Bắc Bộ, tín ngưỡng dân gian phản ánh đời sống xã hội, đồng thời

là nơi để nhân dân gửi gắm ước mơ, nguyện vọng chính đáng của mình. Một

trong những khía cạnh về xã hội được phản ánh rõ nét trong tín ngưỡng dân

gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là tư tưởng đề cao vai trò của

người phụ nữ và khát vọng giải phóng người phụ nữ. Cùng với khát vọng đó

là niềm tự hào dân tộc về truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại

xâm, bảo vệ chủ quyền của dân tộc cũng được phản ánh rõ nét trong tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.

3.3.1. Tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

phản ánh tư tưởng về vai trò của người phụ nữ

- Một là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

phản ánh tư tưởng về vai trò làm mẹ của người phụ nữ

Truyền thuyết kể lại rằng, người Việt thuộc họ Hồng Bàng, cùng được

sinh ra bởi mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân. Mẹ Âu Cơ sinh ra một bọc

trứng, nở ra trăm con. Trăm người con đó, một nửa theo cha xuống biển lập

nghiệp, một nửa theo mẹ lên non khai phá rừng [4, tr.24-34]. Theo ý nghĩa đó,

người Mẹ được coi là biểu tượng đầu tiên, nuôi sống, che chở cho con người.

Bàn về điều này, Nguyễn Đăng Duy viết:

Đó là từ thời nguyên thủy, con người bắt đầu có ý thức sâu

sắc về sự sinh sản, sự sinh sôi nảy nở ấy, ý thức ấy thường biện lý

từ cái cụ thể. Mà cái cụ thể về giá trị sinh sôi nảy nở, không gì

khác ngoài người mẹ mang nặng đẻ đau, sinh ra nuôi dưỡng che

chở cho những đứa con, và những cái gì sinh sôi, nuôi sống che

chở bảo vệ cho con người, chiến thắng thiên tai và thú dữ ấy đều

được coi là Mẹ [16, tr.154-155].

Page 116: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

111

Với ý nghĩa như vậy, người mẹ có vai trò lớn lao trong việc duy trì nòi

giống và cả việc bảo vệ, nuôi dưỡng, chăm sóc con cái của mình. Có rất nhiều

những người phụ nữ được nhân dân tôn vinh và trở thành biểu tượng thờ tự

trong sinh hoạt tín ngưỡng. Đó là, Mẹ Âu Cơ được nhân dân tôn thờ là Quốc

Mẫu, bà mẹ Thánh Gióng được tôn là Đổng phu nhân vương Mẫu, Mẫu còn

là mẹ của các vị vua… Để ghi nhận công lao to lớn của họ, nhân dân lập đền

thờ. Hằng năm tổ chức các lễ hội để bày tỏ lòng thành kính, biết ơn tới họ.

Trong tâm thức của người Việt, từ con đường, dòng sông, đến các vật dụng

sinh hoạt trong gia đình… đều bắt nguồn tên gọi chỉ người phụ nữ. Đó là các

tên gọi như sông cái, đường cái, đũa cả… Tất cả những hành động đó, đã

đánh thức một niềm tin thường trực trong tâm trí của mọi người về hình ảnh

người mẹ với sự bao dung, che chở.

- Hai là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ phản

ánh tư tưởng về về vai trò của người phụ nữ trong lao động sản xuất

Trên thực tế, ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, kinh tế dựa chủ yếu trên nền

sản xuất nông nghiệp, do vậy cần sức lao động của người đàn ông là chủ yếu.

Do đó, vai trò của người phụ nữ bị hạ thấp. Khi chế độ phong kiến xuất hiện,

tư tưởng trọng nam khinh nữ vốn đã ăn sâu bén rễ vào trong từng mạch máu,

từng thớ thịt của mỗi người dân, nay lại càng đè nặng lên vai người phụ nữ

với những thiệt thòi trong tất cả các mối quan hệ. Do ảnh hưởng của Nho giáo

đã làm gia tăng những rằng buộc cho người phụ nữ. Sự bó buộc của xã hội

phong kiến, sự tàn ác của những thế lực đen tối đã khiến cho cuộc đời cả họ

đầy những chông gai, sóng gió. Người phụ nữ thủa xưa, thường không được

làm chủ cuộc sống của mình. Quan niệm “tam tòng, tứ đức” khiến cho họ từ

khi sinh ra cho đến khi từ dã cõi đời, luôn phải sống, phải lo lắng, hi sinh cho

người khác. Họ là phái yếu, nhưng họ cũng có khả năng làm được điều mà

nam giới làm. Nhưng mấy ai dám ngông nghênh thốt lên như nữ sĩ họ Hồ

Page 117: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

112

rằng: “Ví đây đổi phận làm trai được; Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”. Vì thế,

bứt phá khỏi tư tưởng tiêu cực về vai trò của người phụ nữ trong sản xuất

nông nghiệp, nhân dân đã xây dựng lên hình tượng Mẫu. Trong nhận thức của

họ về tự nhiên, hình ảnh mà họ xây dựng về người cai quản các yếu tố phục

vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp (trời, đất, nước, núi rừng…) chính là

hình tượng các Mẫu. Mẫu Thiên cai quản miền trời, Mẫu Địa cai quản miền

đất, Mẫu Thoải cai quản miền nước, và Mẫu Thượng Ngàn cai quan vùng

miền núi. Những quan niệm đó là sự phản kháng lại chính thực tại của xã hội,

nhân dân xây dựng lên hình tượng thánh Mẫu với sức mạnh siêu nhiên thể

hiện trong việc cai quản những yếu tố có ảnh hưởng to lớn đối với sự tồn tại

của con người. Điều đó nói lên rằng, cũng giống như nam giới, phụ nữ nếu có

cơ hội, họ vẫn có thể làm tốt nhiệm vụ của mình.

- Ba là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

phản ánh tư tưởng về vai trò của người phụ nữ trong việc đấu tranh chống lại

những hà khắc của xã hội phong kiến xưa kia

Vì cũng như tôn giáo, tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ Mẫu ra đời là kết quả

và biểu hiện của quá trình con người phản ánh các mối quan hệ xã hội mà

mình đang tham gia. Nói như C. Mác “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu

hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại sự nghèo

nàn hiện thực ấy” [1, tr.570]. Sự xuất hiện của Mẫu Liễu trong xã hội phong

kiến đang bộc lộ rõ những hạn chế, tiêu cực như một sự đấu tranh chống lại

xã hội phong kiến, chống lại những hà khắc của luật lệ xã hội ép buộc người

phụ nữ vào những khuôn phép đè nặng lên họ. Nguyễn Đăng Duy viết, Mẫu

lả lơi với đàn ông háo sắc, trăng hoa, thậm chí mỗi lần giáng trần Mẫu lại sinh

một đứa con. Hình ảnh Mẫu dám bỡn cợt với hoàng tử con vua và khi bị vua

trừng phạt thì Mẫu cãi lại, thậm chí chống lại và đánh cho quân của vua tan

tác [2, tr.177-178]… Tất cả những hành động đó của Mẫu khi đặt dưới con

Page 118: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

113

mắt của Nho giáo, thì đó là sự chống lại những chuẩn mực của xã hội phong

kiến đương thời. Nguyễn Hữu Thụ viết, “Mẫu đã làm được việc tự giải phóng

mình, tự thể hiện mình và tự khẳng định mình trong mọi lĩnh vực. Đó chính là

sự thể hiện tính người cao nhất… con người được cứu rỗi, được giải tỏa khỏi

những bức xúc, được hướng tới một niềm tin thanh thản vô biên mà có nó thì

sẽ làm được tất cả” [6, tr.111]. Qua hình ảnh Mẫu Liễu, thể hiện khát vọng

chân chính của người nông dân, và hơn hết là của người phụ nữ mong muốn

được giải phóng khỏi những quy định hà khắc, gia trưởng của xã hội phong

kiến. Niềm tin vào Mẫu giúp cho người dân tìm được niềm tin, niềm hi vọng

trong cuộc sống.

- Bốn là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

phản ánh tư tưởng về vai trò của người phụ nữ trong các cuộc kháng chiến

chống quân xâm lược

Bàn về điều này, Nguyễn Thị Nga viết, không chỉ trong sản xuất, mà

ngay cả “việc chống giặc ngoại xâm, người phụ nữ cũng là một lực lượng

đáng kể, góp phần tạo nên những chiến thắng hào hùng của dân tộc” [66,

tr.141]. Thực tế cho thấy, đất nước ta trong suốt chiều dài lịch sử hình thành

và phát triển, đặc biệt trong thời kì phong kiến, liên tục đối đầu với những

cuộc chiến tranh chống xâm lược của các thế lực thù địch phương Bắc.

Nguyễn Đăng Duy Viết, đó là những cuộc nội chiến. Mở đầu là sự tranh

giành, nổi loạn của nhà Mạc soán ngôi nhà Lê (1527). Tiếp đó, là cuộc chiến

tranh liên miên giữa Trịnh - Mạc phân tranh (1527 -1570). Sau đó, chiến tranh

Trịnh - Nguyễn (1600 - 1697) [16, tr.175]. Các cuộc chiến tranh là nguyên

nhân dẫn đến sự đói khổ, tù túng đến cùng cực của người dân. Sự khủng

hoảng về chính trị thời đó xuất phát từ chính sự biến đổi cơ cấu kinh tế xã hội.

Đặc điểm nổi bật của chế độ xã hội phong kiến nước ta thời kì đó, bị ảnh

hưởng nặng nề bởi tư tưởng Nho giáo, nên rất coi trọng sản xuất nông nghiệp,

Page 119: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

114

và tìm đủ mọi cách để bài trừ thương nghiệp. Điều này đã góp phần dẫn đến

khủng hoảng nặng nề về kinh tế, chính trị, xã hội ở nước ta. Hậu quả của

những sự khủng hoảng đó dường như dồn lên vai người nông dân nói chung

và người phụ nữ nói riêng.

Khẳng định lại giá trị của người phụ nữ, được thể hiện qua hệ thống thờ

nữ thần rất phong phú, trong đó nổi bật là hiện tượng thờ Mẫu. Người phụ nữ

không chỉ tần tảo lo toan cuộc sống hằng ngày, mà khi có chiến tranh loạn lạc,

thì họ sẵn lòng ra trận như: ai Bà Trưng, Triệu Ẩu, Dương Vân Nga, Ỷ Lan,

Bùi Thị Xuân, vợ ba Đề Thám, Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Theo truyên thuyết,

Mẫu Liễu Hạnh với tài thần thông biến hóa, có lòng cảm thương đối với dân

nghèo, nên đã không ít lần sử dụng phép thuật để giúp dân chống giặc, cứu

nước… Vì thế, Thánh Mẫu Liễu Hạnh được phong là một trong Tứ bất tử của

Việt Nam. Hình ảnh những người phụ nữ hiên ngang nơi trận mạc như ai Bà

Trưng, Triệu Thị Trinh, đô đốc Bùi Thị Xuân và hàng ngàn những nữ anh

hùng khác, đã tô đẹp hơn cho giá trị của người phụ nữ Việt Nam. Trong gia

đình họ là những người mẹ, người vợ đảm đang, bao dung, nơi trận mạc họ là

những vị anh hùng.

Ngoài ra, nhận thức về vai trò của người phụ nữ, đồng thời tín ngưỡng

dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ đề cao giá trị của người phụ

nữ xưa kia. Hình ảnh Mẫu Liễu được người Việt xây dựng thiêng liêng trong

cả đời sống tâm linh và trong cả cuộc sống đời thường. Do sự ảnh hưởng của

tư tưởng Nho, Phật, Đạo, mà tín ngưỡng Mẫu Liễu Hạnh càng sắc nét trong

quá trình phản ánh tư duy của con người về giá trị của người phụ nữ xưa kia.

Điều đó đúng với luận điểm của Mác, đó là vì con người tạo ra thần thánh của

mình không ngoài thực tế sống của họ. Theo truyền thuyết, họ cho Mẫu Liễu

từ con vua cha trên trời giáng xuống được đất mẹ nuôi dưỡng, có tài hoa văn

học để đàm đạo, vịnh thơ với các nho sĩ. Mẫu Liễu luân hồi hóa kiếp mấy lần,

Page 120: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

115

và đều trở thành người giúp dân chữa bệnh. Bàn về vấn đề này, Ngô Đức

Thịnh viết, “đạo Mẫu vốn gần với thiên nhiên, trời, đất, nay được “đời thường

hóa”, gắn liền và đáp ứng nhu cầu khát vọng của con người, thân phận của

con người nhất là người phụ nữ trong đời sống hàng ngày: tài lộc, chữa bệnh,

ban phúc, giáng họa…” [96, tr.174]. Bên cạnh đấy, thông qua huyền thoại về

Mẫu Liễu, người nông dân, và hơn hết là người phụ nữ đã tìm thấy sự cảm

thông sâu sắc với chính thân phận của mình. Đó là hình ảnh người phụ nữ lo

toan, tần tảo, đức hạnh vì chồng, vì con. ình tượng Mẫu trong huyền thoại

Mẫu xuống trần kết hôn rồi sinh con đẻ cái, khi hết hạn Mẫu phải về trời,

nhưng lòng dạ lúc nào cũng đau đáu nhớ về chồng, về con, đã lay động đến

vua cha… càng tô thắm thêm hình ảnh về đức hạnh của người phụ nữ trong

xã hội phong kiến xưa.

Như vậy, tư tưởng về vai trò của người phụ nữ trong tín ngưỡng dân

gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được phản ánh rõ nét trên nhiều

khía cạnh. Đó là vai trò về thiên chức làm mẹ của người phụ nữ góp phần duy

trì nòi giống cho gia đình, đất nước; là vai trò của người phụ nữ xưa kia trong

lao động sản xuất, trong cuộc đấu tranh chống lại những luật lệ hà khắc của

xã hội phong kiến đương thời. Đồng thời, tư tưởng đó còn là vai trò của người

phụ nữ trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Qua đó, tín ngưỡng thờ

Mẫu đã khắc họa rõ nét về hình ảnh người phụ nữ với những giá trị nhân văn

và phản ánh những khát vọng chính đáng của họ.

3.3.2. Tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

phản ánh truyền thống yêu nước của dân tộc ta

Giáo sư Trần Văn Giàu nhận xét, truyền thống yêu nước chống giặc

ngoại xâm như là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử mấy nghìn năm của

Việt Nam [28, tr.42]. Như vậy, có thể thấy, trong suốt chiều dài lịch sử dựng

nước và giữ nước, bên cạnh các truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam

Page 121: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

116

như truyền thống uống nước nhớ nguồn, truyền thống hiếu học, truyền thống

tôn sư trọng đạo,.. thì truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm trở thành

truyền thống quý báu hơn cả. Sở dĩ vì, lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử

chống giặc ngoại xâm. Bàn về vấn đề này, Ngô Đức Thịnh viết:

Nếu tính từ cuộc kháng chiến chồng Tần vào thế kỉ III tr.CN cho

đến kháng chiến chống Mĩ kết thúc năm 1975, Việt Nam đã phải

tiến hành hàng chục cuộc kháng chiến chống ngoại xâm để bảo vệ

độc lập, tự do; hàng chục cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng

dân tộc để giành lại độc lập, trong đó có thời kì Bắc thuộc hơn một

nghìn năm, Minh thuộc hai mươi năm, Pháp thuộc gần một thế kỉ.

Thời gian chống giặc ngoại xâm và đô hộ của nước ngoài lên đến

12 thế kỉ, chiếm quá nửa thời gian lịch sử [100, tr.52-53].

Chính vì thế, không khỏi ngạc nhiên khi thấy tư tưởng yêu nước, chống

giặc ngoại xâm trở thành “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt chiều dài lịch sử dựng nước

và giữ nước, ăn sâu, len lỏi vào khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống và trong

lòng mỗi người dân. Điều đó được cắt nghĩa bởi nước Việt Nam tồn tại và

phát triển trong điều kiện đấu tranh chống sự bành trướng và xâm lược của

phong kiến phương Bắc cùng các đế quốc khác. Tư tưởng yêu nước, đấu tranh

chống giặc ngoại xâm là “cái phản ánh tồn tại đã được sản sinh ra và phát

triển trong điều kiện phục vụ cho sự đấu tranh sống còn đó” [38, tr.119]. Tư

tưởng đó được phản ánh trong rất nhiều trong các tác phẩm văn học, trong

văn hóa dân gian và được chú trọng đề cao trong hệ thống tín ngưỡng dân

gian của người Việt. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau:

Thứ nhất, truyền thống yêu nước được phản ánh trong tín ngưỡng dân

gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ thông qua nhận thức về dân tộc

và độc lập chủ quyền dân tộc

Page 122: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

117

Cũng như bất cứ một dân tộc nào trên thế giới, cộng đồng người Việt

đầu tiên cũng xuất phát từ sự hình thành các bộ lạc, bộ tộc… sau đó hình

thành nên dân tộc. Để đảm bảo tính ổn định cho sự tồn tại lâu dài của dân tộc,

thì cần thiết phải giữ những nét riêng của nó, sao cho đó là cơ sở để phân biệt

với các dân tộc khác. Điểm khác biệt đó chính là văn hóa. Trong quá trình lao

động sản xuất, người lao động không chỉ góp công trong việc tạo ra của cải,

mà còn tạo nên một nền văn hóa, phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên và

những sáng tạo về giá trị tinh thần. Một trong những kết quả đáng ghi nhận,

đó là nhân dân đã xây dựng hệ thống tín ngưỡng dân gian mang đậm bản sắc

văn hóa dân tộc. Trong đó, một trong những giá trị cốt lõi cần đề cập đến đó

là tư tưởng về dân tộc và độc lập chủ quyền dân tộc được khắc họa rõ nét

trong các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của vùng. Nhân dân đã xây dựng lên

hình tượng các Mẫu với quyền lực vô biên cai quản các vùng miền và có vị

thế ngang hàng với Ngọc oàng hay Chúa… Sức mạnh quyền năng của các

Mẫu thể hiện chủ quyền riêng của dân tộc, nói lên tiếng nói của dân tộc về

ranh giới quốc gia. Câu nói cửa miệng của người Việt “đất có thổ công, sông

có hà bá” đã phần nào phản ánh ý thức về sự độc lập chủ quyền của dân tộc.

Ngoài ra, hình ảnh về các vị vua trong các triều đại, hình ảnh các vị anh

hùng (trong cả huyền thoại, truyền thuyết và chính sử của dân tộc) được

phong thành thần, thánh và vẫn trường tồn trong tâm thức của dân tộc. Hệ

thống tín ngưỡng thờ những vị có công với đất nước, nói như Nguyễn Đức

Lữ, nó như một biểu tượng để “cắt nghĩa cho nguồn gốc của quốc gia dân tộc.

Nó nhằm mục đích đoàn kết chặt chẽ mọi người, mọi tầng lớp để xây dựng

đất nước, và đặc biệt, để chống quân xâm lược thường đông và mạnh hơn

mình” [66, tr.98]. Sức mạnh của họ thể hiện sức mạnh của cả dân tộc. Những

vị hàng quan như Quan oàng Mười, Quan Hoàng Bảy,.. những vị thánh như

Đức Thánh Trần, Thánh Tản Viên, Thánh Mẫu Liễu Hạnh… đều là những

Page 123: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

118

hình ảnh, những con người bất tử, trường tồn với thời gian, đó cũng là biểu

tượng tiêu biểu cho sự tồn tại bất diệt của dân tộc ta. Đúng như nhận xét của

Vũ Ngọc Khánh: “Dân gian Việt Nam đã lựa chọn trong số nhiều vị thần linh

của mình để suy tôn được bốn vị thần linh là Tứ Bất Tử. Đó là biểu tượng của

sự trường tồn, bất diệt của dân tộc ta từ xưa tới nay” [55, tr.25].

Thứ hai, truyền thống yêu nước được phản ánh trong tín ngưỡng dân

gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ thông qua lịch sử đấu tranh

chống giặc ngoại xâm

Ý thức độc lập chủ quyền quốc gia dân tộc còn bắt nguồn từ chính thực

tiễn đấu tranh giành và giữ nước. Một dân tộc trong quá trình phát triển luôn

có sự song hành với các cuộc chiến tranh đã tạo nên điểm khác biệt trong bề

dày lịch sử dân tộc. Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước ấy, sự kết

hợp sức mạnh của toàn dân tộc, trong đó có sức mạnh của hồn thiêng sống

núi, đã góp phần to lớn vào những chiến công còn lưu danh sử sách. Đúng

như Giáo sư Trần Văn Giàu đã nhận xét: “Núi cao, sông sâu biển rộng, rừng

già đều như có hồn thiêng góp phần vào việc chống giặc; thực ra ấy là tinh

thần của các thế hệ đã đổ mồ hôi xương máu xấy dựng nước non nhà. Non

sông linh tú và con người đang chiến đấu, các thế hệ đã chết và các thế hệ

đang sống đều trở thành một khối thống nhất” [28, tr.169]. Như vậy, những vị

được phong thần, thánh đều đáng trân trọng, và trong số đó, đông đảo nhất

vẫn là các vị có công trong sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Chẳng hạn, các vị

thần trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được

thần thánh hóa mang bóng dáng của con người: có tên tuổi, có lai lịch rõ ràng.

Và quan trọng hơn cả, các vị thần đó được xây dựng nên luôn gắn bó, gần gũi

với cuộc sống con người, và trở thành một phần không thể thiếu trong lịch sử

Việt Nam. Bàn về điều này, Vũ Ngọc Khánh viết, “Đức Thánh Gióng được

nhân dân tôn thờ như một lẽ sống, một đạo lý của con người Việt Nam. Đó là

Page 124: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

119

dư âm, hào khí bản hùng ca hoành tráng từ ngàn xưa vọng lại, niềm tự hào,

ngưỡng mộ về sức mạnh đoàn kết của một dân tộc trong cuộc chiên đấu

chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước” [55, tr.26].

Hào khí của dân tộc, của nhân dân được nhân lên gấp bội bởi tinh thần

bất khuất trong chiến đấu của các vị anh hùng, vì độc lập dân tộc, chủ quyền

quốc gia. Trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm, họ là những người

có công lớn.Ví như truyền thuyết Mẫu Thượng Ngàn đã từng báo mộng giúp

Lê Lợi tránh được hiểm nguy trong cuộc kháng chiến chống quân Minh,…

Quan Đệ Ngũ được đồng nhất với tướng Cao Lỗ - một võ tướng của An

Dương Vương, con trai của Trần ưng Đạo là Trần Quốc Tảng… hoặc như

Ông oàng Đệ Nhất được đồng nhất với danh tướng Lê Lợi, Ông oàng Đôi,

Ông oàng Bơ… có công phò vua đánh giặc, Ông Hoàng Lục là tướng Trần

Lựu, có công chống giặc Minh… ay khi nhắc tới Vua Cha Bát Hải Đại

Vương, có rất nhiều truyền thuyết nói về công lao của ông. Ngô Đức Thịnh

viết, “khi đất nước có giặc, vua Hùng ra chiếu kêu gọi người tài ra giúp đất

nước, con rắn lớn nhất hóa thành người, đem đoàn quân gồm cả thuồng luồng,

rồng rắn, cá sấu… đi đánh giặc. Sau khi chiến thắng trở về, ông được nhà vua

phong là Trấn Tây Nam vĩnh cống Bát Hải Đại Vương” [96, tr.164].

Bên cạnh những vị thần không có thật được dân gian nhân cách hóa,

còn có rất nhiều vị thần là người thật được chính sử ghi chép công lao bởi khi

còn sống họ đã có công trong việc đấu tranh giữ gìn bờ cõi dân tộc. Có thể kể

đến các vị thần, thánh như: ai Bà Trưng, Nguyên Phi Ỷ Lan, Trần ưng

Đạo… Khi nhắc tới Thánh ưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, trong tâm

thức của người Việt, đó là vị anh hùng dân tộc gắn liền với chiến công lừng

lẫy của quân và dân nhà Trần thế kỉ XIII, ba lần đánh bại quân Nguyên Mông.

Trong hệ thống thần linh của người Việt, Đức Thánh Trần là một nhân thần -

một vị Thần - người có thật trong lịch sử. Lịch sử dân tộc ghi nhận công lao

Page 125: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

120

của ông trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc. Một vị tướng nhà

Trần không chỉ là một nhà lý luận quân sự giỏi, mà còn là một vị tướng tài ba

nơi trận mạc. Trân trọng công lao to lớn đó, nhân dân bày tỏ lòng thành kính,

và sau này, khi qua đời, ông được vua phong Thượng đẳng thần để ghi nhận

công lao, và khẳng định sự bất tử của ông với dân tộc. Lý Thường Kiệt là một

vị tướng lĩnh tài ba được phong là Thái úy trung phụ dũng vũ uy thắng công

thần để tôn vinh công lao của ông đối với dân tộc… Trong quá trình kháng

chiến chống giặc ngoại xâm, biểu tượng về sức mạnh dân tộc được nâng lên

hơn bao giờ hết. Tư tưởng về sức mạnh cộng đồng được dân gian xây dựng

trong hệ thống tín ngưỡng thờ Thành hoàng. Biểu tượng ấy không chỉ là chỗ

dựa tinh thần mà còn nói lên sự đoàn kết, cố kết cộng đồng trong cuộc kháng

chiến chống quân xâm lược của toàn thể dân tộc. Nó không chỉ là biểu tượng

đơn thuần về sự đoàn kết, mà hơn thế nữa, nó còn có khả năng cổ vũ, động

viên cả một tập thể. Nguyễn Đức Lữ viết, “Thành hoàng không chỉ là chỗ dựa

tinh thần mà còn như biểu tượng của sức mạnh cộng đồng, đôi khi có khả

năng, cổ vũ, động viên cả một tập thể” [66, tr.85].

Như vậy, có thể thấy, trong hệ thống tín ngưỡng dân gian của người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, thờ những vị anh hùng có công với dân tộc

phản ánh về một quá trình lịch sử hết sức hào hùng của đất nước ta. Quá trình

liên tục vươn lên, đấu tranh để khẳng định mình, dân tộc ta đã sinh ra nhiều

anh hùng. Thờ cúng họ trở thành một nét đẹp trong truyền thống văn hóa của

chúng ta, thể hiện sức mạnh cộng đồng, thể hiện lòng biết ơn, kính trọng của

người dân Việt, và như một niềm tự hào, một lời hứa không ngừng vươn lên

để bày tỏ lòng yêu nước để khẳng định sự trường tồn của dân tộc. Đúng như

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói, chúng ta có quyền tự hào về những trang

sử vẻ vang của thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần ưng Đạo, Lê Lợi, Quang

Page 126: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

121

Trung… chúng ta cần ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị

ấy là tiêu biểu cho một dân tộc anh hùng.

Tiểu kết chƣơng 3

Một số yếu tố triết học cơ bản trong tín ngưỡng dân gian của người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được thể hiện trong quan niệm về tự nhiên, quan

niệm về con người và quan niệm về các mối quan hệ xã hội. Tự nhiên được

giải thích trên cơ sở hệ thống các vị thần mang trong mình sức mạnh siêu

nhiên vừa gần gũi, gắn bó với con người, vừa ảo, vừa thực. Tự nhiên trong tín

ngưỡng dân gian được nhân cách hóa, thần thánh hóa, thể hiện sự bất lực của

con người trước tự nhiên, đồng thời gửi gắm ước mơ chinh phục tự nhiên,

mong muốn được tự nhiên che chở. Yếu tố con người cũng được phản ánh rõ

nét, sinh động trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc

Bộ. Trong quan niệm của tín ngưỡng dân gian, con người được sinh ra, tồn tại

và tiêu vong là do sự cai quản của các vị thần nắm giữ vận mệnh, và con

người đều có hai phần là thể xác và linh hồn. Số phận của con người đều được

sắp đặt trước bởi sự chi phối của các vị thần. Vấn đề xã hội được phản ánh

trong tín ngưỡng dân gian của người Việt như một bức tranh sống động của

thế giới các vị thần. Các mối quan hệ của họ, hành động của họ phản ánh

chính xã hội đương thời. Những lễ nghi, lễ giáo của xã hội phong kiến đè

nặng lên đôi vai của người phụ nữ. Do vậy, họ tìm đến sự giải thoát trong tín

ngưỡng, đem ước mơ bình quyền, giải phóng bản thân gửi gắm trong tín

ngưỡng dân gian. Sống trong xã hội loạn lạc, chiến tranh liên miên, một dân

tộc nhỏ bé những không ít lần đương đầu với kẻ thù phương Bắc đã nhen

nhóm lên trong tư tưởng của nhân dân ý thức về độc lập chủ quyền, toàn vẹn

lãnh thổ và tinh thần đoàn kết đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Bên cạnh đó,

tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ còn phản ánh

bức tranh chung về cộng đồng làng, xã. Đó là sự cố kết cộng đồng, là nơi hình

Page 127: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

122

thành nên những chuẩn mực về đạo đức, lối sống trọng tình, trọng nghĩa. Nó

không chỉ phản ánh hiện thực cuộc sống của nhân dân vùng đồng bằng Bắc

Bộ, mà nó còn góp phần điều chỉnh hành vi của con người, hướng con người

tới những giá trị nhân văn cao cả, tới bến bờ của chân - thiện - mĩ.

Page 128: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

123

Chƣơng 4

GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CÁC QUAN NIỆM VỀ TỰ NHIÊN,VỀ

CON NGƢỜI, VỀ XÃ HỘI TRONG TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN CỦA

NGƢỜI VIỆT VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

4.1. Giá trị của các quan niệm về tự nhiên, về con ngƣời, về xã hội

trong tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

4.1.1. Giá trị của các quan niệm về tự nhiên

4.1.1.1. Giá trị tâm linh

Cách giải thích về tự nhiên trong tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng

Bắc Bộ đã phần nào thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người. Xưa kia,

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ đều sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp,

nên các yếu tố tác động của tự nhiên như sấm sét, mưa bão, lũ lụt… ảnh

hưởng lớn đến cuộc sống. Vì thế, họ đặt niềm tin và cầu mong sự che chở,

phù hộ của các vị thần tự nhiên. Các vị thần cai quản tự nhiên trong tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được nhân cách hóa

rõ nét. Đó là những vị thần mang trong mình sức mạnh của tự nhiên, thể hiện

ý chí của tự nhiên, nhưng lại tồn tại trong vóc dáng của con người. Trong tín

ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ, dường như tự nhiên và con người

hòa làm một. Con người vừa là chủ thể - các vị thần đại diện cho con người

cai quản tự nhiên, vừa là bộ phận của tự nhiên - các vị thần của tự nhiên cai

quản số phận của con người. Bên cạnh đó, sự hiện diện của các vị thần trong

tự nhiên còn phản ánh ước mơ chinh phục tự nhiên của con người. Với hình

ảnh Tam phủ, Tứ phủ trong tín ngưỡng thờ Mẫu thể hiện rõ nét ước mơ của

người Việt mong muốn nhận được sự che chở của người mẹ để có được mưa

thuận, gió hòa, đủ nước, đủ đất cho mùa màng bội thu. Hình ảnh về vị Thánh

Tản Viên được xây dựng, phản ánh mong muốn chế ngự tự nhiên. Bàn vê vấn

đề này, Nguyễn Đăng Duy viết, “Tản Viên Sơn Thần - Sơn Tinh thắng Thủy

Page 129: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

124

Tinh tiêu biểu cho tinh thần trị thủy của người Việt. Thể hiện ở việc đắp đê

ngăn lũ ở đồng bằng Bắc Bộ. Cũng là khẳng định vai trò của con người, chế

ngự miền núi, trung du” [16, tr.114]. Hình ảnh về các vị Thổ Địa, Thổ Công,

Thủy Thần, Hà Bá,.. đều phản ánh niềm hi vọng của người dân có được cuộc

sống đầy đủ, không ai vi phạm đất đai, nhà cửa. Thần Mặt Trời mang theo

ánh sáng, đồng nghĩa với việc luôn mang theo sự sống cho muôn loài, phản

ánh ước mơ có được cuộc sống sinh sôi nảy nở không còn bóng tối, không

còn chết chóc… Tất cả những ước mơ, nguyện vọng đó, do con người không

tự chiến thắng được thiên nhiên, nên đã xây dựng thành những hình ảnh vừa

thực, vừa hư, vừa gần, vừa xa, để cầu mong sự che chở. Thiên nhiên mang

trong mình sức mạnh hùng vĩ, là nơi tạo nên sự sống, nhưng cũng là nơi lấy đi

sự sống của con người.

Trong sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng

Bắc Bộ diễn ra hàng năm phản ánh rõ ước vọng tâm linh của con người. Hàng

năm, các lễ hội được tổ chức với nghi lễ trang nghiêm và thu hút được đông

đảo quần chúng nhân dân tham gia, phần nào thỏa mãn nhu cầu tâm linh của

người dân. Họ tổ chức các nghi lễ thể hiện sự tôn sùng tự nhiên. Chẳng hạn,

tục rước nước của người dân Thái Bình trong lễ hội Bổng Điền, lễ hội Cửa

Lân, lễ hội Tiên La, tục rước các vị Tứ Pháp mỗi năm một lần trong lễ hội ở

Bắc Ninh… Điều đó thể hiện sự trân trọng tự nhiên của con người. Các yếu tố

của tự nhiên luôn được đề cao, luôn được con người sùng bái. Hình ảnh các vị

thần đại diện cho các yếu tố như trời, đất, nước, núi rừng, cỏ cây… được khắc

họa trong tâm thức của con người luôn là hình ảnh uy nghi, có tầm vóc, tướng

mạo. Các lễ hội diễn ra trong không khí trang nghiêm thể hiện sự tôn thờ các

vị thần của dân chúng. Ở đó, không phải là biểu hiện của sự sợ hãi trước sức

mạnh của tự nhiên mà là sự gửi gắm ước mơ, nguyện vọng chính đáng của

con người, nhất là người nông dân, khi công việc của họ gắn liền với thời tiết,

Page 130: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

125

với các yếu tố của tự nhiên. Mang trong mình sức mạnh của các vị thần, con

người gắn vào đó ước mơ có được sự che chở của tự nhiên. Vì, trong tâm thức

của họ, sức mạnh của thần bao giờ cũng đối lập với quỷ quái, yêu ma. Cuộc

chiến giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sức mạnh siêu nhiên của trời đất bảo vệ

con người. Tuy là hai thế lực đối lập nhau thần - quỷ, yêu ma. Song trong tâm

thức của họ, tự nhiên có mạnh mẽ đến bao nhiêu chăng nữa, thì đó cũng là

sức mạnh để giúp họ chiến đấu để tồn tại. Thế giới thần linh phong phú, phản

ánh chính cuộc sống đa dạng của con người. Họ gửi gắm vào đó không chỉ là

ước mơ được che chở, bảo vệ, mà còn gửi gắm cả vào đó sự chiến thắng

chính bản thân mình. Đó chính là giá trị tâm linh của các yếu tố triết học về tự

nhiên đối với hoạt động tín ngưỡng của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ.

4.1.1.2. Giá trị giáo dục ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên

Ẩn chứa trong các tín ngưỡng nói chung, và trong tín ngưỡng dân gian

của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng là ý thức bảo vệ tự nhiên,

sống gần gũi gắn bó với tự nhiên. Bởi, hơn bao giờ hết, như C.Mác đã nhận

định, “tự nhiên là thân thể vô cơ của con người”. Tự nhiên mang lại sự sống

cho con người. Con người là kết quả tiến hóa hàng tỉ năm từ giới tự nhiên,

điều này được minh chứng bằng các nghiên cứu khoa học, đặc biệt là trong

thuyết tiến hóa của Đác-uyn. Chính vì thế, dù trong thời đại nào đi chăng nữa,

trình độ của con người càng cao, thì càng phải có ý thức duy trì và bảo vệ tự

nhiên. Đó cũng là bảo vệ chính cuộc sống của con người. Gửi gắm vào hình

tượng các vị thần trong tín ngưỡng dân gian, tuy mang đậm màu sắc huyền

thoại, nhưng cho đến nay, tín ngưỡng và các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian

vẫn diễn ra sôi nổi. Một phần nó thể hiện sức sống lâu bền của hoạt động tín

ngưỡng. Một phần nó khẳng định giá trị nhận thức thể hiện văn hóa ứng xử

của con người đối với tự nhiên trong quá trình chinh phục tự nhiên.

Page 131: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

126

Sùng bái tự nhiên là quy luật tất yếu trong quá trình sinh sống của con

người. Đó cũng chính là văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên, mà con

người đóng vai trò là chủ thể. Trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng

đồng bằng Bắc Bộ thể hiện rõ nét mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa con người

với tự nhiên. Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, trong tư duy của người Việt

vùng đồng bằng Bắc Bộ, các yếu tố của tự nhiên và con người có mối giao

hòa. Tư tưởng thiên - địa - nhân hợp nhất luôn là mối quan tâm của con

người. Trong thực tiễn, trong sản xuất nông nghiệp, người ta trông trời, trông

đất, trông mây… thể hiện sự tôn trọng quy luật của tự nhiên. Từ đó, hình

thành nên văn hóa ứng xử của con người với tự nhiên. Các vị thần trong tín

ngưỡng dân gian như Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Ngàn,

hay các vị Tứ Pháp, các vị Thủy thần, Sơn thần, Thổ thần… được khắc họa

với diện mạo của con người, nhưng mang tướng mạo của những con người

phi thường. Tin vào sức mạnh thần bí của tự nhiên, đồng thời cũng xuất phát

từ chính vai trò vốn có của tự nhiên đối với con người. Nên, trong tâm thức

của người dân, các yếu tố cơ bản của tự nhiên luôn được đặt lên hàng đầu với

biểu tượng các bà mẹ - Thánh Mẫu. Nhắc tới mẹ, người ta nghĩ ngay đến sự

nâng niu, chăm sóc, che chở cho con cái, thì tự nhiên trong suy nghĩ của họ

cũng vậy. Họ trân trọng tự nhiên, nên họ mượn những hình ảnh của bà mẹ để

khắc họa. Các hoạt động tín ngưỡng dân gian cho ta thấy rõ văn hóa ứng xử

của con người với tự nhiên. Mỗi khi tết đến xuân về, các địa phương trong cả

nước lại tổ chức lễ hội, một phần để duy trì truyền thống văn hóa qua lễ hội

dân gian, một phần như để nhắc nhở con cháu về lòng biết ơn đối với trời, đất,

nước. Bên cạnh đó, đối với người Việt, mọi sự vật, hiện tượng sinh hóa trong

vũ trụ huyền bí này đều trở thành đối tượng thờ cúng. Đó có thể là một hòn

đá, một gốc cây cổ thụ, một rừng sâu, một con sông… đều là cơ sở của thần

linh, thần linh hiện hữu ở khắp mọi nơi, và tất cả đều là thần. Điều đó nói lên

Page 132: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

127

tình cảm cũng như mối quan hệ gần gũi, gắn bó của người Việt với giới tự

nhiên, nói lên cách ứng xử thân thiện tự nhiên.

Tóm lại, qua việc nghiên cứu giá trị của các yếu tố triết học về tự nhiên

trong tín ngưỡng dân gian của người việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, cho thấy ý

nghĩa của nó đối với các hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng dân gian hiện nay

của vùng. Trên cơ sở nghiên cứu các giá trị, giúp ta có thêm cơ sở để giải

thích sự tồn tại của tín ngưỡng hiện nay. Bên cạnh đó, thông qua các yếu tố

triết học ẩn chứa trong tín ngưỡng dân gian, phản ánh văn hóa ứng xử đối với

tự nhiên của con người. Hiểu tự nhiên, sống gắn bó với tự nhiên là việc làm

xuất phát từ chính nhu cầu lao động sản xuất để sinh tồn của người Việt.

Nhận thức về tự nhiên là một trong những nhu cầu không thể thiếu trong suốt

hành trình dài khám phá, chinh phục tự nhiên của con người. òa đồng với tự

nhiên, cảm nhận tự nhiên, lắng nghe tự nhiên, và với mục đích cuối cùng là

bảo vệ tự nhiên một cách hữu hiệu hơn, trở thành một vấn đề quan trọng khi

hành tinh của chúng ta đang đứng trước thực tế bị tàn phá, dẫn đến sự biến

đổi khí hậu, là mối hiểm họa đe dọa chính cuộc sống và nền văn minh mà

nhân loại xây dựng lâu nay. Do vậy, nghiên cứu về các yếu tố của tự nhiên tự

nhiên trong tín ngưỡng dân gian góp phần khẳng định lại những giá trị nhận

thức, khẳng định lại giá trị tâm linh hàm chứa trong đó, giúp con người biết

yêu quý và trân trọng tự nhiên hơn.

4.1.2. Giá trị của các quan niệm về con người

4.1.2.1. Giá trị nhân văn và bác ái

Cuộc sống là hành trình con người đi tìm và tự khẳng định mình. Ngay

từ buổi bình minh, trong tâm thức người Việt đã chú ý đến vấn đề con người.

Bằng tư duy trực quan, bằng trí tưởng tượng phong phú, họ đã giải thích về

nguồn gốc hình thành con người hết sức sinh động. Con người được cấu tạo

từ hai phần, đó là linh hồn và thể xác. Khi linh hồn và thể xác hòa hợp, con

Page 133: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

128

người được hình thành. Khi thể xác già nua, ốm yếu, linh hồn sẽ từ bỏ, và lại

tiếp tục chu du trong trời đất để nhập vào một thể xác mới. Cứ như thế, sự

sống của con người tiếp tục được sinh sôi nảy nở. Điều đó có nghĩa, cuộc

sống của con người là bất tận, con người tồn tại mãi với thời gian. Cái mất đi

chỉ là thân xác tạm bợ, mà ở đó, linh hồn con người gửi gắm. Do vậy, trong

tín ngưỡng dân gian của người Việt, cuộc sống của con người sau khi chết

còn dài hơn rất nhiều so với lúc sống. Cùng với niềm tin cho rằng, mỗi một

con người đều có một lực lượng siêu nhiên quyết định số phận, mang lại giá

trị định hướng trong hoạt động thực tiễn, khuyên con người ăn ở có trước, có

sau, tu tâm, tích đức để linh hồn gắn bó với thể xác, và khi thể xác già nua,

chết đi, thì linh hồn ấy mau chóng được đầu thai sang kiếp khác tốt đẹp hơn.

Chính vì vậy, trong mỗi hành động khiến con người ta chú ý hơn, để mong

tạo nghiệp thiện, tích nghiệp thiện cho bản thân, cho con cháu và gia đình.

Bên cạnh đó, sự tồn tại của yếu tố thiêng trong quan niệm về con người

trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, giúp điều

chỉnh nhận thức và hành vi của con người, hướng con người đến sự hoàn

thiện nhân cách cá nhân theo chuẩn mực đạo đức chung của xã hội. Đến

những nơi linh thiêng, nhiều người, kể cả những người trẻ tuổi, đều rất chú ý

đến lời ăn, tiêng nói, cử chỉ và trang phục của mình. Có lẽ, tâm lý trước cái

thiêng đã khiến mọi người đều phải chế ngự bản thân, không dám hành động

càn quấy. Những lời hứa hẹn, thề nguyền của con cháu trước tổ tiên, thần

thánh cũng tạo nên một tinh thần phấn chấn, ý chí quyết tâm, nỗ lực vượt khó

để hoàn thành tốt những mục tiêu mà bản thân và gia đình hướng tới. Bàn về

điều này, tác giả Toan Ánh cho rằng, “sự tin tưởng vong hồn ông bà cha mẹ

ngự trên bàn thờ có ảnh hưởng nhiều đến hành động của người sống. Nhiều

người vì sợ vong hồn cha mẹ buồn đã tránh những hành vi xấu xa, và đôi khi

định làm một việc gì cũng suy tính kỹ lưỡng, xem công việc đó lúc sinh thời

Page 134: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

129

cha mẹ có chấp nhận hay không. Người ta sợ mang tội bất hiếu nếu làm cho

vong hồn cha mẹ phải tủi hổ qua hành động của mình” [4, tr.25].

Quan niệm cho rằng, cuộc sống của con người sau khi chết là trở về với

thế giới bên kia. Ở thế giới đó, con người vẫn tồn tại nhưng ở một trạng thái

khác cũng có những ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động thực tiễn và nhận thức

của con người. Cũng tương tự như truyền thuyết trong kinh thánh, con người

sẽ chịu phán quyết sau khi chết. Hàng loạt các câu chuyện thần thoại, huyền

thoại về thế giới cõi âm của người chết đã phần nào thức tỉnh con người trước

khi họ hành động. Những bức tranh miêu tả về những vụ tra tấn dã man, chỉ ở

nơi của Thập Diện Diêm Vương mới có, khiến cho người sống không khỏi

bàng hoàng, tự vấn về những điều mình đã làm. Có thể thấy, sức mạnh vô

hình trong quan niệm về thế giới bên kia trong tín ngưỡng dân gian có tác

dụng không nhỏ đến cuộc sống của người trần thế. Phàm là con người ai cũng

đều sợ chết. Thậm chí khi còn sống đã chuẩn bị cho mình hành trang, tâm lý

trước khi đón nhận cái chết. Họ ý thức về cuộc sống sau khi chết của mình

nên ngay lúc còn sống quan niệm đó đã có tác động mạnh mẽ đến họ, góp

phần điều chỉnh hành vi của họ cho phù hợp vơi chuẩn mực chung của xã hội.

Giá trị nhân văn trong các yếu tố triết học về con người làm cho hoạt

động tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ càng trở

nên ý nghĩa. Các sinh hoạt tín ngưỡng diễn ra không chỉ thỏa mãn nhu cầu

tâm linh, mà còn là nơi điều chỉnh hành vi của con người, là nơi gắn kết con

người lại gần nhau. Họ tin có một thế giới tồn tại chờ đón họ sau khi họ chết.

Chính vì vậy, các sinh hoạt tín ngưỡng diễn ra như là nơi để họ gửi gắm niềm

tin, cầu bình an cho kiếp sống hiện tại, và mong có một cuộc sống yên ổn sau

khi họ chết. Ngày nay, các lễ hội dân gian thường gắn liền với sinh hoạt tín

ngưỡng ở hầu khắp các địa phương của vùng diễn ra thường xuyên hơn, và có

tính chất lan tỏa. Người dân tham gia vào các lễ hội, các sinh hoạt tín ngưỡng

Page 135: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

130

không chỉ thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng, mà còn là nơi để họ được

sám hối, sửa mình. Đến với các sinh hoạt tín ngưỡng, dù là già - trẻ, gái - trai,

giàu - nghèo đều nhận được sự bình yên trong tâm hồn, bởi niềm tin vào sức

mạnh của một thế giới khác đang lắng nghe họ, hiểu họ và sẵn sàng che chở

cho họ. Vì thế, giá trị nhân văn của tín ngưỡng vùng đồng bằng Bắc Bộ gióp

phần không nhỏ vào nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của vùng.

4.1.2.2. Giá trị hướng thiện

Do ảnh hưởng trong quan niệm của tín ngưỡng dân gian về sự hình

thành con người được tạo tiền đề từ nhiều yếu tố. Từ việc xem xét đến hành

động của con người ở kiếp trước, cho đến xét tới việc phúc ấm trong gia đình

để quyết định số phận cho họ. Cho nên, ngay khi còn đang sống, họ chú ý đến

những hành động của mình, tu thân, tích đức, mong cầu tạo nghiệp thiện để

sau khi chết đi có cơ hội được trở lại làm người. Họ chăm sóc, phụng dưỡng

cha mẹ - bởi cha mẹ là những người có công dưỡng dục, tích đức để họ có

được cuộc sống vuông tròn như ngày nay. Bởi hơn tất thảy, “công cha như

núi Thái Sơn; Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Phải hiếu thảo với

cha mẹ khi còn sống, thành kính, biết ơn, thương tiếc cha mẹ khi khuất núi về

với tổ tiên. Kính hiếu cha mẹ là phải phụng dưỡng cha mẹ lúc về già. Bởi lẽ,

chúng ta may mắn được có mặt trên đời, được nhìn thấy trời trăng, sơn thủy,

được sống cuộc sống của một kiếp người là do kiếp trước cha mẹ mình ăn ở

có tâm, có đức. Khi còn bé, nhờ hơi ấm, dòng sữa của mẹ, sự chăm sóc, giáo

dưỡng của cha chúng ta mới nên người. Vì thế, khi cha mẹ già chúng ta cần

phải có trách nhiệm chăm sóc cha mẹ để tỏ lòng kính hiếu và đó cũng là việc

thiện chúng ta nên làm để sau này có cơ hội được đầu thai kiếp khác. Tôn

trọng cha mẹ, có hiếu với cha mẹ đồng nghĩa với việc không được đùn đẩy

trách nhiệm chăm sóc cha mẹ cho người khác. Sự quan tâm, chăm sóc cha mẹ

giúp cha mẹ có thể sống bên cạnh chúng ta lâu hơn. Bởi nói theo một nhà văn

Page 136: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

131

unggari: “Mẹ là mặt trời của ta; Ai không yêu mẹ thì ra đứng đường”. Mẹ

cha được ví giống như mặt trời. Vì thế, cha mẹ với ta chỉ có một. Có hiếu với

cha mẹ khi còn sống mới là điều nên làm, để sau này khi cha mẹ khuất núi

không còn gì để tiếc nuối, ân hận.

Tu thân, sửa mình, có hiếu với cha mẹ, sống cuộc sống vuông tròn là

đạo lý từ bấy lâu nay ông cha ta truyền dạy cho con cháu. Cac cụ ví rằng:

“cha mẹ hiền lành để phúc cho con”. Nếp sống nếp nghĩ này bấy lâu nay đã

mang lại nhiều điều tốt đẹp cho hiện thực cuộc sống mà không ai có thể chối

cãi được. Người ta cứ thấm sâu tinh thần ở thiện, cưu mang, cứu giúp thiên

hạ, không những cho đời mình, mà còn cho cả con cháu sau này. Do vậy, tư

tưởng đó từ lâu đã ăn sâu, bén rễ trong tâm thức người Việt Nam. Bên cạnh

đó, đạo làm người không chỉ nhắc nhở họ có hiếu với cha mẹ mà còn phải

hiếu đễ với anh chị em trong gia tộc. Bởi vì “anh em như chân như tay”, “tay

đứt ruột đau”, “một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”, “kính trên nhường dưới”.

Làm anh, làm chị phải biết kính trên, nhường dưới, gương mẫu. Ngoài việc

thể hiện sự quan tâm của mình trong gia đình, dòng họ mà còn chú ý tới các

mối quan hệ trong cộng đồng làng, xã. Bởi trong quan niệm của người Việt,

chúng ta được sinh ra trong cùng một bọc trứng của mẹ Âu Cơ va cha Lạc

Long Quân. Quan niệm đó khiến chúng ta biết yêu thương, đùm bọc, chia sẻ,

giúp đỡ lẫn nhau những lúc hoạn nạn khó khăn. ành động đó, góp phần tích

nghiệp thiện, tạo nghiệp thiện cho con người, giúp họ có thể vượt qua được số

phận của mình và hơn thế nữa, có thể giúp họ sau này có được một cuộc sống

tốt đẹp hơn ở kiếp sau.

Tóm lại, có thể thấy, quan niệm về con người trong tín ngưỡng dân

gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ về số phận của họ, cuộc sống sau

khi chết của họ, số kiếp của họ… đã góp phần giúp con người điều chỉnh

hành vi của mình, sống tốt hơn, chan hòa, gắn bó, yêu thương và biết chia sẻ

Page 137: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

132

hơn. Những hành động đó, thể hiện giá trị nhân văn ẩn chứa trong tín ngưỡng

dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tuy chưa thực sự rõ nét,

nhưng đã phần nào thể hiện đạo làm người, thể hiện lối sống tốt đẹp giữa

người với người, đưa họ đến bến bờ Chân - Thiện - Mĩ.

4.1.3. Giá trị của các quan niệm về xã hội

4.1.3.1. Giá trị đạo hiếu

Từ lâu, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” vốn

là giá trị đạo đức truyền thống của người Việt nói chung và người dân vùng

đồng bằng Bắc Bộ nói riêng và là biểu hiện tập trung của giá trị đạo hiếu.

Trước hết, đạo hiếu được thể hiện trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ như một phương thức nhắc nhở con cháu

cần biết bày tỏ lòng hiếu nghĩa với Tổ tiên của mình. Chữ hiếu trong tín

ngưỡng thờ cúng Tổ tiên không chỉ dừng lại ở ý thức, giáo dục đạo đức mà

dần trở thành những nghi thức, tập tục, khuôn mẫu thường xuyên nhắc nhở

con cháu có trách nhiệm với quá khứ, hiện tại và tương lai; với anh em, làng

xóm và xã hội. Bàn về điều này, Ngô Đức Thịnh viết: “Một mặt, con cháu

bày tỏ long nhớ ơn đối với các bậc sinh thành, lúc họ chết cũng như khi còn

sống. Mặt khác, nó cũng thể hiện trách nhiệm liên tục và lâu dài của con cháu

đối với nhu cầu của Tổ tiên” [96, tr.53].

Trong tâm thức của người dân Việt Nam ba yếu tố gia đình, làng, nước

không thể tách rời. Với quan niệm nước là ngôi nhà lớn, nhà là nước thu nhỏ;

“trả thù nhà” gắn liền với “trả nợ nước”. Nên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ

Mẫu, thờ Thành hoàng, ngoài nhu cầu tâm linh còn thể hiện nhu cầu hướng về

cội nguồn của gia đình và dân tộc. Nó ăn sâu bén rễ vào đời sống của người

dân từ thế hệ này sang thế hệ khác và ngày càng trở nên phồn thịnh. Không có

thánh đường nguy nga, không có những khuôn phép hay nghi lễ chặt chẽ,

không hứa hẹn về điều gì đó tốt đẹp ở thiên đường hay thượng giới, song các

Page 138: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

133

loại hình tín ngưỡng dân gian đó đã góp phần không nhỏ trong việc định

hướng lối sống của thế hệ con cháu. Tuy chỉ là ảo tưởng về một sự tồn tại siêu

hình nào đó của những người đã khuất, song người ta vẫn cảm thấy yên tâm

khi duy trì mối quan hệ đó như một món ăn tinh thần không thể thiếu.

Tiếp theo, thông qua tín ngưỡng thờ các vị Thánh Sư, Tổ Nghề, những

vị có công khai phá lập làng, lập ấp..., qua đó nhân dân muốn nhắc nhở con

cháu ý thức về long biết ơn đối với những người có công với làng, nước. Bàn

về điều này, Lê Thị Lan viết, “tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng song

Hồng… là phương thức để người dân bày tỏ tinh thần yêu nước, biết ơn hiền

tài và lòng tự hào dân tộc” [57, tr.72]. Tuy chỉ là những người nông dân, song

trong tâm trí họ, truyền thống trọng sự học, quý trọng bậc hiền tài, học rộng,

tài cao có nhiều công lao cho làng xã. Khi còn sống, những bậc anh tài đó là

niềm tự hào của quê hương, khi chết đi họ được nhân dân thờ phụng lập thành

Thành hoàng. Trước hết, đó là những vị có công mở mang trường học khai

sáng dân trí cho người dân có thể kể đến ông giáo Cảnh và cụ Tú Cự có công

dạy học và sau khi mất được thờ ở Thống Dương, ải Hậu, Nam định. Phạm

Trấn là tiến sĩ thời Lê, có công mở trường dạy học sau khi chết được người

dân tôn thờ ở Sơn Đà, Ba Vì. Ba anh em họ Chu là Chu Cần, Chu Khiêm và

Chu Đàm có công mở trường dạy học, khi mất được thờ ở xã Phú Kim, Thạch

Thất, Hà Tây. Vị nữ tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam đó là bà Nguyễn Thị Duệ

được sắc phong là Bà Chúa Sao được thờ ở Văn miếu Mao Điền Hải Dương

cùng với Khổng Tử và bảy vị đại khoa danh tiếng của Việt Nam… Bên cạnh

đó, ngoài những vị có công mở trường khai trí cho người dân được thờ phụng

còn có những vị có công trong việc truyền nghề cho nhân dân. Những vị đó

được tước phong là Thành hoàng Tổ nghề. Có thể kể đến một số vị như ở

Thái Bình có Tổ nghề trồng dâu, nuôi tắm có tên là Phạm Thị Xuân Dung; Tổ

nghề dệt chiếu có Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ người làng Hải Triều - tổng

Page 139: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

134

Thanh Triều (nay thuộc xã Tân Lễ, huyện ưng à); Tổ nghề kim hoàn có

Nguyễn Kim Lâu vốn xuất thân từ nghề “bổ trữ đồng oa” (tức hàn xoong nồi),

lên châu Bảo Long học được nghề kim hoàn; Tổ nghề dệt lụa thờ bà A Lã Thị

Nương là vợ của tướng quân Cao Biền, theo chồng sang nước Nam cai trị…

và còn rất nhiều các vị Thành hoàng khác trên khắp các địa phương của vùng

đồng bằng Bắc Bộ. Bên cạnh các vị Thành hoàng đó, không thể không kể đến

các vị Thành hoàng là các nhân vật lịch sử có công tụ dân, lập làng. Trong số

đó, không thể không nhắc tới Nguyễn Công Trứ có công khai khẩn mở mang

vùng đất màu mỡ: Hải Hậu - Nam Định, Kim Sơn - Ninh Bình, Tiền Hải -

Thái Bình, hầu hết người dân các làng của ba huyện đều thờ Nguyễn Công

Trứ làm thần Thành hoàng. Ngoài ra, còn có ông Văn Sỹ Thành (thời Trần)

giúp dân chữa bệnh, được phong là Thành hoàng Thủy Hội, Đan Phượng, Hà

Tây. Quận công Bùi Nghĩa Phổ có công giúp dân lập làng mở chợ được tôn

làm thân thờ ở làng Đình Thị, Trúc Sơn, Chương Mỹ, à Tây… Ngoài ra,

còn rất nhiều các vị khác có công khai phá làng xã, giúp dân khai khẩn, canh

tác ruộng đất… họ được chính người dân phong làm những vị Thành hoàng

thể hiện lòng biết ơn của họ đối với những người có công lập làng, dựng xã.

Việc ghi nhận những công lao đó của các vị Thánh Sư, Tổ nghề, các vị có

công lập làng, khai khẩn… như khắc họa đậm nét hơn về truyền thống “tôn sư

trọng đạo”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống nước nhớ nguồn” - một nét đẹp

văn hóa trong đạo đức, lối sống trọng tình, nghĩa của người Việt vùng đồng

bằng Bắc Bộ.

4.1.3.2. Giá trị gắn kết cộng đồng

Giá trị gắn kết cộng đồng được thể hiện rõ nét trong hoạt động tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thông qua sinh

hoạt tín ngưỡng dân gian, họ biết vận dụng uy linh, quyền năng thần thánh để

gắn kết các thành viên cộng đồng mình, tạo dựng một khối vững chắc trong

Page 140: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

135

suốt hành trình dài dựng nước và giữ nước. Các hoạt động tín ngưỡng dân

gian của vùng vô hình đã trở thành chất keo kết dính cộng đồng nhà - làng -

nước, là ngọn nguồn của tinh thần yêu nước, là biểu tượng cho sức mạnh

trường tồn của dân tộc.

Một trong những yếu tố tạo nên sự thành công của lịch sử dân tộc đó

chính là sự cố kết công đồng. Đúng như nhận xét của Trần Ngọc Thêm, tính

cộng đồng làng xã và tính trọng âm chính là hai lý do làm nên lòng yêu nước

và tinh thần dân tộc đặc biệt mạnh mẽ của người Việt Nam, nhờ thế mà trải

qua hàng nghìn năm bị đô hộ, văn hóa Việt Nam, dân tộc Việt Nam chỉ có thể

biến đổi, làm giàu lên chứ không bị đồng hóa [91].

Thông qua sinh hoạt tín ngưỡng dân gian, giá trị cố kết cộng đồng được

biểu hiện rõ nét. Trong sinh hoạt tín ngưỡng dân gian thờ Thành hoàng, Toan

Ánh nhận định rằng, “Thành hoàng ở đây chính là vị chỉ huy tối cao không

những về phần thiêng liêng mà còn có thể nói cả một phần về đời sống thực tế

của dân làng nữa. Ngài đã đoàn kết dân xã, và chính sự đoàn kết dân xã là cái

sức mạnh về phần thực tế của Ngài” [3, tr.127]. Đó cũng là quan điểm của

Đào Duy Anh. Ông viết, “thần Thành hoàng là biểu hiện của lịch sử, phong

tục, đạo đức, pháp lệ, cùng hi vọng chung của dân làng, lại cũng là một thứ

quyền uy siêu việt, một mối liên lạc vô hình, khiến cho hương thôn thành một

đoàn thể có tổ chức và hệ thống chặt chẽ” [1, tr.252-253]. Trong tín ngưỡng

thờ Mẫu, là biểu tượng cho tinh thần đoàn kết vì cùng chung một nguồn gốc,

chung một tinh thần đấu tranh chống thiên tai, chống giặc ngoại xâm của

người Việt. Thờ cúng Tổ tiên là biểu tượng cho sự biết ơn về nguồn cội, là sự

kính hiếu với Tổ tiên, là biểu tượng của sự đoàn kết biểu trưng cho sức mạnh

nguồn cội dân tộc. Thánh Gióng không chỉ là biểu tượng của tinh thần yêu

nước, ý chí quật cường của dân tộc, mà còn là biểu tượng của tinh thần đoàn

kết của dân tộc. Dân làng chung tay, chung sức gánh gạo nuôi Gióng lớn nghe

Page 141: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

136

tiếng Gióng gọi, tiếng vó ngựa của Gióng phi, nhân dân đang đập đất dưới

ruộng liền xách vồ theo chân Gióng ra trận. ào khí đó thể hiện tinh thần

đoàn kết của dân tộc được ấn chứa sâu sắc trong tín ngưỡng dân gian của

người Viêt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những hoạt động tín ngưỡng dân gian

đó, hầu hết là các hoạt động tập thể, bởi vậy, nó gắn bó, đoàn kết cá nhân với

cộng đồng, bảo vệ lợi ích chung. Nó có ảnh hưởng tích cực trong việc xây

dựng lối sống, nếp sống văn hoá ở mỗi gia đình, làng xóm, tổ dân phố, khu

dân cư; đồng thời có tác dụng giáo dục, khuyến khích phát huy truyền thống

hiếu học của các gia đình, dòng họ ở mỗi địa phương. Chính nhờ duy trì tín

ngưỡng dân gian, đặc biệt là duy trì các lễ hội, sẽ góp phần gìn giữ những nét

văn hoá truyền thống đang dần bị mai một, đồng thời tiếp nhận những giá trị

văn hoá mới để hướng đến xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản

sắc dân tộc.

Ngày xưa, cha ông ta đoàn kết để trị thủy, đoàn kết để chống giặc ngoại

xâm. Ngày nay, chúng ta đoàn kết để chung tay xây dựng đất nước. Giá trị

gắn kết cộng đồng trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng

Bắc Bộ có tác dụng mạnh mẽ đối với đời sống tinh thần của nhân dân. Cùng

với xu hướng thế tục hoá của tín ngưỡng dân gian, nó đã hoà mình vào mọi

hoạt động sống của xã hội ở trong từng gia đình cho đến ngoài cộng đồng. Nó

trở thành sợi dây vô hình gắn kết các giai cấp, tầng lớp trong một lợi ích

chung, tạo nên tinh thần đoàn kết trong cộng đồng dân cư. Vì lẽ đó, tín

ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ đã tạo nên sự đồng

thuận xã hội lớn, gióp phần thúc đẩy việc mở rộng và thực thi dân chủ, tiến

tới công bằng xã hội. Cuộc vận động thực thi dân chủ ở các địa phương cũng

sẽ không thể thành công nếu thiếu sự đoàn kết thống nhất trong nhân dân.

Page 142: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

137

4.2. Hạn chế của các quan niệm về tự nhiên, về con ngƣời, về xã hội

trong tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

4.2.1. Tính chất duy tâm trong các quan niệm về tự nhiên

Thứ nhất, xét về mặt thế giới quan, tín ngưỡng dân gian của người Việt

vùng Đồng bằng Bắc Bộ thừa nhận tự nhiên được sáng tạo và cai quản bởi

các vị thần, thánh. Chẳng hạn, trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ ứng với bốn

phương, bốn miền của vũ trụ. Theo Ngô Đức Thịnh, “Mẫu là quyền năng

sáng tạo vũ trụ duy nhất, nhưng lại hóa thân thành Tam vị, Tứ vị Thánh Mẫu

cai quản các miền khác nhau của vũ trụ: Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải và

Mẫu Thượng Ngàn. Trong đó, Mẫu Thượng Thiên sáng tạo và làm chủ các

hiện tượng mây, mưa, sấm, chớp… Mẫu Thượng Ngàn là hóa thân của Thánh

Mẫu trông coi miền rừng núi… Mẫu Thoải… đó là vị thần trị vì vùng sông

nước…” [96, tr.131-133]. Từ Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải cho đến Mẫu

Thượng Ngàn đều được dân gian xây dựng thông qua các câu chuyện mang

màu sắc thần thoại. Đó là những con người bình thường, song họ lại được

sinh ra khác thường. Bàn về điều này, Nguyễn Đăng Duy viết, “…thần vốn đã

thiêng liêng, song để cho thần khác thường thiêng liêng hơn nữa, người Việt

(Kinh) còn huyền thoại hóa các thần thờ” [16, tr.112].

Bên cạnh những câu chuyện về các vị Thánh Mẫu còn là những câu

chuyện về các vị thần rừng, thần sông nước. Chẳng hạn, khi nói thới thần Tản

Viên, trong quan niệm của dân gian, thần Tản Viên “được sinh ra từ một cây

cổ thụ thành một chú bé, được dê rừng cho bú, chim chóc ấp ủ, lớn lên bằng

sự thiêng liêng của núi rừng. Thần Mộc Trang giúp vua Đinh Tiên oàng dẹp

loạn 12 Sứ quân, được sinh ra từ bà mẹ nằm ngủ, mơ thấy sao sa vào miệng

có thai, sinh thần vào ngày 9 tháng 10 (9 phương trời, 10 phương đất)…” [16,

tr.112], Thần Linh Lang - vị thần đại diện cho sức mạnh của nước, theo

truyền thuyết kể rằng “… thần là con vua Lý Thánh Tông, nhưng mẹ là người

Page 143: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

138

ở động Bồng Sơn, mang thai 14 tháng sinh thần, giúp vua dẹp xong giặc, khi

hóa nói là con phù thủy, biến thành con rắn trườn xuống hồ Dâm Đàm ( ồ

Tây) biến mất” [16, tr.111].

Qua sự lý giải đó cho ta thấy, thông qua lăng kính tín ngưỡng dân gian

của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, các yếu tố của tự nhiên được sáng

tạo bởi các vị thần, thánh. Họ là những con người được thần thánh hóa, mang

trong mình sức mạnh kì bí chi phối tự nhiên, đồng thời chi phối cả cuộc sống

của con người. Sự lý giải đó càng khiến cho tự nhiên trở nên huyền bí, linh

thiêng, mang màu sắc duy tâm.

Thứ hai, xét về mặt nhận thức luận, tín ngưỡng dân gian của người Việt

vùng đồng bằng Bắc Bộ thừa nhận sự nhận thức về tự nhiên của con người

thực chất là sự nhận thức về các vị thần, thánh cai quản tự nhiên. Bởi lẽ, ngay

từ buổi đầu, người Việt sống chủ yếu dựa vào tự nhiên. Các yếu tố của tự

nhiên như trời, đất, nước, cây, muông thú… là những yếu tố chính nuôi

dưỡng con người. Trong quá trình lao động, có lúc được mùa, có lúc mất

mùa. Từ việc trồng trọt là hoạt động sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào thời tiết,

họ “trông trời, trông đất, trông mây”. Cho đến việc chăn nuôi, họ cũng chưa

giải thích được vì sao con vật có bệnh tật, chết chóc, vì sao phải có sự phối

hợp giữa con đực và con cái, thì con vật nuôi mới được sinh ra… từ đó nảy

sinh thờ Thần Đực, Thần Cái [16, tr.74-75]. Từ thực tế cuộc sống, con người

không thể tách khỏi môi trường tự nhiên. Ngay từ thời xa xưa, các hiện tượng

của tự nhiên đã có những ảnh hưởng vô cùng lớn đến cuộc sống của họ. Từ

các hiện tượng mưa, bão gây ra những trận lụt lội, gây ra bệnh tật, cuốn trôi

gia súc, của cải, cho đến sự tàn phá chính cuộc sống của con người. Bất lực

trước sức mạnh thần bí đó, con người tin rằng, do sự trừng phạt của thần trong

dòng nước, sinh ra thờ thần nước. Những trận cuồng phong, những luồng sấm

sét làm lở núi, chết người, lại càng khiến con người khiếp sợ… và họ cho

Page 144: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

139

rằng, có lực lượng thiêng liêng nào đó gây ra, từ đó sinh ra việc thờ các vị

thần như Trời, Núi, Cây… Sự hùng vĩ của những cánh rừng, sự âm u, mịt mù

của đồi núi cũng khiến con người ta hoảng sợ, sinh ra thờ thần, trong đó có

hiện tượng thờ Mẫu Sơn Lâm, Mẫu Thượng Ngàn. Bàn về điều này, Nguyễn

Đăng Duy cho rằng, do “trình độ văn hóa khoa học còn thấp kém, con người

không thể giải thích được vì sao lại có sự thất bại hay thành công ấy, con

người tưởng tượng ra một lực lượng vô hình nào đó “tài giỏi” hoặc “hung ác”

tác động vào sự thành công hay thất bại ấy, con người sinh ra sợ hãi hoặc kính

phục lực lượng vô hình ấy, dẫn đến tôn thờ… thần linh xuất hiện” [16, tr.73-

74]. Trình độ nhận thức hạn chế, khiến người ta không thể biết được rằng,

hiện tượng mưa là do sự bốc hơi của nước, lên không trung, gặp lạnh, ngưng

tụ tạo thành mưa. iện tượng gió là do sự chuyển động của các khối khí, hay

hiện tượng sấm sét là do hiện tượng phóng điện của các đám mây tích điện

trái dấu… Tất cả sự nhận thức về thế giới xung quanh họ thực chất là sự nhận

thức và giải thích trên cơ sở nguồn gốc và bản chất của các vị thần, thánh.

Ở thời kì sơ khai đó, xuất phát từ việc quan sát trực tiếp các hiện tượng

của tự nhiên, nên sự nhận thức mang tính chất chất phác, thể hiện lối tư duy

trực quan, cảm tính duy tâm về thế giới. Trong tâm thức của họ, bầu trời rộng

lớn là nơi có các vị thần, thánh ngự trị và cai quản. Đó là Mẫu Thượng Thiên,

là các vị Tứ Pháp là các Chầu Ông, Chầu Bà… Vùng núi rừng âm u, mịt mù

là thế giới của các vị thần, thánh đại diện cho miền rừng núi như Sơn Thần,

Mẫu Thượng Ngàn, Bà Chúa Sơn Lâm. Vùng nước thì có thần Hà Bá cai

quản, có Mẫu Thoải đứng đầu cùng với các vị cận thần theo hầu Thánh Mẫu.

Trong tâm thức dân gian, đâu đâu cũng là sự hiển linh của các vị thần. Để có

được thời tiết thuận hòa, mùa màng bội thu, con người và vật nuôi yên ổn thì

họ cần phải tôn kính và biết ơn các vị thần, thánh.

Page 145: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

140

Do ảnh hưởng của các yếu tố Nho, Phật, Đạo, đặc biệt là các yếu tố của

Đạo giáo, các yếu tố của tự nhiên được giải thích thông qua sự tồn tại của các

vị thần. Các vị thần, thánh đó tồn tại bất tử. Chẳng hạn, Mẫu Thượng Thiên là

sự hóa thân của Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Theo truyền thuyết, bà tái sinh nhiều

lần: từ Nho giáo, họ cho Mẫu Liễu từ con vua cha trên trời giáng xuống (Nho

giáo đề cao mệnh trời) được mẹ đất nuôi dưỡng… Cũng từ Nho giáo mà họ

cho Mẫu Liễu tài hoa văn học… Từ Phật giáo mà họ cho Mẫu Liễu luân hồi

hóa kiếp mấy lần, hay như Mẫu Liễu được Phật Bà Quan Âm cứu thoát khi bị

mắc mưu sa lưới, hay Mẫu hóa thành bà già, chữa thuốc cứu độ chúng sinh…

Từ Đạo giáo thần tiên mà Mẫu Liễu là Tiên từ trên trời giáng xuống và trường

sinh bất tử… Từ Đạo giáo phù thủy mà Mẫu Liễu thần thông hóa phép…

thoắt ẩn, thoắt hiện… [16, tr.176].

Như vậy, có thể thấy, các yếu tố triết học trong quan niệm về tự nhiên

trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng Đồng bằng Bắc Bộ thể hiện

thế giới quan duy tâm trong cách nhìn nhận và giải thích về thế giới. Các yếu

tố của tự nhiên là sự hiện thân của các vị thần chứ không phải tự thân nó tồn

tại, vận động và phát triển theo quy luật vốn có của nó. Bên cạnh đó, xét về

mặt nhận thức luận, thông qua các quan niệm về tự nhiên trong tín ngưỡng

dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ cho thấy sự nhận thức về các

yếu tố của tự nhiên thực chất là sự nhận thức về thế giới các vị thần, thánh.

Nhận thức để tôn sùng họ, cầu mong các vị thần, thánh che chở cho con

người, tránh được các trận thiên tai, địch họa, cầu mong sự sinh sôi nay nở do

mẹ thiên nhiên ban phát. Tự nhiên vốn đã kì vĩ và chứa nhiều điều bí ấn, song

thông qua lăng kính của tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng

Bắc Bộ nó càng trở nên thần bí, ảo lấn át thực, thần lấn át người.

Page 146: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

141

4.2.2. Tính chất duy tâm trong các quan niệm về con người

Thứ nhất, xét về mặt nguồn gốc, cấu tạo con người, tín ngưỡng dân

gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ thừa nhận sự sáng tạo ra con

người bởi các vị thần, thánh. Tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ

cho rằng, con người được cấu tạo từ hai phần thể xác và linh hồn. Sự kết hợp

của thể xác và linh hồn không phải là ngẫu nhiên, mà do sự sắp đặt của một vị

thánh, thần cai quản số mệnh quyết định. Người ta ngầm hiểu, số phận của

mình luôn được định đoạt từ trước. Do vậy, ai giàu, ai nghèo, ai sướng, ai khổ

là do số mệnh. Mọi hành động, sự nỗ lực, cố gắng của họ trong cuộc sống chỉ

giúp họ giảm bớt đi phần nào những số phận hẩm hiu. Do đó, họ mong cầu

cuộc sống an nhiên ở một thế giới huyền ảo - thế giới vô hình, mà người sống

chưa có ai một lần chạm chân tới. Sự nhận thức đó khiến con người ta trở nên

bị động, ỉ lại vào số phận, vào một lực lượng siêu nhiên nào đó mà họ cho

rằng đó là vị thần đã có công tạo ra họ. Chẳng hạn như, trong tín ngưỡng thờ

Mẫu, quan niệm cho rằng, mỗi một người được sinh ra là do một bà chúa độ

mạng. Bà chúa độ mạng được gọi nôm na là mẹ sanh, mẹ độ; đó là các nữ

thần quen thuộc trong tín ngưỡng dân gian của cư dân Việt ở Bắc Bộ. Tùy

theo hằng tâm của người phụ nữ mà chọn nữ thần độ mạng cho mình. Các Bà

độ mạng được thờ trong gia đình gồm một trong số: Mẹ Thai Sinh, Chúa Tiên

nương nương; Linh Sơn Thánh mẫu; Thiên Hậu, Cửu Thiên Huyền Nữ, Địa

mẫu, Quan Âm Bồ tát... Tin vào điều đó, họ thờ các vị thần cai quản bản

mệnh với niềm hi vọng sẽ được họ che chở, nâng đỡ, thay đổi số phận của

mình, mà không tự ý thức được việc thay đổi sô phận là do chính từ hoạt động

thực tiễn cải tạo bản thân. Nhiều gia đình đã tốn kém không biết bao nhiêu

tiền của để tổ chức mở phủ, hầu đồng. Vì họ nghĩ rằng, người thân của họ có

số phải hầu thánh, phục vụ thánh. Nhiều người tin vào lời bói toán của các

đồng cô, đồng cậu về số phận của cuộc đời mình, khiến họ trở nên thụ động

Page 147: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

142

với chính cuộc đời. Như vậy, nhận thức sai lệch về nguồn gốc con người là

nguyên nhân dẫn tới hiện tượng mê tín, dị đoan trong đời sống văn hóa tinh

thần của người dân, nhất là khi bị lợi dụng để “buôn thần, bán thánh”, hù họa

người dân để trục lợi.

Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của Phật giáo, tín ngưỡng dân gian của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ cho rằng, con người được sinh thành là

kết quả của hành động tốt xấu của cha mẹ họ khi trước. Do vậy, theo Nguyễn

Đăng Duy, “tôi tồn tại đây là tôi đang mang cái cha mẹ tôi định sẵn để lại…

cái nghiệp tôi mang đây đã được báo trước từ cha mẹ tôi, và cũng là cái báo

sắp tới của con tôi, vì thế gọi là nghiệp báo” [16, tr.408]. Đây chính là quan

niệm duy tâm chủ quan về cuộc đời con người. Bởi theo quan niệm đó, thì

những điều tốt xấu ở trong mỗi con người đã được định sẵn từ trước, chỉ có tu

tâm, tích đức mới mong được giải thoát. Điểm tích cực ở đây là nó nhấn mạnh

đến sự tự tu dưỡng đạo đức của con người, nhưng mặt trái ở đây là nó đã

khiến con người trở nên thụ động, tin vào định mệnh. Đôi khi, trong cuộc

sống gặp điều trắc trở thất bại, người ta chỉ biết than thân, trách và họ chấp

nhận điều đó như một lẽ tự nhiên.

Thứ hai, xét về mặt nhân sinh quan, tín ngưỡng dân gian của người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ thừa nhận sự tồn tại của số phận con người,

đồng thời thừa nhận sự tồn tại của một thế giới vô hình sau khi con người chết

đi. Và với họ, đó mới là cuộc sống vĩnh hằng, bởi vì “sống gửi, thác về”. Số

phận của con người là khác nhau do phúc ấm gia tiên, do nghiệp từ tiền kiếp,

hoặc do thần thánh tạo nên. Cuộc sống sau khi chết được dân gian thêu dệt

nên trong nhiều những câu chuyện huyễn hoặc. Nào là khi chết phải đi qua

nhiều cửa ải. Cứ chiểu ở trần thế mắc những tội gì, thì xuống đó phải chịu sự

trừng phạt của Diêm Vương. Thậm chí, có họ quan niệm rằng, người ăn ở bạc

ác, thất đức… bị đày xuống mười tám tầng địa ngục, vĩnh viễn không được

Page 148: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

143

đầu thai kiếp người. Chính sự hiểu biết sai lệch đó, càng khiến họ sợ hãi trước

cái chết, sợ hãi trước sự tồn tại vô hình của thần linh. Niềm tin vào cái thiêng

bị lợi dụng, đẩy tới mức cực đoan, đôi khi khiến họ mất phương hướng trong

hoạt động thực tiễn. Cũng như quan điểm của đạo Thiên Chúa, bản chất con

người là kẻ có tội, hay quan điểm của đạo Phật, cuộc đời con người là bể khổ,

còn Đạo giáo hướng con người tới cuộc sống bất tử ở cõi bồng lai tiên cảnh…

càng khiến con người trở nên thụ động trước cuộc đời đầy biến động.

Niềm tin vào số phận của con người được tạo nên bởi một vị thần linh

thiêng cai quản đã khiến cho người dân tin tưởng thái quá dẫn đến làm bùng

nổ không ít các hiện tượng mê tín, dị đoan. Bàn về điều này, Nguyễn Đức Lữ

viết, “niềm tin phi khoa học khi đi quá ngưỡng của nó trở thành niềm tin mù

quáng, khiến con người dễ dàng đi đên những hoạt động mù quáng” [66,

tr.162]. Thực tế đã xảy, khi người ta bị bệnh, chữa trị khắp các bệnh viện

không khỏi, khiến người ta nghĩ ngay đến việc bị thần linh, thánh thần trách

phạt. Nhiều gia đình không ngần ngại bỏ ra cả núi tiền để thực hiện lập đàn

chữa bệnh, hầu đồng để giải trừ tai ương. Trong làm ăn, may rủi là điều khó

tránh khỏi. Chính vì lẽ đó, khiến họ càng tin theo sức mạnh vô hình của các

đấng thiêng, làm cho hoạt động buôn thần bán thánh ngày càng trở nên nở rộ.

Hoạt động thương mại hóa các hoạt động tín ngưỡng dân gian đã khiến cho

nó mất đi bản chất tốt đẹp.

Đối vơi phương Tây, vấn đề về vũ trụ quan được đưa lên hàng đầu, thì

đối vơi người phương Đông nói chung và người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

nói riêng, họ coi trọng vấn đề về nhân sinh. Việc hiểu con người, truy tìm bản

chất con người được đặt ra ngay từ buổi sơ khai của lịch sử dân tộc. Niềm tin

vào linh hồn, sự tồn tại của thế giơi bên kia hay niềm tin vào sức mạnh của

một vị thần sáng tạo số phận của con người đã ăn sâu bén rễ vào tâm thức của

mỗi người dân Việt.

Page 149: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

144

Cho đến ngày nay, khoa học vẫn chưa phát triển để có thể lý giải hết tất

cả mọi ngóc ngách của vũ trụ, của con người. Cuộc sống của con người vẫn

chịu nhiều rủi ro, bất trắc, vẫn chịu những tai họa không thể lường trước. Do

vậy, họ vẫn tin vào cách giải thích trong tín ngưỡng dân gian về cuộc đời của

họ, và coi đó là nơi để họ có thể tìm được sự cứu cánh khi họ vấp ngã trên

đường đời. Đó cũng là nguyên nhân chính dẫn đến sự xuất hiện của không ít

những kẻ chuyên giả mạo, lừa bịp để thực hiện những chiêu trò buôn thần,

bán thánh, lừa bịp quần chúng nhân dân, đội lốt dưới danh nghĩa ông đồng bà

cốt đi làm việc thiện cứu người. Về vấn đề này, dân gian đã từng tự chế giễu

mình: “Ăn trộm ăn cướp thành Phật thành tiên. Đi chùa đi chiền bán thân bất

toại”, hoặc “hòn đất mà biết nói năng, thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn”.

Thế nhưng, mỗi khi bế tắc do bất lực trước những vấn đề phức tạp nảy sinh

trong cuộc sống, người dân lại tin vào bói toán, cúng bái. Đó là những mâu

thuẫn thường nhật trong đời sống của con người.

4.2.3. Tính chất duy tâm trong các quan niệm về xã hội

Bức tranh về xã hội được dựng lại với muôn hình màu sắc, phản chiếu

mọi khía cạnh của xã hội được biểu hiện trong tín ngưỡng dân gian của người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Mặt tích cực phản ánh ước mơ, nguyện vọng

chính đáng của người dân, đặc biệt là của người nông dân. Mặt tiêu cực phản

chiếu ước vọng của người dân một cách hoang đường, thần bí, mang nặng

tính chất duy tâm về xã hội. Bàn về điều này, Phan Kế Bính cho rằng, “xem

như các nước Âu châu, trừ ra thờ Giáo tổ là để tỏ lòng kỷ niệm, còn không có

thờ đến thần thánh nào, không phải nhờ đến sức âm phù mặc hộ bao giờ, vậy

sao mà nước nào cũng thịnh vượng, dân nào cũng phú cường. Mà Á Đông

này thờ thần thành kính là thế, sao thần lại chẳng phù hộ cho giàu mạnh bằng

các nước đi? Một lẽ ấy đủ làm chứng cho ta tin nhảm ” [7, tr.98]. Tuy nhiên,

đây không chỉ là lý do nhận thức đơn giản mà còn là lý do lịch sử và văn hóa.

Page 150: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

145

Một câu hỏi lớn đặt ra là, liệu không có tín ngưỡng dân gian thì văn hóa Việt

Nam sẽ như thế nào? Liệu truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta có được bảo lưu

và phát triển nếu không có tín ngưỡng dân gian? Ở phần trên, luận án đã

khẳng định những giá trị tích cực của các yếu tố triết học trong tín ngưỡng

dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những giá trị đó góp phần

khẳng định vai trò và vị thế của tín ngưỡng dân gian trong đời sống văn hóa

của dân tộc. Mặc dù vậy, ở đây cũng cần chỉ rõ một số điểm hạn chế trong các

quan niệm về xã hội và sự ảnh hưởng của nó đối với đời sống của con người.

Thứ nhất, các quan niệm về xã hội trong tín ngưỡng dân gian của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ bị bao phủ, bị khoác lên một thứ niềm tin

thần bí, khiến con người trở nên thụ động, mong cầu vào sự thiêng liêng nào

đó. Niềm tin về sự thiêng liêng của thần thánh của người Việt do ảnh hưởng

không nhỏ của Đạo giáo thần tiên, cầu trường sinh bất tử đã khiến con người

trong xã hội trông mong về phép màu thiêng liêng. Họ dựng lên hình ảnh các

vị thánh bất tử với niềm hi vọng được giải thoát ở một cõi linh thiêng nào đó,

mà không phải là cuộc sống hiện tại. Hiện tượng tín ngưỡng thờ Tứ bất tử

được dựng lên là do vào khoảng thế kỉ XVI trở đi, khi Mạc Đăng Dung thoán

ngôi nhà Lê, xã hội phong kiến nước ta rơi vào bế tắc. Các tôn giáo ngoại lai

ngự trị từ bây lâu nay như Phật Giáo, Đạo Giáo đã không đủ sức mạnh để

mang lại niềm tin giải thoát cho con người. Trong khi đó, nhà nước trọng

dụng tư tưởng của đạo Nho - với tư tưởng “dĩ nông vi bản”, trọng nông ức

thương đã khiến cho nền kinh tế xã hội đương thời càng trở nên kém phát

triển. Nhân dân quanh quẩn trong cái vòng kinh tế nông nghiệp bị chiến tranh,

dịch bệnh, thiên tai. Xã hội đầy rẫy bất công, nông dân bị ức hiếp, kèm theo

đói khổ triền miên càng khiến con người mong muốn tìm được một niềm tin

linh thiêng làm chỗ dựa tinh thần cho họ. Họ cần một sức mạnh siêu nhiên từ

những người những vị thánh thần. Xuất phát từ chính nhu cầu đó, dân gian

Page 151: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

146

dựng lên hình ảnh về các vị thánh bất tử - là nơi gửi gắm khát khao được giải

thoát khỏi khổ ải trần gian. Thế nhưng, những khát khao đó chỉ là những ước

vọng có được một cuộc sống tốt đẹp ở một thế giới siêu hình nào đó mà

dường như chưa ai chạm chân tới.

Xã hội bất công, các quan lại triều đình chỉ lo cho túi tiền của họ, mặc

cho dân tình đói khổ. Chiến tranh liên miên, thiên tai, địch họa, quân xâm

lược liên tục lăm le xâm lược nước ta. Gánh nặng chồng chất lên đôi vai

người dân. Họ không còn đủ sức tin vào tầng lớp cầm quyền. Cuộc sống đói

khổ, chết chóc, bệnh tật, bất công đã khiến họ mơ về một xã hội tốt đẹp hơn -

đó là nơi họ tìm đến là sự linh thiêng của các vị thần. Thiên tai lũ lụt khiến họ

tin vào sức mạnh của Tản Viên Sơn Thánh. Kinh tế kém phát triển, họ mong

muốn phá vỡ vòng vây kinh tế, họ gửi gắm ước mơ vào một lực lượng siêu

nhiên Chử Đồng Tử - theo sách Lĩnh Nam Chích Quái, đó là người mở mang

thương nghiệp. Đất nước bị xâm lược, họ mong muốn được độc lập, nên đã

dựng lên hình ảnh vị Thánh Gióng với sức mạnh phi thường giúp họ thỏa khát

vọng, niềm tin chiến đấu chiến thắng mọi kẻ thù. Đó là những khát vọng

chính đáng của người dân. Họ muốn thay đổi cuộc đời của họ, nhưng đó

không phải là sự thay đổi bằng cách lao động, cải tạo hiện thực cuộc sống mà

bằng cách dựa vào một lực lượng siêu nhiêu, mong cầu ở đó sự che chở, giúp

đỡ.

Bên cạnh đó, các quan niệm về xã hội trong tín ngưỡng dân gian của

người Việt vùng Đồng bằng Bắc Bộ còn là sự biểu hiện của việc lợi dụng sự

linh thiêng của các vị thần, thánh để các tầng lớp thống trị trong xã hội đương

thời dễ bề cai quản nhân dân. Bàn về điều này, Nguyễn Đức Lữ viết, “Tín

ngưỡng Thành hoàng làng trước hết xuất phát không phải vì lợi ích của thứ

“dân” nơi bỉ dã, ngược lại nó góp phần làm thiêng liêng hơn vị thế và quyền

uy của hạng người đứng ở tầng lớp trên của xã hội” [66, tr.123]. Vấn đề ở đây

Page 152: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

147

đặt ra là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ xuất

hiện từ rất sớm, những tới thời phong kiến, nó phát triển mạnh mẽ nhất. Hiện

tượng thờ cúng, các sinh hoạt tín ngưỡng diễn ra thường xuyên ở các vùng

quê, không chỉ thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người, mà ở đó còn ẩn

chứa ngụ ý sử dụng thần, thánh để dễ bề cai quản thứ dân. Nói như nhận định

của Nguyễn Duy inh thì, “Thành hoàng đại diện cho vua thường được

phong tước vương, quản lý phần hồn; lý trưởng đại diện cho vua cai quản

phần xác của dân làng” [33, tr.57].

Như vậy, bên cạnh những giá trị tích cực trong quan niệm về xã hội

trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là những

hạn chế. Niềm tin mãnh liệt của con người vào sức mạnh siêu nhiên đã khiến

cho họ trở nên bị động, mong cầu vào sự che chở của các vị thần hơn là lao

động để thay đổi số phận, thay đổi cuộc đời. Tín ngưỡng dân gian của người

Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ dựng nên một bức tranh đa dạng, phong phú về

các mối quan hệ xã hội mà ở đó ảo lấn át thực, thần lấn át người, mang đầy

tính duy tâm, thần bí về xã hội.

Tiểu kết chƣơng 4

Các yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng

đồng bằng Bắc Bộ mang nhiều giá trị, đồng thời cũng có nhiều hạn chế. Các

giá trị tích cực trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc

Bộ phản ảnh tư duy sắc sảo của người Việt về tự nhiên, con người và xã hội,

góp phần định hướng, điều chỉnh hành vi, hướng thiện cho con người, xây

dựng khối đại đoàn kết toàn dân, để cùng hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn.

Đồng thời, thông qua các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian, đề cao ý thức hướng

về cội nguồn, khơi dậy lòng biết ơn đối với thế hệ đi trước. Bên cạnh những

giá trị tích cực là những hạn chế của các yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân

Page 153: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

148

gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đó là hạn chế trong các quan

niệm về tự nhiên, quan niệm về con người và quan niệm về xã hội. Có thể

nhận thấy rõ nét trong thế giới quan của người Việt được phản ánh trong tín

ngưỡng dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ đều mang màu sắc duy tâm, thần bí,

thể hiện trình độ nhận thức hạn chế mang tính kinh nghiệm, cảm tính. Cách

họ giải thích về tự nhiên, về con người và xã hội đều dựa trên những huyền

thoại có nguồn gốc dân gian. Xã hội và các mối quan hệ xã hội bị bao phủ bởi

màu sắc của thần linh. Do vậy, trên cơ sở nghiên cứu các yếu tố triết học

trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, rút ra

những giá trị và hạn chế của nó, góp phần không nhỏ trong việc định hướng

hoạt động tín ngưỡng dân gian của vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Page 154: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

149

KẾT LUẬN

Trên cơ sở nghiên cứu những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian

của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, tác giả có một số kết luận chung cơ

bản sau:

Một là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ là

một bộ phận của văn hóa dân gian Việt Nam, là yếu tố cơ bản của hình thái ý

thức xã hội, là một hiện tượng mang tính xã hội - lịch sử. Được hình thành

trên cơ sở của các yếu tố về điều kiện địa lý - tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã

hội, lịch sử, văn hóa và chịu sự ảnh hưởng, tác động của các yếu tố văn hóa,

tư tưởng đã làm cho tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc

Bộ vừa có những đặc điểm chung vừa có những đặc điểm riêng có của vùng.

Đặc biệt, khi các tôn giáo du nhập vào nước ta, tín ngưỡng dân gian của người

Việt đã có sự dung hợp cả những yếu tố tiêu cực và tích cực. Yếu tố tích cực

khiến cho tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ được

nâng lên một tầm cao mới cả về nội dung và hình thức. Yếu tố tiêu cực khiến

cho tín ngưỡng dân gian càng tăng thêm tính huyền bí và càng làm gia tăng

yếu tố mê tín dị đoan. Do vậy, có thể thấy rằng, trong suốt quá trình tồn tại,

tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đông bằng Bắc Bộ có sự biến đổi

không ngừng để tồn tại và phù hợp với nhu cầu của thực tiễn trên cả hai bình

diện tích cực và tiêu cực.

Hai là, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

chứa đựng nhiều yếu tố triết học. Nổi bật trong số đó là các quan niệm về tự

nhiên, về con người và về xã hội. Quan niệm về tự nhiên được phản ánh trong

tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ biểu hiện trong

việc giải thích về các yếu tố gắn liền với phương thức sản xuất nông nghiệp

của người dân. Đó là các yếu tố trời, đất, nước, cỏ cây,.. Tự nhiên được phản

ánh phong phú đa dạng, nhiều vẻ thông qua biểu tượng về sự tồn tại của các

Page 155: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

150

vị thần linh cai quản từng vùng. Bên cạnh các yếu tố về tự nhiên, yếu tố con

người cũng được phản ánh rõ nét, sinh động trong tín ngưỡng dân gian của

người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trong tín ngưỡng dân gian, con người

đều có hai phần là thể xác và linh hồn; con người được sinh ra, tồn tại và mất

là do sự cai quản của các vị thần nắm giữ vận mệnh. Trong quan niệm về xã

hội, tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ phản ánh xã

hội như một bức tranh sống động về thế giới các vị thần. Bức tranh đó phản

ánh xã hội đương thời sâu sắc. Đó là ước mơ bình quyền, giải phóng người

phụ nữ, là ý thức về dân tộc và độc lập chủ quyền, là tinh thần đoàn kết đấu

tranh chống giặc ngoại xâm. Bên cạnh đó, tín ngưỡng dân gian của người Việt

vùng đồng bằng Bắc Bộ còn phản ánh bức tranh chung về cộng đồng làng, xã.

Đó là sự cố kết cộng đồng, là nơi hình thành nên những chuẩn mực về đạo

đức, lối sống trọng tình, trọng nghĩa. Nó không chỉ phản ánh hiện thực cuộc

sống của nhân dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, mà nó còn góp phần điều chỉnh

hành vi của con người, hướng con người tới những giá trị nhân văn cao cả, tới

bến bờ của chân - thiện - mĩ.

Ba là, các yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt

vùng đồng bằng Bắc Bộ chứa đựng nhiều giá trị đồng thời cũng có nhiều yếu

tố hạn chế, có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh thần của nhân dân

vùng đồng bằng Bắc Bộ. Qua nghiên cứu cho thấy, giá trị tích cực của các

yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc

Bộ mang lại nhiều đóng góp cho xã hội. Nó góp phần định hướng nhận thức,

gắn kết cộng đồng, góp phần tô đẹp thêm giá trị nhân văn trong văn hóa của

người Việt. Đồng thời, sự tồn tại của tín ngưỡng dân gian góp phần gìn giữ

những giá trị bản sắc văn hóa riêng của người Việt. Tuy nhiên, các yếu tố triết

học trong tín ngưỡng dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ mang

màu sắc duy tâm nên cần phải chú ý khắc phục những tác động tiêu cực của

Page 156: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

151

nó. Vì, một mặt nó sẽ khiến con người trở nên thụ động, trông chờ vào sức

mạnh siêu nhiên; mặt khác, nó là ngọn nguồn của sự xuất hiện các hiện tượng

mê tín, dị đoan, buôn thần bán thánh, thương mại hóa các hoạt động tín

ngưỡng dân gian của vùng.

Do vậy, nghiên cứu các yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian của

vùng đồng Bằng Bắc Bộ có ý nghĩa cấp thiết, góp phần bảo tồn và phát huy

những giá trị tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực, gạn đục, khơi trong,

góp phần trong việc xây dựng thành công đời sống văn hóa mới trong thời kì

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa về hội nhập quốc tế hiện nay.

Page 157: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

[1]. Nguyễn Thị Cẩm Tú (2018), “Quan niệm về vai trò của người phụ nữ

trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Tuyển

tập Hội nghị Khoa học thường niên, Trường Đại học Thủy Lợi.

[2]. Nguyễn Thị Cẩm Tú (2018), “Quan niệm về tự nhiên trong tín ngưỡng

dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí Khoa học xã hội,

số 3, 2018, tr.82-90.

[3]. Nguyễn Thị Cẩm Tú (2017), “Quan niệm về con người trong tín ngưỡng

dân gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí Công tác Tôn

giáo, số 10 (134), 2017, tr.19-20;32.

[4]. Nguyễn Thị Cẩm Tú (2017), “Các yếu tố ảnh hưởng đến tín ngưỡng dân

gian của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt

Nam, số 6 (115), 2017, tr.32-39.

[5]. Nguyễn Thị Cẩm Tú (2016), “Tín ngưỡng dân gian trong đời sống tinh

thần của người Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (106),

2016, tr.71-75.

[6]. Nguyễn Thị Cẩm Tú (2015), “Ảnh hưởng của tín ngưỡng dân gian đến

đời sống tinh thần của người dân tỉnh Thái Bình hiện nay”, Tạp chí Công tác

Tôn giáo, số 1+2 (101,102), 2015, tr.78-82.

[7]. Nguyễn Thị Cẩm Tú (2013), “Giá trị nhân văn từ những lễ hội dân gian ở

tỉnh Thái Bình”, Nội san Nghiên cứu và trao đổi, trường Chính trị tỉnh Thái

Bình, 2013, tr.22-24.

Page 158: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb. Văn hoá thông

tin, à Nội.

2. Thái Văn Anh (2015), “Tín ngưỡng, tôn giáo và niềm tin tôn giáo ở Việt

Nam dưới góc độ Tâm lý học”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 3,

tr.89-98.

3. Toan Ánh (1991), Phong tục Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.

4. Toan Ánh (1992), Nếp cũ - Tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng, Nxb.

Thành phố ồ Chí Minh.

5. Toan Ánh (2005), Nếp cũ: Văn minh đồng ruộng, hội hè đình đám, Tết lễ

khao vọng, Con người Việt Nam, Nxb. Trẻ, Thành phố ồ Chí Minh.

6. Nguyễn Chí Bền (1999), Văn hoá dân gian Việt Nam, những suy nghĩ…,

Nxb. Văn hoá dân tộc, à Nội.

7. Phan Kế Bính (2014) Việt Nam Phong Tục, Nxb. Văn học, à Nội.

8. Bộ giáo dục và đào tạo (2003), Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb.

Chính trị quốc gia, à Nội.

9. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập (1994), t.20, Nxb. Chính trị quốc gia,

à Nội.

10. C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập (1998), t.46, ph.I, Nxb. Chính trị Quốc

gia, à Nội.

11. Paul Doumer (2016), Xứ Đông Dương, Nxb.Thế giới.

12. Trần Quang Dũng (2017), Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ - chốn thiêng nơi

cõi thực, Nxb. Thế giới, 2017.

13. Vũ Dũng (1998), Tâm lý học tôn giáo, Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.

14. Nguyễn Đăng Duy (1996); Văn hóa tâm linh, Nxb. à Nội, à Nội.

15. Nguyễn Đăng Duy (2000), “Cần đính chính lại cách gọi tín ngưỡng dân

gian”, Nghiên cứu tôn giáo, số 1, tr.65-66.

Page 159: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

16. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam,

Nxb. Văn hoá thông tin, à Nội.

17. Nguyễn ồng Dương (2010), “Một số vấn đề Tôn giáo ở Việt Nam”, Tạp

chí Nghiên cứu Tôn giáo, 85 (7), tr.14.

18. Trần Đức Dương (2010), “Phát huy những giá trị tích cực trong tín ngưỡng

thờ cúng Tổ tiên hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, 80 (2), tr.36-40.

19. Đại Việt sử kí toàn thư (1968), tập 4, bản dịch Viện Sử học, Nxb. Khoa

học xã hội, à Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, BCH TƯ

khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, à Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, BCH TƯ

khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, à Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, à Nội, tr.122-123.

23. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, à Nội , tr.51, tr.81, tr.245

24. Trần uy Đĩnh, Vũ Quang Liễn, Phạm Vũ Đỉnh, Vũ Quang Dũng (sưu

tầm) (2012), Sự tích Thành Hoàng làng ở Phú Xuyên, Hà Nội, Nxb. Lao

động, à Nội.

25. Phạm văn Đồng (1994), Văn hoá và đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, à

Nội.

26. Phạm Duy Đức (chủ biên) (2010), Phát triển văn hóa Việt nam giai đoạn

2011 - 2020: Những vấn đề phương pháp luận, xuất bản lần thứ 2, Nxb.

ành chính Quốc gia, à Nội.

27. Phạm Minh Đức, Bùi Duy Lan (2005), Nữ Thần và Thánh Mẫu Thái Bình,

Nxb. Văn hoá thông tin, à Nội.

Page 160: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

28. Trần Văn Giàu (1996), Sự phát triển của hệ tư tưởng Việt Nam từ thế kỉ

XIX đến cách mạng tháng Tám, Hệ ý thức phong kiến và sự hất bại của nó

trước các nhiệm vụ lịch sử, tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, à Nội.

29. Nguyễn Thị Lệ à (2017), “Các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam

thời kì hội nhập quốc tế”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (6), tr.82-91.

30. Nguyễn ùng ậu (2004), Triết lý trong văn hóa phương Đông, Nxb. Đại

học Sư phạm, à Nội.

31. Nguyễn ùng ậu (2010), Đại cương lịch sử triết học Việt Nam, Nxb.

Chính trị Quốc gia, à Nội.

32. Nguyễn Duy inh (1996), Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam, Nxb. Khoa

học xã hội, à Nội.

33. Nguyễn Duy inh (2004), “Thần làng và Thành hoàng”, Tạp chí Di sản

văn hóa, số 9, 2004, tr.56-63.

34. Lê Như oa (2001), Tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa

thông tin, à Nội.

35. Nguyễn Thị Anh oa (2011), “Tín ngưỡng dân gian vùng châu thổ Bắc Bộ

dưới góc nhìn du lịch học”, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 4 (37), tr.74-77.

36. ội đồng Trung Ương chỉ đạo biên soạn giáo trình chuẩn quốc gia (2004),

Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Chính trị quốc gia, à Nội.

37. ội đồng Trung Ương chỉ đạo biên soạn giáo trình chuẩn quốc gia các

môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng ồ Chí Minh (2004), Giáo trình

Triết học Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, à Nội.

38. ội đồng Trung Ương chỉ đạo biên soạn giáo trình chuẩn quốc gia các

môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng ồ Chí Minh (2014), Giáo trình

Triết học Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, à Nội.

39. Nguyễn Văn uyên (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, Nxb.

Khoa học xã hội, à Nội.

Page 161: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

40. Đặng Văn ường (2014), Tìm hiểu một số tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb.

Quân đội, à Nội.

41. Chu Hy (2009), Chuyện kể về làng quê người Việt, Nxb. Giáo dục, à

Nội.

42. Chu Hy (2010), Một số đền chùa nổi tiếng đất Thăng Long, Nxb. Phụ nữ,

à Nội.

43. Chu y, Nguyễn Như Ý (2011), Từ điển văn hóa phong tục cổ truyền Việt

Nam, Nxb. Giáo dục Việt Nam, à Nội.

44. Chu Hy (2012), Sổ tay kiến thức văn hóa dân gian Việt Nam, Nxb. Giáo

dục, tái bản lần thứ 2, à Nội.

45. Chu Hy (2014), Nếp quê xưa, Nxb. Phụ nữ, à Nội.

46. Nguyễn Thọ Khang (2013), “Đặc điểm và giá trị văn hóa của tín ngưỡng

dân gian ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 6, tr.27-32.

47. Đinh Gia Khánh, Lê ữu Tầng (chủ biên) (1994), Lễ hội truyền thống

trong xã hội hiện đại, Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.

48. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của

xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, à Nội.

49. Vũ Ngọc Khánh (1990), Lược truyện thần tổ các ngành nghề, Nxb. Khoa

học xã hội, à Nội.

50. Vũ Ngọc Khánh (1993), Tín ngưỡng làng xã, Nxb. Văn hóa dân tộc, à

Nội.

51. Vũ Ngọc Khánh (1995), Thờ cúng Thành hoàng làng ở đồng bằng Bắc Bộ,

Đề tài cấp bộ, Viện nghiên cứu Văn hóa dân gian, à Nội.

52. Vũ Ngọc Khánh (2000), Đền miếu Việt Nam, Nxb. Thanh niên, à Nội.

53. Vũ Ngọc Khánh, Mai Ngọc Chúc, Phạm ồng à (2002), Nữ thần và

Thánh Mẫu Việt Nam, Nxb Thanh niên, à Nội.

54. Vũ Ngọc Khánh (2007), Lễ hội Việt Nam, Nxb. Thanh niên, à Nội.

Page 162: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

55. Vũ Ngọc Khánh (2014), Tục thờ Thành - Mẫu ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa

thông tin, à Nội.

56. Khoa Nhân học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (2008), Nhân học

đại cương, Nxb. Đại học Quốc gia TP ồ Chi Minh.

57. Lê Thị Lan (2017), “Vai trò của tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng

sông ồng”, Tạp chí khoa học xã hội, số 2 (111), tr.71-76.

58. Lênin (1979), Toàn tập, tập 17, Nxb. Tiến Bộ, Matxcova.

59. Thanh Lê (2003), Từ điển xã hội học, Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.

60. ồ Liên (2002), Đôi điều về cái thiêng và văn hóa, Nxb. Văn hóa dân tộc,

à Nội.

61. Nguyễn Thanh Lợi (2014), Tín ngưỡng dân gian: những góc nhìn, Nxb.

Thời đại, à Nội.

62. Nguyễn Thanh Lợi (2015), Theo dòng văn hóa dân gian, Nxb. Khoa học

xã hội, à Nội.

63. Đặng Văn Lung (1991), Tam tòa thánh Mẫu, Nxb. Văn hóa dân tộc, à

Nội.

64. Nguyễn Đức Lữ (2000), “Thờ cúng Tổ tiên - một hiện tượng xã hội có tính

phổ biến”, Tạp chí Sinh hoạt Lý luận số xuân Canh Thìn (1/2000), tr.56.

65. Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) (2005), Những đặc điểm cơ bản của một số tôn

giáo lớn ở Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, à Nội.

66. Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) (2007), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân

gian ở Việt nam, Nxb. Tôn giáo, à Nội.

67. Lê ồng Lý (2010), Tìm hiểu lễ hội Hà Nội, Nxb. à Nội, à Nội.

68. Lê ồng Lý (2017), “Vai trò của văn hóa phi vật thể trong phát triển bền

vững của Việt Nam hiện nay - nhìn từ lễ hội truyền thống”, Tạp chí Di sản

văn hóa, số 3 (60), tr.10-14.

Page 163: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

69. Nguyễn Ngọc Mai (2011), Hiện tượng lên đồng trong bối cảnh mới

(nghiên cứu trường hợp ở đồng bằng Bắc Bộ), Viện hàn lâm Khoa học xã

hội, à Nội, luận án Tiến sĩ.

70. Doãn ữu Minh (2017), “Giá trị văn hóa của Thăng Long Tứ trấn”, Tạp

chí khoa học xã hội Việt Nam, số 8, tr.55-62.

71. ồ Chí Minh (2003), Về công tác tôn giáo, Nxb. Chính trị Quốc gia, à

Nội.

72. Nguyễn Văn Minh (2013), Tôn giáo, tín ngưỡng các dân tộc Việt Nam,

Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.

73. Nhiều tác giả (1999), Múa dân gian ở Thái Bình, Sở văn hoá thông tin

Thái Bình - Viện âm nhạc và múa Việt Nam.

74. Nhiều tác giả (2000), Hỏi và đáp về văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân

tộc, à Nội.

75. Nguyễn Tri Nguyên (2004) “Bản chất và đặc trưng của tín ngưỡng dân

gian trong lễ hội cổ truyền Việt Nam”, Tạp chí di sản và văn hóa, số 7,

tr.27-32.

76. Trần Thế Pháp (2017), Lĩnh nam chích quái, Nxb. Kim Đồng, à Nội.

77. ồ Sỹ Quý (2006), Về giá trị và giá trị châu Á, Nxb. Chính trị Quốc gia,

à Nội.

78. Trương ữu Quýnh (chủ biên) (2015), Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb.

Giáo dục Việt Nam, à Nội.

79. Nguyễn Minh San (1998), Tiếp cận tín ngưỡng dân giã Việt Nam, Nxb.

Văn hóa dân tộc, à Nội.

80. Trần Đăng Sinh, Đào Đức Doãn (2005), Giáo trình tôn giáo học, Nxb. Đại

học sư phạm à Nội, à Nội.

Page 164: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

81. Trần Đăng Sinh (2002), Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ

cúng tổ tiên ở Đồng bằng Bắc Bộ hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia à

Nội.

82. à Văn Tăng, Trương Thìn (chủ biên) (1999), Tín ngưỡng và mê tín, Nxb.

Thanh niên, à Nội.

83. Nhất Thanh, Vũ Văn Khiêu (1992), Đất lề quê thói - Phong tục Việt Nam,

Nxb. Đồng Tháp.

84. Nguyễn Thanh (1998), Nhận diện văn hoá làng Thái Bình, Sở văn hoá

thông tin và thể thao Thái Bình.

85. Nguyễn Thanh (2000), Lễ hội truyền thống ở Thái Bình, Nxb. Khoa học xã

hội, à Nội.

86. Phạm Minh Thảo, Trần Thị An, Bùi Xuân Mỹ (1997), Thành hoàng Việt

Nam, 2 tập, Nxb. Văn hoá Thông tin, à Nội

87. Đinh Ngọc Thắng (2015), “Quyền tự do tín ngưỡng trong pháp luật quốc

tế và pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, (3).

88. ồ Bá Thâm (2005), “Tín ngưỡng dân gian - một linh vực đời sống tâm

linh - rất cần sự quan tâm của toàn xã hội”, Nghiên cứu tôn giáo, (4), tr.9-

13.

89. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb.

Thành phố ồ Chí Minh.

90. Trần Ngọc Thêm (2011), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, à

Nội.

91. Trần Ngọc Thêm (chủ biên) (2016), Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống

đến hiện đại và con đường đi tới tương lai, Nxb. Văn hóa Nghệ thuật.

92. Trương Thìn (2005), Tôn trọng tự do tín ngưỡng và bài trừ mê tín dị đoan,

Nxb. Văn hóa thông tin, à Nội.

Page 165: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

93. Ngô Đức Thịnh (1992), "Tục thờ Mẫu Liễu ạnh - một sinh hoạt tín

ngưỡng cộng đồng", Tạp chí văn học số 5 (275), tr.17 - 23.

94. Ngô Đức Thịnh, Văn hóa và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb. Khoa

học xã hội, 1993

95. Ngô Đức Thịnh (1996), Đạo Mẫu ở Việt Nam, tập 1;2, Nxb. Văn hoá

thông tin, à Nội.

96. Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt Nam,

Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.

97. Ngô Đức Thịnh (2001), Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc

người ở Việt Nam và Châu Á, Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.

98. Ngô Đức Thịnh (2007), Về tín ngưỡng và lễ hội, Nxb. Văn hóa thông tin,

à Nội.

99. Ngô Đức Thịnh (2008), Lên đồng, hành trình của thần linh và thân phận,

Nxb. Trẻ, à Nội.

100. Ngô Đức Thịnh (2010), Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn

hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, Nxb. Khoa học xã

hội, à Nội.

101. Ngô Đức Thịnh (2014), Tín ngưỡng và sinh hoạt văn hóa cộng đồng.

Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.

102. Ngô Đức Thịnh (2014), Giá trị văn hóa Việt Nam - truyền thống và

biến đổi, Nxb. Chính trị quốc gia, à Nội.

103. Nguyễn Thị Thọ (2017), “Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt”, Tạp

chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8, tr.48-55.

104. Nguyễn ữu Thông (chủ biên) (2001), Tục thờ Mẫu ở miền Trung Việt

Nam, Nxb. uế.

Page 166: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

105. Nguyễn ữu Thụ (2012), “Về cơ sở hình thành và phát triển của tín

ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ”, Tạp chí Nghiên

cứu Tôn giáo, số 1, tr.20-32.

106. Nguyễn ữu Thụ (2013), Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ

Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, Luận án Tiến sĩ Triết học, Đại

học Khoa học xã hội và nhân văn, Đ QG à Nội.

107. Đinh Khắc Thuân (2014), “Thờ cúng Thành hoàng Việt Nam qua tài

liệu án nôm” Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4, tr.115-125.

108. Nguyễn Đăng Thục (1964), Tư tưởng Việt nam, Nxb. Khai trí, Sài

Gòn.

109. Đỗ Thị Minh Thúy (2010), “Biến động của tín ngưỡng Thăng Long -

à Nội và ảnh hưởng của nó trong đời sống văn hóa đô thị hiện nay”, Tạp

chí Nghiên cứu Tôn giáo, 86 (8), tr.33-39.

110. Trần Thị Ngọc Thúy (2010), “Tôn giáo là sự tự ý thức đã bị tha hóa của

con người”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, 86 (8), tr.3-6.

111. Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, T.I,

Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.

112. Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, Viện ngôn ngữ học (1992), Từ điển

Tiếng Việt, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn, à Nội.

113. Trần Quốc Tuấn (2015), Tín ngưỡng thờ thủy thần ở Hải Phòng. Luận

án tiến sĩ Văn hóa học, ọc viện Khoa học xã hội Việt Nam.

114. Lê Thanh Tùng (2012), Lễ hội cổ truyền cư dân ven biển Hải Phòng

và sự biến đổi trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ, Viện Văn hóa

nghệ thuật Việt Nam.

115. Tuyển tập tục ngữ ca dao Việt Nam (2001), Nxb. Văn học, à Nội.

116. T.Thích Thanh Từ (2005), Phật giáo trong mạch sống dân tộc, Nxb.

Tôn giáo, à Nội.

Page 167: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

117. Nguyễn Minh Tường (2013), “Tín ngưỡng thờ Thành hoàng trong các

làng xã Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội, số 10 (71), tr.96-103.

118. Đặng Nghiêm Vạn (1996), Về tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam hiện nay,

Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.

119. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở

Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, à Nội.

120. Viện án Nôm (1991), Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb. Khoa

học xã hội, à Nội.

121. Lê Trung Vũ (1992), Lễ hội cổ truyền, Nxb. Khoa học xã hội, à Nội.

122. Lê Trung Vũ, Lê ồng Lý (đồng chủ biên) (2005), Lễ hội Việt Nam,

Nxb. Văn hóa Thông tin, à Nội.

123. Nguyễn ữu Vui (chủ biên) (2004), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị

Quốc gia, à Nội.

124. Trần Quốc Vượng (1996), Theo dòng lịch sử, Nxb. Văn hóa, à Nội.

125. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb.

Đại học quốc gia, à Nội.

126. Lý Tế Xuyên (1960), Việt điện u linh tập, Nxb. Khai Trí, Sài Gòn, Bản

dịch của Lê ữu Mục.

127. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Bộ giáo

dục và đào tạo - Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam.

128. http://www.baogiaothong.vn/ky-2-dang-vien-hanh-nghe-me-tin-chinh-

quyen-khong-hay-d83968.html

129. http://www.24h.com.vn/an-ninh-hinh-su/nhung-vu-an-dau-xe-long-vi-

tin-loi-thay-boi-c51a921183.html

130. http://baophapluat.vn/xa-hoi/nhung-cai-chet-oan-uong-vi-tin-loi-thay-

boi-141922.html

Page 168: LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC - gass.edu.vn · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi _____ nguyỄn thỊ cẨm tÚ nhỮng yẾu

131. https://vnexpress.net/tin-tuc/cong-dong/8-000-le-hoi-moi-nam-khien-

nguoi-viet-tut-hau-2952576.html