Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Vũ Thị Thƣơng
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN, MỐI QUAN HỆ
CỦA CÁC LOÀI CÔN TRÙNG BẮT MỒI VỚI SÂU HẠI
TRÊN CÂY CHÈ Ở PHÚ THỌ VÀ ẢNH HƢỞNG
CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ SINH THÁI LÊN CHÚNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC
HÀ NỘI - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Vũ Thị Thƣơng
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN, MỐI QUAN HỆ
CỦA CÁC LOÀI CÔN TRÙNG BẮT MỒI VỚI SÂU HẠI
TRÊN CÂY CHÈ Ở PHÚ THỌ VÀ ẢNH HƢỞNG
CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ SINH THÁI LÊN CHÚNG
Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 9 42 01 20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS Trương Xuân Lam
2. PGS. TS. Nguyễn Thị Phương Liên
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả công bố trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì một
công trình nghiên cứu nào khác. Các kết quả nghiên cứu có sự phối hợp với tác giả
khác đã được đồng ý sử dụng bằng văn bản. Các tài liệu trích dẫn đã được chỉ rõ
nguồn gốc và mọi sự giúp đỡ đã được cảm ơn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Tác giả
Vũ Thị Thƣơng
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án này, trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
PGS.TS. Trương Xuân Lam và PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Liên – Viện Sinh Thái và
Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, đã tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện luận án.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm
khoa và các đồng nghiệp trong Khoa Sinh - Kỹ thuật nông nghiệp, các Phòng, Ban
của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong
suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận án.
Trong thời gian học tập, thực hiện luận án tại Viện Sinh Thái và tài Nguyên
Sinh vật, Học viện Khoa học và Công nghệViệt Nam, tôi luôn nhận được sự giúp đỡ,
động viên và tạo điều kiện của các thầy, cô, các nghiên cứu viên, các chuyên viên của
phòng Sinh thái côn trùng, phòng Đào tạo… Nhân dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu
sắc sự quan tâm và giúp đỡ quý báu đó.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn đến các cán bộ công tác tại trạm Bảo vệ thực
vật huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ, các cán bộ công tác tại Nông trường chè Phúc
Khánh, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi trong
suốt quá trình điều tra, bố trí thí nghiệm ngoài thực địa.
Tôi xin chân thành cảm ơn anh em, bạn bè, đồng nghiệp đã ủng hộ, động viên
và tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện luận án.
Đặc biệt, tôi bày tỏ lòng cảm ơn đến bố, mẹ, chồng, con và gia đình hai bên
nội, ngoại đã động viên và tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận án.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Tác giả
Vũ Thị Thương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………...…….………………....…1
1. Lý do lựa chọn đề tài…………………………………...………...…………...…..1
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn ................................................................... 3
3. Mục đích của đề tài .................................................................................................. 3
4. Những đóng góp mới của đề tài .............................................................................. 3
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ TỔNG QUAN TÀI LIỆU ......................... 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài ..................................................................................... 4
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ......................................................................... 5
1.2.1. Các nghiên cứu trên thế giới...................................................................5
1.2.1.1. Những nghiên cứu về thành phần sâu hại trên chè, mức độ phổ biến và
diễn biến mật độ của một số loài hại chính trên chè .......................................... 5
1.2.1.2. Những nghiên cứu về thành phần côn trùng bắt mồi và diễn biến mật
độ một số loài côn trùng bắt mồi phổ biến trên chè ......................................... 10
1.2.1.3. Nghiên cứu mối quan hệ của một số loài côn trùng bắt mồi với vật mồi
là sâu hại chính trên chè ................................................................................... 13
1.2.1.4. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái lên sâu hại,
côn trùng bắt mồi và mối quan hệ của chúng trên chè .................................... 16
1.2.2. Những nghiên cứu ở trong nước ......................................................... 20
1.2.2.1. Những nghiên cứu về thành phần sâu hại trên chè, mức độ phổ biến và
diễn biến mật độ của một số loài hại chính trên chè ........................................ 20
1.2.2.2. Những nghiên cứu về thành phần côn trùng bắt mồi và diễn biến mật
độ một số loài côn trùng bắt mồi phổ biến trên chè ......................................... 22
1.2.2.3. Nghiên cứu mối quan hệ của một số loài côn trùng bắt mồi với vật mồi
là sâu hại chính trên chè ................................................................................... 25
1.2.2.4. Những nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái lên sâu hại, côn
trùng bắt mồi và mối quan hệ giữa chúng trên chè ......................................... 25
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU......................... 33
2.1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 33
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................... 33
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 33
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu ..................................................................... 33
2.2.1. Thời gian nghiên cứu .......................................................................... 33
2.2.2. Địa điểm nghiên cứu ........................................................................... 34
2.3. Nội dung nghiên cứu ........................................................................................... 35
2.4. Vật liệu và dụng cụ nghiên cứu ......................................................................... 35
2.5. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................... 36
2.5.1. Nghiên cứu thành phần sâu hại trên chè, mức độ xuất hiện và diễn biến
mật độ của một số loài sâu hại phổ biến tại địa điểm nghiên cứu. ................. 36
2.5.1.1. Điều tra thành phần sâu hại chè và mức độ xuất hiện ........................ 36
2.5.1.2. Điều tra diễn biến mật độ của một số sâu hại chính trên chè tại địa
điểm nghiên cứu ................................................................................................ 37
2.5.2. Điều tra thành phần côn trùng bắt mồi, vật mồi của chúng và diễn biến
mật độ của chúng ở trên chè tại địa điểm nghiên cứu .................................... 38
2.5.2.1. Điều tra thành phần côn trùng bắt mồi, vật mồi của chúng ................ 38
2.5.2.2. Điều tra diễn biến mật độ một số loài côn trùng bắt mồi phổ biến trên
chè ..................................................................................................................... 40
2.5.3.Nghiên cứu mối quan hệ của côn trùng bắt mồi với vật mồi là sâu hại chè
tại địa điểm nghiên cứu ................................................................................. 40
2.5.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố sinh thái lên sâu hại, côn
trùng bắt mồi trên chè và mối quan hệ giữa chúng tại địa điểm nghiên cứu. . 41
2.5.4.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của giống chè .................................................. 41
2.5.4.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của cây che bóng ............................................ 42
2.5.4.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của biện pháp chăm sóc .............................. 43
2.5.4.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của kĩ thuật hái chè .................................... 44
2.5.4.5. Nghiên cứu ảnh hưởng của biện pháp đốn chè ................................ 44
2.6. Phƣơng pháp xử lý số liệu .................................................................................. 36
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ................................ 48
3.1. Nghiên cứu thành phần sâu hại, mức độ xuất hiện và diễn biến mật độ của
một số loài hại chính trên chè tại tỉnh Phú Thọ ...................................................... 48
3.1.1. Thành phần sâu hại chè và mức độ xuất hiện của sâu hại chè ............. 48
3.1.2. Nghiên cứu diễn biến mật độ của một số loài côn trùng gây hại phổ biến
trên chè tại Hương xạ, Hạ Hòa, Phú Thọ ..................................................... 53
3.1.2.1. Diễn biến mật độ của rầy xanh Empoasca flavercens Fabricius ........ 53
3.1.2.2. Diễn biến mật độ bọ trĩ Physothrips sentiventris Bagnall .................. 55
3.1.2.3. Diễn biến mật độ rệp muội nâu đen Toxoptera aurantii Fonscolombe
.......................................................................................................................... 56
3.1.2.4. Diễn biến mật độ tập hợp sâu cánh vẩy .............................................. 58
3.2. Nghiên cứu thành phần côn trùng bắt mồi, vật mồi của chúng, mức độ xuất
hiện và diễn biến mật độ của một số loài côn trùng bắt mồi trên chè tại Hƣơng
Xạ, Hạ Hòa, Phú Thọ................................................................................................. 59
3.2.1. Thành phần côn trùng bắt mồi, vật mồi của chúng và mức độ xuất hiện
..................................................................................................................... 59
3.2.2. Diễn biến mật độ loài côn trùng bắt mồi phổ biến trên chè tại Hương xạ,
Hạ Hòa, Phú Thọ ......................................................................................... 68
3.2.2.1. Diễn biến mật độ loài bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus
croceovittatus Dohrn ......................................................................................... 68
3.2.2.2. Diễn biến mật độ bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Orius sauteri (Poppius)69
3.2.2.3. Diễn biến mật độ tập hợp bọ xít bắt mồi .............................................. 70
3.2.2.4. Diễn biến mật độ bọ rùa đỏ Micraspis discolor Fabricius .................. 72
3.2.2.5. Diễn biến mật độ bọ rùa 6 vằn Menochilus sexmaculatus Fabricius .. 73
3.3. Mối quan hệ của một số loài côn trùng bắt mồi chính với vật mồi (Sâu hại chè
chính) tại Hương Xạ, Hạ Hòa, Phú Thọ ...................................................................... 76
3.3.1. Mối quan hệ giữa một số loài bọ xít bắt mồi phổ biến và vật mồi của
chúng trên chè .............................................................................................. 76
3.3.1.1. Mối quan hệ giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Orius sauteri (Poppius)
với bọ trĩ Physothrips setiventris Bagnall ........................................................ 78
3.3.1.2. Mối quan hệ giữa bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus
Dohrn với tập hợp sâu cánh vẩy hại chè .......................................................... 80
3.3.2. Mối quan hệ giữa một số loài bọ rùa phổ biến với rệp muội nâu đen
Toxoptera aurantii Fonscolombe .................................................................. 82
3.3.2.1. Mối quan hệ giữa bọ rùa đỏ Micraspis discolor (Fabricius) với rệp
muội nâu đen Toxoptera aurantii Fonscolombe............................................... 83
3.3.2.2. Mối quan hệ giữa bọ rùa 6 vằn Menochilus sexmaculatus (Fabricius)
với rệp muội nâu đen Toxoptera aurantii Fonscolombe .................................. 85
3.4. Ảnh hƣởng của một số yếu tố sinh thái lên mật độ và mối quan hệ của một
số loài côn trùng bắt mồi với sâu hại chính trên chè tại Phú Thọ ......................... 87
3.4.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của giống chè lên mật độ và mối quan hệ của
một số loài côn trùng bắt mồi với sâu hại chính ............................................ 87
3.4.1.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của giống chè lên mật độ của một số loài côn
trùng bắt mồi với sâu hại chính ........................................................................ 87
3.4.1.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của giống chè lên mối quan hệ giữa một số
loài côn trùng bắt mồi với sâu hại chính trên chè tại Phú Thọ ........................ 96
3.4.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của cây che bóng lên mật độ và mối quan hệ của
một số loài côn trùng bắt mồi với sâu hại chính ............................................ 98
3.4.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của biện pháp chăm sóc lên mật độ và mối quan
hệ của một số loài côn trùng bắt mồi với sâu hại chính ............................... 103
3.4.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của kĩ thuật hái chè lên mật độ và mối quan hệ
của một số loài côn trùng bắt mồi với sâu hại chính .................................... 107
3.4.5. Nghiên cứu ảnh hưởng của phương thức và thời gian đốn lên mật độ và
mối quan hệ của một số loài côn trùng bắt mồi với sâu hại chính ................ 112
3.4.5.1. Ảnh hưởng của kĩ thuật đốn ............................................................... 112
3.4.5.2. Ảnh hưởng của thời gian đốn ............................................................ 117
3.4.6. Ảnh hưởng của của một số thuốc trừ rầy thường dùng đến mật độ một số
loài côn trùng bắt mồi trên chè tại Yên Lập, Phú Thọ ................................. 124
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ...................................................................................... 128
Kết luận ..................................................................................................................... 128
Đề nghị ...................................................................................................................... 128
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 133
Tài liệu tham khảo tiếng Việt ................................................................................. 133
Tài liệu tham khảo tiếng nƣớc ngoài ...................................................................... 137
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu Diễn gải
CT Công thức
IPM Intergrated Pest Managenment – Quản lý dịch hại tổng hợp
ICM Intergrated Crop Managenment – Quản lý cây trồng tổng hợp
STT Số thứ tự
THBXBM Tập hợp bọ xít bắt mồi
THBRBM Tập hợp bọ rùa bắt mồi
HSTQ Hệ số tương quan
MĐ Mật độ
TL Tỷ lệ
NSP Ngày sau phun
CCB Có che bóng
KCB Không che bóng
LSD0,05 Least Significant Difference – Sự sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa
thống kê ở mức ý nghĩa 0,05
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Mật độ chung của nhện lớn bắt mồi trên cây chè với số lần phun thuốc
hóa học trừ sâu khác nhau (Phú Hộ, Phú Thọ, 1999) ............................................. 29
Bảng 1.2. Mật độ bọ rùa đỏ trên cây chè ở các điều kiện phun thuốc hóa học trừ
sâu khác nhau (Phú Hộ, Phú Thọ, 1999) ............................................................... 30
Bảng 2.1. Thời gian tiến hành thu mẫu nghiên cứu thành phần loài ....................... 34
Bảng 2.2. Danh sách các điểm thu mẫu ở tỉnh Phú Thọ ......................................... 35
Bảng 2.3. Các loại thuốc trừ sâu và liều lượng sử dụng ......................................... 45
Bảng 3.1. Thành phần và mức độ xuất hiện sâu hại chè tại tỉnh Phú Thọ ............... 48
Bảng 3.2. Số lượng các loài sâu hại chè đã được ghi nhận ở Phú Thọ qua các giai
đoạn ................................................................................................................... 52
Bảng 3.3. Thành phần côn trùng bắt mồi vật mồi của chúng và mức độ xuất hiện
trên chè tại Phú Thọ (2014- 2016) ........................................................................ 59
Bảng 3.4. Số lượng các loài côn trùng bắt mồi ghi nhận trên chè tại Phú Thọ ........ 64
Bảng 3.5. Số lượng và tỷ lệ của giống, loài côn trùng bắt mồi trên chè tại Phú Thọ ..... 67
Bảng 3.6. Hệ số tương quan giữa bọ xít bắt mồi và vật mồi của chúng trên chè tại
Phú Thọ .............................................................................................................. 77
Bảng 3.7. Hệ số tương quan giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Orius sauteri với vật
mồi (Bọ trĩ Physothrips setiventris) qua các giai đoạn điều tra trên chè .................. 78
Bảng 3.8. Hệ số tương quan giữa bọ xít cổ ngỗng đen Sycanus croceovittatus với
vật mồi (Tập hợp sâu cánh vẩy) qua các giai đoạn điều tra trên chè ....................... 80
Bảng 3.9. Hệ số tương quan giữa mật độ bọ rùa bắt mồi phổ biến với mật độ rệp
muội hại trên cây chè ở các giai đoạn điều tra tại Phú Thọ ................................... 82
Bảng 3.10. Ảnh hưởng của các giống chè đến mật độ của bọ xít nâu đen nhỏ bắt
mồi (Orius sauteri) và vật mồi (bọ trĩ Physothrips setiventris) trên chè tại Phú
Thọ trong năm 2016 ............................................................................................ 88
Bảng 3.11. Ảnh hưởng của giống chè đến mật độ của bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi
(Sycanus croceovittatus) và vật mồi (tập hợp sâu hại cánh vẩy) trên chè tại Phú
Thọ trong năm 2016 ............................................................................................ 89
Bảng 3.12. Ảnh hưởng của các giống chè đến mật độ của tập hợp bọ xít bắt mồi
và vật mồi (rầy xanh Empoasca flavescens) trên chè tại Phú Thọ trong năm 2016 .. 91
Bảng 3.13. Ảnh hưởng của giống chè đến mật độ của một số loài bọ rùa bắt mồi
với vật mồi (rệp muội Toxoptera theicola) trên chè tại Phú Thọ trong năm 2016 . 933
Bảng 3.14. Ảnh hưởng của giống chè đến mối quan hệ giữa một số loài côn trùng
bắt mồi và vật mồi (sâu hại chính) trên chè tại Phú Thọ năm 2016 ........................ 96
Bảng 3.15. Ảnh hưởng của cây che bóng đến mật độ của một số loài côn trùng bắt
mồi và vật mồi (sâu hại chính) trên chè tại Phú Thọ .............................................. 98
Bảng 3.16. Ảnh hưởng của cây che bóng đến mối quan hệ giữa một số loài côn
trùng bắt mồi với vật mồi (sâu hại chính) trên chè tại Phú Thọ năm 2016 ............ 102
Bảng 3.17. Ảnh hưởng của biện pháp chăm sóc lên mật độ giữa một số loài côn
trùng bắt mồi với vật mồi (sâu hại chính) trên chè tại Phú Thọ trong năm 2016 ..... 103
Bảng 3.18. Ảnh hưởng của biện pháp chăm sóc lên mối quan hệ giữa một số loài
côn trùng bắt mồi với sâu hại chính trên chè tại Phú Thọ .................................... 106
Bảng 3.19. Ảnh hưởng của kĩ thuật hái chè lên mật độ của một số loài côn trùng
bắt mồi và vật mồi (sâu hại chính) trên chè tại Phú Thọ năm 2016 ......................... 108
Bảng 3.20. Ảnh hưởng của kĩ thuật hái chè lên mối quan hệ giữa một số loài côn
trùng bắt mồi với vật mồi (sâu hại chính) trên chè tại Phú Thọ năm 2016 ............ 111
Bảng 3.21. Ảnh hưởng của kĩ thuật đốn lên mật độ của một số loài côn trùng bắt
mồi và sâu hại chính trên chè tại Phú Thọ trong năm 2016 ..................................... 112
Bảng 3.22. Ảnh hưởng của kĩ thuật đốn lên mối quan hệ giữa một số loài côn
trùng bắt mồi với vật mồi (sâu hại chính) trên chè tại Phú Thọ năm 2016 ............ 116
Bảng 3.23. Ảnh hưởng của thời gian đốn lên mật độ của một số loài côn trùng bắt
mồi và sâu hại chính trên chè tại Phú Thọ trong năm 2016 .................................. 118
Bảng 3.24 . Ảnh hưởng của thời gian đốn lên mối quan hệ giữa một số loài côn
trùng bắt mồi với vật mồi (sâu hại chính) trên chè tại Phú Thọ năm 2016 ............ 123
Bảng 3.25. Mật độ trung bình của rầy xanh ở các công thức phun thuốc khác nhau
tại nông trường chè Phúc Khánh, Yên Lập, Phú Thọ .......................................... 125
Bảng 3. 26. Ảnh hưởng của một số loại thuốc trừ rầy thường dùng đến tập hợp bọ
rùa bắt mồi tại nông trường chè Phúc Khánh, Yên Lập, Phú Thọ......................... 126
Bảng 3. 27. Ảnh hưởng của một số loại thuốc trừ rầy thường dùng đến tập
hợp bọ xít bắt mồi tại nông trường chè Phúc Khánh, Yên Lập, Phú Thọ ...... 126
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Sử dụng bẫy hố để thu bắt mẫu kiến bắt mồi trên chè ............................ 39
Hình 2.2. Bẫy tổ đặt trên cây che bóng ở ruộng chè .............................................. 39
Hình 2.3. Vị trí điểm điều tra và vị trí cây che bóng ở công thức thí nghiệm .......... 42
Hình 3.1. Diễn biến mật độ rầy xanh Empoasca flavercens trên chè lai LDP1, 3
tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ ..................................................................................... 53
Hình 3.2. Diễn biến mật độ bọ trĩ Physothrips sentiventris trên chè lai LDP1, 3
tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ ..................................................................................... 55
Hình 3.3. Diễn biến mật độ rệp Toxoptera aurantii trên chè LDP1, 3 tuổi tại Hạ
Hòa, Phú Thọ ...................................................................................................... 56
Hình 3.4. Diễn biến mật độ tập hợp sâu cánh vẩy hại chè LDP1, 3 tuổi tại Hạ
Hòa, Phú Thọ ...................................................................................................... 58
Hình 3.5. Hình thái ngoài của loài Polistes communalis Nguyen, Vu & Carpenter,
2017 ............................................................................................................................ 66
Hình 3.6. Diễn biến mật độ loài bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi (Sycanus
croceovittatus) trên chè lai LDP1, 3 tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ .............................. 68
Hình 3.7. Diễn biến mật độ loài bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi (Orius sauteri) trên
chè lai LDP1, 3 tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ............................................................. 70
Hình 3.8. Diễn biến mật độ tập hợp bọ xít bắt mồi trên chè lai LDP1, 3 tuổi tại Hạ
Hòa, Phú Thọ ...................................................................................................... 71
Hình 3.9. Diễn biến mật độ bọ rùa đỏ Micraspis discolor trên chè chè lai LDP1, 3
tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ ..................................................................................... 72
Hình 3.10. Diễn biến mật độ bọ rùa 6 vằn Menochilus sexmaculatus trên chè lai
LDP1, 3 tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ ....................................................................... 74
Hình 3.11. Diễn biến mật độ tập hợp bọ rùa bắt mồi trên chè lai LDP1, 3 tuổi tại Hạ
Hòa, Phú Thọ .............................................................................................................. 75
Hình 3.12. Mối quan hệ giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi với bọ trĩ trên chè tại Phú
Thọ .............................................................................................................................. 79
Hình 3.13. Mối quan hệ giữa bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi và tập hợp sâu hại cánh
vẩy trên chè tại Phú Thọ ............................................................................................. 81
Hình 3.14. Mối quan hệ giữa bọ rùa đỏ với rệp muội nâu đen tại Phú Thọ
..................................................................................................................................... 84
Hình 3.15. Mối quan hệ giữa bọ rùa đỏ 6 vằn bắt mồi với rệp muội nâu đen tại Phú
Thọ .............................................................................................................................. 86
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Chè là cây trồng chủ yếu và được mệnh danh là “cây làm giàu” của nông dân
khu vực trung du và miền núi phía Bắc. Diện tích chè ở khu vực trung du và miền núi
phía Bắc chiếm 80% cả nước, 20% còn lại rải rác ở một số tỉnh khu vực Tây Nguyên.
Theo số liệu của tổng cục thống kê, năm 2015 tổng diện tích chè ước tính đạt 134,7
nghìn ha, tăng 1,6% so với năm 2014; sản lượng chè búp đạt 1 triệu tấn, tăng 1,9% so với
năm 2014. Việt Nam hiện đang là 1 trong 5 nước xuất khẩu chè lớn nhất thế giới cùng với
Ấn Độ, Trung Quốc, Srilanka và Kenya, sản phẩm chè của Việt Nam đã có mặt tại 61 quốc
gia trên thế giới (Agroviet, 2012) [152].
Trong quá trình mở rộng diện tích trồng chè, thâm canh tăng năng suất đã làm
cân bằng sinh học bị phá vỡ, sâu bệnh hại chè gia tăng, mức độ gây hại ngày càng
lớn. Để phòng trừ các loại dịch hại trên cây chè, đa số nông dân chỉ sử dụng biện
pháp phun thuốc bảo vệ thực vật hóa học và phun nhiều lần trong vụ. Thành phần sâu
hại chính trên chè thường xuyên phải phòng trừ là bọ xít muỗi, rầy xanh, bọ trĩ và
nhện đỏ. Năm 2015, diện tích nhiễm bọ xít muỗi trên 20 ngàn ha, diện tích nhiễm rầy
xanh trên 28 ngàn ha, diện tích nhiễm bọ trĩ trên 17 ngàn ha, diện tích nhiễm nhện đỏ
là 7,5 ngàn ha. Để phòng trừ các loài dịch hại này người nông dân sử dụng thuốc hóa
học với nồng độ cao hơn hướng dẫn chiếm 49%; 64% nông dân sử dụng hỗn hợp 2
loại thuốc khi phun và có 14% nông dân sử dụng hỗn hợp 3 loại thuốc khi phun. Trong
khi nông dân không hề biết việc phun hỗn hợp làm tăng nồng độ thuốc lên rất nhiều lần;
gần 50% nông dân phun trên 7 lần/vụ, có những hộ nông dân phun tới 4 lần/1 tháng gây
lãng phí trong sử dụng thuốc, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng lớn tới thiên địch và
mất an toàn thực phẩm cho sản phẩm chè (Agroviet, 2012) [152]
Trong công tác phòng chống sinh vật hại để bảo vệ cây chè thì nhu cầu sử
dụng hóa chất, phân bón và các chất điều hòa sinh trưởng vẫn không ngừng gia tăng
và trở thành một thói quen của người nông dân trong công tác trồng chè. Việc gia
tăng quá mức số lần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hoá học không chỉ tiêu diệt các
loài sâu hại chè mà còn làm xuất hiện nhiều loài sâu hại nguy hiểm khác, một số loài
sâu hại thứ yếu gia tăng số lượng và trở thành các loài hại chủ yếu, làm suy giảm tài
nguyên thiên địch của sâu hại trong tự nhiên, nhiều loài côn trùng bắt mồi, côn trùng
ký sinh trước đây là loài phổ biến có vai trò tích cực trong điều hòa số lượng sâu hại
phổ biến trên chè, đến nay hoặc là biến mất hoặc chỉ xuất hiện với mức độ xuất hiện
2
rất thấp không còn phát huy vai trò trong đấu tranh với sâu hại nhất là các loài thuộc
nhóm bọ xít bắt mồi, bọ rùa và bọ cánh cứng bắt mồi khác. Hơn nữa, nhiều loài côn
trùng bắt mồi sống sót sau khi phun thuốc, khả năng sinh sản, tuổi thọ và tập tính bắt
mồi bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Thêm vào đó nơi trú ngụ, trốn tránh cũng như nguồn
cung cấp thức ăn cho các loài côn trùng bắt mồi ngày càng bị thu hẹp. Kết quả dẫn
đến không chỉ càng làm gia tăng sự mất cân bằng sinh thái mà còn làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tính đa dạng sinh học loài của nhóm côn trùng bắt mồi.
Đời sống ngày càng được nâng cao, yêu cầu về sản phẩm sạch ngày càng bức
thiết. Qui trình Viet GAP trên chè được công bố lần đầu tiên năm 2008, trong đó nêu
rõ ưu tiên sử dụng biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) và quản lý cây trồng
tổng hợp (ICM), việc sử dụng biện pháp sinh học luôn luôn được khuyến khích. Một
trong các nội dung của biện pháp sinh học là nghiên cứu về thành phần côn trùng bắt
mồi và lợi dụng chúng như là một tác nhân trong đấu tranh sinh học. Vấn đề này đã
được nghiên cứu trên nhiều cây trồng như lúa, ngô, đậu tương, lạc và rau màu. Nhiều
loài côn trùng bắt mồi đã được nhân nuôi và thả bổ sung ra đồng ruộng như bọ xít
nâu nhỏ bắt mồi Orius sauteri (Poppius) được nhân nuôi trên mầm hạt đậu trắng với
thức ăn là bọ trĩ. Chúng được sử dụng để khống chế bọ trĩ hại dưa chuột tại Gia Lâm
– Hà Nội cho kết quả tốt, số lượng bọ trĩ được khống chế suốt vụ không vượt quá
ngưỡng gây hại (không cần phun thuốc) năng suất không kém vụ trước, mẫu mã quả
đẹp (Nguyễn Thị Kim Oanh, 2009) [153]. Nhân nuôi thành công bọ xít bắt mồi
Andrallus spinidens (Fabricius), bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus
Dohrn, bọ xít cổ ngỗng đỏ Sycanus falleni Stal và sử dụng các loài bọ xít bắt mồi này
thử nghiệm phòng trừ sâu hại chính trên rau họ hoa thập tự (Trương Xuân Lam,
2002) [20]. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên cây chè thì ít được quan tâm, nhất là các
nghiên cứu về thành phần loài côn trùng bắt mồi sâu hại chè, mối quan hệ của các
loài côn trùng bắt mồi với sâu hại trên cây chè ở Phú Thọ và ảnh hưởng của các yếu
tố lên mối quan hệ này. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên
cứu thành phần, mối quan hệ của các loài côn trùng bắt mồi với sâu hại trên cây chè
ở Phú Thọ và ảnh hưởng của một số yếu tố sinh thái lên chúng”.
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa khoa học
3
Luận án đã thống kê và cập nhật thành phần loài sâu hại và côn trùng bắt mồi tại
9 huyện trồng chè của tỉnh Phú Thọ. Luận án cung cấp dẫn liệu khoa học về diễn biến
mật độ của một số sâu hại chè chính (rầy xanh, bọ trĩ, rệp muội, tập hợp sâu bộ cánh
vẩy ăn lá chè) và côn trùng bắt mồi phổ biến (bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi, bọ xít nâu
đen nhỏ bắt mồi, bọ rùa đỏ, bọ rùa 6 vằn). Đồng thời cung cấp dẫn liệu về mối quan
hệ của một số loài côn trùng bắt mồi phổ biến với vật mồi của chúng trên chè. Luận
án còn cung cấp dẫn liệu khoa học về ảnh hưởng của một số yếu tố sinh thái (giống
chè, cây che bóng, biện pháp chăm sóc, đốn chè, kĩ thuật hái chè, thuốc hóa học) đến
mật độ và mối quan hệ của côn trùng bắt mồi và sâu hại phổ biến trên chè.
Ý nghĩa thực tiễn
Các dẫn liệu thu được là cơ sở đề xuất các biện pháp bảo vệ, duy trì và nhân thả
các loài côn trùng bắt mồi trong phòng chống sâu hại chè ở vùng nghiên cứu
3. Mục đích của đề tài
Nghiên cứu thành phần sâu hại và côn trùng bắt mồi trên cây chè, mối quan hệ
giữa côn trùng bắt mồi với sâu hại chè và ảnh hưởng của một yếu tố sinh thái lên
chúng nhằm cung cấp các dẫn liệu cơ sở để quản lý tổng hợp sâu hại chè, tạo sản
phẩm chè an toàn phục vụ cho tiêu thụ và xuất khẩu.
4. Những đóng góp mới của đề tài
+ Ghi nhận mới 3 loài sâu hại trên chè ở Phú Thọ. Lần đầu tiên thống kê thành
phần loài côn trùng bắt mồi và ghi nhận mới 5 loài côn trùng bắt mồi trên chè ở Việt
Nam, trong đó mô tả 1 loài mới cho khoa học là Polistes communalis Nguyen, Vu &
Carpenter, 2017
+ Lần đầu tiên cung cấp các dẫn liệu về mối quan hệ giữa một số loài côn trùng
bắt mồi với sâu hại phổ biến trên chè, cũng như ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái
lên mối quan hệ này tại điểm nghiên cứu. Bổ sung một số dẫn liệu mới về biến động
số lượng của một số loài côn trùng bắt mồi phổ biến trên chè.
4
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Cơ sở lý luận của đề tài là mối quan hệ giữa côn trùng bắt mồi và vật mồi của
chúng trong chuỗi thức ăn và lưới thức ăn của hệ sinh thái. Cây chè là một cây trồng
bị nhiều loài côn trùng gây hại, chủ yếu sinh sống ở búp chè. Tuy nhiên qua điều tra
cho thấy các loài côn trùng bắt mồi sử dụng sâu hại chè làm thức ăn cũng xuất hiện
rất phong phú trên nương chè. Chúng góp phần không nhỏ vào việc khống chế mật độ
các loài sâu hại chè. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài thì các đối tượng nghiên
cứu cụ thể là 4 loài côn trùng bắt mồi: bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Orius sauteri
(Poppius), bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus Dohrn, bọ rùa 6 vằn
Menochilus sexmaculatus (Fabricius), bọ rùa đỏ Micraspis discolor (Fabricius) và vật
mồi của chúng là rầy xanh Empoasca flavescens Fabricius, bọ trĩ Physothrips
setiventris Bagnall, rệp muội Toxoptera aurantii Fonscolombe, tập hợp sâu bộ cánh
vẩy ăn lá chè. Trong tự nhiên, chúng có khả năng khống chế lẫn nhau để duy trì trạng
thái cân bằng động của hệ sinh thái nương chè. Tuy nhiên trong quá trình canh tác,
dưới sự tác động của con người đặc biệt là phân bón và thuốc bảo vệ thực vật hóa
học, thành phần và cấu trúc hệ sinh thái đồng ruộng luôn bị thay đổi, làm phá vỡ cân
bằng sinh thái tự nhiên của sinh quần theo hướng ưu tiên phát triển sinh khối và hiệu
quả kinh tế của đối tượng cây trồng, vật nuôi do con người nuôi trồng, còn các thành
phần khác trong sinh quần thì không được quan tâm đúng mức. Dẫn đến canh tác
không bền vững, ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng và tàn phá dần tài nguyên
sinh vật nói riêng, tài nguyên thiên nhiên nói chung (Hiệp hội chè Việt Nam, 2000)
[9], Phạm Thị Thùy (2004) [43].
Cở sở thực tiễn của đề tài là dựa trên xu hướng canh tác bền vững đang ngày
càng được quan tâm cả trong nước và trên thế giới. Trong đó, biện pháp nhân thả
thiên địch để phòng chống sâu hại đã được nghiên cứu và ứng dụng từ những năm 70
của thế kỉ trước như ở Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc… Năm 1990, Malaysia đã nhân
nuôi và sử dụng bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus Dohrn để quản
lý tổng hợp bọ xít xanh hại đậu tương Nezara viridula (Linnaeus) (Khoo, 1990)
[124]. Việt Nam cũng nghiên cứu và sử dụng thiên địch từ những năm 90 của thế kỷ
trước và cho đến nay đã có một số thành công. Điển hình là nhân nuôi và thả bọ xít
5
nâu đen nhỏ bắt mồi Orius sauteri (Poppius) phòng chống bọ trĩ hại dưa chuột cho
hiệu quả cao (Nguyễn Thị Kim Oanh, 2009) [153]. Lợi dụng bọ xít hoa bắt mồi
Cantheconidea furcellata (Wolff) phòng trừ sâu hại trên cây đậu tương và bông đay
(Vũ Quang Côn và Trương Xuân Lam, 1994) [4]. Nghiên cứu và lợi dụng bọ xít cổ
Sycanus croceovittatus Dohrn phòng trừ một số sâu hại chính trên cây bông và cây
đậu tương, ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam (Trương Xuân Lam và Vũ Quang Côn,
2004 [21], Phạm Thị Thùy, 2004 [43]).
1.2 . Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1. Các nghiên cứu trên thế giới
1.2.1.1. Những nghiên cứu về thành phần sâu hại trên chè, mức độ phổ
biến và diễn biến mật độ của một số loài hại chính trên chè
Các kết quả nghiên cứu về thành phần sâu hại chè đã được nhiều tác giả
nghiên cứu và tập trung chủ yếu vào cuối thế kỷ XX. Các loài dịch hại (rầy xanh
Empoasca flavescens, bọ trĩ Physothrips setiventris, rệp muội Toxoptera theicola, các
loài sâu cánh vẩy, bọ xít muỗi Helopeltis theivora) đã gây nên tổn thất từ 50 – 55%
năng suất trên các nương chè ở Nam Phi (Ho, 1990) [62], (Rattan, 1992) [115] và
(Sivapalan et al., 1997a, 1997b) [111], [112], Sivapalan và Gnanapragasam (1980)
[110].
Cho đến nay, trên thế giới đã ghi nhận hơn 1000 loài chân đốt sử dụng các bộ
phận khác nhau trên cây chè làm thức ăn (Chen and Chen, 1989) [143], Khoo (1990)
[124]. Ở các nước khác nhau ghi nhận số lượng loài sâu hại chè khác nhau. Năm
1980, theo Sivapalan và Gnanapragasam (1980) [110] tại Malaixia đã xác định được
117 loài sâu và nhện hại chè trong đó có 9 loài nhện. Năm 1988, Trung Quốc đã xác
định được 200 loài sâu hại và 5 loài nhện (Chen, 1988) [76]. Năm 1992, ở khu vực
Đông Nam Á, Muraleedharan (1992a, 1992b) [100], [101] công bố có trên 300 loài
động vật hại cây chè gồm côn trùng, nhện và tuyến trùng và cho đến nay trên thế giới
đã xác định được hơn 1000 loài dịch hại trên chè. Năm 1994, ở vùng Đông bắc Ấn
Độ ghi nhận 172 loài chân đốt và 16 loài tuyến trùng tấn công cây chè (Hazarika và
Puzari, 1998) [86]. Năm 1997, theo Sivapalan et al. (1997a) [111] và Sivapalan et al.
(1997b) [112] tại Ấn độ đã xác định 200 loài sâu hại chè, trong đó nhóm chích hút là
một nhóm gây hại nghiêm trọng. Cùng năm này, tác giả Hill và Waller (1998) [67]
cho biết trên chè có đến 500 loài sâu và nhện hại. Năm 2001, Takfuji và Amano
6
(2001) [55] cho biết tại Nhật Bản dịch hại chính trên chè là sâu cuốn lá, nhện, rầy
xanh và bọ trĩ .
Từ những năm 1959, tác giả Eden (1958) [129] đã xác định các loài hại quan
trọng trên chè ở đảo Great Britian thuộc vương quốc Anh là: rầy xanh (Empoasca
flavescens Fabricius), bọ trĩ (Physothrips setiventris Bagnall), bọ xít muỗi (Helopeltis
thervora Waterhouse), sâu cuốn búp (Homona coffearia Nietner) và mọt đục cành
(Xyleborus morstatti Hazet). Không phải lúc nào các loài trên cũng đồng thời gây hại
nặng mà tùy thuộc từng vùng địa lý, điều kiện canh tác khác nhau, mức độ gây hại
của chúng khác nhau. Rầy xanh Empoasca flavescens Fabricius gây thiệt hại nặng ở
Assam, nhưng lại không xuất hiện nhiều ở các vùng khác của Ấn Độ (Gireesh et al.,
2014) [105]. Bọ trĩ Physothrips setiventris Bagnall và loài Dendothrips bispinosus
Bagnall gây hại rất nặng ở vườm ươm chè tại Srilanka nhiều nhưng lại ít gặp trên
nương chè kinh doanh (Sivapalan and Senerethe, 1997a) [111]. Bọ xít muỗi
Helopeltis thervora Waterhouse hại nặng ở Ấn Độ, Srilanka (dẫn theo
Muraleedharan, 1992a, 1992b) [100], [101]. Rệp muội Toxoptera aurantii Boyer là
một loài sâu hại chính trên cây chè ở Trung Quốc, rệp muội có hai loại hình là có
cánh và không cánh, những con có cánh bị thu hút bởi các hợp chất dễ bay hơi trong
lá chè và bẫy dính màu vàng. Ông đã ứng dụng tập tính này để thu bắt rệp có cánh hại
chè (Wang and Tasai, 2001) [79]. Qua tổng hợp các kết quả nghiên cứu trên thế giới
cho thấy, thành phần sâu hại chè rất phong phú, loài sâu hại phổ biến gồm 4 loài côn
trùng chích hút (rầy xanh Empoasca flavescens Fabricius, bọ trĩ Physothrips
setiventris Bagnall, bọ xít muỗi Helopeltis thervora Waterhouse), rệp muội Toxoptera
aurantii Boyer, 1 số loài sâu hại bộ cánh vẩy (sâu cuốn búp Homona coffearia
Nietner, sâu đục thân Zeuzera coffea Nietner (Ananthakrishnan, 1984) [131]. Trong
các công trình của mình, các tác giả thường nghiên cứu thành phần loài gây hại trên cây
chè, sau đó đi sâu nghiên cứu chi tiết các loài gây hại chính. Sau đây là tổng hợp một số
nghiên cứu về các loài côn trùng gây hại chính trên chè.
* Những nghiên cứu về rầy xanh Empoasca flavescens Fabricius
Về hình thái và đặc điểm sinh học: Rầy trưởng thành Empoasca flavescens
Fabricius có màu xanh hơi vàng, cơ thể dài 2,5 – 2,75mm, đẻ trứng rải rác từng quả
trên lá. Giai đoạn trứng từ 6 –13 ngày, rầy non trải qua 5 tuổi, kéo dài từ 8 – 15 ngày
tùy thuộc nhiệt độ. Rầy trưởng thành và rầy non hút nhựa ở mặt sau lá và cuống non
mềm. Empoasca flavescens Fabricius khi chích hút búp chè làm cho lá chè non gợn
7
sóng, quăn lại, giòn và dễ gãy trong quá trình thu hoạch và chế biến chè, làm thâm ở
mầm chè hoặc làm cuốn mép lá, cháy lá, loài này phân bố rất rộng ở vùng nhiệt đới
và cận nhiệt đới (Muraleedharan and Radhakrishnan, 1988) [99].
Rầy xanh hại trên nhiều loại cây trồng như chè, cà phê, rau màu, cây ăn quả, cây
ngũ cốc… Đặc biệt Vora et al. (1984) [134] đã chỉ ra rằng cây Castor là một loại cây
lấy dầu từ hạt dùng để trừ sâu trong kỹ thuật trồng chè hữu cơ Ấn Độ, nhưng chính cây
này cũng bị nhiều loại sâu gây hại, trong đó có rầy xanh Empoasca flavescens
Fabricius. Theo Eden (1958) [129], Waterhouse (1993) [66] cho biết rầy xanh ở Ấn
Độ, gây thiệt hại nhiều về sản lượng chè, làm búp chè cằn lại, không phát triển được.
Theo Claridge và Wilson (1976) [91] rầy xanh còn được tìm thấy trên nhiều loại
cây trồng dại ở Đông Âu. Theo Ceruttin et al. (1990, 1991, 1992) [69], [70], [71] đã
xác nhận Empoasca flavescens Fabricius là sâu hại phổ biến trên cây nho ở Châu Âu.
Tác giả Ossiannilson (1981) [72] đưa ra một danh sách cây trồng bị rầy xanh
Empoasca flavescens Fabricius hại là chè, khoai tây, củ cải đường, mía, thuốc lá, bông,
cây hoa bia và nhiều loài cây ăn quả, ngoài ra còn một số cây trồng nhiệt đới khác.
Waterhouse (1993) [66] cũng đã thống kê cây trồng bị rầy xanh hại ở Đông Nam Á bao
gồm chè, đậu tương và cây cà tím.
Về phạm vi phân bố của rầy xanh Empoasca flavescens Fabricius phân bố rất
rộng ở hầu hết các vùng trồng chè trên thế giới như Bangladesh, Trung Quốc, Nhật
Bản, Đài Loan, Ấn Độ, Việt Nam….. Hai loài Empoasca onukii và Empoasca
formosana phân bố ở Nhật Bản và Đài Loan. Nghiên cứu sâu hại chè và cà phê vùng
Viễn Đông đã cho biết loài Empoasca flavescens Fabricius phân bố rộng rãi ở Đông
Dương, Ấn Độ, Đài Loan, Nhật Bản. Ở Việt Nam, rầy xanh hại ở tất cả các vùng chè
ở miền Bắc (Du Pasquier, 1932) [107].
Về qui luật phát sinh phát triển, theo Muraleedharan (1992b) [101] ở vùng
Đông Bắc Ấn Độ, rầy xanh gây hại quanh năm còn ở Darjeeling thời gian tháng 6 – 7
được xem như mùa của rầy xanh, mà thời kỳ này trùng với thời kỳ năng suất và chất
lượng chè tốt nhất.
* Những nghiên cứu về bọ trĩ Physothrips setiventris Bagnall
Bọ trĩ còn gọi là bọ cánh tơ, chúng gây hại trên chè, làm búp chè chùn lại, thô
cứng, lá non bị biến dạng, búp có những vết sẹo sần sùi và không phát triển được. Bọ
trĩ được xem là loài sâu hại chủ yếu ở hầu khắp vùng chè trên thế giới, có nhiều loài
bọ trĩ sống ở hoa, lá, búp chè. Bọ trĩ hại chè có kích thước nhỏ nhưng tác hại lớn bởi
8
số lượng rất nhiều. Theo Rao (1975) [74] khi thảo luận về tình trạng sâu hại chè ở
Nam Ấn Độ đã nhấn mạnh bọ trĩ là một trong số các loài sâu gây hại thiệt hại cho chè
khá nghiêm trọng. Các nghiên cứu của Rattan (1988) [113], Ellis và Rattan (1977)
[121] đã điều tra trên 12.990 ha chè ở Malawi và ghi nhận có 6,785 ha bị bọ trĩ hại,
chiếm 52%. Đây là nguyên nhân thất thu một số lượng lớn sản lượng chè, đồng thời
cũng gây ra tình trạng chè con bị chết ở đây.
Muraleedharan và Kandaswamy (1980) [96] cho biết bọ trĩ có nhiều loài mỗi
loài gây hại trên những đối tượng cây trồng khác nhau như sau: Scirtothrips dorsalis
Hood hại trên một số cây có tầm quan trọng mang lại hiệu quả kinh tế cao, bao gồm
cả cây chè và được gọi tên thường gọi là Chillies thrips hoặc bọ trĩ Assam, nó gây
nhiều thiệt hại cho chè ở Đông Bắc Ấn Độ. Scirtothrips bispinosus Bagnall phân bố
rộng, với số lượng lớn, có ở hầu hết các vùng chè Nam Ấn Độ. Heliothrips
haemorrhoidalis Bouche có tính ăn tạp cao, hại nhiều trên cà phê hơn ở chè.
Physothrips setiventris Bagnall có nhiều ở Assam và Darjeeling gây nhiều thiệt hại
cho lá non.
Mound và Palmer (1981) [85] đã nghiên cứu về các loài bọ trĩ thuộc giống
Scirtothrips. Các tác giả cho rằng giống này gồm khoảng 40 loài phân bố rộng khắp ở
các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới. Có 10 loài trong số đó hại trên các cây trồng chè, cà
phê, cam, chanh, điều, cây Castor, ớt, chuối, xoài, nho và dâu tây. Các tác giả cũng đã
chỉ rõ những loài cụ thể trên từng cây và phạm vi phân bố của chúng.
Theo Muraleedharan và Kandaswamy (1980) [96], Muraleedharan và
Radhakrishnan (1986) [97], Muraleedharan và Varadharan (1986) [98],
Muraleedharan (1992a, 1992b) [100], [101] cho biết ở các vùng chè Châu Á thì họ
Thripidae có 9 loài phân bố ở Ấn Độ, Srilanka, Indonesia, Bangladesh và Nhật Bản.
Phòng trừ bọ trĩ nên kết hợp biện pháp sinh học và hóa học và cho rằng trong tự
nhiên, bọ trĩ bị kiểm soát bởi nhiều loài côn trùng kí sinh và ăn thịt.
Rattan (1988) [113] đã tiến hành thí nghiệm phòng trừ bọ trĩ bằng biện pháp
đốn kết hợp với phun thuốc hóa học. Ông cho rằng nếu chỉ phun thuốc hóa học, bọ trĩ
rất nhanh phát triển trở lại. Đốn sẽ mang đi một lượng trứng bọ trĩ nhất định ra khỏi
nương chè nên kết hợp đốn và phun thuốc để phòng trừ bọ trĩ sẽ hiệu quả hơn.
* Những nghiên cứu về rệp muội Toxoptera aurantii Boyer trên chè
9
Theo CABI, 1997 [151] rệp muội hại chè có các tên gọi khác nhau như
Toxoptera aurantii Boyer de Fonscolombe, T. Theaecola Buchkton, T. Alaterna
Guercio, T. Camelliae Kalt, T. Variegata Guercio, Aphid coffeae Nietner.
Wyniger và Duelli (2000) [68] cho biết giới hạn nhiệt độ của loài Toxoptera
aurantii Boyer là 8 đến 32,5oC, nhiệt độ tối ưu là 28
oC . Nuôi ở 28
oC cho tốc độ gia
tăng quần thể cao nhất R = 0,394, tỷ lệ tăng số lượng gấp đôi ngắn nhất 1,8 ngày so
với 6 ngưỡng nhiệt độ nuôi khác là 10oC, 15
oC, 20
oC, 25
oC, 30
oC, 32
oC.
Duraikannu và Azariah (2013) [133] cho biết trên chè tại Manipur, Ấn độ,
rệp muội Toxoptera aurantii Boyer xuất hiện quanh năm mật độ từ 12 đến 175
con/5cm chiều dài búp tùy thuộc vào khí hậu thời tiết và sự phong phú của côn trùng
bắt mồi sử dụng chúng làm thức ăn. Mật độ đạt cao nhất vào tháng 8 hàng năm. Rệp
muội Toxoptera aurantii Boyer là loài phá hại nghiêm trọng trên cây chè, chúng xuất
hiện từ tháng 3 đến tháng 10 hàng năm với mật độ 200 con/5cm chiều dài búp chè.
Borthakur và Das (1992) [51] và Borthakur et al. (1993) [52] cho biết
Toxoptera aurantii Boyer là một loài gây hại nặng nề nhất tại các đồi chè miền Nam
Trung Quốc. Chúng xuất hiện quanh năm, nhưng mật độ cao nhất vào mùa thu (tháng
8 – 10), trong thời gian này chúng xuất hiện 2 loại hình không cánh và có cánh. Tác
giả đã nghiên cứu sử dụng bẫy Pheromol để thu bắt Toxoptera aurantii Boyer phục
vụ công tác dự báo và quản lý loài sâu hại này trên cây chè tại Trung Quốc.
* Những nghiên cứu về sâu bộ cánh vẩy trên chè
Duraikannu và Azariah (2013) [133] cho biết trên chè tại Ấn Độ các loài sâu
bộ cánh vẩy xuất hiện thường xuyên gồm sâu đục thân Zeuzera coffeae Nietner xuất
hiện quanh năm, mật độ cao nhất trong tháng 3, tháng 4 và tháng 9 với mật độ trung
bình 9,5 con/40 cây chè. Homona coffearia Nietner xuất hiện quanh năm, mật độ cao
nhất vào tháng 4 – 5 và tháng 8 – 10 với mật độ cao nhất là 6 con/cây. Caloptilia
theivora xuất hiện từ tháng 6 đến tháng 10, tần xuất bắt gặp là 6 đến 46%.
Hazarika và Puzari (1998) [86], Hazarika et al. (2009) [87] và Kawai (1997)
[53] cho biết tại các đồi chè ở Nhật Bản, loài Adoxophyes honmai Yasuda
(Lepidoptera: Tortricidae) là một loại sâu bệnh nghiêm trọng, chúng xuất hiện
quanh năm trên nương chè. Tác giả cho biết giai đoạn sâu non của loài thích ăn lá
chè non và chè bánh tẻ, nhưng lại đẻ trứng ở lá già, phía gốc cây chè.
Vora et al. (1984) [134] cho biết tại các nương chè ở Ấn Độ loài Ectropis
obliqua Prout (Lepidoptera: Geometridae) là một loài gây hại phổ biến, chúng xuất
10
hiện quanh năm trên nương chè. Tác giả đã nghiên tập tính tiết pheromon giới tính
của con cái trong giao phối để ứng dụng trong việc sử dụng bẫy pheromon thu bắt
con trưởng thành.
1.2.1.2. Những nghiên cứu về thành phần côn trùng bắt mồi và diễn biến mật độ
một số loài côn trùng bắt mồi phổ biến trên chè
Những ghi nhận đầu tiên về côn trùng bắt mồi trên chè là năm 1903 bởi Watt
và Mann. Hai tác giả này đã phát hiện 2 loài ăn bọ xít muỗi hại chè là Melamphaus
sp. và Sycanus sp. (CABI, 1997) [151]
Thành phần loài côn trùng bắt mồi của các loài sâu hại trên trên cây chè và các
nghiên cứu nhân nuôi một số loài bắt mồi phổ biến trong phòng trừ sinh học sâu hại
chè cũng đã được nhiều tác giả nghiên cứu, cụ thể là 21 loài côn trùng bắt mồi sâu hại
trên cây chè được ghi nhận, trong đó có nhiều loài có khả năng sử dụng cho hiệu quả
phòng trừ cao như bọ xít bắt mồi Oriorus sp. và bọ mắt vàng Chrysoperla sp.
(California Environmental Protection Agency Department, 2010) [154].
Somnath và Azizur (2014) [120] đã ghi nhận 5 loài bắt mồi quan trọng trên
cây chè gồm Chrysoperla carnea, Chrysoperla rufilabris, Chrysopa sp., ruồi ăn rệp
Aphidoletes aphidimyza, bọ rùa bắt mồi Hippodamia convergens. Các loài thiên địch
này là những tác nhân quan trọng và hiệu quả trong phòng trừ rệp. Trong đó nhân
nuôi và thả ruồi ăn rệp Aphidoletes aphidimyza và bọ rùa bắt mồi Hippodamia
convergens là có triển vọng nhất.
Zhang và Wang (1992) [80] đã mô tả và nghiên cứu và phát triển một số loài
như ruồi ăn rệp Aphidoletes aphidimyza, bọ rùa Hippodamia convergens, Harmonia
axyridis và bọ mắt vàng Chrysoperla sp. Trong nhà kính để phòng trừ rệp Myzus
persicae, rệp bông Aphis gossypii, rệp Macrosiphum euphorbiaend và rệp
Aulacorthum solani thì biện pháp phòng trừ sinh học được ưu tiên và sử dụng với
việc thả ruồi ăn rệp Aphidoletes aphidimyza và bọ rùa Hippodamia convergens,
Harmonia axyridis (Buitenhuis et al., 2015) [116]. Trong công trình phòng chống bọ
trĩ hại cây chè thì có thể sử dụng loài bọ xít nhỏ thuộc họ Anthocoridae và giun tròn
Heterorhabditis bacteriophora .
Muraleedharan và Kandaswamy (1980) [96] cho rằng phòng trừ sâu hại chè
nên kết hợp biện pháp sinh học và hóa học. Các ông cũng khẳng định trong tự nhiên
sâu hại được điều chỉnh bởi nhiều loài bắt mồi. Thành phần các loài bắt mồi ăn thịt
11
sâu hại trên chè thường được tách nhỏ thành từng nhóm để nghiên cứu và đưa ra các
khuyến cáo nhằm lợi dụng chúng trong phòng chống sâu hại chè.
Xie (1993) [148] đã tiến hành nghiên cứu thiên địch của rệp hại chè ở Gruzin
cho biết hai loài thiên địch quan trọng nhất thuộc về nhóm bọ rùa bắt mồi là
Coccinella septempunctata Linnaeus và Senmadialia undecimnotata.
Muraleedharan và Radhakrishnan (1986, 1988) [97], [99], Muraleedharan
(1992a, 1992b) [100], [101] cho biết đã tìm thấy nhiều loài ruồi Syrphids ăn rệp
Toxoptera aurantii Buchkton trong nương chè tại Ấn Độ như sau: Allobaccha
nubilipennis (Austen), Betasyrphus serarius (Wiedeman), Dideopsis aegrota
(Fabricius), Episyrphus balteatus (DeGeer), Ischiodon scutellaris (Fabricius),
Paragus tibialis (Fallen).
Thành phần thiên địch của loài Homona coffearia Nietner được rất nhiều tác
giả nghiên cứu như Chen (1988) [76], Cheazeau (1993) [78], Barboka (1994) [57],
Chen và Tseng (1998) [77], Wang và Tasai (2001) [79], Zhang và Wang (1992) [80],
Gutierrez và Bonato (1994) [147], Shengjie et al. (2015) [88]. Theo Barboka (1994)
[57] con non và trưởng thành của các loài Coccinellisds verania vincta Garham,
Stethous gilvifrons mulsant, Jauravia quadrinotata Kapur, Scymnus sp. tấn công tất
cả các giai đoạn phát triển của loài sâu hại này và giữ cho mật độ của chúng ở dưới
ngưỡng phòng trừ. Ngoài ra sâu non của hai loài thuộc giống Chrysopa thường thấy
ăn tất cả các giai đoạn của sâu hại này.
Theo tài liệu của CABI [151], danh sách thiên địch của bọ trĩ có 7 loài, trong
đó Franklinothrips megalops (Trybom) là loài ăn thịt phổ biến nhất của loài
Scitothrips dolalis. Mỗi ấu trùng Franklinothrips megalops (Trybom) tiêu thụ 4 – 5
Scitothrips dolalis trong 1 ngày. Tác giả Ananthakrishnan (1984) [131] khẳng định
loài Erythrothrips asiaticus Ramakrishna Ayyar & Margabandhu và Mymarothrips
garuda Ramakrishna & Margabandhu là các loài ăn thịt bọ trĩ hại chè. Tác giả
Sannigrahi và Mukopadhyay (1992) [128] đã nghiên cứu và đánh giá hiệu quả ăn thịt
bọ trĩ hại chè của loài Geocoris ochropterus Fieber tại Srilanka, ông cho biết chúng
có mối tương quan nghịch chặt chẽ, Geocoris ochropterus Fieber có khả năng phòng
trừ bọ trĩ hại chè đạt hiệu quả cao.
Từ năm 1975 đến 1980, Streibert (1981) [75] đã tiến hành điều tra thành phần
thiên địch của rệp hại chè vùng Gruzia. Theo tác giả thành phần thiên địch của rệp hại
chè rất phong phú, ông chỉ ra một số loài có vai trò quan trọng trong việc hạn chế sự
12
phá hại của rệp như Coccinella septempunctata Linnaeus, Semiadalia undecimnotata
Schneider, Propyleaqua tuordecimpunctata (Linnaeus), Scynunus redenbecheri và
Scynmus quadrimaculatus (Herbst).
Ở miền Đông Ấn Độ, Barboka (1994) [57] ghi nhận có 11 loài bọ rùa ăn rệp,
trong đó phổ biến là Cryptogonus bimaculata Kapur, Scynmnus sp., Coleophora
biplagiatula, Coccinalla septempunctata Linnaeus… Có 6 loài ăn thịt khác gồm
Syrphusbalcatrus Degeer, Syrphus serarius Mied, Paragus indicus Brun, Paragus
verburiensis Struck, Xanthogramrma scutellare, Ararcina degrota Farbricius và 2
loài kí sinh là Trioxys sp. và Aphelinus sp. Zukova et al. (1982) [73] cho biết các loài
ăn thịt là nguyên nhân làm giảm 20% mật độ quần thể rệp hại chè vùng Anuar (Mỹ).
Muraleedharan và Randhakrishnan (1988) [99] đã điều tra thiên địch của nhiều
loài sâu hại chè ở Kerala và Tamil Nadu, Nam Ấn Độ bao gồm cả kí sinh và ăn thịt.
Đối với bọ trĩ đã xác định 2 loài ăn thịt là Aleothrips intermedius Bagnall và
Mymarothrips garuda Ramak, thuộc họ Aleothrips, bộ Thysanoptera, ăn bọ non và
trưởng thành loài bọ trĩ Scirtothrips bispinosus (Bagnall).
Somnath et al. (2010) [118] đã nghiên cứu tại đồn điền chè Sub – Himalaya
của Bắc Bengan, Ấn độ trong khoảng thời gian từ 2004 đến 2006 và phát hiện 20 loài
bọ rùa ăn thịt sâu hại trên chè. Trong đó chiếm ưu thế là loài Micraspis
discolor (Farbricius) chiếm 42,5%.
Somnath và Rahman (2014) [119], Somnath và Azizur (2014) [120] cho biết
Micraspis discolor (Farbricius) và Menochilus sexmaculatus (Farbricius) là những
loài ăn thịt phổ biến nhất trong các đồn điền chè ở Đông Bắc Ấn Độ. Kết quả nghiên
cứu cho 2 loài trên là những loài côn trùng bắt mồi hữu hiệu của rầy, rệp và được sử
dụng trong các chương trình quản lý sâu bệnh tổng hợp.
Diễn biến mật độ của các loài côn trùng bắt mồi thường được nghiên cứu và
công bố kèm với các kết quả nghiên cứu về thành phần loài và ảnh hưởng của các yếu
tố sinh thái lên sự phát sinh phát triển của chúng. Yuliadhi et al. (2015) [81], Narisara
et al. (2016) [109] cho biết mật độ loài bọ xít bắt mồi Sycanus aurantiacus Reuter
trên chè từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2015 lần lượt là 13,8 ± 1,39 con/m2; 9,3 ± 1,77
con/m2; 10,4 ± 1,58 con/m
2; 11,0 ± 1,76 con/m
2; 19,1 ± 2,88 con/m
2. Theo Nagai và
Yano (1999) [82] thì nhiệt độ là yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến sự phát sinh và phát
triển của loài bọ xít bắt mồi Orius sauteri (Poppius). Nhiệt độ cho chúng phát triển là
15 o
C – 30 o
C, trong đó thích hợp nhất là 25 – 30
oC. Trên các nương chè, thì Orius
13
sauteri (Poppius) xuất hiện từ tháng 4 đến tháng 10, trong đó mật độ cao nhất thường
rơi vào tháng 6 – 8. Theo Somnath và Azizur (2014) [120] hai loài bọ rùa bắt mồi
Micraspis discolor (Fabricius) và Menochilus sexmaculatus (Fabricius) trên chè tại
Nhật Bản, là thiên địch của loài rệp muội Toxoptera aurantii. Chúng xuất hiện quanh
năm trên nương chè, mật độ cao vào tháng 9 đến tháng 12 và mật độ thấp vào tháng 6
đến tháng 9.
1.2.1.3. Nghiên cứu mối quan hệ của một số loài côn trùng bắt mồi với vật mồi
là sâu hại phổ biến trên chè
* Sức ăn mồi của một số côn trùng bắt mồi phổ biến trên chè
Bannerjee (2004) [56], Jeppson và Hartfor (1975) [117] nghiên cứu mối quan
hệ giữa Stethorus gilviforns Mulsant và Oligonychus coffea Neither tại Ấn Độ cho
biết trên nương chè quần thể côn trùng bắt mồi Stethorus gilviforns Mulsant có mặt
quanh năm với mật độ luôn thấp hơn số lượng vật mồi Oligonychus coffea Neither.
Nghiên cứu cũng cho thấy loài Stethorus gilviforns Mulsant có khả năng khống chế
Oligonychus coffea Neither nhưng không triệt để, do đó cần kết hợp với biện pháp
hóa học.
Banerjee (2004) [56], Das và Kakoty (1991) [123] cũng khẳng định thiên địch,
đặc biệt là nhóm côn trùng bắt mồi là một thành phần không thể thiếu trong lưới thức
ăn của hệ sinh thái ruộng chè, mối quan hệ này ổn định trong tiến hóa và chúng cùng
nhau sinh trưởng, phát triển. Các loài côn trùng bắt mồi có xu hướng giữ cho tập hợp
các loài sâu hại chè trong các giới hạn sinh học nhất định. Cũng theo tác giả này, ở
diện hẹp thiên địch hoàn toàn có thể khống chế sâu hại chè, tuy nhiên áp dụng diện
rộng thì gặp nhiều khó khăn, dùng các biện pháp bảo vệ tập hợp thiên địch trên chè
nhằm giảm lượng thuốc trừ sâu sử dụng là mục tiêu mà ông đề cập đến trong quản lý
dịch hại tổng hợp trên cây chè tại Ấn Độ.
Wang và Tasai (2001) [79] cho biết 1 bọ rùa 7 chấm trưởng thành trong 24h ăn
hết từ 2 – 110 rệp, ấu trùng của nó ăn 3 – 38 rệp; trưởng thành bọ rùa 14 chấm trong
24h ăn hết 20 – 75 trứng rệp và ấu trùng của nó ăn 28 – 50 cá thể rệp. Xếp thứ 2 sau
bọ rùa trong việc hạn chế mật độ của rệp hại chè là ruồi ăn rệp. Một ấu trùng tuổi 1
của loài Syrphus balcatrus trong 24h ăn 3 – 5 rệp, tuổi 2 ăn 8 – 12 rệp, tuổi 3 ăn 28 –
35 rệp. Ngoài ra tác giả còn cho biết côn trùng ăn rệp hại chè còn có bọ mắt vàng và
phổ biến nhất là Chrysopa carnea Stephens, trung bình 1 cá thể Chrysopa carnea
Stephens có thể ăn hết 600 – 1000 rệp chè trong cả đời sống của nó.
14
Dhanapati và Varatharajan (2007) [63], Dhanapati et al. (2010) [64],
Dhanapati et al. (2016) [65] cho biết 4 loài bọ rùa bắt mồi Coccinella septempunctata
Linnaeus, Coccinella transversalis Fabricius, Oenopia sexareata (Mulsant) và
Coleophora bisselitta Mulsant là các loài săn mồi tích cực trên nương chè, thức ăn ưa
thích nhất của chúng là rệp muội Toxoptera aurantii Boyer de Fons. Ấu trùng Coccinella
septempunctata Linnaeus tiêu thụ 30,0 ± 0,5 rệp muội trong 24h và 460,0 ± 15,2 rệp
muội trong cả giai đoạn ấu trùng. Ấu trùng Coleophora bisselitta Mulsant tiêu thụ 25,2 ±
0,8 rệp muội trong 24h và 420,0 ± 10,0 rệp muội trong cả giai đoạn ấu trùng.
Somnath et al. (2010) [118] thử nghiệm thả trưởng thành bọ rùa Micraspis
discolor (Farbricius) với hỗn hợp các sâu hại chè, nhóm tác giả cũng ghi nhận rệp
muội là con mồi ưa thích nhất của loài bọ rùa này, nhưng khi thiếu thức ăn thì chúng
ăn cả nhện đỏ Oligonychus coffeae Neitner. Ở giai đoạn ấu trùng thì bọ rùa Micraspis
discolor (Farbricius) lựa chọn nhện đỏ nhiều hơn. Mỗi ấu trùng bọ rùa Micraspis
discolor (Farbricius) tiêu thụ trung bình 24,10 ± 0,77 nhện đỏ hoặc 21,70 ± 0,72 rệp
muội mỗi ngày, cả giai đoạn ấu trùng một cá thể bọ rùa Micraspis
discolor (Farbricius) tiêu thụ 280,30 nhện đỏ và 188,66 rệp muội, tuổi càng tăng thì
sức tiêu thụ con mồi càng tăng. Ở giai đoạn trưởng thành thì ngược lại bọ rùa
Micraspis discolor (Farbricius) lại ưa thích rệp muội hơn nhện đỏ. Mỗi trưởng thành
bọ rùa Micraspis discolor (Farbricius) ăn trung bình 20,32 ± 1,79 nhện đỏ hoặc 35,9
± 4,95 rệp muội mỗi ngày, cả giai đoạn trưởng thành một con đực tiêu thụ 139,30 ±
7,25 con nhện đỏ và 629,70 ± 31,13 rệp muội, một con cái tiêu thụ 547,7 ± 36,87
nhện đỏ và 1287,5 ± 98,33 rệp muội. Con cái có sức tiêu thụ vật mồi cao hơn con đực
đáng kể trong các lần thí nghiệm.
Nitin et al. (2017) [83] nghiên cứu sức ăn mồi của bọ xít cổ ngỗng bắt mồi
Sycanus galbanus Distant với sâu cánh vẩy trong phòng thí nghiệm. Kết quả thí
nghiệm cho thấy khi mật độ con mồi càng cao thì khả năng ăn mồi của Sycanus
galbanus Distant càng cao. Mahfuj et al. (2002) [49] nghiên cứu tại Bangladesh cho
biết bọ rùa đỏ Micraspis discolor (Fabricius) có khả năng khống chế rầy Nilaparvata
lugens (Stal) và rệp muội Toxoptera theicola Buchkton. Thả bọ rùa đỏ với tập hợp
rầy xanh và rệp muội, ghi nhận sức ăn, tác giả cho biết, mỗi bọ rùa đỏ tiêu thụ trung
bình 46,7 rầy, rệp trong giai đoạn ấu trùng và 112,6 rầy, rệp trong giai đoạn trưởng
thành. Tuổi của ấu trùng bọ rùa đỏ có tương quan thuận chặt chẽ với khả năng ăn mồi
(R= 0,94, y = - 0,0541x + 1,2425).
15
Chowdhury et al. (2008) [127] nghiên cứu về sức ăn mồi của bọ rùa đỏ
Micraspis discolor (Farbricius) trong phòng thí nghiệm. Ông cho biết khă năng tiêu
thụ rệp muội Toxoptera aurantii Boyer của bọ rùa đỏ là rất lớn: con cái bọ rùa đỏ tiêu
thụ từ 1149 đến 1393 với trung bình là 1216,40 ± 22,89 rệp trong suốt đời sống của
nó và con đực tiêu thụ từ 885 đến 1269 rệp với trung bình 1003,27 ± 104,35 rệp.
Tại Ấn Độ từ những năm cuối thế kỉ 20 đã có những nghiên cứu rất bài bản về
loài bắt mồi Chrysoperla carnea (Stephens) trên nương chè. Trong điều kiện phòng thí
nghiệm nuôi với các vật mồi khác nhau thì 1 ấu trùng Chrysoperla carnea (Stephens)
tiêu thụ hết 22,8 cá thể rầy xanh Empoasca flavescens (Fabricius) (Hazarika và Puzari,
1998 [86], Hazarika và Bhuyan, 2009 [87], Rahman et al. (2012) [135].
Sannigrahi và Mukhopadhyay (1992) [128] đã khẳng định bọ xít bắt mồi
Geocoris ochropterus (Fieber) là loài trên các cánh đồng chè dưới chân núi
Darjeeling, Ấn Độ và ông đã đi sâu nghiên cứu khả năng ăn mồi, hành vi săn mồi,
thời gian sinh trưởng các pha, tỷ lệ sống… của loài Geocoris ochropterus (Fieber).
Các hành vi ăn của Geocoris ochropterus (Fieber) liên quan đến một loạt các hành
động. Nó hút các chất lỏng bên trong con mồi, để lại bộ xương ngoài. Nâng và giữ
con mồi trong vòng một thời gian ngắn có thể tiết các enzym tiêu hóa qua tuyến nước
bọt tiêu hóa các chất hút từ con mồi. Sức ăn mồi của ấu trùng tuổi 1, 2, 3, 4 loài bọ xít
Geocoris ochropterus (Fieber) với vật mồi là bọ trĩ tương ứng là 2,62 ± 0,15; 8,18 ±
0,85; 13,01 ± 1,85 và 11,89 ± 3,97. Sức ăn mồi của ấu trùng tuổi 1, 2, 3, 4 loài bọ xít
Geocoris ochropterus (Fieber) với vật mồi là sâu róm tương ứng là 1,23 ± 0,12; 1,47
± 0,04; 2,14 ± 0,13 và 7,99 ± 0,75. Đơn vị là con mồi/ngày. Khả năng điều hòa sâu
hại chè của các côn trùng bắt mồi phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khí hậu, thời
tiết, chế độ canh tác đặc biệt là thuốc trừ sâu hóa học.
* Mối quan hệ giữa số lượng của một số côn trùng bắt mồi phổ biến với vật
mồi của chúng trên chè
Dhanapati et al. (2010) [64] cho biết trong các loài côn trùng sử dụng rệp muội
Toxoptera aurantii Boyer de Fons làm thức ăn thì loài bọ rùa Coccinella
septempunctata có mối quan hệ nghịch và thể hiện bằng hệ số tương quan với rệp
muội cao nhất trên nương chè (R = -0,97), cao hơn hệ số tương quan giữa ruồi ăn rệp
Episyrphus balteatus (De Geer) với rệp muội (R = -0,95) và giữa bọ cánh mạch
Neuropteran micromus với rệp muội (R = -0,92).
16
Somnath et al. (2010) [118] đã nghiên cứu tại đồn điền chè Sub - Himalaya
của Bắc Bengan, Ấn độ trong khoảng thời gian từ 2004 đến 2006 cho biết mật độ tập
hợp bọ rùa tại đây có mối tương quan nghịch rất chặt chẽ với rệp muội Toxoptera
aurantii Boyer de Fons (R2 = 0,893).
Duraikannu và Azariah (2013) [133] nghiên cứu mối quan hệ giữa loài bắt mồi
Mallada desjardinsi (Navas) (Chrysopidae: Neuroptera) với nhện đỏ hại chè. Ông
nuôi Mallada desjardinsi (Navas) bằng nhện đỏ hại chè (Oligonychus coffeae
Nietner) tỷ lệ loài bắt mồi : con mồi tối ưu là 1:50 đối với trong phòng thí nghiệm và
1:33 đối với trong nhà kính. Cũng nghiên cứu tỷ lệ này Borthakurn và Das (1992)
[51] và Borthakun et al. (1993) [52] cho biết trên ruộng chè tại Ấn Độ tỷ lệ tập hợp
bọ rùa đỏ : rệp muội là 1:75, mối quan hệ giữa chúng rất chặt chẽ (R = -0.91).
1.2.1.4. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái lên sâu hại,
côn trùng bắt mồi và mối quan hệ của chúng trên chè
Nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái lên hệ sinh thái nương chè
được dựa trên nhiều quan điểm tiếp cận khác nhau như: quan điểm đa dạng sinh học,
quan điểm bảo vệ thực vật, quan điểm du lịch sinh thái…. Vì vậy các nghiên cứu về
ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái lên côn trùng bắt mồi, sâu hại chè, mối quan hệ
côn trùng bắt mồi với sâu hại thường được công bố kết hợp với các nghiên cứu khác
trên chè. Các công trình đã công bố trên thế giới tập trung nhiều ở hai nước Trung
Quốc và Ấn Độ vì đây là hai nước có diện tích và sản lượng chè lớn thuộc hàng đầu
trên thế giới. Ngoài ra còn có rải rác các công bố khác của một số nước như
Banglades, Malaysia, Đài Loan, Nhật Bản…
Mkwaila (1981, 1982) [60], [61] cho biết có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự
phát sinh, phát triển của bọ trĩ trong đó ảnh hưởng của nhiệt độ là chủ yếu. Một trong
những yếu tố giúp chúng lan truyền rộng khắp các nương chè là gió. Theo Sudoi
(1985, 1987) [136], [137], Mohammad và Mustak (2011) [94], đã nghiên cứu ảnh
hưởng của lượng mưa và cây che bóng đối với bọ trĩ, thấy rằng bọ trĩ xuất hiện quanh
năm nhưng mật độ cao hơn vào mùa khô, mật độ bọ trĩ tương quan nghịch với lượng
mưa của 2 tháng trước đó và mật độ bọ trĩ ở nương chè không có cây che bóng cao
hơn ở nương chè có cây che bóng.
Đặc trưng nổi bật của vùng chè Assam là có cây che bóng lâu dài, giống cây
Albizzia được sử dụng rộng rãi nhất ở vùng này, những loài thích hợp là Albizzia
Stipulata (Boivin), Albizzia procera (Roxb), Albizzia lebbek (Siris), Albizzia
17
odoratissima Benth. Những cây này với mật độ trồng 40 x 40 ft (1 ft = 0,305m) được
cắt ngọn để tạo tán rộng, tính đến lúc cây trưởng thành chúng có tác dụng giảm
cường độ chiếu sáng xuống còn 50%. Loài cây Grevillea robusta (Silk Oak) được sử
dụng rộng rãi và rất phù hợp ở Srilanka, Nam Ấn Độ, Đông Phi và Nyasaland nhưng
nó lại không phù hợp ở Assam (Eden, 1958) [129].
Ở Srilanka, Visser (1961) [132] đã cho biết sản lượng chè trong 10 năm theo
dõi dưới bóng cây trẩu (Aleuristis montana Wilson) và cây họ đậu (Albizzia stipulata
Boivin) trong điều kiện không phân bón, năng suất chè không có cây che bóng là 970
lb/acre, nương chè có cây che bóng bằng cây trẩu là 1000 lb/acre, nương chè có cây
che bóng là cây họ đậu là 1170 lb/acre (1 lb = 0,454kg, 1 acre = 0,405ha). Bằng phân
tích thống kê tác giả đã chỉ ra rằng năng suất chè không chịu ảnh hưởng của cây che
bóng (sự sai khác không có ý nghĩa) nhưng lại có tác động giảm tác hại của rầy xanh
và bọ trĩ.
Mkwaila et al. (1979) [59], Mkwaila (1982) [61] cũng cho rằng sự phổ biến và
gây hại nghiêm trọng của bọ trĩ Scirthothrips aurantii Faure ở Nam Phi là kết quả của
việc phá bỏ cây che bóng cho nương chè. Muraleedharan (1992a, 1992b) [100], [101]
cho biết mật độ cây che bóng đóng vai trò quyết định mật độ quần thể bọ trĩ, rệp
muội, bọ xít muỗi và nhện. Nương chè không có cây che bóng luôn có mật độ bọ trĩ,
nhện, bọ xít muỗi cao hơn những nơi có cây che bóng, chưa thấy có sự khác biết đối
với mật độ rệp. Cũng theo ông những vùng chè thấp người dân rất chú trọng trồng
cây che bóng cho chè. Ngoài lợi ích tăng hiệu suất quang hợp, từ đó tăng năng suất
chất lượng thì lá còn có tác dụng tăng hữu cơ cho đất, cải tạo đất tốt.
Cây che bóng tạo điều kiện cho các loài côn trùng có ích phát triển. Rattan
(1992) [115] khi nghiên cứu ảnh hưởng của cây che bóng cũng kết luận nương chè
không có cây che bóng bị bọ trĩ hại nặng, đặc biệt vào thời kì khô nóng. Theo
Barboka (1994) [57], nghiên cứu tại trạm thí nghiệm chè Tocklai (Ấn Độ) cho thấy ở
Đông Bắc Ấn Độ, ngay cả khi tán cây che bóng còn thưa cũng rất cần thiết cho chè.
Cây che bóng giúp tăng hiệu quả quang hợp, giảm nhiệt độ mặt lá, giảm cháy lá,
giảm phá hoại của sâu bệnh hại. Rattan (1988, 1989) [113], [114] đã tiến hành thí
nghiệm phòng trừ bọ trĩ Scirtothrips anrantii Faure bằng biện pháp đốn kết hợp phun
thuốc hóa học thì thấy rằng nếu đốn thì sự khác nhau giữa phun thuốc và không phun
thuốc giảm bớt. Ông cũng cho biết chè phục hồi sau đốn bị hại nặng, những năm đốn
muộn có thể bị mất tới 20% năng suất.
18
Lu và Lou (2016) [138] cho biết mật độ rầy xanh ở thời gian cao điểm đầu tiên
trong năm có tương quan chặt chẽ với nhiệt độ trung bình (R = 0,7793) và nhiệt độ
tối thiểu (R = 0,8189) trong tháng 4, ứng dụng để dự báo rầy xanh chính xác đến
85,7%. Cheng (1991) [90], Fan và Peptitt (1994) [140] cũng nghiên cứu ảnh hưởng
của nhiệt độ đến mật độ rầy xanh, tác giả dùng số liệu 9 năm quan sát về mật độ
Empoasca pirisuga Matsumura và tổng nhiệt độ trung bình 10 ngày trong tháng 1 và
tháng 2 để xây dựng phương trình hồi qui dự đoán ngày bắt đầu cao điểm thứ nhất
của rầy xanh. Ở Nhật Bản, Mochizuki et al. (1991) [92] nghiên cứu ảnh hưởng của
màu sắc bẫy đối với rầy trưởng thành (Empoasca onukii Matsuda). Trong 5 loại bẫy
màu vàng, xanh nhạt, xanh lá cây, đỏ và trắng thì bẫy màu vàng có hiệu quả thu bắt
trưởng thành rầy cao nhất.
Chen (1992) [139], Chen (1994, 1995a , 1995b) [144], [145], [146], Bao et al.
(2012, 2014) [141], [142] sau 10 năm điều tra tập hợp các loài bắt mồi, từ 1981 đến
1990 khẳng định mối quan hệ giữa tập hợp các loài bắt mồi và quần thể nhện bắt mồi
chịu ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái như kĩ thuật trồng trọt, khí hậu và thuốc trừ
sâu. Ông ghi nhận hơn 1100 loài thiên địch bao gồm 80 loài virut, 40 loài nấm, 240
loài ký sinh trùng và 600 loài ăn thịt, và một số loài vi khuẩn trong hệ sinh thái chè ở
Trung Quốc. Trong đó ông đi sâu nghiên cứu mối quan hệ của nhện lớn bắt mồi với
sâu hại trên chè.
Du (1932) [107] cho biết rằng giống chè có ảnh hưởng đến mật độ bọ trĩ, các
giống Trung Quốc bị hại nặng hơn giống Assam và Manipur. Somnath et al. (2010)
[118] cũng đưa quan điểm về tác động lẫn nhau giữa côn trùng bắt mồi và tính chống
chịu sâu hại của các giống chè như sau: Một sự cân bằng giữa côn trùng bắt mồi và
con mồi sẽ tăng thêm tính chống chịu sâu hại của chè. Hệ thống quản lý dịch hại tổng
hợp sẽ bền vững hơn nếu tất cả loài bắt mồi đều đóng vai trò làm giảm mật độ sâu
hại. Kết quả thí nghiệm cho thấy mật độ côn trùng bắt mồi có sự khác nhau trên 14
giống chè nghiên cứu, tỷ lệ giữa nhện hại và nhện bắt mồi cũng khác nhau giữa các
giống đó. Tác giả nhận định rằng sự bảo tồn côn trùng bắt mồi bằng cách sử dụng
chọn lọc các loại thuốc trừ sâu và lựa chọn các giống chè phù hợp là cơ sở để đạt
được thành công trong chương trình IPM trên chè.
Xie et al. (1991) [149] đã sử dụng phương pháp phân tích thành phần chính để
kiểm tra tính liên tiếp trong quần thể côn trùng trong điều kiện không phun thuốc trừ
sâu ở Quảng Đông, Trung Quốc. Kết quả như sau, trong thời gian đầu từ khi trồng
19
chè đến khi bắt đầu thu hoạch, côn trùng có xu hướng cư trú ở lá và búp non, các loài
sâu hại chủ yếu là Caloptilia theivora, Petaphora sp., Clania minuscula. Ở giai đoạn
2, 3 và qua đỉnh cao sản lượng, bắt đầu thời kì suy thoái, sâu hại chỉ gây ra những
thiệt hại nhẹ và chúng bị thiên địch khống chế. Chỉ số cân bằng quần thể và chỉ số đa
dạng quần thể đạt tối đa vào thời kì đỉnh cao sản lượng.
Năm 2002, Lester và Harmsen [108] công bố rằng khả năng kiểm soát sinh
học của các động vật bắt mồi đối với con mồi bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như
phản ứng chức năng, phản ứng phát triển, phổ vật mồi, tương tác nội bộ, các yếu tố
sinh thái. Trong đó các tác giả này đi sâu nghiên cứu yếu tố phản ứng chức năng.
Phản ứng chức năng được khái niệm là sự thay đổi về sức sinh sản, sự gia tăng quần
thể của loài ăn thịt ở các mật độ con mồi khác nhau.
Năm 2016, Yang et al. [84] đã nghiên cứu hiệu quả của bẫy pheromol giới tính
đối với việc thu bắt một số sâu hại và côn trùng bắt mồi trên chè. Từ đó làm cơ sở để
đề xuất biện pháp dùng pheromol giới tính để dẫn dụ hoặc thu bắt các loài côn trùng.
Một nhóm tác giả gồm các nhà toán học và côn trùng học Ấn Độ là Maiti et al.
(2008) [54] đã mô hình hóa tính hữu dụng kiểm soát sinh học của các loài gây hại
trên chè bằng mô hình toán học vi phân. Nhóm tác giả này khẳng định một nhiệm vụ
chính của sinh thái học lí thuyết là các mô hình phi tuyến tính dựa trên các tình huống
quan sát được tại đồng ruộng, vì vậy các tác giả đã xây dựng mô hình dựa trên ba yếu
tố là cây chè, sâu hại chè và loài bắt mồi Sarcophaga sp., dựa trên mô hình đó có thể
đề xuất một số biện pháp về mặt lý thuyết cho điều khiển sinh học trong quản lý tổng
hợp dịch hại chè.
Tại Bangladesh, Mohammad và Mustak (2011) [94] đã nghiên cứu biện pháp
IPM trên các nương chè ở Bangladesh, tác giả khẳng định các loài sinh vật trong quần
xã nương chè rất phong phú, đặc biệt là nhóm chân đốt, có tới 1034 loài động vật
chân đốt và 84 loài tuyến trùng được ghi nhận trên nương chè. Các biện pháp canh
tác và điều kiện sinh thái như cây che bóng, chu kì hái, cắt tỉa tạo hình, khí hậu thời
tiết… cần được quan tâm khi tiến hành biện pháp quản lý tổng hợp sâu hại trên
nương chè.
Theo Ocmen (1982) [106], Babu et al. (2008) [50] thì các loài côn trùng bắt
mồi ăn sâu hại chè chủ yếu thuộc 3 họ Phytoseiidae, Stigmaeidae, Tydeidae. Oligota
flaviceps Sharp là loài bắt mồi ăn thịt quan trọng của nhện đỏ son hại búp chè.
Amblyseius herbicolus (Chant) và Euseius ovalis (Evans) là hai loài nhện bắt mồi ăn
20
thịt có vai trò quan trọng trong việc điều hòa số lượng các loài nhện hại Acaphylla
theae (Watt) và Calacarus carinatus (Green).
1.2.2. Những nghiên cứu ở trong nước
1.2.2.1. Những nghiên cứu về thành phần sâu hại trên chè, mức độ phổ biến
và diễn biến mật độ của một số loài hại chính trên chè
Giai đoạn trước năm 1945, các nghiên cứu về chè đều được thực hiện tại trạm
nghiên cứu nông lâm nghiệp Phú Hộ. Những nghiên cứu đầu tiên về sâu bệnh hại chè
là do một tác giả nước ngoài Du Pasquer (1932) [107] thực hiện giai đoạn 1931 –
1935, ông đã phát hiện 35 loài sâu và bệnh hại trên chè, bao gồm 24 loài sâu, 1 loài
nhện hại. Trong đó các loài sâu hại quan trọng là sâu chùm (Andraca bipunctata
Walk), bọ xít hoa (Poecilocoris latus Dallas), rầy xanh (Empoasca flavescens
Fabricius), nhện đỏ (Paratetranychus bioculatus Wood) và sâu đục thân (Jenjea
coffeae Niether).
Nguyễn Khắc Tiến (1986) [36] đã nghiên cứu sâu hại chè ở khu vực Bắc Bộ
và khẳng định rầy xanh, nhện đỏ và bọ xít muỗi là 3 loài sâu hại phổ biến nhất, gây
thiệt hại lớn nhất trên nương chè.
Đến năm 1967 – 1968 trong cuộc tổng điều tra diện rộng trong phạm vi cả
nước, Viện Bảo vệ thực vật đã xác định 34 loài sâu, nhện hại chè thuộc 6 bộ và có 7
loài thường xuyên xuất hiện là: Sâu chùm, sâu cuốn lá, rệp sáp xanh, rầy xanh, bọ xít
muỗi, bọ xít hoa và mối. Theo Viện bảo vệ thực vật (1976) [45], Nguyễn Văn Hùng
(1988) [10], Nguyễn Đức Khiêm (1996) [17].
Trong đợt điều tra côn trùng và bệnh cây ở các tỉnh phía Nam năm 1977 –
1978, Viện Bảo vệ thực vật thu thập được 41 loài sâu và nhện hại chè trong đó các
loài gây hại chính là bọ trĩ, sâu tiện vỏ, rầy xanh, bọ xít muỗi, sâu cuốn lá và bọ xít
hoa (Viện Bảo vệ thực vật, 1976) [45], Bộ môn chuẩn đoán giám định dịch hại Viện
BVTV (2006) [3]
Phạm Văn Lầm và nnk (2011) [29] cho biết giai đoạn 2006 – 2010 điều tra tại
một số vùng trồng chè trong cả nước ghi nhận 44 loài sâu hại chè, ghi nhận mới 9 loài
cho khu hệ côn trùng trên chè ở Việt Nam.
Các kết quả nghiên cứu và công bố về thành phần sâu hại chè như sau: giai
đoạn 1986-1993 như Nguyễn Văn Thiệp và nnk (1998) [41] Nguyễn Văn Thiệp
(2000) [42], Nguyễn Văn Hùng (1998, 2001) [12], [13], Nguyễn Văn Hùng và
Nguyễn Văn Tạo (2006) [15]. Phạm Văn Lầm (2013) [30] đã ghi nhận 40 loài côn
21
trùng bắt mồi trên chè và khẳng định côn trùng nhóm chích hút như rầy xanh, bọ xít
muỗi, cánh tơ là những loài gây hại chính trên chè. Và trong các công bố về sâu hại
chè thì các tác giả thường đi sâu nghiên cứu chi tiết về diễn biến mật độ, các yếu tố
ảnh hưởng và phương pháp phòng trừ các đối tượng gây hại phổ biến.
* Những nghiên cứu về rầy xanh
Về đặc điểm hình thái học của rầy xanh hại chè đã được nhiều tác giả mô tả kỹ
lưỡng như Nguyễn Khắc Tiến (1986) [36], Nguyễn Văn Thiệp (2000) [42], Hà Quang
Hùng (2006) [16]. Các đặc điểm triệu chứng gây hại và đặc điểm sinh vật học, hình
thái học của rầy xanh hại chè được các tác giả trên mô tả khá thống nhất. Rầy xanh
dùng vòi chọc hút nhựa cây theo các đường gân chính và gân phụ lá chè và các cọng
chè non làm khô búp chè và cháy quăn lá. Rầy xanh thích ánh sáng tán xạ và ánh
sáng đèn. Chúng phát triển thuận lợi ở điều kiện nhiệt độ 23 – 27 oC và ẩm độ trên
80%. Rầy thường phá hại nặng trong vụ xuân từ tháng 2 đến tháng 6 và vụ thu từ
tháng 9 đến tháng 10.
Diễn biến và mức độ gây hại của rầy trên chè đã được nhiều tác giả đề cập đến
ở các mức độ khác nhau. Phần lớn các tác giả như, Nguyễn Khắc Tiến (1994) [37],
Nguyễn Văn Thiệp (1998, 2000) [40], [42], Nguyễn Thái Thắng (2001) [39], Lê Thị
Nhung (2002) [33] đều khẳng định rầy xanh là một trong những loài sâu hại búp chủ
yếu, xuất hiện quanh năm làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất và chất lượng
sản phẩm chè. Khi nghiên cứu sự biến động số lượng của rầy xanh trong 5 năm tại
Phú Hộ cho thấy rầy xanh có 3 cao điểm gây hại là tháng 4 – 5, tháng 7, tháng 10 –
11, trong đó cao điểm tháng 4 – 5 có mức độ gây hại lớn nhất.
Theo Nguyễn Văn Thiệp (2000) [42], trong thời gian từ 1986 – 1987 tại Phú
Hộ thì rầy xanh có 2 cao điểm là tháng 5 và tháng 10, trong đó cao điểm tháng 5 có
mật độ cao hơn gấp 5 lần mật độ tháng 10. Tháng 1 mật độ rầy thấp, tháng 2 mật độ
rầy bắt đầu tăng, từ tháng 3 mật độ rầy tăng khá nhanh và đạt đỉnh cao vào tháng 5
(16,56 con/khay). Qua đỉnh điểm tháng 5, mật độ rầy lại giảm dần và thấp nhất ở
tháng 8 (1,51 con/khay), sau đó mật độ rầy lại tăng lên và đạt đỉnh cao vào tháng 10
(2,75 con/khay), tháng 11 mật độ rầy giảm. Nhưng giai đoạn 1993 đến 1997 thì mật
độ rầy xanh tăng lên nhiều, có hai cao điểm vào tháng 5 (18,89 con/khay) và tháng 9
(7,49 con/khay).
22
* Những nghiên cứu về bọ trĩ
Ở Việt Nam, nghiên cứu về bọ trĩ hại chè được bắt đầu tương đối sớm, Du
Pasquier (1932) [107] đã tìm hiểu các loài bọ trĩ hại chè, cà phê về sự phân bố, tập
tính sinh sống, triệu chứng gây hại và tác hại. Ông cho biết có 4 loài bọ trĩ hại chè
gồm: Physothrips setiventris, Heliothrips setiventris, Physothrips leproyi và
Bergmatothrips theifloris.
Các tác giả Nguyễn Khắc Tiến (1986, 1994), [36], [37], Nguyễn Văn Thiệp
(2000) [42], Hà Quang Hùng và Bùi Thanh Hương (2002) [14] miêu tả hình thái và
triệu trứng gây hại của bọ trĩ trên chè có những điểm chung như sau: Bọ trĩ hại chè có
nhiều loài khác nhau nhưng ở Bắc Bộ loài thường phát sinh là Physothrips setiventris
Bagn. Bọ trĩ trưởng thành cơ thể có 3 mắt đơn màu đỏ xếp chụm vào nhau hình tam
giác, bụng có 10 đốt, râu đầu 6 đốt, cơ thể dài 0,8 – 1mm, có lông thưa, đẻ trứng rải
rác từng quả trong mô lá. Bọ trĩ hoạt động linh hoạt, thường nằm ở nách lá non, bên
cạnh gân chính và kẽ hở của tôm chè. Vòng đời trải qua giai đoạn trứng, ấu trùng
gồm 2 tuổi, tiền nhộng, nhộng và trưởng thành (Nguyễn Văn Thiệp, 2000) [42]. Bọ
trĩ hại búp chè non, tôm, cuộng búp làm cho búp chè thô, cứng và cằn lại, biến dạng
cong queo. Khi hại nặng thì búp chè chùn lại, không phát triển được, nhìn như chè bị
thiếu dinh dưỡng nghiêm trọng. Trường hợp bị phá hại nặng thì lá non rụng hết chỉ
còn trơ lại cuộng búp, càng những búp chè chưa mở càng bị hại nặng
Theo Nguyễn Văn Thiệp (2000) [42], diễn biến mật độ bọ trĩ Physothrips
setiventris Bagn trong năm ở Phú Hộ có 1 cao điểm là tháng 6 – 8 (4,87 con/búp). Và
thiệt hại do chúng gây ra làm giảm năng suất búp chè tươi là 20,14%. Cũng theo tác
giả này mật độ bọ trĩ và rầy xanh có mối quan hệ tương quan nghịch theo phương
trình sau: y = -0,1681x + 8,3544. Giống chè cũng ảnh hưởng tới mật độ bọ trĩ, trên 6
giống điều tra thì bọ trĩ hại nặng nhất trên giống TRI777. Đầu năm mật độ bọ trĩ rất
thấp và tăng dần qua các tháng 2, 3, 4. Từ tháng 5 mật độ bọ trĩ tăng nhanh và đạt cao
nhất vào tháng 6 – 8, sau đó lại giảm dần và thấp nhất là tháng 12 (0,38 con/búp).
1.2.2.2. Những nghiên cứu về thành phần côn trùng bắt mồi và diễn biến mật
độ một số loài côn trùng bắt mồi phổ biến trên chè
Các nghiên cứu về thiên địch ở Việt Nam rất ít. Nếu như những nghiên cứu về
sâu bệnh hại chè mới bắt đầu được nghiên cứu từ năm 1930 thì cho đến tận những
năm 1990 thì các nghiên cứu về thiên địch mới bắt đầu được tiến hành. Người đầu
tiên nghiên cứu về thiên địch trên chè là Nguyễn Văn Thiệp (1998) [40], ông công bố
23
có 13 loài thiên địch của sâu hại chè ở Phú Hộ trong đó có 6 loài thiên địch chủ yếu
của sâu hại chè gồm 4 loài nhện, 1 loài bọ xít bắt mồi và 1 loài kiến đen nhỏ. Nhóm
bắt mồi đầu tiên được nghiên cứu là nhóm nhện bắt mồi (Nguyễn Văn Đĩnh, 2001)
[7]). Các tác giả Lê Thị Nhung (2002) [33], Lê Thị Nhung và Nguyễn Thái Thắng
(1996) [32] Đặng Đức Khương, Trương Xuân Lam (2001) [18], Vũ Quang Côn và
Trương Xuân Lam (1994, 2002) [4], [5], Trương Xuân Lam (2001, 2002, 2008) [19],
[20], [22] công bố giai đoạn 1996 – 1999, tại các nương chè Phú Thọ ghi nhận 79 loài
thiên địch bao gồm cả bắt mồi và kí sinh trong đó có 33 loài thiên địch của rầy xanh,
21 loài thiên địch của nhện đỏ nâu, 16 loài thiên địch của bọ xít muỗi, 10 loài thiên
địch của bọ cánh tơ và 19 loài thiên địch của rệp muội đen. Tác giả khẳng định tập
hợp bọ rùa ăn thịt là loài thiên địch quan trọng nhất đối với nhện đỏ, thí nghiệm trong
phòng cho thấy 1 bọ rùa trưởng thành tiêu thụ 10 – 15 con nhện đỏ trong vòng 24h.
Cũng tác giả này cho biết từ năm 1996 – 1998, mật độ tập hợp thiên địch giảm 36 lần.
Điều này cho thấy thâm canh cây chè, lạm dụng hóa chất bảo vệ thực vật làm tập hợp
thiên địch giảm đi nhanh chóng. Tác giả đã mô tả hình thái 22 loài thiên địch thường
xuất hiện trên nương chè, đi sâu nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái học của
nhện đen đuôi nhọn, một loài thiên địch của rầy xanh, bọ cánh tơ, rệp muội nâu đen.
Tác giả Phạm Văn Lầm và nnk (2005a) [24] cho biết giai đoạn 1996 – 2000
điều tra tại một số vùng trồng chè thuộc Thái Nguyên, Phú Thọ, Hà Giang, Tuyên
Quang đã phát hiện 43 loài thiên địch của sâu hại chè thuộc 10 bộ côn trùng, nhện
nhỏ và tuyến trùng. Các loài thiên địch thu được tập trung ở bộ Araneae với số lượng
15 loài (chiếm 34,9% tổng số loài thu được), tiếp theo là bộ Coleoptera với 13 loài
(chiếm 30,2% tổng số loài thu được, các bộ khác chỉ thu được từ 1 đến 5 loài.
Phạm Văn Lầm (2013) [30] trong thời gian từ năm 2006 – 2011 đã tiến hành
thu thập tập hợp loài chân khớp tại các vùng trồng chè chính như Thái Nguyên, Phú
Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang, Hà Giang, Hòa Bình, Nghệ An, Lâm Đồng... Hàng ngàn
mẫu vật đã thu thập và xác định được 166 loài chân khớp thuộc 13 bộ thuộc lớp Côn
trùng và lớp hình nhện, ghi nhận 113 loài thiên địch, đã định danh được 56 loài thiên
địch, 11 loài chưa rõ mối quan hệ với nương chè, có ít nhất 10 loài thiên địch được
ghi nhận đầu tiên trên cây chè ở Việt Nam gồm: Cyrorhinus lividipennis Reuter;
Rhinocoris fuscipes (Fabricius); Sycanus croceovittatus Dohn; Eucolliuris fuscipennis
(Chaudoir); Odacantha metallica (Fairmaire); Ophionea indica (Thunberg); Leis
24
dimidiata (Fabricius); Ancylopteryx octopunctata (Fabricius); Ummeliata insecticeps
(Bosenberg & Strand); Oxyopes javanus Thorell.
Lê Thị Nhung (2002) [33] theo dõi tại 2 cao điểm tháng 4 và tháng 7 năm
1999 cho biết mật độ tâp hợp thiên địch tại một số huyện của Phú Thọ như sau: mật
độ tập hợp thiên địch tháng 4/1999 cao nhất tại Phú Hộ (1,7 con/khay), tiếp theo đến
Phú Sơn (1,6 con/khay), sau đó là Hạ Hòa (0,9 con/khay) và thấp nhất là Vân Lĩnh
(0,3 con/khay). Mật độ tập hợp thiên địch tháng 7/1999 cao nhất ở Phú Hộ (1,6
con/khay), tiếp theo đến Phú Sơn (0,7 con/khay), sau đó đến Vân Lĩnh (0,2 con/khay)
và không thấy xuất hiện ở Hạ Hòa (0 con/khay).
Lê Thị Nhung (2002) [33] theo dõi mật độ thiên địch trong suốt 3 năm 1996 –
1998 cho biết hàng năm mật độ tập hợp thiên địch có 2 cao điểm vào tháng 6 – 8 và
tháng 11, mật độ tập hợp thiên địch thấp nhất vào tháng 3 (trung bình trong 3 năm là
0,70 con/khay), sau đó tăng cao dần và đạt đỉnh cao vào tháng 6 – 8 (trung bình 3
năm lần lượt là 1,20 con/khay, 1,12 con/khay và 1,30 con/khay), sang tháng 9 giảm
nhẹ (1,10 con/khay) và lại tăng trở lại vào tháng 10 và lại đạt cao điểm thứ 2 tại tháng
11 (trung bình 3 năm là 1,28 con/khay), sang tháng 12 mật độ này giảm xuống còn
0,87 con/khay.
Nguyễn Văn Thiệp (2000) [42] nghiên cứu diễn biến mật độ của tập hợp nhện
lớn bắt mồi tại Phú Hộ trong 4 năm liên tục từ 1994 – 1997 cho biết mật độ tập hợp
nhện lớn bắt mồi có sự biến động qua các tháng trong năm. Chúng thấp nhất ở những
tháng đầu năm (tháng 1 trung bình là 0,5 con/khay) và tăng dần ở các tháng tiếp theo
(tháng 2 trung bình là 0,76 con/khay, tháng 3 trung bình là 1,05 con/khay, tháng 4
trung bình là 2,55 con/khay) và cao nhất vào tháng 5 và tháng 6 (3,39 – 3,3
con/khay), sang tháng 7 mật độ tập hợp nhện lớn bắt mồi giảm và thấp nhất vào tháng
8 (1,67 con/khay), sau đó lại tăng lên vào tháng 9 (2,47 con/khay) và duy trì mật độ
từ 2,31 đến 2,94 con/khay.
Phạm Văn Lầm và nnk (2005a) [24] theo dõi mật độ thiên địch trên cây chè
Tân Cương, Thái Nguyên cho biết hầu hết các loài thiên địch có sự hiện diện trên cây
chè thường rất thấp. Mật độ chung của tập hợp nhện lớn điều tra năm 2005 thường
đạt trung bình 0,3 – 0,4 con/khay và trung bình cao nhất là 1,2 – 1,3 con/khay vào
tháng 5. Mật độ bọ rùa cao nhất là 0,3 – 0,5 con/khay.
Phạm Văn Lầm và Trương Thị Lan (2007a) [26] cho biết năm 2005, tại Tân
Cương, Thái Nguyên mật độ chung của các loài nhện lớn bắt mồi cao nhất đã đạt 7,0
25
– 9,0 con/khay (từ ngày 9/7/2005 đến 16/7/2005). Năm 2006, cũng tại đó, mật độ
chung của các loài nhện lớn bắt mồi cao nhất chỉ đạt 0,5 – 1,1 con/khay (từ ngày
8/6/2006 đến 20/7/2006).
1.2.2.3. Nghiên cứu mối quan hệ của một số loài côn trùng bắt mồi với vật mồi
là sâu hại phổ biến trên chè
Cho đến nay, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về nhóm thiên địch bắt
mồi trên các cây trồng khác như đậu tương, lạc, rau, lúa ngô… nhưng các nghiên cứu
về côn trùng bắt mồi trên cây chè thì chưa được nghiên cứu nhiều. Các nghiên cứu về
thiên địch trên các cây trồng khác bắt đầu từ rất sớm nhưng trên cây chè mới bắt đầu
vào những năm cuối thế kỉ 20, tuy nhiên chủ yếu mới bước đầu nghiên cứu về thành
phần thiên địch và đề xuất phương hướng quản lý tổng hợp dịch hại chè. Đến những
năm đầu của thế kỉ XXI, qui trình quản lý tổng hợp dịch hại chè được các chuyên gia
khuyến cáo sử dụng. Tuy nhiên trong giai đoạn đầu này chỉ đề xuất các biện pháp cần
thực hiện trong qui trình IPM trên chè, trong đó có đề xuất biện pháp bảo vệ và thúc
đẩy thiên địch trên nương chè, nhưng chưa có các công bố chi tiết về đặc điểm sinh
học và phương pháp bảo vệ, sử dụng thiên địch.
1.2.2.4. Những nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái lên sâu hại, côn
trùng bắt mồi và mối quan hệ giữa chúng trên chè
+) Ảnh hưởng của giống chè:
Nguyễn Văn Thiệp (2000) [42] cho biết giống chè là một yếu tố sinh thái tác
động đến sự phát sinh của rầy xanh, có giống là thức ăn ưa thích có giống lại không là
thức ăn ưa thích của rầy xanh, các giống chè thuộc nhóm chè Shan, Assam, Trung Du
ở Phú Hộ thường bị rầy xanh hại nặng hơn nhóm giống Manipua, Zectinga và Trung
Quốc lá nhỏ. Tác giả cũng cho biết giống chè TRI 777 nhiễm bọ trĩ nặng nhất (2,36
con/búp, mức a), giống chè Trung du và TH3 nhiễm bọ trĩ tương đương nhau (1,94
con/búp và 2,07 con/búp, mức b), giống PH1 và Shan nhiễm bọ trĩ tương đương nhau
(1,53 con/búp và 1,55 con/búp, mức c).
+) Ảnh hưởng của cây che bóng, cường độ ánh sáng:
Nguyễn Văn Thiệp (2000) [42] cho biết trồng cây che bóng có tán che phủ mặt
đất từ 16 – 70% để giảm cường độ ánh sáng tới cây chè. Nơi có cường độ ánh sáng
yếu (dưới cây che bóng) thì số lượng của rầy xanh giảm, mối quan hệ này thể hiện
bởi phương trình hồi qui y = 0,5743x + 4,4949, với hệ số tương quan R = 0,93, tỷ lệ
búp chè bị rầy xanh hại ở nương chè có cây che bóng thấp hơn ở nương chè không có
cây che bóng từ 10 – 30%. Cũng tác giả này cho biết cây che bóng có ảnh hưởng
26
khác nhau đến các chỉ tiêu sinh trưởng của cây chè. Cường độ ánh sáng và khối lượng
búp chè có mối tương quan nghịch chặt chẽ theo phương trình hồi qui y = 0,0023x -
0,8658 (R = - 0,9756). Tác giả cũng cho biết tỷ lệ búp chè bị bọ trĩ hại cũng tương
quan thuận với cường độ ánh sáng theo phương trình hồi qui y = 0,3493x + 0,5550 (R
= 0,9852), cây che bóng có tác dụng hạn chế tác hại của bọ trĩ khá tốt.
Theo Nguyễn Văn Hùng (2001) [13] cây che bóng sẽ điều chỉnh cường độ
chiếu sáng xuống tán chè và cường độ ánh sáng có mối tương quan thuận rất chặt với
tỷ lệ búp chè bị rầy xanh hại với R 0,9331 và phương trình hồi qui y = 0,5743 +
4,4949. Cường độ ánh sáng có quan hệ tỷ lệ thuận rất chặt với tỷ lệ búp chè bị hại do
bọ trĩ với R 0,9852. Lê Thị Nhung (2002) [33] nghiên cứu tại Phú Thọ cho biết trên
lô chè có trồng cây che bóng mát mật độ rầy xanh, bọ trĩ giảm đáng kể so với chè
không có cây che bóng mát.
+) Ảnh hưởng của chế độ canh tác, biện pháp chăm sóc:
Lê Thị Nhung (2002) [33] cho biết ở lô chè sạch không phun thuốc trừ sâu, chỉ
dùng biện pháp chăm sóc và can thiệp bằng biện pháp hái chè, bón phân đầy đủ cân
đối là cho cây chè sinh trưởng khỏe, biến động của mối quan hệ giữa cây chè - sâu
hại - thiên địch trong sinh quần nương chè ổn định, chúng tự điều hòa lẫn nhau, mật
độ rầy xanh, bọ trĩ luôn thấp dưới ngưỡng mật độ cần phòng trừ. Ở lô chè sản xuất
đại trà, mặc dù phun thuốc thường xuyên nhưng mật độ rầy xanh, bọ trĩ vẫn rất cao,
đặc biệt tháng 9, mật độ rầy xanh ở lô sản xuất đại trà cao hơn lô chè không phun
thuốc trên giống PH1 là 16,73 lần.
Ảnh hưởng của sinh thái vùng chè: Lê Thị Nhung, 2002 [33] tiến hành điều tra
trên các vùng sinh thái đồi chè khác nhau tại Phú Thọ năm 1998 cho thấy mật độ tập hợp
thiên địch cao nhất ở chè rừng (3,2 con/khay), sau đó đến chè dưới tán keo (2,8
con/khay), thấp nhất là chè sản xuất (1,06 con/khay). Như vậy, về mặt đa dạng sinh học,
phát triển bền vững thì thấy rõ chế độ canh tác chè của chúng ta đang có vấn đề, dẫn đến
đa dạng sinh quần nương chè giảm, tập hợp thiên địch giảm nhanh về số lượng.
+) Ảnh hưởng của kĩ thuật hái chè:
Nguyễn văn Thiệp (2000) [42] cho biết hái san trật có mật độ rầy xanh cao
nhất (11,87 con/khay), hái theo lứa mật độ rầy xanh thấp hơn (9,29 con/khay), hái kĩ
thì thấp nhất (6,52 con/khay). Tỷ lệ búp bị rầy xanh hại ở chè hái san trật và hái theo
lứa tương đương nhau và cao hơn so với hái kĩ. Ông cũng cho biết, khi hái san trật
mật độ bọ trĩ cao nhất (1,73 con/búp, mức a) hái theo lứa và hái kĩ tương ứng là 1,22
con/búp và 1,39 con/búp (cùng mức b). Nguyễn Văn Hùng (2001) [13] cho biết hái kĩ
làm giảm đi nhiều rầy và trứng rầy, bọ trĩ và trứng bọ trĩ, hái đi tất cả các búp nên
27
cũng giảm đi thức ăn của rầy, bọ trĩ. Vì vậy ngay sau khi hái thì mật độ rầy xanh và
bọ trĩ giảm nhiều nhưng khi búp phát triển thì tỉ lệ hại lại tăng cao, khi búp chè phát
triển cứng cáp thì tỉ lệ hại không tăng nhiều.
+) Ảnh hưởng của kĩ thuật đốn chè:
Nguyễn Khắc Tiến (1986) [36] cho biết rầy xanh hại nặng trên chè đốn đau,
chè con và chè chăm sóc ít. Ông cũng cho biết đốn chè có ảnh hưởng đến số lượng
rầy xanh. Công thức đốn sửa bằng có mật độ rầy xanh cao nhất, sau đó đến công thức
đốn phớt xanh, đốn phớt và đốn thấp 45cm.
Lê Thị Nhung (2002) [33] cũng cho biết điều tra từ tháng 12/1998 đến tháng
02/1999 thì chè đốn đau có mật độ rầy xanh (13,40 con/khay) cao hơn 3,6 lần so với
rầy xanh ở chè đốn phớt (3,7 con/khay). Mật độ thiên địch ở chè đốn đau và chè đốn
phớt không sai khác (cùng bằng 0,6 con/khay). Tấn Phong (1991) [34] cũng cho biết
bộ lá chừa sau khi đốn càng nhiều thì búp chè sinh trưởng càng mạnh. Nguyễn Văn
Thiệp, 2000 [42] cho biết đốn chè sẽ tạo cành mới, tăng cường độ tán lá, tăng búp.
Chè đốn tháng 12 và chè để lưu có mật rầy trung bình từ tháng 1 đến tháng 6 hàng
năm cao hơn chè đốn vào tháng 1 và tháng 2, từ tháng 6 trở đi mật độ rầy xanh trở về
trạng thái bình thường. Tỷ lệ búp bị rầy xanh hại ở công thức chè đốn tháng 1,2 là
nặng nhất tương ứng là 78,48% và 82,38%, ở công thức đốn tháng 12 là 59,87%, chè
để lưu là 42,49%. Và trong giai đoạn phục hồi sau đốn, tuổi búp chè càng non thì tỷ
lệ búp bị rầy xanh hại càng cao: giai đoạn 1 tôm + 1 lá cá búp chè bị hại nặng nhất là
91,96% đến 95,40%; búp chè ở giai đoạn từ 1 tôm + 1 lá thật đến 1 tôm + 2 lá thật tỷ
lệ hại là 71,16% đến 75,80%; giai đoạn 1 tôm + 3 lá thật tỷ lệ bị hại là 67,33%. Lê
Thị Nhung (2002) [33] cho biết chè đốn sớm bị rầy xanh gây hại nặng hơn (5,8
con/khay) đốn muộn (1,00 con/khay) và không đốn (4,33 con/khay) còn mật độ và số
loài thiên địch lại thấp hơn so với lô chè đốn muộn và không đốn. Lô chè đốn đau có
mật độ rầy xanh (13,40 con/khay) cao hơn đốn phớt (3,7 con/khay).
+) Ảnh hưởng của thuốc hóa học đến thiên địch:
Nguyễn Văn Thiệp (2000) [42] cho biết hầu hết các loại thuốc thí nghiệm
(Padan 95WP, Kayazion, Sherpa 40EC, Slecron 500ND, Sumicidin 10EC, Pegasus
500SC, Ofatox 400EC, Trebon 10EC) đều ảnh hưởng rõ rệt đến tập hợp nhện lớn bắt
mồi trên chè, ông chưa tìm hiểu ảnh hưởng đối với nhóm côn trùng bắt mồi. Lê Thị
Nhung (2002) [33] nghiên cứu hệ số tái bùng phát quần thể rầy xanh, bọ trĩ sau khi
phun thuốc Sherpa 25EC tại gò Trạch, đội 25 công ty chè Phú Bền, trên giống chè
PH1 cho thấy phun thuốc Sherpa 25EC sau 14 ngày đã làm tăng mật độ bọ trĩ lên 37
lần, tăng mật độ rầy xanh lên 26 lần so với công thức không phun thuốc. Tác giả cũng
28
cho rằng việc dùng thuốc có phổ tác động rộng để phun trừ sâu hại trên chè làm bùng
phát dịch hại sau đó và giảm mật độ thiên địch trên chè.
Phạm Văn Lầm và nnk (2005a) [24] sau nhiều năm nghiên cứu về thiên địch
và sâu hại chè đã nhận định sự hiện diện của thiên địch trên cây chè phụ thuộc khá rõ
vào việc sử dụng thuốc hóa học bảo vệ thực vật. Ở lô chè sau hơn 1 năm không sử
dụng thuốc hóa học có số loài thiên địch xuất hiện nhiều hơn và mức độ xuất hiện
phổ biến hơn, thường là mức độ hiện diện cao (+++) trong khi ở lô chè dùng thuốc
hóa học thiên địch chỉ hiện diện với mức độ thấp (+). Tập hợp nhện lớn bắt mồi sau
hơn 1 năm không dùng thuốc hóa học có mật độ biến động từ 1,5 – 1,7 con/khay
(tháng 8/1999) đến 2,7 – 3,2 con/khay (tháng 11/1999). Trong khi mật độ này ở chè
phun thuốc theo dự báo chỉ là 0,2 – 1,8 con/khay và ở chè phun thuốc định kì là 0,4 –
1,7 con/khay.
Phạm Văn Lầm và nnk (2003) [23] cho biết khi phỏng vấn nông dân ở 9 xã
trồng chè tại Thái Nguyên cho thấy số lần phun thuốc trong 1 năm trên cây chè rất
khác nhau. Tại xã Hóa Tung, người phun ít nhất 4 lần/năm, người phun nhiều nhất là
45 lần/năm. Tại xã Vô Chanh, người phun ít nhất là 12 lần/năm, người phun nhiều
nhất là 20 lần/năm. Trong đó 2/3 số người được hỏi phun dưới 15 lần/năm, 1/3 số
người được hỏi phun từ 15 lần/năm trở lên, trong đó có 10,1% số người được hỏi
phun trên 20 lần/năm.
Phan Xuân Thanh và nnk (2005) [38] đã thử nghiệm hiệu lực của thuốc thảo
mộc Sông Lam 333 phòng trừ sâu hại chè. Chế phẩm này dùng riêng rẽ hay dùng hỗn
hợp với Padan, Monster đều cho hiệu lực khá tốt đối với rầy xanh, bọ trĩ, nhện đỏ ít
ảnh hưởng đến thiên địch nên được nhóm tác giả đề xuất sử dụng theo quan điểm
IPM trên chè tại Thái Nguyên và Phú Thọ.
Phạm Văn Lầm và Trương Thị Lan (2007b) [27] tìm hiểu sự thay đổi mật độ
nhện lớn bắt mồi và bọ rùa đỏ trên chè tại Thái Nguyên và Phú Thọ khi sử dụng
thuốc hóa học bảo vệ thực vật. Các tác giả khẳng định thuốc trừ sâu hóa học có ảnh
hưởng rất lớn đến mật độ côn trùng bắt mồi, cụ thể tại bảng 1.1 và 1.2.
Tiếp tục nghiên cứu vấn đề này Phạm Văn Lầm và Trương Thị Lan (2008)
[28] nghiên cứu xây dựng mô hình sử dụng hợp lý thuốc trừ sâu hóa học tại Tân
Cương, Thái Nguyên trong năm 2005 và 2006. Các hộ nông dân trong mô hình được
hướng dẫn sử dụng thuốc theo 4 đúng, số lần phun thuốc ít hơn ngoài mô hình 8 lần.
Kết quả theo dõi sau 1 năm thực hiện mô hình có sự khác biệt rõ rệt mật độ sâu hại và
thiên địch trong và ngoài mô hình. Trong năm 2005, mật độ rầy xanh trên chè ở mô
29
hình từ 0,8 đến 11,0 con/khay luôn thấp hơn ngoài mô hình 1,4 đến 12,4 con/khay.
Năm 2006, rầy xanh phát sinh thấp hơn năm 2005 nhưng mật độ ngoài mô hình là
0,45 đến 5,93 con/khay luôn cao hơn trong mô hình 0,24 đến 4,33 con/khay. Tỷ lệ
búp chè bị bọ trĩ hại ở trong mô hình luôn thấp hơn ngoài mô hình. Trong mô hình, tỷ
lệ này năm 2005 là 0,6 – 5,0%, năm 2006 là 0,7 – 5,3%. Ngoài mô hình, tỷ lệ này
năm 2005 là 2,2 – 8,0%, năm 2006 là 2,7 – 8,7%. Bên cạnh đó mật độ nhện lớn bắt
mồi trong mô hình luôn cao hơn ngoài mô hình. Mật độ chung các loài nhện lớn bắt
mồi đã điều tra được vào tháng 7/2005 đạt 9,0 con/khay trong mô hình và ngoài mô
hình là 7,0 con/khay.
Bảng 1.1. Mật độ chung của nhện lớn bắt mồi trên cây chè với số lần phun thuốc
hóa học trừ sâu khác nhau (Phú Hộ, Phú Thọ, 1999)
Thời gian điều
tra
Mật độ chung của nhện lớn bắt mồi ở các điều kiện phun
thuốc hóa học trừ sâu khác nhau (con/khay)
Không phun thuốc 4 lần phun thuốc 6 lần phun thuốc
10/08/1999 1,6 ± 0,06 1,0 ± 0,06 0,9 ± 0,07
20/08/1999 1,7 ± 0,23 1,0 ± 0,11 1,4 ± 0,18
30/08/1999 1,5 ± 0,16 0,7 ± 0,06 0,8 ± 0,08
10/09/1999 2,2 ± 0,11 1,0 ± 0,08 0,8 ± 0,12
20/09/1999 2,2 ± 0,23 1,1 ± 0,08 1,2 ± 0,15
30/09/1999 2,0 ± 0,23 1,2 ± 0,08 0,8 ± 0,15
10/10/1999 2,3 ± 0,19 1,8 ± 0,20 1,7 ± 0,20
20/10/1999 2,3 ± 0,19 1,5 ± 0,18 1,1 ± 0,11
30/10/1999 1,7 ± 0,12 1,5 ± 0,12 1,4 ± 0,16
10/11/1999 3,2 ± 0,32 0,2 ± 0,01 0,7 ± 0,08
20/11/1999 1,7 ± 0,28 0,5 ± 0,04 0,5 ± 0,10
30/11/1999 2,3 ± 0,30 0,8 ± 0,10 0,4 ± 0,04
10/12/1999 2,3 ± 0,11 0,6 ± 0,01 0,4 ± 0,06
Nguồn: Phạm Văn Lầm và Trương Thị Lan (2008) [28]
30
Bảng 1.2. Mật độ bọ rùa đỏ trên cây chè ở các điều kiện phun thuốc hóa học trừ
sâu khác nhau (Phú Hộ, Phú Thọ, 1999)
Thời gian điều
tra
Mật độ bọ rùa đỏ ở các điều kiện phun thuốc hóa học trừ sâu
khác nhau (con/khay)
Không phun thuốc 4 lần phun thuốc 6 lần phun thuốc
10/08/1999 0,24 ± 0,04 0 0
20/08/1999 0,20 ± 0,03 0 0
30/08/1999 0,17 ± 0,04 0 0
10/09/1999 0,20 ± 0,01 0 0,02 ± 0,02
20/09/1999 0,27 ± 0,03 0 0,04 ± 0,02
30/09/1999 0,31 ± 0,10 0 0,03 ± 0,02
10/10/1999 0,20 ± 0,05 0 0
20/10/1999 0,08 ± 0,01 0 0
30/10/1999 0,11 ± 0,07 0 0
10/11/1999 0,41 ± 0,12 0 0
20/11/1999 0,29 ± 0,03 0,10 ± 0,02 0,5 ± 0,10
30/11/1999 0,25 ± 0,26 0 0
10/12/1999 0,19 ± 0,08 0 0
Nguồn: Phạm Văn Lầm và Trương Thị Lan (2008) [28]
+) Ảnh hưởng của một số yếu tố sinh thái khác:
Khi nghiên cứu ở nương chè chân đồi, lưng đồi và đỉnh đồi, Lê Thị Nhung
(2002) [33] cho biết mật độ rầy xanh cao nhất ở chân đồi (4,61 con/khay), tiếp theo là
lưng đồi và thấp nhất là đỉnh đồi (2,14 con/khay). Ngược lại mật độ bọ trĩ ở đỉnh đồi
cao gấp 5 lần so với chân đồi. Thiên địch thường tập trung nhiều hơn ở chân đồi và
đỉnh đồi. Mật độ rầy xanh và bọ trĩ ở hướng Tây cao hơn hướng Đông. Mật độ tập
hợp thiên địch hướng Tây cao hơn ở hướng Đông. Thành phần thiên địch ở hướng
Đông (5 loài/lần điều tra) lại phong phú hơn ở hướng Tây (2 loài/lần điều tra).
Nguyễn Văn Thiệp (1998, 2000) [40], [42], Nguyễn Văn Thiệp và nnk (1998)
[41] theo dõi số liệu từ năm 1986 đến 1997, phân tích thống kê và cho biết nhiệt độ
không khí 25 – 26oC là thích hợp nhất cho rầy xanh tích lũy số lượng và phát sinh
thành dịch ở vùng Phú Hộ.
31
Nguyễn Khắc Tiến (1986) [36] đã chứng minh ẩm độ không khí ảnh hưởng
đến rầy xanh thông qua cây chè (thức ăn của rầy xanh). Lượng mưa tháng 1 – 2 tương
quan thuận với mật độ rầy (R = 0,631). Lê Thị Nhung (2002) [33] theo dõi số liệu
nhiệt độ, ẩm độ, lượng mưa, số giờ nắng, diễn biến mật độ sâu chích hút trên chè
trong 3 năm 1996 – 1998 cho biết: trong các yếu tố thời tiết thì yếu tố nhiệt độ có ảnh
hưởng mạnh nhất tới sự phát sinh và gây hại của rầy xanh, bọ trĩ, thể hiện ở hệ số
tương quan giữa nhiệt độ trung bình ngày và mật độ rầy xanh là R = 0,64, hệ số tương
quan giữa nhiệt độ trung bình ngày và mật độ bọ trĩ là R = 0,78. Độ ẩm không khí
hầu như không ảnh hưởng đến mật độ bọ trĩ, thể hiện ở hệ số tương quan giữa ẩm độ
không khí với mật độ bọ trĩ rất thấp R = 0,10. Lượng mưa hàng tháng không có quan
hệ chặt chẽ với mật độ rầy xanh (R = 0,32) nhưng lại có quan hệ chặt chẽ với mật độ
bọ trĩ (R = 0,85). Số giờ nắng không có quan hệ chặt chẽ với mật độ rầy xanh (R =
0,17) và bọ trĩ (R = 0,42). Tác giả cũng cho biết khác với sâu hại, các loài thiên địch
không bị ảnh hưởng nhiều bởi ẩm độ và lượng mưa, chỉ chịu tác động nhiều của nhiệt
độ và số giờ nắng (thiên địch trên chè đạt mật độ cao vào thời gian tháng 5 đến tháng
11 khi nhiệt độ trung bình tháng đạt 22 – 28oC và tổng số giờ nắng đạt trên 100 giờ).
Mật độ tập hợp thiên địch có quan hệ tương quan không chặt chẽ với ẩm độ (R =
0,43, y = 0,0463x – 2,6786) và lượng mưa (R = 0,45, y = 0,0011x + 0,7681) nhưng
có quan hệ tương quan chặt chẽ với nhiệt độ trung bình ngày (R = 0,63, y = 0,0259x
+ 0,5302), với số nắng (R = 0,81, y = 0,0635x + 0,7681). Mật độ thiên địch trên chè
tại Phú Thọ có mối quan hệ tương quan rất chặt chẽ với số giờ nắng (R = 0,96, y =
0,605x + 1,2185), tương quan khá chặt với nhiệt độ (R = 0,6407, y = 0,2205x +
6,9443), lượng mưa (R = 0,6423, y = 0,0024x + 2,34) và ẩm độ (R = 0,5233, y =
0,0391x + 4,3565).
Theo Nguyễn Văn Hùng (2001) [13], nhiệt độ trung bình 25 – 26 oC là khoảng
nhiệt độ thích hợp nhất cho rầy xanh tích lũy số lượng và phát sinh thành dịch, tương
đương với nhiệt độ tháng 4 – 5 và tháng 9 – 10 hàng năm (hai cao điểm rầy xanh hại
32
chè hàng năm). Sự phát sinh của rầy xanh còn liên quan chặt chẽ đến ẩm độ và lượng
mưa tháng 1 và 2 (R = 0,631) thông qua sự tác động của lượng mưa vào cây chè.
Mưa phùn tháng 1 và 2 làm cho thời tiết ẩm hơn, chè lại chủ yếu trồng ở trên đồi cao,
phụ thuộc vào nước mưa hoàn toàn nên thời gian này cây chè phát triển tốt, ra búp
nhiều hơn tạo nguồn thức ăn dồi dào cho rầy xanh tích lũy số lượng.
Theo Nguyễn Văn Thiệp, 2000 [42], Phạm Thị Vượng, Nguyễn Văn Hành
(1990) [48] thì tuổi chè lớn (chè giai đoạn sản xuất kinh doanh) có mật độ rầy xanh
cao hơn tuổi chè nhỏ (chè kiến thiết cơ bản). Ngược lại, mật độ bọ trĩ trên chè con ở
các giai đoạn khác nhau hầu hết đều cao hơn trên chè tuổi lớn, ở chè con mật độ bọ trĩ
trung bình cả năm là 1,07 con/búp, ở chè lớn tuổi là 0,80 con/búp. Ông cho rằng chè
con mới trồng, cành lá còn ít, tất cả các búp chè đều tràn đầy ánh nắng, nương chè
thông thoáng, ẩm độ cao là điều kiện thuận lợi cho bọ trĩ phát triển.
Nhận xét chung các nghiên cứu ở Việt Nam
Nhìn chung tại Việt Nam các nghiên cứu về thành phần côn trùng và biến
động số lượng các loài sâu hại phổ biến trên chè đã được nghiên cứu rất chi tiết bởi
các tác giả Nguyễn Văn Thiệp (2000) [42] và Lê Thị Nhung (2002) [33]. Tuy nhiên
các nghiên cứu về côn trùng bắt mồi còn rất hạn chế, các kết quả đã công bố chỉ tập
trung nghiên cứu thành phần và diễn biến mật độ tập hợp thiên địch mà chưa nghiên
cứu từng đối tượng cụ thể.
Nghiên cứu về ảnh hưởng của một số yếu tố sinh thái như giống, cây che
bóng, kĩ thuật hái chè, kĩ thuật đốn, thời gian đốn...cũng bước đầu được nghiên cứu
bởi các tác giả nói trên. Tuy nhiên các công trình đã công bố chỉ tập trung nghiên cứu
ảnh hưởng của yếu tố sinh thái lên biến động số lượng mật độ sâu hại chè mà chưa có
công trình nào nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố sinh thái lên biến động mật độ các
loài côn trùng bắt mồi và đặc biệt là ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái đó đến mối
quan hệ giữa côn trùng bắt mồi và vật mồi của chúng là sâu hại trên chè.
33
CHƢƠNG 2
NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các loài sâu hại trên chè, đặc biệt là nhóm sâu hại phổ biến như rầy xanh
Empoasca flavescens Fabricius, bọ trĩ Physothrips setiventris Bagnall, rệp muội
Toxoptera aurantii Fonscolombe, các loài sâu hại bộ cánh vẩy (Sâu đo Biston
suppressaria Guence, bọ nẹt xanh không gai Chalcocelis albigutata Snellen, sâu
cuốn búp Homona coffearia Nietner, sâu kèn ống Amatissa vaulogeri Heylaerts, sâu
kèn tổ lá Acanthopsyche subera Hmb, sâu kèn ống Amatissa vaulogeri Heylaerts …)
- Các loài côn trùng bắt mồi, đặc biệt là một số loài côn trùng phổ biến trên chè
như bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus Dohrn, bọ xít nâu đen nhỏ
bắt mồi Orius sauteri (Poppius), bọ rùa đỏ Micraspis discolor (Fabricius), bọ rùa 6
vằn Menochilus sexmaculatus (Fabricius).
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thành phần côn trùng bắt mồi trên chè, mối quan hệ
giữa một số côn trùng bắt mồi phổ biến với vật mồi của chúng là sâu hại chè và ảnh
hưởng của các yếu tố sinh thái lên mối quan hệ giữa chúng.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
2.2.1. Thời gian nghiên cứu
Đề tài được tiến hành từ tháng 12/2013 đến tháng 12/2017.
Điều tra diễn biến mật độ một số loài sâu hại và côn trùng bắt mồi chính trên
chè định kì 7 ngày 1 lần. Một tháng 4 kì, một năm có 48 – 50 kì điều tra, trong 3 năm
liên tiếp.
Điều tra thành phần sâu hại và côn trùng bắt mồi: Tiến hành 1 năm 4 đợt vào 4
mùa, mỗi đợt kéo dài 4 – 5 ngày điều tra tại các điểm đại diện của 9 huyện trong tỉnh.
34
Bảng 2.1. Thời gian tiến hành thu mẫu nghiên cứu thành phần loài
Thời gian
điều tra
Địa điểm điều tra
Hạ
Hòa
Yên
Lập
Thanh
Sơn
Tân
Sơn
Thanh
Ba
Đoan
Hùng
Cẩm
Khê
Thanh
Thủy
Phù
Ninh
Mùa
Xuân
2014 10/2 10/2 11/2 11/2 13/2 13/2 14/2 14/2 15/2
2015 6/2 6/2 7/2 7/2 8/2 8/2 9/2 9/2 10/2
2016 17/2 17/2 18/2 18/2 19/2 19/2 20/2 20/2 21/2
Mùa
hè
2014 5/6 5/6 6/6 6/6 7/6 7/6 8/6 8/6 9/6
2015 12/6 12/6 13/6 13/6 14/6 14/6 15/6 15/6 17/6
2016 10/6 10/6 11/6 11/6 12/6 12/6 13/6 13/6 14/6
Mùa
thu
2014 10/9 10/9 11/9 11/9 12/9 12/9 13/9 13/9 14/9
2015 8/9 8/9 9/9 9/9 10/9 10/9 11/9 11/9 12/9
2016 10/9 10/9 11/9 11/9 12/9 12/9 13/9 13/9 14/9
Mùa
đông
2014 10/12 10/12 11/12 11/12 12/12 12/12 13/12 13/12 14/12
2015 9/12 9/12 10/12 10/12 11/12 11/12 12/12 12/12 13/12
2016 12/12 12/12 13/12 13/12 14/12 14/12 15/12 15/12 16/12
2.2.2. Địa điểm nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu của đề tài bao gồm 9 huyện vùng trọng điểm trồng chè
là: Thanh Sơn, Tân Sơn, Thanh Ba, Hạ Hòa, Yên Lập, Đoan Hùng, Cẩm Khê, Thanh
Thủy, Phù Ninh thuộc tỉnh Phú Thọ.
Thực hiện các thí nghiệm tại đồi chè của nông hộ thuộc xã Hương Xạ, huyện
Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ. Riêng thí nghiệm về thuốc hóa học bảo vệ thực vật thực hiện
tại Nông trường chè Phúc Khánh, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ.
Phân loại, nuôi ấu trùng, định danh các loài sâu hại và thiên địch và các công
việc liên quan tại Phòng Sinh thái côn trùng, Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật.
35
Bảng 2.2. Danh sách các điểm thu mẫu ở tỉnh Phú Thọ
Số
TT Huyện Xã
Diện tích
điều tra
1 Thanh Sơn Cự Đồng 1ha
2 Tân Sơn Tân Phú 1ha
3 Thanh Ba Ninh Dân 1ha
4 Hạ Hòa Hương Xạ 1ha
5 Yên Lập Nông trường chè Phúc Khánh 1ha
6 Đoan Hùng Hùng Quan 1ha
7 Cẩm Khê Vô Chanh 1ha
8 Thanh Thủy Phượng Mao 1ha
9 Phù Ninh Phú Nham 1ha
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu thành phần sâu hại trên chè, mức độ xuất hiện và diễn biến mật
độ của một số loài hại phổ biến tại địa điểm nghiên cứu.
- Nghiên cứu thành phần côn trùng bắt mồi và vật mồi của chúng, diễn biến
mật độ của một số loài côn trùng bắt mồi phổ biến trên chè tại địa điểm nghiên cứu.
- Nghiên cứu mối quan hệ của một số loài côn trùng bắt mồi với vật mồi là sâu
hại phổ biến trên chè tại địa điểm nghiên cứu.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố sinh thái (giống chè, cây che bóng,
biện pháp chăm sóc, kĩ thuật hái chè, biện pháp đốn chè, thuốc hóa học) lên sâu hại, côn
trùng bắt mồi và mối quan hệ giữa côn trùng bắt mồi với sâu hại trên chè tại địa điểm
nghiên cứu.
2.4. Vật liệu và dụng cụ nghiên cứu
- Giống lai LDP1và LDP2: là giống chè được chọn lọc từ hạt hữu tính năm 1981
tại Phú hộ, với mẹ là Đại Bạch Trà (giống chè trung Quốc có chất lượng tốt) và bố là
giống PH1 có nguồn gốc Assam, Ấn Độ (thứ Assammica) giống có năng suất cao.
Giống do Viện nghiên cứu chè Phú Hộ lai tạo, được công nhận giống quốc gia năm
2002. Chống chịu sâu bệnh tốt
- Giống PH1, được chọn lọc tại Viện nghiên cứu chè Phú Hộ từ quần thể
Manipur lá đậm, có nguồn gốc Assam, Ấn Độ (thứ Assammica). Giống này tuy cho
năng suất không cao nhưng ổn định, ít sâu bệnh và cho chất lượng chè ngon.
36
- Giống chè Trung du có nguồn gốc Trung Quốc. Giống này tuy cho năng suất
không cao nhưng ổn định, ít sâu bệnh và cho chất lượng chè ngon.
- TRI777: Đây là giống chè Shan ở Chồ Lồng, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La
được viện nghiên cứu chè Phú Hộ Việt Nam gửi hạt sang Srilanka năm 1937. Quá trình
chọn lọc và bình tuyển tại viện nghiên cứu chè Srilanka cây chè mang số hiệu TRI 777
được công nhận là giống quốc gia. Sau đó được nhập trở lại Việt Nam năm 1977.
- Cây che bóng: Chọn cây muồng lá nhọn Indigofera teysmanni Mig. làm thí
nghiệm.
- Dụng cụ: Vợt côn trùng, ống hút, chổi lông, bẫy màn treo, bẫy hố, bẫy tổ,
khay nhôm kích thước 35 x 25 x 5cm, dầu hỏa, dầu rửa bát. Cồn, foocmon, lọ đựng
mẫu. Các dụng cụ nghiên cứu khác như sổ ghi chép, máy ảnh …
2.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.5.1. Nghiên cứu thành phần sâu hại trên chè, mức độ xuất hiện và diễn
biến mật độ của một số loài sâu hại phổ biến tại địa điểm nghiên cứu.
2.5.1.1. Điều tra thành phần sâu hại chè và mức độ xuất hiện
Tiến hành theo phương pháp điều tra của Viện Bảo vệ Thực vật (1997) [46],
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2003) [1], Nguyễn Văn Hùng và Nguyễn
Văn Tạo (2006) [15]
Tại các ruộng trồng chè điều tra, tiến hành điều tra ngẫu nhiên theo hàng chè
bằng vợt côn trùng đường kính 45cm, vợt ngẫu nhiên dọc theo chiều dọc của hàng
chè, cứ 10 hàng vợt ngẫu nhiên 1 hàng, thu tất cả các mẫu sâu hại và côn trùng bắt
mồi có trong vợt. Tiến hành điều tra trên các cây chè ở mỗi hàng đã chọn. Tại mỗi
hàng chè tiến hành điều tra ở các điểm điều tra (điểm trước cách điểm sau 5m), sử
dụng tay và ống hút để thu các mẫu sâu hại hoặc côn trùng bắt mồi có mặt trên cây
chè, ghi chép vật mồi để xác định phổ vật mồi và chụp ảnh quá trình bắt mồi của các
loài côn trùng bắt mồi trên chè. Song song với việc thu mẫu bằng vợt, tay và ống hút
thì tiến hành sử dụng các bẫy hố để thu bắt một số loài bắt mồi sống ở mặt đất (như
bọ chân chạy, kiến), bẫy màn treo và bẫy tổ để thu bắt đối với các loài côn trùng như
các loài ong bắt mồi. Mẫu thu được đem về phòng thí nghiệm nuôi theo dõi (đối với
các cá thể chưa là trưởng thành hoặc làm mẫu khô và mẫu ướt để phân loại và bảo
quản (đối với trưởng thành).
* Mức độ xuất hiện
37
Mức độ xuất hiện của một loài được tính bằng phần trăm số lần phát hiện thấy
loài đó trên tổng số lần điều tra và được tính như sau:
Mức độ xuất hiện loài A (%) =
x 100
+: ít phổ biến khi mức độ xuất hiện < 25%
++: khá phổ biến khi mức độ xuất hiện từ 25 đến 50%
+++: phổ biến khi mức độ xuất hiện > 50%
Bảo quản mẫu vật: Theo phương pháp của Trung tâm Bảo vệ thực vật phía bắc
(1992) [44]
Mẫu vật được xử lý và bảo quản theo hai phương pháp bảo quản khô và bảo
quản ướt tùy thuộc loài. Bọ rùa, bọ xít, kiến và ong được bảo quản khô, các sâu cánh
vẩy, trứng và nhộng được bảo quản ướt.
- Bảo quản khô: Dùng ghim cắm côn trùng cắm mẫu vật đảm bảo độ nguyên
vẹn của mẫu, ghi nhãn, sấy ở nhiệt độ 40 – 50oC bằng tủ sấy trong 48h, sau đó
chuyển vào hộp gỗ lưu mẫu.
- Bảo quản ướt: Bỏ đói ấu trùng 24h để bài tiết hết phân trong cơ thể, sau đó
ngâm trong cồn 70o ghi nhãn.
Phân loại, giám định mẫu theo tài liệu của Bộ môn côn trùng trường Đại học
Nông nghiệp Hà Nội (2004) [2] và Phòng Sinh thái côn trùng, Viện Sinh thái và Tài
nguyên sinh vật.
2.5.1.2. Điều tra diễn biến mật độ của một số sâu hại phổ biến trên chè tại địa
điểm nghiên cứu
Theo phương pháp của Nguyễn Văn Hùng và Nguyễn Văn Tạo (2006) [15],
Nguyễn Văn Thiệp, 2000 [42]. Theo đó, tại mỗi một lô chè lựa chọn tiến hành chọn 5
điểm chéo góc. Mỗi điểm 1 m2. Tiến hành điều tra định kỳ 7 ngày 1 lần. Mật độ tính
bằng con/m2.
* Điều tra rầy xanh:
Dùng khay men hoặc khay nhôm có kích thước 35 x 30 x 5cm, dưới đáy khay
tráng một lớp dầu hoả (hoặc dầu rửa bát), đặt khay nghiêng 45o dưới gầm, rìa tán chè.
Mỗi điểm điều tra đặt khay ở 3 vị trí tạo thành hình tam giác đều cách nhau 2m, hai
vị trí ở hàng chè này và 1 vị trí ở hàng chè kia để đảm bảo độ khách quan khi lấy
mẫu. Tại mỗi vị trí dùng tay đập mạnh trên tán chè 3 đập, sau đó đếm tổng số rầy có
trong cả 3 khay.
38
* Điều tra bọ trĩ, rệp muội
Tại mỗi điểm hái tất cả búp (1 tôm 2 lá) cho vào túi nilon đem về phòng thí
nghiệm đếm tổng số bọ trĩ Physothrips setiventris Bagnall, rệp muội Toxoptera
aurantii Fonscolombe trên đó.
* Điều tra sâu bộ cánh vẩy
Điều tra mật độ tập hợp các loài sâu hại bộ cánh vẩy ăn lá chè như sau: sâu đo
Biston suppressaria Guence, Bọ nẹt xanh không gai Chalcocelis albigutata Snellen,
sâu cuốn búp Homona coffearia Nietner, sâu kèn ống Amatissa vaulogeri Heylaerts,
sâu kèn tổ lá Acanthopsyche subera Hmb. tại mỗi điểm thu mẫu. Quan sát từ gốc đến
ngọn chè thu bắt tất cả các pha của sâu hại bộ cánh vẩy gồm trưởng thành, sâu non và
trứng của bộ cánh vẩy thông qua đặc điểm hình thái và triệu chứng gây hại. Tuy
nhiên nếu có nghi ngờ, vẫn thu mẫu mang về phòng tiếp tục nuôi sinh học và định
loại để xác định rõ ràng.
2.5.2. Điều tra thành phần côn trùng bắt mồi, vật mồi của chúng và diễn biến
mật độ của chúng ở trên chè tại địa điểm nghiên cứu
2.5.2.1. Điều tra thành phần côn trùng bắt mồi, vật mồi của chúng
Điều tra thành phần côn trùng bắt mồi, mức độ phổ biến và vật mồi của chúng
được thực hiện như điều tra thành phần sâu hại chè và mức độ phổ biến trình bày ở
mục 2.5.1.1 . Xác định vật mồi bằng cách quan sát trực tiếp tại các điểm điều tra và
xác định lại trong phòng thí nghiệm bằng nuôi côn trùng bắt mồi thu được trên chè
với các vật mồi riêng lẻ.
Sử dụng thêm bẫy hố để thu nhóm kiến bắt mồi (Theo phương pháp của hiệp
hội côn trùng Amateur Entonologists, 2015) [150] và sử dụng bẫy tổ để thu nhóm ong
bắt mồi (Theo phương pháp của Christophe, 2012) [58]
- Kiến bắt mồi: Dựa vào tập tính di chuyển theo đường đi trên mặt đất của kiến
mà sử dụng phương pháp bẫy hố để nghiên cứu thành phần và đa dạng loài của kiến
bắt mồi. Bẫy hố được thiết kế và sử dụng như sau: Một bẫy được thiết kế gồm có một
ống nhựa PVC cao 10cm, đường kính 5cm, một cốc nhựa cao 10cm, đường kính
miệng là 5cm để đựng dung dịch foocmondehyd, tiếp theo là 3 thanh tre vót nhọn dài
30cm, một cái đĩa nhựa mỏng kích thước đủ rộng để làm mái che cho cốc nhựa, để
giúp cho dung dịch trên ít bị pha loãng nếu mưa.
39
Đặt ống nhựa PVC làm khuôn Cốc chứa foocmondehyd và mái che
Hình 2.1. Sử dụng bẫy hố để thu bắt mẫu kiến bắt mồi trên chè
- Ong bắt mồi: sử dụng bẫy tổ để thu mẫu. Vật liệu chính được sử dụng là nứa
tép. Thường chọn nứa bánh tẻ, phơi nứa khô tránh bị ẩm mốc ảnh hưởng đến việc làm
tổ, đẻ trứng và phát triển của ấu trùng. Chọn nứa có đường kính từ 0,5 – 2cm. Dùng
dao hoặc cưa để cưa thành từng lóng nứa có 1 đầu kín và 1 đầu hở theo chiều dài tự
nhiên của mỗi lóng nứa, thường là 15cm – 20cm. Bó thành từng bó với mỗi bó gồm
20 – 25 lóng nứa, có thể tráo đầu ống nứa về khác phía rồi dùng dây dứa buộc chặt
sao cho lóng nứa không bị tuột và rơi ra ngoài.
Hình 2.2. Bẫy tổ đặt trên cây che bóng ở ruộng chè
40
Bảo quản mẫu vật: Theo phương pháp của Trung tâm Bảo vệ thực vật phía bắc
(1992) [44]. Mẫu vật được xử lý và bảo quản theo hai phương pháp bảo quản khô và
bảo quản ướt tùy thuộc loài. Bọ rùa, bọ xít, kiến và ong được bảo quản khô, các sâu
cánh vẩy, trứng và nhộng được bảo quản ướt.
Giám định các loài bọ rùa bắt mồi theo tài liệu của Hoàng Đức Nhuận (2007)
[31], các loài bọ xít bắt mồi theo Claver và Ambrose (2002) [89] và Vennison và
Ambrose (1992) [125], các loài ong bắt mồi theo Việc định tên các loài ong xã hội
bắt mồi được dựa theo Nguyen et al., 2006 [102]; Nguyen et al., 2011 [103]; Nguyen
and Kojima, 2014 [104]; Saito-Morooka et al., 2015 [126].
So sánh thành phần sâu hại và côn trùng bắt mồi với phần của các ghi nhận
trước tại một số vùng chè Việt Nam giai đoạn 2006 – 2011 của Viện Bảo vệ thực vật
(1976) [46], Phạm Văn Lầm và nnk (2007a, 2011) [26] [29], Phạm Văn Lầm (2013)
[30].
2.5.2.2. Điều tra diễn biến mật độ một số loài côn trùng bắt mồi phổ biến trên
chè
Diễn biến mật độ của côn trùng bắt mồi ở trên chè tiến hành điều tra theo
phương pháp 5 điểm chéo góc, mỗi điểm 1m2 (Viện bảo vệ thực vật, 1997) [46]. Đơn
vị tính là con/m2. Tại các điểm điều tra quan sát bằng mắt thường, đếm số lượng các
loài côn trùng bắt mồi sau: bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus
Dohrn, bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Orius sauteri (Poppius) và đếm tất cả các loài bọ
xít bắt mồi khác bắt gặp tại điểm điều tra (tập hợp bọ xít bắt mồi); bọ rùa đỏ
Micraspis discolor (Fabricius), bọ rùa 6 vằn Menochilus sexmaculatus (Fabricius), và
đếm tất cả các loài bọ rùa bắt mồi tại điểm điều tra (tập hợp bọ rùa bắt mồi). Tại các
điểm đã chọn, điều tra định kì 7 ngày 1 lần. Thực hiện điều tra tất cả các tầng, tán cây
chè. Riêng bọ xít nâu nhỏ bắt mồi Orius sauteri (Poppius) thì chú ý quan sát kĩ tại
các kẽ lá, các búp chè, hoa chè vì kích thước chúng nhỏ và thường ẩn nấp tại các khu
vực kín đáo trên ngọn chè.
2.5.3.Nghiên cứu mối quan hệ của côn trùng bắt mồi với vật mồi là sâu hại
chè tại địa điểm nghiên cứu
Theo phương pháp xem xét mối quan hệ tương quan của Nguyễn Thanh Hải
và Đỗ Tất Lực (2008) [8]. Các bước tiến hành như sau:
Theo dõi diễn biến mật độ một số loại sâu hại phổ biến trên chè là rầy xanh
Empoasca flavescens Fabricius, bọ trĩ Physothrips setiventris Bagnall, rệp muội nâu
đen Toxoptera aurantii Fonscolombe, các loài sâu hại bộ cánh vẩy (sâu đục thân đỏ
41
Zeuzera coffea Nietner, sâu đo Biston suppressaria Guence, sâu cuốn búp Homona
coffearia Nietner, sâu kèn tổ lá Acanthopsyche subera Hmb…)
theo phương pháp trình bày ở mục 2.5.1.2
Theo dõi diễn biến mật độ côn trùng bắt mồi phổ biến trên chè là bọ xít cổ
ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus Dohrn, bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Orius
sauteri (Poppius); bọ rùa đỏ Micraspis discolor (Fabricius), bọ rùa 6 vằn Menochilus
sexmaculatus (Fabricius), tập hợp bọ rùa bắt mồi và tập hợp bọ xít bắt mồi theo
phương pháp trình bày tại mục 2.5.2.2.
Nghiên cứu mối quan hệ của côn trùng bắt mồi với vật mồi thông qua tỷ lệ số
lượng côn trùng bắt mồi với vật mồi và hệ số tương quan giữa côn trùng bắt mồi với
vật mồi (sâu hại phổ biến).
Hệ số tương quan R <0 thể hiện mối tương quan nghịch và ngược lại là tương
quan thuận và được chia theo các mức sau:
0,75 ≤ | |≤ 1: Thể hiện hai loài có mối tương quan rất chặt
0,5 ≤ | |< 0,75: Thể hiện hai loài có mối tương quan chặt
0,3 ≤ | |< 0,5: Thể hiện hai loài có mối tương quan yếu
| |< 0,3: Hai loài có mối tương quan rất yếu
2.5.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố sinh thái lên sâu hại, côn
trùng bắt mồi trên chè và mối quan hệ giữa chúng tại địa điểm nghiên cứu.
Tham khảo phương pháp Viện bảo vệ thực vật (1997) [46], bố trí các công thức thí
nghiệm đảm bảo nguyên tắc đồng nhất các yếu tố phi thí nghiệm, các công thức chỉ khác
nhau về yếu tố thí nghiệm.
2.5.4.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của giống chè
+) Chọn nương chè điều tra:
Do cây chè là cây công nghiệp lâu năm nên việc điều tra trên được thực hiện
trên các nương chè sẵn có thoả mãn yêu cầu để bố trí thí nghiệm. Chọn các nương
chè trồng các giống phổ biến như sau, bố trí 5 công thức, mỗi công thức 100m2.
CT1: Giống LDP1
CT2: Giống LDP2
CT3: Giống PH1
CT4: Giống Trung du
CT5: TRI777
Yêu cầu: Các vị trí chè đã được chọn để thí nghiệm chỉ khác nhau về giống,
các yếu tố khác như nhau: Cùng 3 tuổi, cùng có cây che bóng, cùng hướng Đông,
42
cùng lưng đồi, cùng chế độ chăm sóc, cùng hái san trật, cùng đốn sớm, không phun
thuốc hóa học.
+) Chỉ tiêu theo dõi:
- Diễn biến mật độ các loài sâu hại phổ biến trên từng công thức: rầy xanh
Empoasca flavescens Fabricius, bọ trĩ Physothrips setiventris Bagnall, rệp muội nâu
đen Toxoptera aurantii Fonscolombe, tập hợp sâu cánh vẩy ăn lá chè. Mật độ tính là
con/m2.
- Diễn biến mật độ các loài côn trùng bắt mồi chính trên từng công thức: bọ xít
cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus Dohrn, bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi
Orius sauteri (Poppius), tập hợp bọ xít bắt mồi, bọ rùa đỏ Micraspis discolor
(Fabricius), bọ rùa 6 vằn Menochilus sexmaculatus (Fabricius) và tập hợp bọ rùa. Mật
độ tính là con/m2.
2.5.4.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của cây che bóng
+) Chọn nương chè điều tra
Để tìm hiểu ảnh hưởng của ánh sáng và tiểu khí hậu tới sự phát sinh của sâu
hại và côn trùng bắt mồi, mối quan hệ khống chế lẫn nhau của bắt mồi với sâu hại
thông qua cây che bóng trồng trong nương chè, trên cơ sở các cây che bóng sẵn có tại địa
điểm nghiên cứu, chọn muồng lá nhọn (Indigofera teysmanni Mig.) là đối tượng nghiên
cứu. Lựa chọn 2 lô chè tương ứng 2 công thức, mỗi công thức 1000m2
- CT1: Có cây che bóng
- CT2: Không có cây che bóng
Yêu cầu: Các vị trí chè đã được chọn để thí nghiệm chỉ khác nhau về yếu tố
cây che bóng, các yếu tố khác như nhau: Cùng 3 tuổi, cùng giống LDP1, cùng hướng
Đông, cùng lưng đồi, cùng chế độ chăm sóc, cùng hái san trật, cùng đốn sớm, không
phun thuốc hóa học.
+) Chọn điểm điều tra
Tất cả các chỉ tiêu đều được theo dõi ở vị trí giữa 4 cây che bóng đứng liền
nhau. Tại vị trí này, lấy hai hàng chè ở giữa, mỗi hàng lấy 1 đoạn 1– 2m để điều tra
tùy từng đối tượng.
Hình 2.3. Vị trí điểm điều tra và vị trí cây che bóng ở công thức thí nghiệm
Vị trí điều tra Vị trí cây che bóng
43
+) Chỉ tiêu theo dõi
- Diễn biến mật độ các loài sâu hại phổ biến trên từng công thức: rầy xanh
Empoasca flavescens Fabricius, bọ trĩ Physothrips setiventris Bagnall, rệp muội nâu
đen Toxoptera aurantii Fonscolombe, tập hợp sâu cánh vẩy ăn lá chè. Mật độ tính là
con/m2.
- Diễn biến mật độ các loài côn trùng bắt mồi chính trên từng công thức: bọ xít
cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus Dohrn, bọ xít nhỏ Orius sauteri
(Poppius), tập hợp bọ xít bắt mồi, bọ rùa đỏ Micraspis discolor (Fabricius), bọ rùa 6
vằn Menochilus sexmaculatus (Fabricius) và tập hợp bọ rùa. Mật độ tính là con/m2.
2.5.4.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của biện pháp chăm sóc
+) Bố trí thí nghiệm: Bố trí 2 công thức, mỗi công thức 1000m2
- CT1: Chăm sóc tốt: Lượng bón cho 1 ha trên 1 năm như sau: 15 tấn phân
chuồng hoặc phân hữu cơ; 100kg phân tan chậm + 150kg NPK 30-9-9; 1.000kg Urê
+ 800kg Superlân + 250kg KCl; làm cỏ 2 lần, xới đất 1 lần.
Cách bón: Phân chuồng, phân hữu cơ, phân lân, phân tan chậm chỉ bón một
lần vào đầu năm sau khi đốn chè. Phân NPK, Ure, KCL bón sau mỗi lứa hái.
- CT2: Ít chăm sóc: Lượng bón cho 1 ha trên 1năm như sau: 5 tấn phân chuồng
hoặc phân hữu cơ; 500kg phân ba màu (hỗn hợp đạm, lân và kali), 500kg ure ; làm cỏ
2 lần, không xới đất.
Cách bón: Phân chuồng, phân hữu cơ, phân NPK bón vào đầu năm sau khi
đốn, đạm ure bón vào tháng 7 – 8.
Yêu cầu: Các vị trí chè đã được chọn để thí nghiệm chỉ khác nhau về yếu tố
cây che bóng, các yếu tố khác như nhau: Cùng 3 tuổi, cùng giống LDP1, cùng hướng
Đông, cùng lưng đồi, cùng chế độ chăm sóc, cùng hái san trật, cùng đốn sớm, không
phun thuốc hóa học.
+) Chỉ tiêu theo dõi
- Diễn biến mật độ các loài sâu hại phổ biến trên từng công thức: rầy xanh
Empoasca flavescens Fabricius, bọ trĩ Physothrips setiventris Bagnall, rệp muội nâu đen
Toxoptera aurantii Fonscolombe, tập hợp sâu cánh vẩy ăn lá chè. Mật độ tính là con/m2.
- Diễn biến mật độ các loài côn trùng bắt mồi chính trên từng công thức: bọ xít
cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus Dohrn, bọ xít nâu nhỏ bắt mồi Orius
sauteri (Poppius), tập hợp bọ xít bắt mồi, bọ rùa đỏ Micraspis discolor (Fabricius), bọ
44
rùa 6 vằn Menochilus sexmaculatus (Fabricius) và tập hợp bọ rùa. Mật độ tính là
con/m2.
2.5.4.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của kĩ thuật hái chè
+) Bố trí 2 công thức thí nghiệm, mỗi công thức 1000m2
- CT1: Hái san trật: Trên nương chè có khoảng 30% số búp đủ tiêu chuẩn thì
hái, hái 1 tôm + 2 lá thật, những búp còn lại tiếp tục sinh trưởng và hái vào đợt sau.
Phương pháp này thường áp dụng cho chè non, đang giai đoạn tạo hình, thường hái
bằng tay, hái được nhiều đợt trong một năm, thông thường khoảng cách giữa hai đợt
hái từ 7 – 10 ngày.
- CT2: Hái kĩ: Khi búp chè nở rộ trên 75% đạt tiêu chuẩn 1 tôm + 2 lá thì hái
tất cả các búp đủ tiêu chuẩn và cả chưa đủ tiêu chuẩn.
Yêu cầu: Các vị trí chè đã được chọn để thí nghiệm chỉ khác nhau về yếu tố
phương thức hái, các yếu tố khác như nhau: Cùng 3 tuổi, cùng giống LDP1, cùng
hướng Đông, cùng lưng đồi, cùng chế độ chăm sóc, cùng có cây che bóng, cùng đốn
sớm, không phun thuốc hóa học.
+) Chỉ tiêu theo dõi
- Diễn biến mật độ các loài sâu hại phổ biến trên từng công thức: rầy xanh
Empoasca flavescens Fabricius, bọ trĩ Physothrips setiventris Bagnall, rệp muội nâu
đen Toxoptera aurantii Fonscolombe, tập hợp sâu cánh vẩy ăn lá chè. Mật độ tính là
con/m2.
- Diễn biến mật độ các loài côn trùng bắt mồi chính trên từng công thức: bọ xít
cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus Dohrn, bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi
Orius sauteri (Poppius), tập hợp bọ xít bắt mồi, bọ rùa đỏ Micraspis discolor
(Fabricius), bọ rùa 6 vằn Menochilus sexmaculatus (Fabricius) và tập hợp bọ rùa. Mật
độ tính là con/m2.
2.5.4.5. Nghiên cứu ảnh hưởng của biện pháp đốn chè
+) Bố trí 4 công thức thí nghiệm, mỗi công thức 1000m2
- CT1: Đốn sớm (tháng 12)
- CT2: Đốn muộn (tháng 1– 2)
- CT3: Đốn phớt (Đốn cao hơn vết đốn cũ 3cm)
- CT4: Đốn đau (Đốn cách mặt đất 45cm)
Yêu cầu: Các vị trí chè đã được chọn để thí nghiệm chỉ khác nhau về yếu tố
phương thức và thời gian đốn, các yếu tố khác như nhau: Cùng 3 tuổi, cùng giống
LDP1, cùng hướng Đông, cùng lưng đồi, cùng chế độ chăm sóc, cùng có cây che
bóng, cùng hái san trật, không phun thuốc hóa học.
45
+) Chỉ tiêu theo dõi
- Diễn biến mật độ các loài sâu hại phổ biến trên từng công thức: rầy xanh
Empoasca flavescens Fabricius, bọ trĩ Physothrips setiventris Bagnall, rệp muội nâu
đen Toxoptera aurantii Fonscolombe, tập hợp sâu cánh vẩy ăn lá chè. Mật độ tính là
con/m2.
- Diễn biến mật độ các loài côn trùng bắt mồi chính trên từng công thức: bọ xít
cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus Dohrn, bọ xít nâu nhỏ bắt mồi Orius
sauteri (Poppius), tập hợp bọ xít bắt mồi, bọ rùa đỏ Micraspis discolor (Fabricius), bọ
rùa 6 vằn Menochilus sexmaculatus (Fabricius) và tập hợp bọ rùa. Mật độ tính là
con/m2.
2.5.4.6. Nghiên cứu ảnh hưởng thuốc trừ sâu hóc học
Sử dụng ba loại thuốc trừ sâu hóa học thường được nông dân tại địa điểm
nghiên cứu sử dụng là Victory 585 EC, Mopride 20WP, Actador 100WP. Trên giống
chè lai LPD1
Bảng 2.3. Các loại thuốc trừ sâu và liều lƣợng sử dụng
TT Tên
thuốc
Hoạt chất Nhóm
độc
Liều lƣợng
thuốc (kg/ha)
Con đƣờng tác
động
1 Victory
585 EC
Chlorpyrifos
Ethyl +
Cypermethrin
II 600-800ml
+500l nước
Vị độc, tiếp xúc và
xông hơi
2 Mopride
20WP
Acetamiprid, II 0,2-
0,5kg+500l
nước
Thuốc nội hấp, tác
động tiếp xúc và vị
độc
3 Actador
100WP
Imidacloprid III 0,5-
0,6kg+500l
nước
Tác động tiếp xúc,
vị độc, nội hấp
mạnh, dịch chuyển
hướng ngọn
Phương pháp chọn ruộng thí nghiệm: Hợp tác với người nông dân để có thông
tin phun thuốc. Sử dụng chính các ruộng của nông dân để điều tra diện rộng mật độ
rầy xanh và côn trùng bắt mồi.
46
Phương pháp chọn điểm điều tra: Chọn 5 điểm chéo góc
Thời điểm điều tra: điều tra mật độ rầy xanh và thiên địch tại thời điểm ngay
trước khi phun và 1, 3, 5, 7, 10 ngày sau khi phun.
2.6. Phƣơng pháp xử lý số liệu
Số liệu thu thập được xử lý và trình bày qua bảng biểu, sơ đồ, đồ thị. Các số
liệu được xử lý bằng phần mềm Microsoft Office Excel 2010.
Tính giá trị trung bình cộng:
Trong Microsoft Office Excel 2010, đại lượng này được tính bằng hàm
AVERAGE
Tính giá trị phƣơng sai mẫu:
Trong Microsoft Office Excel 2010, đại lượng này được tính tính bằng hàm VAR
Tính giá trị phƣơng sai chuẩn:
Trong Microsoft Office Excel 2010, đại lượng này được tính tính bằng hàm STDEV
Tính giá trị sai số chuẩn:
Trong đó:
n: số lượng mẫu.
Xi: giá trị mẫu thứ i của biến ngẫu nhiên X.
X: giá trị trung bình cộng của biến ngẫu nhiên X.
S2: phương sai mẫu.
s: phương sai chuẩn.
m: sai số chuẩn.
Tính hệ số tƣơng quan (R): Trong Microsoft Office Excel 2010, đại lượng này được
tính tính bằng hàm CORREL
2.7. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội cơ bản về cùng nghiên cứu
Phú Thọ là một tỉnh thuộc vùng miền núi trung du Bắc Bộ, là nơi giao
nhau của 3 con sông lớn gồm sông Hồng, sông Đà và sông Lô. Là cửa ngõ
47
phía Tây của Hà Nội. Địa hình tỉnh Phú Thọ mang đặc điểm nổi bật là chia cắt
tương đối mạnh vì nằm ở phần cuối của dãy Hoàng Liên Sơn, nơi chuyển tiếp
giữa miền núi cao và miền núi thấp, gò đồi, độ cao giảm dần từ Tây Bắc xuống
Đông Nam. Tính chung cả tỉnh, đến năm 2016 diện tích chè khoảng 15.720ha
đứng thứ 4 cả nước, tập trung ở các huyện Thanh Sơn, Tân Sơn, Thanh Ba,
Đoan Hùng, Hạ Hòa,… Năng suất chè đạt gần 84 tạ/ha, sản lượng chè búp tươi
trên 117.000 tấn.
Hạ Hoà ở vị trí chuyển tiếp giữa vùng trung du và miền núi phía Bắc,
chịu ảnh hưởng của hai vùng khí hậu giữa đông và tây bắc bộ. Địa hình chia
thành hai vùng: Vùng đồi núi chiếm trên 80% diện tích, vùng đồng bằng ven
sông khoảng 20%. Phía Đông Bắc giáp huyện Đoan Hùng, phía Nam giáp
huyện Sông Thao, phía Tây giáp huyện Yên lập, phía Tây Bắc giáp tỉnh Yên
Bái, cách trung tâm Việt Trì 70km. Tính riêng huyện Hạ Hòa, đến năm 2014,
huyện có 2.500 ha chè trong tổng số 9.812 ha đất nông nghiệp chiếm 25,5%.
Năng suất đạt trung bình 75tạ/ha/năm. Đất trồng chè của Hạ Hòa chủ yếu là đất
đồi thấp, nghèo dinh dưỡng và chua. Đất đồi dốc hay bị rửa trôi do gặp những
trận mưa lớn. Khí hậu của Hạ Hòa nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, mang
nhiều nét đặc trưng của khí hậu miền núi phía Tây Bắc, chia hai mùa rõ rệt.
48
CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thành phần sâu hại, mức độ xuất hiện và diễn biến mật độ của một số loài
hại chính trên chè tại tỉnh Phú Thọ
3.1.1. Thành phần sâu hại chè và mức độ xuất hiện của sâu hại chè
Bảng 3.1. Thành phần và mức độ xuất hiện sâu hại chè tại tỉnh Phú Thọ
ST
T
Tên Việt
Nam Tên Khoa học Họ
Mức
độ
xuất
hiện
Bộ cánh cứng (Coleoptera)
1
Câu cấu xanh
lớn Hypomeces squamosus Fabricius Curculiolidae
+
2 Bọ hung Melolontha sp. Scarabaeidae
+
3 Bọ hung Maladera orientalis Motsch. +
4 Mọt đục cành Xyleborus morstatti Haged Ipidae +
Bộ hai cánh (Diptera)
5
Ruồi hại lá
chè Oscinis theae Bigot Agromyzidae
+
Bộ cánh khác (Heteroptera)
6
Bọ xít muỗi
chè Helopeltis theivora Waterhouse Miridae
++
7
Bọ xít nâu vai
nhọn Cletus punctiger Dallas
Coreidae
+
8
Bọ xít nâu gai
vai Cletus pugnator Fabricius
+
9
Bọ xít gai vai
dài Cletus trigonus Thunberg
+
10 Bọ xít mép Homoeocerus walkeri Kirby +
11 Bọ xít dài Leptocorisa varicornis Fabricius +
12 Bọ xít hoa Poecilocoris latus Dallas Scutelleridae +
13 Bọ xít xanh Nezara viridula (Linneaus) Pentatomidae +
Bộ cánh giống (Homoptera)
14 Bọ phấn trắng Bemisia sp.
Aleyrodidae
+
15
Bọ phấn gai
đen
Aleurocanthus spiniferus
(Quainance)
+
16 Bọ phấn trắng Aleuroclava subindica Martin et +
49
Mound
17 Rầy xanh chè Empoasca flavescens Fabricius Cicadellidae
+++
18 Rầy hồng lớn Tettigoniella ferrugines Fabricius +
19
Rệp muội nâu
đen Toxoptera aurantii Fonscolombe Aphididae
+++
20
Rệp sáp mềm
nâu hình ô van Kilifia acuminata Signoret Coccidae
+
21
Rệp sáp mềm
hình sao Vinsonia stellifera (Westwood)
+
22
Rệp sáp bột 2
tua dài Ferrisia virgata Cockerell Pseudococcidae
+
23
Rệp sáp bột
nhiều tua Pseudococcus crytus Hempel
+
24
Rệp sáp vảy
trắng Chionaspis theae Maskell
Diaspididae
+
25
Rệp sáp vảy
nâu dài Lepidosaphes beckii (Newman)
+
26
Rệp sáp vảy
dài Lepidosaphes gloverii (Packard)
27
Ve hình bướm
trắng Lawana imitata Melichar Flatidae
+
28
Ve hình bướm
nâu Ricania speculum Walker Ricaniidae
+
Bộ cánh bằng (Isoptera)
29 Mối Odontotermes formosanus Shiraki Termitidae +
30 Mối Coptotermes ceylonicus Holmgren Rhinotermitidae +
Bộ cánh vẩy (Lepidoptera)
31
Sâu đục thân
đỏ Zeuzera coffeae Nietner Cossidae
++
32 Sâu đo Biston suppressaria Guenee* Geometridae ++
33
Bọ nẹt xanh
không gai Chalcocelis albigutata Snellen*
Limacodidae
++
34 Bọ nẹt Parasa lepida (Cramer) +
35
Sâu róm
lưng vàng Euproctis scintillans (Walker)
+
36 Sâu róm Orvasca subnotata Walker +
37
Sâu róm u
vàng Euproctis pseudoconspersa Strand
+
50
38 Sâu róm 4 u Orgyia postica (Walker) +
39 Sâu róm nâu Eterusia aedea Linneaus Zygaenidae +
40
Sâu kèn tổ
lá Acanthopsyche subera Hmb.
Psychidae
++
41
Sâu kèn mái
chùa Pagadiella hekmeyeri Heylaerts
+
42 Sâu kèn ống Amatissa vaulogeri Heylaerts ++
43
Sâu kèn bó
củi Clania crameri Westwood
+
44 Sâu xếp lá Agriophora rhombata Meyrick Tineidae +
45
Sâu cuốn
búp Homona coffearia Nietner
Tortricidae
++
46 Sâu cuốn lá Archips sp.* +
47
Sâu ngài
đêm Adoxophyes orana (Fischer)
+
48 Sâu hại búp Eumeta minuscula (Butler) Pschylidae
+
49 Sâu hại lá Pagadiella hekmeyeri Heylaerts +
Bộ cánh thẳng (Orthoptera)
50
Châu chấu
lúa Oxya sp.
Acrididae
+
51
Châu chấu
ngực u Trilophidia annulata (Thunberg)
+
52
Châu chấu
vân đen đốt
đùi Catantops acuticercus Bolivar
+
53
Châu chấu
cánh ngắn Pseudoxya diminuta (Walker)
+
54 Dế mèn lớn
Brachytrupes portentosus
Lichtenstein Gryllidae
+
55 Dế dũi Gryllotalpa orientalis Burmeister Gryllotalpidae +
Bộ cánh tơ (Thysanoptera)
56 Bọ trĩ hại chè Physothrips setiventris Bagnall Thripidae +++
Ghi chú: *: Loài ghi nhận mới trên cây chè ở Phú Thọ
+ : Ít phổ biến (mức độ xuất hiện<25%)
++ : Khá phổ biến (25% ≤ mức độ xuất hiện < 50%
+++: Phổ biến (mức độ xuất hiện ≥ 50%)
Tiến hành điều tra thành phần sâu hại chè tại 9 huyện của tỉnh Phú Thọ từ
2014 đến 2016, đã ghi nhận 56 loài côn trùng gây hại trên cây chè thuộc 8 bộ và 30
51
họ. Trong đó Bộ cánh vẩy (Lepidoptera) có nhiều loài nhất có 19 loài thuộc 19 giống,
8 họ. Tiếp theo là Bộ cánh giống (Homoptera) có 15 loài thuộc 14 giống, 8 họ. Bộ
cánh khác (Hemiptera) có 8 loài thuộc 6 giống, 4 họ. Bộ cánh thẳng (Orthoptera) có 6
loài thuộc 6 giống, 3 họ. Bộ cánh cứng (Coleoptera) có 4 loài thuộc 4 giống, 3 họ. Ba
bộ còn lại có số loài rất ít, chỉ từ 1 đến 2 loài gồm: Bộ cánh bằng (Isoptera) có 2 loài
thuộc 2 giống, 2 họ; Bộ cánh tơ (Thysanoptera) có 1 loài thuộc 1 giống, 1 họ. Bộ hai
cánh (Diptera) có 1 loài thuộc 1 giống, 1 họ.
Căn cứ vào phương thức gây hại, chia sâu chè thành 3 nhóm cơ bản sau:
(1) Nhóm chích hút: chúng chích hút dịch nhựa lá và búp, gồm 26 loài thuộc
các bộ Homoptera (16 loài), Heteroptera (8 loài), Thysanoptera (1 loài) và Dipera (1
loài). Các đối tượng sâu hại gây hại chính trên chè đều thuộc nhóm này, 3 đối tượng
sâu hại phổ biến là rầy xanh, bọ trĩ và rệp muội nâu đen đều thuộc nhóm này.
(2) Nhóm ăn lá: gồm 23 loài như sâu cuốn búp, sâu róm, bọ nẹt, câu cấu xanh,
châu chấu... ăn cả lá non và búp. Các loài này chủ yếu thuộc bộ cánh vẩy Lepidoptera
(18 loài trừ sâu đục thân đỏ), 4 loài thuộc bộ cánh thẳng Orthoptera (Châu chấu lúa,
Châu chấu ngực u, Châu chấu vân đen đốt đùi, Châu chấu cánh ngắn), 1 loài thuộc bộ
cánh cứng (Câu cấu xanh)
(3) Nhóm hại thân, rễ: 8 loài gồm 2 loài thuộc bộ cánh thẳng Orthoptera (Dế
mèn lớn, Dế dũi), 2 loài thuộc bộ Isoptera (Mối chỉ đục phần vỏ bên ngoài, hại cả chè
kiến thiết cơ bản và chè kinh doanh, 3 loài thuộc bộ cánh cứng Coleoptera (Bọ hung,
Mọt đục cành, Bọ cánh cứng), 1 loài thuộc bộ cánh vẩy (sâu đục thân đỏ)
So với kết quả điều tra sâu hại trên chè ở Việt Nam như Viện Bảo vệ Thực vật
(1977 – 1979) [47] đã ghi nhận 37 loài sâu hại chè ở miền Bắc. Nguyễn Văn Hùng và
Nguyễn Văn Tạo (2006) [15] ghi nhận có 40 loài sâu hại chè ở Viện nghiên cứu chè
Phú Hộ, Phú Thọ. Phạm Văn Lầm (2013) [30] ghi nhận có 40 loài sâu hại chè tại một
số vùng chè trọng điểm trong cả nước. Kết quả nghiên cứu này trong 56 loài được ghi
nhận có 3 loài sâu hại chè được ghi nhận mới cho tỉnh Phú Thọ bao gồm: Sâu đo
Biston suppressaria Guence, Bọ nẹt xanh không gai Chalcocelis albigutata Snellen
và Sâu cuốn lá Archips sp.
52
Bảng 3.2. Số lƣợng các loài sâu hại chè đã đƣợc ghi nhận ở Phú Thọ
Stt Tên bộ côn
trùng
Số lƣợng loài sâu hại chè đã phát hiện
1967 -1968 1977 -1979 2006 2006 -2011 2014 -2016
(1) (2) (3) (4) (5)
1 Orthoptera 3 4 4 4 6
2 Isoptera 2 0 1 1 2
3 Homoptera 3 7 7 15 15
4 Heteroptera 7 3 6 7 8
5 Thysanoptera 0 2 1 1 1
6 Coleoptera 2 3 5 3 4
7 Lepidoptera 16 18 15 9 19
8 Diptera 0 0 1 0 1
Tổng 33 37 40 40 56
Ghi chú: (1) Viện Bảo vệ thực vật, 1976; (2) Viện Bảo vệ thực vật, 1999; (3) Nguyễn
Văn Hùng và nnk., 2006; (4) Phạm Văn Lầm, 2015; (5) Kết quả của nghiên cứu này
(2014-2016).
Số loài côn trùng gây hại cây chè đã ghi nhận được ở nghiên cứu này so với
các kết quả nghiên cứu trước đây rất khác nhau (Bảng 3.2). Sự khác biệt chủ yếu ở bộ
cánh vẩy Lepidoptera và bộ cánh giống Homoptera. Theo Viện Bảo vệ thực vật
(1976) [45], điều tra trong giai đoạn 1967 – 1968 số loài sâu hại thuộc bộ cánh vẩy là
16 trong tổng số 33 loài chiếm 48,5%, giai đoạn 1977 – 1979, số loài sâu hại thuộc bộ
cánh vẩy là 18 trong tổng số 37 loài sâu hại trên chè chiếm 48,6%, có sự cách biệt rất
lớn so với các bộ sâu hại còn lại. Nguyễn Văn Hùng (2001) [13], Nguyễn Văn Hùng
và Nguyễn Văn Tạo (2006) [15] ghi nhận có 15 loài sâu hại thuộc bộ cánh vẩy trong
tổng số 40 loài hại trên chè chiếm 37,5%, Phạm Văn Lầm (2013) [30] trong giai đoạn
2006 – 2011 ghi nhận chỉ có 9 loài sâu hại thuộc bộ cánh vẩy trong tổng số 40 loài
hại trên chè chiếm 22,5%. Trong khi đó số loài thuộc bộ cánh giống Homoptera và bộ
cánh khác Heteroptera lại tăng lên đáng kể, đặc biệt là bộ cánh giống Homoptera. Tỷ
lệ số loài thuộc bộ cánh giống Homoptera so với tổng số loài sâu hại trên chè qua các
thời kì lần lượt là: 1967 – 1968 là 9%, 1977 – 1979 là 18,9%, năm 1997 là 15,38%,
năm 2006 là 17,50%, giai đoạn 2006 – 2011 là 37,5%, giai đoạn 2014 – 2016 là
26,78%. Tỷ lệ số loài thuộc bộ cánh khác Heteroptera so với tổng số loài sâu hại trên
chè qua các thời kì tăng nhẹ lần lượt là 1977 – 1979 là 8,10%, năm 1997 là 23,07%,
53
năm 2006 là 15,00, giai đoạn 2006 – 2011 là 17,50%, giai đoạn 2014 – 2016 lại giảm
nhẹ 14,28%.
Mức độ phổ biến: Đa phần các loài sâu hại chè có tần suất bắt gặp thấp (<
25%). Trong 56 loài ghi nhận được thì có 7 loài xuất hiện khá phổ biến (tần suất bắt
gặp từ 25 đến 50% trong đó có 6 loài thuộc bộ cánh vẩy (Lepidoptera) gồm: sâu đục
thân đỏ Zeuzera coffea Nietner, sâu đo Biston suppressaria Guence, bọ nẹt xanh
không gai Chalcocelis albigutata Snellen, sâu cuốn búp Homona coffearia Nietner,
sâu kèn ống Amatissa vaulogeri Heylaerts, sâu kèn tổ lá Acanthopsyche subera Hmb.
và 1 loài thuộc bộ cánh khác (Heteroptera) là bọ xít muỗi Helopeltis theivora
Waterhouse. Chỉ có 3 loài sâu hại xuất hiện phổ biến (tần suất bắt gặp > 50) bọ trĩ
Physothrips setiventris Bagnall, rầy xanh Empoasca flavescens Fabricius, rệp muội
nâu đen Toxoptera aurantii Fonscolombe.
Kết quả của nghiên cứu này cũng tương đồng với các kết quả đã công bố trước
đây ở trên cả thế giới và Việt Nam, Takfuji và Amano (2001) [55]; Nguyễn Khắc
Tiến (1986) [36]; Viện Bảo vệ thực vật (1999) [47].
3.1.2. Diễn biến mật độ của một số loài côn trùng gây hại phổ biến trên chè
tại Hương xạ, Hạ Hòa, Phú Thọ
3.1.2.1. Diễn biến mật độ của rầy xanh Empoasca flavercens Fabricius
Hình 3.1. Diễn biến mật độ rầy xanh Empoasca flavercens trên chè lai LDP1,
3 tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ
Rầy xanh là một trong những loài côn trùng gây hại nặng và phổ biến trên cây
chè. Điều tra diễn biến mật độ của rầy xanh từ năm 2014 đến năm 2016, thu được kết
quả trình bày tại hình 3.1.
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90T
hán
g 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng 1
0
Th
áng 1
1
Th
áng 1
2
Năm 2016 Năm 2015 Năm 2014
Mật độ (con/m2)
54
So sánh mật độ rầy qua các năm cho thấy mật độ rầy xanh tăng dần qua các
năm từ 2014 đến 2016, thấp nhất là năm 2014 (trung bình 10,43 ± 0,30 con/m2), tiếp
theo là năm 2015 (trung bình 12,2 1± 0,23 con/m2) và cao nhất là năm 2016 (trung
bình 14,48 ± 0,17 con/m2).
Diễn biến mật độ: Trong tháng 1, mật độ rầy xanh rất thấp (trung bình cả 3
năm là 3,92 ± 0,09 con/m2), tháng 2 thì bắt đầu tăng, đến tháng 3 tăng rất nhanh và
đạt cao điểm lần 1 vào tháng 4 (trung bình cả 3 năm 25,79 ± 0,33 con/m2). Sau đó
mật độ rầy xanh lại giảm dần xuống và thấp nhất vào tháng 8, sau đó lại tăng nhanh
và đạt cao điểm lần 2 trong năm vào tháng 10 (trung bình cả 3 năm 22,65 ± 0,45
con/m2), sau đó lại giảm dần cho đến tháng 12 thì mật độ xuống thấp chỉ còn 5,88 ±
0,27 con/m2. Trong hai cao điểm thì cao điểm 1 (tháng 4) có mật độ rầy xanh cao hơn
cao điểm 2 (tháng 10).
Kết quả nghiên cứu cho thấy cao điểm 1 xuất hiện sớm hơn (tháng 4) và cao
điểm 2 xuất hiện muộn hơn (tháng 10) so với các kết quả nghiên cứu của Nguyễn
Văn Thiệp (2000) [42] cho rằng tại Phú Thọ mật độ rầy xanh đều ghi nhận mỗi năm
có hai đỉnh cao là vào tháng 5 và tháng 9.
Có nhiều yếu tố thuận lợi cho rầy xanh phát triển, trong đó yếu tố quan trọng
nhất là nhiệt độ. Nhiệt độ không khí từ 25oC đến 26
oC là khoảng nhiệt độ thích hợp
nhất cho rầy xanh tích lũy số lượng và phát sinh thành dịch (Nguyễn Văn Thiệp,
2000) [42]. Theo Nguyễn Văn Thiệp, trong giai đoạn từ 1993 – 1997 thì nhiệt độ
trung bình tháng 5 dao động từ 25,2 – 26,3oC, nhiệt độ trung bình tháng 10 dao động
từ 25,1 – 26,4oC trùng với nhiệt độ cực thuận của rầy xanh vì vậy đây chính là hai
cao điểm mật độ trong năm. Nhưng trong giai đoạn 2014 đến 2016, mùa hè đến sớm
hơn lại kết thúc muộn hơn, nên giai đoạn nhiệt độ trùng với khoảng nhiệt độ cực
thuận của rầy xanh lại rơi vào tháng 4 và tháng 10. Kết quả khí tượng thủy văn tại
Phú thọ trong 3 năm 2014 đến 2016 cho thấy nhiệt độ trung bình tháng 4 dao động từ
24,4 – 25,3oC và nhiệt độ trung bình tháng 10 dao động từ 25 – 26,8
oC rất phù hợp
cho rầy xanh phát triển. Trong khi đó nhiệt độ trung bình tháng 5 dao động từ 27,3 –
29,8oC và nhiệt độ tháng 9 dao động từ 27,8 – 28,7
oC, quá cao so với nhiệt độ cực
thuận của rầy xanh. Đây là hậu quả của hiện tượng biến đổi khí hậu làm nhiệt độ tăng
dần lên, tác động lên sự thay đổi qui luật phát sinh phát triển của rầy xanh. Yếu tố thứ
hai ảnh hưởng đến sự hình thành hai cao điểm mật độ rầy xanh là thức ăn. Từ tháng 1
đến tháng 3, chè trong thời kì đốn, rầy xanh không có thức ăn nên mật độ rất thấp. Từ
tháng 4 trở đi, búp chè bắt đầu phát triển kéo theo mật độ rầy xanh tăng lên, tích lũy
số lượng và đạt cao điểm vào tháng 5, sau đó theo qui luật cân bằng quần thể khi mật
độ đạt đỉnh cao sẽ dẫn đến sự tự giảm số lượng vào tháng 6 và 7, tăng trở lại vào
tháng 8 và 9 và đạt cao điểm thứ 2 vào tháng 10. Yếu tố thứ 3 ảnh hưởng đến sự hình
55
thành cao điểm mật độ của rầy xanh là thiên địch. Theo Trương Xuân Lam và Vũ
Quang Côn (2004) [21] cho biết thiên địch phát triển song song với sâu hại nhưng cao
điểm mật độ của thiên địch luôn ở sau cao điểm của sâu hại. Như vậy từ sau tháng 5,
thiên địch đã góp phần làm giảm số lượng rầy xanh.
3.1.2.2. Diễn biến mật độ bọ trĩ Physothrips sentiventris Bagnall
So sánh mật độ bọ trĩ qua các năm: mật độ bọ trĩ có xu hướng ngày càng tăng.
Thấp nhất là năm 2014 (trung bình 19,74 ± 1,20 con/m2), tiếp theo là năm 2015
(trung bình 23,74 ± 1,60 con/m2) và cao nhất là năm 2016 (trung bình 31,44 ± 0,80
con/m2).
Diễn biến mật độ bọ trĩ: Bọ trĩ có mặt quanh năm trên nương chè, nhưng mật
độ của chúng thay đổi qua các tháng trong năm. Có 1 cao điểm mật độ vào tháng 7
hàng năm. Tháng 1, khi nhiệt độ thấp thì mật độ bọ trĩ thấp nhất trong năm (trung
bình 3 năm là 5,97 ± 0,10 con/m2) tăng dần qua các tháng 2, 3, 4, 5. Từ tháng 6, khi
nhiệt độ không khí tăng cao thì mật độ bọ trĩ tăng rất nhanh và mật độ cao vào các
tháng 6 – 10, cao nhất là tháng 7 (trung bình 3 năm là 61,86 ± 0,50 con/m2) sau đó
mật độ lại giảm dần và lại giảm xuống thấp vào tháng 12 hàng năm (trung bình 3 năm
là 5,36 ± 0,80 con/m2). Trong khoảng thời gian từ tháng 6 – 10 thường xuyên xảy ra
các đợt phá hại nặng, đặc biệt khi thời tiết nhiệt độ cao cùng độ ẩm hanh khô thì sự
phá hại của bọ trĩ càng nặng nề hơn.
Hình 3.2. Diễn biến mật độ bọ trĩ Physothrips sentiventris trên chè lai LDP1,
3 tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ
Theo nghiên cứu này thì trong năm bọ trĩ có 1 cao điểm mật độ rơi vào khoảng
tháng 7. Về số lượng cao điểm mật độ thì hoàn toàn tương đồng với các nghiên cứu
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Th
áng 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng
10
Th
áng
11
Th
áng
12
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
Mật độ (con/m2)
56
trước đây của Nguyễn Văn Thiệp (2000) [42] và Lê Thị Nhung (2002) [33] nhưng về
thời gian xuất hiện mật độ cao điểm thì xảy ra sớm so với kết quả nghiên cứu giai
đoạn 1993 – 1994 của Nguyễn Văn Thiệp [42], giống các kết quả nghiên cứu sau giai
đoạn này (Nguyễn Văn Thiệp, 2000) [42] và (Lê Thị Nhung, 2002) [33]. Theo
Nguyễn Văn Thiệp (2000) [42]. Theo đó tại Phú Hộ, trong các năm từ 1993, 1994 thì
cao điểm mật độ bọ trĩ rơi vào tháng 8 với cao điểm mật độ lần lượt là 6,60 con/búp
và 4,62 con/búp nhưng từ năm 1995 đến 1997 thì cao điểm mật độ bọ trĩ lại rơi vào
tháng 7 và cao điểm mật độ lần lượt là 3,92 con/búp, 6,16 con/búp và 4,29 con/búp.
Theo Lê Thị Nhung (2002) [33], thì tại Phú Thọ năm 1998, đỉnh cao mật độ bọ trĩ rơi
vào tháng 7 với mật độ 3,11 con/búp. Trung bình mật độ bọ trĩ tại các tháng trong
năm 2014 – 2016 đều cao hơn so với cùng kì của các năm 1993 –1998. Như vậy càng
về sau thì mật độ bọ trĩ càng tăng và cao điểm xuất hiện sớm hơn. Điều này liên quan
đến sự thay đổi các yếu tố khí hậu thời tiết tại khu vực này sau nhiều năm.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát sinh, phát triển và hình thành cao điểm
mật độ của bọ trĩ, trong đó yếu tố ánh sáng là yếu tố quan trọng nhất. Bọ trĩ ưa ánh
sáng mạnh (Mkwaila et al, 1982) [61]. Nghiên cứu tại Phú Thọ tác giả Nguyễn Văn
Thiệp, 2000 [42] cho biết tổng số giờ chiếu sáng trong tháng trong khoảng từ 138 đến
159 là thích hợp nhất cho bọ trĩ phát triển. Đối chiếu với số liệu khí tượng tại Phú
Thọ thì tổng số giờ nắng tháng 7 của năm 2014 là 120 –150, của năm 2015 là 145 –
159, của năm 2016 là 144 – 156, trùng với khoảng cực thuận của bọ trĩ nên cao điểm
xuất hiện vào tháng này .
3.1.2.3. Diễn biến mật độ rệp muội nâu đen Toxoptera aurantii Fonscolombe
Hình 3.3. Diễn biến mật độ rệp muội nâu đen Toxoptera aurantii trên chè LDP1,
3 tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ
So sánh mật độ rệp muội nâu đen qua các năm từ 2014 đến 2016: Mật độ rệp
muội nâu đen càng ngày càng cao qua các năm, năm 2014 (trung bình 27,51 ± 1,4
0
20
40
60
80
100
120
Thán
g 1
Thán
g 2
Thán
g 3
Thán
g 4
Thán
g 5
Thán
g 6
Thán
g 7
Thán
g 8
Thán
g 9
Thán
g 1
0
Thán
g 1
1
Thán
g 1
2
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016Mật độ (con/m2)
57
con/m2), năm 2015 (trung bình là 38,2 ± 0,6 con/m
2) và năm 2016 có mật độ cao nhất
(trung bình 43,03 ± 1,2 con/m2). Nhưng trong mỗi năm thì diễn biến mật độ rệp muội
nâu đen có sự khác biệt rõ rệt giữa mùa hè và mùa đông. Trong mùa đông (Từ tháng
1 đến tháng 4 và từ tháng 8 đế tháng 12) thì mật độ rệp muội nâu đen tăng dần quan
các năm từ 2014 đến 2016. Nhưng trong giai đoạn từ tháng 5 đến tháng 7 thì mật độ
rệp muội nâu đen diễn biến phức tạp, năm 2014 có mật độ thấp nhất, tiếp theo là năm
2016 và mật độ cao nhất lại rơi vào năm 2015.
Diễn biến mật độ rệp muội nâu đen: Chúng xuất hiện quanh năm, tuy nhiên
chúng gây hại nặng từ tháng 12 năm trước đến tháng 6 năm sau.
Năm 2014, 6 tháng đầu năm mật độ rệp muội nâu đen cao (từ 11,00 đến 40,45
con/m2, cao nhất là tháng 4 (40,45 ± 1,75 con/m
2). Từ tháng 7 đến tháng 9 mật độ
giảm xuống rất thấp (từ 10,20 đến 28 con/m2), bắt đầu tháng 10 thì lại tăng trở lại và
đạt cao điểm vào tháng 12 (101,46 ± 1,19 con/m2).
Năm 2015, 4 tháng đầu năm mật độ rệp muội nâu đen rất cao từ 48,2 đến
87,88 con/m2, cao nhất là tháng 1 (87,88 ± 1,29 con/m
2). Sang tháng 5 mới bắt đầu
giảm dần và đạt thấp nhất ở tháng 10 (8,32 ± 0,05 con/m2), sang tháng 11 lại tăng trở
lại và tháng 12 đạt mật độ 57,35 ± 1,2 con/m2.
Năm 2016, 3 tháng đầu năm mật độ rệp muội nâu đen rất cao lần lượt là 68,16
± 1,95 con/m2, 73,27 ± 1,15 con/m
2, 80,05 ± 1,35 con/m
2, sang tháng 4 đã bắt đầu
giảm cho đến tận tháng 9 (Từ 20,85 đến 36,76 con/m2), sáng tháng 10 thì mật độ tăng
lên và cao nhất trong năm là tháng 12 (92,08 ± 1,15 con/m2).
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát sinh và phát triển của rệp muội nâu
đen trong đó yếu tố nhiệt độ và lượng mưa là 2 yếu tố quan trọng nhất. Sự phát sinh
phát triển của rệp muội nâu đen ở 3 năm không giống nhau bởi vì diễn biến nhiệt độ
và lượng mưa của 3 năm trên không giống nhau. Năm 2014, lượng mưa trung bình
tháng từ tháng 1 đến hết tháng 6 chỉ dao động vài chục mm, có tháng chỉ 1 – 3 mm,
bắt đầu từ tháng 6 lượng mưa tăng lên hơn 200 mm và cao nhất vào tháng 8 lượng
mưa là 500 mm. Vì vậy từ tháng 1 đến tháng 6 mật độ cao, từ tháng 7 đến tháng 9
mật độ giảm xuống rất thấp, bắt đầu tháng 10 nhiệt độ thấp dần, lượng mưa giảm còn
100 – 200 mm thì rệp lại tăng trở lại và đạt cao điểm vào tháng 12 (101,47 ± 1,19
con/m2) khi này lượng mưa chỉ có 10 – 20 mm, nhiệt độ thấp 15,5 – 16,8
oC làm rệp
phát triển mạnh. Năm 2015, từ tháng 1 đến tháng 4 lượng mưa chỉ từ 26 đến 70 mm,
nhiệt độ từ 17 đến 21 oC, thích hợp cho rệp muội nâu đen phát triển, sang tháng 5
lượng mưa tăng đột biến lên đến 300 mm mật độ chúng giảm đáng kể cho đến tận
tháng 10, sang tháng 11–12 lượng mưa giảm còn 90 –100mm, nhiệt độ 17 – 18 oC thì
58
mật độ chúng mới cao trở lại. Năm 2016, chỉ 3 tháng đầu lượng mưa ít dao động 32 –
105 mm, nhiệt độ thấp 15 – 16 oC thuận lợi cho rệp muội nâu đen phát triển, từ tháng
thứ 4 mưa tăng cao lên đến 200 mm/tháng, duy trì đến tận tháng 9, từ tháng 10 đến
tháng 12 lượng mưa giảm còn 3 – 20 mm, nhiệt độ 19 – 20 oC nên phù hợp cho chúng
phát triển.
3.1.2.4. Diễn biến mật độ tập hợp sâu cánh vẩy
Hình 3.4. Diễn biến mật độ tập hợp sâu cánh vẩy hại chè LDP1,
3 tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ
Trong giai đoạn 2014 – 2016, đã ghi nhận 19 loài sâu hại thuộc bộ cánh vẩy
trên chè tại Phú Thọ. Tuy nhiên đa số các loài đều xuất hiện ở mức ít phổ biến (+),
chỉ có 6 loài xuất hiện ở mức phổ biến (++) gồm: Sâu đục thân đỏ (Zeuzera coffeae
Nietner), sâu đo (Biston suppressaria Guenee), bọ nẹt xanh không gai (Chalcocelis
albigutata Snellen), sâu kèn tổ lá (Acanthopsyche subera Hmb.), Sâu kèn ống
(Amatissa vaulogeri Heylaerts), sâu cuốn búp (Homona coffearia Nietner).
So sánh mật độ tập hợp sâu cánh vẩy qua các năm: Mật độ tập hợp sâu cánh
vẩy tăng dần qua các năm. Năm 2014 có mật độ thấp nhất
(trung bình là 1,07 ± 0,06 con/m2) , tiếp đó đến năm 2015 (trung bình 1,26 ± 0,04
con/m2) và cao nhất là năm 2016 (trung bình 1,38 ± 0,09 con/m
2).
0
0,2
0,4
0,6
0,8
1
1,2
1,4
1,6
1,8
2
Thán
g 1
Thán
g 2
Thán
g 3
Thán
g 4
Thán
g 5
Thán
g 6
Thán
g 7
Thán
g 8
Thán
g 9
Thán
g 1
0
Thán
g 1
1
Thán
g 1
2
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016Mật độ (con/m2 )
59
Diễn biến mật độ tập hợp sâu cánh vẩy: Tại từng thời điểm có loài mật độ
thấp, có loài có mật độ cao, nhưng do theo dõi cả tập hợp mật độ sâu cánh vẩy nên
tổng số lượng sâu cánh vẩy duy trì khá đều đặn quanh năm, mật độ giảm nhẹ vào các
tháng đầu năm (tháng 1 – 2) (trung bình tháng 1 trong 3 năm là 0,97 ± 0,02 con/m2)
khi đốn chè, sau đó tăng nhẹ không thấy xuất hiện cao điểm, mật độ sâu cánh vẩy dao
động từ 1,08 đến 1,45 con/m2. Sâu cánh vẩy (như sâu xếp lá, sâu kèn, sâu đo, bọ nẹt…)
gây hại cả lá non và lá bánh tẻ nên việc đốn chè vào cuối năm làm giảm mật độ sâu cánh
vẩy không đáng kể.
Nghiên cứu này ghi nhận 19 loài sâu hại bộ cánh vẩy trên chè nhiều hơn rất
nhiều các công bố trước đây như Phạm Văn Lầm (2013) [30] ghi nhận 9 loài, Nguyễn
Văn Hùng và nnk (1998) [11] ghi nhận 15 loài, Viện bảo vệ thực vật (1967 – 1968)
[45] ghi nhận 16 loài. Các tác giả nói trên đều chưa đi sâu nghiên cứu diễn biến mật
độ nhóm sâu hại bộ cánh vẩy trên chè, đây là công trình đầu tiên nghiên cứu vấn đề
này. Làm cơ sở đánh giá mối quan hệ giữa côn trùng bắt mồi và sâu cánh vẩy.
3.2. Thành phần côn trùng bắt mồi, vật mồi của chúng, mức độ xuất hiện và diễn
biến mật độ của một số loài côn trùng bắt mồi trên chè tại Hƣơng Xạ, Hạ Hòa,
Phú Thọ
3.2.1. Thành phần côn trùng bắt mồi, vật mồi của chúng và mức độ xuất
hiện
Bảng 3.3. Thành phần côn trùng bắt mồi vật mồi của chúng và mức độ xuất hiện
trên chè tại Phú Thọ (2014 – 2016)
S
T
T
Tên Việt
Nam Tên khoa học Họ Vật mồi
Mức
độ
xuất
hiện
Bộ cánh cứng (Coleoptera)
1 Bọ cánh
cứng bắt
mồi
Eucolliuris
fuscipennis (Chaud
oir)
Carabidae
Sâu non cánh
vẩy
+
2 Bọ chân
chạy đen cổ
dài
Odacantha metallica
(Fairmilie)
Rệp, Sâu non
cánh vẩy
+
3 Bọ chân Ophionea Rệp, trứng và +
60
chạy ba
khoang bắt
mồi
nigrofasciata
(Schmidt-Goebel)
sâu non cánh
vẩy
4 Bọ ba
khoang
Ophionea indica
(Thunberg)
Rệp, trứng và
sâu non cánh
vẩy
+
5 Bọ cánh
cứng cộc
chân nâu
vàng
Paederus fuscipes
Curtis
Staphylinidae
Rệp, sâu non và
nhộng cánh vẩy
+
6 Bọ cánh
cứng cộc
chân xanh
đen
Paederus tamulus
Erichson
Rệp, sâu non và
nhộng cánh vẩy
+
7 Bọ cánh cộc Oligota sp. +
8 Bọ rùa nhỏ Chilocorus gressitti
Miyat.
Coccinellidae
+
9 Bọ rùa Leis dimidiata
(Fabricius)
+
10 Bọ rùa 6 vằn Menochilus
sexmaculatus
(Fabricius)
Rệp, rầy, trứng
bộ cảnh vẩy
+++
11 Bọ rùa đen
nhỏ
Stethorus sp. +
12 Bọ rùa chữ
nhân
Coccinella
transversalis
Fabricius
Rệp, sâu non
cánh vẩy
+
13 Bọ rùa 8
chấm
Harmonia
octomaculata
(Fabricius)
Rệp, rầy +
14 Bọ rùa 2
chấm đỏ
Lemnia biplagiata
(Swartz)
Rệp, rầy +
61
15 Bọ rùa đỏ Micraspis discolor
(Fabricius)
Rệp, rầy +++
16 Bọ rùa vàng Scymnus hoffmanni
Weise
Rệp, rầy +
17 Bọ rùa Nhật
Bản
Propylea japonica
Thunberg
Rệp, trứng ++
Bộ hai cánh (Diptera)
18 Ruồi ăn rệp Asarcina aegota
Fabricius
Syrphidae
Rệp +
19 Ruồi ăn rệp Episyrphus balteatus
(de Geer)
Rệp +
20 Ruồi ăn rệp Ischiodon scutellaris
(Fabricius)
Rệp +
21 Ruồi ăn rệp Clythia sp. Rệp +
22 Ruồi giả
ong
Paragus crenulatus
Thom.
Rệp +
Bộ cánh da (Dermaptera)
23 Bọ đuôi kìm
nâu
Prorenus sp
Carcinophor
idae
Trứng, sâu non,
nhộng của bộ
cánh vẩy, rệp,
rầy
+
Bộ cánh khác (Heteroptera)
24 Bọ xít mù
xanh
Cyrtorhinus
lividipennis Reuter*
Miridae Rầy, sâu non bộ
cánh vẩy
+
25 Bọ xít cổ
ngỗng nâu
Coranus fuscipennis
Reuter
Reduviidae
Sâu non bộ cánh
vẩy
++
26 Bọ xít cổ
ngỗng nâu
nhỏ
Coranus spiniscutis
Reuter
Sâu non bộ cánh
vẩy
+
27 Bọ xít cổ
ngỗng đen
bắt mồi
Sycanus
croceovittatus
Dohrn
Rầy, bọ nẹt, sâu
non bộ cánh
vẩy, bọ xít xanh
+++
62
28 Bọ xít bắt
mồi hai gai
Poliditus peramatus
Uhler*
Sâu cuốn lá, sâu
đo
+
29 Bọ xít nâu
viền trắng
Andrallus spinidens
Fabricius*
Sâu non bộ cánh
vẩy, rầy xanh
+
30 Bọ xít nâu
đen nhỏ bắt
mồi
Orius sauteri
(Poppius)*
Anthocoridae
Trứng sâu bộ
cánh vẩy, bọ trĩ
+++
31 Bọ xít hoa Eocanthecona
furcellata (Wolff)
Pentatomidae Sâu non bộ cánh
vẩy
+
32 Bọ xít giả
bắt mồi
Nabis capsiformis
Germar
Nabidae
Sâu non bộ cánh
vẩy, trứng sâu
hại
++
Bộ cánh màng (Hymenoptera)
33 Ong bầu đất Polistes gigas
(Kirby)
Vespidae
Sâu bộ cánh vẩy +
34 Ong vàng Polistes olivaceus
(de Geer)
Sâu bộ cánh vẩy +
35 Ong vằn Polistes japonicus
de Saussure
Sâu bộ cánh vẩy +
36 Ong lửa Polistes sagittarius
de Saussure
Sâu bộ cánh vẩy +
37 Ong vằn
vàng
Polistes communalis
Nguyen, Vu &
Carpenter **
Sâu bộ cánh vẩy +
38 Ong mặt
vàng
Ropalidia stigma
(Smith)
Sâu bộ cánh vẩy +
39 Ong bụng
vàng
Vespa affinis
(Linnaeus)
Sâu bộ cánh vẩy +
40 Ong đen Allorhynchium
argentatum
(Fabricius)
Sâu bộ cánh vẩy +
63
41 Ong bụng
thắt eo
Delta
pyriformepyriforme
(Fabricius)
Sâu bộ cánh vẩy +
42 Ong vằn nâu Rhynchium
brunneum
(Fabricius)
Sâu bộ cánh vẩy +
43 Kiến đen
lớn
Aenictus binghamii
Forel
Formicidae
Rệp +
44 Kiến đỏ Anoplolepis
gracilipes (Smith)
Rệp +
45 Kiến đen
nhỏ
Camponotu sp. Rệp +
46 Kiến đen Polyrhachis proxima
Roger
Rệp +
47 Kiến vàng Pheidologeton
divers (Jerdon)
Rệp +
48 Kiến lưng
dài
Odontoponera
denticulata (Smith)
Rệp +
Bộ bọ ngựa (Mantoptera)
49 Bọ ngựa Hierodula saussurei
Kirby Mantidae
Sâu bộ cánh vẩy +
Bộ cánh mạch (Neuroptera)
50 Bọ cánh
mạch nâu
Micromus sp. Hemerobiidae
Sâu bộ cánh vẩy +
51 Bọ mắt vàng Chrysopa sp. Chrysopidae Sâu bộ cánh vẩy +
Ghi chú:
*: Loài ghi nhận mới trên cây chè ở Phú Thọ; **: Loài mới cho khoa học
+ : Ít phổ biến (mức độ xuất hiện<25%)
++ : Khá phổ biến (25% ≤ mức độ xuất hiện < 50%)
+++:Phổ biến (mức độ xuất hiện ≥ 50%)
Tiến hành điều tra thành phần côn trùng bắt mồi trên chè tại 9 huyện của tỉnh
Phú Thọ từ 2014 đến 2016, đã ghi nhận 51 loài côn trùng bắt mồi trên 7 bộ và 15 họ.
64
Trong đó Bộ cánh cứng (Coleoptera) có nhiều loài nhất, 17 loài thuộc 15 giống, 3 họ.
Tiếp theo là Bộ cánh màng (Hymenoptera) có 16 loài thuộc 12 giống, 2 họ. Tiếp theo
là Bộ cánh khác (Heteroptera) gồm 9 loài thuộc 9 giống, 5 họ. Tiếp theo là Bộ hai
cánh (Diptera) gồm 5 loài thuộc 5 giống, 1 họ. Bộ cánh mạch (Neuroptera) gồm 2
loài thuộc 2 giống, 2 họ. Các Bộ cánh da (Dermaptera), Bộ bọ ngựa (Mantoptera) đều
chỉ có 1 loài.
Kết quả điều tra thành phần côn trùng bắt mồi trên chè cho thấy trên chè thành
phần côn trùng bắt mồi không phong phú bằng trên các cây trồng khác như trên cây
ăn quả phát hiện 81 loài (Viện Bảo vệ thực vật, 1999) [47]. Tuy nhiên, thành phần
côn trùng bắt mồi trên chè ở nước ta phong phú hơn 1 số nước trong khu vực: Tại
Chieng Mai (Thái Lan) năm 2001 – 2002 phát hiện được 17 loài thiên địch trên cây
chè và tại Ấn Độ phát hiện được 13 loài thiên địch trên cây chè (Borthakur et al.,
1993) [52].
Bảng 3.4. Số lƣợng các loài côn trùng bắt mồi đã đƣợc ghi nhận trên chè tại
Phú Thọ
Stt Tên bộ côn
trùng
Số lƣợng loài côn trùng bắt mồi trên nƣơng chè đã đƣợc
ghi nhận
1994-1997 1995-1999 2006-2011 2013-2016
(1) (2) (3) (4)
1 Orthoptera 1 1 0 0
2 Isoptera 0 0 0 0
3 Homoptera 0 0 0 0
4 Heteroptera 1 1 6 9
5 Thysanoptera 0 1 1 0
6 Coleoptera 3 17 16 17
7 Diptera 1 2 4 5
8 Mantoptera 1 2 0 1
9 Neuroptera 1 1 3 2
10 Hymenoptera 1 12 6 16
11 Odonata 2 2 0 0
12 Dermaptera 0 0 0 1
Tổng 11 39 37 51
Ghi chú: (1) Nguyễn Văn Thiệp, 2000;(2) Lê Thị Nhung, 2002; (3) Phạm Văn Lầm,
2015; (4) Kết quả của nghiên cứu này.
65
Số lượng loài côn trùng bắt mồi trên cây chè ở các giai đoạn khác nhau là rất
khác nhau. Nguyễn Văn Thiệp (2000) [42] điều tra từ 1994 đến 1999 tại Phú Thọ
phát hiện 22 loài thiên địch sâu hại chè, trong đó chỉ có 11 loài côn trùng bắt mồi, 8
loài nhện bắt mồi, còn lại là kí sinh và động vật ăn thịt khác. Giai đoạn 1995 – 1999,
Lê Thị Nhung (2002) [33] đã ghi nhận 39 loài côn trùng bắt mồi trên chè tại Phú Thọ,
số lượng loài chênh lệch chủ yếu nằm ở bộ Coleoptera và Hymenoptera. Phạm Văn
Lầm (2013) [30] trong năm 2006–2011 ghi nhận 37 loài côn trùng bắt mồi trên chè ở
một số vùng trồng chè trọng điểm trong cả nước như Thái Nguyên, Phú Thọ, Yên
Bái, Tuyên Quang, Hà Giang, Hòa Bình, Nghệ An, Lâm Đồng... So với kết quả
nghiên cứu này, đã ghi nhận 51 loài trong đó có 3 bộ côn trùng bắt mồi chiếm số
lượng ưu thế là Bộ cánh cứng (Coleoptera) có 18 loài chiếm 35,29%, Bộ cánh cánh
màng (Hymenoptera) có 16 loài chiếm 31,37%, Bộ cánh khác (Heminoptera) có 9
loài chiếm 17,65% (Bảng 3.5). Trong 51 loài côn trùng bắt mồi ghi nhận mới 4 loài
côn trùng bắt mồi trên chè tại Phú Thọ gồm: Bọ xít mù xanh Cyrtorhinus lividipennis
Reuter, Bọ xít bắt mồi hai gai Poliditus peramatus Uhler, Bọ xít nâu viền trắng
Andrallus spinidens Fabricius và Bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Orius sauteri (Poppius),
1 loài được mô tả mới cho khoa học là loài Polistes communalis Nguyen, Vu &
Carpenter, 2017.
Loài Polistes communalis Nguyen, Vu & Carpenter, 2017 có thể phân biệt với
các loài khác cùng nhóm bởi các đặc điểm như: Má nhìn nghiêng rộng hơn mắt một
chút, chiều dài của mảnh gốc môi dọc theo mắt kép bằng 0.7 lần đường kính của gốc
ăng ten, đốt ăng ten thứ nhất dài gấp 3 lần chiều rộng (nơi rộng nhất), cơ thể bao phủ
bởi các lỗ to và thô, cơ thể có màu nâu; cánh màu vàng nhạt ngoại trừ chấm màu tối ở
đỉnh cảnh trước. Cơ thể con cái dài 10,1 – 12,7mm (mẫu chuẩn: 12,3mm), độ dài
cánh trước từ 9,8 – 12,4mm (mẫu chuẩn: 12,1mm), màu sắc cơ thể con cái loài
Polistes communalis có màu đen, các phần sau màu vàng, mép dưới của mảnh gốc
môi, một dải hẹp nhạt màu dọc theo mắt kép kéo dài từ phía dưới của trán đến hết
mép cong của mắt kép; hai dải ngắn và hẹp ở mép trên của mảnh lưng ngực sau, hai
sọc hẹp dọc trên mặt sau của propodeum, dải ngang ở mép dưới của mảnh lưng đốt
bụng thứ nhất (hai bên kép dài đến mép trên của mảnh), sọc mảnh dọc theo đốt
chuyển của chân sau, các phần sau màu nâu tối, đầu bao gồm mặt dưới của ăng ten,
mảnh lưng ngực trước, hai chấm lớn trên mảnh mesepisternum, hai dải xiên trên
66
mảnh lưng ngực giữa, ngực sau, hai đốm mờ trên mảnh lưng của đốt bụng 1, một dải
ở mép dưới của mảnh lưng đốt bụng 4 – 6, sọc ở mặt ngoài của tất cả đốt đùi và đốt
ống và tất cả đốt bàn của các chân. Cơ thể con đực dài 10,7mm – 11,5mm, độ dài
cánh trước từ 10,5mm – 11,3mm. Màu sắc con đực gần giống với con cái, nhưng có
nhiều phần màu đen hơn như sau: mép trên và dưới của mảnh gốc môi, trán, má ngoại
trừ một dải hẹp màu nâu dọc theo mắt kép, hàm, mảnh lưng ngực giữa, mảnh lưng
ngực sau ngoại trừ hai dải ngắn hẹp màu vàng ở phía gốc, mảnh lưng đốt bụng 1
(Hình 3.5).
Hình 3.5. Hình thái ngoài của loài Polistes communalis Nguyen, Vu & Carpenter,
2017 (13- Mảnh gốc môi; 14- mặt sau của propodeum; 15- Má nhìn nghiêng;
16- Cơ thể nhìn nghiêng). Thước tỉ lệ: 1mm.
67
Bảng 3.5. Số lƣợng và tỷ lệ của giống, loài côn trùng bắt mồi trên chè tại Phú Thọ
Stt Tên họ côn trùng
bắt mồi
Giống Loài
Số lƣợng Tỷ lệ (%) Số lƣợng Tỷ lệ (%)
Bộ cánh khác (Heteroptera)
1 Miridae 1 2,22 1 1,96
2 Reduviidae 5 11,11 5 9,80
3 Anthocoridae 1 2,22 1 1,96
4 Pentatomidae 1 2,22 1 1,96
5 Nabidae 1 2,22 1 1,96
Bộ cánh cứng (Coleoptera)
6 Carabidae 3 6,67 4 7,84
7 Staphylinidae 2 4,44 3 5,88
8 Coccinellidae
11 24,44 11 21,57
Bộ cánh mạch (Neuroptera)
9 Hemerobiidae 1 2,22 1 1,96
10 Chrysopidae 1 2,22 1 1,96
Bộ hai cánh (Diptera)
11 Syrphidae 4 8,89 4 7,84
Bộ cánh màng (Hymenoptera)
12 Vespidae 6 13,33 10 19,61
13 Formicidae 6 13,33 6 11,76
Bộ bọ ngựa (Mantoptera)
14 Mantidae 1 2,22 1 1,96
Bộ cánh da (Dermaptera)
15 Carcinophoridae 1 2,22 1 1,96
Tổng 45 100 51 100
Ở bậc phân loại cấp giống, trong 45 giống đã được xác định, thì họ
Coccinellidae có số lượng giống nhiều nhất với 11 giống (chiếm 24,44% tổng số
giống), tiếp theo là 2 họ Vespidae và Formicidae với 6 giống (cùng chiếm 13,33%
tổng số giống), tiếp theo là họ Reduviidae với 5 giống (chiếm 11,11% tổng số giống),
tiếp theo là họ Syrphidae với 4 giống (chiếm 8,89% tổng số giống), tiếp theo là họ
Carabidae với 3 giống (chiếm 6,67% tổng số giống), tiếp theo là họ Staphylinidae với
2 giống (cùng chiếm 4,44% tổng số giống), các họ còn lại gồm Miridae,
68
Anthocoridae, Pentatomidae, Nabidae, Hemerobiidae, Chrysopidae, Mantidae và
Carcinophoridae chỉ gồm duy nhất 1 giống (cùng chiếm 2,22% tổng số giống).
Ở bậc phân loại cấp loài, họ Coccinellidae có số lượng loài nhiều nhất với 11
loài (chiếm 21,57% tổng số loài). Tiếp theo là họ Vespidae có 10 loài (chiếm 19,61%
tổng số loài). Tiếp theo là họ Formicidae có 6 loài (chiếm 11,76% tổng số loài). Tiếp
theo là họ Reduviidae có 5 loài (chiếm 9,80% tổng số loài). Tiếp theo là 2 họ
Carabidae và Syrphidae có 4 loài (chiếm 7,84% tổng số loài). Tiếp theo là họ
Staphylinidae có 3 loài (chiếm 5,88% tổng số loài). Tiếp theo là các họ Miridae,
Anthocoridae, Pentatomidae, Nabidae, Hemerobiidae, Chrysopidae, Mantidae và
Carcinophoridae đều chỉ có 1 loài (cùng chiếm 1,96% tổng số loài).
Mức độ phổ biến: Mức độ phổ biến của 51 loài côn trùng bắt mồi ghi nhận
trên chè không giống nhau, có 4 loài xuất hiện phổ biến trên chè ở Phú Thọ gồm bọ
xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus Dohrn, Bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi
Orius sauteri (Poppius), bọ rùa 6 vằn Menochilus sexmaculatus (Fabricius) và bọ rùa đỏ
Micraspis discolor (Fabricius). Các loài còn lại xuất hiện phổ biến và ít phổ biển.
3.2.2. Diễn biến mật độ loài côn trùng bắt mồi phổ biến trên chè tại Hương xạ, Hạ
Hòa, Phú Thọ
3.2.2.1. Diễn biến mật độ loài bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus
croceovittatus Dohrn
Hình 3.6. Diễn biến mật độ loài bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi (Sycanus
croceovittatus) trên chè lai LDP1, 3 tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ
0
0,2
0,4
0,6
0,8
1
1,2
1,4
Th
áng 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng
10
Th
áng
11
Th
áng
12
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016Mật độ (con/m
2)
69
Trong khoảng thời gian 2014 đến 2016 điều tra tại Hạ Hòa, Phú Thọ thì mật
độ bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi tăng dần theo năm, thấp nhất là năm 2014 mật độ
trung bình là 0,39 ± 0,02 con/m2, năm 2015 mật độ trung bình tăng nhẹ 0,43 ± 0,05
con/m2 và cao nhất là năm 2016 mật độ trung bình là 0,61 ± 0,01 con/m
2.
Qua 3 năm liên tục điều tra thì mật độ bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi thường cao
nhất vào tháng 6. Điều tra trong năm 2014, tháng 1 mật độ bọ xít cổ ngỗng đen bắt
mồi rất thấp (trung bình 0,40 ± 0,14 con/m2), tăng dần từ tháng 2 đến tháng 5 và đạt
cao nhất vào tháng 6 (trung bình 0,73 ± 0,08 con/m2), sau đó lại giảm dần và thấp
nhất vào tháng 12 (trung bình 0,20 ± 0,06 con/m2). Năm 2015, tháng 1 mật độ bọ xít
cổ ngỗng đen bắt mồi rất thấp (trung bình 0,43 ± 0,15 con/m2), tăng dần từ tháng 2
đến tháng 5 và đạt cao nhất vào tháng 6 (trung bình 0,95 ± 0,09 con/m2), sau đó lại
giảm dần và thấp nhất vào tháng 12 (trung bình 0,35 ± 0,09 con/m2). Năm 2016,
tháng 1 mật độ bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi cũng rất thấp (trung bình 0,60 ± 0,11
con/m2), tăng dần từ tháng 2 đến tháng 5 và đạt cao nhất vào tháng 6 (trung bình 1,15
± 0,05 con/m2), sau đó lại giảm dần và thấp nhất vào tháng 12 (trung bình 0,46 ± 0,06
con/m2) (Hình 3.6).
Có nhiều lý do ảnh hưởng đến sự phát sinh và phát triển của bọ xít cổ ngỗng
đen bắt mồi nhưng quan trọng nhất là yếu tố nhiệt độ và thức ăn. Theo Trương Xuân
Lam và Vũ Quang Côn (2004) [22] nhiệt độ thích hợp nhất cho bọ xít cổ ngỗng đen
bắt mồi sinh sản là 28 – 30oC. Theo số liệu khí tượng thủy văn tại Phú Thọ trong 3
năm 2014 – 2016 [165] thì nhiệt độ trung bình tháng 6 là 29 – 31,2 oC, phù hợp cho
loài bọ xít bắt mồi này sinh sản và phát triển và đạt cao điểm mật độ vào tháng 6 hàng
năm. Cũng theo Trương Xuân Lam và Vũ Quang Côn (2004) [21] thì thức ăn ưa thích
nhất của bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi là sâu non bộ cánh vẩy (Lepidoptera) và mật độ
loài bắt mồi tăng lên theo sự gia tăng số lượng của vật mồi, thường đạt cao điểm mật
độ sau cao điểm mật độ của vật mồi một thời gian. Theo số liệu điều tra trong 3 năm
2014 – 2016 thì thấy rằng tập hợp sâu cánh vẩy trên chè đạt cao điểm mật độ vào
tháng 4 hàng năm, cung cấp một lượng thức ăn dồi dào cho bọ xít cổ ngỗng đen bắt
mồi tăng trưởng, tích lũy số lượng và đạt cao điểm mật độ vào tháng 6. Bên cạnh đó,
khi không phun thuốc hóa học thì mật độ sâu hại ngày càng cao làm cho mật độ bọ
xít cổ ngỗng đen bắt mồi cũng ngày càng cao trong 3 năm nghiên cứu (2014 –2016).
Chúng sẽ tạo nên một trạng thái cân bằng sinh học động trên nương chè.
3.2.2.2. Diễn biến mật độ bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Orius sauteri (Poppius)
Đây là một loài bắt mồi có kích thước nhỏ bé, nhưng lại hoạt động linh hoạt,
thường cư trứ ở các kẽ lá, kẽ búp và vật mồi ưu thích nhất của chúng là bọ trĩ.
70
Hình 3.7. Diễn biến mật độ loài bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi (Orius sauteri)
trên chè lai LDP1, 3 tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ
Mật độ bọ xít nâu nhỏ bắt mồi qua các năm: Trong giai đoạn 2014 đến 2016
thì mật bọ xít nâu nhỏ bắt mồi tăng dần, thấp nhất là năm 2014 (0,81 ± 0,07 con/m2),
năm 2015 tăng lên là 1,10 ± 0,12 con/m2 và cao nhất nhất là năm 2016 (1,30 ± 0,03
con/m2).
Diễn biến mật độ bọ xít nâu nhỏ bắt mồi: Bọ xít nâu nhỏ bắt mồi xuất hiện
quanh năm trên chè với mật độ dao động từ 0,36 đến 2,27 con/m2. Hàng năm có hai
cao điểm vào tháng 5 và tháng 10. Hàng năm, tháng 1 mật độ bọ xít nâu nhỏ bắt mồi
thấp nhất (trung bình là 0,51 ± 0,01 con/m2), từ tháng 2 đến tháng 4, mật độ chúng
tăng dần và đạt đỉnh cao thứ nhất trong năm vào tháng 5 (trung bình là 1,99 ± 0,04
con/m2), sau đó mật độ bọ xít nâu nhỏ bắt mồi lại giảm và thấp nhất vào tháng 8
(trung bình là 0,92 ± 0,11 con/m2), tháng 9 chúng tăng cao trở lại và đạt đỉnh cao thứ
2 trong năm vào tháng 10 (trung bình là 2,01 ± 0,09 con/m2), bước sang tháng 11
chúng giảm dần và mật độ của chúng tại tháng 12 chỉ còn trung bình 0,72 ± 0,04
con/m2 (Hình 3.7).
3.2.2.3. Diễn biến mật độ tập hợp bọ xít bắt mồi
Trong giai đoạn 2014 – 2016 tại Phú Thọ, ghi nhận 9 loài bọ xít bắt mồi trên
chè (Hemiptera). Trong tổng số các loài côn trùng bắt mồi được phát hiện trên chè
trong nghiên cứu này thì số lượng các loài thuộc bộ Hemiptera chiếm vị trí thứ 3.
0
0,5
1
1,5
2
2,5
Th
áng 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng 1
0
Th
áng 1
1
Th
áng 1
2Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
Mật độ (con/m2)
71
Đây là bộ côn trùng bắt mồi có vai trò quan trọng trong việc khống chế sâu hại chè.
Do số lượng loài lớn như vậy nên không thể theo dõi và xử lý thống kê chi tiết từng
loài mà theo dõi riêng một số loài phổ biến (bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus
croceovittatus Dohrn, bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Orius sauteri (Poppius)), còn lại theo
dõi tập hợp tất cả các loài bọ xít bắt mồi đã bắt gặp trong quá trình điều tra.
Hình 3.8. Diễn biến mật độ tập hợp bọ xít bắt mồi trên chè lai LDP1,
3 tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ
So sánh mật độ tập hợp bọ xít bắt mồi qua các năm: Mật độ tập hợp bọ xít bắt
mồi ngày càng tăng qua các năm trong khoảng thời gian nghiên cứu từ 2014 – 2016.
Năm 2014 mật độ tập hợp bọ xít bắt mồi trung bình là 2,94 ± 0,07 con/m2, năm 2015
tăng lên là 3,48 ± 0,12 con/m2 và năm 2016 là 3,98 ± 0,01 con/m
2.
Diễn biến mật độ tập hợp bọ xít bắt mồi: Trong suốt 3 năm theo dõi, mật độ
tập hợp bọ xít bắt mồi có 1 cao điểm vào tháng 7 – 8. Tháng 1 – 3 hàng năm chè vừa
được đốn và bắt trải qua thời kì ngủ nghỉ, các loài sâu hại giảm mạnh dẫn đến mật độ
các loài bọ xít bắt mồi cũng thấp nhất trong năm (trung bình từ 1,93 đến 2,68
con/m2). Đến tháng 4, mật độ tập hợp bọ xít bắt mồi lại tăng nhẹ (trung bình 2,97 ±
0,05 con/m2), tiếp tục tăng mạnh ở tháng 5 và tháng 6 (trung bình từ 3,36 đến 5,08
con/m2). Sau đó đạt đỉnh cao vào tháng 8 (trong năm 2014 với mật độ 4,74 ± 0,13
con/m2) hoặc đạt đỉnh cao vào tháng 7 (trong năm 2015 với mật độ là 4,76 ± 0,09
con/m2 và năm 2016 với mật độ là 6,49 ± 0,11 con/m
2) (Hình 3.8).
0
1
2
3
4
5
6
7
8
Th
áng 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng 1
0
Th
áng 1
1
Th
áng 1
2
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016Mật độ (con/m
2)
72
Nhóm bọ xít bắt mồi rất phong phú về loài, theo kết quả điều tra côn trùng
năm 1967–1968 trên các cây trồng lâu năm ở miền Bắc Việt Nam [45] đã ghi nhận 97
loài bọ xít bắt mồi, trong đó đã xác định tên 65 loài còn 32 loài chưa xác định được
tên. Theo kết quả điều tra cơ bản động vật ở miền Bắc Việt Nam (1977-1979) [47] đã
ghi nhận được 81 loài bọ xít bắt mồi, trong đó đã xác định được tên của 53 loài, còn
28 loài chưa xác định được tên. Trương Xuân Lam và Vũ Quang Côn (2004) [21] đã
khẳng định sự phong phú này giúp cho sự cân bằng sinh thái và làm giảm đáng kể số
lượng sâu hại trên đồng ruộng.
3.2.2.4. Diễn biến mật độ bọ rùa đỏ Micraspis discolor Fabricius
Bọ rùa đỏ là một loài côn trùng bắt mồi phổ biến trên nương chè, chúng
thường xuất hiện trên búp chè và cả những cây bụi xung quanh nương chè, hoạt động
nhanh nhẹn. Thức ăn ưa thích nhất của chúng là rệp, ngoài ra chúng còn sử dụng cả
rầy và trứng các loài sâu cánh vẩy làm thức ăn.
Hình 3.9. Diễn biến mật độ bọ rùa đỏ Micraspis discolor trên chè chè lai LDP1,
3 tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ
So sánh mật độ bọ rùa đỏ qua các năm: Quan 3 năm điều tra liên tiếp từ 2014
đến 2016, kết quả ghi nhận tại phụ lục và hình 3.9 cho thấy, mật độ bọ rùa đỏ tăng
dần qua các năm. Năm 2014 mật độ bọ rùa đỏ trung bình là 2,99 ± 1,05 con/m2, năm
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Th
áng 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng 1
0
Th
áng 1
1
Th
áng 1
2
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
Mật độ (con/m2)
73
2015 tăng lên là 3,73 ± 1,12 con/m2, đến năm 2016, mật độ trung bình là 5,63 ± 0,96
con/m2.
Diễn biến mật độ bọ rùa đỏ: Chúng xuất hiện quanh năm trên nương chè,
nhưng mật độ khác nhau ở các tháng, có 2 cao điểm mật độ vào tháng 6 hàng năm và
tháng 11 hàng năm, cao điểm thứ nhất có mật độ cao hơn cao điểm thứ 2. Tháng 1,
mật độ bọ rùa đỏ thấp, trung bình trong 3 năm là 2,92 ± 0,59 con/m2. Sang tháng 2
bắt đầu tăng nhẹ, trung bình 3 năm là 3,55 ± 0,89 con/m2. Tháng 3, mật độ bọ rùa đỏ
tăng rất mạnh lên, trung bình 3 năm là 4,31 ± 1,14 con/m2. Tiếp tục tăng ở tháng 4
(trung bình 3 năm là 4,06 ± 0,95 con/m2) và tháng 5 (trung bình 3 năm là 4,82 ± 0,85
con/m2). Đạt cao điểm mật độ thứ nhất trong năm vào tháng 6 (trung bình 3 năm là
6,78 ± 0,05 con/m2). giảm nhẹ ở tháng 7 (trung bình 3 năm là 6,06 ± 0,14 con/m
2),
sang tháng 8 mật độ lại tiếp tục giảm mạnh (trung bình 3 năm còn 4,50 ± 0,75
con/m2), tiếp tục giảm cho đến tháng 10 (trung bình 3 năm là 2,69 ± 0,99 con/m
2),
sang tháng 11 lại tăng lên và đạt cao điểm mật độ thứ 2 trong năm (trung bình 3 năm
là 4,08 ± 1,07 con/m2) sau đó lại giảm vào tháng 12 (trung bình 3 năm chỉ còn 1,86
± 0,15 con/m2) (Hình 3.9).
Nguyên nhân thứ nhất dẫn đến diễn biến mật độ bọ rùa đỏ như trên là do
nguồn thức ăn. Bọ rùa đỏ là sinh vật bậc tiêu thụ bậc 2 trong hệ sinh thái nương chè,
thức ăn ưa thích nhất là rệp, khi không có rệp chúng ăn cả rầy và các loài sâu hại
khác. Theo Trương Xuân Lam và Vũ Quang Côn (2004) [21], số lượng bọ xít bắt mồi
thường tăng tỷ lệ thuận với sự gia tăng số lượng vật mồi của nó và đạt đỉnh cao mật
độ sau đỉnh cao vật mồi của nó một thời gian. Trong tất cả các loài rệp gây hại trên
cây chè tại Phú Thọ thì rệp muội Toxoptera aurantii Fonscolombe là loài phổ biến
nhất. Trong thời gian nghiên cứu, rệp muội Toxoptera aurantii Fonscolombe có mật
độ cao vào tháng 4 – 5 và tháng 9 – 12, rầy xanh có cao điểm mật độ vào tháng 4 và
tháng 10, cung cấp nguồn thức ăn dồi dào cho bọ rùa đỏ sinh trưởng, phát triển và
tích lũy số lượng để đạt cao điểm mật độ vào tháng 6 và tháng 11 hàng năm. Nguyên
nhân thứ 2 là do yếu tố khí hậu thời tiết, theo Phạm Văn Lầm (2005b) [25] thì ở điều
kiện miền Bắc Việt Nam bọ rùa đỏ có hai mùa sinh sản rõ rệt là tháng 4 – 5 và tháng
9 – 10, tạo điều kiện cho chúng tích lũy số lượng và đạt cao điểm vào tháng 6 và
tháng 11 hàng năm.
3.2.2.5. Diễn biến mật độ bọ rùa 6 vằn Menochilus sexmaculatus Fabricius
Bọ rùa 6 vằn là một loài côn trùng bắt mồi phổ biến trên chè, không những thế
loài này còn phổ biến trên nhiều loài cây trồng khác như cây họ đậu, cây rau họ hoa
thập tự, cây ăn quả, cây công nghiệp. So sánh mật độ bọ rùa 6 vằn qua các năm: Qua
74
3 năm điều tra liên tiếp từ 2014 đến 2016, kết quả ghi nhận tại phụ lục và hình 3.10
cho thấy mật độ bọ rùa 6 vằn tăng dần qua các năm. Năm 2014 mật độ bọ rùa đỏ
trung bình là 0,84 ± 0,15 con/m2, năm 2015 tăng nhẹ lên 1,15 ± 0,22 con/m
2, đến năm
2016 là 1,48 ± 0,20 con/m2.
Diễn biến mật độ bọ rùa 6 vằn: mật độ bọ rùa 6 vằn trong suốt 3 năm 2014 đến
2016, không có sự biến động nhiều giữa các tháng trong năm, không phát triển cao
điểm, thấp điểm rõ ràng mà chúng luôn duy trì quần thể ở mật độ thấp từ 0 đến dưới 8
con/m2. Từ tháng 1 đến tháng 4 hàng năm, mật độ bọ rùa 6 vằn thấp dưới 3 con/m
2.
Từ tháng 5 đến tháng 11 mật độ cao hơn (trong khoảng từ 3 đến 7 con/m2), tháng 12
mật độ bọ rùa 6 vằn giảm xuống thấp nhất trong năm (trung bình 3 năm là 1,60 ±
0,81 con/m2).
Hình 3.10. Diễn biến mật độ bọ rùa 6 vằn Menochilus sexmaculatus trên chè lai
LDP1, 3 tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ
Năm 2014, suốt 4 tháng đầu năm, mật độ bọ rùa 6 vằn Menochilus
sexmaculatus Fabricius rất thấp (0,72 đến 2,10 con/m2). Sang tháng 5, mật độ bọ rùa
6 vằn bắt đầu tăng và đạt cao nhất ở tháng 9 (6,28 ± 0,07 con/m2). Sang tháng 10 lại
giảm dần và đạt thấp nhất vào tháng 12 (chỉ còn 0,32 ± 0,02 con/m2).
Năm 2015, suốt 4 tháng đầu năm, mật độ bọ rùa 6 vằn Menochilus
sexmaculatus Fabricius rất thấp (0,90 đến 2,61 con/m2). Sang tháng 5, mật độ bọ rùa
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Th
áng 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng 1
0
Th
áng 1
1
Th
áng 1
2
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
Mật độ (con/m2)
75
6 vằn bắt đầu tăng và đạt cao nhất ở tháng 7 (6,61 ± 0,06 con/m2). Sang tháng 8 lại
giảm dần và đạt thấp nhất vào tháng 12 (chỉ còn 0,58 ± 0,03 con/m2).
Năm 2016, suốt 3 tháng đầu năm, mật độ bọ rùa 6 vằn Menochilus
sexmaculatus Fabricius rất thấp (0,85 đến 1,52 con/m2). Sang tháng 4, mật độ bọ rùa
6 vằn bắt đầu tăng và đạt cao nhất ở tháng 11 (7,95 ± 0,85 con/m2). Sang tháng 12 lại
giảm xuống thấp (3,90 ± 0,02 con/m2).
3.2.2.6. Diễn biến mật độ tập hợp bọ rùa bắt mồi trên chè tại Phú Thọ
Hình 3.11. Diễn biến mật độ tập hợp bọ rùa bắt mồi trên chè lai LDP1,
3 tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ
Trong giai đoạn 2014 –2016, tại Phú Thọ, đã phát hiện 8 loài bọ rùa bắt mồi.
Do số lượng loài lớn như vậy nên khó theo dõi và xử lý thống kê chi tiết từng loài mà
theo dõi riêng một số loài phổ biến như trình bày ở trên và tập hợp tất cả các loài bọ
rùa bắt mồi bắt gặp trong quá trình điều tra.
So sánh mật độ tập hợp bọ rùa qua các năm: Qua 3 năm điều tra liên tiếp từ
2014 đến 2016, kết quả ghi nhận tại phụ lục và hình 3.11 cho thấy mật độ tập hợp bọ
rùa bắt mồi tăng dần qua các năm, năm 2014 là 3,08 ± 0,15 con/m2, năm 2015 tăng
lên là 3,38 ± 0,34 con/m2 và cao nhất là năm 2016 với mật độ 4,49 ± 0,30 con/m
2.
Diễn biến mật độ tập hợp bọ rùa bắt mồi trên chè: Trong suốt 3 năm theo dõi
mật độ tập hợp bọ rùa bắt mồi có 1 cao điiể vào tháng 9 hàng năm. Từ tháng 1 đến
tháng 4 hàng năm, mật độ bọ rùa 6 vằn rất thấp (Từ 0,76 đến 3,89 con/m2). Sang
0
1
2
3
4
5
6
7
Th
áng 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng 1
0
Th
áng 1
1
Th
áng 1
2
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016Mật độ (con/m2)
76
tháng 4, mật độ tập hợp bọ rùa bắt mồi tăng nhẹ càng ngày càng tăng mạnh và đạt
đỉnh cao vào tháng 9 (trung bình đạt 5,29 ± 0,24 con/m2). Sang tháng 10, mật độ của
chúng lại giảm dần và đến tháng 12 chỉ còn trung bình 2,22 ± 0,12 con/m2.
3.3. Mối quan hệ của một số loài côn trùng bắt mồi chính với vật mồi (Sâu hại
chè chính) tại Hƣơng Xạ, Hạ Hòa, Phú Thọ
Một số cặp loài bắt mồi có ý nghĩa trong ứng dụng quản lý dịch hại chè và con
mồi là các loài sâu hại phổ biến trên chè đã được lựa chọn để tìm hiểu khả năng
khống chế các loài sâu hại trên chè của các loài côn trùng bắt mồi thông qua đánh giá
mồi quan hệ giữa chúng biểu hiện bằng mối tương quan được tính hệ số tương quan
(R).
3.3.1. Mối quan hệ giữa một số loài bọ xít bắt mồi phổ biến và vật mồi của
chúng trên chè
Tiến hành đánh giá hệ số tương quan của 2 loài bọ xít bắt mồi: bọ xít cổ ngỗng
đen bắt mồi Sycanus croceovittatus Dohrn, bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Orius sauteri
(Poppius) với vật mồi của chúng trên chè là bọ trĩ và tập hợp sâu cánh vẩy.
Tập hợp bọ xít bắt mồi có mối tương quan nghịch với rầy xanh, bọ trĩ và sâu
cánh vẩy ở cả 3 năm nghiên cứu với các mức độ khác nhau. Trong đó, tương quan chặt
nhất với rầy xanh năm 2014 có R = -0,88, năm 2015 có R = -0,77, năm 2016 có R = -
0,86. Tập hợp bọ xít bắt mồi có mối tương quan yếu với sâu bộ cánh vẩy ở cả 3 năm
nghiên cứu, năm 2014 có R = -0,36, năm 2015 có R = -0,32, năm 2016 có R = -0,34,
và tương quan rất yếu với bọ trĩ ở cả 3 năm nghiên cứu, năm 2014 có R = -0,27, năm
2015 có R = -0,44, năm 2016 có R = -0,31.
Mối quan hệ giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi với một số loài sâu hại phổ biến
trên chè: chúng có mối tương quan nghịch, rất chặt với bọ trĩ ở cả 3 năm nghiên cứu,
năm 2014 có R = -0,69, năm 2015 có R = -0,89, năm 2016 có R = -0,92. Điều đó có
nghĩa loài bọ xít bắt mồi này có vai trò quan trọng trong khống chế mật độ bọ trĩ hại
chè, cần chú ý tạo mọi điều kiện cho chúng phát huy tối đa vai trò của chúng trong
quản lý tổng hợp dịch hại chè. Nhưng bọ xít nâu nhỏ bắt mồi có mối tương quan
nghịch rất yếu với rầy xanh, năm 2014 có R = -0,20, năm 2015 có R = -0,20, năm
2016 có R = -0,22 và có mối tương quan nghịch yếu hoặc rất yếu với sâu cánh vẩy,
năm 2014 có R = -0,27, năm 2015 có R = -0,11, năm 2016 có R = -0,45.
Về mối quan hệ giữa bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi với một số loài sâu hại phổ
biến trên chè: chúng có mối tương quan nghịch, rất chặt với sâu non bộ cánh vẩy ở cả
3 năm nghiên cứu, năm 2014 có R = -0,86, năm 2015 có R = -0,89, năm 2016 có R =
77
-0,62. Điều đó có nghĩa loài bọ xít bắt mồi này có vai trò quan trọng trong khống chế
mật độ sâu cánh vẩy hại chè. Nhưng bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi có mối tương quan
nghịch rất yếu với rầy xanh, năm 2014 có R = -0,26, năm 2015 có R = -0,21, năm
2016 có R = -0,11 và có mối tương quan nghịch rất yếu với bọ trĩ, năm 2014 có R =
0,35, năm 2015 có R = -0,21, năm 2016 có R = 0,52.
Bảng 3.6. Hệ số tƣơng quan giữa bọ xít bắt mồi và vật mồi của chúng trên chè
tại Phú Thọ
Năm
Hệ số tƣơng quan (r)
Côn trùng bắt mồi
Vật mồi
Bọ xít nâu đen
nhỏ bắt mồi
Ornius sauteri
Bọ xít cổ ngỗng đen
bắt mồi Sycanus
croceovittatus
2014
Rầy xanh Empoasca flavescens -0,20 -0,26
Bọ trĩ Physothrips setiventris -0,69 0,35
Tập hợp sâu cánh vẩy -0,27 -0,86
2015
Rầy xanh Empoasca flavescens -0,20 -0,24
Bọ trĩ Physothrips setiventris -0,89 -0,21
Tập hợp sâu cánh vẩy hại chè -0,11 -0,89
2016
Rầy xanh Empoasca flavescens -0,22 -0,11
Bọ trĩ Physothrips setiventris -0,92 0,52
Tập hợp sâu cánh vẩy -0,45 -0,62
Ghi chú: Tiến hành điều tra trên giống chè lai LDP1, 3 tuổi, không sử dụng thuốc
bảo vệ thực vật hóa học. (-) âm thể hiện mối tương quan nghịch, (+) dương thể hiện
mối tương quan thuận.
Như vậy qua bảng 3.6 cho thấy có 3 cặp côn trùng bắt mồi và vật mồi thể hiện
mối quan hệ chặt và rất chặt là mối quan hệ giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Ornius
sauteri (Poppius) với bọ trĩ Physothrips setiventris Bagnall, giữa bọ xít cổ ngỗng đen
bắt mồi Sycanus croceovittatus Dohrn và tập hợp sâu cánh vẩy. Tuy nhiên theo
Trương Xuân Lam và Vũ Quang Côn (2004) [21] mối quan hệ giữa côn trùng bắt mồi
với vật mồi là một mối quan hệ rời rạc, không liên tục, ở từng thời điểm khác nhau
trong năm mối quan hệ giữa chúng có sự thay đổi rất khác nhau. Do vậy để đánh giá
chi tiết về 3 mối quan hệ trên, chúng tôi tiến hành xem xét chi tiết từng mối quan hệ ở
các tháng khác nhau trong năm.
78
3.3.1.1. Mối quan hệ giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Orius sauteri (Poppius)
với bọ trĩ Physothrips setiventris Bagnall
Mỗi giai đoạn điều tra khác nhau thì mối quan hệ giữa bọ xít nâu nhỏ bắt mồi
Orius sauteri (Poppius) với bọ trĩ Physothrips setiventris Bagnall thể hiện khác nhau
(hình 3.12).
Bảng 3.7. Hệ số tƣơng quan giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Orius sauteri với
vật mồi (Bọ trĩ Physothrips setiventris) qua các giai đoạn điều tra trên chè
Hệ số tương quan (R) qua các giai đoạn điều tra
Các giai đoạn điều tra Tháng 1 đến 3 Tháng 4 đến 9 Tháng 10 đến 12
Năm 2014 0,33 -0,69 0,17
Năm 2015 0,37 -0,89 -0,22
Năm 2016 0,42 -0,92 0,39
Ghi chú: Tiến hành điều tra trên giống chè lai LDP1, 3 tuổi, không sử dụng thuốc
bảo vệ thực vật hóa học. (-) âm thể hiện mối tương quan nghịch, (+) dương thể hiện
mối tương quan thuận.
Ở giai đoạn đầu, trước khi hình thành cao điểm mật độ bọ xít nâu đen nhỏ bắt
mồi (tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau) mối quan hệ giữa bọ xít nâu đen nhỏ
bắt mồi và bọ trĩ hại chè thể hiện rất thấp (| | từ 0,33 đến 0,42). Giai đoạn giữa, khi
mật độ bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi cao (từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm) loài bọ xít
nâu đen nhỏ bắt mồi thể hiện rõ vai trò kìm hãm bọ trĩ hại chè thể hiện ở mối quan hệ
tương quan rất chặt chẽ. Từ tháng 5 đến tháng 10 năm 2014 hệ số tương quan giữa bọ
xít nâu đen nhỏ bắt mồi và bọ trĩ hại là là R = -0,69, phương trình tương quan y = -
0,0782x + 6,1662. Từ tháng 5 đến tháng 10 năm 2015 hệ số tương quan giữa bọ xít
nâu đen nhỏ bắt mồi và bọ trĩ hại là là R = -0,89, phương trình tương quan y = -
0,0722x + 7,5474. Từ tháng 5 đến tháng 10 năm 2016 hệ số tương quan giữa bọ xít
nâu đen nhỏ bắt mồi và bọ trĩ hại là R = -0,92, phương trình tương quan y = -0,0567x
+ 8,1122. Giai đoạn cuối, sau cao điểm mật độ bọ xít nâu nhỏ bắt mồi (từ tháng 11
đến tháng 4 năm kế tiếp) thì mối quan hệ giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi với bọ trĩ
hại chè rất thấp (| | từ 0,17 đến 0,39).
79
Hình 3.12. Mối quan hệ giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi với bọ trĩ trên chè tại Phú Thọ
y = -0,0782x + 6,1662
R² = 0,48 (R=-0,69)
0
2
4
6
8
0 20 40 60
y = -0,0722x + 7,5474
R² = 0,79 (R=-0,89)
0
2
4
6
8
0 20 40 60 80
y = -0,0567x + 8,1122
R² = 0,85 (R=-0,92)
0
2
4
6
8
0 20 40 60 80 100
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Th
áng 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng 1
0
Th
áng 1
1
Th
áng 1
2
Th
áng 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng 1
0
Th
áng 1
1
Th
áng 1
2
Th
áng 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng 1
0
Th
áng 1
1
Th
áng 1
2
Mật
độ
(co
n/m
2) Bọ trĩ P. setiventris Bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi O. sauteri
R = - 0,69 R = - 0,89 R = - 0,92
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
80
3.3.1.2. Mối quan hệ giữa bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus
Dohrn với tập hợp sâu cánh vẩy hại chè
Mỗi giai đoạn điều tra khác nhau thì mối quan hệ giữa bọ xít cổ ngỗng đen bắt
mồi bắt mồi Sycanus croceovittatus Dohrn với tập hợp sâu cánh vẩy hại chè thể hiện
khác nhau (hình 3.13).
Bảng 3.8. Hệ số tƣơng quan giữa bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus
croceovittatus với vật mồi (tập hợp sâu cánh vẩy) qua các giai đoạn điều
tra trên chè
Hệ số tương quan (R) qua các giai đoạn điều tra
Các giai đoạn điều tra Tháng 1 đến 3 Tháng 4 đến 9 Tháng 10 đến 12
Năm 2014 -0,17 -0,86 0,45
Năm 2015 0,10 -0,89 -0,34
Năm 2016 -0,27 -0,62 0,04
Ghi chú: Tiến hành điều tra trên giống chè lai LDP1, 3 tuổi, không sử dụng thuốc
bảo vệ thực vật hóa học. (-) âm thể hiện mối tương quan nghịch, (+) dương thể hiện
mối tương quan thuận.
Ở giai đoạn đầu, khi mật độ sâu hại bộ cảnh vẩy và mật độ bọ xít cổ ngỗng
đen bắt mồi đều thấp (tháng 1 đến tháng 4) mối quan hệ giữa bọ xít cổ ngỗng đen bắt
mồi và tập hợp sâu cánh vẩy hại chè thể hiện rất thấp (| | từ 0,10 đến 0,27). Giai
đoạn giữa, khi mật độ bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi cao (từ tháng 4 đến tháng 9 hàng
năm) loài bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi thể hiện rõ vai trò kìm hãm sâu bộ cánh vẩy
hại chè thể hiện ở mối quan hệ tương quan rất chặt chẽ. Từ tháng 4 đến tháng 9 năm
2014 hệ số tương quan giữa bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi với sâu hại bộ cánh vẩy là R
= -0,86, phương trình tương quan y = -1,4695x + 2,0179. Từ tháng 4 đến tháng 9
năm 2015 hệ số tương quan giữa bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi với sâu hại bộ cánh
vẩy là R = -0,89, phương trình tương quan y = -6,9444x + 8,876 Từ tháng 4 đến
tháng 9 năm 2016 hệ số tương quan giữa bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi với sâu hại bộ
cánh vẩy là R = -0,62, phương trình tương quan y = -1,7654x + 2,9665. Giai đoạn
cuối (từ tháng 9 đến tháng 11) thì mối quan hệ giữa bọ xít cổ ngỗng đen và tập hợp
sâu cánh vẩy hại chè thể hiện rất thấp (| | từ 0,04 đến 0,45).
81
Hình 3.13. Mối quan hệ giữa bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi và tập hợp sâu hại cánh vẩy trên chè tại Phú Thọ
y = -1,4695x + 2,0179
R² = 0,73 (R=-0,86)
0
0,5
1
1,5
0 0,5 1 1,5
y = -6,9444x + 8,676
R² = 0,80 (R=-0,89)
0
0,5
1
1,5
1,1 1,15 1,2 1,25
y = -1,7654x + 2,9665
R² = 0,3844 (R=-0,62)
0
0,5
1
1,5
1,2 1,25 1,3 1,35 1,4 1,45
0
0,2
0,4
0,6
0,8
1
1,2
1,4
1,6
1,8
Th
áng 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng 1
0
Th
áng 1
1
Th
áng 1
2
Th
áng 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng 1
0
Th
áng 1
1
Th
áng 1
2
Th
áng 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng 1
0
Th
áng 1
1
Th
áng 1
2
Mật độ tập hợp sâu cánh vẩy Bọ xít cổ ngỗng đen S. croceovittatus
R = - 0,89 R = - 0,86
R = - 0,62
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
Mật độ (con/m2)
82
3.3.2. Mối quan hệ giữa một số loài bọ rùa phổ biến với rệp muội nâu đen
Toxoptera aurantii Fonscolombe
Họ bọ rùa bắt mồi chiếm số lượng đông đảo (11 loài, chiếm 21,57% tổng số loài
thu được ở địa điểm nghiên cứu). Trong 11 loài được ghi nhận trên chè tại Phú Thọ thì
có 2 loài phổ biến là bọ rùa đỏ Micraspis discolor (Fabricius), bọ rùa 6 vằn Menochilus
sexmaculatus (Fabricius), chúng có ý nghĩa quan trọng trong việc khống chế rệp hại chè.
Bảng 3.9. Hệ số tƣơng quan giữa mật độ bọ rùa bắt mồi phổ biến với mật độ rệp
muội hại trên cây chè ở các giai đoạn điều tra tại Phú Thọ
Năm Giai đoạn điều tra
Hệ số tƣơng quan (R)
Bọ rùa đỏ
Micraspis
discolor với rệp
muội nâu đen
Toxoptera
aurantii
Bọ rùa 6 vằn
Menochilus
sexmaculatus với
rệp muội muội nâu
đen Toxoptera
aurantii
2014
Từ tháng 1- tháng 3 -0,24 0,11
Từ tháng 4 - tháng 7 -0,93 -0,81
Từ tháng 8 - tháng 12 -0,34 -0,41
2015
Từ tháng 1- tháng 3 0,17 -0,26
Từ tháng 4 - tháng 7 -0,81 -0,92
Từ tháng 8 - tháng 12 -0,37 -0,41
2016
Từ tháng 1- tháng 3 -0,19 -0,13
Từ tháng 4 - tháng 7 -0,83 -0,85
Từ tháng 8 - tháng 12 -0,29 -0,33
Ghi chú: Tiến hành điều tra trên giống chè lai LDP1, 3 tuổi, không sử dụng thuốc
bảo vệ thực vật hóa học. (-) âm thể hiện mối tương quan nghịch, (+) dương thể hiện
mối tương quan thuận.
Bọ rùa là nhóm côn trùng bắt mồi có vai trò quan trọng trong việc khống chế
mật độ rệp muội nâu đen hại búp chè. Trong suốt thời gian dài điều tra liên tục từ
2014 đến 2016 và xử lý thống kê cho thấy tập hợp bọ rùa bắt mồi có mối tương quan
nghịch rất chặt chẽ trong suốt thời gian theo dõi ở các mức độ khác nhau. Cụ thể năm
2014, mối quan hệ này tại thời kì tương quan chặt có R = -0,89, năm 2015 có R = -
0,90 và năm 2016 có R = -0,77. Chọn hai loài có xuất hiện phổ biến trên đồi chè để
xem xét vai trò của chúng trong việc khống chế rệp muội nâu đen là bọ rùa đỏ và bọ
rùa 6 vằn, cho kết quả như sau:
83
Về vai trò của bọ rùa đỏ với rệp muội nâu đen hại trên nương chè: Bọ rùa đỏ
có mối tương quan nghịch rất chặt chẽ với rệp muội nâu đen hại chè. Cụ thể năm
2014, tại thời điểm tương quan chặt có hệ số R = -0,93, năm 2015 có R = -0,81, năm
2016 có R = -0,83. Sức ăn mồi của bọ rùa đỏ trong điều kiện nuôi nhân tạo rất cao:
cả giai đoạn tuổi 1 trung bình tiêu thụ 38,27 ± 1,83 con rệp, cả giai đoạn tuổi 2 trung
bình tiêu thụ 71,33 ± 2,47 con rệp, cả giai đoạn tuổi 2 tiêu thụ trung bình 92,05 ±
2,88 con rệp, cả tuổi 4 tiêu thụ trung bình 170,50 ± 6,96 rệp, cả giai đoạn trưởng
thành tiêu thụ trung bình 172,80 ± 6,66 con rệp (Nguyễn Quang Cường, 2014) [6].
Về vai trò của bọ rùa 6 vằn với rệp muội nâu đen hại trên nương chè: Bọ rùa 6
vằn có mối tương quan nghịch rất chặt chè với rệp muội nâu đen hại chè. Cụ thể
năm 2014 tại thời tương quan chặt có hệ số tương quan R = -0,81, năm 2015 có R = -
0,92, năm 2016 có R = -0,85. Sức ăn mồi của loài bọ rùa này trong điều kiện nuôi
nhân tạo rất cao: cả giai đoạn tuổi 1 trung bình tiêu thụ 18,42 ± 1,36 con rệp, cả giai
đoạn tuổi 2 tiêu trung bình tiêu thụ 28,43 ± 3,44 con rệp, cả giai đoạn tuổi 2 tiêu thụ
trung bình 58,30 ± 3,43 con rệp, cả tuổi 4 tiêu thụ trung bình 73,65 ± 2,07 con rệp, cả
giai đoạn trưởng thành tiêu thụ trung bình 98,57 ± 2,57 con rệp (Nguyễn Quang
Cường, 2014) [6].
3.3.2.1. Mối quan hệ giữa bọ rùa đỏ Micraspis discolor (Fabricius) với rệp
muội nâu đen Toxoptera aurantii Fonscolombe
Mỗi giai đoạn điều tra khác nhau thì mối quan hệ giữa bọ rùa đỏ Micraspis
discolor (Fabricius) với rệp muội Toxoptera aurantii Fonscolombe trên chè thể hiện
khác nhau (hình 3.14). Ở giai đoạn đầu năm, khi mật độ bọ rùa đỏ thấp (tháng 1 đến
tháng 3) mối quan hệ giữa bọ rùa đỏ Micraspis discolor (Fabricius) với rệp muội
Toxoptera aurantii Fonscolombe trên chè thể hiện rất yếu (| | từ 0,17 đến 0,24).
Giai đoạn giữa năm, khi mật độ bọ rùa đỏ tăng cao (từ tháng 4 đến tháng 7 hàng
năm) bọ rùa đỏ thể hiện rõ vai trò kìm hãm rệp muội hại nâu đen chè thể hiện ở mối
quan hệ tương quan rất chặt chẽ. Từ tháng 4 đến tháng 7 năm 2014 hệ số tương quan
giữa bọ rùa đỏ với rệp muội nâu đen hại chè là R = - 0,93, phương trình tương quan y
= -0,2233x + 9,3484. Từ tháng 4 đến tháng 7 năm 2015 hệ số tương quan giữa bọ rùa
đỏ với rệp muội nâu đen hại chè là R = - 0,81, phương trình tương quan y = -0,066x
+ 7,4048. Từ tháng 4 đến tháng 7 năm 2016 hệ số tương quan giữa bọ rùa đỏ với rệp
muội nâu đen hại chè là R = - 0,83, phương trình tương quan y = -0,116x + 4,217.
Giai đoạn cuối năm (từ tháng 8 đến tháng 12) mối quan hệ giữa bọ rùa đỏ với rệp
muội nâu đen trên chè thể hiện rất yếu (| | từ 0,29 đến 0,37). (Bảng 3.9).
84
Hình 3.14. Mối quan hệ giữa bọ rùa đỏ với rệp muội nâu đen tại Phú Thọ
y = -0,2233x + 9,3484
R² = 0,8597 (R=-0,93)
0
2
4
6
8
10
0 20 40
y = -0,066x + 7,4048
R² = 0,6528 (R=-0,81)
0
2
4
6
8
10
0 20 40 60
y = -0,1163x + 4,217
R² = 0,6893 (R = -0,83)
0
2
4
6
8
0 20 40 60
0
20
40
60
80
100
120
Th
áng 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng 1
0
Th
áng 1
1
Th
áng 1
2
Th
áng 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng 1
0
Th
áng 1
1
Th
áng 1
2
Th
áng 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng 1
0
Th
áng 1
1
Th
áng 1
2
Rệp muội hại chè Bọ rùa đỏ M. discolor
R= - 0,93
R = - 0,81 R= - 0,83
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
Mật độ: con/m2
85
3.3.2.2. Mối quan hệ giữa bọ rùa 6 vằn Menochilus sexmaculatus (Fabricius)
với rệp muội nâu đen Toxoptera aurantii Fonscolombe
Mỗi giai đoạn điều tra khác nhau thì mối quan hệ giữa bọ rùa 6 vằn
Menochilus sexmaculatus (Fabricius) với rệp muội nâu đen Toxoptera aurantii
Fonscolombe trên chè thể hiện khác nhau (hình 3.15). Ở giai đoạn đầu năm, khi mật
độ bọ rùa 6 vằn thấp (tháng 1 đến tháng 3) mối quan hệ giữa bọ rùa 6 vằn với rệp
muội nâu đen hại chè thể hiện rất yếu (| | từ 0,11 đến 0,26). Giai đoạn từ tháng 4
đến tháng 7 hàng năm khi mật độ bọ rùa 6 vằn tăng cao bọ rùa 6 vằn thể hiện rõ vai
trò kìm hãm rệp muội nâu đen hại chè thể hiện ở mối quan hệ tương quan rất chặt
chẽ. Từ tháng 4 đến tháng 7 năm 2014 hệ số tương quan giữa bọ rùa 6 vằn với rệp
muội nâu đen hại chè là R = - 0,81, phương trình tương quan y = -0,1279x + 6,1768.
Từ tháng 4 đến tháng 7 năm 2015 hệ số tương quan giữa bọ 6 vằn với rệp muội nâu
đen hại chè là R = - 0,92, phương trình tương quan y = -0,0812x + 7,601. Từ tháng 4
đến tháng 7 năm 2016 hệ số tương quan giữa bọ rùa đỏ với rệp muội nâu đen hại chè
là R = - 0,85, phương trình tương quan y = -0,4057x + 12,148. Giai đoạn cuối năm
năm (từ tháng 8 đến tháng 12) mối quan hệ giữa bọ rùa 6 vằn với rệp muội nâu đen
hại chè thể hiện yếu (| | từ 0,33 đến 0,41). (Bảng 3.10).
86
Hình 3.15. Mối quan hệ giữa bọ rùa đỏ 6 vằn bắt mồi với rệp muội nâu đen tại Phú Thọ
y = -0,1279x + 6,1768
R² = 0,6575 (R=-0,81)
0
2
4
6
8
0 20 40 60
y = -0,0812x + 7,601
R² = 0,8626 (R=-0,92)
0
2
4
6
8
0 20 40 60
y = -0,4057x + 12,148
R² = 0,7391 (R=-0,85)
0
2
4
6
8
0 10 20 30
0
20
40
60
80
100
120
Th
áng 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng 1
0
Th
áng 1
1
Th
áng 1
2
Th
áng 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng 1
0
Th
áng 1
1
Th
áng 1
2
Th
áng 1
Th
áng 2
Th
áng 3
Th
áng 4
Th
áng 5
Th
áng 6
Th
áng 7
Th
áng 8
Th
áng 9
Th
áng 1
0
Th
áng 1
1
Th
áng 1
2
Rệp muội nâu đen Bọ rùa 6 vằn M. sexmaculatus
R = - 0,81
R = - 0,92 R = - 0,85
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
Mật độ (Con/m2)
87
3.4. Ảnh hƣởng của một số yếu tố sinh thái lên mật độ và mối quan hệ của một
số loài côn trùng bắt mồi với sâu hại phổ biến trên chè tại Phú Thọ
3.4.1. Ảnh hưởng của giống chè lên mật độ và mối quan hệ của một số loài
côn trùng bắt mồi với sâu hại phổ biến
3.4.1.1. Anh hưởng của giống chè lên mật độ của một số loài côn trùng bắt
mồi với sâu hại phổ biến
Giống chè là một yếu tố sinh thái ảnh hưởng đến sự phát triển cá thể và quần
thể của các sâu hại và côn trùng bắt mồi trên chè. Hiện nay, sử dụng giống chống
chịu đã được coi là một biện pháp quan trọng không thể thiếu trong các chương trình
quản lý tổng hợp nhiều loại cây trồng đảm bảo sản xuất bền vững, bảo vệ đa dạng
sinh thái môi trường.
Trong 5 giống chè thường được trồng ở Phú Thọ thì mức độ nhiễm bọ trĩ của
giống Trung Du (Nguồn gốc Trung Quốc) là nặng nhất, sau đó đến giống PH1
(Nguồn gốc Assam) và TRI777 (Giống địa phương), 2 giống lai LDP1 và LDP2
nhiễm nhẹ nhất. Cụ thể mật độ trung bình qua các tháng theo dõi, từ tháng 6 đến
tháng 10 (đây là thời gian mật độ bọ trĩ cao nhất trong năm) của giống Trung Du cao
nhất là 64,30 ± 0,70 con/m
2, tiếp theo là giống PH1 là 60,00
± 1,40 con/m
2 và thấp
nhất là giống LDP1 có mật độ là 51,70 ± 1,30 con/m
2. Kết quả nghiên cứu này cũng
phù hợp với kết quả nghiên cứu của Du Pasquier (1932) [107]. Ông cho biết rằng
giống chè có ảnh hưởng đến mật độ bọ trĩ, các giống có nguồn gốc Trung Quốc bị
hại nặng hơn giống có nguồn gốc Assam và Manipur.
Mật độ của bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi (Ornius sauteri) cũng có sự sai khác ở
các giống chè khác nhau. Trong 5 giống chè thì mật độ của bọ xít nâu đen nhỏ bắt
mồi trên giống Trung Du (nguồn gốc Trung Quốc) là cao nhất (1,53 ± 0,06 con/m
2),
sau đó đến giống PH1 (nguồn gốc Assam) với mật độ 1,10
± 0,07 con/m2) và
TRI777 (giống địa phương) với mật độ 1,15 ±0,09 con/m
2), mật độ thấp nhất trên
giống lai LDP1 (0,57 ± 0,01 con/m
2). Một trong các nguyên nhân ảnh hưởng đến mật
độ của bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi có sự sai khác là do thức ăn mà ở đây chủ yếu là
bọ trĩ hại chè. Trên các giống bị bọ trĩ gây hại nặng tức là nguồn thức ăn của bọ xít
nâu nhỏ bắt mồi nhiều làm cho mật độ của bọ xít nâu nhỏ bắt mồi cũng tăng cao.
Tuy nhiên ảnh hưởng của các giống chè tới bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi và bọ
trĩ không chỉ làm sai khác mật độ mà còn làm sai khác tỷ lệ số lượng bọ xít nâu đen
nhỏ bắt mồi: số lượng bọ trĩ. Trên giống Trung Du, tỷ lệ này là 1:42, tiếp theo giống
TRI777 (1:48), giống PH1 (1:54), giống LDP2 (1:68). Tỷ lệ số lượng bọ xít nâu đen
nhỏ bắt mồi : số lượng bọ trĩ cao nhất ở giống lai LDP1 (1:90) (Bảng 3.10).
88
Bảng 3.10. Ảnh hƣởng của các giống chè đến mật độ của bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi (Orius sauteri) và vật mồi (bọ trĩ
Physothrips setiventris) trên chè tại Phú Thọ trong năm 2016
Tên côn trùng bắt mồi
và vật mồi
Thời gian
theo dõi
Mật độ trên từng giống chè (con/m2) LSD
(0,05%)
LDP1 LDP2 PH1 Trung du TRI777
Bọ xít nâu đen nhỏ bắt
mồi Orius sauteri
Tháng 6 0,51 0,55 0,75 1,05 0,78
Tháng 7 0,45 0,59 0,81 1,11 0,87
Tháng 8 0,28 0,61 0,67 1,29 0,94
Tháng 9 0,59 0,70 1,59 1,96 1,53
Tháng 10 1,04 1,34 1,67 2,23 1,62
Trung bình 0,57c ±0,01 0,76
c ±0,11 1,10
b ±0,07 1,53
a ±0,06 1,15
b ±0,09 0,25
Bọ trĩ Physothrips
setiventris
Tháng 6 42,50 43,10 45,50 53,80 52,80
Tháng 7 65,70 64,50 70,50 74,10 73,40
Tháng 8 60,00 60,60 69,40 73,40 61,90
Tháng 9 51,60 51,80 57,60 61,60 52,50
Tháng 10 38,90 39,70 57,10 58,60 39,90
Trung bình 51,70c ±1,30 51,90
c ±0,80 60,00
b ±1,40 64,30
a ±0,70 56,10
b ±0,50 4,00
Tỷ lệ côn trùng bắt mồi:vật mồi 1:90 1:68 1:54 1:42 1:48
Ghi chú: Các chữ số khác nhau thể hiện sự sai khác theo dòng ở mức 0,05% (ANOVA). Thời gian theo dõi từ tháng 6 đến tháng 10.
89
Bảng 3.11. Ảnh hƣởng của giống chè đến mật độ của bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi (Sycanus croceovittatus) và vật mồi (tập
hợp sâu hại cánh vẩy) trên chè tại Phú Thọ trong năm 2016
Tên côn trùng bắt mồi
và vật mồi
Thời gian
theo dõi
Mật độ trên từng giống chè (con/m2) LSD
(0,05%)
LDP1 LDP2 PH1 Trung du TRI777
Bọ xít cổ ngỗng đen
Sycanus croceovittatus
Tháng 6 0,93 0,9 1,19 1,18 0,93
Tháng 7 0,81 0,55 1,05 0,75 0,81
Tháng 8 0,29 0,90 0,83 1 0,81
Tháng 9 0,38 0,53 1,15 1,18 2,21
Tháng 10 0,33 0,50 1,24 0,95 1,04
Trung bình 0,55b±0,04 0,68
b±0,09 1,09
a±0,02 1,01
a±0,07 1,16
a±0,12 0,23
Tập hợp sâu bộ cánh
vẩy
Tháng 6 2,46 1,99 2,55 2,82 2,91
Tháng 7 2,42
2,53
2,47
2,73
2,65
Tháng 8 1,38 1,52 1,30 1,74 1,42
Tháng 9 1,18 1,18 1,20 1,35 1,23
Tháng 10 1,30 1,24 1,26 1,50 1,32
Trung bình 1,75b±0,07 1,69
b±0,09 1,76
b±0,02 2,03
a±0,13 1,91
a±0,05 0,13
Tỷ lệ côn trùng bắt mồi:vật mồi 1:3 1:3 1:2 1:2 1:2
Ghi chú: Các chữ số khác nhau thể hiện sự sai khác theo dòng ở mức 0,05% (ANOVA). Thời gian theo dõi từ tháng 6 đến tháng 10
90
Trong 5 giống chè nghiên cứu thì mật độ sâu hại bộ cánh vẩy trên giống
Trung Du (nguồn gốc Trung Quốc) và giống TRI777 (giống địa phương) là cao nhất,
sau đó là 2 giống lai LDP1, LDP2 và PH1(nguồn gốc Assam). Cụ thể mật độ trung
bình từ tháng 6 đến tháng 10 của giống Trung Du cao nhất là 2,03 ± 0,13 con/m2
và
TRI777 là 1,91 ± 0,05 con/m2
, tiếp theo là giống PH1 có mật độ 1,76 ± 0,02 con/m2,
giống LDP1 có mật độ 1,75 ± 0,07 con/m2 và giống LDP2 có mật độ là 1,69 ± 0,09
con/m2.
Bên cạnh đó, mật độ của bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi (Sycanus croceovittatus)
cũng có sự sai khác ở các giống chè khác nhau. Trong 5 giống chè thì mật độ của bọ
xít cổ ngỗng đen bắt mồi trên 3 giống TRI777, PH1 và Trung Du là cao hơn trên 2
giống lai LDP1 và LDP2. Cụ thể mật độ trung bình từ tháng 6 đến tháng 10 của
giống TRI777 là 1,16 ± 0,12 con/m2, của giống PH1 là 1,09 ± 0,02 con/m
2 và của
giống Trung Du là 1,01 ± 0,07 con/m2
cao hơn trên 2 giống lai LDP2 với mật độ là
0,68 ± 0,09 con/m2 và giống LDP1 với mật độ là 0,55 ± 0,04 con/m
2.
Cũng giống như đối với bọ trĩ và bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi, các giống chè
không những tác động đến mật độ bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi và tập hợp sâu cánh
vẩy mà còn làm sai khác tỷ lệ số lượng bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi : tập hợp sâu
cánh vẩy. Trên 3 giống Trung Du, PH1 và TRI777, tỷ lệ này là 1:2. Trên 2 giống lai
LDP1 và LDP2 thì tỷ lệ này là 1:3. (Bảng 3.11).
91
Bảng 3.12. Ảnh hƣởng của các giống chè đến mật độ của tập hợp bọ xít bắt mồi và vật mồi (rầy xanh Empoasca flavescens)
trên chè tại Phú Thọ trong năm 2016
Tên côn trùng bắt mồi
và vật mồi
Thời gian
theo dõi
Mật độ trên từng giống chè (con/m2) LSD
(0,05%)
LDP1 LDP2 PH1 Trung du TRI777
Tập hợp bọ xít bắt mồi
Tháng 6 4,09 4,57 4,11 6,46 5,98
Tháng 7 3,87 3,15 3,05 4,32 4,00
Tháng 8 2,88 3,18 3,45 3,92 3,53
Tháng 9 3,93 3,01 4,74 4,85 6,01
Tháng 10 3,66 3,65 4,83 4,22 4,24
Trung bình 3,69b±0,12 3,51
b±0,08 4,04
b±0,20 4,75
a±0,17 4,77
a±0,13 0,59
Rầy xanh Empoasca
flavescens
Tháng 6 41,40 43,80 50,76 57,36 42,48
Tháng 7 37,32 36,12 70,56 60,72 46,68
Tháng 8 37,92 44,64 49,44 59,04 45,6
Tháng 9 109,2 112,2 66,60 135,6 129,6
Tháng 10 57,60 58,56 39,84 83,04 60,48
Trung bình 56,70c±0,19 59,10
c±0,21 55,40
c±0,15 79,20
a±0,27 65,00
b±0,22 5,40
Tỷ lệ THBX bắt mồi: rầy xanh 1:15 1:17 1:14 1:17 1:14
Ghi chú: Các chữ số khác nhau thể hiện sự sai khác theo dòng ở mức 0,05% (ANOVA). Thời gian theo dõi từ tháng 6 đến tháng 10
92
Trong 5 giống chè thường được trồng ở Phú Thọ thì mật độ rầy xanh cao nhất
ở giống Trung Du (nguồn gốc Trung Quốc), sau đó đến giống TRI777 (giống địa
phương), thấp nhất trên 2 giống LDP1, LDP2 và PH1 (có nguồn gốc Assam). Mật độ
trung bình từ tháng 6 đến tháng 10 của giống Trung Du cao nhất là 79,2 ± 0,27
con/m2, tiếp theo là giống TRI777 là 65,00 ± 0,22 con/m
2 và thấp nhất là giống PH1
có mật độ là 55,40 ± 0,15con/m2. Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Văn Thiệp (2000) [42], tác giả cho biết tại Phú Hộ, Phú Thọ,
giống TRI777 bị nhiễm rầy xanh nặng nhất và giống PH1 nhiễm rầy xanh ít nhất
trong các giống đang trồng phổ biến tại đây. Kết quả này cũng tương đồng với kết
quả nghiên cứu của Nguyễn Khắc Tiến (1986) [36] cho rằng ở Phú Hộ, Phú Thọ các
giống chè thuộc nhóm chè Shan, Assam, Trung Du thường bị rầy xanh hại nặng hơn
nhóm giống Manipua, Zectinga và Trung Quốc lá nhỏ. Trong 5 giống nghiên cứu thì
ngoài giống Trung Du thì TRI777 là giống địa phương được viện nghiên cứu chè
Phú Hộ chọn tạo cũng có nguồn gốc Trung Du.
Mật độ của tập hợp bọ xít bắt mồi trên các giống chè khác nhau cũng khác
nhau rõ rệt. Trong 5 giống chè thì mật độ tập hợp bọ xít bắt mồi cao nhất trên 2
giống Trung Du (có nguồn gốc Trung Quốc với mật độ 4,75 ± 0,17 con/m2) và
TRI777 (giống địa phương với mật độ 4,77 ± 0,13 con/m2). Sau đó đến PH1 (nguồn
gốc Assam) có mật độ là 4,04 ± 0,20 và 2 giống lai LDP1 (3,69 ± 0,12 con/m2),
LDP2 (3,51 ± 0,08 con/m2). Giống ảnh hưởng đến mật độ bọ xít bắt mồi một cách
gián tiếp thông qua vật mồi (là sâu hại trên chè) của chúng. Trong 5 giống nghiên
cứu thì 2 giống Trung Du và TRI777 bị rầy xanh, bọ trĩ, sâu cánh vẩy hại nặng hơn
các giống lại. Các loài sâu hại này đều là thức ăn của nhóm bọ xít bắt mồi nên dẫn
đến mật độ tập hợp bọ xít bắt mồi trên 2 giống Du và TRI777 cũng cao hơn 3 giống
còn lại.
Tỷ lệ số lượng tập hợp bọ xít bắt mồi: số lượng rầy xanh cao nhất 2 giống
Trung Du và LDP2 (cùng là 1:17), tiếp theo là trên giống LDP1 (cùng là 1:15), thấp
nhất là trên 2 giống PH1 và TRI777 (cùng là 1:14). (Bảng 3.12).
93
Bảng 3.13. Ảnh hƣởng của giống chè đến mật độ của một số loài bọ rùa bắt mồi với vật mồi (rệp muội Toxoptera theicola)
trên chè tại Phú Thọ trong năm 2016
Tên bọ rùa bắt mồi và
vật mồi
Thời gian
theo dõi
Mật độ trên từng giống chè (con/m2)
LSD
(0,05%) LDP1 LDP2 PH1 Trung du TRI777
Bọ rùa đỏ Micraspis
discolor
Tháng 6 2,75 2,95 1,65 1,15 1,95
Tháng 7 2,05 1,85 1,55 0,95 1,03
Tháng 8 1,33 1,36 1,41 1,40 1,00
Tháng 9 1,51 1,61 1,22 2,03 1,49
Tháng 10 1,54 1,38 1,31 2,28 1,83
Trung bình 1,84a±0,04 1,83
a±0,09 1,43
c±0,05 1,56
b±0,12 1,46
c±0,08 0,13
Tỷ lệ bọ rùa đỏ: rệp muội nâu đen 1: 23 1:22 1:24 1:24 1:23
Bọ rùa 6 vằn
Menochilus
sexmaculatus
Tháng 6 1,68 1,45 0,58 1,89 0,60
Tháng 7 1,55 1,37 0,64 1,93 0,47
Tháng 8 1,95 1,42 1,70 1,00 1,12
Tháng 9 1,35 1,43 1,46 1,26 1,64
Tháng 10 1,13 1,59 1,51 0,74 1,91
Trung bình 1,53a±0,08 1,45
a±0,04 1,18
c±0,03 1,36
b±0,07 1,15
c±0,06 0,08
Tỷ lệ bọ rùa sáu vằn: rệp muội nâu
đen
1:27 1:28 1:29 1:27 1:29
94
Tập hợp bọ rùa bắt mồi
Tháng 6 4,50 4,50 3,46 3,12 2,85
Tháng 7 4,47 3,35 3,05 3,19 3,15
Tháng 8 3,69 3,38 3,71 2,99 2,93
Tháng 9 3,78 3,64 3,29 3,78 3,53
Tháng 10 3,79 3,57 3,42 3,5 4,14
Trung bình 4,05a±0,19 3,69
a±0,17 3,39
b±0,16 3,32
b±0,15 3,32
b±0,10 0,15
Tỷ lệ tập hợp bọ rùa: rệp muội nâu
đen 1:10 1:11 1:10 1:11 1:10
Rệp muội nâu đen
Toxoptera aurantii
Tháng 6 40,50 33,50 9,00 15,00 7,50
Tháng 7 22,00 22,50 13,00 5,50 10,50
Tháng 8 61,00 58,50 53,00 67,00 58,50
Tháng 9 45,00 46,50 51,00 52,00 47,00
Tháng 10 41,50 40,00 43,50 45,00 42,00
Trung bình 42,00a±0,01 40,20
a±0,04 33,90
c±0,02 36,90
b±0,07 33,10
c±0,06 2,05
Ghi chú: Các chữ số khác nhau thể hiện sự sai khác theo dòng ở mức 0,05% (ANOVA). Thời gian theo dõi từ tháng 6 đến tháng 10
95
Bọ rùa là nhóm bắt mồi phổ biến trên nương chè, có ý nghĩa rất lớn trong việc
giữ vững trạng thái cân bằng sinh thái tự nhiên. Thức ăn ưa thích nhất của nhóm bọ
rùa là rệp muội Toxoptera aurantii Fonscolombe.
Trong 5 giống chè được theo dõi thì mật độ bọ rùa đỏ cao nhất trên 2 giống lai
LDP1 và LDP2, sau đó đến giống Trung Du (nguồn gốc Trung Quốc), thấp nhất trên
2 giống PH1(nguồn gốc Assam) và TRI777 (giống địa phương). Mật độ trung bình
qua các tháng theo dõi (từ tháng 6 đến tháng 10) của giống LDP1 là 1,84 ± 0,04
con/m2
và giống LDP2 là 1,83 ± 0,09 con/m2
, tiếp theo là giống Trung Du có mật độ
1,56 ± 0,12 con/m2 và thấp nhất là giống TRI777 có mật độ là 1,46 ± 0,08 con/m
2 và
giống PH1 có mật độ là 1,43 ± 0,05 con/m2.
Mật độ bọ rùa 6 vằn cao nhất trên 2 giống lai LDP1 và LDP2 sau đó đến
giống Trung Du (có nguồn gốc Trung Quốc), thấp nhất trên 2 giống PH1(có nguồn
gốc Assam) và TRI777 (giống địa phương). Mật độ trung bình qua từ tháng 6 đến
tháng 10 của giống LDP1 là 1,53 ± 0,08 con/m2
và giống LDP2 là 1,45 ± 0,04
con/m2
, tiếp theo là giống Trung Du có mật độ 1,36 ± 0,07 con/m2 và thấp nhất là
giống TRI777 có mật độ là 1,15 ± 0,06 con/m2 và giống PH1 có mật độ là 1,18 ±
0,03 con/m2.
Mật độ tập hợp bọ rùa cao nhất ở 2 giống lai LDP1 và LDP2, sau đó đến 3
giống Trung Du (nguồn gốc Trung Quốc), PH1 (nguồn gốc Assam) và TRI777
(giống địa phương). Cụ thể mật độ trung bình từ tháng 6 đến tháng 10 của giống
LDP1 là 4,05 ± 0,19 con/m2
và giống LDP2 là 3,69 ± 0,17 con/m2
. Tiếp theo là
giống PH1 có mật độ 3,39 ± 0,16 con/m2, giống Trung Du có mật độ 3,32 ± 0,15
con/m2 và giống TRI777 có mật độ là 3,32 ± 0,10 con/m
2.
Mật độ rệp muội nâu đen Toxoptera aurantii Fonscolombe cũng có sự sai
khác ở các giống chè khác nhau. Mật độ của rệp muội nâu đen Toxoptera aurantii
Fonscolombe trên 2 giống lai LDP1 và LDP2 cao nhất, sau đó đến giống Trung Du
(nguồn gốc Trung Quốc), thấp nhất trên 2 giống PH1 (nguồn gốc Assam) và TRI777
TRI777 (giống địa phương). Cụ thể mật độ trung bình qua các tháng theo dõi, từ
tháng 6 đến tháng 10 của giống LDP1 là 42,0 ± 0,01con/m2
và giống LDP2 là 40,2 ±
0,04 con/m2
, tiếp theo là giống Trung Du có mật độ 36,9 ± 0,07 con/m2 và thấp nhất
là giống PH1 có mật độ là 33,9 ± 0,02 con/m2
và giống TRI777 có mật độ là 33,1 ±
0,06 con/m2.
96
Trên các giống khác nhau, mật độ bọ rùa đỏ, bọ rùa 6 vằn và rệp muội nâu
đen khác nhau, dẫn đến tỷ lệ số lượng giữa chúng cũng khác nhau.
Tỷ lệ số lượng bọ rùa đỏ : rệp muội nâu đen cao nhất trên giống PH1 và Trung
Du (cùng là 1:24), tiếp theo trên giống TRI777 và LDP1 (cùng là 1:23), thấp nhất
trên giống LDP2 (1:22) (Bảng 3.13).
Tỷ lệ số lượng bọ rùa 6 vằn : rệp muội nâu đem cao nhất trên giống TRI777
và PH1 (cùng là 1:29), tiếp theo trên giống LDP2 (1:28), cuối cùng là trên giống
LDP1 và Trung Du (cùng là 1:27) (Bảng 3.13).
Tỷ lệ số lượng tập hợp bọ rùa bắt mồi : rệp muội nâu đen trên 2 giống LDP2
và Trung Du là 1:11, trên 3 giống LDP1, PH1, TRI777 là 1:10 (Bảng 3.13).
3.4.1.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của giống chè lên mối quan hệ giữa một số
loài côn trùng bắt mồi với sâu hại phổ biến trên chè tại Phú Thọ
Bảng 3.14. Ảnh hƣởng của giống chè đến mối quan hệ giữa một số loài côn
trùng bắt mồi và vật mồi (sâu hại phổ biến) trên chè tại Phú Thọ năm 2016
TT
Quan hệ giữa côn trùng bắt
mồi với vật mồi (sâu hại phổ
biến)
Hệ số tƣơng quan trên từng giống chè (R)
LDP1 LDP2 PH1 Trung du TRI777
1. Bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi
với bọ trĩ -0,89 -0,97 -0,84 -0,81 -0,62
2. Bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi
với tập hợp sâu cánh vẩy -0,82 -0,76 -0,80 - 0,42 -0,86
3. Tập hợp bọ xít bắt mồi với rầy
xanh -0,65 -0,59 0,14 -0,32 -0,57
4. Bọ rùa đỏ với rệp muội nâu
đen -0,97 -0,89 -0,37 -0,38 -0,96
5. Bọ rùa 6 vằn với rệp muội nâu
đen -0,75 -0,81 -0,03 -0,49 -0,99
6. Tập hợp bọ rùa bắt mồi với
rệp muội nâu đen -0,85 -0,85 -0,20 -0,67 -0,98
Côn trùng bắt mồi thể hiện vai trò khống chế sâu hại ở các mức độ khác nhau
cũng phụ thuộc vào các giống. Xét 6 cặp côn trùng bắt mồi và sâu hại phổ biến trên 5
giống chè trồng phổ biến tại Phú Thọ cho thấy: Trên giống lai (LDP1, LDP2) và
giống TRI777 thì mối quan hệ giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi với bọ trĩ, bọ xít cổ
97
ngỗng đen bắt mồi với tập hợp sâu cánh vẩy, tập hợp bọ xít bắt mồi với rầy xanh, bọ
rùa đỏ với rệp muội nâu đen, bọ rùa 6 vằn với rệp muội nâu đen và tập hợp bọ rùa
bắt mồi với rệp muội nâu đen thể hiện là tương quan nghịch, chặt và rất chặt.
Các mối tương quan yếu thể hiện ở các giống như giống PH1 có quan hệ tập
hợp bọ xít bắt mồi với rầy xanh thể hiện R = 0,14, quan hệ bọ rùa đỏ với rệp muội
nâu đen, bọ rùa 6 vằn với rệp muội nâu đen và tập hợp bọ rùa bắt mồi với rệp muội
nâu đen tương ứng có R = -0,37, R = 0,03 và R = -0,20. Giống Trung du có quan hệ
giữa bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi với tập hợp sâu cánh vẩy, quan hệ tập hợp bọ xít
bắt mồi với rầy xanh, quan hệ bọ rùa đỏ với rệp muội nâu đen và quan hệ bọ rùa 6
vằn với rệp muội nâu đen có quan hệ nghịch và yếu thể hiện ở hệ số tương quan R =
0,32 - 0,49.
Cụ thể thì mối quan hệ giữa bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi với tập hợp sâu cánh
vẩy chặt chẽ nhất trên giống TRI777 (R = -0,86), sau đó đến giống LDP1 (R = -
0,82), tiếp theo là giống PH1 (R = - 0,80) và LDP2 (R = -0,76) , yếu nhất trên giống
Trung Du (R = -0,46). Mối quan hệ giữa bọ xít nâu nhỏ bắt mồi với bọ trĩ chặt chẽ
nhất trên giống LDP2 (R = -0,97), tiếp theo là giống LDP1 (R = -0,89), giống PH1
(R = -0,84), giống Trung du (R = -0,81) và yếu nhất trên giống TRI777 (R = -0,62).
Mối quan hệ giữa tâp hợp bọ xít bắt mồi với rầy xanh chặt chẽ nhất trên giống
LDP1(R = -0,65), sau đó đến giống LDP2 (R = -0,59) và giống TRI777 (R = -0,57),
tiếp theo là giống Trung du (R = -0,32) và yếu nhất trên giống PH1 (R = 0,14). Mối
quan hệ giữa bọ rùa đỏ và rệp muội nâu đen chặt chẽ nhất trên giống LDP1 (R = -
0,97), sau đó đến TRI777 (R = -0,96), tiếp theo là giống LDP2 (R = -0,89) và yếu
nhất trên 2 giống PH1 (R = -0,37) và Trung du (R = -0,38). Mối quan hệ giữa bọ rùa
6 vằn và rệp muội nâu đen chặt chẽ nhất trên giống TRI777 (R = -0,99), sau đó đến
giống LDP2 (R = -0,81), tiếp theo là giống LDP1 (R = -0,75) và giống Trng du (R =
-0,49), yếu nhất trên giống PH1 (R = -0,03). Mối quan hệ giữa tập hợp bọ rùa với rệp
muội nâu đen chặt chẽ nhất trên giống TRI777 (R = -0,98), sau đó đến 2 giống LDP1
và LDP2 (cùng R = -0,85), tiếp theo là giống Trung du (R = -0,67) và yếu nhất trên
giống PH1 (R = -0,20).
Một trong các lý do là giống LDP1, LDP2, PH1, Trung du và TRI777 có mức
độ nhiễm bọ trĩ cao, tại thời điểm mối tương quan giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi và
bọ trĩ bắt đầu được hình thành thì mức độ nhiễm bọ trĩ cao của 5 giống là điều kiện
tốt để cho quan hệ giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi và bọ trĩ được thiết lập chặt chẽ.
Điều tương tự cũng xảy ra với các giống LDP1, LDP2 và giống TRI777 đối với mối
98
quan hệ giữa bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi với tập hợp sâu cánh vẩy, tập hợp bọ xít
bắt mồi với rầy xanh, bọ rùa đỏ với rệp muội nâu đen, bọ rùa 6 vằn với rệp muội nâu
đen và tập hợp bọ rùa bắt mồi với rệp muội nâu đen. Tuy nhiên, ở các giống PH1 và
giống Trung du quan hệ tập hợp bọ xít bắt mồi với rầy xanh, quan hệ bọ rùa đỏ với
rệp muội nâu đen và bọ rùa 6 vằn với rệp muội nâu đen rất thấp do mật độ của rầy
xanh, rệp muội nâu đen không đủ để cho mối quan hệ với tập hợp bọ xít bắt mồi, bọ
rùa đỏ và bọ rùa 6 vằn được thiết lập chặt chẽ.
3.4.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của cây che bóng lên mật độ và mối quan hệ
của một số loài côn trùng bắt mồi với sâu hại phổ biến
Bảng 3.15. Ảnh hƣởng của cây che bóng đến mật độ của một số loài côn trùng
bắt mồi và vật mồi (sâu hại phổ biến) trên chè tại Phú Thọ
Tên côn trùng bắt
mồi/vật mồi
Công
thức
Mật độ (con/m2) qua từng tháng điều
tra trong năm 2016
Mật
độ
trung
bình 6 7 8 9 10
Bọ xít nâu đen nhỏ
bắt mồi Orius sauteri
CCB 1,72 0,95 0,79 1,33 1,63 1,28a
KCB 1,32 0,85 0,77 0,65 1,03 0,92b
LSD0,05 0,15
Bọ trĩ Physothrips
setiventris
CCB 21,50 50,50 57,70 47,60 36,80 42,80b
KCB 32,40 61,60 60,40 52,70 39,30 49,30a
LSD0,05 3,20
Tỷ lệ bọ xít nâu đen
nhỏ bắt mồi : bọ trĩ
CCB 1:33
KCB 1:53
Bọ xít cổ ngỗng đen
bắt mồi Sycanus
croceovittatus
CCB 1,36 1,13 0,75 1,18 1,16 1,12a
KCB 1,48 1,69 0,61 0,83 0,80 1,08a
LSD0,05 0,7
Tập hợp sâu cánh vẩy
hại chè
CCB 3,36 2,88 4,08 3,69 4,14 3,63a
KCB 2,43 3,81 4,14 3,24 4,11 3,55a
LSD0,05 0,91
Tỷ lệ Bọ xít cổ ngỗng
đen:Tập hợp sâu cánh
vẩy
CCB 1:3
KCB 1:3
Tập hợp bọ xít bắt CCB 3,28 2,26 3,44 2,64 3,02 2,93a
99
mồi
KCB 3,06 2,71 2,13 2,54 3,25 2,74b
LSD0,05 0,11
Rầy xanh Empoasca
flavescens
CCB 57,84 45,36 43,20 75,84 93,00 63,05b
KCB 63,24 51,96 54,60 100,80 81,60 70,44a
LSD0,05 3,31
Tập hợp bọ xít bắt
mồi : Rầy xanh
CCB 1:22
KCB 1:26
Bọ rùa đỏ Micraspis
discolor
CCB 1,96 1,41 0,91 1,56 1,66 1,50a
KCB 1,58 1,23 0,90 1,37 1,40 1,30b
LSD0,05 0,12
Bọ rùa 6 vằn
Menochilus
sexmaculatus
CCB 1,27 1,56 0,66 1,31 1,27 1,21a
KCB 0,68 0,59 0,71 1,54 1,37 0,98b
LSD0,05 0,14
Tập hợp bọ rùa bắt
mồi
CCB 3,33 3,05 1,98 2,97 3,33 2,93a
KCB 2,42 1,93 2,51 3,12 3,17 2,63b
LSD0,05 0,20
Rệp muội nâu đen
Toxoptera aurantii
CCB 28,00 21,00 79,00 69,00 50,50 49,50a
KCB 15,50 12,50 65,50 56,00 44,00 38,70b
LSD0,05 2,11
Tỷ lệ Bọ rùa đỏ:Rệp
muội nâu đen
CCB 1:33
KCB 1:30
Tỷ lệ Bọ rùa 6 vằn :
Rệp muội nâu đen
CCB 1:41
KCB 1:40
Tỷ lệ tập hợp bọ rùa
bắt mồi:Rệp muội
nâu đen
CCB 1:17
KCB 1:15
Ghi chú: CCB - Có che bóng, KCB - Không che bóng. Các chữ số khác nhau thể
hiện sự sai khác theo cột ở mức 0,05% (ANOVA).
Cây che bóng làm thay đổi các yếu tố tiểu khí hậu khu vực đồi chè (cường độ
ánh sáng, nhiệt độ, ẩm độ, tốc độ gió) và ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát sinh của
quần thể sâu hại và các loài côn trùng bắt mồi trên chè. Đồng thời cây che bóng còn
100
có tác dụng chống xói mòn đất, cung cấp thêm dinh dưỡng cho đất, cải tạo đất nhất là
cây che bóng họ đậu.
Theo Nguyễn Văn Thiệp (2000) [42], cây che bóng làm thay đổi cường độ
chiếu sáng tới cây chè, ánh sáng ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống thực vật nên gián
tiếp ảnh hưởng đến côn trùng ăn thực vật. Hạn chế ánh sáng bằng cây che bóng giảm
được tác hại của rầy xanh, bọ trĩ nhưng cường độ ánh sáng cũng có thể ảnh hưởng
đến năng suất của búp chè.
Để đánh giá một các tổng quát về ảnh hưởng của cây che bóng đến sâu hại
chè, tiến hành điều tra trong 5 tháng liên tiếp từ tháng 06 đến tháng 10 diễn biến mật
độ các loài sâu hại chè ở hai điều kiện có cây che bóng và không có cây che bóng, xử
lý thống kê để so sánh, kết quả được ghi lại tại bảng 3.15.
Mật độ bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Orius sauteri (Poppius) trung bình trên
nương chè có cây che bóng (1,28 con/m2) cao hơn trên nương chè không có cây che
bóng (0,92 con/m2). Một trong những nguyên nhân gây nên sự sai khác này là do tập
tính sợ ánh sáng trực xạ của loài bọ xít này, chúng thường hoạt động dưới tán cây
che bóng hơn là không có cây che bóng. Mật độ của bọ trĩ Physothrips setiventris
Bagnall cũng có sự sai khác ở chè có cây che bóng và chè không có cây che bóng.
Cụ thể là mật độ bọ trĩ trung bình trên chè có cây che bóng (42,8 con/m2) thấp hơn
nương chè không có cây che bóng (49,3 con/m2). Kết quả này phù hợp với kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Văn Thiệp (2000) [42] cho rằng tại Phú Hộ, Phú Thọ cường
độ ánh sáng và tỷ lệ búp chè bị bọ trĩ hại có mối tương quan thuận rất chặt chẽ với R
= 0,98, trên chè sản xuất cũng cho thấy cây che bóng giảm được tỷ lệ hại của bọ trĩ.
Kết quả của nghiên cứu này cũng phù hợp với kết quả của tác giả Mkwaila et al.
(1979) [59] cho rằng cây che bóng làm giảm tác hại của bọ trĩ. Do cây che bóng có
ảnh hưởng khác nhau đến mật độ các loài bắt mồi và vật mồi nên cũng làm sai khác
tỷ lệ số lượng giữa chúng. Trên chè có cây che bóng tỷ lệ bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi:
bọ trĩ là 1:33 và trên chè không có cây che bóng là 1:53.
Sự sai khác mật độ bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus
Dohrn, mật độ tập hợp sâu cánh vẩy trên chè có cây che bóng và chè không có cây
che bóng không có ý nghĩa thống kê. Cụ thể từ tháng 6 đến tháng 10 năm 2016, mật
độ S. croceovittatus trung bình trên chè có cây che bóng là 1,12 con/m2 và trên chè
không có cây che bóng là 1,08 con/m2; mật độ tập hợp sâu cánh vẩy trên chè có cây
che bóng là 3,63 con/m2 và trên chè không có cây che bóng là 3,55 con/m
2. Do vậy
101
tỷ lệ số lượng bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi : số lượng tập hợp sâu cánh vẩy trên chè
có cây che bóng và chè không có cây che bóng cũng giống nhau, cùng là 1:3.
Mật độ tập hợp bọ xít bắt mồi trung bình từ tháng 6 đến tháng 10 năm 2016,
trên nương chè có cây che bóng là 2,93 con/m2
cao hơn trên nương chè không có cây
che bóng (2,74 con/m2). Một trong những nguyên nhân làm tăng mật độ của tập hợp
bọ xít bắt mồi trên công thức chè có cây che bóng là do sự đóng góp rất lớn số lượng
của loài bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Orius sauteri (Poppius), loài này ưa ánh sáng tán
xạ (dưới cây che bóng), sợ ánh sáng trực xạ. Cũng trong khoảng thời gian này, mật
độ rầy xanh Empoasca flavescens Fabricius cũng có sự sai khác ở chè có cây che
bóng và chè không có cây che bóng. Cụ thể là mật độ rầy xanh trung bình trên nương
chè có cây che bóng là 63,05 con/m2 thấp hơn trên nương chè không có cây che bóng
(70,44 con/m2). Kết quả nghiên cứu này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn
Văn Thiệp (2000) [42] cho rằng tại Phú Hộ, Phú Thọ ở nương chè có cây che bóng
mật độ rầy xanh thấp hơn nơi không có cây che bóng, tỷ lệ búp bị hại thấp hơn nơi
không có cây che bóng từ 10-30%, trung bình khoảng 18-20%. Tỷ lệ số lượng tập
hợp bọ xít bắt mồi : số lượng rầy xanh khác nhau trên các công thức thí nghiệm. Trên
chè có cây che bóng tỷ lệ này là 1:22 và trên chè không có cây che bóng là 1:26.
Bọ rùa bắt mồi và vật mồi của ưa thích của nó là rệp muội nâu đen cũng có
mạt độ khác nhau ở hai công thức thí nghiệm. Mật độ bọ rùa đỏ Micraspis discolor
(Fabricius) trung bình ở công thức có cây che bóng là 1,50 con/m2 cao hơn ở công
thức không có cây che bóng (1,30 con/m2). Mật độ bọ rùa 6 vằn Menochilus
sexmaculatus (Fabricius) ở công thức có cây che bóng là 1,21 con/m2 cao hơn ở công
thức không có cây che bóng (0,98 con/m2). Mật độ tập hợp bọ rùa bắt mồi trung bình
ở công thức có cây che bóng là 2,93 con/m2 cao hơn ở công thức không có cây che
bóng (2,63 con/m2). Mật độ của rệp muội nâu đen hại chè Toxoptera aurantii
Fonscolombe cũng có sự sai khác ở chè có cây che bóng và chè không có cây che
bóng. Cụ thể là mật độ rệp muội nâu đen trung bình qua 5 tháng theo dõi (từ tháng 6
đến tháng 10 năm 2016) trên chè có cây che bóng là 49,5 con/m2 cao hơn ở công
thức không có cây che bóng (38,7 con/m2). Theo nhóm tác giả bộ môn côn trùng,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam (2004) [2] thì rệp muội nâu đen thường tập trung
tại một vị trí nhất định mặt dưới lá, ưa ánh sáng tán xạ, điều này hoàn toàn phù hợp
với kết quả nghiên này. Tỷ lệ số lượng bọ rùa đỏ : rệp muội nâu đen trên chè có cây
che bóng là 1:33 và trên chè không có cây che bóng là 1:30. Tỷ lệ bọ rùa 6 vằn : rệp
muội nâu đen trên chè có cây che bóng là 1:41và trên chè không có cây che bóng là
102
1:40. Tỷ lệ tập hợp bọ rùa : rệp muội nâu đen trên chè có cây che bóng là 1:17 và
trên chè không có cây che bóng là 1:15.
Bảng 3.16. Ảnh hƣởng của cây che bóng đến mối quan hệ giữa một số loài côn
trùng bắt mồi với vật mồi (sâu hại phổ biến) trên chè tại Phú Thọ năm 2016
STT Mối quan hệ giữa côn trùng bắt mồi với vật
mồi
Hệ số tƣơng quan (R)
Có che
bóng
Không che
bóng
1. Bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi với bọ trĩ -0,91 -0,52
2. Bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi với tập hợp sâu cánh
vẩy -0,47 -0,42
3. Tập hợp bọ xít bắt mồi với rầy xanh -0,80 -0,45
4. Bọ rùa đỏ với rệp muội nâu đen -0,90 -0,97
5. Bọ rùa 6 vằn với rệp muội nâu đen -0,92 -0,91
6. Tập hợp bọ rùa bắt mồi với rệp muội nâu đen -0,95 -0,95
Côn trùng bắt mồi thể hiện vai trò khống chế sâu hại ở các mức độ khác nhau
trên chè có cây che bóng và không có cây che bóng. Xét 6 cặp côn trùng bắt mồi và
sâu hại phổ biến trên chè có cây che bóng và không có cây che bóng cho thấy: Trên
chè có cây che bóng thì mối quan hệ giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi với bọ trĩ, bọ
xít cổ ngỗng đen bắt mồi với tập hợp sâu cánh vẩy, bọ rùa đỏ với rệp muội nâu đen,
bọ rùa 6 vằn với rệp muội nâu đen và tập hợp bọ rùa bắt mồi với rệp muội nâu đen
thể hiện là tương quan nghịch, chặt và rất chặt.
Cụ thể là mối quan hệ giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi với bọ trĩ trên chè có
cây che bóng chặt chẽ hơn trên chè không có cây che bóng, hệ số tương quan giữa
chúng trên chè có cây che bóng là R = -0,91và trên chè không có cây che bóng là R =
-0,52. Mối quan hệ giữa bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi với tập hợp sâu bộ cánh vẩy
trên chè có cây che bóng chặt chẽ hơn trên chè không có cây che bóng, hệ số tương
quan giữa chúng trên chè có cây che bóng là R = -0,47 và trên chè không có cây che
bóng là R = -0,42. Mối quan hệ giữa tập hợp bọ xít bắt mồi với rầy xanh trên chè có
cây che bóng chặt chẽ hơn trên chè không có cây che bóng, hệ số tương quan giữa
chúng trên chè có cây che bóng là R = -0,80 và trên chè không có cây che bóng là R
= -0,45.
Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa bọ rùa bắt mồi với rệp muội nâu đen biểu hiện
rất khác nhau trên chè có cây che bóng và không có cây che bóng. Nếu như mối quan
hệ giữa bọ xít bắt mồi với vật mồi của nó trên chè có cây che bóng chặt chẽ hơn trên
103
chè không có cây che bóng như đã nói ở trên thì mối quan hệ giữa bọ rùa bắt mồi với
rệp muội nâu đen trên chè có cây che bóng lại ít chặt chẽ hơn trên chè không có cây
che bóng. Cụ thể là mối quan hệ giữa bọ rùa đỏ với rệp muội nâu đen trên chè có cây
che bóng ít chặt chẽ hơn trên chè không có cây che bóng, hệ số tương quan giữa
chúng trên chè có cây che bóng là R = -0,90 và trên chè không có cây che bóng là R
= -0,97. Mối quan hệ giữa bọ rùa 6 vằn với rệp muội nâu đen trên chè có cây che bóng ít
chặt chẽ hơn trên chè không có cây che bóng, hệ số tương quan giữa chúng trên chè có
cây che bóng là R = -0,92 và trên chè không có cây che bóng là R = -0,91.
3.4.3. Ảnh hƣởng của biện pháp chăm sóc lên mật độ và mối quan hệ của
một số loài côn trùng bắt mồi với sâu hại phổ biến
Biện pháp chăm sóc sẽ gây nên những biến đổi trong hệ sinh thái đồi chè cũng
như đối với đời sống của côn trùng. Sự biến đổi đó có thể là có lợi với một số loài
nhưng lại có thể là có hại đối với một số loài khác. Vì vậy nghiên cứu ảnh hưởng của
biện pháp chăm sóc đến sự phát sinh, phát triển quần thể của một số loài sâu hại và
côn trùng bắt mồi chính trên chè là rất cần thiết, làm cơ sở đề xuất qui trình quản lý
dịch hại tổng hợp sâu hại chè.
Bảng 3.17. Ảnh hưởng của biện pháp chăm sóc lên mật độ giữa một số loài côn
trùng bắt mồi với vật mồi (sâu hại phổ biến) trên chè tại Phú Thọ trong năm 2016
Tên côn trùng bắt
mồi/vật mồi
Công
thức
Mật độ (con/m2) theo tháng điều tra Mật
độ
trung
bình
6 7 8 9 10
Bọ xít nâu đen nhỏ bắt
mồi Orius sauteri
CT1 1,32 0,91 1,06 1,37 1,63 1,26b
CT2 1,62 0,78 1,46 1,59 1,71 1,43a
LSD0,05 0,07
Bọ trĩ Physothrips
setiventris
CT1 22,60 47,50 36,80 27,50 29,80 32,80b
CT2 30,40 58,30 48,20 38,50 38,00 42,70a
LSD0,05 1,50
Tỷ lệ bọ xít nâu đen nhỏ
bắt mồi:Bọ trĩ
CT1 1:26
CT2 1:30
Bọ xít cổ ngỗng đen bắt
mồi Sycanus
croceovittatus
CT1 1,32 1,06 0,64 0,63 0,2 0,77b
CT2 1,28 1,14 0,75 1,55 1,59 1,26a
LSD0,05 0,08
Tập hợp sâu cánh vẩy hại CT1 2,50 2,16 2,56 1,80 2,10 2,22b
104
chè CT2 1,86 2,58 3,12 2,80 3,20 2,71a
LSD0,05 0,12
Tỷ lệ bọ xít cổ ngỗng đen
bắt mồi : Tập hợp sâu
cánh vẩy
CT1 1:3
CT2 1:2
Tập hợp bọ xít bắt mồi CT1 2,95 2,16 3,13 3,54 3,7 3,10b
CT2 3,16 2,27 3,44 3,82 4,02 3,34a
LSD0,05 0,16
Rầy xanh Empoasca
flavescens
CT1 55,44 43,92 41,40 75,60 45,60 52,4b
CT2 64,56 54,36 55,80 103,20 60,96 67,8a
LSD0,05 3,50
Tỷ lệ Tập hợp bọ xít bắt
mồi : Rầy xanh
CT1 1:17
CT2 1:20
Bọ rùa đỏ Micraspis
discolor
CT1 1,76 1,61 0,73 0,99 1,08 1,23b
CT2 1,68 1,31 1,25 1,70 1,72 1,53a
LSD0,05 0,05
Bọ rùa 6 vằn Menochilus
sexmaculatus
CT1 0,74 0,82 1,01 1,47 1,55 1,12b
CT2 1,21 1,36 1,33 1,63 1,63 1,43a
LSD0,05 0,06
Tập hợp bọ rùa bắt mồi CT1 3,13 2,98 2,24 2,96 3,13 2,89b
CT2 3,00 2,8 2,98 3,73 3,75 3,26a
LSD0,05 0,18
Rệp muội nâu đen
Toxoptera aurantii
CT1 18,00 16,00 55,50 48,50 38,50 35,30b
CT2 30,50 42,50 77,50 64,00 49,00 52,70a
LSD0,05 2,50
Tỷ lệ bọ rùa đỏ : Rệp
muội nâu đen
CT1 1:19
CT2 1:34
Tỷ lệ bọ rùa 6 vằn : Rệp
muội nâu đen
CT1 1:32
CT2 1:37
Tỷ lệ tập hợp bọ rùa bắt
mồi : Rệp muội nâu đen
CT1 1:12
CT2 1:16
Ghi chú: Các chữ số khác nhau thể hiện sự sai khác theo cột ở mức 0,05%
(ANOVA).
105
Kết quả theo dõi từ tháng 6 đến tháng 10 năm 2016 và xử lý thống kê được
ghi lại tại bảng 3.17 cho thấy:
Mật độ bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Orius sauteri (Poppius) trung bình trên
nương chè chăm sóc tốt (1,26 con/m2) thấp hơn trên nương chè chăm sóc ít (1,43
con/m2). Mật độ vật mồi ưa thích của loài bọ xít này (bọ trĩ Physothrips setiventris
Bagnall) cũng có sự sai khác ở chè chăm sóc tốt và chè chăm sóc ít. Cụ thể là mật độ
bọ trĩ trung bình trên chè chăm sóc tốt (32,8 con/m2) thấp hơn nương chè chăm sóc ít
(42,7 con/m2). Một trong những nguyên nhân đó là tập quán canh tác của nông dân.
Người trồng chè thường vì lợi ích kinh tế trước mặt mà cắt giảm phân bón, đặc biệt
là phân bón hữu cơ, tăng sử dụng thuốc trừ cỏ và trừ sâu hóa học để tiêu diệt tức thời
sâu hại nhưng chúng lại bùng phát trở lại rất nhanh. Vòng luẩn quẩn đó nhanh chóng
phá vỡ hệ sinh thái nương chè, dẫn đến canh tác không bền vững. Cây chè khi được
chăm sóc đầy đủ, bón phân cân đối sẽ sinh trưởng tốt, khỏe mạnh, tăng số lứa, giảm
thời gian giữa hai lứa làm giảm bớt lượng sâu hại theo từng lứa hái. Ngược lại chè ít
được chăm sóc sẽ sinh trưởng kém, sức chống chịu sâu kém, ra ít búp, lâu được thu
hoạch làm cho nương chè có nhiều thời gian tích lũy số lượng. Tỷ lệ số lượng bọ xít
nâu đen nhỏ bắt mồi: số lượng bọ trĩ trên chè chăm sóc tốt là 1:26 và trên chè chăm
sóc ít là 1:33.
Mật độ bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus Dohrn trung bình
trên chè chăm sóc tốt là 0,77 con/m2 thấp hơn trên chè chăm sóc ít (1,26 con/m
2).
Trong khi đó, mật độ của tập hợp sâu cánh vẩy cũng có sự sai khác ở hai chế độ
chăm sóc. Cụ thể mật độ tập hợp sâu cánh vẩy trung bình trên chè có chăm sóc tốt là
2,22 con/m2 thấp hơn mật độ này trên chè chăm sóc ít (2,71 con/m
2). Tỷ lệ số lượng
bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi : số lượng tập hợp sâu cánh vẩy. Trên chè chăm sóc tốt
tỷ lệ này là 1:3 và trên chè chăm sóc ít là 1:2.
Mật độ tập hợp bọ xít bắt mồi trung bình trên nương chè chăm tốt là 3,10
con/m2
thấp hơn trên nương chè ít chăm sóc (3,34 con/m2). Mật độ rầy xanh
Empoasca flavescens Fabricius cũng có sự sai khác ở chè chăm sóc tốt và chè chăm
sóc ít. Mật độ rầy xanh trung bình trên nương chè chăm sóc tốt là 52,4 con/m2 thấp
hơn trên nương chè chăm sóc ít (67,8 con/m2). Tỷ lệ số lượng tập hợp bọ xít bắt mồi
: số lượng rầy xanh. Trên chè chăm sóc tốt tỷ lệ này là 1:17 và trên chè chăm sóc ít là
1:20.
Đối với bọ rùa bắt mồi và vật mồi ưa thích của nó cũng bị ảnh hưởng rõ rệt
của chế độ chăm sóc chè. Mật độ bọ rùa đỏ Micraspis discolor (Poppius) trung bình
106
ở công thức chè chăm sóc tốt là 1,23 con/m2 thấp hơn ở công thức chè chăm sóc ít
(1,53 con/m2). Mật độ bọ rùa 6 vằn Menochilus sexmaculatus (Poppius) trung bình ở
công thức chè chăm sóc tốt là 1,12 con/m2 thấp hơn ở công thức chè chăm sóc ít
(1,48 con/m2). Mật độ tập hợp bọ rùa bắt mồi trung bình ở công thức chè chăm sóc
tốt là 2,89 con/m2 thấp hơn ở công thức chè chăm sóc ít (3,26 con/m
2). Trong khi đó,
đối với mật độ của rệp muội nâu đen hại chè Toxoptera aurantii Fonscolombe cũng
có sự sai khác ở chè chăm sóc tốt và chăm sóc ít. Cụ thể là mật độ rệp muội nâu đen
trên chè chăm sóc tốt là 35,3 con/m2 thấp hơn ở công thức không chè ít chăm sóc
(52,7 con/m2). Tỷ lệ số lượng bọ rùa đỏ : rệp muội nâu đen trên chè chăm sóc tốt là
1:19 và trên chè chăm sóc ít là 1:34. Tỷ lệ bọ rùa 6 vằn : rệp muội nâu đen trên chè
chăm sóc tốt là 1:32 và trên chè chăm sóc ít là 1:37. Tỷ lệ Tập hợp bọ rùa : rệp muội
nâu đen trên chè chè chăm sóc tốt là 1:12 và trên chè chăm sóc ít là 1:16.
Bảng 3.18. Ảnh hƣởng của biện pháp chăm sóc lên mối quan hệ giữa một số loài
côn trùng bắt mồi với sâu hại phổ biến trên chè tại Phú Thọ
STT Mối quan hệ giữa côn trùng bắt mồi với vật
mồi
Hệ số tƣơng quan (R)
CT1 CT2
1. Bọ xít nâu nhỏ bắt mồi với bọ trĩ -0,86 -0,68
2. Bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi với tập hợp sâu cánh
vẩy -0,78 -0,71
3. Tập hợp bọ xít bắt mồi với rầy xanh -0,74 -0,38
4. Bọ rùa đỏ với rệp muội nâu đen -0,80 -0,96
5. Bọ rùa 6 vằn với rệp muội nâu đen -0,85 -0,85
6. Tập hợp bọ rùa bắt mồi với rệp muội nâu đen -0,93 -0,91
Côn trùng bắt mồi thể hiện vai trò khống chế sâu hại ở các mức độ khác nhau
trên chè chăm sóc tốt và chè chăm sóc ít. Xét 6 cặp côn trùng bắt mồi và sâu hại phổ
biến trên chè chăm sóc tốt và chè chăm sóc ít cho thấy: Trên chè chăm sóc tốt thì
mối quan hệ giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi với bọ trĩ, bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi
với tập hợp sâu cánh vẩy thể hiện là tương quan nghịch, rất chặt và cao hơn trên chè
chăm sóc ít. Trên chè chăm sóc ít mối quan hệ giữa 2 loài bọ rùa bắt mồi và tập hợp
bọ rùa bắt mồi với rệp muội nâu đen thể hiện là tương quan nghịch, rất chặt và cao
hơn trên chè chăm sóc tốt.
Cụ thể là mối quan hệ giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi với bọ trĩ trên chè
chăm sóc tốt chặt chẽ hơn trên chè chăm sóc ít, hệ số tương quan giữa chúng trên chè
107
chăm sóc tốt là R = -0,86 và trên chè chăm sóc ít là R = -0,68. Mối quan hệ giữa bọ
xít cổ ngỗng đen bắt mồi với tập hợp sâu bộ cánh vẩy trên chè chăm sóc tốt chặt chẽ
hơn trên chè chăm sóc ít, hệ số tương quan giữa chúng trên chè chăm sóc tốt là R = -
0,78 và trên chè chăm sóc ít là R = -0,71. Mối quan hệ giữa tập hợp bọ xít bắt mồi với
rầy xanh trên chè chăm sóc tốt chặt chẽ hơn trên chè chăm sóc ít, hệ số tương quan giữa
chúng trên chè chăm sóc tốt là R = -0,74 và trên chè chăm sóc ít là R = -0,38.
Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa bọ rùa bắt mồi với rệp muội nâu đen biểu hiện
rất khác nhau trên chè chăm sóc tốt và chè chăm sóc ít. Nếu như mối quan hệ giữa
bọ xít bắt mồi với vật mồi của nó trên chè chăm sóc tốt chặt chẽ hơn trên chè chăm
sóc ít như đã nói ở trên thì mối quan hệ giữa bọ rùa bắt mồi với rệp muội nâu đen
trên 2 công thức lại không theo qui luật nào. Cụ thể là mối quan hệ giữa bọ rùa đỏ
với rệp muội nâu đen trên chè chăm sóc tốt ít chặt chẽ hơn trên chè chăm sóc ít, hệ
số tương quan giữa chúng trên chè chăm sóc tốt là R = -0,80 và trên chè chăm sóc ít
là R = -0,96. Mối quan hệ giữa bọ rùa 6 vằn với rệp muội nâu đen trên chè chăm sóc
tốt không sai khác trên chè chăm sóc ít, hệ số tương quan giữa trên chè chăm sóc tốt
và chè chăm sóc ít đều là R= -0,85. Mối quan hệ giữa tập hợp bọ rùa bắt mồi với rệp
muội nâu đen trên chè chăm sóc tốt lại chặt chẽ hơn trên chè chăm sóc ít, hệ số tương
quan giữa chúng trên chè chăm sóc tốt là R = -0,93 và trên chè chăm sóc ít là R = -0,91.
3.4.4. Ảnh hưởng của kĩ thuật hái chè lên mật độ và mối quan hệ của một
số loài côn trùng bắt mồi với sâu hại phổ biến
Đa số các loài sâu hại phổ biến trên chè đều là nhóm gây hại và cư trú trên
búp chè (rầy xanh, bọ trĩ, rệp muội nâu đen). Vì vậy hái chè sẽ loại ra khỏi nương
chè một số lượng lớn nguồn sâu (bao gồm cả trứng, ấu trùng và trưởng thành).
Nguồn sâu hại thay đổi kéo theo các loài côn trùng bắt mồi sử dụng sâu hại chè làm
thức ăn cũng bị ảnh hưởng. Chúng đã theo dõi ảnh hưởng của phương thức thu hái
đến sâu hại, côn trùng bắt mồi và mối quan hệ giữa chúng.
Nguyễn Văn Thiệp (2000) [42] và Nguyễn Văn Hùng (2001) [13] đều khẳng
định trên nương chè hái san trật có mật độ và tỷ lệ rầy xanh, bọ trĩ cao hơn ở nương
chè hái kĩ, tuy nhiên chưa tác giả nào tìm hiểu ảnh hưởng của kĩ thuật hái chè đến
mật độ rệp và các loài sâu cánh vẩy và các loài côn trùng bắt mồi.
108
Bảng 3.19. Ảnh hưởng của kĩ thuật hái chè lên mật độ của một số loài côn trùng
bắt mồi và vật mồi (sâu hại phổ biến) trên chè tại Phú Thọ năm 2016
Tên côn trùng bắt
mồi/vật mồi
(con/m2)
Công thức
Mật độ (con/m2) theo tháng điều tra Mật
độ
trung
bình
6 7 8 9 10
Bọ xít nâu đen nhỏ
bắt mồi Orius
sauteri
Hái san trật 1,22 0,86 1,08 1,25 0,80 1,04b
Hái kĩ 1,52 1,13 1,20 2,31 2,93 1,82a
LSD0,05 0,07
Bọ trĩ Physothrips
setiventris
Hái san trật 21,70 43,90 48,30 40,00 38,50 38,50a
Hái kĩ 32,40 52,10 36,90 22,40 20,50 32,90b
LSD0,05 1,32
Tỷ lệ bọ xít nâu đen
nhỏ bắt mồi : Bọ trĩ
Hái san trật 1:37
Hái kĩ 1:18
Bọ xít cổ ngỗng đen
bắt mồi Sycanus
croceovittatus
Hái san trật 1,17 1,08 0,42 0,78 0,45 0,78b
Hái kĩ 1,24 1,18 0,83 1,23 1,10 1,12a
LSD0,05 0,04
Tập hợp sâu hại chè
bộ cánh vẩy
Hái san trật 2,50 2,16 3,64 3,30 3,80 3,08a
Hái kĩ 1,86 2,58 2,36 1,70 1,72 2,04b
LSD0,05 0,12
Tỷ lệ bọ xít cổ
ngỗng đen bắt mồi :
tập hợp sâu bộ cánh
vẩy
Hái san trật 1:4
Hái kĩ
1:2
Tập hợp bọ xít bắt
mồi
Hái san trật 2,66 2,33 3,13 2,55 2,47 2,63b
Hái kĩ 3,58 2,43 3,44 4,35 4,02 3,56a
LSD0,05 0,15
Rầy xanh Empoasca
flavescens
Hái san trật 51,84 41,04 63,60 82,20 57,60 59,30a
Hái kĩ 62,16 49,56 47,40 58,20 39,36 51,30b
LSD0,05 3,26
Tỷ lệ Tập hợp bọ xít
bắt mồi : Rầy xanh
Hái san trật 1:23
Hái kĩ 1:14
Bọ rùa đỏ Micraspis Hái san trật 1,69 1,55 0,98 1,02 1,60 1,37b
109
discolor Hái kĩ 1,63 1,38 1,18 1,15 1,77 1,42a
LSD0,05 0,05
Bọ rùa 6 vằn
Menochilus
sexmaculatus
Hái san trật 0,82 0,95 0,79 0,79 1,28 0,93b
Hái kĩ 1,26 1,38 1,30 1,61 1,62 1,43a
LSD0,05 0,06
Tập hợp bọ rùa bắt
mồi
Hái san trật 3,03 2,76 2,17 2,71 3,28 2,79b
Hái kĩ 3,11 2,90 2,98 3,26 3,29 3,11a
LSD0,05 0,15
Rệp muội hại chè
Toxoptera aurantii
Fonscolombe
Hái san trật 28,00 46,00 79,50 68,00 58,00 55,90a
Hái kĩ 21,50 32,00 50,00 44,00 35,00 36,50b
LSD0,05 1,68
Tỷ lệ Bọ rùa đỏ :
Rệp muội nâu đen
Hái san trật 1:41
Hái kĩ 1:26
Tỷ lệ Bọ rùa 6 vằn :
Rệp muội nâu đen
Hái san trật 1:60
Hái kĩ 1:25
Tỷ lệ tập hợp bọ rùa
: Rệp muội
Hái san trật 1:20
Hái kĩ 1:12
Ghi chú: Các chữ số khác nhau thể hiện sự sai khác theo cột ở mức 0,05%
(ANOVA).
Mật độ bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Orius sauteri (Poppius) trung bình từ tháng
6 đến tháng 10 năm 2016 trên nương chè hái san trật (1,04 con/m2) thấp hơn trên
nương chè hái kĩ (1,82 con/m2). Sở dĩ lại có hiện tượng trên vì tập tính và vị trí đẻ
trứng của côn trùng bắt mồi và sâu hại trên chè khác nhau. Nếu như rầy xanh, bọ trĩ,
rệp, sâu cánh vẩy hại chè đều cư trú và đẻ trứng trên các búp chè là chính và bị biện
pháp hái kĩ mang theo rất nhiều nguồn sâu ra khỏi đồng ruộng thì côn trùng bắt mồi
lại ngược lại. Schellhorn và Andow, 1999 [95] cho biết bọ rùa Coleomegilla
maculata thường đẻ trứng ở xa nguồn thức ăn, ở nơi kín đáo để tránh bị các loài côn
trùng bắt mồi ăn thịt khác ăn trứng. Trên ngô các ổ trứng Coleomegilla maculata
thường được tìm thấy ở nửa dưới thân cây ngô. Cottrell và Yeargan (1998) [130] cho
biết trứng của bọ rùa Coleomegilla maculata còn được tìm thấy nhiều trên cỏ dại ở
các cánh đồng ngô, ấu trùng mới nở ra từ ổ trứng sẽ phân tán bằng cách rơi xuống
đất và bò đến cây trồng lân cận (Cottrell và Yeargan, 1998 [130]; Seagraves và
Yeargan, 2006) [93]. Theo quan sát trên nương chè thì bọ xít cũng thường đẻ trứng ở
110
các lá già, lá bánh tẻ chứ ít khi bắt gặp chúng đẻ trứng trên búp chè. Vì vậy quá trình
hái chè không mang đi trứng bọ xít và bọ rùa bắt mồi và việc hái chè không làm
giảm đi mật độ các loài này trên nương chè. Mặt khác trưởng thành các loài côn
trùng bắt mồi thường hoạt động nhanh nhẹn, việc hái chè san trật (5 - 7 ngày một lần
hái) tác động lên nương chè liên tục làm cho con trưởng thành bọ xít và bọ rùa bắt
mồi bị xua đuổi bay sang các nương chè bên cạnh. Vì vậy mật độ của chúng trên
nương chè hái san trật luôn thấp hơn ở nương chè hái kĩ.
Mật độ của bọ trĩ Physothrips setiventris Bagnall cũng có sự sai khác ở chè
hái san trật và chè hái kĩ. Cụ thể là mật độ bọ trĩ trung bình từ tháng 6 đến tháng 10
năm 2016 trên chè hái san trật (38,5 con/m2) cao hơn nương chè hái kĩ (32,9 con/m
2).
Một trong những nguyên nhân đó là hái san trật tạo nên tính liên tục thức ăn cho bọ
trĩ và sự tích lũy số lượng bọ trĩ trên nương chè. Khi hái san trật chỉ hái những búp
đủ tiêu chuẩn (khoảng 30%), các búp chè còn lại tiếp tục phát triển làm cho nguồn
thức ăn của sâu hại được nối tiếp trên nương chè là điều kiện thuận lợi cho sâu hại
phát triển. Đồng thời 70% còn để lại sau khi hái chứa rất nhiều nguồn sâu hại bao
gồm cả trứng, ấu trùng và trưởng thành của sâu hại chè. Hái kĩ ngoài làm giảm mật
độ sâu hại chè mà còn phù hợp với phương thức hái máy, chăm sóc và sản xuất chè
thâm canh theo qui mô lớn. Như vậy hái kĩ đều đặn 30 - 40 ngày một lứa cũng là một
biện pháp phòng trừ sâu hại chè có hiệu quả. Tỷ lệ số lượng bọ xít nâu đen nhỏ bắt
mồi: số lượng bọ trĩ trên chè hái san trật là 1:37 chênh lệch rất nhiều so với trên chè
hái kĩ (1:18).
Mật độ bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus Dohrn trung bình
trên chè hái san trật là 0,78 con/m2 thấp hơn mật độ này trên chè hái kĩ (1,12
con/m2). Đối với mật độ vật mồi ưa thích của chúng (tập hợp sâu cánh vẩy) cũng có
sự sai khác ở chè hái san trật và chè hái kĩ. Mật độ tập hợp sâu cánh vẩy trung bình
trên chè hái san trật là 3,08 con/m2 cao hơn mật độ này trên chè hái kĩ (2,04 con/m
2).
Tỷ lệ số lượng bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi : số lượng tập hợp sâu cánh vẩy trên chè
hái san trật là 1:4 và trên chè hái kĩ là 1:2.
Theo dõi tổng số các loài bọ xít bắt mồi bắt gặp trên chè tại đểm nghiên cứu
cho thấy mật độ tập hợp bọ xít bắt mồi trung bình trên nương chè hái san trật là 2,63
con/m2
thấp hơn trên nương chè hái kĩ (3,56 con/m2). Bên cạnh đó, mật độ rầy xanh
Empoasca flavescens Fabricius cũng có sự sai khác ở chè hái san trật và chè hái kĩ.
Mật độ rầy xanh trung bình trên nương chè hái san trật là 59,3 con/m2 cao hơn trên
nương chè hái kĩ (51,3 con/m2). Tỷ lệ số lượng tập hợp bọ xít bắt mồi : số lượng rầy
111
xanh có chênh lệch rất lớn trên hai công thức thí nghiệm. Trên chè hái san trật tỷ lệ
này là 1:23 và trên chè hái kĩ là 1:14.
Mật độ bọ rùa đỏ Micraspis discolor trung bình từ tháng 6 đến tháng 10 năm
2016 ở chè hái san trật là 1,37 con/m2 thấp hơn ở chè hái kĩ (1,42 con/m
2). Mật độ
bọ rùa 6 vằn Menochilus sexmaculatus trung bình chè hái san trật là 0,93 con/m2 thấp
hơn ở chè hái kĩ (1,43 con/m2). Mật độ tập hợp bọ rùa bắt mồi trung bình ở chè hái
san trật là 2,79 con/m2 thấp hơn ở chè hái kĩ (3,11 con/m
2). Mật độ của rệp muội nâu
đen hại chè Toxoptera aurantii Fonscolombe cũng có sự sai khác ở chè hái san trật
và chè hái kĩ. Cụ thể là mật độ rệp muội nâu đen trung bình trên chè hái san trật là
55,9 con/m2 cao hơn ở công thức hái kĩ (36,5 con/m
2). Tỷ lệ vật bắt mồi và con mồi
trên chè hái san trật và hái kĩ rất khác nhau. Tỷ lệ số lượng bọ rùa đỏ : rệp muội nâu
đen trên chè hái san trật là 1:41 và trên chè hái kĩ là 1:26. Tỷ lệ bọ rùa 6 vằn : rệp
muội nâu đen trên chè hái san trật là 1:60 và trên chè hái kĩ là 1:25. Tỷ lệ Tập hợp bọ
rùa : rệp muội nâu đen trên chè hái san trật là 1:20 và trên chè hái kĩ là 1:12.
Bảng 3.20. Ảnh hƣởng của kĩ thuật hái chè lên mối quan hệ giữa một số loài côn
trùng bắt mồi với vật mồi (sâu hại phổ biến) trên chè tại Phú Thọ năm 2016
STT Mối quan hệ giữa côn trùng bắt mồi với vật
mồi
Hệ số tƣơng quan (R)
Hái san trật Hái kĩ
1. Bọ xít nâu nhỏ bắt mồi với bọ trĩ -0,61 -0,79
2. Bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi với tập hợp sâu
cánh vẩy -0,75 -0,82
3. Tập hợp bọ xít bắt mồi với rầy xanh -0,54 -0,49
4. Bọ rùa đỏ với rệp muội nâu đen -0,78 -0,88
5. Bọ rùa 6 vằn với rệp muội nâu đen -0,74 -0,87
6. Tập hợp bọ rùa bắt mồi với rệp muội nâu đen -0,87 -0,92
Côn trùng bắt mồi thể hiện vai trò khống chế sâu hại ở các mức độ khác nhau
trên chè hái san trật và chè hái kĩ. Xét 6 cặp côn trùng bắt mồi và sâu hại phổ biến
trên chè hái san trật và chè hái kĩ cho thấy: Trên chè hái kĩ thì mối quan hệ giữa bọ
xít nâu đen nhỏ bắt mồi với bọ trĩ, bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi với tập hợp sâu cánh
vẩy, bọ rùa đỏ với rệp muội nâu đen, bọ rùa 6 vằn với rệp muội nâu đen và tập hợp
bọ rùa bắt mồi với rệp muội nâu đen thể hiện là tương quan nghịch rất chặt. Trên chè
hái san trật các mối tương quan thể hiện yếu hơn.
Cụ thể là mối quan hệ giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi với bọ trĩ trên chè hái
san trật ít chặt chẽ hơn trên chè hái kĩ, hệ số tương quan giữa chúng trên chè hái san
trật là R = -0,61 và trên chè hái kĩ là R = -0,79. Mối quan hệ giữa bọ xít cổ ngỗng
112
đen bắt mồi với tập hợp sâu bộ cánh vẩy trên chè hái san trật ít chặt chẽ hơn trên chè
hái san trật, hệ số tương quan giữa chúng trên chè hái san trật là R = -0,75 và trên chè
hái kĩ là R = -0,82.
Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa bọ rùa bắt mồi với rệp muội nâu đen biểu hiện
rất khác nhau trên chè hái san trật và chè hái kĩ. Nếu như mối quan hệ giữa bọ xít bắt
mồi với vật mồi của nó trên chè hái san trật chặt chẽ hơn trên chè hái kĩ như đã nói ở
trên thì mối quan hệ giữa bọ rùa bắt mồi với rệp muội nâu đen trên chè hái san trật lại
ít chặt chẽ hơn trên chè hái kĩ. Cụ thể là mối quan hệ giữa bọ rùa đỏ với rệp muội
nâu đen trên chè hái san trật ít chặt chẽ hơn trên chè hái kĩ, hệ số tương quan giữa
chúng trên chè hái san trật là R = -0,78 và trên chè hái kĩ là R = -0,88. Mối quan hệ
giữa bọ rùa 6 vằn với rệp muội nâu đen trên chè hái san trật ít chặt chẽ hơn trên chè
hái kĩ, hệ số tương quan giữa chúng trên chè hái san trật là R = -0,74 và trên chè hái
kĩ là R = -0,87. Mối quan hệ giữa tập hợp bọ rùa bắt mồi với rệp muội nâu đen trên
chè hái san trật ít chặt chẽ hơn trên chè hái kĩ, hệ số tương quan giữa chúng trên chè
hái san trật là R = -0,87 và trên chè hái kĩ là R = -0,92.
3.4.5. Ảnh hưởng của kĩ thuật và thời gian đốn lên mật độ và mối quan hệ
của một số loài côn trùng bắt mồi với sâu hại phổ biến
3.4.5.1. Ảnh hưởng của kĩ thuật đốn
Bảng 3.21. Ảnh hưởng của kĩ thuật đốn lên mật độ của một số loài côn trùng bắt
mồi và sâu hại phổ biến trên chè tại Phú Thọ trong năm 2016
Tên côn trùng
bắt mồi/vật
mồi
Công
thức điều
tra
Mật độ (con/m2) theo tháng điều tra Mật
độ
trung
bình
1 2 3 4 5 6
Bọ xít nâu đen
nhỏ bắt mồi
Orius sauteri
Đốn đau 1,87 1,81 1,55 1,23 1,19 2,24 1,65b
Đốn phớt 2,56 2,48 2,40 1,50 1,60 2,40 2,16a
LSD0,05 0,09
Bọ trĩ
Physothrips
setiventris
Đốn đau 6,40 9,50 22,60 38,50 27,70 26,20 21,80a
Đốn phớt 4,10 6,50 9,00 35,20 22,40 20,50 16,30b
LSD0,05 0,85
Tỷ lệ bọ xít
nâu đen nhỏ
bắt mồi:Bọ trĩ
Đốn đau 1:13
Đốn phớt 1:8
Bọ xít cổ
ngỗng đen bắt
mồi Sycanus
croceovittatus
Đốn đau 0,59 0,72 0,67 0,53 0,69 0,49 0,62b
Đốn phớt 0,77 0,85 0,90 0,76 0,91 0,83 0,84a
LSD0,05 0,04
113
Tập hợp sâu
hại chè bộ
cánh vẩy
Đốn đau 1,46 1,30 1,20 1,48 1,58 1,88 1,48a
Đốn phớt 1,14 1,11 1,06 1,10 1,28 1,26 1,16b
LSD0,05 0,06
Tỷ lệ bọ xít cổ
ngỗng đen :
Tập hợp sâu
cánh vẩy
Đốn đau 1:3
Đốn phớt
1:2
Tập hợp bọ xít
bắt mồi
Đốn đau 4,15 4,29 4,15 3,48 3,03 3,45 3,76b
Đốn phớt 4,42 4,62 4,62 3,94 3,65 4,43 4,28a
LSD0,05 0,21
Rầy xanh
Empoasca
flavescens
Đốn đau 24,48 36,84 49,80 62,40 71,40 44,40 48,22a
Đốn phớt 15,36 23,16 35,40 58,08 65,40 39,00 39,40b
LSD0,05 1,56
Tỷ lệ Tập hợp
bọ xít bắt
mồi:Rầy xanh
Đốn đau 1:13
Đốn phớt 1:9
Bọ rùa đỏ
Micraspis
discolor
Đốn đau 1,39 1,03 0,45 1,17 1,71 1,74 1,25b
Đốn phớt 2,56 3,95 2,06 2,43 3,32 2,54 2,81a
LSD0,05 0,10
Bọ rùa 6 vằn
Menochilus
sexmaculatus
Đốn đau 1,60 1,30 0,53 1,17 1,71 1,68 1,33b
Đốn phớt 2,56 2,20 2,52 3,07 3,00 3,13 2,75a
LSD0,05 0,12
Tập hợp bọ rùa
bắt mồi
Đốn đau 3,39 2,73 1,37 2,74 3,82 3,82 2,98b
Đốn phớt 5,62 6,65 5,08 6,00 6,82 6,17 6,06a
LSD0,05 0,22
Rệp muội nâu
đen Toxoptera
theicola
Đốn đau 48,20 58,50 48,20 16,20 19,50 41,70 38,72a
Đốn phớt 9,00 14,20 28,40 12,20 8,20 7,50 13,32b
LSD0,05 0,68
Tỷ lệ Bọ rùa
đỏ:Rệp muội
nâu đen
Đốn đau 1:31
Đốn phớt 1:5
Tỷ lệ Bọ rùa 6
vằn:Rệp muội
nâu đen
Đốn đau 1:29
Đốn phớt 1:5
Tỷ lệ tập hợp
bọ rùa:Rệp
muội nâu đen
Đốn đau 1:13
Đốn phớt 1:2
Ghi chú: Chè đốn tháng 12 năm 2015. Các chữ số khác nhau thể hiện sự sai khác
theo cột ở mức 0,05% (ANOVA).
114
Đốn chè là một kĩ thuật cơ bản trong sản xuất chè. Đốn chè sẽ tạo ra cành
mới, tăng cường bộ tán lá, tạo hình, năm sau thu hoạch được nhiều búp hơn. Thông
thường đốn chè được thực hiện một lần trong năm, đôi khi cũng thực hiện theo chu
kì 3 – 4 năm một lần. Ở Phú Thọ, chè thường được đốn một lần mỗi năm từ tháng 12
đến tháng 2 năm sau. Một số địa phương, theo yêu cầu của thị trường, một phần diện
tích chè được đốn theo phương pháp rải vụ để có chè thu hoạch trong các tháng mùa
đông và mùa xuân. Tùy thuộc vào mục đích tạo hình chè mà có các kĩ thuật đốn khác
nhau (đốn đau và đốn phớt). Để tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi đã điều tra mật độ sâu
hại, côn trùng bắt mồi và tính mối hệ số tương quan giữa chúng ở các phương thức
và thời gian đốn khác nhau trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 10 năm
2016. Kết quả được ghi lại tại bảng 3.21, cụ thể như sau:
Mật độ bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Orius sauteri (Poppius) trung bình trên
nương chè đốn đau (1,65 con/m2) thấp hơn trên nương chè đốn phớt (2,16 con/m
2).
Một trong những nguyên nhân gây nên sự sai khác này là do đốn chè làm thay đổi
khu vực cư trú, vị trí đẻ trứng của côn trùng bắt mồi nên sẽ ảnh hưởng không nhỏ
đến mật độ của côn trùng bắt mồi. Trong 6 tháng sau khi đốn thì mật độ các giống
côn trùng bắt mồi (bọ xít nâu nhỏ bắt mồi, bọ xít cổ ngỗng, tập hợp bọ xít bắt mồi,
bọ rùa đỏ, bọ rùa 6 vằn và tập hợp bọ rùa) ở nương chè đốn đau luôn thấp hơn ở
nương chè đốn phớt. Điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về sinh thái nơi ở và
tập tính đẻ trứng. Côn trùng bắt mồi luôn có xu hướng đẻ trứng ở nơi kín đáo như
cây rậm rạp, gốc thân, kẽ lá…. Khi đốn đau làm tán lá chè bị giảm đi đáng kể, côn
trùng bắt mồi lập tức di chuyển đi nơi khác để cư trú và sinh sản. Mặc dù ở nương
chè đốn đau có mật độ sâu hại cao có nghĩa là thức ăn của côn trùng bắt mồi dồi dào.
Nhưng các loài côn trùng bắt mồi thường không ở lại quá lâu tại nơi chúng bắt mồi.
Đa số các loài côn trùng bắt mồi đều là các loài di chuyển xa và nhanh nhẹn nên
chúng vẫn đến ăn mồi tại nương chè đốn đau nhưng không lưu trú lâu tại đây. Khi
điều tra sẽ thấy mật độ côn trùng bắt mồi ở nương chè đốn đau thấp hơn ở nương chè
đốn phớt. Corbet (1973) [122] theo dõi tập tính của bọ rùa Cycloneda limbifer (Say)
cho biết trưởng thành bọ rùa bắt mồi thường không ở lại quá lâu nơi chúng bắt mồi,
nếu không đẻ trứng, chúng sẽ di chuyển hoặc bay đi sau vài phút, dài nhất ghi nhận
chúng lưu lại 1 tiếng.
115
Bên cạnh đó, đối với mật độ của bọ trĩ (Physothrips setiventris) cũng có sự sai
khác ở chè đốn đau và chè đốn phớt. Cụ thể là mật độ bọ trĩ trung bình trên chè đốn
đau (21,8 con/m2) cao hơn nương chè đốn phớt (16,3 con/m
2). Kết quả của nghiên
cứu này phù hợp kết quả nghiên cứu của Nguyễn Khắc Tiến (1986) [36] cho rằng rầy
xanh hại nặng trên chè đốn đau, chè con và chè chăm sóc ít và của Lê Thị Nhung
(2002) [33] công bố điều tra từ tháng 12/1998 đến tháng 02/1999 thì chè đốn đau có
mật độ rầy xanh là 13,40 con/khay cao hơn 3,6 lần so với rầy xanh ở chè đốn phớt
(3,7 con/khay). Sở dĩ như vậy vì các loài sâu hại chủ yếu sống và đẻ trứng ở búp chè.
Đốn khác với hái, nếu hái thì chỉ mang đi phần búp chè thì đốn dù đốn đau hay đốn
phớt đều mang đi toàn bộ búp chè khỏi ruộng và một phần bộ cành, tán già tùy theo
mức độ đốn đau hay đốn phớt. Như vậy hai hình thức đốn nêu trên đều loại bỏ khỏi
nương chè một lượng sâu hại tương đương nhau. Lúc này yếu tố gây nên sự khác
biệt về mật độ chủ yếu nằm ở chính sức đề kháng của cây chè. Đỗ Ngọc Quĩ (1989)
[35] cũng cho biết bộ lá chừa sau khi đốn càng nhiều thì búp chè sinh trưởng càng
mạnh. Như vậy chè đốn phớt sẽ sinh trưởng mạnh hơn, có sức đề kháng tốt hơn với
các loài sâu hại. Tỷ lệ số lượng bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi : số lượng bọ trĩ rất khác
nhau ở các kĩ thuật đốn chè khác nhau. Trên chè đốn đau tỷ lệ này là 1:13 và trên chè
đốn phớt là 1:8.
Mật độ bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus Dohrn trung bình
trên chè đốn đau là 0,62 con/m2 thấp hơn so mật độ này trên chè đốn phớt (0,84
con/m2). Mật độ của tập hợp sâu cánh vẩy hại chè cũng có sự sai khác ở chè đốn đau
và chè đốn phớt. Mật độ tập hợp sâu cánh vẩy trung bình trên chè đốn đau là 1,48
con/m2 cao hơn trên chè đốn phớt (1,16 con/m
2). Tỷ lệ số lượng bọ xít cổ ngỗng đen
bắt mồi : số lượng tập hợp sâu cánh vẩy trên chè đốn đau là 1:3 và trên chè đốn phớt
là 1:2.
Mật độ tập hợp bọ xít bắt mồi trung bình trên nương chè đốn đau là 3,76
con/m2
thấp hơn trên nương chè đốn phớt (4,28 con/m2). Mật độ rầy xanh Empoasca
flavescens Fabricius cũng có sự sai khác ở chè đốn đau và chè đốn phớt. Mật độ rầy
xanh trung bình trên nương chè đốn đau là 48,22 con/m2 cao hơn trên nương chè đốn
phớt (39,40 con/m2). Tư đó, kĩ thuật đốn chè cũng làm sai khác tỷ lệ số lượng giữa
chũng. Tỷ lệ số lượng tập hợp bọ xít bắt mồi : số lượng rầy xanh trên chè đốn đau là
1:13 và trên chè đốn phớt là 1:9.
116
Đối với nhóm bọ rùa bắt mồi và vật mồi của chúng cũng xảy ra điều tương tự.
Mật độ bọ rùa đỏ Micraspis discolor (Fabricius) trung bình ở công thức chè đốn đau
là 1,25 con/m2 thấp hơn ở công thức chè đốn phớt (2,81 con/m
2). Mật độ bọ rùa 6
vằn Menochilus sexmaculatus (Fabricius) trung ở công thức chè đốn đau 1,33 con/m2
thấp hơn ở công thức chè đốn phớt (2,75 con/m2). Mật độ tập hợp bọ rùa bắt mồi
trung bình ở công thức chè đốn đau là 2,98 con/m2 thấp hơn ở công thức chè đốn
phớt (6,06 con/m2). Và vật mồi của bọ rùa là rệp muội nâu đen hại chè Toxoptera
aurantii Fonscolombe cũng có sự sai khác mật độ ở chè đốn đau và đốn phớt. Mật độ
rệp muội nâu đen trung bình trên chè đốn đau là 38,32 con/m2 cao hơn ở công thức
chè đốn phớt (13,32 con/m2). Tỷ lệ số lượng bọ rùa đỏ : rệp muội nâu đen trên chè
đốn đau là 1:31 và trên chè đốn phớt là 1:30. Tỷ lệ bọ rùa 6 vằn : rệp muội nâu đen
trên chè đốn đau là 1:29 và trên chè đốn phớt là 1:5. Tỷ lệ tập hợp bọ rùa : rệp muội
nâu đen trên chè đốn đau là 1:13 và trên chè đốn phớt là 1:2.
Bảng 3.22. Ảnh hƣởng của kĩ thuật đốn lên mối quan hệ giữa một số loài côn
trùng bắt mồi với vật mồi (sâu hại phổ biến) trên chè tại Phú Thọ năm 2016
STT Mối quan hệ giữa côn trùng bắt mồi với
vật mồi
Hệ số tƣơng quan (R)
Đốn đau Đốn phớt
1. Bọ xít nâu nhỏ bắt mồi với bọ trĩ -0,49 -0,71
2. Bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi với tập hợp sâu
cánh vẩy -0,81 -0,83
3. Tập hợp bọ xít bắt mồi với rầy xanh -0,29 -0,71
4. Bọ rùa đỏ với rệp muội nâu đen -0,47 -0,92
5. Bọ rùa 6 vằn với rệp muội nâu đen -0,63 -0,79
6. Tập hợp bọ rùa bắt mồi với rệp muội nâu đen -0,65 -0,89
Côn trùng bắt mồi thể hiện vai trò khống chế sâu hại ở các mức độ khác nhau
trên chè đốn đau và chè đốn phớt. Xét 6 cặp côn trùng bắt mồi và sâu hại phổ biến
trên chè đốn đau và đốn phớt cho thấy : Trên chè đốn phớt thì mối quan hệ giữa bọ
xít nâu đen nhỏ bắt mồi với bọ trĩ, bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi với tập hợp sâu cánh
vẩy, tập hợp bọ xít bắt mồi rầy xanh, bọ rùa đỏ với rệp muội nâu đen, bọ rùa 6 vằn
với rệp muội nâu đen và tập hợp bọ rùa bắt mồi với rệp muội nâu đen thể hiện là
tương quan nghịch chặt và rất chặt. Trên chè đốn đau các mối tương quan thể hiện
yếu hơn.
117
Cụ thể là mối quan hệ giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi với bọ trĩ trên chè đốn
đau ít chặt chẽ hơn trên chè đốn phớt, hệ số tương quan giữa chúng trên chè đốn đau
là R = -0,49 và trên chè đốn phớt là R = -0,71. Mối quan hệ giữa bọ xít cổ ngỗng đen
bắt mồi với tập hợp sâu bộ cánh vẩy trên chè đốn đau ít chặt chẽ hơn trên chè đốn
phớt, hệ số tương quan giữa chúng trên chè đốn đau là R = -0,81 và trên chè đốn
phớt là R = -0,83. Mối quan hệ giữa tâp hợp bọ xít bắt mồi với rầy xanh trên chè đốn
đau ít chặt chẽ hơn trên chè đốn phớt, hệ số tương quan giữa chúng trên chè đốn đau
là R = -0,29 và trên chè đốn phớt là R = -0,71. Mối quan hệ giữa bọ rùa đỏ với rệp
muội nâu đen trên chè đốn đau ít chặt chẽ hơn trên chè đốn phớt, hệ số tương quan
giữa chúng trên chè đốn đau là R = -0,47 và trên chè đốn phớt là R = -0,92. Mối quan
hệ giữa bọ rùa 6 vằn với rệp muội nâu đen trên chè đốn đau ít chặt chẽ hơn trên chè
đốn phớt, hệ số tương quan giữa chúng trên chè đốn đau là R = -0,63 và trên chè đốn
phớt là R = -0,79. Mối quan hệ giữa tập hợp bọ rùa bắt mồi với rệp muội nâu đen
trên chè đốn đau ít chặt chẽ hơn trên chè đốn phớt, hệ số tương quan giữa chúng trên
chè đốn đau là R = -0,65 và trên chè đốn phớt là R = -0,89.
Trong nghiên cứu này, kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của kĩ thuật đốn đến sâu
hại thì phù hợp nhưng kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của kĩ thuật đốn đến thiên
địch thì khác với kết quả của Lê Thị Nhung (2000) [33] nghiên cứu về ảnh hưởng
của kĩ thuật đốn chè đến mật độ sâu hại và tập hợp thiên địch. Tác giả điều tra tháng
2/1999 tại Phú Thọ ghi nhận kĩ thuật đốn có ảnh hưởng đến mật độ sâu hại nhưng
không ảnh hưởng đến mật độ thiên địch, trên chè đốn đau và chè đốn phớt có mật độ
thiên địch như nhau, đều bằng 0,60 con/khay, số loài thiên địch/số lần điều tra trên
chè đốn đau là 2,30 loài sai khác không có ý nghĩa với trên chè đốn phớt (2,20 loài).
3.4.5.2. Ảnh hưởng của thời gian đốn
Nguyễn Văn Thiệp (2000) [42] cho biết đốn chè sẽ tạo cành mới, tăng cường
độ tán lá, tăng búp. Chè đốn tháng 12 và chè để lưu có mật độ rầy trung bình từ
tháng 1 đến tháng 6 hàng năm cao hơn chè đốn vào tháng 1 và tháng 2 từ tháng 6
trở đi mật độ rầy xanh trở về trạng thái bình thường. Để tìm hiểu vấn đề này
chúng tôi đã bố trí thí nghiệm, theo dõi, xử lý thống kê, kết quả được ghi lại tại
bảng 3.23 và 3.24.
118
Bảng 3.23. Ảnh hƣởng của thời gian đốn lên mật độ của một số loài côn trùng bắt mồi và sâu hại phổ biến trên chè
tại Phú Thọ trong năm 2016
Tên côn trùng bắt
mồi/vật mồi
Công thức
điều tra
Mật độ (con/m2) theo tháng điều tra
1 2 3 Trung bình từ
tháng 1- 3 4 5 6
Trung bình từ
tháng 4 - 6
Bọ xít nâu đen nhỏ bắt
mồi Orius sauteri
Đốn sớm 2,57 2,46 2,11 2,38a
1,41 1,90 2,34 1,88a
Đốn muộn 1,96 1,90 1,63 1,83b
1,27 1,69 2,16 1,71a
LSD0,05 0,23 0,35
Bọ trĩ Physothrips
setiventris
Đốn sớm 3,80 7,00 17,40 9,40a
37,90 25,20 22,90 28,70a
Đốn muộn 1,90 5,10 18,40 8,50b
36,30 26,00 24,00 28,80a
LSD0,05 0,45 0,28
Tỷ lệ Bọ xít nâu nhỏ bắt
mồi:Bọ trĩ
Đốn sớm 1:4 1:15
Đốn muộn 1:5 1:17
Bọ xít cổ ngỗng đen bắt
mồi Sycanus
croceovittatus
Đốn sớm 1,28 1,10 0,91 1,10a
0,77 0,61 0,55 0,64a
Đốn muộn 1,00 0,99 0,75 0,91b
0,45 0,36 0,85 0,65a
LSD0,05 0,02 0,36
Tập hợp sâu hại chè bộ
cánh vẩy
Đốn sớm 1,84 2,06 2,56 2,15a
3,16 3,60 3,66 3,47a
Đốn muộn 1,68 1,60 2,36 1,88b
2,92 3,50 3,68 3,37a
LSD0,05 0,20 0,32
Tỷ lệ Bọ xít cổ ngỗng
đen bắt mồi : Tập hợp
sâu cánh vẩy
Đốn sớm 1:2 1:5
Đốn muộn 1:2 1:6
Tập hợp bọ xít bắt mồi
Đốn sớm 5,01 5,00 4,26 4,76a
3,55 3,18 3,70 3,48a
Đốn muộn 4,12 4,02 4,02 4,05b
3,44 2,56 3,44 3,15a
LSD0,05 0,33 0,49
Rầy xanh Empoasca Đốn sớm 12,48 41,64 46,80 33,64a
60,96 67,20 45,60 57,92a
119
flavescens Đốn muộn 6,72 20,04 45,00 23,92b
61,92 69,00 45,00 58,64a
LSD0,05 5,62 3,82
Tỷ lệ Tập hợp bọ xít bắt
mồi :Rầy xanh
Đốn sớm 1:7 1:17
Đốn muộn 1:6 1:19
Bọ rùa đỏ Micraspis
discolor
Đốn sớm 5,78 5,60 2,95 4,78a
2,45 3,68 3,73 3,29a
Đốn muộn 1,38 1,01 0,89 1,09b
1,03 1,67 1,74 1,48b
LSD0,05 1,54 1,17
Bọ rùa 6 vằn Menochilus
sexmaculatus
Đốn sớm 8,53 5,25 3,63 5,80a
3,09 3,46 4,66 3,74a
Đốn muộn 1,58 1,25 0,97 1,27b
0,89 1,50 1,75 1,38b
LSD0,05 2,15 1,37
Tập hợp bọ rùa bắt mồi Đốn sớm 14,81 11,35 7,08 11,08a
6,03 7,64 8,89 7,52a
Đốn muộn 3,36 2,66 2,26 2,76b
2,32 3,57 3,89 3,26b
LSD0,05 3,58 2,10
Rệp muội nâu đen
Toxoptera theicola
Đốn sớm 45,50 72,50 146,00 88,0a
71,50 47,00 38,00 52,17a
Đốn muộn 31,50 57,50 114,00 67,67b
79,00 46,00 38,50 54,50a
LSD0,05 6,80 3,67
Tỷ lệ Bọ rùa đỏ:Rệp
muội nâu đen
1:18 1:16
1:62 1:37
Tỷ lệ Bọ rùa 6 vằn:Rệp
muội nâu đen
Đốn sớm 1:15 1:14
Đốn muộn 1:53 1:39
Tỷ lệ tập hợp bọ rùa:Rệp
muội nâu đen
Đốn sớm 1:8 1:7
Đốn muộn 1:25 1:17
Ghi chú: Đốn sớm (tháng 12); đốn muộn (tháng 1-2). Các chữ số khác nhau thể hiện sự sai khác theo cột ở mức 0,05% (ANOVA).
120
Mật độ bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Orius sauteri (Poppius) trung bình trong 3
tháng đầu năm 2016 trên nương chè đốn sớm (2,38 con/m2) cao hơn trên nương chè
đốn muộn (1,83 con/m2). Nhưng trong 3 tháng tiếp theo thì mật độ này không khác
nhau có ý nghĩa thống kê trên hai công thức, mật độ này trên chè đốn sớm là 1,88
con/m2 và đốn muộn là 1,71 con/m
2. Một trong những nguyên nhân đó là côn trùng
bắt mồi luôn có xu hướng đẻ trứng ở nơi kín đáo như cây rậm rạp, gốc thân, lá già, lá
bánh tẻ, hoặc không đẻ trứng ở cây kí chủ mà đẻ trên các cây trồng xen, cỏ dại… Khi
đốn phớt chè thì mang đi một lượng lớn trứng và ấu trùng sâu hại chè nhưng không
ảnh hưởng nhiều đến trứng và ấu trùng côn trùng bắt mồi. Như vậy khi mật độ ban
đầu như nhau thì nơi nào có nhiều thức ăn hơn thì nơi đó sẽ có mật độ côn trùng bắt
mồi cao hơn. Theo kết quả ghi lại tại bảng 3.23 thì mật độ sâu hại trên chè đốn sớm
trong 3 tháng đầu năm đều cao hơn ở chè đốn muộn. Vì vậy mật độ côn trùng bắt
mồi (bọ xít cổ ngỗng, bọ xít đầu tròn, tập hợp bọ xít bắt mồi, bọ rùa đỏ, bọ rùa 6 vằn,
tập hợp bọ rùa) ở chè đốn sớm, trong 3 tháng đầu năm đều cao hơn trên chè đốn
muộn, từ tháng 4 trở đi không có sự sai khác. Kết quả này phù hợp với kết quả
nghiên cứu của Lê Thị Nhung (2002) [33] theo dõi mật độ tâp hợp thiên địch trong
tháng 1/1999 cho biết mật độ tập hợp thiên địch trên chè đốn sớm (0,52 con/khay)
cao hơn trên chè đốn muộn (0,40 con/khay).
Đối với bọ trĩ Physothrips setiventris Bagnall thì cũng chia thành 2 giai đoạn
tương tự. Trong 3 tháng đầu năm mật độ này trên nương chè đốn sớm (9,4 con/m2)
cao hơn trên nương chè đốn muộn (8,5 con/m2). Nhưng trong 3 tháng tiếp theo thì
mật độ này không khác nhau có ý nghĩa thống kê trên hai công thức, mật độ này trên
chè đốn sớm là 28,7 con/m2 và đốn muộn là 28,8 con/m
2. Một trong những nguyên
nhân đó là nguồn thức ăn của chúng. Chè đốn tháng 12 (đốn sớm) thì sang tháng 1
cây chè đang trong giai đoạn phục hồi, búp chè bắt đầu phát triển nên kéo theo sâu
hại phát sinh và tăng dần mật độ theo sự gia tăng của búp chè. Trong khi đó chè đốn
tháng 1-2 (đốn muộn) thì phải sang tháng 3 cây chè mới bắt đầu ra búp mới kéo theo
sự phát sinh của sâu hại từ tháng 3. Đồng thời bản thân công việc đốn chè đã mang đi
một lượng lớn nguồn sâu hại nên phải có một thời gian để sâu hại phục hồi quần thể.
Vì vậy từ tháng 1 đến tháng 3, mật độ sâu hại trên nương chè đốn sớm sẽ cao hơn ở
121
nương chè đốn muộn. Từ tháng 4 trở đi, tốc độ phát triển của búp chè và tốc độ phục
hồi quần thể sâu hại ở nương chè đốn muộn đã theo kịp nương chè đốn sớm nên mật
độ sâu hại giữa hai nương chè không còn sự sai khác. Theo Lê Thị Nhung (2002)
[33] điều tra tháng 1-2/1999 tại Phú Thọ, tức là giai đoạn 3 tháng sau đốn thì mật độ
rầy xanh trên chè đốn sớm trung bình là 5,80 con/khay cao hơn trên chè đốn muộn
(1,00 con/khay). Tuy nhiên, giai đoạn sau đó thì ngược lại, theo Nguyễn Văn Thiệp
(2000) [42], trong cao điểm rầy tháng 5-6 thì mặc dù mật độ rầy ở hai công thức là
như nhau nhưng tỷ lệ búp bị rầy hại ở công thức đốn muộn cao hơn ở công thức đốn
sớm. Tỷ lệ búp bị rầy xanh hại ở công thức chè đốn tháng 1,2 là nặng nhất tương ứng
là 78,48% và 82,38%, ở công thức đốn tháng 12 là 59,87%, chè để lưu là 42,49%.
Tỷ lệ số lượng bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi: số lượng bọ trĩ có sự phân khúc
thành hai giai đoạn rõ rệt là giai đoạn 3 tháng đầu năm và giai đoạn từ 3 tháng tiếp
theo. Trong 3 tháng đầu năm, tỷ lệ này không khác nhau nhiều, trên chè đốn sớm tỷ
lệ này là 1:4 và trên chè đơn muộn là 1:5. Nhưng từ tháng thứ 4 trở đi tỷ lệ này có sự
chệnh lệch ngày càng rõ rệt, trên chè đốn sớm tỷ lệ này là 1:15 và trên chè đốn muộn
là 1:17.
Mật độ bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus Dohrn trung bình
trong 3 tháng đầu năm trên nương chè đốn sớm (1,10 con/m2) cao hơn trên nương
chè đốn muộn (0,91 con/m2). Nhưng trong 3 tháng tiếp theo thì mật độ này không
khác nhau có ý nghĩa thống kê trên hai công thức, mật độ này trên chè đốn sớm là
0,64 con/m2 và đốn muộn là 0,55 con/m
2. Mật độ tập hợp sâu cánh vẩy thì cũng chia
thành 2 giai đoạn tương tự. Từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2016 mật độ này trên nương
chè đốn sớm (2,15 con/m2) cao hơn trên nương chè đốn muộn (1,88 con/m
2). Nhưng
trong 3 tháng tiếp theo thì mật độ này không khác nhau có ý nghĩa thống kê trên hai
công thức, mật độ này trên chè đốn sớm là 3,47 con/m2 và đốn muộn là 3,37 con/m
2.
Tỷ lệ số lượng bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi : số lượng tập hợp sâu cánh vẩy không
khác nhau ở giai đoạn 3 tháng đầu năm mà chỉ khác nhau ở 3 tháng tiếp theo. Từ
tháng 1 đến tháng 3, trên chè đốn sớm tỷ lệ này là 1:2 và trên chè đốn muộn là 1:2.
Từ tháng 4 đến tháng 6, trên chè đốn sớm tỷ lệ này là 1:5 và trên chè đốn muộn là
1:6.
122
Mật độ tập hợp bọ xít bắt mồi trung bình trong 3 đầu năm 2016 trên nương
chè đốn sớm (4,76 con/m2) cao hơn trên nương chè đốn muộn (4,05 con/m
2). Nhưng
trong 3 tháng tiếp theo thì mật độ này không khác nhau có ý nghĩa thống kê, mật độ
này trên chè đốn sớm là 3,48 con/m2 và đốn muộn là 3,15 con/m
2. Mật độ rầy xanh
Empoasca flavescens Fabricius thì cũng chia thành 2 giai đoạn tương tự. Trong 3 đầu
năm mật độ này trên nương chè đốn sớm (33,64 con/m2) cao hơn trên nương chè đốn
muộn (23,92 con/m2). Nhưng trong 3 tháng tiếp theo thì mật độ này không khác nhau
có ý nghĩa thống kê trên hai công thức, mật độ này trên chè đốn sớm là 57,92 con/m2
và đốn muộn là 58,64con/m2. Tuy nhiên, thời gian đốn lại làm tỷ lệ số lượng giữa
chúng khác nhau ở cả hai giai đoạn. Trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 3, trên chè
đốn sớm tỷ lệ này là 1:7 và trên chè đốn muộn là 1:6. Trong giai đoạn từ tháng 4 đến
tháng 6, trên chè đốn sớm tỷ lệ này là 1:17 và trên chè đốn muộn là 1:19.
Mật độ bọ rùa đỏ Micraspis discolor Dohrn, bọ rùa 6 vằn Menochilus
sexmaculatus (Fabricius) và tập hợp bọ rùa bắt mồi trong 6 tháng theo dõi trên chè
đốn sớm đều cao hơn trên chè đốn muộn. Cụ thể mật độ bọ rùa đỏ trung bình trong 3
đầu năm trên nương chè đốn sớm là 4,78 con/m2, trên nương chè đốn muộn là 1,09
con/m2. Và trong 3 tháng tiếp theo thì mật độ này trên chè đốn sớm là 3,29 con/m
2,
trên chè đốn muộn là 1,48 con/m2. Mật độ bọ rùa 6 vằn trong 3 đầu năm trên nương
chè đốn sớm là 5,80 con/m2, trên nương chè đốn muộn là 1,27 con/m
2. Và trong 3
tháng tiếp theo thì mật độ này trên chè đốn sớm là 3,74 con/m2, trên chè đốn muộn là
1,38 con/m2. Mật độ tập hợp bọ rùa bắt mồi trong 3 đầu năm trên nương chè đốn sớm
là 11,08 con/m2, trên nương chè đốn muộn là 2,76 con/m
2. Và trong 3 tháng tiếp theo
thì mật độ này trên chè đốn sớm là 7,52 con/m2 cũng cao hơn trên chè đốn muộn
(3,26 con/m2).
Ngược lại, mật độ của rệp muội nâu đen hại chè Toxoptera aurantii
Fonscolombe thì chia thành 2 giai đoạn. Trong 3 đầu năm (từ tháng 1 đến tháng 3
năm 2016) mật độ này trên nương chè đốn sớm (88,0 con/m2) cao hơn trên nương
chè đốn muộn (67,67 con/m2). Nhưng trong 3 tháng tiếp theo (từ tháng 4 đến tháng 6
năm 2016) thì mật độ này không khác nhau có ý nghĩa thống kê trên hai công thức,
mật độ này trên chè đố sớm là 52,17 con/m2 và đốn muộn là 54,50 con/m
2. Tỷ lệ số
123
lượng bọ rùa đỏ : rệp muội nâu đen có sự chênh lệch rất rõ khi thời gian đốn chè
khác nhau. Trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 3, trên chè đốn sớm tỷ lệ này là
1:18 và trên chè đốn muộn là 1:62. Trong giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 6, trên chè
đốn sớm tỷ lệ này là 1:16 và trên chè đốn muộn là 1:37. Tỷ lệ bọ rùa 6 vằn : rệp muội
nâu đen trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 3, trên chè đốn sớm tỷ lệ này là 1:15 và
trên chè đốn muộn là 1:53. Trong giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 6, trên chè đốn sớm
tỷ lệ này là 1:14 và trên chè đốn muộn là 1:39. Tỷ lệ tập hợp bọ rùa : rệp muội nâu
đen trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 3, trên chè đốn sớm tỷ lệ này là 1:8 và trên
chè đốn muộn là 1:25. Trong giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 6, trên chè đốn sớm tỷ lệ
này là 1:7 và trên chè đốn muộn là 1:17.
Bảng 3.24 . Ảnh hƣởng của thời gian đốn lên mối quan hệ giữa một số loài côn
trùng bắt mồi với vật mồi (sâu hại phổ biến) trên chè tại Phú Thọ năm 2016
STT Mối quan hệ giữa côn trùng bắt mồi với
vật mồi
Hệ số tƣơng quan (R)
Đốn sớm Đốn muộn
2 Bọ xít nâu nhỏ bắt mồi - bọ trĩ -0,84 -0,78
1 Bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi - tập hợp sâu
cánh vẩy -0,95 -0,93
3 Tập hợp bọ xít bắt mồi- rầy xanh -0,72 -0,56
5 Bọ rùa đỏ - rệp muội nâu đen -0,75 -0,64
6 Bọ rùa 6 vằn – rệp muội nâu đen -0,76 -0,53
7 Tập hợp bọ rùa bắt mồi - rệp muội nâu đen -0,72 -0,62
Côn trùng bắt mồi thể hiện vai trò khống chế sâu hại ở các mức độ khác nhau
trên chè đốn sớm và chè đốn muộn. Xét 6 cặp côn trùng bắt mồi và sâu hại phổ biến
trên chè đốn sớm và chè đốn muộn cho thấy : Trên chè đốn sớm thì mối quan hệ giữa
bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi với bọ trĩ, bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi với tập hợp sâu
cánh vẩy, bọ rùa đỏ với rệp muội nâu đen, bọ rùa 6 vằn với rệp muội nâu đen thể
hiện là tương quan nghịch, chặt và rất chặt. Trên chè đốn muộn các mối tương quan
thể hiện yếu hơn.
124
Cụ thể là mối quan hệ giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi với bọ trĩ trên chè đốn
sớm chặt chẽ hơn trên chè đốn muộn, hệ số tương quan giữa chúng trên chè đốn sớm
là R = -0,84 và trên chè đốn muộn là R = -0,71. Mối quan hệ giữa bọ xít cổ ngỗng
đen bắt mồi với tập hợp sâu bộ cánh vẩy trên chè đốn sớm chặt chẽ hơn trên chè đốn
muộn, hệ số tương quan giữa chúng trên chè đốn sớm là R = -0,95 và trên chè đốn
muộn là R = -0,93. Mối quan hệ giữa tâp hợp bọ xít bắt mồi với rầy xanh trên chè
đốn sớm chặt chẽ hơn trên chè đốn muộn, hệ số tương quan giữa chúng trên chè đốn
sớm là R = -0,72 và trên chè đốn phớt là R = -0,56. Mối quan hệ giữa bọ rùa đỏ với
rệp muội nâu đen trên chè đốn sớm chặt chẽ hơn trên chè đốn muộn, hệ số tương
quan giữa chúng trên chè đốn đau là R = -0,75 và trên chè đốn muộn là R = -0,64.
Mối quan hệ giữa bọ rùa 6 vằn với rệp muội nâu đen trên chè đốn sớm chặt chẽ hơn
trên chè đốn muộn, hệ số tương quan giữa chúng trên chè đốn sớm là R = -0,76 và
trên chè đốn phớt là R = -0,53. Mối quan hệ giữa tập hợp bọ rùa bắt mồi với rệp
muội nâu đen trên chè đốn sớm chặt chẽ hơn trên chè đốn muộn, hệ số tương quan
giữa chúng trên chè đốn sớm là R = -0,72 và trên chè đốn muộn là R = -0,62.
3.4.6. Ảnh hưởng của của một số thuốc trừ rầy thường dùng đến mật độ một
số loài côn trùng bắt mồi trên chè tại Yên Lập, Phú Thọ
Theo dõi mật độ rầy xanh ở các nương chè sau khi phun 1, 3, 5, 7 và 10 ngày
cho thấy khi phun thuốc Victory 585 EC thì mật độ rầy giảm mạnh nhất tại thời điểm
7 ngày sau phun (Mật độ rầy xanh trước khi phun thuốc là 28,2 con/m2 giảm xuống
còn 3,39 con/m2 sau khi phun 7 ngày). Đồng nghĩa hiệu lực trừ rầy xanh của Victory
585 EC cao nhất ở 7 ngày sau phun. Mặt khác Victory 585 EC là một thuốc trừ sâu
phổ rộng, thuộc nhóm độc II. Kết quả thí nghiệm cho thấy thuốc này có hiệu lực kéo
dài trên 10 ngày. Vì vậy thời gian cách ly dài, chỉ phù hợp khi sử dụng cho chè hái
máy. Đối với chè hái tay, thời gian thu hái liên tục, vì vậy cần sử dụng các loại thuốc
có hiệu lực ngắn, thời gian cách ly càng ngắn càng tốt.
125
Bảng 3.25. Mật độ trung bình của rầy xanh ở các công thức phun thuốc khác
nhau tại nông trƣờng chè Phúc Khánh, Yên Lập, Phú Thọ
T
T
Tên
công
thức
Liều
lƣợng/ha
Mật độ trung bình rầy xanh (con/m2) LSD
0,05 Trƣớc
phun 1NSP 3NSP 5NSP 7NSP 10NSP
1 Victory
585 EC
600-
800ml
+500l
nước
28,20
± 2,40
23,40
±2,70
22,41
±0,15
9,78
±3,00
3,39
±2,70
20,19
± 2,10 1,95
2 Mopride
20WP
0,2-
0,5kg+50
0l nước
25,17
±3,30
20,19
±1,80
17,01
±2,40
4,20
±1,08
9,39
±2,40
26,04±
1,80 1,55
3 Actador
100WP
0,5-
0,6kg+50
0l nước
28,80
±3,90
20,19
±3,60
17,01
±2,70
11,79
±3,60
5,19
±3,30
16,41
±2,70 1,35
Ghi chú: NSP- ngày sau phun
Khi phun thuốc Mopride 20WP thì mật độ rầy xanh giảm mạnh tại thời điểm 5
ngày sau phun (Mật độ rầy xanh trước khi phun thuốc là 25,17 con/m2 giảm xuống
còn 4,2 con/m2 sau khi phun 5 ngày). Đồng nghĩa hiệu lực trừ rầy xanh của Mopride
20WP đạt cao nhất lúc 5 ngày sau phun. Mặt khác thời gian tác động của thuốc này
ngắn hơn Victory 585 EC. Đến ngày thứ 10 sau khi phun hiệu lực thuốc rất yếu, rầy
xanh lại bắt đầu có dấu hiệu phục hồi quần thể. Với thời gian tác động ngắn như vậy
loại thuốc này có thể sử dụng cho cả chè hái tay và hái máy.
Khi phun thuốc Actador 100WP thì mật độ rầy xanh giảm mạnh nhất tại thời
điểm 7 ngày sau phun (Mật độ rầy xanh trước khi phun thuốc là 28,8 con/m2 giảm
xuống còn 5,19 con/m2 sau khi phun 7 ngày). Đồng nghĩa hiệu lực trừ rầy xanh của
Actador 100WP cao nhất ở 7 ngày sau phun. Mặt khác, thời gian tác động của thuốc
kéo dài trên 10 ngày. Như vậy khi sử dụng loại thuốc này thời gian cách ly dài, chỉ
phù hợp với chè hái máy.
126
Bảng 3. 26. Ảnh hƣởng của một số loại thuốc trừ rầy thƣờng dùng đến tập hợp bọ rùa bắt mồi tại nông trƣờng chè
Phúc Khánh, Yên Lập, Phú Thọ
Loại thuốc Lƣợng dùng/ha
Mật độ
trƣớc
phun
Mật độ (con/m2) và tỷ lệ (%) tập hợp bọ rùa bắt mồi sau phun thuốc
1 ngày 3 ngày 5 ngày 7 ngày 10 ngày
MĐ TL MĐ TL MĐ TL MĐ TL MĐ TL
Victory 585 EC 600-800ml +500l nước 3,00 2,01 66,70 1,20 40,00 0,39 13,30 0,39 13,30 0,21 6,67
Mopride 20WP 0,2-0,5kg+500l nước 3,39 3,00 88,20 0,99 29,40 0,60 17,60 0,39 11,80 0,39 11,8
Actador 100WP 0,5-0,6kg+500l nước 3,36 2,19 61,10 1,41 38,90 0,60 16,70 0,21 5,56 0,39 11,1
Bảng 3. 27. Ảnh hƣởng của một số loại thuốc trừ rầy thƣờng dùng đến tập hợp bọ xít bắt mồi tại nông trƣờng chè Phúc
Khánh, Yên Lập, Phú Thọ
Loại thuốc Lƣợng dùng/ha
Mật
độ
trƣớc
phun
Mật độ (con/m2) và tỷ lệ (%) tập hợp bọ xít bắt mồi sau phun thuốc
1 ngày 3 ngày 5 ngày 7 ngày 10 ngày
MĐ TL MĐ TL MĐ TL MĐ TL MĐ TL
Victory 585 EC 600-800ml +500l nước 3,50 2,20 62,86 1,40 40,00 0,40 11,43 0,20 5,71 0,20 5,71
Mopride 20WP 0,2-0,5kg+500l nước 3,20 2,80 87,50 1,20 37,50 0,60 18,75 0,40 12,50 0,20 6,25
Actador 100WP 0,5-0,6kg+500l nước 3,60 2,40 66,67 1,60 44,44 0,40 11,11 0,20 5,55 0,20 5,56
Ghi chú: MĐ – Mật độ, TL – Tỷ lệ
127
Thuốc trừ sâu hóa học có hiệu quả phòng sâu hại trừ rất cao và rất nhanh,
nhưng đồng thời ảnh hưởng rất lớn đến mật độ côn trùng bắt mồi trên nương chè. Kết
quả ghi lại tại bảng 3.26 và 3.27 và cho thấy mật độ, tỷ lệ tập hợp bọ rùa bắt mồi và bọ
xít bắt mồi trên nương chè giảm mạnh sau khi phun thuốc. Đến thời điểm 5-10 ngày
sau phun mật độ giảm xuống rất thấp chỉ bằng 5-20% so với trước khi phun. Vậy IPM
trên chè trong phạm vi bảo vệ thực vật là phải làm sao giải quyết hài hòa mâu thuẫn
giữa hiệu lực trừ sâu hại và tác hại đến quần thể thiên địch. Tùy từng giai đoạn và tình
hình cụ thể để quyết định các biện pháp sinh học hay biện pháp hóa học hoặc kết hợp
nhiều biện pháp, lưu ý lựa chọn các loại thuốc ít độc với thiên địch để đảm bảo cân
bằng sinh thái, sản xuất bền vững, sản phẩm an toàn.
128
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Kết luận
1. Tại Phú Thọ đã ghi nhận 56 loài côn trùng gây hại trên chè thuộc 8 bộ và 3
họ. Trong đó ghi nhận mới 3 loài sâu hại chè cho tỉnh Phú Thọ gồm: Sâu đo Biston
suppressaria Guence, Bọ nẹt xanh không gai Chalcocelis albigutata Snellen và Sâu
cuốn lá Archips sp. Có 3 loài gây hại xuất hiện phổ biến là rầy xanh E. flavescens, bọ
trĩ P. setiventris, rệp muội nâu đen T. aurantii. Rầy xanh có 2 cao điểm là tháng 5 và
tháng 9. Bọ trĩ có 1 cao điểm vào tháng 8. Rệp muội xuất hiện nhiều vào mùa khô và
không có cao điểm rõ ràng.
2. Tại Phú Thọ ghi nhận 51 loài côn trùng bắt mồi trên chè thuộc 7 bộ và 15
họ. Trong đó, có 1 loài được mô tả mới cho khoa học (Polistes communalis Nguyen,
Vu & Carpenter, 2017), 4 loài bắt mồi ghi nhận mới trên chè tại Phú Thọ gồm C.
lividipennis Reuter, P. peramatus Uhler, A. spinidens Fabricius, O. sauteri (Poppius).
Có 4 loài xuất hiện phổ biến gồm Bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi S. croceovittatus
Dohrn, bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi O. sauteri (Poppius), bọ rùa 6 vằn M. sexmaculatus
(Fabricius) và bọ rùa đỏ M. discolor (Fabricius).
3. Mật độ loài bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi thường cao nhất vào tháng 6, sau đó
lại giảm dần và thấp nhất vào tháng 12. Bọ xít nâu nhỏ bắt mồi xuất hiện quanh năm
trên chè, có hai điểm cao vào tháng 5 và tháng 10 và mật độ tập hợp bọ xít bắt mồi có
1 điểm cao vào tháng 7 và 8. Bọ rùa đỏ xuất hiện quanh năm trên nương chè với mật
độ khác nhau, có 2 điểm cao vào tháng 6 và tháng 11 hàng năm. Bọ rùa 6 vằn không
có sự biến động nhiều giữa các tháng trong năm, chúng luôn duy trì quần thể ở mật độ
không cao và đạt mật độ lớn hơn ở các tháng cuối năm và tập hợp bọ rùa bắt mồi có 1
đỉnh cao vào tháng 9 hàng năm
4. Trong 3 năm nghiên cứu, từ tháng 5 đến tháng 10 bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi
O. sauteri có mối tương quan nghịch rất chặt với bọ trĩ (R từ -0,69 đến -0,92), từ
tháng 4 đến tháng 9 bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi S. croceovittatus có mối tương quan
nghịch rất chặt với sâu cánh vẩy (R từ -0,62 đến -0,89) và tập hợp bọ xít bắt mồi có
mối tương quan rất chặt với rầy xanh (R từ -0,77 đến –0,88). Từ tháng 4 đến tháng 7,
bọ rùa đỏ M. discolor có mối tương quan nghịch rất chặt với rệp muội nâu đen (R từ -
0,81 đến -0,93), bọ rùa 6 vằn M. sexmaculatus có mối tương quan nghịch rất chặt với
rệp muội nâu đen (R từ -0,81 đến -0,92).
5. Các yếu tố giống, cây che bóng, kĩ thuật hái chè, kĩ thuật đốn chè, thời gian
đốn và thuốc hóa học có tác động đến mật độ côn trùng gây hại, côn trùng bắt mồi phổ
biến trên chè. Mật độ 2 loài bọ xít bắt mồi O. sauteri và S. croceovittatus trên giống
129
Trung Du, trên chè hái kĩ, trên chè đốn phớt là cao nhất. Mật độ O. Sauteri trên chè có
cây che bóng cao hơn trên chè không có cây che bóng nhưng mật độ S. Croceovittatus
không có sự sai khác. Đối với 2 loài bọ rùa bắt mồi, mật độ M. Discolor và M.
Sexmaculatus trên giống lai (LDP1, LDP2), trên chè có cây che bóng, trên chè hái kĩ,
trên chè đốn phớt là cao nhất. Mật độ cả 4 loài bắt mồi trên đều có sự khác nhau ở 3
tháng đầu năm nhưng không khác nhau ở 3 tháng tiếp theo trên chè đốn sớm và đốn
muộn.
6. Mối quan hệ giữa bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi với bọ trĩ, bọ xít cổ ngỗng đen
bắt mồi với tập hợp sâu cánh vẩy, tập hợp bọ xít bắt mồi với rầy xanh, bọ rùa đỏ, bọ
rùa 6 vằn và tập hợp bọ rùa bắt mồi với rệp muội nâu đen thể hiện là tương quan
nghịch, chặt và rất chặt trên giống lai (LDP1, LDP2), giống TRI777, trên chè có cây
che bóng, trên chè chăm sóc tốt, trên chè hái kĩ, trên chè đốn phớt và trên chè đốn
sớm. Trên chè không có cây che bóng, chè chăm sóc ít, chè hái san trật, chè đốn đau
và trên chè đốn muộn các mối tương quan này thể hiện không chặt và yếu.
Đề nghị
Đề nghị tiếp tục nghiên cứu biện pháp khích lệ, nhân nuôi, thả bổ sung một số
loài côn trùng có vai trò quan trọng trong khống chế sâu hại chè như bọ xít cổ ngỗng
đen bắt mồi (Sycanus croceovittatus Dohrn), bọ xít nâu đen nhỏ bắt mồi Orius sauteri
(Poppius), bọ rùa 6 vằn Menochilus sexmaculatus (Fabricius) và bọ rùa đỏ Micraspis
discolor (Fabricius).
130
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
+ Ghi nhận mới 3 loài sâu hại trên chè ở Phú Thọ. Lần đầu tiên thống kê
thành phần loài côn trùng bắt mồi và ghi nhận mới 5 loài côn trùng bắt mồi trên
chè ở Việt Nam, trong đó mô tả 1 loài mới cho khoa học là Polistes communalis
Nguyen, Vu & Carpenter, 2017
+ Lần đầu tiên cung cấp các dẫn liệu về mối quan hệ giữa một số loài côn
trùng bắt mồi với sâu hại phổ biến trên chè, cũng như ảnh hưởng của các yếu tố
sinh thái lên mối quan hệ này tại điểm nghiên cứu. Bổ sung một số dẫn liệu mới
về biến động số lượng của một số loài côn trùng bắt mồi phổ biến trên chè.
131
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN
1. Vũ Thị Thương, Trương Xuân Lam, Nguyễn Thị Phương Liên. Nghiên cứu
bước đầu thành phần bọ rùa, bọ xít bắt mồi và mối quan hệ giữa một số loài bắt mồi
phổ biến với sâu hại trên cây chè ở Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ. Báo cáo khoa học về Sinh
thái và Tài nguyên sinh vật hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ 6, trang 1712 – 1718.
2. Vũ Thị Thương, Trương Xuân Lam, Nguyễn Thị Phương Liên, Bùi Ngân Tâm.
Ảnh hưởng của cây che bóng đến mật độ của các loài côn trùng bắt mồi, sâu hại
chính trên chè và mối quan hệ giữa bọ rùa với rệp hại chè tại Phú Thọ. Báo cáo khoa
học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ 7, trang
1949 – 1953.
3. Lien Thi Phuong Nguyen, Thuong Thi Vu, John X. Q. Lee and James M.
Carpenter. Taxonomic notes on the Polistesstigma group (Hymenoptera, Vespidae:
Polistinae) from continental Southeast Asia, with descriptions of three new species and a
key to species. Raffles bulletin of Zoology Journal. No. 65: 269 – 279.
4. Vũ Thị Thương, Trương Xuân Lam, Nguyễn Thị Phương Liên, Hoàng Gia
Minh. Hiệu quả phòng trừ rầy xanh của một số thuốc trừ sâu thường dùng và ảnh
hưởng của chúng đến tập hợp thiên địch trên chè tại Phú Thọ. Báo cáo khoa học hội
nghị Côn trùng quốc gia lần thứ 9, trang 710 – 714.
5. Vũ Thị Thương, Trương Xuân Lam. Diễn biến mật độ một số côn trùng bắt mồi
phổ biến và vật mồi của chúng trên chè tại Hạ Hòa, Phú Thọ năm 2016. Tạp chí bảo vệ
thực vật số 6, trang 28 – 31.
6. Vu Thi Thuong, Hoang Gia Minh, Truong Xuan Lam, Nguyen Thi Phuong Lien.
Effect of Tea Cultivar on Density of some Predatory Insects and their Preys 3 in Phu Tho
Province, Vietnam. Biological Forum Journal. No. 10(1): 33 – 36.
7. Vũ Thị Thương, Hoàng Gia Minh, Lưu Thị Uyên, Bùi Ngân Tâm, Phạm Tiến Duật
(2018). Đánh giá khả năng khống chế rệp muội nâu đen của một số loài bọ rùa bắt mồi
phổ biến trên chè tại Phú Thọ thông qua hệ số tương quan và phương trình hồi qui. Báo
cáo khoa học về nghiên cứu và giảng dạy Sinh học ở Việt Nam, hội nghị khoa học toàn
quốc lần thứ 3.
132
8. Hoang Gia Minh, Vu Thi Thuong (2018). Community composition of predatory
bugs (Hemiptera) and their relationship with major insect pests on green Tea (Camellia
sinensis L.) plantation in Phu Tho province. Báo cáo khoa học về nghiên cứu và giảng
dạy Sinh học ở Việt Nam, hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ 3.
133
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo tiếng Việt
1. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2003). Tiêu chuẩn ngành TCN10. Nhà
xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. Tr. 2-7.
2. Bộ môn côn trùng trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (2004). Giáo trình
chuyên khoa. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. Tr. 30-60.
3. Bộ môn chuẩn đoán giám định dịch hại Viện BVTV (2006). Kết quả điều tra
côn trùng hại cây trồng các tỉnh phía Nam năm 1977-1979. Nhà xuất bản Nông
nghiệp, Hà Nội. Tr. 1-30.
4. Vũ Quang Côn và Trương Xuân Lam (1994). Các loài bọ xít bắt mồi trên cây
đậu tương ở Miền Bắc Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. Tr. 1-216.
5. Vũ Quang Côn, Trương Xuân Lam (2002). Kết quả nghiên cứu bước đầu về
thành phần loài bọ xít hại và lợi trên một số cây trồng tại vùng đệm vườn quốc
gia Tam Đảo (Mê Linh - Vĩnh Phúc). Báo cáo khoa học Hội nghị côn trùng học
toàn quốc. Nhà xuất bản Nông Nghiệp, Hà Nội. Tr. 115 - 121.
6. Nguyễn Quang Cường (2014). Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và tập tính
bắt mồi của 3 loài bọ rùa bắt mồi Menochilus sexmaculatus Fabricius, Propylea
japonica Thunberg và Lemnia biplagiata Swartz. Luận án Tiến sĩ Sinh học,
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật. Tr. 1-100.
7. Nguyễn Văn Đĩnh (2001). Nhện hại cây trồng và biện pháp phòng chống chúng.
Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. Tr. 1-50.
8. Nguyễn Thanh Hải và Đỗ Tất Lực (2008). Xử lý dữ liệu thống kê Nông nghiệp
với phần mềm Excel. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. Tr. 1-55.
9. Hiệp hội chè Việt Nam (2000). Ngành chè Việt Nam. Tạp chí người làm chè, số
26. Tr. 35-42.
10. Nguyễn Văn Hùng (1988). Kết quả điều tra côn trùng 1967 - 1988. Tạp chí Bảo
vệ thực vật số 6. Tr. 30-36.
11. Nguyễn Văn Hùng, Đoàn Hùng Tiến, Nguyễn Khắc Tiến (1998). Sâu bệnh, cỏ
dại hại chè và biện pháp phòng trừ. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. Tr. 5-
25.
134
12. Nguyễn Văn Hùng (1998). Phương pháp quan trắc theo dõi thí nghiệm bảo vệ
thực vật chè, Tuyển tập các công trình nghiên cứu về chè (1988 – 1997), Nhà
xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. Tr. 1-30.
13. Nguyễn Văn Hùng (2001). Phòng trừ tổng hợp rày xanh, bọ cánh tơ, nhện đỏ,
bọ xít muỗi hại chè. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. Tr. 20-50.
14. Hà Quang Hùng, Bùi Thanh Hương (2002). Nghiên cứu một số đặc điểm hình
thái, sinh vật học của bọ xít Orius sauteri Poppius (Hemiptera : Anthocoridae)
khi được nuôi trên bọ trĩ Thrips palmi Karny và trứng ngài gạo Corcyra
cephalonica STN. Báo cáo khoa học Hội nghị côn trùng học toàn quốc. Nhà
xuất bản Nông Nghiệp, Hà Nội. Tr. 210 - 214.
15. Nguyễn Văn Hùng và Nguyễn Văn Tạo (2006). Quản lý cây chè tổng hợp. Nhà
xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. Tr. 10-30.
16. Hà Quang Hùng (2006). Giáo trình Biện pháp sinh học, Tài liệu giảng dạy cao
học, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. Tr. 10-40.
17. Nguyễn Đức Khiêm (1996). Kết quả nghiên cứu sâu xếp lá chè Brachmia sp.
Tạp chí Bảo vệ thực vật số 3. Tr. 15-22.
18. Đặng Đức Khương, Trương Xuân Lam (2001). Bước đầu xác định các loài bọ
xít ăn thịt thuộc giống Sycanus Amy. & Serv. thuộc họ Reduviidae (Heteroptera)
ở Việt Nam. Tuyển tập các công trình nghiên cứu sinh thái học và tài nguyên
sinh vật (1996 - 2000). Nhà xuất bản Nông Nghiệp, Hà Nội. Tr. 299 - 304.
19. Trương Xuân Lam, 2001. Thành phần bọ xít ăn thịt và đặc điểm sinh học, sinh
thái của các loài phổ biến trong hệ sinh thái nông nghiệp ở một số điểm miền
Bắc Việt Nam. Luận án Tiến Sĩ Khoa Học Sinh Học, Viện Sinh thái và Tài
nguyên sinh vật. Tr. 1-50.
20. Trương Xuân Lam (2002). Bước đầu nghiên cứu sinh học của loài bọ xít cổ
ngỗng đỏ ăn thịt Sycanus falleni Stal (Heteroptera, Reduviidae,
Harpactorinae). Tạp chí Sinh Học số 24. Nhà xuất bản Khoa Học và Công
Nghệ, Hà Nội. Tr. 7 - 13.
21. Trương Xuân Lam, Vũ Quang Côn (2004). Bọ xít bắt mồi trên một số cây trồng
ở Miền Bắc Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. Tr. 3-220
135
22. Trương Xuân Lam (2008). Khả năng nhân nuôi loài bọ xít ăn sâu Sycanus
falleni bằng sâu khoang Spodoptera litura và ngài gạo Corcyra cephalonica
trong phòng thí nghiệm. Báo cáo khoa học Hội nghị côn trùng học toàn quốc.
Nhà xuất bản Nông Nghiệp, Hà Nội. Tr. 591 - 596.
23. Phạm Văn Lầm, Nguyễn Văn Liêm, Bùi Hải Sơn, Nguyễn Thành Vĩnh, Nguyễn
Thị Kim Hoa, Trương Thị Lan (2003). Góp phần nghiên cứu qui trình sản xuất
chè an toàn. Công trình nghiên cứu khoa học về Côn trùng. Nhà xuất bản Nông
nghiệp, quyển II, tr. 399-404
24. Phạm Văn Lầm, Nguyễn Kim Hoa, Trương Thị Lan (2005a). Một số dẫn liệu về
thiên địch của sâu hại chè. Công trình nghiên cứu khoa học về Côn trùng. Nhà
xuất bản Nông nghiệp, quyển II, tr. 170-176
25. Phạm Văn Lầm (2005b). Nhận dạng và bảo vệ những thiên địch chính trên
ruộng lúa. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. Tr. 32
26. Phạm Văn Lầm, Trương Thị Lan (2007a). Kết quả bước đầu thu thập và xác
định thiên địch của sâu hại chè tại một số nơi ở phía Bắc. Công trình nghiên
cứu khoa học về Côn trùng. Nhà xuất bản Nông nghiệp, quyển III, tr. 55-60
27. Phạm Văn Lầm, Trương Thị Lan (2007b). Ảnh hưởng của việc sử dụng thuốc
trừ sâu đến tập hợp chân đốt là thiên địch trên cây chè. Công trình nghiên cứu
khoa học về Côn trùng. Nhà xuất bản Nông nghiệp, quyển III, tr. 221-228
28. Phạm Văn Lầm và Trương Thị Lan (2008). Một số dẫn liệu bước đầu về sự đa
dạng loài của tập hợp chân khớp trên chè ở miền Bắc. Công trình nghiên cứu
khoa học về côn trùng, quyển III, tr. 255-261.
29. Phạm Văn Lầm, Quách Thị Ngọ, Lê Thị Tuyết Nhung, Trương Thị Lan, Thế
Trường Thành, Bùi Văn Dũng (2011). Thành phần côn trùng và nhện nhỏ hại
trên một số cây trồng chính ở Việt Nam điều tra năm 2006-2010. Công trình
nghiên cứu khoa học về Côn trùng. Nhà xuất bản Nông nghiệp, quyển III, tr.
113-117.
30. Phạm Văn Lầm (2013). Thành phần chân khớp đã phát hiện trên cây chè tại
Việt Nam. Báo cáo khoa học hội nghị khoa học toàn quốc về Sinh thái và Tài
nguyên sinh vật lần thứ 5, tr 530-537.
31. Hoàng Đức Nhuận (2007). Bọ rùa, tập 1, Tr. 1-168
136
32. Lê Thị Nhung, Nguyễn Thái Thắng (1996). Một số kết quả nghiên cứu phòng trừ
tổng hợp sâu hại chè. Tạp chí hoạt động khoa học công nghệ, số 8. Tr. 20-27.
33. Lê Thị Nhung (2002). Nghiên cứu nhóm chích hút hại chè và vai trò thiên địch
trong việc hạn chế số lượng chúng ở Phú Thọ. Luận án tiến sỹ Nông nghiệp,
Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam. Tr. 1-120.
34. Tấn Phong (1991). Một số vấn đề về phát triển chè ở nước ta. Tạp chí Nông
nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, số 7. Tr. 15-20.
35. Đỗ Ngọc Quỹ (1989). Những nghiên cứu về cây chè ở trạm nghiên cứu chè Phú
Hộ. Tạp chí Khoa học kỹ thuật nông nghiệp, Hà Nội. Tr. 18-24.
36. Nguyễn Khắc Tiến (1986). Kết quả nghiên cứu bước đầu về rày xanh hại chè và
biện pháp phòng chống. Kết quả nghiên cứu cây Công nghiệp, Cây ăn quả
1980-1984. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. Tr. 1-40.
37. Nguyễn Khắc Tiến (1994). Kết quả điều tra về thành phần nhện hại và phương
pháp phòng trừ. Tuyển tập nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ về cây
chè 1989-1993. NXB Nông nghiệp Hà Nội. Tr. 1-60.
38. Phan Xuân Thanh, Nguyễn Đức Mạnh, Phạm Văn Lầm (2005). Kết quả bước
đầu sử dụng chế phẩm thảo mộc trừ một số sâu hại chính trên chè. Công trình
nghiên cứu khoa học về Côn trùng. Nhà xuất bản Nông nghiệp, quyển II, tr.
410-415.
39. Nguyễn Thái Thắng (2001). Nghiên cứu sử dụng hợp lý thuốc hoá học để
phòng trừ rầy xanh và nhện đỏ hại chè vùng Trung du Bắc bộ. Luận án Tiến sĩ
Nông nghiệp, Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam. Tr. 1-90.
40. Nguyễn Văn Thiệp (1998). Góp phần nghiên cứu thành phần sâu hại chè và một
số yếu tố ảnh hưởng đến biến động số lượng một số loài chính ở Phú Hộ. Tuyển
tập các công trình nghiên cứu về chè 1988-1997. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà
Nội. Tr. 40-48.
41. Nguyễn Văn Thiệp, Nguyễn Công Thuật, Nguyễn Văn Hùng (1998). Một số
nghiên cứu bước đầu về thiên địch sâu hại chè ở Phú Hộ. Tạp chí nông - công
nghiệp thực phẩm, số 8. Tr. 35-41.
42. Nguyễn Văn Thiệp (2000). Nghiên cứu cơ sở khoa học phòng trừ rầy xanh và
bọ trĩ hại chè ở Phú Thọ. Luận án tiến sỹ nông nghiệp, Viện Khoa học kỹ thuật
137
nông nghiệp Việt Nam. Tr.1-110.
43. Phạm Thị Thùy (2004). Công nghệ sinh học trong bảo vệ thực vật. Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội. Tr. 1-322.
44. Trung tâm Bảo vệ thực vật phía bắc (1992). Phương pháp điều tra phát hiện và
dự tính dự báo. Tạp chí Bảo vệ Thực vật, số 5. Tr. 1-3
45. Viện bảo vệ thực vật (1976). Kết quả điều tra côn trùng 1967-1968. Nhà xuất
bản Nông thôn, Hà Nội. Tr. 5-25.
46. Viện bảo vệ thực vật (1997). Phương pháp nghiên cứu bảo vệ thực vật tập 1.
Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. Tr. 1-40.
47. Viện bảo vệ thực vật (1999). Kết quả điều tra côn trùng và bệnh cây ở các tỉnh
miền Nam 1977-1979. Nhà xuất bản Nông thôn, Hà Nội. Tr. 10-30.
48. Phạm Thị Vượng, Nguyễn Văn Hành (1990). Một số kết quả nghiên cứu bước
đầu về sâu hại chè ở vùng Sông Cầu, Bắc Thái và biện pháp phòng trừ. Thông
tin bảo vệ thực vật, số 1. Tr. 10-17.
Tài liệu tham khảo tiếng nƣớc ngoài
49. A. B. Mahfuj, J. Mahbuba, M. N. Bari, M. H. Mofazzel and N. Afsana (2002).
Potentiality of Micraspis discolor (F.) as a Biocontrol Agent of Nilaparvata
lugens (Stal). Journal of Biological Sciences, No. 2: 630-632,
50. A. Babu, A. R. Kumar, K. Perumalsamy and S.P. James (2008). New record of
a predator of red spider mite. Newsletter - UPASI Tea Research
Foundation,No. 18: 1- 4.
51. A. Borthakurn, S. C. Das (1992). Studies on acarrine predators of
phytophagous mites on tea in North - East Indian. International Journal of Tea
Science, No. 34: 21-24.
52. A. Borthakurn, M. Sarmah, A. Rahman and N. N. Kakoty (1993). Population
dynamics of tea pest and their natural enemy complex in relation to various
agromanagemment. Journal of Tea tech, Calcutta, No. 12: 158-165.
53. A. Kawai (1997). Prospects in integrated pest management in tea cultivation in
Japan. The Journal of Japan agricultural research quarterly (JARQ), Vol. 31:
213-217.
54. A. Maiti, A. K. Pal and G. P. Samanta (2008). Usefulness of Biocontrol of Pests
138
in Tea: A Mathematical Model. Produced by Department of Mathematics
Kolkata-700073, INDIA, No. 4: 96-113.
55. A. Takafuji, H. Amano (2001). Control of multiple pests of tea and spider mites
in Greenhouse - Biologycal control of insect pests in Japan. Produced by Food
and fertilizer technology center, Extension Bulletin : 499.-505.
56. B. Banerjee (2004). How effective are predators of tea pests? - A prespertive.
International Journal of Tea Science, Vol. 3: 46-49
57. B. C. Barboka (1994). Pest of tea North - East India and their control. Printed
in The Bulletin association tea India: 30-45.
58. B. Christophe (2012). Nest Trapping, a simple method for gathering
information on life histories of solitary bees and wasps, Bionomics of 21
species of solitary aculeate in Hong Kong. Journal of Hong Kong Entomolgical
Socciety. No. 4: pp. 3-8.
59. B. Mkwaila, P. S. Rattan, W. J. Grice (1979). Tea thrips incidence, crop loss
and control measure. The Journal of Quarterty Newsl TRF of Central Africa
(Malawi), No 53, Jan.:4-10.
60. B. Mkwaila (1981). The life cycles of tow important tea pest. The Journal of
Quarterty Newsl TRF of Central Africa (Malawi), No. 61: 11-14.
61. B. Mkwaila (1982). The occurrence of tea thrips: a review. The Journal of
Quarterty Newsl TRF of Central Africa (Malawi), No. 66, Apr.: 7-11.
62. C. C. Ho (1990). Preliminary study on biologycal control of tetranychus
kanjawai in Tea filed by Amblyseiidae. Journal of Agricultural research of
China, No. 36: 217 - 219.
63. D. Dhanapati, R. Varatharajan (2007). Prey - predator relations with reference
to tea aphid, Toxoptera aurantii (Boyer de Fonscolombe) and syrphid
predators. Journal of Biology control, No. 21(Special Issue): 125-128.
64. D. Dhanapati, M. Shyam and R. Varatharajan (2010). Density, diversity and
differential feeding potentials of aphidophagous insects in the tea ecosystem.
Journal of Biopesticides, No. 3 (Special Issue): 58 - 61
65. D. Dhanapati, K. Nishikanta and R. Varatharajan (2016). Diversity and density
of tea pests in the tea gardens of Manipur. Journal of Plantation Crops, 2016,
No. 44: 47 - 51.
139
66. D. F. Waterhouse (1993). Description and key to the genera of the nymphs of
British Woodland Typhlocybinae (Homoptera). The Journal of systematic
Entomology, No. 3: 75-90.
67. D. S. Hill, J. M. Waller (1998). Tea pests and diseases of tropical crops - hand
book of pests and diseases. Produced by Longman Group Ldt in Hong Kong,
Vol. 2: 50-60.
68. D. Wyniger và P. Duelli (2000). Development of the Heteropteran fauna after
an experimental forest fire in a chestnut forest in the southern part of
Switzerland (Ticino). Mitteilungen der Deutschen Gesellschaft fur allgemeine
und angewandte Entomologie. No. 12: 425-428
69. F. Cerutin, J. Baumgartner, V. Delucchi (1990). Research on the grrapvine
ecosystem in Ticino: III. Biology and mortality factors affecting Empoasca vitis
Goeth (Homoptera, Cicadellidae, Typhlocybinae). Journal of Biocontrol
science and technology, No. 3: 43-54.
70. F. Cerutin, J. Baumgartner, V. Delucchi (1991). The dynemics of the grape
leafhopper Empoasca vitis Goeth population in Southern Swirtzerland and the
implications for habitat managemant. Journal of Biocontrol science and
technology, No. 1: 177-194.
71. F. Cerutin, J. Baumgartner, V. Delucchi (1992). Research on grapevine
ecosytem in ticino: IV. Modelling the population dynamics of Empoasca vitis
Goeth (Homoptera, Cicadellidae, Typhlocybinae). Journal of Biocontrol
science and technology, No. 6: 179-200.
72. F. Ossiannilsson (1981). The Auchenorrhyncha (Homoptera) of fenoscandia
and Denmarka, Volume 2 Families Cicadidae, Cercopidae, Membracidae and
Cicadellidae (excl. Deltocephalinae. Brill publishing House, English: 5-45.
73. F. Zukova, L. A. Aksystova, G.V. Gusev (1982). Estimation of the influence of
Entomophagous species on numbers of the cabbage Aphid (Brevicoryne brassicae)
in the Amur region. Review of applied Entomology, No: 12: 879-883.
74. G.N. Rao, R. Padmanaban (1975). Thrips and their control in tea. The Journal
of the UPASI Tea scientific Dept, Cinchona (India): No. 5: 10-20.
75. H. P. Streibert (1981). A standardized laboratory rearing and testing method
for the effects of pesticides on the predatory miite Amblyseius fallacis
(Gaiman). The Journa of Entomology, US. Coppyright, No. 92: 121-127.
140
76. H. T. Chen (1988). Tea mite biological control in field. The Journal of Taiwan
Tea Resreach Bulletin, No. 7: 15-25.
77. H. T. Chen and H. K. Tseng (1998). Field tests of several new chemicals for
control of tea green leaf hopper, Kanzawai spider mite and tea tortrix. The
Journal of Taiwan Tea Resreach Bulletin, No.7: 1-14.
78. J. Cheazeau (1993). Tow predator of Tetranychidea in new Guinea: Stethorus
exspectatus sp. and Stethorus sultabilis sp. (Col: Coccinellidea). The Journal of
Entomophaga, No. 28: 373-378.
79. J. J. Wang, J. H. Tasai (2001). Development, survival and reproduction of black
citrus aphid, Toxoptera aurantii (Hemiptera: Aphididae), as a function of
temperature. Journal of Bull Entomol Res, No. 91: 477 - 481.
80. J.W. Zhang, Y.J. Wang, J.S (1992). Eco-control of the tea green leaf hopper
(Homoptera: Empoasca vitis) and rational use of pesticides. Journal of Tea
science, No. 12: 139-141.
81. K. A. Yuliadhi, I.W. Supartha, I.N. Wijaya, Pudjianto (2015). Characteristic
Morphology and Biology of Sycanus aurantiacus Ishikawa et Okajima, sp. nov.
(Hemiptera: Reduviidae) on the Larvae of Tenebrio molitor L. (Coleoptera:
Tenebrionidae.Journal of Biology Agriculture and Heathcare. No. 5, pp. 15-24
82. K. Nagai and E. Yano (1999). Effect of temperature on the development and
reproduction of Orius sauteri (Poppius), a predator of Thrips palmi Karny.
Journal of Entomological and Zoology No. 34, pp. 223-339
83. K. S. Nitin, P. Shivarama, T.N. Raviprasad and K. Vanitha (2017). Biology,
Behaviour and predatory efficiency of Sycanus galbanus Distant. Hemiptera:
Reduviidae: Harpactorinae recorded in Cashew plantations. Journal of
Entomology and Zoology Studies, No. 5: 524-530.
84. K. Yang, L. Zhang, F. Guo, Y. Long, Y. Wang, X. Wan (2016).
Reidentification of Sex Pheromones of Tea Geometrid Ectropis obliqua Prout
(Lepidoptera: Geometridae). Journal of Econ Entomol, Volume 109 (1), pp.
163 - 171.
85. L. A. Mound and J. M. Palmer (1981). Identification, distribution and host-
plants of the pest species of Scirtothrips. Printed in Bull. Ent. Res. of The
British museum, London: 30-37.
86. L. K. Hazarika and Puzari (1998). Biocontrol Potential and Its Exploitation in
141
Sustainable Agriculture.Printed in the United States of America, Vol. 2: 171-175.
87. L. K. Hazarika, M. Bhuyan, B. N. Hazarika (2009). Insect pests of tea and their
management. The Journal of Annu Rev Entomol, No. 54: 267-284.
88. L. Shengjie, L. Zhipeng, S. Yi, A. Douglas, P. Schaefer, O. Alele, J. Chen, Y.
Xiaodong (2015). Spider foraging strategies dominate pest suppressionin
organic tea plantations. The Joournal international Organization for Biological
Control (IOBC), No. 10: 839-847.
89. M. A. Claver, D. P. Ambrose (2002). Prey Stage Preference of the Predator,
Rhynocoris kumarii Ambrose and Livingstone (Heteroptera, Reduviidae). Three
Selected Convergence Vol. 4, No. 1 - 4: 35 - 38.
90. M. Cheng (1991). Prediction of the start of the peak of Empoasca pirisuga by
Cpmputer. Journal of Agriculture Science (china), No. 1: 181-183.
91. M. F. Claridge, M. R. Wilson (1976). Diversity and distribution patterns of
temprate woodland canopy. Journal of Ecological Entomology, No. 1: 231-250.
92. M. Mochizuki, M. Ohtaishi, K. Honma (1991). Yellow sticky trap of lat type is
useful for monittoring the occurrence of tea greenleafhopper Empoasca onukii
Matsuda in tea filed - Bul. The Journal of the National Reseach Insstitute
Vegetables, ornamental plants tea, No.7: 29-36.
93. M. P. Seagraves and K.V. Yeargan (2006). Selection and evaluation of a
companion plant to augment densities of Coleomegilla maculata (Coleoptera:
Coccinellidae) in sweet corn. Journal Environmental Entomology, No. 35:
1334-1341.
94. M. S. Mohammad and A. Mustak (2011). Integrated pest management in tea
prospects and future strategies in Bangladesh. The Journal of Plant Protection
Sciences, No. 3, December: 1-13.
95. N. A. Schellhorn, D. A. Andow (1999). Cannibalism and interspecific
predaton: role of oviposition behavior. Speccial forum “natural enemy food
webs”. Journal Ecological Applications, No. 9: 418-428.
96. N. Mureleedharan, C. Kandaswamy (1980). Tea thrips and their control.
Planter's Chronicle printed in India, Vol. 45: 34-41.
97. N. Muraleedharan, B. Radhakrishnan (1986). Syrphid predators of the tea
aphid, Toxoptera aurantii (Boyer de Fons) in the Anamallais Indian. The
Journal of Agri science, No. 56: 307-312.
142
98. N. Mureleedharan, R. Varadharan (1986). Synthetic Pyrethroids for the control
of flushworm and thrips infesting tea. Planter's Chronicle printed in India, Vol.
81: 15-25.
99. N. Muraleedharan, B. Radhakrishnan (1988). Natural enemies of certain tea
pest occurring in Southern Indian- Insect science and its Application (Kenya).
Kenya publishing House, Vol. 9: 647-654.
100. N. Muraleedharan (1992a). Pest control in Asia. In Tea Cultivation to
Consumption, Eds, produced by Willson & Clifford, Chapman & Hall, London:
375-412..
101. N. Mureleedharan (1992b). Bioecology and management of tea pest in Southern
India. The Journal of plantation crops (India), No. 20: 27-38.
102. N. T. P. Lien, F. Saito, J. Kojima, J. M. Carpenter (2006). Vespidae
(Hymenoptera) of Viet Nam 3. Synoptic key to Vietnamese species of the
polistine genus Ropalidia, with notes on taxonomy and distribution.
Entomological Science, No.9: 93-100
103. N. T. P. Lien, J. Kojima, F. Saito (2011). Polistes (Polistella) wasps
(Hymenoptera: Vespidae: Polistinae) from mountainous
areas of northern Vietnam, with description of five new species. Zootaxa 3060:
1-30.
104. N. T. P. Lien, J. Kojima (2014). Distribution and nests of paper wasps
of Polistes (Polistella) in northeastern Vietnam, with description of a new
species (Hymenoptera, Vespidae, Polistinae). ZooKeys 368: 45–63.
105. N. Gireesh, R. Eswara and S. Adarsh (2014). Science of Tea Technology.
Publisher Scientific Publishers (India): 317-333.
106. P. A. Oomen (1982). Studies on population dynamies of scalet mite Brevipalpus
phoenicis a pest of tea in Indonesia. Doctor's dissertation, save in Indonesia
nation library: 1-88.
107. P. Du (1932). Principales maladies parasitares du thesier et du caféiser en
extrême Orient. Bulletin économique de L'Indochine: 20-40.
108. P. Lester, R. Harmsen (2002). Functional and numerical responses not always
indicate the most effective predator for biological control: an analysis of two
predators in a two-prey system. Journal of Applied Ecology, Vol 39: 455-468.
109. P. Narisara, S. Yukie, K. Natsuko, K. Yooichi (2016). Oviposition preference
for leaf age in the smaller tea tortrix Adoxophyes honmai (Lepidoptera:
Tortricidae) as related to performance of neonates. Journal of applied
143
Entomology and Zoology. No. 51: 363 - 371.
110. P. Sivapalan, N. C. Gnanapragasam (1980). Effect of saponi and nonsteroidal
amino on the development of Homoma cofferia in vitro. The Journal of
Entomology Exp. Et., No. 27: 30-40.
111. P. Sivapalan and K. A. D. W. Seneratne (1997a). Some aspects of the biology of
the tea termite Glyptotermes dilatatus.The Journal of Tea quarterly, No. 23: 9-21.
112. P. Sivapalan, K. A. D. W. Seneratne and A.A.C.K. Karunaratne (1997b).
Observation on the occurrence and behaviour oflive wood termites
(Glyptotermes dilatatus) in low country tea fields. he Journal of Tea quarterly,
No. 23: 5-8.
113. P. S. Rattan (1988). Cultura and insecticide control of thrips. The Journal of
Quarterty Newsl TRF of Central Africa (Malawi), No. 91: 15-25.
114. P. S. Rattan (1989). Thiodan for the control of mosduito bug. The Journal of
Quarterty Newsl TRF of Central Africa (Malawi), No. 95, Jul.: 27-29.
115. P. S. Rattan (1992). Pest and disease control in Africa.Chapman. & Hall
Publishing House, London: 331-352
116. R. Buitenhuis, G. Murphy, G. Ferguson, L. Shipp (2015). Amblyseius swirskii
in greenhouse production systems: a floricultural perspectiv. The Journal of
Experimental and Applied Acarology. No.1: 55-65.
117. R. L. Jeppson, H. Hartfor (1975). Mites injurious to Economic Plant. Produced
by University of California Press, Berkeley Los Angerles London: 55-63.
118. R. Somnath, A. Mukhopadhyay, S. Das and G. Gurusubramanian (2010).
Bioefficacy of coccinellid predators on major tea pests. Journal of
Biopesticides, No. 3: 033-036.
119. R. Somnath and A. Rahman (2014). A study on the comparative predatory
efficiency and development of Micraspis discolor (F.) and Menochilus
sexmaculatus (F.) on tea aphid Toxoptera aurantii (Boyer de Fons.). Journal of
Zoology and Ecology, No. 24, pp. 25-33.
120. R. Somnath, R. Azizur (2014). A study on the comparative predatory efficiency
and development of Micraspis discolor (F.) and Menochilus sexmaculatus (F.)
on tea aphid Toxoptera aurantii (Boyer de Fons.). Journal Zoology and
Ecology, No. 24: 285-287.
121. R. T. Elliis, P. S. Rattan (1977). Yellow tea thrips. The Journal of Quarterty
144
Newsl TRF of Central Africa (Malawi), No.45, Jan: 25-30.
122. S. A. Corbet (1973). Ovipossition pherromone in laval mandibular glands of
Ephestia kuehniella. Journal of Nature No. 243: 537-53
123. S. C. Das, N. N. Kakoty (1991). Cold weather practices for reducing pest
incidence on tea. International Journal of Tea Science, No. 38: 9-12
124. S. G. Khoo (1990). Use of natural enemies to control agricultural pests in
Malaysia. The Journal of Extension Bulletin (ASPAC/FFTC), No.304: 12-22.
125. S. J. Vennison, D. P. Ambrose, 1992; Biology, Behaviour and Biocontrol
Efficiency of a Reduviid Predator, Sycanus reclinatus Dohrn (Heteroptera:
Reduviidae) Mitt. Zool. Mus. Berl. 68 (1): 143 - 156.
126. S. Morooka F., N. T. P. Lien, J. Kojima (2015). Zootaxa 3947 (2): 215-235.
127. S. P. Chowdhury, M. A. Ahad, M. R. Amim (2008). Bean Aphid Predation
Efficiency of Lady Bird Beetle Micraspis discolor F. (Coleoptera:
Coccinellidae). Journal Soil Nature, No. 2: 40-45.
128. S. Sannigrahi and A. Mukhopadhyay(1992). Laboratory evaluation of
predatory efficiency of Geocoris ochropterus Fieber (Hemiptera: Lygaeidae)
on. Some common tea pest. Srilanka Journal of tea science, No. 61: 39-44.
129. T. Eden (1958). Entomological Knowledge in Tea Great Britain. Published by
Wiley-Blackwell: 5-15.
130. T. E. Cottrell and K. V. Yeargan (1998). Infuence of a native weed, Acalypha
ostryaefolia (Euphorbiacease), on Coleomegilla maculata (Coleoptera:
Coccinellidae) population density, predation and cannibalism in eweet corn.
Journal Environmental Entomology, No. 27: 1375-1385.
131. T. N. Ananthakrishnan (1984). Bioecology of thrips, Oak park, Michigan, USA.
India publishing House: 1- 233.
132. T. Visser (1961). Interplanting in tea - Tea Quart. The Jour of the TRI of
Ceylon, Vol. 32, part 2:69-79.
133. V. Duraikannu, B. Azariah (2013). Life table and efficacy of Mallada
desjardinsi (Chrysopidae: Neuroptera), an important predator of tea red spider
mite, Oligonychus coffeae (Acari: Tetranychidae). Journal of Experimental and
Applied Acarology, Vol. 61: 43-52.
134. V. J. Vora, R. K. Bharodia, M. N. Kapadia (1984). Pests of oilseed crops and
their control. The Journal of India pesticides, No. 11: 3-5.
145
135. V. J. Rahman, A. Babu, A. Roobakkumar, K. Perumalsamy, D. Vasanthakumar,
M. S. R. Subramaniam (2012). Efficacy, prey stage preference and optimum
predator-prey ratio of the predatory mite, Neoseiulus longispinosus Evans
(Acari: Phytoseiidae) to control the red spider mite, Oligonychus coffeae
Nietner (Acari: Tetranychidae) infesting tea. The Journal Archives of
Phytopathology and Plant Protection, No. 45: 699-706
136. V. Sudoi (1985). The effects of rainfall and shade on the incidence of yellow tea
thrips (S. kenyensis) in Kenya. The Journal of Tea (Kenya), No. 6, Dec.: 7-12.
137. V. Sudoi (1987). Thrips: Their indentification, spatial distribution and
biocontrol agents with reference to genus Scirtothrips Shull: a review. The
Journal of Tea (Kenya), No. 8, Jul.: 33-36.
138. W. Lu, Y. F. Lou (2016). Forecasting the first peak of tea green leafhopper by
simplifying classic statistics. Produced by China Tea, Vol. 16: 30-31.
139. Y. F. Chen (1992). A survey on spiders in the tea plantations of the
Mountainous region of Zhejiang province. Chinese Journal of Biologycal
Control, No. 8: 68-71.
140. Y. Fan, F. L. Peptitt (1994). Biological control of broad mite
Polyphagotarsonemus latus (Bank) by Neoseiulus barkeri Hughes on papper -
Bological control. The Journal of Experimental & Applied Acarology, No. 4:
395-410.
141. Y.H. Bao, H. Z. Qing, A. B. John (2012). Attraction of the tea aphid, Toxoptera
aurantii, to combinations of volatiles and colors related to tea plants. Journal
Entomologia Experimentalis et Applicata, Volume 144, Issue 3, pp. 258–269
142. Y. H. Bao, X. W Meng, Z. C. Ying, Q. N. Yu, P. Cheng, C. Lin, R. C. Kamlesh,
H. Z. Qing (2014). Sex pheromone of the tea aphid, Toxoptera aurantii (Boyer
de Fonscolombe) (Hemiptera: Aphididae). Journal of Chemoecology, No. 24:
179 - 187.
143. Z. Chen and X. Chen (1989). An analysis of world tea fauna. The Journal of
Tea Science, No. 9: 13-22.
144. Z. Chen (1994). Tea Science in the year 2000 with special reference to China.
In roc. Of the Inter. Seminar on “ Intergrated crop Managemnet in tea: Towarsd
higher productivity”. Conlombo, Srilanka, Apr. 26-27, 1994: 51-57.
145. Z. Chen (1995a). Tea in 21st century. Proc. Of ’95 International Tea – Qualiy –
Human heathly symposium. The International Seminar on "Integrate crop
Management in tea, Nov., 7-10th
, Shanghai, China, : 3-6.
146
146. Z. Chen (1995b). Tea Science in the year 2000 with special reference to China.
In Proc. The International Seminar on "Integrate crop Management in tea:
Towards Higher productivity". Colombo, Srilanka, Apr. 26-27, 1994: 55-62.
147. Z. J. Gutierre, O. Bonato (1994). The Tetranychidae mites attacking cassava in
the Congo and some their predators. The Journal of Afican Zoology, No. 108:
20-28.
148. Z.L. Xie (1993). Predation of Chrysilla verrsicolor spiders on tea leafhoppers.
The Journal of Tea, Guandong, No. 1: 41-44.
149. Z. Xie, S. Dai, P. Cao, S. Lai, F. Zeng, L. Shengjie, L. Seng (1991). A study on
succcession in insect communities in tea plantations not treatesd whit pesticides
on the Leizhou Peninsula. Journal of Tea Science, No. 11: 111-117.
Tài liệu Internet
150 https://www.amentsoc.org/insects/glossary/terms/pitfall-trap. Amateur
Entonologists Society. Pitfall trap. Cập nhật 20-10.2015.
151 CAB International (1997). Crop protection compendium, Training manual,
Module 1. http://www.Cabicompendium.org/namestists/cpc/Full
152 Agroviet.com.vn. Hồ sơ ngành chè. Cập nhật 10.11.2016
153 http://nongnghiep.vn/nhan-nuoi-va-su-dung-thien-dich-post29233.html. Nhân
nuôi và sử dụng thiên địch. Tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh. Cập nhật
1.9.2009.
154 California Environmental Protection Agency Department, 2010.
https://www3.epa.gov/myenv/MyEnvReports.html
155 http://www.tnmtphutho.gov.vn. Dữ liệu khí tượng thủy văn.
.
PHỤ LỤC
Bảng 1. Thành phần và mức độ xuất hiện sâu hại chè tại tỉnh Phú Thọ
STT Tên loài
Số lần
bắt gặp
Mức độ
xuất hiện
(%)
1 Oxya sp. 2 10
2 Trilophidia annulata (Thunberg) 1 5
3 Catantops acuticercus Bolivar 2 10
4 Pseudoxya diminuta (Walker) 3 15
5 Brachytrupes pertentosus Lichtenstein 2 10
6 Gryllotalpa orientalis Burmeister 1 5
7 Physothrips setiventris Bagnall 14 70
8 Bemisia sp. 3 15
9 Aleurocanthus spiniferus (Quainance) 2 10
10 Aleuroclava subindica Martin et Mound. 1 5
11 Empoasca flavescens Fabricius 12 60
12 Tettigoniella ferrugines Fabricius 1 5
13 Toxoptera aurantii Fonscolombe 11 55
14 Kilifia acuminata Signoret 2 10
15 Vinsonia stellifera (Westwood) 3 15
16 Ferrisia virgata Cockerell 1 5
17 Pseudococcus crytus Hempel 1 5
18 Chionaspis theae Maskell 2 10
19 Lepidosaphes beckii (Newman) 4 20
20 Lepidosaphes gloverii (Packard) 3 15
21 Lawana imitata Melichar 2 10
22 Ricania speculum Walker 1 5
23 Helopeltis theivora Waterhouse 6 30
24 Cletus punctiger Dallas 3 15
25 Cletus pugnator Fabricius 2 10
26 Cletus trigonus Thunberg 1 5
27 Homoeocerus walkeri Kirby 2 10
28 Leptocorisa varicornis Fabricius 4 20
29 Leptocorisa oratorius (Fabricius) 2 10
30 Poecilocoris latus Dallas 1 5
31 Nezara viridula Linneaus 3 15
32 Hypomeces squamosus Fabricius 2 10
33 Melolontha sp. 2 10
34 Maladera orientalis Motsch. 1 5
35 Xyleborus morstatti Haget 3 15
36 Zeuzera coffea Nietner 5 25
37 Biston suppressaria Guence 6 30
38 Chalcocelis albigutata Snellen 6 30
39 Parasa lepida Cramer 2 10
40 Euproctis scintillans Walker 2 10
41 Orvasca subnotata Walker 3 15
42 Euproctis pseudoconspersa Strand* 4 20
43 Orgyia postica Walker 1 5
44 Eterusia aedae Linneaus 1 5
45 Acanthopsyche subera Hmb. 6 30
46 Pagodia hekeyeri Heylaerts 1 5
47 Amatissa vaulogeri Heylaerts 5 25
48 Clania crameri Westwood 2 10
49 Agriphora rhombata Meyrick 1 5
50 Homona coffearia Nietner 6 30
51 Archips sp. 2 10
52 Adoxophyes orana (Fischer) 1 5
53 Eumeta minuscula Butler 2 10
54 Pagadiella hekmeyeri Heylaerts 3 15
55 Odontotermes formosanus Shiraki 1 5
56 Coptotermes ceylonicus Holmgren 2 10
Tổng số lần điều tra = 20
Bảng 2: Diễn biến mật độ rầy xanh Empoasca flavercens Fabricius trên chè tại Hạ Hòa, Phú Thọ
Năm
Mật độ rầy rầy xanh Empoasca flavercens Fabr. (con/m2)
TB năm
Tháng
1
Tháng
2
Tháng
3
Tháng
4
Tháng
5
Tháng
6
Tháng
7
Tháng
8
Tháng
9
Tháng
10
Tháng
11
Tháng
12
Năm 2014 3,75 4,62 0,90 23,76 16,35 7,05 7,80 8,70 18,90 20,55 7,80 5,01 10,43
Năm 2015 2,88 1,74 4,35 24,96 20,1 14,55 11,70 9,48 20,52 21,15 9,45 5,67 12,21
Năm 2016 3,84 5,80 6,51 28,65 23,76 17,70 13,56 11,70 21,96 26,25 7,05 6,96 14,48
TB tháng 3,49 4,05 3,92 25,79 20,07 13,10 11,02 9,96 20,46 22,65 8,10 5,88
Bảng 3: Diễn biến mật độ bọ trĩ Physothrips sentiventris Bagnall trên chè tại Hạ Hòa, Phú Thọ
Năm
Mật độ rầy bọ trĩ Physothrips sentiventris Bagnall (con/m2)
TB năm
Tháng
1
Tháng
2
Tháng
3
Tháng
4
Tháng
5
Tháng
6
Tháng
7
Tháng
8
Tháng
9
Tháng
10
Tháng
11
Tháng
12
Năm 2014 3,20 4,07 6,12 12,05 16,81 26,80 47,36 42,15 39,45 22,35 12,24 4,27 19,74
Năm 2015 6,60 6,87 7,70 13,05 19,76 27,05 60,56 51,75 41,40 28,88 14,40 6,90 23,74
Năm 2016 8,12 9,53 12,00 14,72 14,90 49,40 77,65 67,60 62,64 36,76 19,00 4,92 31,44
TB tháng 5,97 6,82 8,61 13,27 17,16 34,42 61,86 53,83 47,83 29,33 15,21 5,36
Bảng 4: Diễn biến mật độ rệp muội nâu đen Toxoptera aurantii Fonscolombe trên chè tại Hạ Hòa, Phú Thọ
Năm
Mật độ rệp muội nâu đen Toxoptera aurantii Fonscolombe (con/m2)
TB năm
Tháng
1
Tháng
2
Tháng
3
Tháng
4
Tháng
5
Tháng
6
Tháng
7
Tháng
8
Tháng
9
Tháng
10
Tháng
11
Tháng
12
Năm 2014 11,00 15,93 32,72 40,45 28 17,95 17,7 11,32 10,2 31,1 12,24 101,46 27,51
Năm 2015 87,88 58,53 48,20 56,60 53,52 37,05 14,9 12,24 9,00 8,32 14,8 57,35 38,20
Năm 2016 68,16 73,27 80,05 20,48 20,85 25,2 15,12 20,3 22,95 36,76 41,1 92,08 43,03
TB tháng 55,68 49,24 53,66 39,18 34,12 26,73 15,91 14,62 14,05 25,39 22,71 83,63
Bảng 5: Diễn biến mật độ tập hợp sâu cánh vẩy hại chè tại Hạ Hòa, Phú Thọ
Năm
Mật độ tập hợp sâu cánh vẩy (con/m2)
TB năm
Tháng
1
Tháng
2
Tháng
3
Tháng
4
Tháng
5
Tháng
6
Tháng
7
Tháng
8
Tháng
9
Tháng
10
Tháng
11
Tháng
12
Năm 2014 0,54 1,10 1,31 1,14 1,02 0,89 1,18 1,12 1,13 1,24 1,39 0,73 1,07
Năm 2015 1,12 1,44 1,43 1,22 1,18 1,13 1,21 1,16 1,18 1,25 1,38 1,45 1,26
Năm 2016 1,24 1,57 1,52 1,40 1,34 1,24 1,34 1,26 1,26 1,28 1,57 1,52 1,38
TB tháng 0,97 1,37 1,42 1,25 1,18 1,09 1,24 1,18 1,19 1,26 1,45 1,23
Bảng 6. Thành phần côn trùng bắt mồi và mức độ xuất hiện trên chè tại Phú Thọ
STT Tên loài Số lần bắt
gặp
Mức độ
xuất hiện
(%)
1 Cytorrhinus lividipennis Reuter 1 5
2 Coranus fuscipennis Reuter 3 15
3 Coranus spiniscutis Reuter 2 10
4 Sycanus croceovittatus Dohrn 12 60
5 Poliditus peramatus Uhler 1 5
6 Andrallus spinidens Fabricius 3 15
7 Orius sauteri (Poppius) 11 55
8 Eocanthecona furcellata (Wolff) 2 10
9 Nabis capsiformis Germar 5 25
10 Eucolliuris fuscipennis fuscipennis
(Chaudoir) 1 5
11 Odacantha metallica (Fairmilie) 2 10
12 Ophionea nigrofasciata (Schmidt-Goebel) 2 10
13 Ophionea indica (Thunberg) 1 5
14 Paederus fuscipes Curtis 2 10
15 Paederus tamulus Erichson 3 15
16 Oligota sp. 2 10
17 Chilocorus gressitti Miyat. 1 5
18 Leis dimidiata (Fabricius) 2 10
19 Menochilus sexmaculatus (Fabricius) 13 65
20 Stethorus sp. 3 15
21 Coccinella transversalis Fabricius 2 10
22 Harmonia octomaculata (Fabricius) 2 10
23 Lemnia biplagiata (Swartz) 2 10
24 Micraspis discolor (Fabricius) 13 65
25 Scymnus hoffmanni Weise 2 10
26 Propylea japonica Thunberg 6 30
27 Micromus sp. 3 15
28 Chrysopa sp. 2 10
29 Asarcina aegota Fabricius 1 5
30 Episyrphus balteatus (De Geer) 2 10
31 Ischiodon scutellaris (Fabricius) 2 10
32 Clythia sp. 1 5
33 Paragus crenulatus Thom. 1 5
34 Polistes gigas (Kirby) 1 5
35 Polistes olivaceus (DeGeer) 2 10
36 Polistes japonicus de Saussure 3 15
37 Polistes sagittarius de Saussure 1 5
38
Polistes communalis Nguyen, Vu &
Carpenter, 2017 3 15
39 Ropalidia stigma (Smith) 2 10
40 Vespa affinis (Linnaeus) 2 10
41 Allorhynchium argentatum (Fabricius) 1 5
42 Delta pyriformepyriforme (Fabricius) 3 15
43
Rhynchium brunneum brunneum
(Fabricius) 1 5
44 Aenictus binghamii Forel 1 5
45 Anoplolepis gracilipes (Smith) 3 15
46 Camponotu ssp. 3 15
47 Polyrhachis proxima Roger 2 10
48 Pheidologeton divers (Jerdon) 2 10
49 Odontoponera denticulata (Smith) 2 10
50 Hierodula saussurei Kirby 1 5
51 Prorenus sp 2 10
Tổng số lần điều tra = 20
Bảng 7: Diễn biến mật độ bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus trên chè lai LDP1, 3 tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ
Năm
Mật độ bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi Sycanus croceovittatus (con/m2)
TB năm
Tháng
1
Tháng
2
Tháng
3
Tháng
4
Tháng
5
Tháng
6
Tháng
7
Tháng
8
Tháng
9
Tháng
10
Tháng
11
Tháng
12
Năm 2014 0,40 0,29 0,65 0,27 0,43 0,73 0,23 0,54 0,38 0,30 0,26 0,20 0,39
Năm 2015 0,43 0,58 0,27 0,36 0,48 0,95 0,20 0,52 0,38 0,33 0,35 0,35 0,43
Năm 2016 0,60 0,68 0,58 0,54 0,67 1,15 0,54 0,65 0,41 0,53 0,47 0,46 0,61
TB tháng 0,47 0,52 0,50 0,39 0,53 0,94 0,32 0,57 0,39 0,38 0,36 0,34
Bảng 8: Diễn biến mật độ loài bọ xít nâu nhỏ bắt mồi Orius sauteri trên chè lai LDP1, 3 tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ
Năm
Mật độ bọ xít nâu nhỏ bắt mồi Orius sauteri (con/m2)
TB năm
Tháng
1
Tháng
2
Tháng
3
Tháng
4
Tháng
5
Tháng
6
Tháng
7
Tháng
8
Tháng
9
Tháng
10
Tháng
11
Tháng
12
Năm 2014 0,36 0,20 0,22 0,40 1,65 1,02 0,96 0,50 1,45 1,67 0,73 0,56 0,81
Năm 2015 0,50 0,66 0,50 0,62 2,04 1,70 1,21 1,10 1,43 2,10 0,59 0,70 1,10
Năm 2016 0,67 0,85 0,92 1,11 2,27 1,81 1,31 1,17 1,55 2,27 0,76 0,89 1,30
TB tháng 0,51 0,57 0,55 0,71 1,99 1,51 1,16 0,92 1,48 2,01 0,69 0,72
Bảng 9: Diễn biến mật độ tập hợp bọ xít bắt mồi trên chè lai LDP1, 3 tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ
Năm
Mật độ độ tập hợp bọ xít bắt mồi (con/m2)
TB năm
Tháng
1
Tháng
2
Tháng
3
Tháng
4
Tháng
5
Tháng
6
Tháng
7
Tháng
8
Tháng
9
Tháng
10
Tháng
11
Tháng
12
Năm 2014 2,93 1,41 2,01 2,77 2,69 4,65 4,14 4,74 2,19 2,76 2,01 3,03 2,94
Năm 2015 2,96 2,07 2,23 2,31 3,75 4,65 4,76 5,03 3,73 3,16 3,16 3,94 3,48
Năm 2016 2,15 2,33 2,29 3,84 3,63 5,96 6,49 5,68 3,93 3,66 3,94 3,85 3,98
TB tháng 2,68 1,94 2,18 2,97 3,36 5,09 5,13 5,15 3,28 3,19 3,04 3,61
Bảng 10: Diễn biến mật độ bọ rùa đỏ Micraspis discolor trên chè chè lai LDP1, 3 tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ
Năm
Mật độ bọ rùa đỏ Micraspis discolor (con/m2)
TB năm
Tháng
1
Tháng
2
Tháng
3
Tháng
4
Tháng
5
Tháng
6
Tháng
7
Tháng
8
Tháng
9
Tháng
10
Tháng
11
Tháng
12
Năm 2014 2,10 2,34 3,30 2,25 3,45 5,97 4,71 4,89 2,73 1,14 1,47 1,47 2,99
Năm 2015 3,24 4,92 4,50 4,77 2,73 4,89 6,54 2,73 3,18 2,73 3,57 0,90 3,73
Năm 2016 3,42 3,39 5,13 5,16 8,28 9,48 6,93 5,88 5,31 4,20 7,20 3,21 5,63
TB tháng 2,92 3,55 4,31 4,06 4,82 6,78 6,06 4,50 3,74 2,69 4,08 1,86
Bảng 11: Diễn biến mật độ bọ rùa 6 vằn Menochilus sexmaculatus trên chè lai LDP1, 3 tuổi tại Hạ Hòa, Phú Thọ
Năm
Mật độ bọ rùa 6 vằn Menochilus sexmaculatus (con/m2)
TB năm
Tháng
1
Tháng
2
Tháng
3
Tháng
4
Tháng
5
Tháng
6
Tháng
7
Tháng
8
Tháng
9
Tháng
10
Tháng
11
Tháng
12
Năm 2014 0,72 1,10 2,01 0,75 3,19 2,60 4,86 4,76 6,28 2,88 0,75 0,32 2,52
Năm 2015 2,55 0,90 1,98 2,61 4,02 4,00 6,61 5,85 7,64 4,02 4,75 0,58 3,79
Năm 2016 1,52 0,85 0,98 4,56 2,22 2,38 6,31 7,47 7,62 5,70 7,95 3,90 4,29
TB tháng 0,75 0,95 1,66 2,64 3,14 2,99 5,93 6,03 7,18 4,20 4,48 1,60
Bảng 12: Diễn biến mật độ tập hợp bọ rùa bắt mồi trên chè lai LDP1, 3 tuổitại Hạ Hòa, Phú Thọ
Năm
Mật độ tập hợp bọ rùa bắt mồi (con/m2)
TB năm
Tháng
1
Tháng
2
Tháng
3
Tháng
4
Tháng
5
Tháng
6
Tháng
7
Tháng
8
Tháng
9
Tháng
10
Tháng
11
Tháng
12
Năm 2014 0,76 1,93 3,89 3,49 3,48 3,37 3,62 3,49 4,68 3,28 3,22 1,75 3,08
Năm 2015 2,80 3,50 2,65 2,59 3,41 3,32 4,13 3,69 4,98 3,79 3,63 2,12 3,38
Năm 2016 3,07 3,65 3,12 3,56 4,22 5,47 5,50 6,04 6,13 4,36 5,96 2,80 4,49
TB tháng 2,21 3,03 3,22 3,21 3,70 4,06 4,42 4,41 5,26 3,81 4,27 2,22
Bảng 13: Mật độ 1 số loài bọ xít bắt mồi và vật mồi của chúng trên chè tại Phú Thọ
Năm Tháng
Mật độ bọ trĩ
Physothrips
sentiventris
Mật độ bọ xít
nâu đen nhỏ
bắt mồi Orius
sauteri
Mật độ tập
hợp sâu
cánh vẩy
Bọ xít cổ
ngỗng đen bắt
mồi Sycanus
croceovittatus
2014
Tháng 1 3,20 0,36 0,54 0,40
Tháng 2 4,07 0,20 1,10 0,29
Tháng 3 6,12 0,22 1,31 0,65
Tháng 4 12,05 0,40 1,14 0,27
Tháng 5 16,81 1,65 1,02 0,43
Tháng 6 26,8 1,02 0,89 0,73
Tháng 7 47,36 0,96 1,18 0,23
Tháng 8 42,15 0,50 1,12 0,54
Tháng 9 39,45 1,45 1,13 0,38
Tháng 10 22,35 1,67 1,24 0,30
Tháng 11 12,24 0,73 1,39 0,26
Tháng 12 4,27 0,56 0,73 0,20
2015
Tháng 1 6,6 0,50 1,12 0,43
Tháng 2 6,87 0,66 1,44 0,58
Tháng 3 7,7 0,50 1,43 0,27
Tháng 4 13,05 0,62 1,22 0,36
Tháng 5 19,76 2,04 1,18 0,48
Tháng 6 27,05 1,70 1,13 0,95
Tháng 7 60,56 1,21 1,21 0,20
Tháng 8 51,75 1,10 1,16 0,52
Tháng 9 41,4 1,43 1,18 0,38
Tháng 10 28,88 2,10 1,25 0,33
Tháng 11 14,4 0,59 1,38 0,35
Tháng 12 6,9 0,70 1,45 0,35
2016
Tháng 1 8,12 0,67 1,24 0,60
Tháng 2 9,53 0,85 1,57 0,68
Tháng 3 12 0,92 1,52 0,58
Tháng 4 14,72 1,11 1,40 0,54
Tháng 5 14,9 2,27 1,34 0,67
Tháng 6 49,4 1,81 1,24 1,15
Tháng 7 77,65 1,31 1,34 0,54
Tháng 8 67,6 1,17 1,26 0,65
Tháng 9 62,64 1,55 1,26 0,41
Tháng 10 36,76 2,27 1,28 0,53
Tháng 11 19,00 0,76 1,57 0,47
Tháng 12 4,92 0,89 1,52 0,46
Ghi chú: Mật độ là con/m2
Bảng 14: Mật độ 1 số loài bọ rùa bắt mồi và rệp muội trên chè tại Phú Thọ
Năm Tháng
Rệp muội
hại chè
Toxoptera
aurantii
Bọ rùa
đỏ bắt
mồi
Micraspis
discolor
Bọ rùa 6 vằn
bắt mồi
Menochilus
sexmaculatus
Tập hợp bọ
rùa bắt mồi
2014
Tháng 1 11,00 2,10 0,72 2,82
Tháng 2 15,93 2,34 1,10 5,79
Tháng 3 32,72 3,30 2,01 8,67
Tháng 4 30,45 2,25 0,75 4,46
Tháng 5 28,00 3,45 3,19 10,44
Tháng 6 17,95 5,97 2,60 10,11
Tháng 7 17,70 4,71 4,86 10,87
Tháng 8 11,32 4,89 4,76 7,48
Tháng 9 10,20 2,73 6,28 11,03
Tháng 10 11,10 1,14 2,88 7,02
Tháng 11 12,24 1,47 0,75 6,67
Tháng 12 101,47 1,47 0,32 5,24
2015
Tháng 1 87,88 3,24 2,55 8,41
Tháng 2 58,53 4,92 0,90 7,50
Tháng 3 48,20 4,50 1,98 7,95
Tháng 4 56,60 4,77 2,61 7,38
Tháng 5 53,52 2,73 4,02 10,24
Tháng 6 37,05 4,89 4,00 10,98
Tháng 7 14,90 6,54 6,61 13,14
Tháng 8 12,24 2,73 5,85 11,08
Tháng 9 9,00 3,18 7,64 14,93
Tháng 10 8,32 2,73 4,02 11,38
Tháng 11 14,80 3,57 4,75 10,89
Tháng 12 57,35 0,90 0,58 3,36
2016
Tháng 1 68,16 3,42 1,52 6,21
Tháng 2 73,27 3,39 0,85 7,95
Tháng 3 80,05 5,13 0,98 9,36
Tháng 4 20,48 5,16 4,56 7,68
Tháng 5 30,85 8,28 2,22 9,66
Tháng 6 45,20 9,48 2,38 8,85
Tháng 7 15,12 6,93 6,31 13,23
Tháng 8 20,30 5,88 7,47 13,35
Tháng 9 22,95 5,31 7,62 12,00
Tháng 10 36,76 4,20 5,70 12,00
Tháng 11 41,10 7,20 7,95 15,15
Tháng 12 92,08 3,21 3,90 4,50
Ghi chú: Mật độ là con/m2