28
đào minh đức, 02.02.2011 1 SKHOA HC & CÔNG NGHTNH VĨNH LONG CHƯƠNG TRÌNH HTRPHÁT TRIN TÀI SN TRÍ TUCA DOANH NGHIP Chuyên đề MÔ THC TCHC HOT ĐỘNG QUN TRTÀI SN TRÍ TUTRONG DOANH NGHIP TS. Đào Minh Đức 1. Tóm tt 01 2. Sáng kiến đổi mi và tài sn trí tu02 3. Đối tượng shu trí tuvà quyn shu trí tu03 4. Các đơn vtài sn trí tutrong các mt hot động khác nhau ca doanh nghip 06 5. Các ri ro thường gp liên quan đến các tài sn trí tu09 6. Mt sđặc đim ca hot động qun trtài sn trí tu13 7. Mt mô thc tchc hot động qun trtài sn trí tutrong doanh nghip 15 8. Mt skết quban đầu trong vic tchc hot động nghiên cu và thc hành vqun trtài sn trí tuti Thành phHChí Minh 21 9. Kết lun 22 1. Tóm tt Qun trtài sn trí tulà mt trong các lĩnh vc qun trchuyên ngành tương đối mi, xut hin ti các nước phát trin tthp niên 1990s, nhưng chưa được nghiên cu và áp dng mt cách có hthng ti Vit Nam. Theo yêu cu chia skinh nghim vi mt sdoanh nghip tnh Vĩnh Long, bài viết gii thiu mt sđúc kết ban đầu qua các hot động nghiên cu và thc hành ca tp ththành viên tham gia Chương trình Đào to Qun trviên Tài sn trí tudo SKhoa hc và Công nghTP.HCM phi hp cùng Vin Khoa hc Shu Trí tuVit Nam thuc BKH&CN tchc, bt đầu ttháng 5.2008, vi shtrchuyên môn ca nhiu chuyên gia, công chc thuc nhiu tchc khác nhau như: Văn phòng Đại din Cc Shu Trí tu, Văn phòng Đại din Cc Bn quyn Tác gi, Văn phòng Đại din Cc Trng trt, Văn phòng Đại din Cc Qun lý Cnh tranh… ti TP.HCM, Trung Tâm Internet Vit Nam, Hi Shu Trí tuTP.HCM..., nhm góp phn trin khai Chương trình HtrPhát trin Tài sn trí tuđã được ThTướng Chính phphê duyt theo đề nghca BKhoa hc và Công ngh.

MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

  • Upload
    letram

  • View
    218

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 1

SỞ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ TỈNH VĨNH LONG CHƯƠNG TRÌNH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN TÀI SẢN TRÍ TUỆ CỦA DOANH NGHIỆP

Chuyên đề

MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ TRONG DOANH NGHIỆP

TS. Đào Minh Đức

1. Tóm tắt 01

2. Sáng kiến đổi mới và tài sản trí tuệ 02

3. Đối tượng sở hữu trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ 03

4. Các đơn vị tài sản trí tuệ trong các mặt hoạt động khác nhau của doanh nghiệp 06

5. Các rủi ro thường gặp liên quan đến các tài sản trí tuệ 09

6. Một số đặc điểm của hoạt động quản trị tài sản trí tuệ 13

7. Một mô thức tổ chức hoạt động quản trị tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp 15

8. Một số kết quả ban đầu trong việc tổ chức hoạt động nghiên cứu và thực hành về quản trị tài sản trí tuệ tại Thành phố Hồ Chí Minh

21

9. Kết luận 22

1. Tóm tắt

Quản trị tài sản trí tuệ là một trong các lĩnh vực quản trị chuyên ngành tương đối mới, xuất hiện tại các nước phát triển từ thập niên 1990s, nhưng chưa được nghiên cứu và áp dụng một cách có hệ thống tại Việt Nam.

Theo yêu cầu chia sẻ kinh nghiệm với một số doanh nghiệp tỉnh Vĩnh Long, bài viết giới thiệu một số đúc kết ban đầu qua các hoạt động nghiên cứu và thực hành của tập thể thành viên tham gia Chương trình Đào tạo Quản trị viên Tài sản trí tuệ do Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM phối hợp cùng Viện Khoa học Sở hữu Trí tuệ Việt Nam thuộc Bộ KH&CN tổ chức, bắt đầu từ tháng 5.2008, với sự hỗ trợ chuyên môn của nhiều chuyên gia, công chức thuộc nhiều tổ chức khác nhau như: Văn phòng Đại diện Cục Sở hữu Trí tuệ, Văn phòng Đại diện Cục Bản quyền Tác giả, Văn phòng Đại diện Cục Trồng trọt, Văn phòng Đại diện Cục Quản lý Cạnh tranh… tại TP.HCM, Trung Tâm Internet Việt Nam, Hội Sở hữu Trí tuệ TP.HCM..., nhằm góp phần triển khai Chương trình Hỗ trợ Phát triển Tài sản trí tuệ đã được Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt theo đề nghị của Bộ Khoa học và Công nghệ.

Page 2: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 2

2. Sáng kiến đổi mới (innovation) và tài sản trí tuệ (intellectual asset - IA)

Trước hết, trong hoạt động hàng ngày của một doanh nghiệp, bên cạnh các công việc đều đặn tuân thủ theo các quy trình đã được hoạch định, luôn luôn có thể xuất hiện các khó khăn cần phải khắc phục hoặc các tình huống ngoài dự liệu phải được xử lý, đòi hỏi người lao động ở các vị trí liên quan phải suy nghĩ và tìm ra các cách thức, biện pháp giải quyết. Các giải pháp hữu dụng mới nảy sinh đó được gọi chung là các sáng kiến đổi mới (innovation) 1. Cụ thể, Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể phát hiện một cơ hội đầu tư mới trên sân gôn, Trưởng Phòng Kỹ thuật trong một lần lướt web có thể tìm thấy một sáng chế ở nước ngoài có giá trị khai thác thương mại tại thị trường nhiều nước khác mà chủ sở hữu sáng chế đã không quan tâm đến và cũng không còn cơ hội đăng ký bảo hộ tại các thị trường đó, một nhà thiết kế (designer) trong một phút ngẫu hứng có thể phác họa một mẫu thiết kế sẽ trở thành một trong các chỉ dẫn thương mại quan trọng nhất trong phong cách kinh doanh (corporate identity) của công ty, một nhân viên marketing đang mải miết quan sát cách trình bày và thái độ chọn mua của khách trước quầy hàng trong siêu thị có thể bật ra trong đầu một tên nhãn hiệu (brand name) mới có tính phân biệt cao và độ gợi nhớ tốt giúp tiết giảm chi phí truyền thông trong giai đoạn đầu xâm nhập thị trường cho một sản phẩm mới, một công nhân cơ khí thành thạo có thể chợt chú ý và phát hiện sự thay đổi đôi chút trong độ cong của một chi tiết máy đã làm tăng độ ổn định ở đầu ra của một dây chuyền ngoại nhập sử dụng nguyên, vật liệu nội địa…

Dòng sáng kiến đa dạng đó, một khi được bộc lộ ra và cụ thể hóa theo một quy trình quản trị thích hợp, sẽ là các tri thức mới hòa thêm vào dòng dữ liệu (data), dòng thông tin (information) và dòng tri thức (knowledge) hiện có trong tổ chức, giúp bổ sung và phát triển không ngừng dòng tài sản trí tuệ (intellectual asset - IA) của doanh nghiệp.

Có thể giải thích chi tiết hơn hai thuật ngữ “tài sản” và “trí tuệ” trong khái niệm “tài sản trí tuệ” như sau:

“Tài sản” theo nghĩa pháp lý được phân thành bốn dạng: tiền, vật, giấy tờ có giá và “quyền tài sản” 2. “Quyền tài sản” là các quyền trị giá được bằng tiền và có thể trao đổi trong giao dịch 1 Thuật ngữ “innovation” được nhiều nhà nghiên cứu và thực hành khác nhau hiểu và diễn giải theo một số cách

khác nhau, phù hợp với góc độ chuyên môn của mỗi giới. Trong quản trị sản xuất/cung ứng dịch vụ, “innovation” có thể được dịch đơn giản là “sáng kiến” bao gồm cả sáng kiến kỹ thuật và sáng kiến kinh doanh (pháp luật về sáng kiến của Việt Nam trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa dùng cụm từ “sáng kiến cải tiến kỹ thuật và hợp lý hóa sản xuất). Trong quản trị công nghệ, “innovation” thường được hiểu là các giải pháp cụ thể hóa các sáng chế (invention) vào sản xuất/cung ứng dịch vụ. Gần đây, ở góc độ quản lý vĩ mô, nhiều người đang sử dụng thuật ngữ “innovation” với ý nghĩa là các “giải pháp đổi mới” mang tính hệ thống. Để có thể dung hợp được nhiều cách hiểu khác nhau trong việc xây dựng lĩnh vực nghiên cứu về quản trị tài sản trí tuệ (intellectual asset management) tại Việt Nam, người viết sử dụng thuật ngữ “sáng kiến đổi mới” mà trong bối cảnh quản trị vi mô, có thể gọi vắn tắt là sáng kiến.

2 Theo Điều 163 Bộ Luật Dân sự

Page 3: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 3

dân sự (như quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê mướn cầu thủ, thỏa thuận gia công...), kể cả quyền sở hữu trí tuệ 3. Quyền sở hữu đối với một tài sản cụ thể 4 bao gồm ba khía cạnh: quyền chiếm hữu tài sản 5, quyền sử dụng tài sản 6 và quyền định đoạt tài sản 7.

“Trí tuệ” trong “tài sản trí tuệ” dùng để chỉ các sản phẩm trí tuệ, thường được trình bày một cách đầy đủ, rõ ràng hoặc bộc lộ một phần trên rất nhiều tài liệu quen thuộc trong doanh nghiệp như: bản vẽ kỹ/mỹ thuật), đồ án thiết kế/bố trí mặt bằng/công trình kiến trúc…, bản mô tả quy trình kỹ thuật/sản xuất/tác nghiệp…, bản báo cáo thông tin/sưu tập dữ liệu/ cơ sở dữ liệu, phương án kỹ thuật/tác nghiệp/tổ chức sản xuất/tiếp thị/bán hàng/tài chính…

Theo đó, có thể tạm định nghĩa: “tài sản trí tuệ của một doanh nghiệp là bất kỳ các dữ liệu, thông tin hoặc bí quyết, tri thức nào mà một doanh nghiệp có thể sở hữu hoặc chiếm hữu một cách hợp pháp, thông qua hoạt động sáng kiến đổi mới bên trong doanh nghiệp hoặc tiếp nhận chuyển giao từ bên ngoài.

Một tài sản trí tuệ có thể được nhận biết tách biệt với các đơn vị tài sản khác (thí dụ, một quy trình công nghệ là tách biệt với dây chuyền thiết bị áp dụng quy trình công nghệ đó), có vòng đời công nghệ, vòng đời pháp lý hoặc vòng đời kinh doanh độc lập, sau đây sẽ được gọi là một đơn vị tài sản trí tuệ.

3. Đối tượng sở hữu trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ (intellectual property right – IPR)

Trong dòng sáng kiến đổi mới từ bên trong doanh nghiệp, có những sáng kiến chỉ có tác dụng cục bộ hoặc nhất thời mang tính kinh nghiệm chuyên môn cho một chức danh/vị trí lao động cụ thể; có những sáng kiến có thể áp dụng rộng rãi hơn trong cả doanh nghiệp hoặc có giá trị khai thác trong ngắn hạn hay trung hạn; có những sáng kiến lại có thể áp dụng lâu dài hoặc đại trà trong ngành, nghề và cần được bảo vệ thích đáng nhằm hạn chế khả năng sao chép để nhảy vào thị trường của các đối thủ cạnh tranh... Mỗi sáng kiến khả dụng đều có thể là một đơn vị tài sản trí tuệ theo định nghĩa bên trên.

Một đơn vị tài sản trí tuệ nếu có tính mới ở mức độ nhất định với vòng đời và giá trị thương mại lâu dài có thể trở thành một đối tượng sở hữu trí tuệ phù hợp với các định nghĩa tương ứng của pháp luật sở hữu trí tuệ về: sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, quyền tác giả (copyright), giống cây trồng... 8.

3 Theo Điều 181 Bộ Luật Dân sự 4 Theo Điều 164 Bộ Luật Dân sự 5 Được định nghĩa tại Điều 182 Bộ Luật Dân sự 6 Được định nghĩa tại Điều 192 Bộ Luật Dân sự 7 Được định nghĩa tại Điều 195 Bộ Luật Dân sự 8 Các định nghĩa này này được đưa ra tại Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ

Page 4: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 4

Tập hợp các đối tượng sở hữu trí tuệ mà một doanh nghiệp nắm giữ được gọi là tập đối tượng sở hữu trí tuệ (IP Portfolio) của doanh nghiệp đó. Pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành quy định có ba nhóm đối tượng sở hữu trí tuệ sau 9:

Đối tượng của quyền tác giả là các loại tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; đối tượng của quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm: cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá;

Đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp bao gồm: sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý;

Đối tượng của quyền đối với giống cây trồng: là vật liệu nhân giống và vật liệu thu hoạch

Một đối tượng sở hữu trí tuệ nếu thỏa mãn các điều kiện bảo hộ độc quyền tương ứng của pháp luật sở hữu trí tuệ và được doanh nghiệp xúc tiến đầy đủ các biện pháp hoặc thủ tục bảo hộ thích ứng, sẽ giúp xác lập một quyền sở hữu trí tuệ (IPR) cho doanh nghiệp như: bằng độc quyền sáng chế, bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu…

Theo đó, các đối tượng sở hữu trí tuệ và các quyền sở hữu trí tuệ là hai nhóm tài sản trí tuệ đặc biệt. Một doanh nghiệp có thể tạo ra nhiều đối tượng sở hữu trí tuệ, nhưng nếu chưa quan tâm đến việc vận dụng pháp luật sở hữu trí tuệ để biến các đối tượng sở hữu trí tuệ đó thành các độc quyền thương mại và do vậy, không xúc tiến các thao tác hoặc thủ tục tương ứng theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ, sẽ không có được quyền sở hữu trí tuệ đối với chính các đối tượng sở hữu trí tuệ đó. Nói một cách khác, có thể coi như doanh nghiệp đã tự từ bỏ một tài sản (dưới dạng quyền tài sản) đối với thành quả của quá trình sáng tạo hoặc đầu tư cho sáng tạo của chính mình.

Khác biệt quan trọng nhất của các quyền sở hữu trí tuệ so với các tài sản trí tuệ khác, nói theo ngôn ngữ quản trị, là độc quyền sử dụng trong thương mại 10: chưa được sự cho phép của (các) chủ sở hữu, không một chủ thể nào khác được phép sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ tương ứng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh tại các lãnh thổ đã được bảo hộ.

Hai ví dụ sau đây minh họa phần nào tác dụng của các quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động marketing.

9 Theo Điều 3 Luật Sở hữu trí tuệ 10 Ngôn ngữ pháp lý sử dụng cách phát biểu chặt chẽ hơn, theo đó, quyền sở hữu trí tuệ là “quyền phủ định” hành

vi sử dụng của các chủ thể khác đối với đối tượng sở hữu trí tuệ đã được bảo hộ

Page 5: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 5

Giả định doanh nghiệp X muốn tung ra thị trường một sản phẩm mới. Nếu không vận dụng đến các độc quyền sở hữu trí tuệ, ngay trong giai đoạn đầu xâm nhập thị trường, hàng loạt vấn đề tiếp thị quen thuộc sẽ được đặt ra như: nên tung sản phẩm ra ở quy mô nào? Nếu chỉ tung loạt nhỏ để kiểm nghiệm thực tế về nhu cầu (need) và ý thích (wants) của khách hàng và may mắn là sản phẩm mới được thị trường hưởng ứng, các đối thủ cạnh tranh sẽ nhận biết ngay được thời cơ kinh doanh mới và nếu họ lại mạnh hơn về lợi thế thương mại, lợi thế công nghệ, lợi thế tài chính hoặc lợi thế hình ảnh, doanh nghiệp X có thể sẽ không kịp xác lập được thị phần kỳ vọng. Ngược lại, nếu doanh nghiệp X đã tổ chức nghiên cứu thị trường (vốn khá tốn kém), ghi nhận được các đánh giá lạc quan và quyết định sẽ tung sản phẩm trên quy mô lớn nhằm tạo rào cản ban đầu đối với các đối thủ cạnh tranh; sau đó, mức độ hưởng ứng thực tế của khách hàng mục tiêu lại không đạt kỳ vọng, kế hoạch doanh thu trong ngắn và trung hạn sẽ gặp vấn đề lớn.

Đây là một trong các thách thức thường gặp đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng gánh nặng marketing này có thể được giảm nhẹ nếu doanh nghiệp X quan tâm xác lập quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế hoặc/và kiểu dáng công nghiệp hoặc/và giống cây trồng hoặc/và quyền tác giả hoặc/và nhãn hiệu có thể có… đối với sản phẩm mới đó. Thí dụ, với ngày ưu tiên được ghi nhận trên các đơn đăng ký hợp lệ đối với sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp… liên quan, doanh nghiệp X đã tạo dựng được một lợi thế pháp lý 11 ban đầu để có thể yên tâm xúc tiến chiến dịch tung sản phẩm mới ở bất kỳ quy mô nào, với bất kỳ mức giá nào 12 mà doanh nghiệp cho là phù hợp nhất, mà chưa cần phải bận tâm đến các phản ứng ngắn hạn của các đối thủ cạnh tranh

Trong kinh doanh quốc tế, quyền sở hữu trí tuệ càng thể hiện rõ hơn vai trò của một lợi thế pháp lý trong việc bảo vệ các cơ hội đầu tư. Giả định, cũng doanh nghiệp X khi chào thử một mẫu hàng thủ công mỹ nghệ mới qua thị trường một số nước phát triển và may mắn nhận được tín hiệu đáp ứng lạc quan từ thị trường quốc tế, thể hiện qua các đơn đặt hàng ngày càng nhiều. Ứng xử truyền thống của doanh nghiệp X thường là tiếp tục khai thác hoặc nếu cần thì mở rộng năng lực sản xuất hiện hữu để đáp ứng nhu cầu. Tuy nhiên, nếu chú ý đến việc mẫu hàng mới đó có thể được bảo hộ quyền tác giả theo Công ước Berne tại trên 160 nước khác trên thế giới, doanh nghiệp X có thể vận dụng thêm một phương thức kinh doanh khác: chọn lựa một hoặc một số đối tác cùng ngành nghề tại từng nước sở tại, đàm phán cấp quyền sử dụng (hợp đồng li-xăng độc quyền/không độc quyền) đối với tác phẩm của mình cho đối tác đó để họ đảm nhiệm khâu tổ chức sản xuất và tiếp thị và chia lại lợi nhuận bằng cách trả phí bản quyền (royalty) cho doanh 11 Thay vì tìm cách củng cố lợi thế thương mại thông qua kênh phân phối (distribution channel) hoặc chính sách

giá (pricing policy) theo các phương án marketing truyền thống 12 Trong khuôn khổ quy định của pháp luật về giá và pháp luật về cạnh tranh

Page 6: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 6

nghiệp X theo mức thỏa thuận trong hợp đồng li-xăng. Khi này, hàng loạt vấn đề truyền thống trong việc tổ chức sản xuất trong nước để xuất khẩu ra nước ngoài có thể được giảm nhẹ: sự biến động của giá cả nguyên/vật liệu, các quy định về bảo vệ môi trường, tỷ giá hối đoái, vận tải và giao nhận hàng hóa, hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), kiện tụng chống phá giá, kênh phân phối trên thị trường hải ngoại…

Theo đó, bài toán mới đối với doanh nghiệp X sẽ trở thành: phân tích hiệu quả và rủi ro tài chính của phương án sản xuất – tiếp thị truyền thống với phương án kinh doanh tài sản trí tuệ mà trong trường hợp này là khai thác thương mại quyền tác giả đối với tác phẩm.

Người quan tâm cũng nên chú ý thêm rằng, bên cạnh việc điều chỉnh các quá trình xác lập, bảo vệ và chuyển giao quyền tài sản đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ, pháp luật sở hữu trí tuệ cũng có các quy định bảo vệ quyền nhân thân và quyền tài sản của các tác giả và đồng tác giả đã tạo ra các đối tượng sở hữu trí tuệ đó trong mối quan hệ giữa họ với chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ (cụ thể như: quyền đứng tên trên văn bằng độc quyền, quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền nhận thù lao hoặc giải thưởng liên quan…).

4. Các đơn vị tài sản trí tuệ trong các mặt hoạt động khác nhau của doanh nghiệp

Trong nền kinh tế tri thức, các tài sản trí tuệ có xu thế chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng nguồn lực và tổng giá trị của một doanh nghiệp. Tài sản trí tuệ được vận dụng đến hàng ngày và cũng không ngừng phát sinh mới tại nhiều vị trí lao động chuyên môn khác nhau, trong nhiều khâu tác nghiệp khác nhau, trong mối quan hệ với nhiều đối tác kinh doanh khác nhau. Có thể hình dung chi tiết hơn quá trình này dọc theo các khâu trong một chuỗi giá trị (value chain) sản xuất hàng hóa/cung ứng dịch vụ của một doanh nghiệp như sau:

Trong khâu chuẩn bị sản xuất, các đơn vị tài sản trí tuệ thường xuyên được vận dụng đến hoặc có thể phát sinh mới như: các bí mật kinh doanh về danh sách của một số nhà cung ứng đặc biệt hoặc phương thức giao nhận – thanh toán một số vật tư đầu vào đặc biệt, các bí mật kinh doanh hoặc sáng chế về quy trình nhập/lưu/xuất kho, các sáng kiến cải tiến hoặc các sáng chế mới đối với các phương tiện/công cụ hoặc quy trình xếp dỡ/bảo quản/vận chuyển/kiểm tra/ lưu kho, các sáng chế về thiết kế cấu trúc hệ thống hoặc giải thuật đối với phần mềm quản lý vật tư hoặc/và chương trình máy tính tương ứng…

Trong khâu tổ chức sản xuất, các đơn vị tài sản trí tuệ thường xuyên được vận dụng đến hoặc có thể phát sinh mới như:

+ Các sáng kiến hoặc sáng chế về xử lý nguyên/vật liệu, về cải tiến/thiết kế mới đồ gá/công cụ/mạch điện-điện tử/thiết bị, về cải tiến/thiết kế mới các quy trình sản xuất/tác vụ, về cải tiến tính năng sản phẩm hoặc thiết kế sản phẩm mới theo yêu cầu từ khâu tiếp thị và bán hàng…;

Page 7: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 7

+ Các bí mật kinh doanh trong phương án bố trí mặt bằng/phân công lao động/kết nối thao tác/dây chuyền/thiết bị,…;

+ Các sáng chế phần mềm hoặc/và chương trình máy tính tương ứng để xử lý các chuỗi thông tin kỹ thuật/tác vụ trên các công đoạn sản xuất…;

+ Trong các ngành kinh doanh dịch vụ (lưu trú, vận chuyển, giải trí, truyền thông, ngân hàng, bảo hiểm…): các sáng chế phần mềm hoặc/và chương trình máy tính tương ứng để thu thập, phân nhóm và xử lý thông tin về khách hàng cùng đặc điểm sử dụng dịch vụ của họ (customer records), các giải pháp kỹ thuật/tổ chức để cải tiến các công đoạn khác nhau trong các quy trình dịch vụ… , các tác phẩm hoặc kiểu dáng công nghiệp đối với các mẫu thiết kế để nâng cao tính năng/phong cách của các phương tiện cung ứng dịch vụ (thiết kế không gian, trang bị nội/ngoại thất, dụng cụ phục vụ, dụng cụ trang trí, hệ thống thông tin…);

+ …

Trong khâu tiếp thị - bán hàng, các đơn vị tài sản trí tuệ thường xuyên được vận dụng đến hoặc có thể phát sinh mới như:

+ Thương hiệu (tên giao dịch của doanh nghiệp – trade name/house mark/corporate brand) và lô-gô (biểu tượng kinh doanh của doanh nghiệp), cùng các chỉ dẫn thương mại tạo nên các ấn tượng liên kết giúp phong phú hóa và khắc họa sâu phong cách kinh doanh của doanh nghiệp (corporate identity) như: màu sắc chủ đạo, các mẫu thiết kế kiến trúc, các mẫu thiết kế các phương tiện và giấy tờ giao dịch, các hoa văn/họa tiết/giai điệu đi kèm;

+ Các nhãn hiệu (brands) phục vụ các dòng hàng hóa/dịch vụ hoặc các phân mảng thị trường của từng dòng hàng hóa/dịch vụ khác nhau;

+ Các chỉ dẫn thương mại có liên quan để tạo nên các ấn tượng liên kết (brand associations) giúp phong phú hóa và khắc họa sâu phong cách của mỗi nhãn hiệu (brand identity) như: các mẫu thiết kế nhãn hàng hóa (label) và các mẫu thiết kế bao bì dùng cho nhãn hiệu, các hoa văn/họa tiết/màu sắc chủ đạo/giai điệu/nhân vật hoạt họa/hình ảnh được sử dụng tương đối ổn định qua các vòng đời nhãn hàng hóa/bao bì để duy trì nét nhất quán trong phong cách của nhãn hiệu (core identity); các hoa văn/họa tiết/màu sắc chủ đạo/giai điệu/nhân vật hoạt họa/hình ảnh đi kèm với nhãn hiệu trong ngắn hạn để đáp ứng với bối cảnh kinh doanh (như theo ý thích của khách hàng) và môi trường cạnh tranh (như theo ứng xử của các đối thủ cạnh tranh)…;

+ Phim ảnh, tờ rơi, bích chương, khẩu ngữ (slogan) hoặc các tài liệu khác sử dụng trong các chiến dịch truyền thông cho thương hiệu, cho các nhân vật hoặc sự kiện giúp khắc họa hình ảnh về doanh nghiệp (corporate image), hoặc để xây dựng hình ảnh của (các) nhãn hiệu (brand image);

Page 8: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 8

+ Các kiểu dáng công nghiệp hoặc tác phẩm đối với các mẫu thiết kế mang tính cải tiến sản phẩm hiện hữu hoặc đưa ra sản phẩm mới (product concept/service concept)…;

+ Các sáng kiến cải tiến nhằm nâng cao chất lượng, gia tăng giá trị hoặc khác biệt hóa phong cách của các dịch vụ hậu mãi; các tác phẩm viết hoặc đồ họa hỗ trợ hành vi tiêu dùng như sổ tay hướng dẫn sử dụng, sổ tay hướng dẫn bảo trì…;

+ Các bí mật kinh doanh về danh sách khách hàng, đặc điểm tiêu dùng của khách hàng, đặc biệt là khách hàng thân thiết (mức độ/kết cấu/sở thích/cách thức… tiêu dùng);

+ Các tác phẩm sử dụng trên trang web của doanh nghiệp hoặc trang web của các nhãn hiệu trong thương mại điện tử như: các giao diện với người sử dụng (user interface), chương trình máy tính có liên quan, các hình ảnh, mẫu thiết kế, đồ biểu, bài viết… chuyển tải thông tin, các sáng chế liên quan đến tính năng hoạt động của trang web (sofware patent) hoặc phương thức kinh doanh (business model patent) được thực hiện thông qua trang web…;

+ Các bí mật kinh doanh đối với các thông tin phân tích đối thủ cạnh tranh như: mũi nhọn R&D, tập đối tượng sở hữu trí tuệ, kết cấu phổ sản phẩm hoặc/và dịch vụ, chính sách giá cả, chiến lược và chiến thuật tổ chức kênh cung ứng /kênh phân phối, cách thức đáp ứng cạnh tranh…

+ …

Trong các khâu tham mưu, hoạch định và hỗ trợ kinh doanh như: kế hoạch, tài chính, nhân sự, quản trị chất lượng, công nghệ thông tin, hành chính tổng hợp…, các đơn vị tài sản trí tuệ thường xuyên được vận dụng đến hoặc có thể phát sinh mới như:

+ Các tác phẩm dưới dạng các quy chế, quy định, điều lệ khác nhau trong sản xuất/cung ứng dịch vụ, quản trị chất lượng, an toàn lao động, xây dựng văn hóa kinh doanh…;

+ Các tác phẩm bộc lộ qua hoặc các bí mật kinh doanh hàm chứa trong các loại sổ tay hướng dẫn thao tác/sản xuất/tác nghiệp…;

+ Các sưu tập dữ liệu hoặc cơ sở dữ liệu về các thông tin kỹ thuật, mỹ thuật, tài chính, thị trường tự xây dựng hoặc được chuyển giao (chuyển nhượng hoặc cấp li-xăng);

+ Các tác phẩm hoặc bí mật kinh doanh hàm chứa trong hoặc bộc lộ qua báo cáo, phúc trình, đề cương, đề án, kế hoạch, phương án…;

+ Các sáng chế về cấu trúc hệ thống hoặc giải thuật đối với các phần mềm phục vụ việc quản trị các mặt hoạt động khác nhau (kế toán, nhân sự, cơ sở tri thức, nguồn lực sản xuất…) và quyền tác giả đối với các chương trình máy tính liên quan;

+ …

Page 9: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 9

Trong quan hệ với đối tác kinh doanh (kể cả với các cơ quan công quyền), các đơn vị tài sản trí tuệ thường xuyên được vận dụng đến hoặc có thể phát sinh mới như:

+ Các tác phẩm hoặc bí mật kinh doanh dưới dạng dữ liệu, thông tin, đồ thị, bảng biểu, ý kiến nhận định/đánh giá/dự báo… do các nhà tư vấn về kinh doanh, pháp lý, tài chính, khoa học… bên ngoài thực hiện theo hợp đồng thuê khoán chuyên môn;

+ Các phần mềm, sáng chế, giống cây trồng, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn hoặc các công nghệ không độc quyền khác do tổ chức hoặc cá nhân là đối tác công nghệ thực hiện, thông qua hợp đồng thuê khoán kỹ thuật, hợp đồng hợp tác R&D, hợp đồng tài trợ nghiên cứu, hợp đồng tiếp nhận thực tập sinh…, do doanh nghiệp đầu tư/trang trải toàn bộ hoặc một phần chi phí nghiên cứu/triển khai;

+ Các bí mật kinh doanh hoặc thông tin không tiết lộ được trao đổi qua lại với các đối tác, thông qua các giao kết bảo mật hoặc không tiết lộ thông tin, từ bước đánh giá khả năng hợp tác, đến bước triển khai thực hiện các giao kết và cuối cùng là bảo vệ các dữ liệu/thông tin/bí quyết/tri thức mới hình thành…;

+ Các dữ liệu và thông tin cung cấp đến các cơ quan công quyền trong và ngoài nước để xúc tiến các thủ tục hành chính/pháp lý cần thiết theo yêu cầu của pháp luật tại nước sở tại như: dữ liệu khảo nghiệm, tiêu chuẩn kỹ thật cơ sở, một số dữ liệu/thông tin tài chính…;

+ …

5. Các rủi ro thường gặp liên quan đến các tài sản trí tuệ

5.1. Các rủi ro ở cấp độ lãnh đạo doanh nghiệp:

+ Đa số nhà đầu tư (investor) hiện vẫn quen nghĩ về các cơ hội đầu tư hay danh mục đầu tư thông qua các dòng tiền tệ hoặc các tài sản cố định/tài sản hữu hình (tangible assets). Do vậy, tuy đã ít nhiều lưu tâm đến vai trò của các đơn vị tài sản trí tuệ trong kinh doanh, hầu hết chủ sở hữu doanh nghiệp vẫn chưa nhận biết và phân biệt rõ ràng về chủng loại, bản chất và đặc điểm của các tài sản trí tuệ khác nhau; từ đó, chưa hình dung được cách thức quản trị thích hợp để đưa ra các yêu cầu cụ thể liên quan đến tài sản trí tuệ với các nhà điều hành trực tiếp (Ban Giám đốc, CEO, CFO, CIO…(C-suite)), bên cạnh các chỉ tiêu quen thuộc về thị phần, doanh thu, lợi nhuận, quản trị chất lượng, đổi mới công nghệ, tái cấu trúc…

+ Hầu hết các nhà điều hành trực tiếp hiện cũng chưa thể nhận biết và phân biệt rõ ràng các loại tài sản trí tuệ khác nhau, ngay cả khi họ đang điều hành doanh nghiệp một cách thành công trong ngắn hạn hoặc trung hạn, Từ đó, cũng chưa nhận diện được đầy đủ các rủi ro gắn liền với các tài sản trí tuệ trong từng khâu tác nghiệp cũng như trong toàn bộ chiến lược kinh doanh.

Page 10: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 10

+ Đôi khi, xung đột lợi ích liên quan đến các tài sản trí tuệ còn có thể xảy ra giữa bản thân các chủ sở hữu doanh nghiệp/nhà đầu tư với nhau, như khi một nhà đầu tư vừa sử dụng thông tin/bí quyết/kỹ năng riêng có để hợp tác kinh doanh với các đồng sở hữu chủ khác tại doanh nghiệp X, lại vừa ngầm sử dụng thông tin/bí quyết/kỹ năng đó cho doanh nghiệp Y của riêng mình hoặc có phần vốn góp của mình để ít nhiều cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp X;

+ Xung đột lợi ích liên quan đến các tài sản trí tuệ càng dễ xảy ra hơn giữa chủ sở hữu doanh nghiệp/nhà đầu tư với các nhà điều hành, như khi một CEO cố ý chiếm hữu riêng các thông tin quan trọng mà mình có dịp nắm bắt và xử lý, để trong tương lai có thể cạnh tranh ngược với doanh nghiệp mà mình đang được thuê mướn điều hành.

+ …

5.2. Các rủi ro trong hoạt động tác nghiệp: trong bối cảnh tập thể lãnh đạo còn chưa có điều kiện nhận biết đầy đủ về bản chất của vấn đề, các rủi ro liên quan đến các tài sản trí tuệ càng dễ nảy sinh tại các khâu tác nghiệp khác nhau trong doanh nghiệp, cụ thể như:

+ Đại đa số nhà kỹ thuật trong nước chưa có kỹ năng và thói quen tra cứu thông tin sáng chế trước khi tiến hành thiết kế, nên vừa chưa tiếp cận và hấp phụ được trình độ của đồng nghiệp quốc tế, vừa dễ nghiên cứu trùng lặp và lãng phí khiến trình độ kỹ thuật chung của Việt Nam chậm được đổi mới, vừa không đánh giá được cơ hội khai thác các sáng chế quốc tế khả dụng nhưng không bảo hộ tại các thị trường mục tiêu của doanh nghiệp hoặc đã hết thời hạn bảo hộ. Mặt khác, khi tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, cũng thiếu thông tin để đánh giá, định giá trong tiến trình đàm phán.

+ Người lao động chuyên môn không được hướng dẫn để nhận biết và không có nghĩa vụ phải khai báo kịp thời và đầy đủ với cấp quản lý liên quan về các đơn vị tài sản trí tuệ mới phát sinh, đặc biệt là các đối tượng sở hữu trí tuệ;

+ Từ đó, nhiều dữ liệu, thông tin hoặc tri thức về công nghệ/marketing/tài chính/thị trường… mới đã không được chú ý bảo vệ như một bí mật kinh doanh hoặc để bảo đảm về tính mới (novelty - với các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp hay giống cây trồng) hoặc tính nguyên gốc/nguyên tác (originality – với các loại hình tác phẩm), nhằm phục vụ các thủ tục/thao tác xác lập quyền sở hữu trí tuệ liên quan;

+ Nhiều doanh nghiệp hiện cũng đã đưa ra một số quy định về bảo mật trong các loại nội quy khác nhau như Nội quy lao động, Quy tắc sử dụng máy tính/mạng…, hoặc đã ban hành hẳn một Quy chế bảo mật độc lập. Tuy nhiên, khi chưa nắm vững cách thức nhận diện tách bạch và rõ ràng từng đơn vị tài sản trí tuệ cụ thể, chưa hiểu rõ phạm vi bảo hộ cùng thủ tục xác lập quyền đối

Page 11: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 11

với từng đối tượng sở hữu trí tuệ, các quy định về bảo mật cũng không thể phát huy đầy đủ hiệu quả pháp lý. Thí dụ: thông tin mật có thể không được đánh dấu và lưu giữ đúng cách nên mất khả năng ràng buộc và chế tài đối với các hành vi vô tình hoặc cố ý tiết lộ, đối thủ cạnh tranh có thể nắm bắt thông tin rò rỉ và thực hiện các hành vi khai thác thương mại/đăng ký bảo hộ/công bố…, làm mất tính mới của đối tượng sở hữu trí tuệ liên quan…;

+ Trong bối cảnh đó, một bộ phận người lao động chuyên môn sẽ có xu hướng giữ riêng và chiếm hữu nhiều dữ liệu/thông tin/bí quyết/tri thức/đơn vị tài sản trí tuệ mới do mình tạo ra hoặc tham gia tạo ra trong các hoạt động thực hiện theo hợp đồng/nhiệm vụ được giao (work for hire), nhằm có thể sử dụng vì lợi ích riêng tư hoặc lợi ích của một bên thứ ba. Thí dụ, kỹ sư có thể không báo cáo hết các phương án thiết kế, nhà tạo mẫu có thể không trình bày hết ý tưởng sáng tạo, giám đốc marketing hoặc giám đốc nhãn hiệu có thể không đưa vào hồ sơ lưu trữ của doanh nghiệp một số kết quả nghiên cứu thị trường, giám đốc tài chính giữ riêng một số thông tin liên quan đến các nguồn/cơ chế tín dụng ưu đãi…, làm tăng động cơ và theo đó là tỷ lệ người lao động chuyên môn rời bỏ doanh nghiệp (staff/labor turnover);

+ Một số doanh nghiệp hiện cũng đã tổ chức hoặc đang duy trì hoạt động quản trị sáng kiến đổi mới (innovation management), bao gồm cả các cơ chế khen thưởng để khuyến khích việc đưa ra các ý kiến sáng tạo ở nhiều cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, hầu như chưa doanh nghiệp nào chú ý đầy đủ đến các quy định pháp lý liên quan đến việc phân định quyền sở hữu/đồng sở hữu đối với các đơn vị tài sản trí tuệ mới phát sinh, đến quyền nhân thân và quyền tài sản của các tác giả và đồng tác giả, đặc biệt là các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Điều đó ít nhiều làm nảy sinh lòng nghi ngại và cân nhắc khi người sáng tạo mong muốn được hưởng mức thù lao xứng đáng để có thể tận tâm cống hiến. Từ đó, hoạt động sáng kiến cũng chưa thể phát huy hết tác dụng kỳ vọng, nhiều khi chỉ mang tính phong trào hoặc chỉ nhằm giúp khai tăng các chi phí hợp lệ, tiết giảm lợi nhuận/thuế thu nhập doanh nghiệp;

+ Trong mối quan hệ với các đối tác, trong nhiều trường hợp doanh nghiệp không đưa ra hoặc đưa ra một cách không phù hợp các quy định liên quan đến bảo mật (thí dụ, nghĩa vụ bảo mật của nhà tư vấn pháp lý/công nghệ/tài chính/nghiên cứu thị trường…). Ngày nay, tuy hầu hết các cá nhân/tổ chức cung ứng dịch vụ tư vấn đều có quy tắc đạo đức nghề nghiệp của mình trong việc bảo mật thông tin của khách hàng, nhưng sự dễ dãi/thiếu cẩn trọng trong giao kết bảo mật vẫn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro trong tương lai, trong bối cảnh các dữ liệu, thông tin, bí quyết và tri thức ngày càng trở thành một nguồn lực trực tiếp trong hoạt động sản xuất/cung ứng dịch vụ và thường gắn liền với các cơ hội kinh doanh;

+ Cũng trong mối quan hệ với các đối tác, hầu hết các doanh nghiệp đều chưa chú ý giao kết hoặc giao kết chưa đúng cách về các vấn đề liên quan đến các đơn vị tài sản trí tuệ mới phát sinh

Page 12: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 12

trong quá trình thực hiện/triển khai các loại hợp đồng như: hợp đồng thuê khoán chuyên môn, hợp đồng R&D, hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng nghiên cứu thị trường… Cụ thể như các giao kết về cách phân định quyền sở hữu/tỷ lệ sở hữu, nghĩa vụ/thủ tục ghi nhận, thông báo và chuyển giao đầy đủ và kịp thời các đơn vị tài sản trí tuệ mới phát sinh… Hệ quả là, nhiều đơn vị tài sản trí tuệ đã bị bỏ sót hoặc rơi về tay đối tác, thay vì có thể trở thành quyền tài sản của doanh nghiệp và trở thành một công cụ hoặc một nguồn lực kinh doanh;

+ Đa số doanh nghiệp nếu có chú ý đến thì vẫn quen sử dụng các đơn vị tài sản trí tuệ như một công cụ sản xuất/cung ứng dịch vụ, rất ít doanh nghiệp chú ý đến khía cạnh tài chính của tài sản trí tuệ như: ghi nhận các đơn vị tài sản trí tuệ như một đơn vị Tài sản Cố định vô hình (theo Chuẩn mực kế toán số 4 13) để tiến hành quản lý và khấu hao theo quy định 14, chuyển giao công nghệ hoặc cấp li-xăng cho đối tác trong/ngoài nước (trong đó, nhượng quyền thương mại (franchising) là một mô thức li-xăng đặc biệt)… Từ đó, doanh nghiệp đã vô tình bỏ qua hoặc không biết cách vận dụng một số chiến thuật/sách lược tài chính có liên quan như: chuyển giá nội bộ/quốc tế (transfer pricing) một cách thích đáng, góp vốn bằng tài sản trí tuệ, chuyển giao các tài sản trí tuệ không sử dụng được/sử dụng không hiệu quả trong chuỗi giá trị doanh nghiệp để tạo thêm dòng tiền hoặc giúp hình thành các liên minh chiến lược (strategic alliances)…;

+ …

5.3. Các rủi ro liên quan đến các quyền sở hữu trí tuệ: trong trường hợp các đơn vị tài sản trí tuệ mới phát sinh là một đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ và đã được xác lập quyền sở hữu trí tuệ liên quan, doanh nghiệp vẫn có thể gặp phải các rủi ro như:

+ Không chú ý theo dõi hoạt động sở hữu trí tuệ của đối thủ cạnh tranh nên không phản ứng kịp thời với một số hành vi của họ có thể gây xung đột về quyền sở hữu trí tuệ như: sử dụng/đăng ký nhãn hiệu tương tự và có thể gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được bảo hộ của doanh nghiệp, sao chép một phần các tác phẩm (hoa văn, họa tiết, bao bì, mẫu thiết kế, thông điệp/giai điệu quảng cáo…) để lợi dụng thành quả đầu tư hoặc hòa loãng phong cách của nhãn hiệu (brand identity dilution) và theo đó là hình ảnh của nhãn hiệu (brand image dilution) của doanh nghiệp, sao chép hoặc sử dụng trái phép các sáng chế/giải pháp hữu ích/phần mềm/giống cây trồng… của doanh nghiệp;

+ Chưa chú ý quản lý toàn diện các thông số của tập quyền sở hữu trí tuệ (IPR portfolio). Thí dụ: một Công ty sản xuất hàng tiêu dùng (fast moving consumer goods) sử dụng 50 nhãn hiệu (brand portfolio) để tiếp thị, nếu mỗi nhãn hiệu được đăng ký vào 5 nước khác nhau thì về lý

13 Ban hành kèm theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31.12.2001 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính. 14 Theo văn bản hiện hành là Thông tư 203/2009/TT-BTC ngày 20.10.2009 của Bộ Tài Chính

Page 13: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 13

thuyết, Công ty đang quản lý đến 250 Giấy Chứng nhận Đăng ký Nhãn hiệu (trademark portfolio), mỗi Giấy Chứng nhận có một số thông số thời gian khác nhau như ngày cấp văn bằng bảo hộ, ngày gia hạn hiệu lực… cần được theo dõi. Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp hàng tiêu dùng Việt Nam đã bảo hộ trên 100 nhãn hiệu, trong đó, có nhiều nhãn hiệu đăng ký vào vài mươi nước khác nhau. Khi này, nếu không chú ý theo dõi để gia hạn kịp thời, một số Giấy Chứng nhận Đăng ký Nhãn hiệu có thể vô tình bị mất hiệu lực tại lãnh thổ bảo hộ liên quan;

+ Hoạt động bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ đã được xác lập tại Việt Nam còn nhiều mặt hạn chế, đặc biệt là vai trò của hệ thống Tòa án trong việc xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn mờ nhạt, lý luận về tố tụng sở hữu trí tuệ còn nghèo nàn. Việc giao thẩm quyền và trách nhiệm cho một số cơ quan hành chính (Quản lý Thị trường, Công an Kinh tế, Hải quan, …) phải xử lý cả các hành vi xâm phạm quyền (không phải là hành vi sản xuất hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ), đã đặt các công chức hành chính liên quan vào tình huống phải “suy diễn” quy phạm pháp luật (thí dụ, đánh giá khả năng xâm phạm quyền của hai nhãn hiệu tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhau), thay vì “chỉ thực hành theo những gì pháp luật quy định”. Một hệ quả là, trong một số tình huống nhất định, hai cơ quan có thẩm quyền xử lý như nhau thuộc hai hệ thống hành chính khác nhau hoặc hai địa phương khác nhau có thể có các suy diễn khác nhau về một vụ việc xung đột quyền giống nhau, khiến các quy phạm pháp luật (vốn về bản chất có tính rõ ràng và đơn nghĩa) có thể trở thành mù mờ và bất nhất. Vì vậy, một số doanh nghiệp lớn (nhất là các tập đoàn hàng tiêu dùng nước ngoài) thường bị xâm phạm quyền đã phải bố trí chức danh/bộ phận “bảo vệ nhãn hiệu/bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ” mà một trong những công việc chủ yếu của chức danh/bộ phận này là thiết lập, duy trì và củng cố “mối quan hệ” với các cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính về sở hữu trí tuệ trên phạm vi cả nước. Đó lại không phải là việc đơn giản đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ…;

+ Hệ thống tổ chức dịch vụ đại diện sở hữu trí tuệ của Việt Nam hiện vẫn đang hoạt động chủ yếu theo cơ chế cạnh tranh lẫn nhau, chưa quan tâm đến việc phối hợp và phân công để cùng hình thành mũi nghiên cứu học thuật về pháp luật sở hữu trí tuệ của các khu vực và các quốc gia khác, góp phần hỗ trợ một cách có hệ thống cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động xâm nhập thị trường hàng hóa/dịch vụ, kinh doanh tài sản trí tuệ và đầu tư quốc tế.

+ …

6. Một số đặc điểm của hoạt động quản trị tài sản trí tuệ

+ Các vị tài sản trí tuệ vừa rất đa dạng, vừa là các tài sản vô hình thường không thể nhận biết bằng các thông số vật lý, mà phải nhận diện trước hết là qua các thông số pháp lý và sau đó là qua các tác động công nghệ/thương mại/tài chính/hình ảnh của từng đơn vị tài sản;

Page 14: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 14

+ Một khi đã bộc lộ/công bố, sẽ dễ dàng bị nhiều chủ thể khác nhau đồng thời chiếm hữu và sử dụng/khai thác. Do vậy, nếu không vận dụng đúng cách các thông số pháp lý liên quan, doanh nghiệp có thể đánh mất quyền tài sản đối với đơn vị tài sản trí tuệ tương ứng (không thể ngăn cản hành vi sử dụng/khai thác của các chủ thể khác);

+ Trong trường hợp tài sản trí tuệ là đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ và có tiềm năng thương mại lớn: có thể vận dụng pháp luật sở hữu trí tuệ quốc tế và của các nước có thị trường kỳ vọng để xác lập trước quyền ưu tiên (priority) tại hàng trăm quốc gia khác nhau. Trong nhiều trường hợp, có thể tính toán để kéo dài thời gian lấy bằng độc quyền (sách lược “ủ” đơn đăng ký) tại các quốc gia khác nhau; sau đó, vận dụng các chiến lược, chiến thuật, thủ pháp… về chuyển giao công nghệ, li-xăng, nhượng quyền thương mại… để tìm kiếm dòng tiền bản quyền (royalty) từ các đối tác tại từng nước sở tại, thay vì trực tiếp tổ chức sản xuất/cung ứng dịch vụ, chuyển hoạt động kinh doanh hàng hóa/dịch vụ thành hoạt động kinh doanh các tài sản trí tuệ tạo giá trị gia tăng cho chính các hàng hóa dịch vụ đó;

+ Có khả năng giúp tạo ra dòng tiền không phải chỉ từ một dòng/chủng loại hàng hóa/dịch vụ, mà từ nhiều ngành công nghiệp/dịch vụ khác nhau. Thí dụ: một sáng chế về một hợp chất hóa học có thể vừa sử dụng được trong nông nghiệp, vừa sử dụng được trong công nghiệp dược; một nhân vật hoạt họa khi được sử dụng thành công trong một chuỗi tác phẩm văn học, có thể giúp tạo thêm dòng tiền từ các ngành công nghiệp điện ảnh/giải trí,…;

+ Để thực hiện/phát huy giá trị, các đơn vị tài sản trí tuệ thường được sử dụng/khai thác đồng thời với hoặc thông qua các tài sản hữu hình hoặc vô hình khác. Thí dụ, một sáng chế về quy trình công nghệ chỉ có thể thực hiện giá trị thông qua một dây chuyền thiết bị tương ứng, một kiểu dáng công nghiệp mới sẽ được tiêu thụ mạnh hơn khi đi cùng một nhãn hiệu được nhận biết rộng rãi (well-known brand) hoặc một nhãn hiệu nổi tiếng (famous brand), một tác phẩm âm nhạc (music work) có thể đem lại dòng tiền bản quyền (royalty fee) cao hơn qua các bản ghi (records) định hình cuộc trình diễn (performance) của một ca sĩ nổi tiếng…

+ Giá trị sử dụng của mỗi đơn vị tài sản trí tuệ nói chung không bị hao mòn/cạn kiệt theo quá trình sử dụng mà ngược lại, càng gia tăng khi càng được chấp nhận (adoption) rộng rãi. Thí dụ, giá trị sử dụng của một phần mềm nói chung sẽ càng cao khi càng được nhiều người sử dụng cài đặt trên càng nhiều mạng/máy (network effect), một tác phẩm càng được nhiều người thưởng thức càng có cơ hội được vận dụng vào các ngành công nghiệp/dịch vụ khác, một công nghệ mới được áp dụng càng rộng rãi càng có cơ hội được biến thành chuẩn công nghệ/công nghiệp… Thực tế đó góp phần định hình một ứng xử chiến lược mới trong kinh doanh hiện đại: chia sẻ và hợp tác để cùng khai thác và cực đại hóa lợi ích từ các tài sản trí tuệ, thay vì chiếm hữu riêng để sử dụng một mình như khi còn kinh doanh các hàng hóa thông thường (commodities).

Page 15: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 15

+ Giá trị tiền tệ của các tài sản trí tuệ có xu hướng tăng cao dần theo sự phát triển của nền kinh tế tri thức, ngược lại, vòng đời thương mại/công nghệ (lead-time) lại có xu hướng bị rút ngắn, tuy rằng vòng đời pháp lý (như trong trường hợp các quyền sở hữu trí tuệ) có thể còn dài. Do vậy, nếu tập tài sản trí tuệ của doanh nghiệp phát triển đến một cấp độ nào đó, sẽ phát sinh nghiệp vụ định kỳ rà soát, định giá và tái định giá lại tập tài sản trí tuệ hiện hữu (IP/IA auditing);

+ Có các rủi ro rất đa dạng như đã điểm qua tại Mục 5 bên trên;

+ …

Các đặc điểm đó khiến hoạt động quản trị đối với các tài sản trí tuệ vừa phải mang tính đa ngành (multi-discipline), vừa cần được điều hành tập trung ở cấp lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp để giúp các đơn vị tài sản trí tuệ có thể đạt được giá trị sử dụng tốt nhất và có hiệu quả nhất. Trong quản trị hiện đại, các nhà nghiên cứu (researcher) và thực hành (practitioner) còn đưa ra khái niệm nguồn vốn trí tuệ (intellectual capital - IC) của doanh nghiệp, bao gồm nguồn nhân lực (Human Resources - HR) và các tài sản trí tuệ (IA) được họ thường xuyên vận dụng và sáng tạo bổ sung cho doanh nghiệp, trong đó có các quyền sở hữu trí tuệ (IPR) 15. Từ đó, xuất hiện một cách ví von rằng, các quyền sở hữu trí tuệ (IPRs) có thể xem là các công cụ để bảo vệ các tài sản hiện tại, trong khi nguồn vốn trí tuệ (IC) và các tài sản trí tuệ (IAs) là các nguồn lực để khai thác các dòng tiền tương lai. Cách tiếp cận đó giúp phân định rõ hơn các chức năng của một chuyên viên/bộ phận sở hữu trí tuệ với một quản trị viên/bộ phận quản trị tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp như sẽ phân tích sau đây.

7. Một mô thức tổ chức hoạt động quản trị tài sản trí tuệ tại doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015

7.1. Hình thành ban đầu nhân sự hoặc bộ phận sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp

Một doanh nghiệp đã phát triển đến một tầm mức nhất định có thể sẽ cần chỉ định chức danh hoặc một chuyên viên sở hữu trí tuệ (IP staff/assistant/lawyer/manager) hoạt động kiêm nhiệm hoặc chuyên trách. Sau đó, nếu quá trình sáng tạo có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn (tạo ra nhiều sáng chế mới hơn, nhiều giống cây trồng mới hơn, nhiều phần mềm hơn, nhiều kiểu dáng công nghiệp hơn…), hoặc số lượng các đối tượng sở hữu trí tuệ cần dùng trong quá trình đa dạng hóa hoặc khác biệt hóa sản phẩm nở rộ (sử dụng nhiều nhãn hiệu hơn, nhiều tác phẩm (âm nhạc/đồ họa/mẫu mã…) hơn), doanh nghiệp có thể sẽ cần thiết lập hẳn một tổ, nhóm hoặc bộ phận sở hữu trí tuệ (IP team/group/division) để xử lý các vấn đề pháp lý sở hữu trí tuệ liên quan.

15 Như Patrick H. Sullivan trong “Profiting from Intellectual Capital, Extracting Value from Innovation”, John Willey

& Sons, Inc., 1998, p.5.

Page 16: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 16

Các chức năng và nhiệm vụ quen thuộc của một chức danh/bộ phận sở hữu trí tuệ trong doanh nghiệp thường bao gồm:

+ Tra cứu để nhận biết các quyền sở hữu trí tuệ của các chủ thể khác, cung cấp thông tin cho các bộ phận tác nghiệp để tránh nghiên cứu/thiết kế trùng lặp;

+ Tổ chức hoặc phối hợp tổ chức hoạt động bảo mật trong đơn vị;

+ Nhận biết các đối tượng sở hữu trí tuệ vừa phát sinh, xúc tiến các thủ tục xác lập quyền như đăng ký, gia hạn các văn bằng bảo hộ… tại Việt Nam và nước ngoài;

+ Xây dựng, trình ban hành Quy định Sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp, hoặc đưa các quy định sở hữu trí tuệ vào các loại nội quy (Quy chế/Điều lệ/…) khác một cách thích hợp;

+ Tổ chức hoạt động truyền thông/huấn luyện về pháp luật sở hữu trí tuệ trong đơn vị;

+ Tiến hành kiểm tra, giám sát việc tuân thủ/thực thi các quy định sở hữu trí tuệ của đơn vị tại các khâu tác nghiệp;

+ Bảo đảm tính tuân thủ pháp luật sở hữu trí tuệ trong các giao kết kinh doanh, đặc biệt là các hợp đồng li-xăng/chuyển giao công nghệ…;

+ Theo dõi phát hiện các hành vi xâm phạm của các chủ thể khác đối với các quyền sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp;

+ Triển khai các biện pháp phòng vệ khi bị các chủ thể khác cho rằng doanh nghiệp đã hoặc có thể xâm phạm quyền của họ;

+ Xúc tiến các hoạt động việc khuyến cáo, thương lượng, kiện tụng… về sở hữu trí tuệ;

+ Xây dựng mối quan hệ với các cơ quan có thẩm quyền/hội/hiệp hội sở hữu trí tuệ hoặc bảo vệ người tiêu dùng/phòng, chống hàng giả, các tổ chức truyền thông, các tổ chức dịch vụ đại diện sở hữu trí tuệ…;

+ …

Tùy theo đặc điểm hoạt động và các giá trị cốt lõi (core values) của mình, doanh nghiệp có thể phối thuộc chức danh/bộ phận sở hữu trí tuệ vào một trong các khâu tác nghiệp khác nhau như pháp chế, công nghệ, marketing…, hoặc đặt trực thuộc CEO/Ban Giám đốc.

Trong thực tế, hầu như chưa có một doanh nghiệp Việt Nam nào triển khai đầy đủ và đồng bộ các chức năng và nhiệm vụ sở hữu trí tuệ như nêu trên và nhân sự sở hữu trí tuệ, nếu có, thường cũng không chuyên nghiệp và không ổn định. Đa số doanh nghiệp hiện đang sử dụng toàn bộ hoặc một phần dịch vụ đại diện sở hữu trí tuệ (patent attorney/trademark agency/IP attorney…) bên ngoài. Điều này khiến doanh nghiệp khó có thể nhận biết được khả năng đóng góp của tập quyền sở hữu trí tuệ vào chiến lược kinh doanh.

Page 17: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 17

7.2. Phát triển nguồn nhân lực và bộ phận quản trị tài sản trí tuệ của doanh nghiệp

Nếu doanh nghiệp tiếp tục xác lập và phát triển được các giá trị cốt lõi (core values) của mình, sẽ đến lúc các tài sản trí tuệ không chỉ dừng ở vai trò là các công cụ sản xuất (sáng chế, giống cây trồng…) hoặc tiếp thị (nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp…), mà còn có thể được vận dụng như một nguồn lực đầu tư (cấp li-xăng, xây dựng kênh phân phối theo mô thức nhượng quyền thương mại (franchising), góp vốn liên doanh…).

Khi đó, doanh nghiệp có thể chuyển chức danh/bộ phận sở hữu trí tuệ thành chức danh/bộ phận quản trị tài sản trí tuệ (IA/IC assistant/manager hoặc IA/IC group/division), đảm nhiệm các chức năng và nhiệm vụ đa dạng hơn, bao gồm các hành vi quản trị trực tiếp hoặc phối kết hoạt động quản trị đối với tất cả các đơn vị tài sản trí tuệ (đa số không phải là các đối tượng sở hữu trí tuệ) như đã điểm qua tại Mục 4. Trong thực tế, nhiều nhà nghiên cứu 16 đã ghi nhận rằng, tuy có thể là kết quả của các sáng kiến đổi mới ít nhiều mang tính đột phá (breakthrough/radical/revolutionary innovation), nhưng các đối tượng sở hữu trí tuệ chỉ là phần nổi trên bề mặt của tảng băng tài sản trí tuệ của một doanh nghiệp. Phần chìm của tảng băng này là các sáng kiến mang tính cải tiến (incremental innovation) được nảy sinh một cách tuần tự, có hệ thống trong thực tiễn sản xuất kinh doanh, từ kinh nghiệm, bí quyết, kỹ năng và óc sáng tạo của hàng loạt người lao động trong khắp các khâu tác nghiệp khác nhau.

Theo đó, chức danh/bộ phận quản trị tài sản trí tuệ sẽ tham gia trực tiếp vào quá trình nâng cao hiệu quả của chu trình sản xuất, kinh doanh với hàng loạt hoạt động tác nghiệp mới không chỉ thuần túy mang tính pháp lý, cụ thể như:

+ Cùng với các nhà quản lý/điều hành của tất cả các khâu/bộ phận/đơn vị trực thuộc tổ chức việc theo dõi và ghi nhận ban đầu tất cả các tài sản trí tuệ (dữ liệu, thông tin, tri thức, bí quyết …) mới phát sinh trong mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp, kể cả trong mối quan hệ với các đối tác bên ngoài;

+ Tiến hành việc phân loại, đánh giá và quyết định các sản phẩm trí tuệ nào sẽ được xác lập là tài sản trí tuệ thuộc quyền sở hữu hoặc đồng sở hữu của doanh nghiệp, đồng thời, phân định tỷ lệ sở hữu trong trường hợp doanh nghiệp là một trong các đồng sở hữu chủ;

+ Thiết lập các chứng cứ liên quan, xúc tiến các thao tác/thủ tục cần thiết trong việc khẳng định và chuyển giao quyền sở hữu/phần quyền sở hữu về cho doanh nghiệp;

+ Cùng với các đơn vị/bộ phận nơi phát sinh ra/sử dụng/khai thác đơn vị tài sản trí tuệ liên quan xác định cơ chế thù lao cho các tác giả và đồng tác giả để nâng cao hiệu quả quản trị tri thức (knowledge management) hoặc quản trị sáng kiến đổi mới (innovation management);

16 Như Gordon V. Smith và Russel L. Parr trong “Intellectual Property: Valuation, Exploitation, and Infringement

Damages”, Johm Wiley & Sons, Inc., 2005, p.22.

Page 18: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 18

+ Cùng bộ phận kế toán xác định các điều kiện để ghi nhận chính thức các đơn vị tài sản trí tuệ như các tài sản cố định vô hình, xác định vòng đời và phương pháp khấu hao phù hợp;

+ Xác định/đưa ra các phương án khai thác và đánh giá hiệu quả kinh tế của từng đơn vị tài sản trí tuệ trong các tình huống khai thác/sử dụng khác nhau, trên các thị trường hoặc tại các quốc gia khác nhau…;

+ Cùng với bộ phận tài chính - kế toán tiến hành hoạt động định giá, tái định giá, sàng lọc và tái sàng lọc… tập tài sản trí tuệ hiện hữu (IP/IA auditing), dự trù ngân sách cho các mặt hoạt động khác nhau liên quan đến việc quản trị tập tài sản trí tuệ;

+ Tham mưu với Ban lãnh đạo doanh nghiệp các chiến lược, sách lược, kế hoạch, chiến thuật… vận dụng các tài sản trí tuệ vào hoạt động đầu tư;

+ Xây dựng hệ thống các quy chế, nội quy, quy trình, thủ tục, biểu mẫu… quản trị tài sản trí tuệ; các điều khoản mẫu hoặc hợp đồng mẫu về giao kết li-xăng hoặc chuyển giao công nghệ theo phong cách kinh doanh (corporate identity) riêng của doanh nghiệp;

+ …

Trong xu thế tập tài sản trí tuệ (IA portfolio) chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng giá trị của một doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực tư vấn, công nghệ thông tin/truyền thông, thiết kế công nghiệp/dân dụng/tiêu dùng… chức danh/bộ phận quản trị tài sản trí tuệ sẽ tham gia ngày càng nhiều hơn vào cấp độ hoạch định chiến lược kinh doanh/đầu tư ở nhiều mức độ khác nhau như: xác định sách lược cấp/nhận li-xăng hoặc chuyển giao/tiếp nhận công nghệ, chọn lựa phương án góp vốn bằng tài sản trí tuệ, đa dạng hóa danh mục đầu tư của doanh nghiệp… Khi đó, doanh nghiệp có thể sẽ có nhu cầu phân công một thành viên của Hội đồng Quản trị hoặc Ban Giám đốc đảm nhiệm chức danh Giám đốc Tài sản trí tuệ (IA Director/Officer) hoặc Giám đốc Nguồn vốn trí tuệ (IC Director/Officer).

7.3. Xây dựng và ban hành nội quy về quản trị tài sản trí tuệ:

Để triển khai đồng bộ và chặt chẽ các chức năng sở hữu trí tuệ hoặc quản trị tài sản trí tuệ, doanh nghiệp sẽ cần ban hành các nội quy về hoặc có liên quan đến sở hữu trí tuệ/quản trị tài sản trí tuệ. Nội quy này có thể ở dưới dạng các điều khoản lồng ghép (vào các Điều lệ/Quy định/Quy chế/Hướng dẫn/Sổ tay… khác), hoặc một văn bản độc lập hoàn chỉnh ở nhiều mức độ khác nhau về mặt nội dung và hiệu lực thi hành. Các dạng nội quy thường gặp nhất có liên quan đến các khía cạnh khác nhau trong nội hàm quản trị tài sản trí tuệ đã được nhiều doanh nghiệp ban hành như: Quy định/Quy chế… về Sở hữu trí tuệ, Điều lệ/Nội quy… về Sáng kiến đổi mới, Quy chế/Quy tắc… Bảo mật, Nội quy/Điều lệ… sử dụng Thông tin/Máy tính/Mạng, Hướng dẫn (Guideline) hoặc Sổ tay (Manual) sử dụng Thương hiệu (Tradename/Corporate brand), Lô-gô và Nhãn hiệu (brand), Quy chế sử dụng Nhãn hiệu tập thể/Nhãn hiệu Chứng nhận/Chỉ dẫn địa lý…

Page 19: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 19

Quy định/Quy chế… về Sở hữu Trí tuệ là một dạng nội quy giúp hiểu rõ hơn nội hàm của hoạt động quản trị tài sản trí tuệ ở khía cạnh pháp chế. Về bản chất, đây là một hình thức vận dụng và cụ thể hóa các quy phạm pháp luật sở hữu trí tuệ có liên quan vào bối cảnh quản trị của doanh nghiệp, chủ yếu mang tính bảo vệ tài sản và phòng ngừa rủi ro, phạm vi điều chỉnh thường chỉ hướng đến các đối tượng sở hữu trí tuệ và các quyền sở hữu trí tuệ.

Điều lệ/Nội quy… về Sáng kiến đổi mới là một dạng nội quy giúp hiểu rõ hơn nội hàm của hoạt động quản trị tài sản trí tuệ ở khía cạnh cơ chế khuyến khích sáng tạo, phạm vi điều chỉnh thường được tập trung vào các loại sáng kiến có phạm vi áp dụng mang tính cục bộ hoặc ngắn hạn trong hầu hết các khâu tác nghiệp khác nhau.

Quy chế/Quy tắc… Bảo mật là một dạng nội quy thường gặp nhất trong doanh nghiệp, giúp hiểu rõ hơn nội hàm của hoạt động quản trị tài sản trí tuệ ở khía cạnh quản trị dữ liệu (data) và thông tin (information). Phạm vi điều chỉnh ngoài các bí mật kinh doanh (trade secret) và các thông tin không tiết lộ (undisclosed/confidential information), còn có thể bao hàm các bí mật nhà nước và đôi khi cả bí mật cá nhân (thường là của các thành viên lãnh đạo/chủ chốt). Trong một số lĩnh vực kinh doanh, Quy chế/Quy tắc… Bảo mật có thể được tích hợp vào Nội quy/Điều lệ… sử dụng Thông tin/Máy tính/Mạng của doanh nghiệp với nội dung điều chỉnh rộng hơn và tương hợp với môi trường kinh doanh trực tuyến, đồng thời, còn có thể giúp hiểu rõ hơn khía cạnh quản trị tri thức (knowledge management) trong hoạt động quản trị tài sản trí tuệ.

Sổ tay/Hướng dẫn… sử dụng/trình bày Thương hiệu, Lô-gô và Nhãn hiệu là một dạng nội quy giúp hiểu rõ hơn nội hàm của hoạt động quản trị tài sản trí tuệ ở khía cạnh quản trị hình ảnh; phạm vi điều chỉnh tập trung vào việc khắc họa nhất quán phong cách kinh doanh (corporate identity) của doanh nghiệp hoặc phong cách của từng nhãn hiệu (brand identity).

Trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp có thể bắt đầu xem xét đến khả năng ban hành một Quy định/Quy chế Quản trị Tài sản Trí tuệ tồn tại song hành, tương hỗ và được điều hợp thống nhất với các dạng nội quy khác hiện có, với các chức năng sau:

+ Minh bạch hóa và thể chế hóa mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các nhà đầu tư, các người lao động chuyên môn và các đối tác về hàng loạt vấn đề liên quan đến các tài sản trí tuệ phát sinh trong kinh doanh, bao gồm các khía cạnh như: khẳng định quyền sở hữu, phân định tỷ lệ đồng sở hữu, quyền tài sản và quyền nhân thân của tác giả/đồng tác giả, cơ chế phân bổ lợi ích từ tài sản trí tuệ…, nhằm tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau trong giao kết lao động hoặc giao kết kinh doanh, phát triển sự nhận biết (awareness) về vai trò/tác động của các tài sản vô hình và tài sản trí tuệ trong kinh doanh;

Page 20: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 20

+ Xác lập các cơ chế, quy trình, thủ tục, biểu mẫu… quản trị tập trung và thống nhất tất cả các tài sản trí tuệ được vận dụng hoặc phát sinh mới trong quá trình lao động, nghiên cứu và kinh doanh, giảm thiểu rủi ro tổn thất tài sản trí tuệ, củng cố và tăng cường nguồn lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Mỗi cơ chế, quy trình, thủ tục, biểu mẫu… được xây dựng cần bám sát mục tiêu gia tăng lợi ích cho chủ sở hữu doanh nghiệp hoặc/và người lao động chuyên môn, có tính đơn giản, minh bạch, tương hợp và giúp gia tăng giá trị chứ không gây cản ngại cho các mặt hoạt động chuyên môn khác;

+ Cụ thể hóa pháp luật sở hữu trí tuệ vào hệ thống các quy tắc ứng xử trong doanh nghiệp để phòng ngừa và giảm thiểu các rủi ro/tranh chấp pháp lý, thuận lợi cho việc phát triển văn hóa sở hữu trí tuệ với tư cách là bộ phận ngày càng quan trọng trong văn hóa kinh doanh (corporate culture);

+ Tốt hơn nữa, Quy định/Quy chế nên có khả năng định hướng cho việc vận dụng các tài sản trí tuệ như một nguồn lực đầu tư thay vì chỉ là các công cụ gia tăng giá trị trong các khâu sản xuất kinh doanh/cung ứng dịch vụ, góp phần kích hoạt hoặc chuyển hóa từng phần hoạt động kinh doanh sang hướng kinh doanh tài sản trí tuệ theo nguyên tắc mở rộng hợp tác để chia sẻ hài hòa thông tin/tri thức và lợi ích với các đối tác chiến lược.

Theo đó, tên gọi, dung lượng, phạm vi điều chỉnh của một nội quy về sở hữu trí tuệ/quản trị tài sản trí tuệ… không phải là vấn đề quan trọng. Điều quan trọng hơn là:

Tính phù hợp và khả thi của nội quy đối với các mối bận tâm về sở hữu trí tuệ/quản trị tài sản trí tuệ của doanh nghiệp tại thời điểm ban hành, đặc biệt là mọi người lao động đều có thể hiểu rõ và tuân thủ nội quy. Sau đó, sẽ từng bước hoàn thiện theo nhu cầu thực tế;

Cần có nhân sự được huấn luyện/đào tạo về sở hữu trí tuệ (IP) hoặc tốt hơn là về quản trị tài sản trí tuệ (IA/IC), vừa hiểu biết pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, vừa có khả năng đọc, hiểu, vận dụng các tài liệu liên quan đến quản trị tài sản trí tuệ trong và ngoài nước, được đãi ngộ phù hợp và bố trí ổn định.

Với bản chất không ngừng vận động và đổi mới của hoạt động quản trị kinh doanh nói chung, việc thuê mướn, tiếp nhận tư vấn hoặc dự án tài trợ… từ bên ngoài để triển khai hoạt động quản trị tài sản trí tuệ trong một doanh nghiệp luôn là cần thiết và đôi khi, có thể là một “cú hích” quan trọng tại một thời điểm nhất định. Tuy nhiên, nếu chỉ đạt được đến mức biên tập ra và ban hành được một Quy định/Quy chế… Quản trị Tài sản trí tuệ, mà không có nguồn nhân lực nội bộ đủ am hiểu để tổ chức tác nghiệp và tham mưu cho doanh nghiệp tự mình tiếp tục phát triển và hoàn thiện Quy định/Quy chế Quản trị Tài sản trí tuệ theo thời gian, thì sẽ chưa thể thực sự đi vào giai đoạn quản trị tài sản trí tuệ (IA)/nguồn vốn trí tuệ (IC).

Page 21: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 21

8. Một số kết quả ban đầu trong việc tổ chức hoạt động nghiên cứu và thực hành về quản trị tài sản trí tuệ tại Thành phố Hồ Chí Minh

Bắt đầu từ thập niên 1980s, song song với quá trình hình thành và từng bước hoàn thiện của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, hàng trăm cuộc hội thảo/hội nghị/tọa đàm/tập huấn cấp địa phương/quốc gia/khu vực/quốc tế về sở hữu trí tuệ đã được Cục Sở hữu Trí tuệ, Cục Bản quyền tác giả, Cục Trồng trọt và các sở, ngành tại Thành phố độc lập hoặc phối hợp tổ chức để phục vụ các doanh nghiệp và các trường, viện trên địa bàn. Một số nhà quản trị/nhà chuyên môn cũng đã được các cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ Trung Ương và Thành phố hỗ trợ tham gia trình bày hoặc tập huấn về các vấn đề sở hữu trí tuệ tại các hội thảo/hội nghị/khóa huấn luyện ở trong và ngoài nước...

Tuy nhiên, một bất cập lớn là hầu hết các doanh nghiệp/trường/viện đều chưa có nhu cầu hoặc không thể bố trí ổn định nhân sự sở hữu trí tuệ, khiến các nỗ lực phổ cập pháp luật và kiến thức sở hữu trí tuệ bị lãng phí, tỷ lệ kết đọng và chuyển hóa kiến thức vào hoạt động tác nghiệp của các doanh nghiệp/trường/viện rất thấp.

Để hạn chế bất cập nêu trên, bắt đầu từ tháng 5.2008, Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố phối hợp với Viện Khoa học Sở hữu Trí tuệ Việt Nam thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã xúc tiến thử nghiệm Chương trình đào tạo Quản trị viên Tài sản trí tuệ nhằm cung cấp nguồn nhân lực đầu tiên về quản trị tài sản trí tuệ cho các doanh nghiệp/trường/viện có quan tâm. Chương trình tổ chức học tập, nghiên cứu và thực hành tuần tự qua một chuỗi mô-đun có hàm lượng tích hợp kiến thức và trau đồi kỹ năng tăng dần, hiện được phân thành ba cấp độ:

Hai (02) mô-đun đào tạo cơ bản: “Đại cương pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam” và “Nhận biết các tài sản trí tuệ trong kinh doanh và hoạt động R&D”, cung cấp cho học viên cái nhìn tổng quan ban đầu về các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ và tài sản trí tuệ.

Ba (03) mô-đun nghiên cứu nâng cao: “Giao kết kinh doanh tài sản trí tuệ”, “Xây dựng hoạt động quản trị tài sản trí tuệ tại đơn vị” và “Khía cạnh tài chính của các tài sản trí tuệ”: các học viên đã hoàn thành hai mô-đun đào tạo cơ bản trở thành các thành viên tự nghiên cứu và thực hành nhóm, hình thành cộng đồng quản trị viên cùng tích tụ và chia sẻ hiểu biết/kinh nghiệm. Sau ba mô-đun này, mỗi thành viên cần có năng lực tự khảo sát, phân tích và giúp một đơn vị bất kỳ xây dựng và vận hành Quy chế/Quy định Quản trị Tài sản trí tuệ phù hợp với đặc thù của đơn vị, để có thể tham gia thị trường lao động với chức danh quản trị viên tài sản trí tuệ (IA assistant/manager hoặc IA director/officer (IAO)).

Các mô-đun nghiên cứu mở rộng: có nội dung nghiên cứu được hình thành theo yêu cầu thực tế của cộng đồng quản trị viên tài sản trí tuệ tại từng thời điểm như: “Chiến lược kinh doanh tài sản trí tuệ”, “Định giá tài sản trí tuệ”, “Tài sản trí tuệ trong hợp nhất kinh doanh (M&A)”…

Page 22: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 22

Do giữa kinh doanh và hoạt động R&D luôn tồn tại các mối quan hệ hữu cơ, nên đối tượng phục vụ của Chương trình là các nhà quản trị lẫn các nhà chuyên môn trong các doanh nghiệp và các trường/viện. Đến giữa tháng 01.2011, Chương trình đã triển khai 10 mô-đun đào tạo cơ bản và 08 mô-đun nghiên cứu nâng cao (chưa thực hiện các mô-đun nghiên cứu mở rộng).

Qua đó, đã có 196 học viên/thành viên nghiên cứu tham dự, là các nhà chuyên môn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau (công nghệ cơ/sinh/điện/hóa/IT…, pháp luật, marketing, truyền thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, giảng viên đại học/cao đẳng, giám đốc/phó giám đốc/trưởng phòng chuyên môn…), trong đó có 03 Tiến sĩ và 28 Thạc sĩ. Có 61 thành viên đã hoàn thành 05 mô-đun của giai đoạn đào tạo cơ bản và nghiên cứu nâng cao, đang xem xét chọn lựa nội dung cho giai đoạn nghiên cứu mở rộng bắt đầu từ năm 2011.

Tập thể thành viên nghiên cứu đã biên soạn và trình ban hành 08 Quy định Sở hữu Trí tuệ hoặc Quy chế Quản trị Tài sản Trí tuệ, với trên 10 quản trị viên tài sản trí tuệ đầu tiên được chính thức bổ nhiệm, trong đó có 01 Tổng Giám đốc, 03 Giám đốc và Phó Giám đốc doanh nghiệp, 01 Giám đốc Trung Tâm Nghiên cứu & Đào tạo. Về mặt khai triển lý luận, đã thực hiện 23 buổi trình bày về quản trị tài sản trí tuệ trên kênh phổ biến kiến thức HTV4 của Đài Truyền hình TP.HCM, mỗi buổi 40 phút, phát sóng và phát sóng lại trên 100 buổi. Nội dung “đào tạo quản trị viên tài sản trí tuệ” cũng đã được ghi nhận là một trong các đầu việc triển khai Chương trình đào tạo đội ngũ doanh nhân thuộc Chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2011-2015 17.

9. Kết luận

Bên cạnh các kết quả ban đầu đang bước vào giai đoạn được kiểm nghiệm thực tiễn, một số kết quả khác cũng đang tiếp tục được định hình.

Trong bối cảnh các làn sóng công nghệ mới đang liên tục xáo động cấu trúc của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ... và theo đó là văn hóa, kinh tế và xã hội, các kỹ năng về quản trị tài sản trí tuệ/tài sản vô hình sẽ là một công cụ ngày càng quan trọng, không chỉ trong chiến lược kinh doanh, chiến lược tài chính mà cả trong quản trị biến động (management of change) và quản trị rủi ro (management of risk). Sự quan tâm xem xét, tìm hiểu, bố trí nhân lực triển khai tác nghiệp của lãnh đạo các doanh nghiệp và các trường, viện sẽ là yếu tố tiên quyết giúp hình thành thực tiễn quản trị tài sản trí tuệ tại Việt Nam, giúp lý luận quản trị có thể bắt rễ, nảy mầm và phát triển, đóng góp có hiệu quả vào tiềm năng và chiến lược kinh doanh tài sản trí tuệ của các chủ thể Việt Nam trong thập niên tới.

17 Theo Báo cáo “Sáu Chương trình đột phá giai đoạn 2011-2015” tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ

Chí Minh lần thứ IX, tháng 9.2010

Page 23: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 23

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO QUẢN TRỊ VIÊN TÀI SẢN TRÍ TUỆ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Tổng quan qua các mô-đun 2008

2009

2010

Page 24: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 24

Thực hành nghiên cứu cá nhân

Page 25: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 25

Nghiên cứu và thực hành nhóm

Page 26: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 26

Giới thiệu về Quản trị tài sản trí tuệ trên kênh HTV4 (http://www.htv4.vn) (Kiến thức chuyên ngành/KTCN - Kinh tế) hoặc (Kiến thức chuyên ngành/Quản trị tài sản trí tuệ)

Page 27: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 27

Sự chia sẻ và đồng hành của các chuyên gia SHTT và quản lý nhà nước tại TP.HCM

TS. Trần Hiệp Thương, VP Đại Diện ThS. Trương Thùy Trang, Phó GĐ Ông Nguyễn Thanh Bình, Trưởng VP Cục Quản lý Cạnh tranh tại TP.HCM Sở Khoa học & Công nghệ TP.HCM Đại Diện Cục Sở hữu Trí tuệ tại TP.HCM

ThS. Hoàng Tố Như, Phó Trưởng Phòng LS. Nguyễn Minh Hương, Phó Chủ tịch Ông Nguyễn Mạnh Quý, Trưởng VP Đại Sở hữu Trí tuệ, Sở KH&CN TP.HCM Hội Sở hữu Trí tuệ TP.HCM Diện Cục Bản quyền Tác giả tại TP.HCM

Ông Phạm Tuấn Anh & Bà Hoàng Yến Bà Nguyễn Thị Vân, Giám Đốc VPĐD ThS. Nguyễn Thị Thanh Mai, Phó Trưởng Công ty Phạm & Associates Cty TNHH Tầm nhìn & Liên danh TP.HCM Phòng Cục Trồng Trọt, Bộ NN&PTNT

Bà Nguyễn Minh Thu, Phó Trưởng Phòng Bà Trần Thị Ngọc Hương, Chánh Thanh Bà Phạm Đắc Mỵ Trân Nghiệp vụ, Cục Hải Quan TP.HCM Tra Sở Thông tin Truyền Thông TP.HCM Trung Tâm Internet Việt Nam

Page 28: MÔ THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

đào minh đức, 02.02.2011 28

Trên đường hình thành cộng đồng IA/IC researchers → managers → lecturers đa ngành & đa thế hệ