Upload
nguyenbao
View
220
Download
3
Embed Size (px)
Citation preview
Nghe rao bán bánh mì
Mì kia gốc phải nước mình không? Nghe thấy rao mì thốt động lòng. Chiếc bánh não nùng mùi khách lạ, Bát cơm đau đớn máu cha ông. Văn minh những vỏ trưng ba mặt, Thấm thía tim gan ứa mấy dòng. Nhớ lại bảy mươi năm trở ngược, tính từ 1939 trở về trước Say mì lắm kẻ bán non sông! Những kẻ say mê vật chất ngoại bang nỡ bán non sông đất nước.
Khải hoàn dân chúng mới nhàn an, Dân mảng còn mê giấc mộng tràng. Thảm thê thế sự mùi cay đắng, TA hỡi đau lòng khách ngoại bang!
(Đức Huỳnh Giáo Chủ viết tại nhà ông Nguyễn Duy Hinh ở làng Hoà Hảo năm Kỷ Mão 1939)
Vào thời thực dân Pháp đô hộ nước ta, chợt nghe tiếng rao bán bánh mì, tim gan Đức Thầy quặn thắt vì Thầy nhớ đến tình huống có những kẻ say mê vật chất nỡ bán đứt non sông đất nước cho quân ngoại bang. Đức Thầy đã dấn thân vào bưng biền lập chiến khu theo đuổi con đường kháng chiến chống thực dân Tây U. Đức Thầy đã ra đi theo hồn thiêng sông núi và để lại tấm gương yêu nước cao cả cho những thế hệ mai sau. Nếu Đức Thầy biết có một môn đồ nào ham chức tước danh lợi, say mê mang quân hàm Tây U, chắc là Đức Thầy đau lòng lắm! Nam Mô A Di Đà Phật. Nam Mô Bửu Sơn Kỳ Hương Phật.
Phụ lục 1: Sấm Giảng của Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ.
Đừng ham làm chức nắc nia, Ngày sau như khóa không chìa dân ôi!
Tu hành như thể thả trôi, Nay lở mai bồi chẳng có thiền tâm.
Mưu sâu thì họa cũng thâm, Ngày sau sẽ biết thú cầm chỉn ghê.
Hùm beo tây tượng bộn bề, Lại thêm ác thú mãng xà rít to.
Bá gia ai biết thì lo, Gác tai dèm siểm đôi co ích gì.
Hết Tây rồi đến Huê Kỳ,* Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha!
Dân nay như thể không cha, Tướng Pháp de Castries Chẳng ai dạy dỗ thiệt là thảm thương! Tướng Mỹ Westmoreland
(Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ viết tại làng Hòa Hảo năm Kỷ Mão 1939)
Ghi chú: Câu sấm: Hết Tây rồi đến Huê Kỳ, bị chánh quyền Bảo Đại thời Pháp kiểm duyệt, bắt buộc phải sửa lại là: Hết Đây rồi đến Dị Kỳ. Sau khi sửa chữ Tây thành Đây, và chữ Huê Kỳ thành Dị Kỳ, giáo hội mới được phép ấn hành để phổ biến cho đồng đạo. Luật Thiên Điều là: Bôi sửa kinh sấm đáng tội đày địa ngục. Cụm từ khóa không chìa ám chỉ năm 1975, người bị nhốt vào tù {trại cải tạo} nhưng không biết thời hạn ngày ra tù.
Hào quang chư Phật rọi mười phương, Đạo pháp xem qua chớ gọi thường. Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu, Cố công gìn giữ tánh thuần lương. (Khuyến Thiện, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939)
Qua bốn câu thơ trên đây của Đức Thầy, tội bôi sửa kinh sấm đáng bị đày địa ngục!
Phụ lục 2: Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An.
Nói cho lớn nhỏ ghi lòng, Ngày sau mới biết rõ trong sự tình.
Giữ lời Thầy dạy đinh ninh, Hết Tây rồi lại thiệt tình tới U. *
Lành thời niệm Phật công phu, Tướng Pháp de Castries Dữ thời chịu chữ lao tù hổ ngươi. Tướng Mỹ Westmoreland
(Đức Phật Thầy Tây An tr. 165, Vương Kim & Đào Hưng biên khảo, nhà xuất bản Long Hoa ấn tống năm Quý tị 1953)
Đức Phật Thầy cho biết hết thời Tây (Pháp) cai trị, sẽ tới Mỹ {U=USA} ồ ạt đưa hơn 500 ngàn quân qua Việt Nam nổ ra cuộc chiến tranh chết chóc vô cùng khốc liệt. Ngài khuyên người đạo hãy giữ bổn phận tứ ân, trung quân ái quốc, yêu nước thương nòi chống xâm lăng, tu nhân tích đức, làm lành lánh dữ.
Phụ lục 3: Sấm Kim Cổ Kỳ Quan của ông Ba Nguyễn văn Thới.
Khổ hạ nguơn bẩm lại cà lì, Coi thân cực sướng nỗi gì cho thân.
Tây chưa mãn tới việc U phân, * Ngồi buồn thấy khổ muôn dân não nề.
Lương kế Thánh nhơn chí kế hề, Ngậm ngùi Nam Việt nặng nề lao thân.
(Kim Cổ Kỳ Quan 30: 60, ông Ba Nguyễn văn Thới viết năm 1915) đs Trần văn Chương
Cụm từ U phân, chữ U là USA là Mỹ, chữ phân là phân chia đất nước Việt Nam ra làm 2 miền Nam Bắc. Sau năm 1954, toàn dân Việt chờ tổng tuyển cử thống nhứt VN theo nội dung hiệp định Giơ-ne-vơ. Nhưng ngày 12-12-1955, đại sứ Trần văn Chương đại diện chánh phủ Ngô Đình Diệm tuyên bố ở Mỹ: Sẽ không có tổng tuyển cử ở VN. Hiệp định Genève không bắt buộc, chánh phủ Mỹ ủng hộ lập trường này. Câu sấm tiên tri rất là chính xác: Tây chưa mãn tới việc U phân. Mỹ ủng hộ giải pháp không tổng tuyển cử thống nhứt VN, Mỹ quyết định phân chia VN vĩnh viễn. Muốn có được một nước VN thống nhứt, ắt là chỉ có con đường chiến tranh như đã xảy ra…{VN War}. * Cụm từ Nam Việt ám chỉ tên nước ta vào triều đại Triệu Vũ Vương năm 207 trước tây lịch có biên giới bao gồm 2 tỉnh Quảng Đông Quảng Tây {Lưỡng Quảng}, giặc phương bắc lấn chiếm mưu đồ Hán hóa, tổ tiên ta phải bỏ đất Lưỡng Quảng, dời xuống Thăng Long bảo tồn giống Hồng Lạc.
Noi theo gương yêu nước của chư vị Tiền Bối, người Việt thế hệ mai sau nguyện thề không tham mê vật chất bán non sông đất nước. Dân tộc Việt tự hào có một đấng anh minh cao cả như Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ hi sinh thân mình, dấn thân vào bưng biền lập chiến khu chịu cực khổ gian lao chống quân ngoại xâm giành độc lập cho dân tộc. Ôi tinh thần yêu nước của Đức Thầy thật là cao siêu mầu nhiệm!
Ôn cố tri tân, nay trước nạn giặc Tàu đang lăm le cướp đất nước ta, người dân Việt hãy noi theo gương các bậc Tiền Bối chống giặc ngoại xâm, nguyện thề không tham mê vật chất bán đất nước non sông như lời Đức Thầy đã dặn dò trong sấm giảng.
Mị Châu ơi hỡi Mị Châu, Mê chi thằng Chệt để sầu cho cha!
(Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết trên đường khuyến nông từ miền Tây về Sài Gòn tháng 6 năm Ất Dậu 1945)
Nhân lúc ngồi trên chuyến xe khuyến nông cùng với Đức Thầy vào tháng 6 năm Ất Dậu 1945, ông thi sĩ Việt Châu {Nguyễn Xuân Thiếp} có trao tặng cho Thầy quyển thơ Lông Ngỗng Gieo Tình do ông viết nổi tiếng thời bấy giờ, nội dung kể lại câu chuyện tình duyên Trọng Thủy Mị Châu, Đức Thầy ứng khẩu hai câu thơ trên đây coi như là trực tiếp phê bình tập thơ. Nhưng theo lý thiên cơ, Ngài mượn việc phê bình tập thơ của ông thi sĩ Việt Châu, để gởi đi một Thông Điệp rất quan trọng cho các chính khách thế hệ tương lai của Việt Nam đừng vội vã tin vào lời đường mật của Trung Quốc mà gây cảnh nước mất nhà tan.
Tết Ở Chiến Khu
Tặng bạn ngày xuân chén rượu nồng,
Uống rồi vùng vẫy khắp Tây Đông. Đem nguồn sống mới cho nhơn loại, Để tiến, tiến lên cõi đi đồng. *
Rượu xuân càng nhấp càng say, Gió xuân càng thổi thì tài càng tăng.
Ngày tết năm nay ở chiến khu, Bưng biền gió lốc tiếng vi vu. Xa xa súng nổ thay trừ tịch, Dân Việt còn mang nặng mối thù. Mối thù nô lệ trả chưa xong, Pháp tặc còn trêu giống Lạc Hồng. Dùng thói dã man mưu thống trị, Thì ta quyết chiến dễ nào không! Dễ nào không dám gắng hi sinh, Giữ vững non sông đất nước mình. Tự lập nghìn xưa gương chói rạng, Anh hùng khởi xuất chốn dân binh. . chiếc nóp ngủ với vũ khí tầm vông trong ngày đầu khởi nghĩa chống Pháp Dân binh Nam Việt mấy ai bì? Không súng tầm vông cũng vác đi, Xông lướt trận tiền ngăn giặc mạnh, Liều thân cứu nước lúc lâm nguy. Nước lúc lâm nguy há đứng nhìn, Lòng mang đại nghĩa để thân khinh. Máu đào xương trắng phơi đầy nội, Quyết đổi tự do mới thỏa tình. Thỏa tình được sống dưới trời Đông, Tổ phụ ngày xưa rất đẹp lòng. Nhìn thấy cháu con không thẹn mặt, Từ đây non nước thoát nguy vong.
(Đức Thầy viết ngày 2-1-Đinh Hợi 1947 ở Bình Hòa) Khung cảnh một góc trong chiến khu
Sydney, 15-2-2017, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo
(Facebook Mõ Tre & Blog Kinh Sam That Son) https://kinhsamthatson.wordpress.com/ 3
https://kiengxluu.wixsite.com/kinhsambuuson