28
QUAN HĐỐI TÁC VBIN ĐỔI KHÍ HU n phm ca Chương trình Thông Ɵn Quc tế, BNgoi giao Hoa K , tháng 4/2010

QUAN HỆ ĐỐI TÁC VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ H U · Các mối quan hệ đối tác giữa giới doanh nghiệp, giới học thuật nghiên cứu, và các tổ chức cộng

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

- 1 -

QUAN HỆ ĐỐI TÁC VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Ấn phẩm của Chương trình Thông n Quốc tế,

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 4/2010

- 2 -

Các vấn đề khó khăn nhất có thể cản trở ngay cả những nỗ lực, quyết tâm cao nhất của các công dân, chính phủ, doanh nghiệp và những tổ chức quan tâm đến vấn đề biến đổi khí hậu. Khi được phát huy ở mức độ cao nhất, việc cộng tác sẽ khai thác được các kỹ năng và tài năng đa dạng của các đối tác, mở ra những ý tưởng và quann điểm đa chiều, và tăng đáng kể khả năng của các đối tác trong việc giải quyết vấn đề thông qua những hành động hợp tác. Các mối quan hệ đối tác giữa giới doanh nghiệp, giới học thuật nghiên cứu, và các tổ chức cộng đồng cũng như giữa các chính phủ cấp địa phương và cấp quốc gia có lẽ sẽ là một trong số những đối sách cần thiết chống lại sự biến đổi khí hậu toàn cầu.

Số tạp chí điện tử eJournalUSA này sẽ diễn giải về một cơ cấu đối tác đã được chứng minh qua thực tế và một cơ cấu đối tác đang được đề xuất có liên quan đến những vấn đề về biến đổi khí hậu hiện nay. Mô hình đã được thử nghiệm tập trung vào việc gây ảnh hưởng đến hành vi của cá nhân

và tập quán của các doanh nghiệp để đạt được những lợi ích lâu dài. Còn mô hình đối tác đang được đề xuất lại tập trung vào việc xây dựng một môi trường sáng tạo mà trong đó các đối tác có thể phát triển ra những sản phẩm mang lại lợi ích nhanh chóng và có thể được thị trường chấp nhận. Sáu trường hợp được nghiên cứu trong số này sẽ minh họa cho các mô hình đó. Bên cạnh đó, vị chủ tịch của một tổ chức các nhà đầu tư sẽ diễn giải cho độc giả thấy rằng các tập quán kinh doanh thân thiện với môi trường không chỉ là lời kêu gọi chung chung mà còn có tác động tích cực tới lợi nhuận của công ty.

Một giải pháp cho thách thức toàn cầu về biến đổi khí hậu sẽ đòi hỏi sự đóng góp của nhiều cá nhân và tổ chức khác nhau. Quan hệ đối tác có hiệu quả sẽ làm tăng thêm sức mạnh cho họ để đưa ra những giải pháp cần thiết.

— Ban biên tập

Về số báo này

Các đối tác thực sự cùng hợp tác hướng tới mục đích chung

- 3 -

Nội dung ấn phẩm này có trên Internet tại địa chỉ:

http://www.america.gov/cc_partnerships.html (tiếng Anh)

http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov/doc_ej0410.html (tiếng Việt)

Mục lục

Nguồn lực toàn cầu, Giải pháp địa phương: Các đối tác bền vững sẽ tạo ra những giải pháp dài hạn về khí hậu

4

Đối tác Kinh doanh Sạch của Balan thúc đẩy giá trị kinh tế học về giảm nhẹ biến đổi khí hậu

7

Các đối tác du lịch chia sẻ ý tưởng về thích ứng với biến đổi khí hậu 9

Các trường học sinh thái tạo ra những giải pháp biến đổi khí hậu sáng tạo ở địa phương

11

Khai thác kiến thức chuyên môn toàn cầu: Gắn kết các trung tâm môi giới sẽ đẩy nhanh các sáng kiến về biến đổi khí hậu

13

Kết nối các chuyên gia quốc tế để giải quyết các thách thức nông nghiệp ở địa phương

17

Khai thác năng lượng từ đại dương: Tận dụng những tri thức ở khắp nơi trên thế giới

19

Điều phối những ý tưởng xuất sắc đã sản xuất ra điện ngoài lưới ở châu Phi 21

Ceres: Các công ty xanh 23

Nguồn thông tin tham khảo 26

- 4 -

Rafal Serafin là cộng tác viên lâu năm của tổ chức Diễn đàn các nhà lãnh đạo doanh nghiệp quốc tế (IBLF), là một tổ chức độc lập, phi lợi nhuận có quan hệ đối tác với các doanh nghiệp trên khắp thế giới để tạo ra những con đường sáng tạo tiến tới phát triển bền vững. Còn Surinder Hundal là giám đốc chính sách và truyền thông của tổ chức IBLF. Độc giả có thể liên lạc với họ qua địa chỉ [email protected][email protected].

Các quan hệ đối tác giữa các chính phủ, doanh nghiệp, và các tổ chức xã hội dân sự có nhiều đặc điểm cần thiết để giải quyết những tác động về xã hội, kinh tế và môi trường của biến đổi khí hậu. Việc thúc đẩy và tăng năng lực cho những đối tác này là cần thiết, nhất là khi những thỏa ước quốc tế về việc cắt giảm phát thải khí nhà kính còn rất mù mờ. Các cuộc đàm phán về khí hậu do Liên hợp Quốc đỡ đầu phải được tiếp tục, nhưng đây cũng chỉ là một phần của giải pháp mà thôi. Cách tiếp cận của Liên Hợp Quốc với từng khu vực kinh tế sẽ chỉ phối hợp với các chính phủ trong việc thiết kế và thực hiện một giải pháp chung theo kiểu mệnh lệnh-và-kiểm soát nhằm hạn chế mức phát thải cácbon toàn cầu.

Chính vì vậy mà cách tiếp cận theo kiểu đối tác có thể sẽ hiệu quả hơn trong việc nhận ra những thách thức trong việc thích ứng với biến đổi khí hậu và đưa ra các giải pháp khả thi. Cách tiếp cận này huy động được các nguồn lực, ý tưởng, cũng như sự tham gia của cả khối doanh nghiệp, các tổ chức dân sự xã hội và cả chính phủ. Các mối quan hệ đối tác liên ngành này có thể góp phần bổ khuyết cho các cuộc đàm phán toàn cầu và các giải pháp mang tính cục bộ của từng quốc gia, từng địa phương. Các mối quan hệ đối tác cũng có thể khai thác được các nguồn lực, tính sáng tạo của con người và sở trường của mỗi đối tác. Các đối tác này khác hẳn với những cơ chế kiểm soát, giám sát và thực thi, là những cơ chế sẽ bóp nghẹt khả năng đổi mới và các giải pháp sáng tạo trước các vấn đề khó.

Vậy cần có những biện pháp gì để tạo dựng các mối quan hệ đối tác chống biến đổi khí hậu?

Mặc dù việc vận động để các chính phủ thống nhất về các mức cắt giảm phát thải cácbon vẫn là một ưu tiên, nhưng các tổ chức dân sự xã hội, chính phủ và

các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cần cùng nhau thiết kế ra những hành động chung tiến tới một sự chuyển dịch công bằng và bình đẳng sang một thế giới phát thải ít cácbon. Sự cần thiết và cơ hội cho điều này nằm ở việc thúc đẩy và tạo ra những lối sống phát thải ít cácbon ở các các nước giàu và nước nghèo. Điều này có nghĩa là phải kết nối giữa việc lập kế hoạch và chính sách của chính phủ với các hành động của cộng đồng và địa phương, với khả năng kinh doanh của xã hội và cơ hội kinh doanh theo những cách sáng tạo và bổ sung lẫn nhau. Nhưng để phát huy được hiệu quả thì các quan hệ đối tác này phải là những sự hợp tác tự giác tự nguyện, khai thác tốt điểm mạnh của mỗi khu vực kinh tế.

Tuy nhiên, trên thực tế, những lợi ích tiềm tàng mà quan hệ đối tác liên ngành có thể mang đến lại chưa được khai thác, hoặc bị lãng phí do thiếu hiệu quả hoặc quản lí chưa tốt. Dường như vẫn còn nhiều hoạt động đối tác kém chất lượng, chưa phát huy hiệu quả tối đa. Nhiều quan hệ mang danh là đối tác, song thực chất chẳng hơn gì việc quản lý theo hợp đồng, hoạt động từ thiện, “những hoạt động thường ngày” hoặc “bảo người khác phải nghĩ gì, làm gì”. Điều này là kinh nghiệm rút ra từ hoạt động của Diễn đàn các nhà lãnh đạo doanh nghiệp quốc tế IBLF trong hai thập kỷ qua trong việc nỗ lực tạo dựng những quan hệ đối tác liên ngành nhằm hướng tới phát triển bền vững.

Những bên tham gia vào quan hệ đối tác hiệu quả sẽ phải cam kết chia sẻ rủi ro, chi phí và lợi ích; phải

Nguồn lực toàn cầu, Giải pháp địa phương: Các đối tác bền vững sẽ tạo ra những giải pháp dài hạn về khí hậu

Rafal Serafin và Surinder Hundal

Phông nền tại Hội nghị các bên lần thứ 15 của Liên Hợp Quốc tại Copenhagen, Đan Mạch, tháng 12 năm 2009.

- 5 -

đề cao tính minh bạch; và phải nỗ lực để đảm bảo tính bình đẳng sao cho không một đối tác hay bên liên quan nào muốn phá hoại đối tác. Việc đảm bảo cả ba nguyên tắc này là vấn đề then chốt nhằm đảm bảo sự hợp tác trong biến đổi khí hậu sẽ cho những kết quả cụ thể và bền vững.

Ít nhất có ba hình thức hay xu hướng tốt trong quan hệ đối tác về biến đổi khí hậu:

CÁC QUAN HỆ ĐỐI TÁC GIẢM NHẸ TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU – trọng tâm của quan hệ đối tác này là tìm cách cắt giảm mức độ phát thải cácbon mà không làm tổn hại đến các cơ hội phát triển. Các quan hệ đối tác có thể góp phần giảm thiểu chi phí và thúc đẩy việc chia sẻ rủi ro bằng việc cho các đối tác được tiếp cận với tri thức và học hỏi từ các đối tác khác ở tất cả các khu vực kinh tế.

Một ví dụ là hoạt động của Quỹ Đối tác Môi trường Balan kết hợp với chương trình Năng lượng thay thế của hãng dầu lửa BP trong một chương trình huy động các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Balan cải thiện hoạt động môi trường của họ, để họ trở nên quan tâm hơn đến các hoạt động của cộng đồng trong việc giảm mức phát thải cácbon, đồng thời có năng lực cạnh tranh hơn trên thị trường địa phương, quốc gia và quốc tế. Chương trình Kinh doanh sạch đã đem lại lợi ích cho hơn 5000 doanh nghiệp vừa và nhỏ bằng cách thúc đẩy việc chia sẻ kinh nghiệm chuyên môn giữa các khu vực và tạo ra một cơ chế để tiếp cận và theo dõi các tác động môi trường, trong đó có mức độ phát thải cácbon.

Được phát triển trong quá trình chuyển đổi đầy sóng gió của Balan sang nền kinh tế thị trường và dân chủ, chương trình Kinh doanh sạch giờ đây đã có những đối tác đầy tiếng tăm ở tầm quốc tế như Cadbury, Toyota và các doanh nghiệp tầm cỡ quốc tế khác. Chương trình này mang lại cho các nước đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường một mô hình về việc làm thế nào sử dụng sức mạnh của đối tác liên ngành để biến việc giảm phát thải cácbon thành một lợi thế cạnh tranh.

CÁC QUAN HỆ ĐỐI TÁC THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU – trọng tâm là khai thác các cơ hội phát triển trong một bối cảnh thay đổi mỗi ngày. Các đối tác có thể giúp đỡ nhau để hiểu về bối cảnh đang đổi thay của các biến đổi xã hội và các ưu tiên ở địa phương, xác định những cơ hội phát triển mới và giúp cho việc học hỏi ở địa phương, cộng đồng.

Một ví dụ là chương trình Đối tác Du lịch Quốc tế của IBLF (gọi tắt là chương trình ITP). Chương trình này khuyến khích và tạo điều kiện để các khách sạn quốc tế thực hiện hoạt động kinh doanh của mình – từ việc mua sắm và quản lí chuỗi cung

ứng cho đến quản lý chất thải – theo cách tăng tính bền vững của các cộng đồng nơi các khách sạn này hoạt động. Đối tác này giúp cho các thành viên xây dựng những giải pháp thực tiễn để “làm xanh” hoạt động của họ và chia sẻ kinh nghiệm với các khách sạn nhỏ hơn thông qua các cuốn sổ tay, ví dụ như sổ tay Quản lý Môi trường cho Khách sạn, là một cuốn sổ tay cung cấp các thông tin đáng tin cậy về việc làm sao để các hoạt động phục vụ nghỉ ngơi cho khách trở nên thân thiện và bền vững với môi trường.

Bằng việc giúp cho các khách sạn thiết lập quan hệ với nhau và với các nhà lãnh đạo ở cộng đồng địa phương (và ngược lại), ITP đã giúp cho ngành khách sạn hiểu rõ hơn về bối cảnh phát triển kinh tế xã hội đang thay đổi ở cả trong nước và quốc tế. Kể từ năm 1992, ITP đã góp phần tạo nên một văn hóa đối tác thân thiện với môi trường trong một khu vực kinh tế đã trực tiếp và gián tiếp tạo ra gần 10% GDP toàn cầu.

CÁC QUAN HỆ ĐỐI TÁC SÁNG TẠO – trọng tâm là phát triển những cách thức hoạt động hoàn toàn mới, đạt được những bước đột phá khiến cho cách thức hoạt động truyền thống trở nên lỗi thời, thông qua việc tạo ra một thực tế hoạt động hoàn toàn mới. Những quan hệ đối tác này sẽ cố gắng tạo ra và mở rộng những mô hình kinh doanh và hoạt động mới, những loại hình sản phẩm và dịch vụ mới, và thậm chí cả những thị trường mới.

Một ví dụ là chương trình Trường học Sinh thái của Quỹ Giáo dục Môi trường, một quan hệ đối tác giúp chuyển đổi trường học thành những ví dụ sinh động về việc sống với mức phát thải cácbon thấp, các nguồn lực tri thức về phát triển với mức phát thải cácbon thấp, và cũng là nguồn động viên cho cộng đồng xung quanh. Ví dụ như ở Vương quốc Anh, Trường Công nghệ Sandwich đã chuyển đổi các hoạt động và cách tiếp cận trong giáo dục của mình, trong đó có việc lắp đặt một tuốc-bin gió và các hệ thống năng lượng tái tạo khác. Trường đã trở thành một hình mẫu về phát triển bền vững cho cộng đồng xung quanh. Những kinh nghiệm thực tiễn từ hàng chục trường học khác ở Vương quốc Anh cũng đã khiến Chính phủ phải cam kết hỗ trợ cho các trường trong việc chuyển đổi sang các trường học bền vững.

Chương trình này đã hoạt động ở hơn 50 quốc gia thông qua các tổ chức phi chính phủ của mỗi nước, cùng với chính quyền trung ương và địa phương và chính các trường học. Các đối tác của chương trình bao gồm cả các công ty quốc tế như Toyota và HSBC, với hi vọng tạo ra những thị trường mới và khách hàng mới cho việc sống với mức phát thải cácbon thấp, kết nối ước vọng toàn cầu với các hoạt động ở địa phương.

- 6 -

Các trường học sinh thái là một mối quan hệ đối tác từ địa phương-đến-toàn cầu, vì không có một đối tác nào chịu trách nhiệm chính, nhưng tất cả các đối tác có chung một mối quan tâm trong sáng tạo nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang một cuộc sống với mức phát thải cácbon thấp hơn. Các trường học là đại diện cho việc đầu tư ban đầu rất lớn; việc giảm mức phát thải cácbon thực sự là một bước tiến đáng kể.

Các đối tác biến đổi khí hậu có hiệu quả sẽ kết nối giữa địa phương với toàn cầu. Bằng việc kết hợp các điểm mạnh và nguồn lực của khối doanh nghiệp, các tổ chức dân sự xã hội và chính phủ, những quan hệ đối tác này là cách thức và cơ hội để xây dựng nên khả năng chống đỡ tốt hơn trước các tác động khí hậu ở cả các nước phát triển và đang phát triển, ví dụ như:

Chấm dứt tình trạng nghèo về nhiên liệu thông qua việc xây dựng nhà ở chất lượng tốt hơn và cách nhiệt tốt hơn;

Giải quyết tình trạng thiếu nhà ở và các vấn đề về sức khỏe kém do thiếu nhà ở;

Phát triển những phương tiện giao thông công cộng ít gây ô nhiễm hơn và các chương trình giao thông bền vững ở các khu vực đô thị và nông thôn;

Phát triển các hệ thống trồng trọt và sản xuất lương thực địa phương hóa và tự bền vững;

Khuyến khích các công trình do cộng đồng sở hữu và quản lý việc phát điện, cung cấp nước sạch và vệ sinh, tái tạo nguồn lực, và tái sử dụng chất thải;

Thúc đẩy các chương trình năng lượng do cộng đồng sở hữu và quản lý, khai thác các công nghệ mới (phát điện sinh khối và các nguồn năng lượng thay thế khác);

Phối hợp với các cộng đồng ở địa phương trong việc quản lý dòng người di cư, đổi chỗ ở, và đa dạng hóa;

Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính có tính đến rủi ro giảm thiểu và các cơ hội phát triển của các cộng đồng sống thân thiện với môi trường;

Giúp cho người lao động ở các khu nghèo trang bị kỹ năng để xây dựng, duy tu và vận hành các công trình cơ sở hạ tầng cần thiết cho cộng đồng địa phương tập trung vào việc phát triển bền vững và tự cung tự cấp.

Quan hệ đối tác của các tổ chức xã hội dân sự, chính phủ, các công ty trong nước và quốc tế có thể khiến cho khu vực tư nhân có ý thức tham gia tốt hơn. Các doanh nghiệp thường có tâm lý nghi ngại. Thực ra, các doanh nghiệp có thể trở thành các đối tác hiệu quả trong giải pháp về biến đổi khí hậu nếu như họ

tham gia vào việc xây dựng các cộng đồng thân thiện với môi trường, nhất là xung quanh các cơ sở sản xuất. Việc đặt trọng tâm vào địa phương cũng mang lại lợi ích cho doanh nghiệp thông qua việc tạo sự ổn định cho cộng đồng nơi doanh nghiệp đặt cơ sở sản xuất kinh doanh và nơi người lao động làm việc.

Những cư dân của các cộng đồng thân thiện với môi trường cũng hấp thụ những kỹ năng và năng lực giúp cho họ tăng khả năng chống đỡ trước biến đối khí hậu, và tận dụng được các cơ hội phát triển kinh tế mới và bền vững.

Việc hiện thực hóa được những tiềm năng của đối tác biến đổi khí hậu đòi hỏi các nhà lãnh đạo trong khu vực nhà nước, tư nhân và tổ chức dân sự xã hội phải nhận thức được rằng giới doanh nghiệp có thể là một phần trong giải pháp tổng thể trước các thách thức về khí hậu mà chúng ta đang và sẽ phải đối mặt. Những nhà lãnh đạo đó có thể được tìm thấy trong các cộng đồng địa phương trên khắp thế giới cũng như ở cấp độ quốc tế. Bằng cách hành động với tinh thần tự giác cao hơn, họ đang tăng cường các quan hệ đối tác liên ngành để xây dựng năng lực cho địa phương và toàn cầu trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu hôm nay và trong tương lai.

Để biết thêm thông tin, xin tham khảo các trang web của International Business Leaders Forum: www.iblf.org; International Tourism Partnership: www.tourismpartnership.org; Eco-schools: www.eco-schools.org; Cross-sector partnerships: www.thepartneringinitiative.org; Clean Business: www.czystybiznes.pl .

Các quan điểm trình bày trong bài viết này không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ.

Cắt giảm mức phát thải cácbon mà không làm tổn hại đến các cơ hội phát triển.

Ví dụ: đối tác giữa BP và Quỹ đối tác môi trường Balan

Các đối tác về giảm nhẹ biến đổi khí

hậu

Khai thác các cơ hội phát triển để tìm cách thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu

Ví dụ: Đối tác Du lịch Quốc tế của IBLF.

Các đối tác về thích ứng với biến đổi

khí hậu

Xây dựng các cách thức hoạt động mới để ứng phó với biến đổi khí hậu

Ví dụ: Chương trình Trường học sinh thái của Quỹ Giáo dục Môi trường

Các đối tác sáng tạo về biến đổi khí

hậu

- 7 -

Holly Wise là một chuyên gia tư vấn và là nghiên cứu viên cao cấp tại Trường Chính trị Kennedy của Đại học Harvard, bà cũng giảng dạy môn phát triển doanh nghiệp tại Trường Ngoại giao của Đại học Georgetown. Bà đã phục vụ 26 năm trong ngành ngoại giao tại Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ.

Vào cuối những năm 1990, với sự hỗ trợ của Diễn đàn các nhà lãnh đạo doanh nghiệp quốc tế IBLF, chương trình năng lượng thay thế của BP cùng với Quỹ đối tác môi trường của Balan đã tìm cách để huy động các doanh nghiệp vừa và nhở ở Balan trong việc nâng cấp hoạt động vì môi trường của họ, có ý thức tham gia nhiều hơn vào các hoạt động cộng đồng để giảm phát thải cácbon và có năng lực cạnh tranh cao hơn trên thị trường địa phương, quốc gia và quốc tế.

Cùng với nhau, họ đã phát triển nên một đối tác giảm nhẹ biến đổi khí hậu có tên là Czysty Biznes, hay Kinh doanh Sạch. Chương trình này đã đáp ứng được nhu cầu của mỗi bên đối tác, đồng thời huy động được chính phủ, doanh nghiệp và cộng đồng xung quanh ý tưởng môi trường là một vấn đề trong kinh doanh, đóng vai trò trung tâm trong sự phát triển kinh tế của Balan. Các mối quan hệ đối tác giảm nhẹ đều tập trung vào việc giảm phát thải cácbon và giảm chi phí mà không cản trở đến các cơ hội phát triển và hoạt động kinh doanh.

Việc tạo ra chương trình Kinh doanh Sạch vào năm 1998 đặc biệt ấn tượng vì nó được khởi xướng trong quá trình Balan chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường và qui chế dân chủ. Trong giai đoạn đó, chính sách về môi trường không phải là một ưu tiên của chính phủ. Biến đổi khí hậu được xem như không phù hợp, chỉ là chuyện mà nước khác phải giải quyết. Chương trình Kinh doanhh Sạch minh họa cho ta thấy các nhóm doanh nghiệp và cộng đồng có thể thiết lập ra những chuẩn mực mới như thế nào, và những chuẩn mực đó sau này có thể được lồng ghép vào chính sách của chính phủ ra sao.

Quan hệ đối tác này đã đem lại cho Quỹ Đối tác Môi trường Balan một cơ hội để nâng mối quan tâm của mình lên tầm quốc gia, đồng thời cho phép BP được chia sẻ những hiểu biết của mình với các công ty nhỏ hơn. Vivienne Cox, cựu Giám đốc điều hành và Phó Chủ tịch cao cấp của chương trình Năng lượng thay thế của BP đã nói rằng công ty của bà muốn kết

nối hoạt động kinh doanh với các cộng đồng ở địa phương nơi công ty hoạt động. Bà nói: “Chúng tôi rất muốn thành lập các tổ chức địa phương mà có thể phát huy vai trò của họ trong xã hội một cách nghiêm túc”.

Trong những năm gần đây, chương trình Kinh doanh Sạch đã tập trung vào việc cung cấp cho các doanh nghiệp các công cụ thiết thực để đánh giá và theo dõi hoạt động về môi trường của họ, ví dụ như Công cụ Internet quản lý môi trường, mà các công ty trong chương trình Kinh doanh Sạch có thể sử dụng để giảm chi phí và xác định các cơ hội kinh doanh theo hai cách. Thứ nhất, số liệu về các chỉ số hiệu quả hoạt động môi trường khác nhau được thu thập và tính toán lại theo mức phát thải cácbon; điều này cho phép các công ty theo dõi được hiệu quả hoạt động môi trường của mình và có thể bí mật so sánh với các đối thủ cạnh tranh. Thứ hai, các thành viên trong chương trình đều được tư vấn và hỗ trợ bởi các chuyên gia trong lĩnh vực mà họ quan tâm.

Để được quyền tiếp cận công cụ đó, các công ty phải cung cấp số liệu theo dõi về hiệu quả hoạt động môi trường của mình và chia sẻ kinh nghiệm với các công ty khác trong chương trình. Điều này tạo ra sự tin cậy và sự hợp tác có đi có lại giữa các công ty trong chương trình Kinh doanh Sạch, tạo ra các cơ hội kinh doanh mới. Cho đến nay, chương trình Kinh doanh Sạch đã đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho Balan và cho môi trường theo những cách thức sau:

Đối tác Kinh doanh Sạch của Balan thúc đẩy giá trị kinh tế học về giảm nhẹ biến đổi khí hậu

Holly Wise

Slag Recycling, một công ty trong chương trình Kinh doanh Sạch, đã biến rác thải từ một nhà máy thép lớn ở Krakow, Balan, thành vật liệu xây dựng như gạch để lát lại quảng trường rộng nhất của châu Âu thời Trung cổ.

- 8 -

Chương trình đã hỗ trợ cho hơn 5000 doanh nghiệp nhỏ bằng cách thúc đẩy việc chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn giữa các ngành, và cung cấp một cơ chế để theo dõi và đánh giá các tác động môi trường.

Chương trình đã thiết lập được 16 câu lạc bộ kinh doanh sạch trên khắp đất nước Balan với hơn 500 doanh nghiệp tham gia. Những câu lạc bộ này đem lại cơ hội học hỏi về tính thực tiễn của phát triển bền vững và giảm nhẹ tác động môi trường của hành vi tiêu thụ năng lượng, nước sạch và nguyên liệu. Các câu lạc bộ này cũng khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm lượng chất thải và trở nên hiệu quả hơn về năng lượng, và nhờ đó có được năng lực cạnh tranh cao hơn trên thị trường.

Chương trình Kinh doanh Sạch đã giúp cho các công ty thành viên đạt được trung bình mức giảm phát thải cácbon 10% mỗi năm.

Đối tác Kinh doanh Sạch đã thu hút sự quan tâm từ nhiều công ty quốc tế có tầm cỡ lớn. Chương trình đã thúc đẩy công ty bánh kẹo nổi tiếng của Anh là Cadbury và công ty sản xuất xe hơi Toyota cùng với nhiều công ty khác nữa trở thành đối tác với Quỹ Đối tác Môi trường Balan trong việc theo đuổi các nỗ lực giảm mức phát thải cácbon của mình.

Ở mức độ rộng hơn, chương trình đã thiết lập được một mô hình mạnh thúc đẩy việc sử dụng các đối tác liên ngành nhằm biến việc giảm phát thải cácbon trở thành một lợi thế cạnh tranh cho các nước đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường.

Cuối cùng, tính bền vững của mối quan hệ đối tác giữa các tổ chức phi chính phủ và giới doanh nghiệp đã được đảm bảo thông qua năng lực đáp ứng và thích ứng với những nhu cầu thay đổi hàng ngày của các thành viên và đối tác, đồng thời tạo điều kiện cho các thành viên giảm tác động cácbon và tăng cường năng lực cạnh tranh. Nhờ đó, chương trình Kinh doanh Sạch là một đối tác góp phần giảm nhẹ các tác động của biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, bà Cox cũng phát biểu: “Đây là một cách tốt để cho phép các công ty đa quốc gia góp phần phát triển cơ sở hạ tầng kinh doanh ở những thị trường mới”.

Các quan điểm trình bày trong bài viết này không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ.

Nhà máy thép Nowa ở Krakow, một trong những nhà máy thép lớn nhất châu Âu, là một động lực quan trọng cho sự phát triển của Balan nhờ có các công ty trong Chương trình Kinh doanh Sạch đã tái chế chất thải của nhà máy cho những mục đích sử dụng khác.

Đối tác giảm nhẹ biến đổi khí hậu: Chương trình Kinh doanh Sạch

Giảm đầu ra cácbon và chi phí mà không cản trở kinh doanh

Nâng cao nhận thức về môi trường như một vấn đề kinh doanh ở Balan

Huy động được khu vực nhà nước trong việc ban hành các chính sách về môi trường

Tạo điều kiện cho các công ty thành viên đánh giá và theo dõi hoạt động môi trường của họ

Các báo cáo hỗ trợ cho hơn 5000 doanh nghiệp nhỏ đạt được mức giảm phát thải cácbon trung bình 10% một năm.

- 9 -

Holly Wise là một chuyên gia tư vấn và là nghiên cứu viên cao cấp tại Trường Chính trị Kennedy của Đại học Harvard, bà cũng giảng dạy môn phát triển doanh nghiệp tại Trường Ngoại giao của Đại học Georgetown. Bà đã phục vụ 26 năm trong ngành ngoại giao tại Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ.

Kể từ khi được thành lập vào năm 1992, Đối tác Du lịch Quốc tế (ITP) đã thúc đẩy các đối tác thân thiện với môi trường trong ngành du lịch, một ngành kinh tế quan trọng hiện tạo ra gần 10% GDP toàn cầu. Đối tác ITP làm được điều này nhờ khuyến khích và tạo điều kiện cho các khách sạn quốc tế cải thiện tính bền vững của hoạt động khách sạn và của các cộng đồng xung quanh, bằng cách áp dụng và thích ứng với những tập quán tốt nhất trong việc mua sắm và thuê tuyển nhân viên ở địa phương, và thông qua việc quản lý chất thải phù hợp. Đối tác cũng khuyến khích các thành viên sử dụng ITP như một diễn đàn để thảo luận các nỗ lực bền vững của họ và để chia sẻ những vấn đề mà họ quan tâm.

ITP được thành lập với vai trò là một đối tác để thích ứng với biến đổi khí hậu của Diễn đàn các nhà lãnh đạo doanh nghiệp quốc tế IBLF – một tổ chức quốc tế phi lợi nhuận với trọng tâm họp tác với các nhà lãnh đạo doanh nghiệp trong việc tìm ra các giải pháp sáng tạo cho các thách thức phát triển bền vững. ITP cố gắng cung cấp cho ngành khách sạn và du lịch những kiến thức để tìm ra các giải pháp thiết thực đối với các vấn đề về biến đổi khí hậu.

Được mô tả trong bài viết “Nguồn lực toàn cầu, Giải pháp địa phương” trong tạp chí này, các đối tác thích ứng đã thúc đẩy sự hợp tác bằng cách nâng cao nhận thức về thách thức khí hậu và giúp các đối tác xác định và tận dụng các cơ hội phát triển và giảm chi phí. Các đối tác thích ứng nhấn mạnh vào việc kết nối các doanh nghiệp với các cộng đồng nơi họ đang hoạt động, để cả doanh nghiệp và cộng đồng đều có thể ứng phó hiệu quả hơn trước tác động của biến đổi khí hậu. Các đối tác có thể giúp nhau quản lý sự thay đổi theo những ưu tiên của địa phương, xác định những cách thức mới để tiến lên và thúc đẩy sự chia sẻ thông tin.

ITP đã hoàn thành sứ mệnh này thông qua một số ấn phẩm mà họ đã phát triển để đem lại cho các thành viên thông tin về các giải pháp thiết thực “làm xanh” hoạt động của họ, và chia sẻ kinh nghiệm với các khách sạn khác nhỏ hơn. Một số ấn phẩm trong số

này bao gồm Quản lý môi trường cho khách sạn, một ấn phẩm cung cấp thông tin về hoạt động cung cấp nơi nghỉ ngơi cho khách một cách bền vững và thân thiện với môi trường từ năm 1993; trang web Green Hotelier, cũng có mục tiêu tương tự; và hướng dẫn về Lựa chọn địa điểm, thiết kế và xây dựng khách sạn bền vững, được xuất bản năm 2005 cùng với tổ chức Bảo tồn Quốc tế.

Với bản chất cung cấp dịch vụ nghỉ ngơi thư giãn cho khách, ngành khách sạn đang phải chịu rủi ro lớn hơn trong việc sử dụng quá mức các nguồn lực địa phương như nước và các dịch vụ quản lý chất thải. Những khách vốn không có thói quen sử dụng quá mức những nguồn lực đó ở nhà thì cũng không lạm dụng những nguồn lực đó khi ở khách sạn. ITP đã tạo ra những giải pháp thiết thực như thêm không khí vào nước trong vòi tắm sen ở phòng khách sạn để duy trì áp suất nhưng giảm được lượng nước sử dụng. Những ý tưởng khác bao gồm việc khuyến khích khách sử dụng lại khăn bông tắm và ga trải giường.

ITP cũng đưa ra các chương trình khuyến khích các khách sạn thành viên tập trung vào các cộng đồng ở nơi họ hoạt động. Ví dụ như Sáng kiến Sự nghiệp cho thanh niên đã trang bị cho các học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông “đang gặp rủi ro” ở độ tuổi 18 đến 24 những kỹ năng mà các em cần để kiếm được việc làm ở nhiều ngành khác nhau. Phối hợp với các đối tác như Cơ quan Phát triển Đức

Các đối tác du lịch chia sẻ ý tưởng về thích ứng với biến đổi khí hậu

Holly Wise

Đối tác Du lịch Quốc tế chia sẻ các ý tưởng thiết thực để cải thiện tính bền vững trong việc cung cấp dịch vụ nghỉ ngơi cho khách, ví dụ như khuyến khích khách sử dụng lại khăn bông tắm và ga trải giường.

- 10 -

(GTZ), Tầm nhìn Thế giới, và Marriot International, Sáng kiến Sự nghiệp cho Thanh niên đã thực hiện các chương trình đào tạo sáu tháng ở 11 quốc gia.

Cơ cấu điều hành của ITP cho phép việc đưa ra quyết định minh bạch và trao cho các thành viên cơ hội được gây ảnh hưởng đến định hướng của quan hệ đối tác. Điều này góp phần đảm bảo rằng ITP sẽ thiết kế ra các chương trình đem lại lợi ích tối đa cho mỗi thành viên. Một nhóm chủ chốt của ITP đã dành rất nhiều thời gian cho việc phát triển mối quan hệ với các thành viên, đảm bảo rằng họ hiểu được ITP hỗ trợ cho công việc kinh doanh của họ như thế nào.

Các thành viên phải nộp phí để trang trải các chi phí hoạt động của ITP. Đổi lại, họ có thể tiếp cận các nguồn lực của ITP và có thể gây ảnh hưởng đến các ưu tiên của nhóm. Mô hình này nhấn mạnh vào sự hợp tác ở tất cả các cấp độ điều hành. Ông Stephen Farran, Giám đốc của ITP đã phát biểu: “ITP là một mô hình đối tác rất đặc biệt tập trung không chỉ vào việc thúc đẩy các hoạt động kinh doanh cụ thể; nó nâng cao nhận thức về môi trường và các vấn đề phát triển nói chung”.

Tác động của ITP đối với các đối tác và cộng đồng địa phương là rất rõ ràng, thể hiện đáng kể nhất là ở việc quản lý chất thải trong các khách sạn và tạo

thêm việc làm cho người dân địa phương. Nhiều khách sạn quốc tế đã có các chương trình giảm thiểu cácbon cũng tiếp tục sử dụng đối tác này để giải quyết các tác động xã hội của biến đổi khí hậu.

ITP là một mô hình đầy thuyết phục cho một quan hệ đối tác thích ứng. Đối tác này là một không gian để các doanh nghiệp có thể tích cực tìm hiểu, học hỏi và tìm ra cách đối phó với các vấn đề cấp bách về phát triển bền vững trong mối quan hệ với các đối tác trong ngành.

Cơ hội tham gia vào một quan hệ đối tác đặc biệt với một trọng tâm duy nhất về tính bền vững trong ngành du lịch vẫn là một động cơ mạnh mẽ để các tập đoàn ngân hàng trên khắp thế giới tham gia vào ITP. Ông Farrant nói “Càng ngày càng có nhiều người nhận thức được rằng các vấn đề phát triển bền vững sẽ trở nên quan trọng hơn nữa trong những năm tới và điều này cũng rất có tác dụng”.

Các quan điểm trình bày trong bài viết này không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ.

Mối quan hệ đối tác thích ứng: Đối tác Du lịch Quốc tế

Nâng cao nhận thức về các thách thức biến đổi khí hậu trong ngành du lịch

Tạo điều kiện cho các khách sạn quốc tế cải thiện tính bền vững trong hoạt động

Tạo ra một diễn đàn để các thành viên thảo luận về các kết quả phát triển bền vững hoặc bày tỏ những mối quan tâm của họ

Duy trì nhiều ấn phẩm để hướng dẫn các thành viên trong việc đưa ra các quyết định “xanh”

Vận hành các chương trình có tác động trực tiếp đến các cộng đồng địa phương.

- 11 -

Holly Wise là một chuyên gia tư vấn và là nghiên cứu viên cao cấp tại Trường Chính trị Kennedy của đại học Harvard, và bà giảng dạy môn phát triển doanh nghiệp tại Trường Ngoại giao của đại học Georgetown. Bà đã phục vụ 26 năm trong ngành ngoại giao tại Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ.

Trường học Sinh thái là một đối tác giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân giúp cho các trường học áp dụng những khái niệm về cuộc sống phát thải cácbon thấp trong hoạt động của nhà trường và cộng đồng. Với trọng tâm hướng vào hành động cụ thể, học sinh, thầy cô giáo và người dân ở cộng đồng đã học hỏi về những tác động của biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.

Đối tác này kết nối 32.000 trường học ở khoảng 50 quốc gia với các tổ chức phi chính phủ có mối quan hệ với chính quyền trung ương và địa phương. Quỹ Giáo dục Môi trường FEE, một tổ chức quốc tế phi lợi nhuận chuyên về thúc đẩy phát triển bền vững thông qua giáo dục môi trường đã khởi xướng chương trình quốc tế này vào năm 1994 và đã xây dựng quan hệ đối tác với Diễn đàn các nhà lãnh đạo doanh nghiệp quốc tế IBLF để mời gọi sự tham gia của khu vực tư nhân.

Ở nhiều nước, Trường học Sinh thái đã thiết lập các mối quan hệ đối tác liên ngành, tạo ra và khuyến khích sự sáng tạo ở nhà trường và cộng đồng xung quanh. Các trường học trở thành nơi thử nghiệm các giải pháp phát thải ít cácbon liên quan đến thiết kế, vật liệu xây dựng, phương tiện đi lại và các chương trình thực phẩm. Hoạt động thử nghiệm này là một cơ chế để nâng cao nhận thức và đưa ra những cơ hội để tái cơ cấu các khoản đầu tư theo hướng phát thải ít cácbon.

Trường học sinh thái là một ví dụ về mối quan hệ đối tác sáng tạo trong biến đổi khí hậu, tập trung vào việc phát triển những phương pháp hoạt động mới chứ không chỉ bó hẹp trong những khuôn khổ “lối mòn”. Các đối tác sáng tạo cố gắng tạo dựng và nhân rộng những mô hình kinh doanh hay hoạt động mới, sản phẩm, dịch vụ và thị trường mới. Khi làm việc về các vấn đề biến đổi khí hậu, các đối tác sáng tạo đều tập trung vào việc thay đổi các tập quán kinh doanh cốt lõi và giảm thiểu rủi ro và chi phí sáng tạo bằng cách lôi kéo sự tham gia của nhiều đối tác.

Trường Công nghệ Sandwich ở Vương quốc Anh đã cải thiện hoạt động của mình thông qua đối tác

Trường học Sinh thái. Trường Sandwich Tech đã đổi mới hoạt động và phương pháp tiếp cận trong giáo dục của mình bằng cách lắp đặt những tuốc-bin gió và các hệ thống năng lượng tái tạo khác. Trường đã giảm được tác động cácbon đồng thời tạo ra những lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường, và đã trở thành một tấm gương sáng về tính bền vững cho cộng đồng xung quanh.

Mô hình của Trường học Sinh thái có hai đặc điểm chính. Thứ nhất, với tư cách là một đối tác sáng tạo, nó đã khuyến khích các trường học đổi mới các hoạt động cốt lõi của mình và huy động những người liên quan đến trường học tạo ra những giải pháp thiết thực về biến đổi khí hậu. Thứ hai, đối tác này hoạt động như một sự hợp tác từ địa phương-tới-toàn cầu, trong đó tất cả các thành viên đều tham gia bình đẳng như nhau.

Quỹ Giáo dục Môi trường (FEE) là một khuôn khổ tạo điều kiện cho các thành viên nâng cao mục tiêu của riêng họ thông qua những hành động chung. Các tổ chức thành viên nhận thấy rằng họ không thể tự mình đạt được sự chuyển đổi sang mô hình cuộc sống phát thải ít cácbon. Thiết kế từ địa phương-tới-toàn cầu đã thu hút được những đối tác như hãng xe hơi Toyota và công ty dịch vụ tài chính HSBC, mang lại cho chương trình Trường học Sinh thái nguồn kinh phí và hỗ trợ kỹ thuật. Chương trình đã tạo điều kiện cho các đối tác doanh nghiệp kết nối những ước vọng toàn cầu của họ với những hoạt động ở địa phương như Trường học Sinh thái, tập

Các trường học sinh thái tạo ra những giải pháp biến đổi khí hậu sáng tạo ở địa phương

Holly Wise

Các Trường học Sinh thái trở thành nơi thử nghiệm các giải pháp phát thải ít cácbon, góp phần nâng cao nhận thức và mở ra những cơ hội tái cơ cấu các khoản đầu tư theo hướng bền vững.

- 12 -

trung vào sự đổi mới và các sản phẩm và quy trình phát thải ít cácbon. Các đối tác quốc tế khác gồm có Chương trình Môi trường của Liên hợp Quốc và Liên minh châu Âu.

Để thực thi và vận hành một Trường học Sinh thái hàng ngày, FEE yêu cầu một tổ chức phi chính phủ của quốc gia đó đóng vai trò là điều phối viên ở mỗi nước. Tất cả các điều phối viên sẽ họp mỗi năm một lần để thảo luận các vấn đề chính sách và lập kế hoạch, cũng như về các sáng kiến mới và các vấn đề mà họ quan tâm. Những cuộc họp này là cơ hội để kêu gọi thêm những đối tác toàn cầu hay quốc tế mới, và cũng là một phương pháp tự quản lý và kiểm soát chất lượng chương trình.

Dự án Trường học Sinh thái đã thu hút nguồn tài trợ, các tình nguyện viên, và sự hỗ trợ bằng hiện vật ở cấp địa phương, quốc gia và quốc tế, giúp cho chương trình phát triển mạnh mẽ ở 50 quốc gia. Các cơ quan điều phối quốc gia phải đảm bảo đủ nguồn kinh phí cho dự án bằng cách đóng vai trò môi giới liên ngành để có sự hợp tác giữa các doanh nghiệp, các cơ quan chính phủ và các tổ chức phi chính phủ. Tất cả các đối tác đều giúp đỡ cho một trường học trong mọi khâu của quá trình đổi mới để trở thành một trường học sinh thái.

Urban Mines, một tổ chức phi chính phủ đặt tại Vương quốc Anh tập trung vào quản lý chất thải, đã điều phối quá trình chuyển đổi sang trường học sinh thái ở Halifax, nước Anh. Dự án có tên Tread Lightly đã khuyến khích các em học sinh ở Halifax sử dụng năng lượng có hiệu quả hơn và giảm lượng chất thải bằng cách tái chế tại trường và ở nhà. Dự án đã có sự tham gia của Ngân hàng Trung ương Scotland tại Halifax trong việc hỗ trợ cho các sáng kiến của trường ở địa phương về

giáo dục về tái chế, năng lượng và bền vững. “Đối với chúng tôi, thành công thể hiện ở tinh thần làm chủ của cộng đồng và sự cam kết lâu dài đối với môi trường”, ông Gill Tatum, giám đốc điều hành của tổ chức Urban Mines, đã phát biểu như vậy.

Những hình thức hợp tác này đã khuyến khích các trường tham gia và các điều phối viên quốc gia đóng góp vào và học hỏi từ các chương trình Trường học sinh thái ở các nước khác. Ví dụ như, Dự án Sáng tạo và Môi trường trường học sinh thái là một cuộc thi quốc tế do hãng Toyota tài trợ, với sự tham gia của các trường học ở Đan Mạch, Phần Lan, Na-uy, Bồ Đào Nha và Thổ Nhĩ Kỳ. Chương trình này đã khuyến khích các trường học đưa ra những sáng tạo của chính mình để giảm tác động lên môi trường.

Trường Tiểu học Odtü Gelistirme Vakfi Özel Ilkögretim Okulu ở Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ, đã thắng giải cuộc thi “Tôi chịu trách nhiệm” năm 2010. Cuộc thi này trao trách nhiệm trực tiếp cho học sinh trong việc sử dụng điện trong lớp học. Các lớp học được lắp các hộp công tắc điện vận hành bằng một tấm thẻ, tương tự như thẻ mở cửa được sử dụng ở một số khách sạn. Mỗi lớp cử một học sinh giữ tấm thẻ của cả lớp. Dự án và chủ đề về tiết kiệm năng lượng được lồng ghép vào chương trình học của cả trường. Điều này đã mang lại kết quả là tiết kiệm tiền điện cho trường và một môi trường trong sạch hơn cho tất cả mọi người.

Các đối tác sáng tạo như Trường học Sinh thái là nguồn động lực cho các đối tác sáng tạo khác với mục tiêu đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang một nền kinh tế phát thải ít cácbon, và cũng là động lực cho chính phủ của các nước nhắm đến việc cắt giảm phát thải cácbon như là một đối sách cần thiết trước sự biến đổi khí hậu toàn cầu.

Các quan điểm trình bày trong bài viết này không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ.

Một cậu bé người Balan ăn mừng chương trình Trường học Sinh thái. Trong buổi lễ, các trường học

sinh thái thành công được trao tặng Cờ Xanh, một biểu tượng quốc tế về thành tích môi trường.

Các đối tác sáng tạo: Trường học Sinh thái Tạo ra các đối tác liên ngành để khuyến khích sự sáng

tạo ở trường học

Tập trung vào việc thay đổi các tập quán hoạt động cốt lõi đồng thời giảm rủi ro khi sáng tạo

Tạo điều kiện cho các trường trở thành nơi thử nghiệm công nghệ mới để cải thiện cuộc sống của cư dân

Các đối tác doanh nghiệp toàn cầu phối hợp với các tổ chức quốc gia và địa phương

Các trường học tham gia cuộc thi quốc tế về các sáng tạo tốt nhất do học sinh thiết kế

- 13 -

Lewis Milford là Chủ tịch và người sáng lập ra Nhóm Năng lượng Sạch và Liên minh các bang dùng năng lượng sạch, hai tổ chức phi lợi nhuận phối hợp với các tổ chức của bang, liên bang và quốc tế để đẩy nhanh quá trình thương mại hóa và triển khai các công nghệ năng lượng sạch.

Nhu cầu năng lượng toàn cầu được dự đoán là sẽ tăng lên gấp hơn hai lần vào năm 2050, và tăng lên hơn ba lần vào cuối thế kỷ này. Đồng thời, mức phát thải toàn cầu hàng năm phải giảm đi hơn 80% so với mức hiện nay thì mới đảm bảo ổn định được độ tập trung cácbon ở mức an toàn. Ngay cả với những cải thiện đáng kể trong hiệu quả sử dụng năng lượng thì vào năm 2050 thế giới vẫn sẽ cần phải tiêu thụ từ 30 đến 40 terawatt (tw) năng lượng – hơn một nửa số năng lượng đó phải trung hòa về cácbon (không làm tăng lượng cácbon thải ra không khí) thì mới đạt được mức cắt giảm cần thiết. Ngày nay, chưa đầy 2,5tw tiêu thụ năng lượng toàn cầu là trung hòa về cácbon. Đến năm 2050, chúng ta phải phát triển và triển khai khoảng 20tw năng lượng mới không có cácbon – tức là gấp 8 lần so với hiện nay.

Để dễ hình dung, trong 50 năm nữa, chúng ta phải phát triển một cơ sở hạ tầng năng lượng không có cácbon lớn hơn so với toàn bộ cơ sở hạ tầng năng lượng mà chúng ta đang có ngày nay – tất cả các nhà máy điện, các phương tiện giao thông, các cơ sở công nghiệp, và các tòa nhà trên trái đất này. Để đối mặt với thách thức to lớn đó, chúng ta không những phải đẩy nhanh việc triển khai những công nghệ hiện có, mà còn phải đẩy mạnh đáng kể các đột phá mới trong công nghệ.

MỘT THÁCH THỨC ĐỔI MỚI CHƯA TỪNG CÓ

Chúng ta cần có các đột phá về chi phí, hiệu quả hoạt động, và tính có thể nhân rộng của các công nghệ khí hậu. Lý do thật đơn giản – các công nghệ sẵn có về khí hậu với chi phí và hiệu quả hoạt động như hiện nay không thể đáp ứng nổi nhu cầu về năng lượng trung hòa về cácbon. Đối mặt với một thách thức to lớn như thế đòi hỏi sự đổi mới ở mọi khâu của quá trình phát triển công nghệ, từ nghiên cứu và phát triển cơ bản đến thương mại hóa và tuyên truyền, phổ biến.

Một cuộc nghiên cứu năm 2007 cho thấy rằng các nguồn năng lượng trung hòa về cácbon chỉ có thể cung cấp từ 10 đến 13 tw điện vào năm 2100 – chưa đầy một nửa lượng cần thiết để ổn định mức cácbonic, ngay cả với mức độ tập trung trong không khí không thể chấp nhận được là 550 hạt trên một triệu (ppm). Những đột phá trong các công nghệ và nguồn năng lượng hiện có và công nghệ mới là cần thiết để ổn định độ tập trung ở mức 550ppm, và cần hơn thế để đạt được độ tập trung 450 ppm, là độ tập trung mà nhiều nhà khoa học cho là cần thiết.

Hầu hết các chuyên gia đều nhất trí rằng phục hồi sự biến đổi khí hậu đòi hỏi không chỉ việc hạn chế phát thải do chính phủ cam kết mà còn cả những đổi mới vượt bậc trong công nghệ khí hậu. Việc đẩy nhanh quá trình đổi mới đòi hỏi một hệ thống nghiên cứu phát triển sản phẩm được điều phối ở tầm quốc tế để quản lý, điều phối và đẩy nhanh sự đổi mới thông qua các đối tác toàn cầu trong giới doanh nghiệp, chính phủ, học thuật, và các tổ chức phi lợi nhuận.

Một chiến lược như vậy là chiến lược đổi mới phân bổ, một phương pháp hợp tác hiện đại tập hợp được những kiến thức kinh nghiệm chuyên môn rải rác ở các ngành về năng lượng thay thế hay phát triển sản phẩm thành những nỗ lực chung. Đổi mới phân bổ là một phương pháp tiếp cận đã được ghi chép một cách hệ thống trong việc phát triển sản phẩm trong

Khai thác kiến thức chuyên môn toàn cầu: Gắn kết các trung tâm môi giới sẽ đẩy nhanh

các sáng kiến về biến đổi khí hậu Lewis Milford

Nhóm Năng lượng Sạch đề xuất việc tạo ra một quầy chuyên gia ảo trên Internet để có thể chuyển các ý tưởng công nghệ từ phòng thí nghiệm ra thị trường nhằm đối phó với những thách thức của việc phục hồi khí hậu.

- 14 -

các lĩnh vực hàng hóa doanh nghiệp và hàng hóa công. Phương pháp này nên được sử dụng để xác định các chiến lược và thể chế về công nghệ khí hậu. Phương pháp này rẻ hơn, thực tiễn, và mang tính hợp tác. Nó sẽ khuyến khích các đối tác nhà nước-tư nhân mới. Và điều quan trọng nhất là nó sẽ mang lại sức sống, ý tưởng và giải pháp mới cho thách thức đổi mới công nghệ khó khăn nhất mà trái đất của chúng ta từng phải đối mặt. Lãng phí thời gian vào những giải pháp cũ là vô lý khi các hình thức đổi mới mang tính hợp tác quốc tế hiện đại hơn và hiệu quả hơn đang chờ được chúng ta sử dụng.

PHÂN BỔ KINH NGHIỆM CHUYÊN MÔN MỘT CÁCH CHÍNH XÁC

Làm thế nào để chúng ta có thể tập hợp được và khiến cho những kinh nghiệm chuyên môn ở khắp nơi trên thế giới có thể giúp phát triển ra những sản phẩm đáp ứng các thách thức về biến đổi khí hậu ở phạm vi toàn cầu hoặc chỉ ở cấp độ địa phương? Các tổ chức toàn cầu hiện nay như Ngân hàng Thế giới hay Cơ quan Năng lượng Quốc tế đều có những sứ mệnh quan trọng, nhưng việc tạo điều kiện để đối phó với những thách thức đổi mới công nghệ lại không phải sứ mệnh của những tổ chức này. Chúng ta cần có một khuôn khổ thể chế mới ở cấp độ quốc tế. Dù là một bộ phận của một tổ chức sẵn có hay là một tổ chức mới, thì một “chương trình đổi mới khí hậu quốc tế” sẽ điều hòa và tổng hợp sự sáng tạo bằng cách “kết hợp nhiều vùng địa lý” và phối hợp các hành động khác nhau của các chuyên gia trên khắp thế giới.

Một chương trình mới sẽ hỗ trợ cho các giải pháp sáng tạo phát thải ít cácbon bằng cách khắc phục các khó khăn về pháp lý, kinh tế và các khó khăn khác dọc theo chuỗi cung cấp – là một loạt những hoạt động cần thiết để đưa một sản phẩm từ khi còn là ý tưởng đến khâu sản xuất và khâu tiêu thụ. Chương trình này cũng sẽ giải quyết được các vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ và phát triển các mô hình kinh doanh và tài chính mới. Chương trình có thể được xây dựng theo kiểu Quỹ Toàn cầu về phòng chống AIDS, bệnh sốt rét và bệnh lao; đó là một tổ chức cung cấp “hàng hóa công” được gắn kết nhưng cũng độc lập với Liên hợp Quốc và các tổ chức khác. Chương trình thậm chí cũng có thể tồn tại ở dạng “ảo”, có nghĩa là không nhất thiết phải cần đến một tòa nhà cụ thể xây bằng gạch ngói, vôi vữa.

Chương trình sẽ theo phương pháp tiếp cận từ dưới lên với tinh thần hợp tác đổi mới phân bổ đã được sử dụng để giải quyết các vấn đề phức tạp ở khu vực nhà nước và tư nhân. Dưới đây là một số đặc điểm chủ yếu của chương trình:

Đổi mới phân bổ sử dụng các công nghệ thông tin hiện đại để kết nối chuyên gia ở các lĩnh vực chuyên môn khác nhau ở các tổ chức và quốc gia khác nhau cùng làm việc trong các dự án phát triển và triển khai những sản phẩm cụ thể.

Đổi mới phân bổ kết nối những chuyên gia ở các khu vực thể chế khác nhau, bao gồm khu vực chính phủ, doanh nghiệp tư nhân, các tổ chức phi lợi nhuận, và các tổ chức tài chính, cũng như các nhà nghiên cứu học thuật và các nhà công nghệ.

Đổi mới phân bổ đẩy nhanh quá trình triển khai các công nghệ cụ thể.

Đổi mới phân bổ tăng được tốc độ và chiều sâu của việc phổ biến tri thức, vượt ra ngoài những gì mà các mạng lưới truyền thống về chia sẻ thông tin và kết nối thể chế có thể làm được. Đổi mới phân bổ sử dụng “các nền sáng tạo” và các công cụ “cơ sở hạ tầng kết nối” mới có khả năng giúp cho hàng ngàn người có thể xem xét các thách thức và đề xuất giải pháp, những người mà nếu không có chương trình này thì sẽ chẳng bao giờ có cơ hội làm việc cùng nhau. Những người có đóng góp cho chương trình có thể nhận được những phần thưởng tài chính vì có công “tìm ra giải pháp”, có thể được tặng thưởng tiền mặt nhờ các giải pháp công nghệ, hoặc có thể nhận được quyền sở hữu trí tuệ có giá trị cao.

Một cách thức tiếp cận theo kiểu đổi mới phân bổ sẽ khuyến khích các đối tác quốc tế giữa các chính phủ, các tổ chức và cá nhân ở các nước phát triển và đang phát triển bằng cách xây dựng những kết nối ban đầu giữa các chủ thể phù hợp (ví dụ như các nhà nghiên cứu học thuật, các phòng thí nghiệm quốc gia, các cơ quan chính phủ, các công ty tư nhân, các tổ chức tài chính, các công ty công ích, các nhà lắp đặt, các quỹ triển khai của bang, và các chủ thể khác). Các đối tác sẽ làm việc cùng nhau trong quá trình nghiên cứu, phát triển và cấp kinh phí. Kết quả là sẽ có cácnhóm làm việc mới, sáng tạo, và phát huy sức mạnh tổng hợp nhờ đa lĩnh vực, đem lại cơ hội cho nhà đầu tư, nguồn kinh phí cho những người sáng tạo, và giải pháp cho người tiêu dùng.

Cách tiếp cận phi tập trung từ dưới lên này sẽ nâng cao chất lượng của chính sách nghiên cứu và phát triển công nghệ khí hậu toàn cầu bằng cách:

Hỗ trợ cho việc đẩy nhanh các công nghệ năng lượng sạch mang tính đột phá và nhân rộng các công nghệ hiện có bằng cách tập trung vào tất cả các yếu tố của chuỗi giá trị từ phòng thí nghiệm cho đến thị trường;

Tập trung vào sản phẩm – nhanh chóng chuyển từ khâu nghiên cứu cơ bản sang khâu triển khai trên thực tế trong một thời hạn nhất định;

- 15 -

Giải quyết toàn bộ chuỗi giá trị công nghệ bằng cách khắc phục những lỗ hổng gây cản trở cho việc triển khai nhanh chóng và hiệu quả;

Đưa ra một mô hình có thể nhân rộng được cho các công nghệ phát thải ít cácbon, có thể hưởng những ích lợi từ chương trình đổi mới phân bổ.

Với cách tiếp cận này, có thể sẽ xuất hiện một loạt các phương án lựa chọn về công nghệ, với các sáng kiến được đưa ra ở những khung thời gian khác nhau – từ những giải pháp ngắn hạn làm giảm lượng phát thải gần như ngay lập tức, cho đến những cơ hội thương mại trung hạn trong vòng 5-10 năm tới, hay những sáng tạo năng lượng dài hạn mà giờ đây chúng ta còn chưa hình dung ra được.

Việc phối hợp các chủ thể chính từ các cộng đồng tài trợ ngay từ những giai đoạn đầu của quá trình nghiên cứu và phát triển sẽ đảm bảo việc sử dụng các nguồn kinh phí nhà nước và tư nhân một cách hiệu quả hơn. Vốn đầu tư có thể dễ dàng chuyển từ các dự án nhỏ lẻ thành các dự án tập trung vào một sản phẩm cụ thể. Các công cụ của chương trình đổi mới phân bổ sẽ tạo ra những động lực để vốn đầu tư tư nhân có thể tài trợ cho công nghệ sớm hơn.

NHỮNG CẢN TRỞ HIỆN NAY ĐỐI VỚI SỰ SÁNG TẠO CÔNG NGHỆ PHÁT THẢI ÍT CÁCBON

Theo các cuộc nghiên cứu năng lượng sạch của Ngân hàng Thế giới và tờ tạp chí Stern Review on the Economics of Climate Change, có một số khó khăn cản trở hoạt động đầu tư của nhà nước và tư nhân vào nghiên cứu và phát triển năng lượng sạch, nhân rộng và giảm chi phí của những công nghệ hiện tại:

Phát thải cácbon được định giá khác nhau hoặc thậm chí không được định giá, tạo ra quá nhiều rủi ro trong chính sách về khí hậu. Điều này hạn chế sự đầu tư của tư nhân vào các công nghệ khí hậu.

“Những thung lũng chết” – một số điểm nhất định trong quá trình phát triển khi cần một số vốn đầu tư lớn – làm cản trở đầu tư tư nhân.

Khó thu hút đủ vốn mà không làm giảm rủi ro cho nhà đầu tư thông qua hỗ trợ cụ thể của chính phủ.

Nhu cầu công nghệ của các nước đang phát triển chưa được đáp ứng đầy đủ vì các rào cản riêng do điều kiện của họ tạo nên, ví dụ như thu nhấp thấp hoặc dân sống rải rác.

NẾU CHỈ ĐẶT RA HẠN CHẾ VÀ TRAO ĐỔI (QUYỀN PHÁT THẢI) THÌ SẼ KHÔNG CÓ TÁC DỤNG

Các chuyên gia toàn cầu nhất trí rằng chỉ riêng một hệ thống đặt ra hạn chế rồi trao đổi (quyền phát thải) dựa trên thị trường thì sẽ không giảm được mức phát thải và sự sáng tạo công nghệ ở qui mô và tốc độ cần thiết để giải quyết được thấu đáo vấn đề biến đổi khí hậu. Tờ Stern Review cũng đồng ý rằng việc đặt giá cho cácbon cần phải được bổ sung bằng các biện pháp phát triển công nghệ. Tác giả Nicholas Stern viết: “… Những sự không chắc chắn và rủi ro của biến đổi khí hậu và của việc phát triển và triển khai công nghệ nhằm đối phó với biến đổi khí hậu có qui mô và tính cấp bách cao đến mức mà kinh tế học rủi ro đòi hỏi chúng ta phải có những chính sách hỗ trợ cho sự phát triển và sử dụng một loạt các phương án công nghệ phát thải ít cácbon”.

Các tổ chức có tên tuổi hầu như không tranh cãi gì về điều này, ví dụ như Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng trung ương của các nước G20, Ngân hàng Thế giới, Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), Cơ quan Năng lượng Quốc tế IEA, Nhóm chuyên gia về chuyển giao công nghệ của Ủy ban khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu (UNFCCC).

KHẮC PHỤC CÁC RÀO CẢN VỀ CÔNG NGHỆ, KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ

Một số chương trình đổi mới phân bổ quốc tế được điều phối theo cách tập trung đã mang lại những sáng tạo công nghệ rất thành công. Ấn phẩm này chỉ đơn cử hai chương trình trong số đó:

Các đổi mới trong các chuỗi giá trị nông nghiệp tập trung vào việc dỡ bỏ các rào cản thị trường, ví

Nhóm Năng lượng Sạch vận động các chính phủ hãy áp dụng chiến lược kinh doanh theo “đổi mới phân bổ” của các công ty như IMB, chiến lược có thể giải quyết các vấn đề bằng việc sử dụng các ý tưởng bên ngoài IMB.

- 16 -

dụ như những khó khăn trong việc chế biến an toàn, trong khâu sản xuất và phân phối các sản phẩm sắn, ngô và sữa ở Kenya và Ghana. Dự án này đã cho thấy cách tiếp cận đổi mới phân bổ được điều phối tập trung có thể đem lại những kết quả cụ thể như thế nào trong việc đưa ra những giải pháp công nghệ sáng tạo ở những ngành đòi hỏi sự phát triển sản phẩm nhanh chóng ở các thị trường khó tính.

Thắp sáng cho châu Phi có vai trò như một trung tâm môi giới đối tác để tạo điều kiện cho sự hợp tác quốc tế giữa các đối tác nhà nước và tư nhân. Chương trình này cũng áp dụng cách tiếp cận đổi mới phân bổ để đẩy nhanh quá trình phát triển sản phẩm, đưa những sản phẩm chiếu sáng hiện đại không cần đấu nối với lưới điện đến với những người dân nghèo nhất. Bắt đầu với việc thắp sáng và tiến đến những dịch vụ năng lượng khác, dự án Thắp sáng châu Phi đã là một cầu nối giữa các công ty tư nhân và khách hàng để tạo ra những thị trường cho các sản phẩm tốt hơn.

Cũng được nêu trong ấn phẩm này là trường hợp sử dụng cách đổi mới phân bổ để đẩy nhanh quá trình phát triển sản phẩm ở các lĩnh vực có trình độ kỹ thuật cao như các giải pháp năng lượng tái tạo dựa vào đại dương. Mặc dù có nhiều cơ hội để tung các sản phẩm này ra thị trường, nhưng chi phí phát triển lại rất đắt và khó xin được nguồn kinh phí. Một cách tiếp cận đẩy nhanh quá trình tung sản phẩm ra thị trường được điều phối tốt, tận dụng được những kiến thức và kinh nghiệm rải rác ở các nơi, có thể sẽ hỗ trợ cho việc giảm chi phí nhanh chóng và dỡ bỏ những rào cản khác.

SỰ CẦN THIẾT PHẢI CẢI CÁCH CƠ CẤU

Yêu cầu về đổi mới công nghệ là rất lớn, và những khó khăn vẫn còn chồng chất, nên đòi hỏi chúng ta phải có một cuộc cải cách cơ cấu ở tầm quốc tế. Trên thực tế, nhiều quốc gia trong đó cả các thành viên của Liên minh châu Âu đã ý thức rất rõ về những lợi ích của việc hợp tác quốc tế trong nghiên cứu và phát triển, bao gồm việc “tập hợp các nguồn tài chính, chia sẻ rủi ro và đặt ra các chuẩn mực chung cho các dự án nghiên cứu và phát triển qui mô lớn và rủi ro cao… Và hỗ trợ cho việc triển khai và chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển/các nền kinh tế mới nổi”, theo nghiên cứu của Ủy ban châu Âu.

Thế giới đang tìm kiếm những cách thức hợp tác mới cho sự đổi mới công nghệ khí hậu. Sự cần thiết của việc hợp tác là rõ ràng và đã được chứng minh qua nhiều tài liệu. Thách thức to lớn mà chúng ta đang phải đối mặt đòi hỏi chúng ta phải có những chiến lược và cơ cấu mới, sáng tạo, vượt ra ngoài khuôn khổ của những mạng lưới chia sẻ thông tin và những chương trình nghiên cứu song phương truyền thống. Cần có những cách thức mới để đẩy nhanh quá trình phát triển sản phẩm và đổi mới và để nhân rộng những công nghệ năng lượng sạch.

- 17 -

Jessica Morey là một Giám đốc dự án ở Nhóm Năng lượng Sạch. Bà chủ yếu làm việc trong Sáng kiến Đổi mới Công ghệ Biến đổi Khí hậu Quốc tế của nhóm, đồng thời hỗ trợ cho Liên minh Các bang vê Năng lượng Sạch của nhóm, một liên minh của các chương trình cấp bang cùng nhau hỗ trợ cho các công nghệ và thị trường về năng lượng sạch.

Đổi mới cho các chuỗi giá trị nông nghiệp ở châu Phi là một dự án hợp tác được Quỹ Gates tài trợ, tập trung vào việc dỡ bỏ các rào cản thị trường, ví dụ như những khó khăn trong việc chế biến an toàn, trong việc sản xuất và tiêu thụ sắn, ngô và sữa ở Kenya và Ghana. Dự án này cho thấy cách tiếp cận hợp tác được điều phối ở tầm quốc tế có thể đem lại những kết quả cụ thể như thế nào ở những ngành đòi hỏi quá trình phát triển sản phẩm nhanh chóng ở những vùng sâu vùng xa.

Trung tâm của dự án là một quy trình không có chuẩn mực, lôi kéo sự tham gia của các chuyên gia sống rải rác ở khắp nơi trên thế giới trong các lĩnh vực phi nông nghiệp – một dạng “đổi mới mở” – để phân tích các vấn đề từ những góc độ hoàn toàn mới mẻ. Nhóm chuyên gia liên ngành này đã xác định và khuyến nghị các giải pháp công nghệ sáng tạo nhằm khắc phục những lỗ hổng trong chuỗi giá trị và cải thiện thị trường cho các nông trại nhỏ. Cách tiếp cận hợp tác được điều phối tập trung này tập trung vào hoạt động cùng nghiên cứu, phát triển sản phẩm và phát triển thị trường. Thay vì dẫn đến một nghiên cứu khác, dự án này đã đưa ra những biện pháp cụ thể để phát triển và triển khai các giải pháp công nghệ.

Trong khi dự án này tập trung vào các nhược điểm trong chuỗi giá trị sắn ở châu Phi, thì những thách thức mà nó gặp phải được chia sẻ với toàn ngành nông nghiệp ở nhiều nước đang phát triển. Những rào cản này ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động canh tác, bóp méo chi phí, và ngăn không cho các nông dân nhỏ nhận được giá trị thực từ hàng hóa của họ. Tồi tệ hơn nữa là biến đổi khí hậu có thể làm giảm năng suất nông nghiệp ở châu Phi và các vùng miền khác, ảnh hưởng nhiều nhất đến người nghèo. Trong khi chương trình này gián tiếp giải quyết một số thách thức về biến đổi khí hậu, quá trình được mô tả ở đây có thể được sử dụng để phát triển các giải pháp khác nữa trực tiếp đáp ứng nhu cầu cụ thể do biến đổi khí hậu, như việc phát triển những nguồn

năng lượng tái tạo.

Chuỗi giá trị sắn đã minh họa cho thành công của một cách tiếp cận mở và hợp tác để đẩy nhanh quá trình mang sản phẩm đến với thị trường. Sắn là một loại cây trồng ở khu vực cận Sahara của châu Phi có tầm quan trọng lớn đối với an ninh lương thực và các cơ hội thị trường có giá trị gia tăng tiềm tàng. Tuy nhiên, những hạn chế lớn đã cản trở tính hiệu quả của thị trường sắn.

Một thách thức là rễ củ sắn tươi có chứa hợp chất cyanogenic có độc tố. Mặc dù nhiều triệu người vẫn an toàn khi ăn sắn hàng ngày, song nếu như không được chế biến cẩn thận thì chất cyanogens có thể gây ra những rủi ro nghiêm trọng về sức khỏe, ví dụ như ngộ độc sắn, gây buồn nôn, chóng mặt, nôn mửa, và đôi khi còn gây tử vong. Một phân tích chuỗi giá trị của một nhóm chuyên gia liên ngành cùng với các nông dân địa phương đã cho thấy có một số rào cản như:

Lưu trữ: Bởi vì rễ củ sắn tươi chưa qua chế biến sẽ bị thối trong vòng 48 tiếng đồng hồ sau khi thu hoạch, cho nên nông dân đôi khi trì hoãn việc thu hoạch cho đến khi tìm được người mua, dẫn đến mức chiếm dụng đất cao.

Chế biến: Có nhiều công đoạn khác nhau, mỗi công đoạn đều có khó khăn:

Chuẩn bị rễ: bóc vỏ, cắt lát và mài đóng vai trò quan trọng đảm bảo mặt hàng sắn tiêu dùng an toàn, nhưng cũng tốn nhiều sức lao động và không được cơ khí hóa.

Sấy: vì 70% thể tích rễ củ sắn là nước nên sấy là một công đoạn quan trọng đối với nhiều sản phẩm

Kết nối các chuyên gia quốc tế để giải quyết các thách thức nông nghiệp ở địa phương

Jessica Morey

Sắn là một cây trồng ở vùng cận sa mạc Sahara châu Phi có tầm quan trọng to lớn đối với an ninh lương thực và các cơ hội thị trường giá trị gia tăng, nhưng có những hạn chế đã cản trở tính hiệu quả của thị trường sắn.

- 18 -

sắn chế biến. Hầu hết nông dân đều chủ yếu dùng phương pháp phơi khô, nhưng điều này lại khó thực hiện trong mùa mưa và có thể gây chậm trễ trong quá trình chế biến và vận chuyển. Thời gian sấy khô lâu còn có thể gây mốc và làm hỏng sắn. Vấn đề thời vụ này ảnh hưởng đến giá sản phẩm sắn trong năm.

Việc tham vấn giữa những người nông dân bị ảnh hưởng và các nhóm chuyên gia khoa học quốc tế đã đưa ra được một số giải pháp hiệu quả đối với vấn đề về lưu trữ và chế biến sắn, bao gồm:

Giải pháp “Túi sắn”: Lớp vải lót trong túi hai ngăn để làm chậm quá trình thối rữa bằng cách ngăn không cho khí ô-xi vào trong túi, và hút bớt khí ô-xi ở trong túi.

Áp dụng công nghệ cơ khí hóa cho khâu bóc vỏ và mài sắn.

Cải tiến các máy sấy cơ khí và các cách tiếp cận hiệu quả về chi phí trong khâu sấy khô, bao gồm việc sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo.

Một ví dụ về công nghệ được nhóm chuyên gia đưa ra là máy sấy cỡ nhỏ “Casava Tuberator’. Các mẩu sắn có kích thước khác nhau được đổ vào một cái ống hình trụ thẳng đứng trong đó đã thổi khí nóng vào. Khi các mẩu sắn khô thì chúng cũng sẽ nhẹ hơn. Chúng sẽ được thổi lên cao hơn trong ống, và khi độ ẩm đạt đến mức nhất định thì chúng sẽ được phun ra khỏi ống. Một lượng mẩu sắn sẽ được sấy khô trong vài tiếng đồng hồ thay vì mất vài ngày, và quy trình này cũng vệ sinh hơn là phơi khô ngoài trời. Cách làm này cũng giải quyết được vấn đề về sử dụng nhiên liệu đắt tiền như dầu diesel, và lại có tính linh hoạt cần thiết đối với nguồn năng lượng.

Các chuỗi giá trị sản phẩm ngô và sản phẩm sữa cũng có những bất cập tương tự trong quá trình sản xuất, và nhóm các nhà khoa học quốc tế và các nông dân địa phương đã phát triển ra những giải pháp về sản phẩm và công nghệ cụ thể để khắc phục những bất cập đó.

Trong số hàng trăm ý tưởng sáng tạo được đề xuất, có 22 ý tưởng được lựa chọn để tiếp tục phát triển, và 5 ý tưởng đang được chắt lọc hoàn thiện để áp dụng vào thực tế. Một ý tưởng là bồn chất dẻo cải tiến để cất trữ ngô, đang được chế tạo mẫu và triển khai tại Kenya, và các ý tưởng khác đang được kết nối với các nhà cấp vốn tiềm năng. Những ý tưởng này lẽ ra đã không thể ra đời nếu không có sự tham gia được điều phối của các chuyên gia sống rải rác khắp nơi trên thế giới.

Các quan điểm trình bày trong bài viết này không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ.

Vợ chồng Bill và Melinda Gates ngắm cánh đồng sắn. Chương trình Đổi mới cho các chuỗi giá trị nông nghiệp ở châu Phi được Quỹ Gates tài trợ đã dỡ bỏ những rào cản thị trường trong nông nghiệp ở Kenya và Ghana.

Hợp tác quốc tế: Nông nghiệp

Tạo ra các đối tác liên ngành để khuyến khích sự sáng tạo ở trường học

Điều tiết cách tiếp cận đổi mới phân bổ ở những thị trường khó

Lôi kéo sự tham gia của các chuyên gia quốc tế phi nông nghiệp ở các lĩnh vực khác nhau

Xác định và khuyến nghị những giải pháp công nghệ sáng tạo nhưng thiết thực

Đưa ra những mô hình sản phẩm cụ thể để cân nhắc áp dụng

Hoàn thiện quá trình phát triển sản phẩm để nhân rộng trong các ngành và lĩnh vực khác

- 19 -

Jessica Morey là một Giám đốc dự án ở Nhóm Năng lượng Sạch. Bà chủ yếu làm việc trong Sáng kiến Đổi mới Công ghệ Biến đổi Khí hậu Quốc tế của nhóm, đồng thời hỗ trợ cho Liên minh Các bang vê Năng lượng Sạch của nhóm, một liên minh của các chương trình cấp bang cùng nhau hỗ trợ cho các công nghệ và thị trường về năng lượng sạch.

Các ước tính cho thấy rằng điện từ sóng thủy triều và các dòng suối có thể đáp ứng tới 15-20% nhu cầu của thế giới về năng lượng phát thải ít cácbon. Các công nghệ sản xuất điện từ thủy động học (tức là từ năng lượng sóng, thủy triều và dòng nước chảy) có thể khai thác các nguồn năng lượng dồi dào và sẵn có này – và giảm nhẹ sự biến đổi khí hậu -- ở các nước phát triển cũng như đang phát triển.

Mặc dù cơ hội thương mại là rất lớn, song năng lượng từ đại dương lại gặp phải những trở ngại to lớn. Chi phí của nguồn năng lượng này cao hơn rất nhiều so với các nguồn điện truyền thống và cả một số nguồn năng lượng tái tạo. Hơn nữa, không một công nghệ riêng lẻ nào tỏ ra là công nghệ tiên phong trong ngành năng lượng thủy động học, và hơn 75 nhà thầu đang cạnh tranh với nhau trên phạm vi toàn cầu để giành lấy các khoản đầu tư hiếm hoi của nhà nước và tư nhân.

Những thách thức lớn khác cũng làm chậm tốc độ của sự phát triển năng lượng từ đại dương và khiến cho chi phí vẫn còn cao:

Hoạt động thử nghiệm tốn kém, rủi ro, và môi trường đại dương thì khắc nghiệt

Tiếp cận với lưới điện từ những địa điểm xa xôi

Phải quản lý những tác động môi trường chưa lường trước được

Phải tuân thủ những qui định pháp luật phức tạp liên quan đến nhiều cơ quan ở cấp quốc gia và cấp địa phương

Bên cạnh đó, ngành năng lượng thủy động học lại chủ yếu là các công ty nhỏ mới được thành lập, do đó thiếu sự chia sẻ thông tin và đôi khi các nỗ lực bị chồng chéo, lãng phí. Những công ty nhỏ này cũng thường thiếu nguồn tài chính để đưa những thiết bị công nghệ năng lượng đại dương của họ ra thị trường.

ÁP DỤNG CÁCH TIẾP CẬN ĐỔI MỚI PHÂN BỔ

Câu hỏi đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách là làm thế nào để thúc đẩy việc giảm chi phí nhanh chóng và đẩy nhanh thị trường để khắc phục những khó khăn này. Câu trả lời có thể là một cách tiếp cận đẩy nhanh thị trường được điều phối ở tầm quốc tế, khai thác được những kiến thức, kinh nghiệm rải rác ở khắp nơi, ví dụ như cách tiếp cận đổi mới phân bổ được đề cập trong bài viết “Khai thác kinh nghiệm chuyên môn toàn cầu” trong ấn phẩm này. Phương pháp tiếp cận này sẽ hỗ trợ cho việc học hỏi nhanh chóng và góp phần giảm chi phí đáng kể.

“Rất cần có sự chung tay của mọi người” – Kế hoạch hàng động Đại dương của Vương quốc Anh năm 2010

Một báo cáo của Ủy ban Tư vấn về Các nguồn năng lượng tái tạo của Vương quốc Anh đẫ khuyến nghị “một cách tiếp cận hợp tác hơn đối với các dự án nghiên cứu và phát triển giữa giới doanh nghiệp, giới học thuật và chính phủ, với việc quản lý dự án một cách chặt chẽ và chủ động hơn. Điều này sẽ góp phần đảm bảo rằng các dự án tập trung vào việc giải quyết đúng vấn đề, rằng các cơ hội trao đổi thông tin được tận dụng, rằng các dự án tạo ra những thông tin nghiên cứu phù hợp, và rằng càng có nhiều kết quả được công bố càng tốt”.

Khai thác năng lượng từ đại dương: Tận dụng những tri thức ở khắp nơi trên thế giới

Jessica Morey

Được thả neo khoảng một dặm ngoài khơi đảo Hawaii, Phao năng lượng công nghệ năng lượng từ đại dương PowerBuoy trông giống như một chiếc phao thông thường. Nó dập dềnh trên các con sóng cao từ 1 đến 7 mét, để chạy một cái bơm thủy lực có tác dụng chuyển năng lượng chuyển động thành năng lượng điện thông qua một máy phát điện đặt trên boong tàu. Lượng điện đó được truyền vào bờ qua một đường dây cáp ở dưới biển.

- 20 -

Một cách tiếp cận đổi mới phân bổ quốc tế để đẩy nhanh thị trường năng lượng từ đại dương cần được khuyến khích vì những lý do sau:

Bất kỳ một bước lùi nào đối với một thiết bị năng lượng nhất định cũng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ ngành. Bởi vì qui mô của ngành năng lượng từ đại dương còn rất nhỏ, cho nên sự thất bại sẽ được người ta chú ý đến nhiều hơn mà quên mất những thách thức kỹ thuật to lớn mà ngành phải đối mặt. Một nhà phát triển thiết bị đã nhận xét rằng “mỗi khi gặp thất bại, bạn sẽ mất vài tháng của toàn ngành”.

Yêu cầu về vốn để phát triển ngành là rất lớn, ước tính khoảng 750 tỉ đô-la Mỹ vào năm 2020, và chi phí tỏ ra cao hơn so với dự kiến.

Thị trường năng lượng từ đại dương, giống như tất cả các công nghệ năng lượng sạch, có tính toàn cầu. Những nhà phát triển làm việc bên ngoài phạm vi của nước mình, và điều này sẽ còn tiếp tục.

Các cách tiếp cận hợp tác có thể dỡ bỏ rào cản thị trường và đẩy nhanh ngành năng lượng từ đại dương trong những lĩnh vực như:

Xây dựng mô hình – các mô hình máy tính được cải tiến để đánh giá hiệu năng và chi phí của thiết bị có thể giảm đáng kể chi phí phát triển, và thông tin có thể được chia sẻ ở cấp độ quốc tế giữa các cơ sở thử nghiệm và các phòng thí nghiệm thuộc các trường đại học.

Các cơ sở thử nghiệm – hiện nay ở Hoa Kỳ chưa hề có một cơ sở thử nghiệm ngoài biển nào, và chỉ có một số ít cơ sở thử nghiệm đang được xây dựng ở Vương quốc Anh và Ireland. Việc chia sẻ kinh nghiệm và kỹ năng giữa các quốc gia có thể nhanh chóng cải thiện hiệu quả hoạt động và chi phí của các cơ sở thử nghiệm.

Các dữ liệu về hiệu năng hoạt động và chi phí của thiết bị – ngành, các nhà đầu tư và khu vực nhà nước đều cần thêm các dữ liệu về hiệu năng và chi phí để đưa ra các quyết định đầu tư tư nhân sáng suốt và giúp cho khu vực nhà nước tin tưởng hơn vào sự đầu tư của mình.

Các công nghệ “cân bằng các hệ thống” – việc giảm chi phí có thể đạt được không chỉ nhờ cải tiến thiết kế, điều này chỉ chiếm có 20% chi phí năng lượng từ đại dương, mà còn có thể đạt được qua cân bằng các hệ thống – tức là cải tiến việc thả neo, cơ sở hạ tầng điện tốt hơn, và các cách thức sáng tạo trong việc lắp đặt, vận hành và bảo dưỡng.

Các quan hệ đối tác – khuyến khích những quan hệ đối tác trong toàn ngành, đặc biệt là giữa các nhà phát triển nhỏ với các công ty cơ khí và công ty công ích lớn với nguồn tài

chính dồi dào và kinh nghiệm phát triển dự án. Điều này có thể đẩy nhanh đáng kể sự phát triển về công nghệ.

Quản lý các rủi ro về môi trường và quy định pháp lý – sự hợp tác và phối hợp sẽ giúp chúng ta bớt được công sức cho việc đánh giá môi trường và các quy trình pháp lý khác. Một cuộc nghiên cứu của Hoa Kỳ đã kết luận rằng nhiều chủ thể tham gia vào ngành “thấy rằng sự thiếu kiến thức hay thiếu tiếp cận thông tin về môi trường và qui định pháp lý cũng gây trở ngại không kém gì so với việc thiếu vốn cho các cuộc nghiên cứu mới”.

Ngành năng lượng từ đại dương gặp phải một số trở ngại nhưng có thể khắc phục được thông qua một nỗ lực đổi mới phân bổ quốc tế được điều phối nhằm đẩy nhanh thị trường bằng cách tận đụng các giải pháp trên toàn cầu. Mặc dù cách tiếp cận này đã có những kết quả đầy hứa hẹn trong các lĩnh vực công nghệ khác, nhưng chưa có dự án nào được tiến hành để đẩy nhanh thị trường năng lượng từ đại dương ra toàn cầu thông qua sáng tạo, đổi mới. Tuy nhiên, Bộ Năng lượng Hoa Kỳ đã tỏ ra quan tâm đến việc khởi xướng một chương trình hợp tác đại dương quốc tế.

Các quan điểm trình bày trong bài viết này không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ.

Ngành năng lượng từ đại dương chủ yếu là một số công ty nhỏ mới thành lập, là nguyên nhân của sự thiếu sự chia sẻ thông tin và các nỗ lực bị chồng chéo rất lãng phí. Các công ty nhỏ thường thiếu nguồn kinh phí để có thể mang những thiết bị công nghệ đại dương của mình ra thị trường.

Hợp tác quốc tế: năng lượng từ đại dương

Đề xuất cách tiếp cận đổi mới phân bổ quốc tế đối với việc phát triển công nghệ cao

Xác định những rào cản chính đối với sự phát triển của các sản phẩm sáng tạo

Thúc đẩy nhận thức về các hoạt động đang diễn ra trong ngành

Phác họa những lĩnh vực cụ thể mà sự hợp tác quốc tế sẽ tạo điều kiện hỗ trợ

Đưa ra một cơ hội lớn để khai thác năng lượng từ sóng biển, thủy triều và dòng nước chảy.

- 21 -

Lindsay Madeira là một chuyên gia tư vấn cho Công ty Tài chính Quốc tế (IFC), là một tổ chức nhánh của Nhóm Ngân hàng Thế giới phụ trách khu vực tư nhân. Ở đây, bà đã hỗ trợ cho sáng kiến Thắp sáng châu Phi từ khi dự án này ra đời vào năm 2007.

Ngày nay, 1,6 tỉ người trên toàn thế giới và hơn 500 triệu người dân châu Phi đang bị thiếu điện phục vụ cho những nhu cầu thiết yếu như nấu ăn và thắp sáng trong gia đình. Con số này ở châu Phi được dự đoán là sẽ còn tăng lên trong vòng 20 năm tới, lên đến 700 triệu người. Những người dân này phụ thuộc chủ yếu vào việc nấu ăn và thắp sáng bằng nhiên liệu (chủ yếu là dùng than củi, gỗ, và dầu lửa), là những loại nhiên liệu không hiệu quả, tốn kém, nguy hiểm, gây hại cho sức khỏe, và góp phần vào việc phát thải khí nhà kính.

Việc thắp sáng tiêu thụ một tỉ lệ cao nhất trong chi phí về năng lượng trong gia đình; người tiêu dùng châu Phi tiêu thụ từ 10 tỉ đến 17 tỉ đô-la để mua dầu lửa dùng cho thắp sáng. Để cải thiện tình hình này, các đối tác nhà nước và tư nhân đang xây dựng một mô hình đổi mới phân bổ mới – đóng vai trò như những nhà tạo lập thị trường – để đẩy nhanh sự sáng tạo sản phẩm, đem lại những sản phẩm hiện đại ngoài lưới điện cho những người dân nghèo nhất này.

KHU VỰC TƯ NHÂN TỰ THÂN NÓ KHÔNG THỂ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG

Các công nghệ thắp sáng hiện đại và tiên tiến có khả năng thay thế cho dầu lửa với những sản phẩm tiêu dùng tốt hơn, nhưng vẫn còn nhiều rào cản lớn gây khó khăn cho việc mang những sản phẩm này ra thị trường ở các nước đang phát triển. Hơn nữa, khu vực tư nhân vẫn chưa được trang bị đầy đủ để có thể tự mình nắm bắt thị trường.

Thắp sáng châu Phi, một chương trình hợp tác giữa Ngân hàng Thế giới và Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) có vai trò như một trung tâm môi giới đối tác

tạo điều kiện cho sự hợp tác quốc tế nhằm giải quyết những vấn đề này. Bắt đầu với việc thắp sáng rồi tiến đến các dịch vụ năng lượng khác, chương trình Thắp sáng châu Phi có vai trò cầu nối giữa các công ty tư nhân và khách hàng để tạo ra thị trường cho các sản phẩm thắp sáng tốt hơn. Bằng cách hỗ trợ cho sự phát triển của các sản phẩm và mô hình kinh doanh được cải tiến, chương trình đã góp phần mang lại những nguồn năng lượng thiết thực và hợp với túi tiền của người dân, thay thế cho dầu lửa.

Một vai trò quan trọng của chương trình Thắp sáng châu Phi là người kết nối giữa các nhóm trong ngành và các chủ thể có liên quan, như các tổ chức phi chính phủ, các chính quyền địa phương, giới học thuật, các tổ chức tài chính, và các tổ chức phát triển quốc tế. Bằng việc kết nối sản phẩm với người mua, chương trình Thắp sáng châu Phi đã góp phần đem lại cho người tiêu dùng châu Phi những phương án thắp sáng hiện đại với mức giá có thể chấp nhận được, cải thiện đáng kể cuộc sống của họ và giảm tác động biến đổi khí hậu.

Nếu không có sự can thiệp, thì một số những rào cản đã được khắc phục bởi cách tiếp cận đổi mới phân bổ này hẳn đã gây cản trở cho sự phát triển của thị trường đối với những sản phẩm thắp sáng tốt hơn ở khu vực cận Sahara ở châu Phi, Nam Á, và các vùng miền khác trên thế giới:

Điều phối những ý tưởng xuất sắc đã sản xuất ra điện ngoài lưới ở châu Phi

Lindsay Madeira

Thắp sáng châu Phi đã giúp cho 50 công ty tìm được chỗ đứng trong các cửa hàng bán lẻ ở châu Phi với hơn 70 loại sản phẩm – trong khi năm 2008 chỉ có 10 sản phẩm – và làm giảm giá bán từ trên 50 đô-la xuống còn từ 25 đến 50 đô-la.

Dự án Thắp sáng châu Phi có vai trò như một cầu nối giữa các công ty tư nhân và

khách hàng để tạo ra những thị trường cho các sản phẩm thắp sáng tốt hơn và giảm sự

lệ thuộc vào nhiên liệu dầu lửa.

- 22 -

Thiếu sự hiểu biết và chi phí giao dịch cao, khiến khu vực tư nhân không đánh giá được hết các cơ hội thị trường

Thiếu nhận thức từ phía người tiêu dùng về những ích lợi của việc thắp sáng không nối với lưới điện, dẫn đến những quyết định thiếu sáng suốt của người tiêu dùng khi mua sản phẩm

Thiếu cơ chế đảm bảo chất lượng sản phẩm và các dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật, dẫn đến việc có ít sản phẩm hơn và chất lượng không cao

Những cản trở về chính sách và quy định pháp lý như thuế nhập khẩu, các vấn đề về hải quan, và các trợ cấp bóp méo thị trường làm tổn hại đến sự thiết lập của các thị trường bền vững

Thiếu các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh và tiếp cận với các mạng lưới/đối tác kinh doanh

Tiếp cận hạn chế với nguồn tài chính dọc theo chuỗi cung ứng, làm tổn hại đến sức mua

ĐỐI SÁCH

Thắp sáng châu Phi làm giảm những rào cản và thúc đẩy thị trường phát triển nhanh chóng bằng cách cung cấp cho thị trường những thông tin sâu và giáo dục cho người tiêu dùng, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, và các hoạt động chính sách và khu vực công. Hai trong số những dịch vụ dễ nhận thấy nhất của chương trình này là việc đảm bảo chất lượng và tiếp cận với nguồn hỗ trợ tài chính.

Một cách tiếp cận đa chiều về đảm bảo chất lượng đã góp phần giúp cho các nhà sản xuất thiết kế ra những sản phẩm có chất lượng và bảo vệ người tiêu dùng tránh mua phải những mặt hàng kém phẩm chất. Chương trình Thắp sáng châu Phi chứng nhận chất lượng cho một số phòng thí nghiệm gần các trung tâm chế tạo (hầu hết ở châu Á) và xây dựng năng lực kiểm định sản phẩm ở trường đại học để cho các nhà sản xuất có thể “sàng lọc nhanh” sản phẩm của mình. Dự án cũng phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương và hợp tác với Hiệp hội các cơ quan liên quan quốc tế để phát triển một “dấu chứng nhận chất lượng” giúp cho người mua có thể đưa ra những quyết định sáng suốt.

Thắp sáng châu Phi cũng thiết lập quan hệ đối tác với các tổ chức cấp vốn thương mại để cung cấp thông tin cho họ về những cơ hội kinh doanh trong ngành, và cấp vốn bán buôn cũng như các công cụ quản lý rủi ro để hướng dẫn cho họ trong việc cấp vốn cho những chủ thể tham gia dọc theo chuỗi cung ứng. Dự án cũng đang cân nhắc việc cấp vốn trực tiếp cho các tổ chức như E+Co và Quỹ Acument, là những tổ chức cấp vốn dự án ở các nước đang phát triển.

Thiết lập quan hệ đối tác với các tổ chức tài chính vi mô và tận dụng những sáng kiến trong

nghiệp vụ ngân hàng qua điện thoại cũng cho phép người tiêu dùng có nguồn kinh phí tốt hơn để mua những sản phẩm này. Chiến lược của dự án là tạo ra những thị trường tự đứng vững được, những thị trường khiến cho các sản phẩm hiệu quả, ít phát thải cácbon có giá phải chăng với người tiêu dùng hơn là dựa vào nguồn tài trợ hạn chế và ngắn hạn của các nhà tài trợ.

KẾT QUẢ

Các bằng chứng ban đầu cho thấy rằng sự hỗ trợ của dự án đã góp phần đẩy nhanh nhiều công đoạn của thị trường sản phẩm thắp sáng hiện đại không nối với lưới điện ở vùng cận Sahara của châu Phi. Năm 2008, chỉ có chưa đầy 10 sản phẩm được phát triển cho thị trường này; còn ngày nay, hơn 70 chủng loại sản phẩm được chế tạo bởi 50 công ty đã tự tìm cho mình chỗ đứng trên các cửa hàng bán lẻ ở châu Phi. Cũng trong năm 2008, trên thị trường chủ yếu chỉ có các sản phẩm có giá trên 50 đô-la; còn giờ đây nhiều sản phẩm chất lượng cao chỉ có giá bán lẻ từ 25 đến 50 đô-la. Chi phí sản xuất của các sản phẩm thắp sáng cầm tay dùng năng lượng mặt trời cũng được dự báo là sẽ giảm khoảng 40% mỗi năm, chủ yếu là nhờ giá của pin mặt trời tổng hợp, pin, và bóng đèn điốt giảm.

Thành công của dự án Thắp sáng châu Phi đã minh họa cho những lợi ích trực tiếp của một nỗ lực chung giữa nhà nước và tư nhân nhằm giúp cho những ngành công nghiệp non trẻ từng bước trưởng thành và tung các công nghệ mới ra thị trường. Thắp sáng châu Phi cũng là một ví dụ tuyệt vời về vai trò của một tổ chức quốc tế trung lập trong việc tạo điều kiện cho những hoạt động hợp tác để phát triển và phân phối những sản phẩm đang rất cần thiết trong môi trường đầy rủi ro của chúng ta.

Các quan điểm trình bày trong bài viết này không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ.

Hợp tác quốc tế: Dự án Thắp sáng châu Phi

Minh họa những ích lợi trực tiếp của một nỗ lực đổi mới phân bổ giữa nhà nước và tư nhân được điều phối một cách tập trung

Thúc đẩy nhận thức về những rủi ro an toàn của nhiên liệu dầu lửa

Kết nối các đối tác quốc tế để hợp tác với nhau trong những công nghệ thắp sáng mới không dùng nhiên liệu

Giảm những rào cản đối với việc phát triển thị trường dài hạn ở những vùng miền nghèo

Đưa ra một giải pháp thắp sáng với giá phải chăng cho những người dân không được tiếp cận với điện lưới

- 23 -

Mindy S. Lubber là Chủ tịch của tổ chức Ceres, một liên minh các nhà đầu tư, các tổ chức môi trường và các nhóm lợi ích công, đi tiên phong trong lĩnh vực đối tác doanh nghiệp nhằm giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu bằng cách lồng ghép tính bền vững vào thị trường vốn. Bà lãnh đạo Mạng lưới nhà đầu tư về rủi ro khí hậu (INCR), và được tặng giải thưởng Doanh nhân Xã hội Skoll. Tổ chức Ceres đã được tặng giải thưởng Thiết kế tổ chức năm 2009 của Global Green USA và giải thưởng Nhà tư bản xã hội doanh nghiệp nhạy bén năm 2007 và 2008. Trước khi đến với Ceres, bà là Cán bộ phụ trách khu vực của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ và là sáng lập viên/giám đốc điều hành của công ty Green Century Capital Management, một công ty đầu tư chuyên quản lý các quỹ đã được sàng lọc về môi trường.

Ceres được thành lập năm 1990 bởi một nhóm các nhà hoạt động môi trường và nhà đầu tư, những người mà theo lời bà “là một nỗ lực chung để đảm bảo rằng các công ty lơn đang tính đến tác động của các vấn đề bền vững môi trường trong nội dung và cách thức hoạt động của họ”.

Hỏi: Tổ chức Ceres đã được khởi sự như thế nào thưa bà?

Mindy S. Lubber: Các nhà đầu tư rất quan tâm đến tác động môi trường bởi vì họ lo ngại rằng nếu các công ty không để ý đến các vấn đề môi trường thì sẽ ảnh hưởng đến tình hình tài chính của họ. Họ không hoàn toàn đưa vào tính toán các rủi ro về việc tràn chất độc hại, mà cũng chưa sẵn sàng với biến đổi khí hậu, hay sự thiếu nước. Do đó chúng tôi đã cùng nhau nhóm họp ngay sau khi xảy ra vụ tràn dầu của hãng Exxon Valdez năm 1989. Không phải là để chỉ trích hay đối đầu, mà là để nói rằng tác động của các thông lệ kinh doanh đối với môi trường và đối với nền kinh tế của chúng ta là rất lớn, và chúng ta cần phải nâng cao những chuẩn mực về bền vững ngay trong thị trường vốn.

Hỏi: Bà đã mất bao lâu mới thu hút được sự chú ý của giới doanh nghiệp?

Lubber: Phải mất vài năm chúng tôi mới thuyết phục được họ rằng chỉ có lợi cho công ty nếu họ giải quyết các vấn đề về bền vững, khí hậu, và các vấn đề môi trường khác. Vào đầu những năm 1990 thì đây vẫn còn là một khái niệm mới. Chúng tôi đã yêu cầu các công ty ủng hộ một cam kết tuân thủ các

nguyên tắc bền vững về môi trường. Để có được sự ủng hộ của doanh nghiệp là một việc làm tốn thời gian. Họ không đơn giản ủng hộ một cách dễ dàng – các luật sư của họ sẽ đọc cam kết đó, hội đồng quản trị cũng đọc, và cả giám đốc điều hành cũng đọc cam kết đó – và họ nên làm như vậy. Mọi người nói rằng chúng tôi chẳng bao giờ làm được đâu, các công ty sẽ không ủng hộ một loạt những nguyên tắc nghiêm túc đâu, nhưng họ đã ủng hộ. Và đó là khởi đầu cho những mối quan hệ hiệu quả và lâu dài.

Chúng tôi nói rằng các công ty cần làm nhiều hơn nữa. Điều đầu tiên cần làm là công bố cam kết về bền vững của mình. Chúng tôi thiết kế cái gọi là Sáng kiến Báo cáo Toàn cầu, và sáng kiến này đã trở thành chuẩn mực vàng quốc tế cho việc báo cáo của các doanh nghiệp về tính bền vững. Và mọi người nói với chúng tôi rằng sẽ chẳng ai chịu làm điều đó đâu, nhưng giờ đây chúng tôi đã kêu gọi được 1.695 công ty đa quốc gia nộp báo cáo bền vững dựa trên Sáng kiến Báo cáo Toàn cầu. Cũng giống như chúng ta chờ đợi các công ty phải nộp báo cáo tài chính, thì giờ đây chúng ta cũng chờ đợi họ nộp báo cáo bền vững. Để biết mức phát thải cácbon của họ là bao nhiêu?

Họ đang giải quyết vấn đề đó như thế nào? Tập quán vứt bỏ rác thải độc hại của họ ra sao? Chúng tôi thiết kế ra một hệ thống báo cáo không những cung cấp thông tin cho công chúng, cho các đơn vị lân cận, và cả cho các nhà đầu tư – những người sở hữu các công ty – để họ có thể hiểu được những rủi ro và trách nhiệm tiềm tàng mà các công ty có thể phải

Ceres: Các công ty xanh Phỏng vấn bà Mindy Lubber

Doanh nhân xã hội Mindy Lubber là Chủ tịch của Ceres.

- 24 -

chịu đối với các vấn đề bền vững. Đã có sự tiến bộ về tác động, kết quả, sự tham gia, và sự tập hợp, nhưng tất cả những điều đó cũng phải mất thời gian.

Hỏi: Mối quan tâm đối với các tập quán tốt nhất về sự bền vững có tăng lên hay không?

Lubber: Cách đây 15 năm khi chúng ta nói về những tập quán tốt nhất để các doanh nghiệp báo cáo đầy đủ về tính bền vững của họ, từ nhân quyền đến môi trường, thì điều đó hóa ra không chỉ liên quan đến việc công bố thông tin, mà còn là việc các công ty nhìn nhận tác động của nó như thế nào. Thực tế là chúng tôi đã nhận thấy rằng nếu ta theo dõi, đo đếm cái gì thì cái đó sẽ được quản lý tốt. Khi các công ty đánh giá rủi ro của họ, từ việc thiếu nước đến khả năng tràn chất độc hại, thì họ cũng quản lý những rủi ro đó tốt hơn. Từ giữa những năm 1990 cho đến năm 2000, các công ty đã hiểu rõ hơn về tính bền vững, về mối quan hệ của nó với công ty, cách thức đánh giá nó, và cách thức quản lý nó. Trong 5 năm tiếp theo đó, chúng tôi đã làm việc với các công ty trong những sáng kiến cụ thể: làm thế nào để họ xây dựng những phương tiện, cơ sở sản xuất tốt hơn, hay lồng ghép tính bền vững vào trong sản phẩm của họ?

Giờ đây chúng ta không tranh luận với nhau xem các vấn đề về bền vững và khí hậu có phải là các vấn đề mà thị trường vốn cần quan tâm hay không. Tổ chức Ceres của chúng tôi đã có các thành viên đầu tư với tổng giá trị lên tới 8 ngàn tỉ đô-la (Mạng lưới các nhà đầu tư vào rủi ro khí hậu) nói rằng đây là những rủi ro đồng thời cũng là cơ hội thực sự. Chúng tôi có 82 công ty làm đối tác trong việc lồng ghép tính bền vững vào trong mọi hoạt động của công ty, từ những quyết định của hội đồng quản trị cho đến những công việc thông thường ở phòng văn thư. Ủy ban Chứng khoán và Các Sở giao dịch Hoa Kỳ (SEC) giờ đây đã yêu cầu các công ty phải tiết lộ các rủi ro thực tế từ các báo cáo khí hậu của họ cho Ủy ban.

Ceres gần đây đã xuất bản một kết quả nghiên cứu về doanh nghiệp của thế kỷ 21: không chỉ là các nguyên tắc, việc tiết lộ thông tin, hay một vài thương vụ riêng lẻ; giờ đây các công ty phải lồng ghép tính bền vững vào cả kỳ vọng của các bên liên quan, người tiêu dùng, các đơn vị lân cận, người lao động, và các nhà đầu tư trong suốt chuỗi cung ứng.

Do vậy kỳ vọng đã tăng lên. Bây giờ không chỉ là kiểu làm một lần rồi dừng theo kiểu “Chúng tôi đã thực hiện một dự án tuyệt vời về tái chế. Vậy chúng tôi là một công ty về môi trường đấy chứ?”. Chúng tôi vận động họ, phối hợp chặt chẽ với họ và theo

đuổi tính bền vững lâu dài, với tư cách là đối tác. Chúng tôi có những kỳ vọng rất cụ thể và chúng tôi viết những kỳ vọng đó ra giấy. Quan điểm của chúng tôi là mỗi doanh nghiêmpj cần có một ủy ban trong hội đồng quản trị chuyên phụ trách về tính bền vững, và nhiều trường hợp thì lương của các cán bộ quản lý cấp cao cần được gắn với các khía cạnh về tính bền vững như đối với các khía cạnh khác. Các cán bộ phụ trách về tính bền vững cần được đề bạt lên cấp quản ly cao hơn và báo cáo cho một nhà quản lý tổng thể của toàn doanh nghiệp.

Thế giới của chúng ta đã thay đổi từng ngày, chúng ta đã chuyển từ tính bền vững trong lời nói sang tính bền vững trong hành động.

Hỏi: Liệu việc liên kết với Ceres hay các tổ chức tương tự có nâng cao hình ảnh của doanh nghiệp hay không?

Lubber: Việc liên kết với Ceres hay các tổ chức khác có tác dụng như một bức thông điệp rất rõ ràng cho nhân viên của công ty. Các công ty đều muốn mình là một trong những người dẫn đầu. Họ muốn làm những điều đúng đắn. Họ sẵn sàng minh bạch, và điều đó là tốt. Đứng trước mọi người với độ tin cậy – là điều mà chúng tôi đòi hỏi nếu họ muốn liên kết với chúng tôi – cũng có giá trị đối với các

nhà đầu tư vào công ty, những người giờ đây đang đặt câu hỏi về việc các công ty đang giải quyết vấn đề bền vững như thế nào, và có giá trị đối với cả người tiêu dùng nữa.

Hỏi: Những yếu tố hiệu quả nhất trong các đối tác về biến đổi khí hậu của doanh nghiệp là gì, thưa bà?

Lubber: Những yếu tố quan trọng nhất là thành công của các công ty đang thay đổi chính những thông lệ của mình. Không phải chỉ hô hào suông đâu, mà phải thay đổi thực sự. Điều nay đang diễn ra, nhưng mới chỉ là khởi đầu, và chúng ta càng nhìn thấy nhiều sự thay đổi, chúng ta càng giúp được các công ty thay đổi thì càng tốt.

Hỏi: Bà có thể cho một vài ví dụ về những mối quan hệ đối tác thành công với Ceres không ạ?

Lubber: Thực tế rằng các công ty của chúng tôi đang thực hiện việc báo cáo bền vững rất kỹ lưỡng là một ví dụ về sự thành công rất lớn, giống như việc đệ đơn kiến nghị lên SEC để yêu cầu việc tiết lộ về tính bền vững tốt hơn.

Nhưng cụ thể hơn là ví dụ của Công ty Điện lực Hoa Kỳ, một công ty phát thải nhiều cácbon, vốn dĩ không phải là một công ty “xanh”. Chúng tôi bắt đầu

- 25 -

làm việc với họ cách đây khoảng 4 năm, trước tiên là trong một báo cáo bền vững chung chung về các khía cạnh kinh tế học của việc một công ty công ích phát thải cácbon. Chúng tôi đã làm việc trực tiếp với các thành viên hội đồng quản trị của họ trong một nghiên cứu chi tiết về việc họ cần phải làm sao để chuyển đổi dần, không còn là một công ty nhiệt điện nữa. Sau đó chúng tôi làm việc cùng với họ để lồng ghép tính bền vững nói chung vào công ty, và họ đã có những báo cáo bền vững rất tốt. Họ đang bắt đầu bán hiệu quả năng lượng hơn là bán than hay điện chạy bằng than.

Họ đã biến tính bền vững thành một dấu ấn cho bất kỳ hoạt động nào mà họ thực hiện.

Chúng tôi cũng vừa mới làm việc với công ty Dell về việc tái thiết kế toàn bộ chương trình môi trường của họ, và tổ chức một cuộc họp với 15 tổ chức có liên quan từ khắp nơi trên thế giới để thúc đẩy Dell thực hiện những gì nên là ưu tiên của công ty, về những thay đổi mà công ty nên thực hiện, và cách thức họ nên thực hiện những hoạt động đó.

Chúng tôi cũng đã làm việc với công ty National Grid, giám đốc điều hành của công ty này giờ đây đã có những tiêu chí trả lương dựa trên mức giảm phát thải cácbon. Họ đang lồng ghép tính bền vững vào cơ chế trả lương, là điều mà chúng tôi kêu gọi các công ty nên làm.

Hỏi: Việc lồng ghép tính bền vững vào hoạt động của công ty có góp phần làm tăng lợi nhuận hay không?

Lubber: Hầu hết là có. Một nội dung lớn của tính bền vững là các công ty được đánh giá dựa trên việc họ chi tiêu vào điều gì và sản xuất ra cái gì trong một thời gian rất ngắn. Các kết quả từ các sáng kiến bền vững thường không thể hiện ra trong khoảng thời gian 3 đến 6 tháng.

Nhưng có một lý do tại sao ngày nay chuỗi đại siêu thị Wal-Mart lại biến tính bền vững thành biểu tượng của họ. Họ đã tiết kiệm được một số tiền rất lớn. Họ đã khiến cho các nhân viên rất hứng khởi khi làm việc. Và họ đang ngày càng may mắn hơn trong việc tuyển dụng được những sinh viên tốt nghiệp giỏi nhất từ những trường danh tiếng nhất bởi vì họ được mọi người đánh giá là công ty tiên phong trong việc phát triển bền vững. Do vậy trong trường hợp của họ, họ đang tiết kiệm được tiền, điều đó rất có lợi cho kinh doanh.

Trong một số trường hợp khác thì phải mất nhiều thời gian hơn. Bạn không thể thấy ngay kết quả. Các công ty bảo hiểm đang giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu không muốn có thêm những cơn bão lốc như Katrina trong đó họ phải chi tiền bồi thường bảo

hiểm lên tới 40 tỉ đô-la. Họ muốn thấy biến đổi khí hậu được giảm nhẹ, nhưng phải sau một thời gian họ mới thấy được kết quả.

Khi hãng Dell thiết kế lại các máy tính của họ để có ít chất thải độc hại hơn, và đưa ra chính sách mạnh mẽ trong việc xử lý chất thải độc hại trong những máy tính cũ – thay vì vứt chúng trong các bãi chôn lấp, nơi mà các hóa chất độc hại có thể ngấm vào mạch nước ngầm – thì ban đầu họ đã phải bỏ ra rất nhiều tiền. Nhưng họ tin rằng, và chúng tôi cũng tin như họ, rằng trong dài hạn điều đó sẽ làm cho thị phần của họ tăng lên đáng kể.

Hỏi: Tình trạng ‘tự khoác áo xanh’, tức là các công ty tự cho mình là thân thiện với môi trường, có phải là vấn đề không, thưa bà?

Lubber: Tôi hết sức quan ngại về tình trạng này khi nó xảy ra thường xuyên, và đó là lý do tại sao Ceres lại không trao cho các công ty mà chúng tôi làm việc cùng một ‘điểm xanh’ hay ‘dấu xanh’. Bất kỳ một công ty nào, ngay cả những công ty đang có những bước tiến bộ, đều sẽ phát hiện ra những vấn đề rất khó xử. Do đó chúng tôi đòi hỏi các công ty phải minh bạch và hướng tới chi tiết. Nếu họ làm được một điều gì tốt, họ phải nói với chúng tôi xem kết quả đạt được là gì.

Hỏi: Bà có lạc quan về đường hướng mà các quan hệ đối tác môi trường doanh nghiệp đang đi hay không ?

Lubber : Tôi nghĩ sự thay đổi lớn lao đã xảy ra rồi, nhưng trước mắt vẫn còn nhiều việc phải làm. Một điều rất quan trọng là chúng ta không còn tranh luận về việc liệu tính bền vững có phải là một vấn đề về kinh doanh hay không. Các công ty trên phố Wall

Đối tác của Ceres là Công ty Điện lực Hoa Kỳ sở hữu Nông trang Gió trời sa mạc ở miền Tây bang Texas. Nông trang này có 107 tuốc-bin, mỗi chiếc có công suất 1,5 megawatts trải rộng trên diện tích 15 dặm vuông. Mindy Lubber, Chủ tịch của Ceres, nói rằng Công ty Điện lực Hoa Kỳ đang ‘bắt đầu bán sự hiệu qủa về năng lượng hơn là bán than hay điện chạy than’.

- 26 -

đang công bố những phân tích về tính bền vững và biến đổi khí hậu hàng ngày. Bloomberg có cả một hệ thống bền vững môi trường về cách phân tích các công ty. Ủy ban Chứng khoán và Sở giao dịch Hoa Kỳ cũng có trách nhiệm này, và các công ty cũng đang làm điều đó. Giờ đây mục tiêu là vận động, kêu gọi các công ty hành động một cách toàn diện hơn. Điều đáng mừng là họ cởi mở, họ sẵn sàng lắng

nghe, họ hiểu rằng có một quan điểm kinh doanh, và chúng tôi đang cố gắng kêu gọi họ tiến bộ càng nhanh càng tốt.

Những quan điểm trong bài viết này không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ.

SÁCH VÀ BÁO CÁO

Foa, Roberto. “Social and Governance Dimensions of Climate Change: Implica ons for Policy” Washington, DC: World Bank, 2009. h p://www‐wds.worldbank.org/external/default/WDSContentServer/IW3P/IB/2009/05/19/000158349_20090519141602/Rendered/PDF/WPS4939.pdf

Gore, Albert. Our Choice: A Plan to Solve the Climate Crisis. Emmaus, PA: Rodale, 2009.

Hoffman, Andrew J. Ge ng Ahead of the Curve: Corporate Strategies That Address Climate Change. Ann Arbor, MI: Pew Center on Global Climate Change, October 2006. h p://www.pewclimate.org/docUploads/PE W_CorpStrategies.pdf

Humes, Edward. Eco Barons: The Dreamers, Schemers, and Millionaires Who Are Saving Our Planet. New York, NY: Ecco, 2009.

Kirby, Alex. Kick the Habit: A UN Guide To Climate Neutrality. Nairobi, Kenya: UNEP, 2008. h p://www.unep.org/publica ons/ebooks/kick‐the‐habit/pdfs/ KickTheHabit_en_lr.pdf

Meadowcro , James. Climate Change Governance. Washington, DC: World Bank, 2009. h p://www‐wds.worldbank.org/external/default/WDSContentServer/IW3P/IB/2009/05/19/000158349_20090519144015/Rendered/PDF/WPS4941.pdf

Pew Center on Global Climate Change. Clean Energy Economy. Arlington, VA: Pew Center on Global Climate Change, February 2010. h p://www.pewclimate.org/docUploads/clean‐energymarkets‐jobs‐opportuni es‐brief.pdf

Serafin, Rafal. Five Key Things I Have Learned About 

Partnership Brokering: Over 20 years of Professional Prac ce in Canada, UK, Poland, and Other Countries of Central and East Europe. h p://www.partnershipbrokers.org/PBAS%20Final%20Project%20‐%20Serafin.pdf

Starke, Linda, ed. State of the World 2009: Into a Warming World: A Worldwatch Ins tute Report on Progress Toward a Sustainable Society. New York: W.W. Norton & Co., 2009.

Stern, N. H. A Blueprint for a Safer Planet: How to Manage Climate Change and Create a New Era of Progress and Prosperity. London: Bodley Head, 2009.

U.S. Environmental Protec on Agency Office of Air and Radia on. Climate Leaders Greenhouse Gas Inventory Protocol: Design Principles. Washington, DC: U.S. Environmental Protec on Agency, 2005.

U.S. Government Accountability Office. Climate Change: EPA and DOE Should Do More to Encourage Progress Under Two Voluntary Programs: Report to Congressional Requesters. Washington, DC: U.S. Government Accountability Office, 2006. h p://www.gao.gov/new.items/d0697.pdf

Williams, Neville. Chasing the Sun: Solar Adventures Around the World. Gabriola Island, BC, Canada: New Society Publishers, 2005.

TRANG WEB

American Council for an Energy‐Efficient Economy h p://www.aceee.org/

Ceres ‐ Advancing Sustainable Prosperity h p://www.ceres.org

Central African Regional Program for the Environment (CARPE) h p://carpe.umd.edu/

Nguồn thông tin tham khảo

- 27 -

Climate 1‐Stop h p://arcserver4.iagt.org/climate1stop/

Climate Change Media Partnership h p://www.climatemediapartnership.org/

Coral Triangle – WWF h p://www.worldwildlife.org/what/wherewework/coraltriangle/

Earthship Biotecture h p://earthship.org/

Green Belt Movement h p://www.greenbeltmovement.org/

Indian Youth Climate Network h p://www.iycn.in/

Intergovernmental Panel on Climate Change (U.N.) h p://www.ipcc.ch/

Kids vs. Global Warming h p://kids‐vs‐global‐warming.com/Home.html

Real Climate: Climate Science from Climate Scien sts h p://www.realclimate.org/

South China Climate Change Network h p://www.gdditan.com/

The Partnering Ini a ve h p://thepartneringini a ve.org/

Tsumkwe Energy h p://www.drfn.org.na/htm/energy_desk/energy_tsumkwe_energy.htm

U.N. Development Programme Climate Change Web Site h p://www.undpcc.org/

USAID Global Development Alliance h p://www.usaid.gov/our_work/global_partnerships/gda/

U.S. Climate Ac on Partnership (USCAP) h p://www.us‐cap.org/

U.S. Environmental Protec on Agency Climate Leaders h p://www.epa.gov/climateleaders/

U.S. Support to the Coral Triangle Ini a ve h p://www.usc .org/usc /default.aspx

World Resources Ins tute h p://www.wri.org/

Yale Environment 360 h p://e360.yale.edu/

- 28 -

Trung tâm Hoa Kỳ Phòng Thông tin-Văn hóa, Đại sứ quán Hoa Kỳ

Tầng 1, Rose Garden Tower, 170 Ngọc Khánh, Hà Nội Tel: (04) 3850-5000; Fax: (04) 3850-5048; Email: [email protected]

http://vietnam.usembassy.gov