Upload
lethuy2611
View
841
Download
2
Embed Size (px)
Citation preview
BÀI THẢO LUẬN
Chủ đề: Thủ tục phân tích
Nhóm thực hiện: Nhóm 11 ( CKA_K11)
Danh sách nhóm:
1. Dương Thanh Hảo
2. Nguyễn Thị Huyền
3. Ninh Thị Nguyên
4. Phạm Đức Sơn
5. Lê Thị Thúy
6. Nguyễn Thị Minh Trang( nhóm trưởng)
Nội dung chính:
I. Tổng quan về thủ tục phân tích
II. Các kỹ thuật phân tích, nội dung và nức độ tin cậy của thủ tục
phân tích
III. Trình tự thực hiện thủ tục phân tích
IV. Ưu điểm và nhược điểm của thủ tục phân tích, đánh giá về việc
sử dụng thủ tục phân tích
V. Vận dụng: Doanh thu năm nay so với năm trước tăng 150%
I. TỔNG QUAN VỀ THỦ TỤC PHÂN TÍCH
1. Thủ tục phân tích
Theo định nghĩa của chuẩn mực kiểm toán VN số 520: “Thủ tục
phân tích hay quy trình phân tích là việc phân tích các số liệu, thông tin,
các tỷ suất quan trọng, qua đó tìm ra những xu hướng, biến động và tìm
ra những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin liên quan khác hoặc
có sự chênh lệch lớn so với giá trị đã dự kiến.”
Quy trình phân tích bao gồm việc so sánh các thông tin tài chính,
như:
- So sánh thông tin tương ứng trong kỳ này với các kỳ trước: xem có biến
động bất thường hay không? Vì sao? Đánh giá khả năng phát triển của
doanh nghiệp trong tương lai.
- So sánh giữa thực tế với kế hoạch của đơn vị (Ví dụ: Kế hoạch sản xuất,
kế hoạch bán hàng ...): đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống KSNB
doanh nghiệp, xem xét doanh nghiệp lập kế hoạch , dự toán đúng hay sai?
- So sánh giữa thực tế với ước tính của kiểm toán viên (Ví dụ: Chi phí
khấu hao ước tính...).
- So sánh giữa thực tế của đơn vị với các đơn vị trong cùng ngành có
cùng quy mô hoạt động, hoặc với số liệu thống kê, định mức cùng ngành
(Ví dụ: Tỷ suất đầu tư, tỷ lệ lãi gộp...): đánh giá một số chỉ tiêu của doanh
nghiệp với chỉ số trung bình ngành xem có hợp lý hay không?
Quy trình phân tích cũng bao gồm việc xem xét các mối quan hệ:
- Giữa các thông tin tài chính với nhau (Ví dụ: Mối quan hệ giữa lãi gộp
với doanh thu...)
- Giữa các thông tin tài chính với các thông tin phi tài chính (Ví dụ: Mối
quan hệ giữa chi phí nhân công với số lượng nhân viên...).
Trong quá trình thực hiện quy trình phân tích, kiểm toán viên được
phép sử dụng nhiều phương pháp khác nhau từ việc so sánh đơn giản đến
những phân tích phức tạp đòi hỏi phải sử dụng các kỹ thuật thống kê tiên
tiến. Quy trình phân tích cũng được áp dụng đối với báo cáo tài chính hợp
nhất, báo cáo tài chính của đơn vị thành viên hoặc từng thông tin riêng lẻ
của các báo cáo tài chính. Việc lựa chọn quy trình phân tích, phương
pháp và mức độ áp dụng tuỳ thuộc vào sự xét đoán chuyên môn của kiểm
toán viên.
2. Mục đích KTV sử dụng thủ tục phân tích:
- Giúp kiểm toán viên xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các
thủ tục kiểm toán khác.
- Nhằm xác định thủ tục kiểm toán thích hợp cho một mục tiêu kiểm toán
cụ thể.
- Quy trình phân tích được thực hiện như là một thử nghiệm cơ bản khi
việc sử dụng thủ tục này có hiệu quả hơn so với kiểm tra chi tiết trong
việc giảm bớt rủi ro phát hiện liên quan đến cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài
chính.
- Quy trình phân tích để kiểm tra toàn bộ báo cáo tài chính trong khâu
soát xét cuối cùng của cuộc kiểm toán.
- Kết luận về sự phù hợp trên các khía cạnh trọng yếu của BCTC với
những hiểu biết của mình về tình hình kinh doanh của đơn vị.
3. Thủ tục phân tích đảm bảo tất cả các mục tiêu kiểm toán
Hiện hữu/Phát sinh
Đầy đủ
Chính xác
Quyền và nghĩa vụ
Đánh giá
Trình bày và thuyết minh
4. Các phương pháp phân tích có thể được áp dụng trong cả 3 giai
đoạn của quá trình kiểm toán
a. Giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán
Trong giai đoạn này thủ tục phân tích đánh giá tổng quát giúp KTV nhìn
nhận doanh nghiệp một cách toàn diện, nhanh chóng xác định được tính
chất bất bình thường, xác định được phạm vi kiểm tra, nội dung cần đi
sâu kiểm toán, xác định được những vấn đề có khả năng sai sót trọng yếu;
Đồng thời, giúp KTV xác định được nội dung, thời gian, phạm vi sử dụng
kỹ thuật kiểm toán khác, qua đó để lập được kế hoạch chi tiết với những
nội dung, phạm vi cần thiết, thời gian biên chế và chi phí hợp lý.
Trong quá trình phân tích ở giai đoạn này, KTV có thể sử dụng cả thông
tin tài chính và thông tin phi tài chính (Ví dụ: Mối quan hệ giữa doanh
thu với số lượng hàng bán hoặc số lượng sản phẩm sản xuất với công suất
máy móc, thiết bị...).
b. Giai đoạn thực hiện kiểm toán
Giai đoạn này, phân tích được coi như một thử nghiệm cơ bản nhằm thu
thập bàng chứng có liên quan đến số dư tài khoản hoặc một loại nghiệp
vụ nào đó. Các bằng chứng về cơ sở dẫn liệu chứng minh cho các khoản
mục trong BCTC có thể thu được khi tiến hành thử nghiệm chi tiết các
nghiệp vụ số dư hoặc phân tích hay kết hợp cả hai phương pháp phân tích
và thử nghiệm chi tiết nghiệp vụ và số dư tài khoản.
Trong quá trình kiểm toán, nhằm giảm bớt rủi ro phát hiện liên quan đến
cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải thực hiện quy
trình phân tích hoặc kiểm tra chi tiết hoặc kết hợp cả hai. Nhằm xác định
thủ tục kiểm toán thích hợp cho một mục tiêu kiểm toán cụ thể, kiểm toán
viên phải xét đoán hiệu quả của từng thủ tục kiểm toán.
Kiểm toán viên phải thảo luận với Giám đốc, kế toán trưởng hoặc người
đại diện của đơn vị được kiểm toán về khả năng cung cấp thông tin và độ
tin cậy của các thông tin cần thiết cho việc áp dụng quy trình phân tích,
kể cả kết quả phân tích mà đơn vị đã thực hiện. Kiểm toán viên được
phép sử dụng các dữ liệu phân tích của đơn vị nếu tin tưởng vào các dữ
liệu này.
Khi áp dụng quy trình phân tích, kiểm toán viên phải xem xét các yếu tố
sau:
- Mục tiêu của phân tích và độ tin cậy của kết quả thu được;
- Đặc điểm của đơn vị và mức độ chi tiết hoá thông tin (Ví dụ: Quy trình
phân tích áp dụng đối với thông tin tài chính của từng đơn vị thành viên
sẽ hiệu quả hơn là chỉ áp dụng đối với thông tin tổng hợp của các đơn
vị...);
- Khả năng sẵn có của các thông tin tài chính và phi tài chính;
- Độ tin cậy của các thông tin (Ví dụ: Sự đúng đắn của các kế hoạch hoặc
dự toán ...);
- Tính thích đáng của các thông tin (Ví dụ: Kế hoạch được thiết lập có
tính khả thi hơn là kế hoạch chỉ là các mục đích phải đạt được);
- Nguồn gốc thông tin (Ví dụ: Thông tin từ bên ngoài thường có độ tin
cậy cao hơn thông tin do đơn vị cung cấp...);
- Khả năng so sánh của thông tin (Ví dụ: Thông tin do đơn vị cung cấp có
thể so sánh với thông tin của đơn vị khác trong cùng ngành...);
- Những hiểu biết có được từ cuộc kiểm toán các kỳ trước cùng với hiểu
biết về tính hiệu quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ
và các vấn đề nảy sinh đã dẫn đến các bút toán điều chỉnh trong những kỳ
trước.
c. Giai đoạn kết thúc kiểm toán
Trong giai đoạn kết thúc cuộc kiểm toán, việc phân tích đánh giá tổng
quát có vai trò rất quan trọng đối với KT. Khi đã kiểm toán và có kết luận
về từng bộ phận cấu thành BCTC, mà đặc biệt là kiểm toán hiện đại ngày
nay tiến hành trên cơ sở mẫu chọn trong kiểm toán, để có mức thỏa mãm
trong kiểm toán càng cao và tăng thêm đọ tin cậy cho KTV thì cần phải
một lần nữa sử dụng thủ tục phân tích đánh giá tổng quát về những thông
tin cần kiểm toán và bằng chứng thu thập được để củng cố thêm cho các
bằng chứng và kết kuận của KTV, kể cả việc thử lại khả năng tiếp tục
hoạt đọng của doanh nghiệp trước khi KTV ký vào báo cáo kiểm toán.
II. CÁC KỸ THUẬT PHÂN TÍCH, NỘI DUNG VÀ MỨC ĐỘ TIN
CẬY KỸ THUẬT PHÂN TÍCH
1. Các kỹ thuật phân tích sử dụng để thu thập bằng chứng kiểm toán
Kĩ thuật phân tích được sử dụng để thu thập bằng chứng kiểm toán có
hiệu lực gồm ba loại: phân tích xu hướng tỷ suất và phân tích tỉ suất.
a. Phân tích xu hướng
Là sự phân tích những thay đổi theo thời gian của số dư tài khoản hay
nghiệp vụ. Phân tích xu hướng được kiểm toán viên sử dụng qua so sánh
thông tin tài chính kỳ này với thông tin tài chính kỳ trước hay so sánh
thông tin giữa các tháng trong kỳ nhằm phát hiện những biến động bất
thường để tập trung kiểm tra xem xét.
Kỹ thuật so sánh trong phân tích xu hướng thường sử dụng.
So sánh số liệu thực tế kỳ này với kỳ trước.
So sánh số dư năm hiện hành với số dư năm trước đó: đây là một trong
những cách làm dễ dàng nhất để thực hiện cuộc khảo sát này là ghi các số
dư kết quả của bảng cân đối thử đã điều chỉnh của năm trước vào một cột
riêng trên bảng cân đối thử năm hiện hành. Kiểm toán viên có thể so sánh
dễ dàng số dư của năm hiện hành với số dư của năm trước đó để quyết
định vào lúc đầu cuộc kiểm toán là liệu một tài khoản cá biệt có nên được
chú ý nhiều hơn so với bình thường vì số dư có một biến động đáng kể
hay không?
- So sánh chi tiết của số dư tổng hợp với chi tiết tương tự của năm
trước:
Nếu không có những biến động đáng kể trong các hoạt động năm hiện
hành ở khách hàng, phần lớn chi tiết cấu thành các số tổng cộng trên báo
cáo tài chính sẽ giữ nguyên không đổi. Bằng cách so sánh chi tiết của kỳ
hiện hành với chi tiết tương tự của kỳ trước sẽ có thể tách riêng thông tin
cần phải kiểm tra thêm. Quá trình so sánh có thể theo các chi tiết hàng kỳ
hoặc các chi tiết tại một thời điểm.
- So sánh tỷ lệ của năm nay và năm trước:
Qúa trình so sánh tổng cộng hoặc chi tiết và các năm trước có hai
nhược điểm:
+ Một là không xem xét sự tăng trưởng hoặc sự giảm tụt trong hoạt động
kinh doanh
+ Hai là xem xét các mối quan hệ giữa các sự kiện này với sự kiện khác
dễ bị bỏ qua.
Việc so sánh tỷ suất và so sánh các mối quan hệ tỷ lệ khắc phục cả hai
nhược điểm này. Trong mọi trường hợp, quá trình so sánh phải kết hợp
với tính toán thực hiện ở những năm trước với cùng một công ty khách
hàng. Có rất nhiều tỷ số và các qúa trình so sánh tiềm tàng có sẵn để kiểm
toán viên sử dụng. Nhiều tỷ số và tỷ lệ phần trăm được dùng để so sánh
với các năm trước cũng được dùng để so sánh với số liệu ngành.
So sánh số liệu giữa các tháng trong kỳ: nhằm đánh giá
mức chênh lệch giữa các tháng trong kỳ, đánh giá xu hướng biến
động tăng hoặc giảm của các chỉ tiêu trong cùng kì nhằm phát hiện
ra những biến động bất thường.
So sánh số dư của các tài khoản giữa các kỳ, phát hiện biến
động bất thường để tập trung kiểm tra xem xét.
b, Phân tích tỷ suất
Là cách thức so sánh những số dư tài khoản hoặc những loại hình
nghiệp vụ. Phân tích tỷ suất cũng sẽ giúp cho kiểm toán viên so sánh tính
hợp lý về tình hình tài chính của một công ty nào đó với công ty khác
trong cùng tập đoàn với ngành đó. Thông thường khi phân tích tỷ suất
cũng phải xem xét xu hướng của tỷ suất đó. Tuỳ theo kiến thức và kinh
nghiệm nghề nghiệp, kiểm toán viên có thể tính toán, phân tích nhiều mặt
một số tỷ suất cần thiết cho việc nhận xét của mình
Phân tích tỷ suất thường được xem là có hiệu quả hơn so với phân
tích xu hướng bởi vì nó xem xét các mối quan hệ kinh tế giữa hai hoặc
nhiều số dư tài khoản với nhau. Kỹ thuật này thường được sử dụng phổ
biến vì khả năng của kỹ thuật này trong việc phát hiện những thay đổi bất
thường hoặc những thay đổi không mong muốn. Kỹ thuật này cũng rất
hữu hiệu trong việc phát hiện trong những vấn đề kiểm toán tiềm tàng có
thể tìm thấy từ sự thay đổi tỷ suất giữa các năm.
Khi thực hiện các kỹ thuật phân tích tỷ suất KTV thường sử dụng
những tỷ suất sau đây:
TT Tỷ suất Công thức tính
Tỷ suất khả năng thanh toán nhanh
1 Tỷ suất thanh toán hiện thời Tài sản lưu động/Nợ ngắn hạn
2 Tỷ suất thanh toán nhanh (Tiền + tương đương tiền+phải
thu)/Nợ ngắn hạn
3 Tỷ suất nợ so với tài sản Nợ ngắn hạn/Tổng tài sản
Tỷ suất liên quan tới phải thu
4 Tỷ suất thu hồi khoản phải thu Doanh thu bán chịu/Phải thu khách
hàng
5 Số ngày thu hồi khoản phải 365/Tỷ suất thu hồi khoản phải thu
thu
Tỷ suất về hàng tồn kho
6 Tỷ suất quay vòng hàng tồn
kho
Giá vốn hàng bán/Hàng tồn kho
cuối kỳ
7 Số ngày quay vòng hàng tồn
kho
365/Tỷ suất quay vòng hàng tồn
kho
Đo lường khả năng lợi nhuận
8 Tỷ suất lãi thuần Thu nhập thuần/Doanh thu thuần
9 Khả năng sinh lời vốn chủ sở
hữu
Thu nhập thuần/Vốn chủ sở hữu
Tỷ suất đòn bẩy tài chính
10 Tỷ suất nợ so với vốn chủ sở
hữu
Tổng nợ/Vốn chủ sở hữu
11 Tỷ suất nợ so với tài sản Tổng nợ/Tổng tài sản
Tỷ suất sinh lời của vốn
12 Tỷ suất về tính lỏng của tài sản Tài sản lưu động/Tổng tài sản
13 Tỷ suất sinh lời của tài sản Doanh thu thuần/Tổng tài sản
14 Tỷ suất giá trị thuần với doanh
thu
Vốn chủ sỡ hữu/Doanh thu thuần
2. Nội dung kỹ thuật phân tích
Kĩ thuật phân tích gồm 3 nội dung:
Dự đoán: là việc ước đoán về số dư tài khoản, giá trị tỷ suất hay xu
hướng…
Kiểm toán viên phải tích luỹ một số thông tin hay số liệu về những
con số hay nhóm những con số trong báo cáo tài chính, cần dự báo trước
mối quan hệ giữa thông tin này với một hay nhiều mục đang khảo sát và
xác định giới hạn kết quả có thể chấp nhận được.
So sánh: là việc đối chiếu ước đoán với số liệu báo cáo.
Kiểm toán viên cần so sánh đối chiếu mối quan hệ dự đoán và thực tế
để có biện pháp thích hợp. Nếu mối quan hệ thực tế phù hợp với dự đoán
thì kiểm toán viên có thể phản ứng bằng cách giảm bớt số lượng khảo sát
chi tiết trong lĩnh vực này. Nếu những mối quan hệ thực tế khác xa dự
đoán thì kiểm toán viên sẽ tìm kiếm sự giải thích từ ban lãnh đạo, nếu có
sự giải thích hợp lý, kiểm toán viên sẽ tìm kiếm những bằng chứng xác
nhận nó. Trong trường hợp không giải thích được kiểm toán viên buộc
phải tiến hành khảo sát chi tiết nhiều hơn nữa.
Đánh giá: là việc sử dụng các phương pháp chuyên môn và các kỹ
thuật khác (như phỏng vấn, quan sát) để phân tích và kết luận về các
chênh lệch khi so sánh.
Chênh lệch phát sinh có thể do số dư tài khoản, nghiệp vụ được kiểm
toán viên chứa đựng sai sót nhưng cũng có thể chênh lệch được hình
thành từ chính ước tính trong phân tích. Do đó, lời giải thích cần được
tìm hiểu từ những nhân viên của khách thể của kiểm toán, ít nhất là
những minh chứng cho những vấn đề quan trọng. Nếu qua tiếp xúc vẫn
chưa tìm được lời giải thích hợp lí thì cần xem xét lại giả định và dữ liệu
đã sử dụng để ước tính. Nếu vẫn còn chênh lệch qua xem xét quá trình
triển khai thủ tục phân tích thì lời giải và bằng chứng cần được giải quyết
qua các thủ tục kiểm tra chi tiết các số liệu. Bằng chứng kiểm toán thu
thập được từ thủ tục phân tích cần được đánh giá do phát hiện qua kiểm
toán không chỉ bao gồm sai sót trong tài khoản mà cả những quan sát hệ
thống kiểm soát nội bộ, hệ thống thông tin và những vấn đề khác. Do vậy
mọi chênh lệch được phát hiện trong kiểm toán cần được điều tra về tính
chất và nguyên nhân cả về cơ sở dẫn liệu, cả về mục tiêu kiểm toán và cả
tình hình kinh doanh của khách hàng. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số
520.18 qui định: “Trường hợp qui trình phân tích phát hiện được những
chênh lệch trọng yếu hoặc mối liên hệ không hợp lý giữa các thông tin
tương ứng hoặc có chênh lệch lớn so với dự tính, kiểm toán viên phải
thực hiện các thủ tục điều tra để thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán
thích hợp”.
Trong quá trình thực hiện qui trình phân tích, kiểm toán viên được
phép sử dụng nhiều phương pháp khác nhau từ việc so sánh đơn giản đến
những phân tích phức tạp đòi phải hỏi sử dụng các kỹ thuật thống kê tiên
tiến. Việc lựa chọn qui trình phân tích, phương pháp và mức độ áp dụng
tuỳ thuộc vào sự xét đoán chuyên môn của kiểm toán viên.
3. Mức độ tin cậy của quy trình phân tích
Quy trình phân tích được áp dụng cho các thông tin có thực và có
mối quan hệ lẫn nhau. Kết quả phân tích các mối liên hệ cung cấp cho
kiểm toán viên các bằng chứng kiểm toán về sự đầy đủ, tính chính xác,
tính hợp lý về các dữ liệu do hệ thống kế toán lập ra. Độ tin cậy của quy
trình phân tích phụ thuộc vào sự đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro mà
quy trình phân tích không phát hiện được (Ví dụ: Kết quả phân tích
không thể hiện sự biến động hay chênh lệch lớn nhưng trong thực tế vẫn
có sai sót trọng yếu...).
Mức độ tin cậy vào kết quả của quy trình phân tích phụ thuộc vào
các nhân tố sau:
- Tính trọng yếu của các tài khoản hoặc loại nghiệp vụ (Ví dụ: Hàng tồn
kho là trọng yếu thì không chỉ dừng lại ở quy trình phân tích mà còn thực
hiện một số thủ tục kiểm tra chi tiết khác trước khi kết luận. Ngược lại
khoản mục nợ phải thu được coi là không trọng yếu thì có thể chỉ căn cứ
vào kết quả phân tích để kết luận...);
- Các thủ tục kiểm toán khác có cùng một mục tiêu kiểm toán (Ví dụ:
Thủ tục kiểm tra nghiệp vụ thu tiền sau ngày khoá sổ của các khoản phải
thu sẽ khẳng định hoặc phủ nhận kết quả của quy trình phân tích nợ phải
thu theo thời hạn, ...);
- Độ chính xác có thể dự kiến của quy trình phân tích (Ví dụ: Kiểm toán
viên thường so sánh, phân tích tỷ lệ lãi gộp giữa năm nay với năm trước
hơn là so sánh các chi phí bất thường giữa năm trước với năm nay...);
- Đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát (Ví dụ: Nếu việc kiểm soát
nội bộ của bộ phận bán hàng là yếu kém thì nên dựa vào kiểm tra chi tiết
hơn là dựa vào quy trình phân tích...).
Kiểm toán viên phải kiểm tra lại các thủ tục kiểm soát để tạo ra các
thông tin sử dụng trong quy trình phân tích. Trường hợp thủ tục kiểm soát
có hiệu quả thì kiểm toán viên sẽ tin tưởng hơn vào độ tin cậy của các
thông tin và kết quả phân tích cũng tin cậy hơn. Kiểm toán viên phải
kiểm tra đồng thời các thủ tục kiểm soát của kế toán với thủ tục kiểm soát
thông tin phi tài chính (Ví dụ: Trường hợp đơn vị kiểm soát việc lập hoá
đơn bán hàng đồng thời với kiểm soát số lượng bán hàng thì kiểm toán
viên cũng kiểm tra đồng thời thủ tục kiểm soát hoá đơn bán hàng và kiểm
soát số lượng hàng bán).
III. TRÌNH TỰ THỰC HIỆN QUY TRÌNH PHÂN TÍCH
1. Chọn loại hình phân tích phù hợp
Nhìn chung các loại hình phân tích áp dụng hiệu quả đối với các tài
khoản trong báo cáo kết quả kinh doanh và các loại nghiệp vụ liên quan
hơn là đối với các tài khoản trong bảng cân đối kế toán. Các tài khoản
trong báo cáo kết quả kinh doanh dễ dự đoán hơn, trong khi đó tài khoản
trong bảng cân đối kế toán thường kết hợp nhiều loại hình nghiệp vụ
phức tạp. Khi lựa chọn sử dụng các loại hình phân tích, kiểm toán viên có
thể sử dụng tuỳ thuộc vào các loại hình báo cáo thích hợp. Dưới đây là
bảng hướng dẫn sử dụng
Hướng dẫn chọn loại hình phân tích
Đối tượng kiểm toán
Loại hình phân tích
Phân tích
xu hướng
Phân tích tỉ
suất
Kiểm tra tính
hợp lí
Khoản mục trong bảng
cân đối kế toán
Hạn chế Hữu ích Hạn chế
Khoản mục trong báo
cáo kết quả kinh doanh
Hữu ích Rất hữu ích Rất hữu ích
2. Lựa hình mô hình dự đoán
Đưa ra mô hình để dự đoán những số liệu tài chính hoặc những xu
hướng hay những tỉ suất về số liệu tài chính và số liệu hoạt động. Các
bước công việc này bao gồm:
Xác định các biến tài chính và các biến hoạt động
cũng như mối quan hệ có thể dự đoán được giữa hai loại biến này.
Ví dụ, xét trong chu trình kiểm toán tiền lương và nhân viên thì biến tài
chính là tổng quĩ tiền lương thực hiện trong một niên độ kế toán, biến
hoạt động có thể là tổng số sản phẩm sản xuất ra trong kì hay tổng số thời
gian lao động của cán bộ công nhân viên trong đơn vị được kiểm toán.
Đưa ra mô hình để kết hợp thông tin. ở nội dung
này, kiểm toán viên xác định mô hình về mối quan hệ giữa các biến
phù hợp với đơn vị được kiểm toán. Ví dụ về tiền lương và nhân
viên, nếu đơn vị trả lương chủ yếu theo hình thức khoán sản phẩm
hoàn thành thì mô hình hợp lí là mô hình mô tả mối quan hệ giữa
tổng quĩ lương thực hiện và tổng số lượng sản phẩm hoàn thành
trong kì. Ngược lại, nếu đặc điểm của đơn vị phù hợp với hình thức
trả lương theo thời gian thì mô hình hợp lí là mô hình mô tả mối
quan hệ giữa tổng quĩ lương thực hiện với tổng thời gian làm việc
của người lao động trong đơn vị được kiểm toán.
Thu thập những số liệu cơ sở. Kiểm toán viên thu
thập số liệu về các biến đã xác định ở trên từ thực tế của đơn vị
được kiểm toán.
Xem xét tính độc lập và độ tin cậy của những số liệu
cơ sở về hoạt động và về tài chính.
Đưa ra dự đoán sử dụng mô hìnhmà kiểm toán viên
đã khai triển.
3. So sánh dự đoán của kiểm toán viên với số liệu của đơn vị được
kiểm toán
Dự đoán và so sánh dự đoán của kiểm toán viên với số liệu của đơn vị
được kiểm toán. nếu có chênh lệch, có thể do các nguyên nhân: có những
sai sót trong mô hình của kiểm toán viên hoặc có sai sót đáng kể trong số
dư tài khoản.
Để tìm nguyên nhân của chênh lệch, kiểm toán viên có thể phỏng vấn
nhà quản lí hiểu biết về những vấn đề tài chính và hoạt động của công
ty…để được giải thích hay thu thập thông tin giúp hoàn thiện hơn mô
hình. Đồng thời, kiểm toán viên cần theo dõi và kiểm tra những thông tin
này. Tất cả những điều giải thích cần được chứng thực bằng một bằng
chứng độc lập. Có thể phỏng vấn nhiều nhân viên trong đơn vị được kiểm
toán và kiểm tra xem những lời giải thích của họ có thống nhất hay
không, hoặc có thể kiểm tra chứng từ có liên quan.
4. Rút ra kết luận về bằng chứng kiểm toán thu thập được
Nếu chênh lệch giữa dự đoán của kiểm toán viên với số liệu thực tế
lớn hơn rất nhiều so với mức chênh lệch theo kế hoạch, kiểm toán viên
không thu được bằng chứng như dụ tính. Khi đó kiểm toán viên phải điều
tra tính chất và nguyên nhân của chênh lệch và xem xét ảnh hưởng của nó
tới hoạt động kinh doanh của đơn vị được kiểm toán.
Nếu chênh lệch thấp hơn đáng kể mức chênh lệch theo kế hoạch, kiểm
toán viên kết luận rằng mục tiêu kiểm toán đã đạt được. Tuy nhiên, kiểm
toán viên vẫn cần xem xét xem liệu những phát hiện của kiểm toán viên
có thu được từ những theo dõi thích hợp đối với kiểm soát nội bộ, hệ
thống thông tin và các ván đề khác hay không.
Nếu chênh lệch này xấp xỉ độ chênh lệch theo kế hoạch, kiểm toán
viên sẽ sử dụng đánh giá của mình để xem xét có nên:
Chấp nhận chênh lệch này là chênh lệch kiểm toán
và chuyển nó vào bảng tóm tắt những chênh lệch kiểm toán chưa
được điều chỉnh;
Có nên tiếp tục hoàn thiện dự đoán của mình, đưa
vào nhiều biến hơn và đưa ra số xấp xỉ hơn, cho đến khi số chênh
lệch đạt đến mức có thể chấp nhận được.
Tiến hành kiểm tra chi tiết.
IV. ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA THỦ TỤC PHÂN TÍCH,
ĐÁNH GIÁ VỀ VIỆC SỬ DỤNG THỦ TỤC PHÂN TÍCH
1. Ưu điểm
Phân tích là quá trình đánh giá các thông tin tài chính được thực hiện qua
một cuộc nghiên cứu các mối quan hệ đáng tin cậy giữa các số liệu. Phân
tích là một trong những phương pháp kiểm toán hiện đại để thu thập báo
cáo kiểm toán không tốn kém thời gian như phương pháp khảo sát chi tiết
các nghiệp vụ do đó kiểm toán viên có thể áp dụng phương pháp phân
tích này trong quá trình kiểm toán .
Thủ tục phân tích tương đối đơn giản có hiệu quả cao, chi phí kiểm toán
thấp mà vẫn cung cấp bằng chứng về sự đồng bộ, chuẩn xác và có giá trị
về mặt kế toán.
Kỹ thuật phân tích áp dụng định hướng cho kiểm toán viên, giúp cho
kiểm toán viên đánh giá được tổng thể. Thủ tục phân tích được áp dụng
trong tất cả các giai đoạn của quá trình kiểm toán và được xem là rất hữu
ích.
2.Nhược điểm:
Bên cạnh những ưu điểm, khi sử dụng kỹ thuật phân tích vẫn có một số
hạn chế cần quan tâm:
- Việc phân tích sẽ không có ý nghĩa nếu các chỉ tiêu không có mối
liên hệ với nhau. Ngoài ra kỹ thuật này chỉ áp dụng đối với các chỉ
tiêu đồng chất về nội dung và phương pháp phân tích.
- Đối với những khoản mục hay chỉ tiêu trọng yếu, kiểm toán viên
không thể sử dụng kỹ thuật phân tích đơn thuần mà cần kết hợp kỹ
thuật khác để thu thập được bằng chứng thích hợp.
- Trong điều kiện hệ thống kiểm soát nội bộ yếu kém cần thận trọng
phân tích và phải nên kết hợp nhiều kỹ thuật khác.
- Đánh giá chênh lệch khi phân tích phụ thuộc vào hiểu biết của
kiểm toán viên về những ngành nghề kinh doanh của đơn vị được
kiểm toán.
Như vậy bằng chứng thu thập được chưa thể hiện tính đầy đủ, phụ
thuộc nhiều vào chất lượng của hệ thống kiểm soát nội bộ và hiểu biết
của kiểm toán viên về ngành nghề kinh doanh của khách hàng kiểm toán.
3. Đánh giá về việc sử dụng thủ tục phân tích
Trong quá trình phân tích, dựa trên quan hệ hợp lý giữa các yếu tố, KTV
có thể phát hiện nhiều sai sót và những vấn đề bất thường. Thủ tục phân
tích giúp cho KTV nhìn nhận doanh nghiệp một cách toàn diện và xác
định phạm vi kiểm tra, rút ngắn được thời gian kiểm toán. Thủ tục phân
tích giúp cho KTV chuẩn đoán được nhanh chóng khu vức có sai sót làm
trọng tâm cho cuộc kiểm toán. Các thông tin thu được do áp dụng kỹ
thuật phân tích còn giúp KTV quyết định nội dung, thời gian và phạm vi
sử dụng các phương pháp kiểm toán khác. Các kết luận rut ra từ kết quả
áp dụng kỹ thuật phân tích sẽ củng cố cho các kết luận đã hình thành
trong khi kiểm tra từng yếu tố riêng biệt của các thông tin tài chính và
giúp KTV đi tới một kết luận tổng quát về tính hợp lý của các thông tin
tài chính. Phân tích là phương pháp kiểm toán có hiệu quả cao, kỹ thuật
phân tích thường được các KTV cao cấp tiến hành và thường là kỹ thuật
áp dụng đầu tiên cho mọi cuộc kiểm toán.
V. VẬN DỤNG
Doanh thu năm nay so với năm trước tăng 150%
Phần lớn sai phạm trong khai báo trình bày doanh thu trên BCTC thường
theo xu hướng khai tăng nhằm khuếch trương kết quả kinh doanh, tuy
nhiên cũng có một số trường hợp được khai báo giảm nhằm một số
trường hợp ghi giảm doanh thu vì một mục đích nào đó như chậm nộp
thuế chẳng hạn. Nhưng nhìn chung, để kiểm tra doanh thu bị ghi tăng hay
giảm đều tuân thủ theo các bước tiến hành chung.
Thủ tục phân tích được áp dụng trong khoản mục doanh thu cũng có vai
trò như trong áp dụng đối với các khoản mục khác là nhằm mục đích xem
xét biến động của khoản mục doanh thu bằng các kỹ thuật phân tích cụ
thể, từ đó khoanh vùng rủi ro, định hướng cho các thử nghiệm cơ bản
khác của kiểm toán. Như vậy, trong kiểm toán khoản mục doanh thu, một
cách gián tiếp thử tục phân tích đã đảm bảo được 6 yêu cầu nói chung của
CSDL doanh thu: hiện hữu/phát sinh, quyền và nghĩa vụ, chính xác, đầy
đủ, đánh giá, trình bày và báo cáo.
1. Vai trò thủ tục phân tích trong kiểm toán khoản mục doanh thu:
Thủ tục phân tích có thể được áp dụng với bất kì khoản mục nào nhưng
xét về hiệu quả thì thủ tục phân tích hiệu quả hơn với các khoản mục trên
Báo cáo kết quả kinh doanh, trong đó có khoản mục doanh thu.
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, thủ tục phân tích tổng
thể các khoản mục liên quan tới doanh thu trên bảng cân đối kế toán và
báo cáo kết quả kinh nhằm:
- Thu thập hiểu biết về nội dung của báo cáo tài chính và những
biến đổi quan trọng về kế toán và hoạt động kinh doanh của
khách hàng vừa diễn ra từ lần kiểm toán trước.
- Tăng cường sự hiểu biết của kiểm toán viên về hoạt động kinh
doanh của khách hàng và giúp kiểm toán viên xác định các vấn
đề nghi vấn về khả năng hoạt động liên tục của khách hàng.
Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, dựa trên những vùng rủi ro
đã được xác định bởi thủ tục phân tích tổng thể khoản mục trong giai
đoạn lập kế hoạch, kiểm toán viên phụ trách thực hiện phân tích chi tiết
sự biến động của doanh thu theo các tháng/quý, theo dòng sản phẩm, biến
động so với ước tính của kiểm toán viên để phát hiện chênh lệch kiểm
toán trọng yếu nếu có.
Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán, dựa vào các thủ tục phân tích
đã được thực hiện, kiểm toán viên đưa ra kết luận cuối cùng về tính hợp
lý của toàn bộ các vấn đề liên quan tới doanh thu đã được đặt ra trong
giai đoạn lập kế hoạch.
2. Đặc điểm khoản mục doanh thu ảnh hưởng tới thủ tục phân tích
Khoản mục doanh thu ảnh hưởng tới hai tài khoản chính: tài khoản
doanh thu hàng bán và cung cấp dịch vụ và tài khoản phải thu khách
hàng. Kiểm toán viên được yêu cầu kiểm tra và đưa ra ý kiến theo hướng
số dư của các tài khoản này có sai sót trọng yếu hay không. Nói chung,
đối với cả hai loại tài khoản tạo ra doanh thu trên, kiểm toán viên cần loại
bỏ những sai sót tiềm tàng sau:
Tính đầy đủ: các nghiệp vụ tạo ra doanh thu không đuợc ghi nhận
đầy đủ
Tính hiệu lực: các nghiệp vụ xảy ra không có thực (Cơ sở dẫn liệu
hiện hữu/ phát sinh)
Ghi chép: các nghiệp vụ bị ghi chép nhầm về mặt số học
Tính đúng kì: các nghiệp vụ được hạch toán không đúng kì (Cơ sở
dẫn liệu Hiện hữu)
Tính giá: áp dụng sai phương pháp định giá tài sản hoặc nguồn
vốn
Trình bày: số dư các tài khoản được trình bày không đúng cách
(Cơ sở dẫn liệu Trình bày).
Có thể tóm tắt một vài sai sót tiềm tàng cụ thể (liên quan đến tài khoản
doanh thu và tài khoản phải thu) có thể được loại bỏ bởi thủ tục phân tích
Các sai sót tiềm tàng có thể làm tăng
doanh thu
Các thủ tục phân tích có thể được
sử dụng để loại bỏ rủi ro
Doanh thu bị khai tăng
Tính hiệu lực: Doanh thu được ghi
nhận trước khi hàng hóa được chuyển
giao hoặc dịch vụ được cung cấp
Có
Ghi chép: Doanh thu được ghi chép
(tăng) sai về mặt số học Có
Tính đúng kì: Hàng hóa được chuyển
giao hoặc dịch vụ được cung cấp trong
kì tiếp theo nhưng doanh thu lại được
ghi nhận vào kì này
Có
3. Quy trình vận dụng thủ tục phân tích trong kiểm toán khoản mục
doanh thu
Thông thường, việc thực hiện thủ tục phân tích trong kiểm toán
khoản mục doanh thu trải qua những bước sau:
a) Phát triển một mô hình: kết hợp các biến tài chính và các biến
hoạt động
Khi phát triển mô hình doanh thu, chúng ta xác định các biến tài
chính hoặc hoạt động và mối quan hệ giữa chúng. Một số yếu tố cần quan
tâm khi phát triển mô hình doanh thu, cụ thể đối với trường hợp doanh
thu tăng 150%:
+ Quy mô của chi phí (giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, trị giá
hang xuất kho, chi phí quảng cáo marketing…)
+ Khoản mục thuế VAT đầu ra
+ Các chính sách bán hàng của doanh nghiêp, nới lỏng hay thắt
chặt, từ đó xem xét tới khoản mục phải thu khách hàng.
+ Xem xét các thông tin về công suất của máy móc thiết bị, giúp
kiểm toán có thể đánh giá được giới hạn tăng trưởng của doanh thu
+ Các thông tin tăng trưởng ngành, vị trí của doanh nghiệp trên thị
trường trong những năm gần dây.
+ Chính sách nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp
+ Yếu tố giá cả trên thị trường…
b. Thu thập thông tin và xem xét tính độc lập và tin cậy của dữ liệu
tài chính và nghiệp vụ:
Tính độc lập và tin cậy của dữ liệu tài chính và nghiệp vụ trong mô
hình càng cao thì tính chính xác của dự đoán càng lớn.
Để đánh giá tính tin cậy của dữ liệu cần xem xét trên nhiều mặt như:
- Nguồn của dữ liệu: dữ liệu có nguồn độc lập từ bên ngoài có độ
tin cậy cao hơn nguồn từ bên trong. Với nguồn dữ liệu từ bên
trong, độ tin cậy sẽ cao hơn nếu chúng độc lập với người chịu
trách nhiệm cho giá trị được kiểm toán.
- Tính kế thừa và phát triển của thủ tục kiểm toán dữ liệu từ
những năm trước.
- Mở rộng phạm vi dữ liệu đã sử dụng.
c. Ước tính giá trị:
Dựa trên những thông tin thu thập được ở trên như thông tin về các tài
khoản liên quan ( GVHB, HTK, phải thu KH, VAT), các số liệu năm
trước, các số liệu kế hoạch… KTV xác định giá trị ước tính cho doanh
thu. Mức độc chính xác của giá trị ước tính phụ thuộc vào Mô hình dự
kiến và Độ tin cậy của các thông tin thu thập được.
d, Xác định mức sai sót cho phép và xác định mức chênh lệch với giá
trị ghi sổ:
Mức sai sót cho phép phần lớn phụ thuộc vào ý kiến xét đoán nghề
nghiệp của KTV. Khi đánh giá mức sai sót cho phép KTV cần lưu ý:
Độ lớn của khoản mục doanh thu
Mức trọng yếu
Mức rủi ro
Ngoài ra KTV cần chú ý các xu hướng sau:
- Tính thường xuyên của việc đánh giá mối quan hệ đang được
nghiên cứu: phân tích xu hướng biến động của doanh thu hàng
tháng theo loại sản phẩm chắc chắn sẽ cung cấp bằng chứng
kiểm toán có tính thuyết phục cao hơn việc đơn thuần phân tích
biến động này theo năm.
- Tính biến động tất yếu và biến động bất thường: Khi so sánh
doanh thu hàng tháng với nhau, chênh lệch phát sinh có thể là
biến động tất yếu theo mùa và theo đó không thể có giá trị bất
biến hàng tháng. Để có được chênh lệch, cần so sánh với tháng
cùng kì năm trước hoặc số tổng cộng trong cả năm.
d. Phân tích nguyên nhân chênh lệch
Chênh lệch phát sinh có thể do loại nghiệp vụ được kiểm toán chứa
đựng sai sót những cũng có thể chênh lệch được hình thành từ chính ước
tính trong phân tích. Do đó, lời giải thích cần được tìm hiểu từ những
nhân viên của khách thể kiểm toán, ít nhất là chứng minh cho những vấn
đề quan trọng. Nếu qua tiếp xúc vẫn không có được lời giải thích hợp lý
thì cần xem xét lại giả định và dữ liệu đã sử dụng để ước tính. Nếu vẫn
còn chênh lệch qua xem xét quá trình triển khai thủ tục phân tích thì lời
giải và bằng chứng cần được giải quyết qua thủ tục kiểm tra chi tiết.
e. Xem xét những phát hiện qua kiểm toán
Bằng chứng kiểm toán thu nhận được từ thủ tục phân tích cần được
đánh giá do phát hiện qua kiểm toán không chỉ bao gồm những sai sót
trong tài khoản mà cả những quan sát hệ thống KSNB, hệ thống thông tin
và những vấn đề khác. Do vậy, mọi chênh lệch được phát hiện trong kiểm
toán cần được điều tra về tính chất và nguyên nhân cả về cơ sở dẫn liệu,
mục tiêu kiểm toán và tình hình kinh doanh của khách hàng.