37
TNG QUAN CÁC TÀI LIU NGHIÊN CU NGÀNH LÚA GO VIT NAM PHN I. TNG QUAN NGÀNH HÀNG LÚA GO VIT NAM 1 Sn xut lúa go đóng vai trò đặc bit quan trng trong phát trin kinh tế nông nghip và nông thôn Vit Nam. Khong 80% trong tng s11 triu hnông dân tham gia sn xut lúa go, chyếu da vào phương thc canh tác thcông truyn thng. Do sn xut lúa go là ngun thu nhp và cung cp lương thc chính ca các hnông dân, nên chính sách phát trin kinh tế nông nghip và nông thôn gn lin vi phát trin ngành hàng lúa go. Trong gn ba thp kqua nhđổi mi cơ chế qun lý, Vit Nam đã đạt được nhng thành tu ln trong sn xut lúa go, không nhng đáp ng đủ nhu cu tiêu dùng trong nước mà hàng năm còn xut khu được 3-4 triu tn go. Tuy nhiên ngành lúa go Vit Nam vn còn có nhiu khó khăn và thách thc, đặc bit là dưới sc ép cnh tranh ngày mt tăng ca quá trình hi nhp quc tế. Hin nay năng sut lúa bình quân chung ca cnước đạt khong 4,5 tn/ha, song gia các vùng sinh thái khác nhau li có schênh lch đáng kvnăng sut lúa. các vùng đồng bng mt shnông dân trng lúa đã đạt được năng sut rt cao, 10-12 tn/ha, trong khi đó năng sut lúa các vùng trung du min núi và các vùng đất cát duyên hi thường li rt thp, chđạt bình quân khong trên 2 tn/ha. Lượng go tham gia vào lưu thông chyếu thai ngun cung cp chính là Đồng Bng sông Cu Long (ĐBSCL) và Đồng bng sông Hng (ĐBSH). Trên thc tế, các vùng sn xut nông nghip nm ngoài các châu thln đều không có go dư tha, ngoi trmt vài năm gn đây mt sđịa phương vùng cao, nông dân được mùa do thi tiết thun li, nên lượng go sn xut đã vượt mc tiêu dùng địa phương. Sn xut lúa go các vùng duyên hi và trung du min núi chyếu nhm đáp ng nhu cu lương thc ti ch, mang tính tcung tcp, và vn còn tình trng mt shnông dân không đủ lương thc cho gia đình tmt đến hai tháng trong năm. Thiếu vic làm để đảm bo thu nhp n định và thiếu vn để mua vt tư thiết bphc vsn xut nông nghip đang là nhng trngi ln trong quá trình phát trin kinh tế nông nghip và nông thôn Vit Nam. Các hot động chế biến và lưu thông lúa go tuy đã phát trin đáng ksong vn còn nhiu khó khăn cn vượt qua. Ngành chế biến xay xát lúa go hin đang trong quá trình chuyn dch tmt hthng chyếu da vào chế biến quy mô nhphc vtiêu dùng ni địa (chcó sít các nhà máy xay qui mô ln phc vxut khu) tiến ti mt mô hình chế biến công nghip hin đại hơn vi nhiu nhà máy chế biến quy mô ln. Trình độ công ngháp dng trong chế biến lúa go ca Vit Nam hin vn còn lc hu, cht lượng go chế biến còn thp, tlhao ht ln và tlgo vcòn cao. Mt trong nhng nguyên nhân 1 Nguyn Ngc Quế & Trn Đình Thao, Tng quan ngành lúa go Vit Nam, 2003

TỔNG QUAN CÁC TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU NGÀNH LÚA GẠO VIỆT …ipsard.gov.vn/news/mispa/Nhom Nganh hang/NC tong quan 4 nganh hang/Tong... · TỔNG QUAN CÁC TÀI LIỆU NGHIÊN

  • Upload
    others

  • View
    15

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

TỔNG QUAN CÁC TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

NGÀNH LÚA GẠO VIỆT NAM

PHẦN I. TỔNG QUAN NGÀNH HÀNG LÚA GẠO VIỆT NAM 1�

Sản xuất lúa gạo đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn Việt Nam. Khoảng 80% trong tổng số 11 triệu hộ nông dân tham gia sản xuất lúa gạo, chủ yếu dựa vào phương thức canh tác thủ công truyền thống. Do sản xuất lúa gạo là nguồn thu nhập và cung cấp lương thực chính của các hộ nông dân, nên chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn gắn liền với phát triển ngành hàng lúa gạo. Trong gần ba thập kỷ qua nhờ có đổi mới cơ chế quản lý, Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn trong sản xuất lúa gạo, không những đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà hàng năm còn xuất khẩu được 3-4 triệu tấn gạo. Tuy nhiên ngành lúa gạo Việt Nam vẫn còn có nhiều khó khăn và thách thức, đặc biệt là dưới sức ép cạnh tranh ngày một tăng của quá trình hội nhập quốc tế. Hiện nay năng suất lúa bình quân chung của cả nước đạt khoảng 4,5 tấn/ha, song giữa các vùng sinh thái khác nhau lại có sự chênh lệch đáng kể về năng suất lúa. Ở các vùng đồng bằng một số hộ nông dân trồng lúa đã đạt được năng suất rất cao, 10-12 tấn/ha, trong khi đó năng suất lúa ở các vùng trung du miền núi và các vùng đất cát duyên hải thường lại rất thấp, chỉ đạt bình quân khoảng trên 2 tấn/ha. Lượng gạo tham gia vào lưu thông chủ yếu từ hai nguồn cung cấp chính là Đồng Bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH). Trên thực tế, các vùng sản xuất nông nghiệp nằm ngoài các châu thổ lớn đều không có gạo dư thừa, ngoại trừ một vài năm gần đây ở một số địa phương vùng cao, nông dân được mùa do thời tiết thuận lợi, nên lượng gạo sản xuất đã vượt mức tiêu dùng địa phương. Sản xuất lúa gạo ở các vùng duyên hải và trung du miền núi chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực tại chỗ, mang tính tự cung tự cấp, và vẫn còn tình trạng một số hộ nông dân không đủ lương thực cho gia đình từ một đến hai tháng trong năm. Thiếu việc làm để đảm bảo thu nhập ổn định và thiếu vốn để mua vật tư thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp đang là những trở ngại lớn trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn Việt Nam.

Các hoạt động chế biến và lưu thông lúa gạo tuy đã phát triển đáng kể song vẫn còn nhiều khó khăn cần vượt qua. Ngành chế biến xay xát lúa gạo hiện đang trong quá trình chuyển dịch từ một hệ thống chủ yếu dựa vào chế biến quy mô nhỏ phục vụ tiêu dùng nội địa (chỉ có số ít các nhà máy xay qui mô lớn phục vụ xuất khẩu) tiến tới một mô hình chế biến công nghiệp hiện đại hơn với nhiều nhà máy chế biến quy mô lớn. Trình độ công nghệ áp dụng trong chế biến lúa gạo của Việt Nam hiện vẫn còn lạc hậu, chất lượng gạo chế biến còn thấp, tỉ lệ hao hụt lớn và tỉ lệ gạo vỡ còn cao. Một trong những nguyên nhân 1 Nguyễn Ngọc Quế & Trần Đình Thao, Tổng quan ngành lúa gạo Việt Nam, 2003

chính làm chậm quá trình hiện đại hoá công nghệ ngành chế biến lúa gạo là thiếu vốn đầu tư. Hệ thống cung cấp tín dụng chính thức ưu tiên phục vụ cho các doanh nghiệp quốc doanh nên chưa phát huy được khả năng cạnh tranh có hiệu quả của khu vực kinh tế tư nhân. Hơn nữa, phần lớn các hợp đồng chính phủ được giao cho các công ty quốc doanh thực hiện, nên khả năng mở rộng hoạt động xuất khẩu của khu vực kinh tế tư nhân kgông tương đồng.

Những vướng mắc về thể chế và sự yếu kém về cơ sở hạ tầng sản xuất kinh doanh lúa gạo đang kìm hãm sự phát triển của ngành. Chi phí cao trong hệ thống cung cấp tín dụng chính thức không khuyến người nông dân và các nhà chế biến lúa gạo tăng mức đầu tư, buộc họ phải tìm đến hệ thống tín dụng phi chính thức và trì hoãn hoặc cắt giảm đầu tư.

Cần phải tiếp tục cải thiện môi trường sản xuất kinh doanh để đảm bảo an ninh lương thực và xoá đói giảm nghèo, cũng như gia tăng kim ngạch xuất khẩu lúa gạo. Một môi trường kinh doanh thuận lợi cho ngành lúa gạo phát triển cần có hai lĩnh vực quan trọng. Một là, nâng cao hiệu suất và khả năng cạnh tranh của ngành hàng lúa gạo; và hai là, Việt Nam phải tạo được khả năng xuất khẩu gạo đặc sản và gạo chất lượng cao. Để thực hiện được hai mục tiêu trên Việt Nam phải xây dựng được môi trường thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế cùng phát triển.

Để tăng năng suất lúa vượt mức bình quân hiện nay là 4,5 tấn/ha, phải tăng năng suất lúa trung bình và giảm chênh lệch về năng suất giữa các vùng, xử lý một loạt các vấn đề liên quan đến khâu giống, cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng và vật tư nông nghiệp, dịch vụ khuyến nông. Mặc dù khả năng tăng thêm năng suất lúa ở các vùng đồng bằng châu thổ (vốn đã có được mức năng suất trung bình khá cao) là không nhiều, song cơ hội để cải thiện năng suất lúa ở các vùng xâu, vùng xa và các vùng đất cao vẫn còn.

Nhiều nhà kinh tế cho rằng vai trò của khu vực kinh tế công trong việc đầu tư trực tiếp nhằm tăng năng suất nên tập trung vào hệ thống thuỷ lợi để đem lại hiệu quả kinh tế cao. Vai trò của kinh tế công đối với các yếu tố tăng năng suất khác cũng chỉ nên giới hạn ở việc tạo môi trường thuận lợi thông qua việc cải thiện hệ thống pháp lý và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, như tăng cường cơ sở hạ tầng và hoàn thiện chính sách nhằm giảm bớt chi phí giao dịch trong dịch vụ tín dụng, hơn là tham gia vào các dịch vụ cung cấp vật tư đầu vào

Khu vực kinh tế tư nhân phải được khuyến khích tham gia phát triển thị trường gạo đặc sản có giá trị cao, đem lại lợi ích cho các hộ nông dân có khả năng cung cấp giống lúa chất lượng cao. Đồng thời khuyến khích tăng sản lượng và năng suất của các loại lúa đại trà khác.

Tăng đầu tư và tăng năng suất lúa gạo chưa phải là biện pháp chính nhằm xoá đói giảm nghèo trong nông thôn Việt Nam. Đối với đa số các hộ nông dân nằm ngoài ĐBSCL và ĐBSH, sản xuất lúa gạo còn phân tán, manh mún mang tính tự cung tự cấp. Ngay cả khi

năng suất đã được cải thiện thì thu nhập từ lúa của các hộ này cũng chỉ đạt từ 100 đến 200 USD trên 1 ha. Nhìn chung phát triển sản xuất lúa gạo phải kết hợp với các biện pháp đa dạng hoá sản xuất để đảm bảo tăng thu nhập một cách ổn định cho các hộ gia đình nông thôn.

1. Sản xuất lúa

Sản xuất lúa gạo giữ một vị trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, chiếm gần 50% GDP nông nghiệp (không bao gồm lâm và ngư nghiệp) năm 2003. Trong giai đoạn 1990-2002 sản lượng lúa tăng bình quân khoảng 4,9% năm. Đó là kết quả của việc tăng năng suất lúa (3.0% năm) và do tăng diện tích gieo trồng (1,8% năm). Mức tăng trưởng của sản xuất lúa giữa các vùng có sự khác biệt đáng kể. Tốc độ tăng sản lượng cao nhất là ở vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Năng suất lúa tăng mạnh nhất là ở vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Đồng bằng sông Hồng. Diện tích gieo trồng lúa ở Tây Bắc và Duyên hải Nam Trung Bộ trong giai đoạn 1990-2002 giảm, trong khi đó ở các vùng khác trong cùng thời kỳ lại tăng.

Biểu Error! No text of specified style in document.-1 Diện tích, năng suất và sản lượng lúa phân theo vùng, giai đoạn 1990-2002

1990-2002

1990 2002 2002 % tăng hàng năm

% đóng góp tăng SL

1. Sản lượng lúa, 1000 tấn Cả nước 19225.1 32529.5 34063.5 4.88 100.0 Đồng bằng sông Hồng 3890.8 6586.6 6685.3 4.61 100.0 Đông Bắc 1180.4 2065.0 2328.9 5.83 100.0 Tây Bắc 248.8 403.6 451.5 5.09 100.0 Bắc Trung Bộ 1642.3 2824.0 3138.9 5.55 100.0 Duyên hải Nam Trung Bộ 1347.3 1681.6 1705.4 1.98 100.0 Tây Nguyên 386.1 586.8 609.5 3.88 100.0 Đông Nam Bộ 1049.1 1679.2 1666.1 3.93 100.0 Đồng bằng sông Cửu Long 9480.3 16702.7 17477.9 5.23 100.0 2. Diện tích GT, 1000 ha Cả nước 6042.8 7666.3 7485.4 1.80 37.3 Đồng bằng sông Hồng 1158.0 1212.6 1196.7 0.27 6.0 Đông Bắc 519.2 550.3 562.5 0.67 11.6 Tây Bắc 144.3 136.8 140.8 -0.20 -4.0 Bắc Trung Bộ 677.0 695.0 700.4 0.28 5.1 Duyên hải Nam Trung Bộ 414.6 422.5 399.5 -0.31 -15.5 Tây Nguyên 165.3 176.8 186.1 0.99 25.8 Đông Nam Bộ 384.3 526.5 485.6 1.97 50.6 Đồng bằng sông Cửu Long 2580.1 3945.8 3813.8 3.31 64.0 3. Năng suất lúa, tấn/ha Cả nước 3.2 4.2 4.6 3.03 62.7

Đồng bằng sông Hồng 3.4 5.4 5.6 4.33 94.0 Đông Bắc 2.3 3.8 4.1 5.12 88.4 Tây Bắc 1.7 3.0 3.2 5.31 104.0 Bắc Trung Bộ 2.4 4.1 4.5 5.25 94.9 Duyên hải Nam Trung Bộ 3.2 4.0 4.3 2.30 115.5 Tây Nguyên 2.3 3.3 3.3 2.86 74.2 Đông Nam Bộ 2.7 3.2 3.4 1.92 49.4 Đồng bằng sông Cửu Long 3.7 4.2 4.6 1.86 36.0

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa theo số liệu TCTK

Trong giai đoạn 1990-2002, mức tăng diện tích gieo trồng lúa khoảng 24% . Diện tích gieo trồng lúa tăng liên tục trong xuốt giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2000 (tăng 2,4%/năm), nhưng lại có xu thế giảm nhẹ trong năm 2000-2002 (giảm 1,2%/năm). Trong 3 năm này, trong khi diện tích giảm thì sản lượng lúa vẫn tiếp tục tăng và chủ yếu nhờ tăng năng suất lúa.

Diện tích gieo trồng lúa tăng hầu như không phải do tăng diện tích đất canh tác sử dụng cho sản xuất lúa. Trong khi diện tích gieo trồng lúa tăng thêm 24% sau 12 năm (1990-2002), thì diện tích đất lúa lại gần như không thay đổi, chỉ tăng không quá 1%. Như vậy tăng diện tích gieo trồng lúa chủ yếu là do tăng vụ (95,6% tăng diện tích gieo trồng là do tăng hệ số quay vòng sử dụng đất).

Sự thay đổi về diện tích và năng suất lúa là hai nhân tố tác động chính tới tốc độ tăng sản lượng, song vai trò của chúng giữa các vùng cũng khác nhau và thay đổi theo thời gian. Trong giai đoạn 1990-2002 sản lượng lúa ở cả hai vựa thóc chính của đất nước đều tăng mạnh, nhưng ở ĐBSH do qui mô đất canh tác bình quân của một hộ rất thấp và hệ số quay vòng sử dụng đất đã khá cao nên sản lượng lúa tăng được chủ yếu là nhờ thâm canh tăng năng suất (94% tăng sản lượng là do nămg suất). Trong khi đó ở ĐBSCL sản lượng lúa tăng chủ yếu lại là do tăng diện tích gieo trồng (64% sản lượng tăng là do tăng diện tích gieo trồng: trong đó 51,6% là do tăng hệ số quay vòng đất và chỉ có 12,5% là do tăng diện tích đất lúa).

Diện tích gieo trồng lúa của Việt Nam năm 2002 đạt xấp xỉ 7,5 triệu ha, trong đó ĐBSCL chiếm tỉ lệ cao nhất (51,3%) sau đó là ĐBSH (19,6%). Hiện nay, năng suất lúa trung bình cả nước đạt 4,6 tấn/ha và sản lượng thóc đạt 34,064 triệu tấn.

Các tỉnh phía Bắc chủ yếu làm hai vụ chính: Đông-Xuân và Mùa. Các tỉnh phía Nam phổ biến trồng thêm Hè-Thu. Năng suất lúa Đông-Xuân thường cao hơn năng suất lúa Mùa và Hè-Thu. Năng suất các loại lúa tính trung bình theo vùng được thể hiện ở bảng sau:

Biểu Error! No text of specified style in document.-2 Diện tích và năng suất lúa phân theo vụ và vùng sinh thái (tấn/ha)

Đông Xuân Hè Thu Mùa Diện Năng Diện Năng Diện Năng

Tích Suất Tích Suất Tích Suất Năm 1990 Cả nước 2074 3.79 1216 3.36 2778 2.62 Đồng bằng sông Hồng 568 3.54 598 3.15 Đông Bắc 172 2.42 352 2.17 Tây Bắc 27 2.60 115 1.55 Duyên hải Bắc Trung Bộ 312 2.86 121 2.11 256 1.93 Duyên hải Nam Trung Bộ 162 3.47 111 3.72 137 2.73 Tây Nguyên 26 3.72 135 2.16 Đông Nam Bộ 55 3.44 77 2.84 256 2.52 Đồng bằng sông Cửu Long 752 4.83 908 3.53 930 2.84 Năm 2002 Cả nước 3033 5.51 2276 3.93 2176 3.85 Đồng bằng sông Hồng 594 5.99 602 5.19 Đông Bắc 214 4.65 348 3.83 Tây Bắc 33 4.94 108 2.68 Duyên hải Bắc Trung Bộ 336 5.32 156 4.15 208 3.38 Duyên hải Nam Trung Bộ 173 5.08 98 4.32 128 3.14 Tây Nguyên 55 4.28 5 2.44 126 2.87 Đông Nam Bộ 114 4.16 133 3.38 239 3.12 Đồng bằng sông Cửu Long 1514 5.70 1883 3.94 417 3.42

Nguồn: TCTK

Cùng với việc gia tăng tổng diện tích gieo trồng lúa thì hệ thống canh tác lúa cũng thay đổi đáng kể trong 12 năm qua. Hệ thống canh tác lúa trong giai đoạn từ 1990 đến 2002 đã chuyển từ trồng lúa Mùa sang lúa Hè-Thu và lúa Đông-Xuân. Trong giai đoạn này diện tích trồng lúa Đông-Xuân tăng 46,3%, diện tích lúa Hè-Thu tăng 87,2% và diện tích lúa Mùa giảm 21%. Sau năm 1995, diện tích lúa Đông-Xuân đã vượt trội diện tích lúa Mùa và tiếp tục giữ vị trí ưu thế cho tới thời điểm hiện tại.

Sản xuất lúa gạo tăng một phần là do tăng năng suất lúa, đặc biệt là lúa vụ Đông-Xuân và vụ Mùa, nhưng một phần là nhờ tăng diện tích lúa vụ Đông-Xuân và vụ Hè-Thu. Do lúa vụ Hè-Thu chỉ tăng về diện tích, còn năng suất hầu như không tăng, cho nên có thể khẳng định là năng suất lúa cả năm tăng chủ yếu là nhờ lúa Đông-Xuân và lúa Mùa.

Đối với lúa, việc tăng năng suất cây trồng không thể chỉ nhờ có giống tốt, mà còn do phát triển thuỷ lợi, cải thiện dinh dưỡng cây trồng, và cải tiến công tác quản lý. Tốc độ tăng năng suất lúa (tuỳ theo điều kiện tự nhiên, chủ yếu là dinh dưỡng, bức xạ và khả năng tưới tiêu) khác biệt đáng kể giữa các vùng sinh thái, đặc biệt là giữa ĐBSCL và các vùng còn lại trong cả nước. Trong khi tốc độ tăng năng suất lúa ở ĐBSCL giảm từ 2,1% xuống còn 0,4%, thì các vùng khác lại tăng trung bình từ 4 lên 5%. ĐBSCL chiếm trên 50% tổng sản lượng lúa cả nước và là nguồn cung cấp gạo xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, trong khi các vùng khác chỉ sản xuất vừa đủ hoặc thiếu. Năng suất lúa của ĐBSCL trong vòng 5 năm gần đây (1998-2002) ổn định trong khoảng 4,1 - 4,6 tấn/ha, trong khi đó tại

ĐBSH năng suất lúa đã tăng từ 4,5 lên đến 5,6 tấn/ha. Sản lượng lúa của ĐBSCL trong thập kỷ 90 tăng mạnh nhưng chủ yếu là nhờ tăng diện tích hơn là do tăng năng suất. Các vùng khác (ngoại trừ Đông Nam Bộ) thì ngược lại.

Những thành tựu trong sản xuất lúa gạo trong thời kỳ đổi mới đã giúp Việt Nam không chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn trở thành nước xuất khẩu gạo quan trọng trên thế giới. Kể từ năm 1996 đến nay khi cơ chế hạn ngạch xuất khẩu đã được nới lỏng và xoá bỏ, số lượng gạo có thể sử dụng cho xuất khẩu đã tăng gấp đôi.

2. Tiêu dùng lúa gạo

Cân đối tiêu dùng lương thực có thể ước tính dựa trên một số giả định về các hệ số tiêu dùng lúa gạo cho các nhu cầu tiêu dùng khác nhau, bao gồm cả tỉ lệ để giống, tỉ lệ hao hụt sau thu hoạch và cho chăn nuôi gia súc. Ngoài ra còn phải xác định tỉ lệ xay xát (từ thóc sang gạo trắng).

• Lượng thóc để giống tại các hộ nông dân ước tính vào khoảng 4-5% sản lượng. Con số ước tính này dựa theo kết quả của Dự án nghiên ngành giống 1999 do Chính phủ Thuỵ Điển tài trợ (DANIDA-MARD). Lượng thóc để giống giao động giữa Bắc Bộ (trồng lúa bằng cấy mạ 125kg/ha) và Nam Bộ (gieo vãi bằng hạt trực tiếp 170kg/ha).

• Tổn thất sau thu hoạch dựa theo ước tính của Viện Công nghệ sau thu hoạch là khoảng 10%. Con số này tương đối cao vì phải tính đến việc các hộ nông dân qui mô nhỏ làm khô thóc bằng phương pháp phơi nắng truyền thống, cũng như xay xát gạo chủ yếu tại các cơ sở xay xát địa phương quy mô nhỏ.

• Tỉ lệ thóc để lại làm thức ăn chăn nuôi ước khoảng 4% sản lượng. Đây cũng chỉ là một con số ước đoán vì thực tế không có số liệu. Viện Công nghệ sau thu hoạch ước tính tỉ lệ thóc sử dụng làm thức ăn gia súc khoảng 5,4% ở ĐBSCL, tuy nhiên ở các vùng khác có thể thấp hơn.

• Theo ước tính của Viện Công nghệ sau thu hoạch, tỉ lệ xay xát từ lúa ra gạo là khoảng 66%. Con số này đã tính đến thực tế là việc xay xát thóc gạo chủ yếu dựa vào các cơ sở chế biến xay xát quy mô nhỏ ở các địa phương.

• Mức tiêu dùng lương thực gạo có thể được tính theo 2 cách. Cách thứ nhất, nhu cầu gạo lương thực có thể được ước tính dựa vào số liệu điều tra mức sống 1997-98 của TCTK: mức tiêu dùng ở nông thôn là 13,24 kg/người/tháng và ở thành thị là 10,04 kg/người/tháng. Tổng mức tiêu dùng được tính bằng cách nhân mức tiêu dùng hàng tháng bình quân trên 1 đầu người với 12 tháng trong năm để được mức tiêu dùng trong một năm của 1 nhân khẩu bình quân, sau đó nhân với mức dân số. Như vậy bình quân chung nhu cầu tiêu dùng lương thực cả năm của một người là 149,37 kg. Con số này có thể là một ước tính thấp vì chưa kể đến lượng gạo tiêu dùng ở ngoài hộ gia đình. Hoặc dựa theo kết quả điều tra kinh tế - xã hội năm 2001 do Bộ NN&PTNT

thực hiện trong khuôn khổ của Dự án Thông tin An ninh Lương thực do FAO tài trợ, mức tiêu dùng gạo cả năm tại hộ và ngoài hộ là 178kg/người. Cách thứ hai, mức tiêu dùng có thể ước tính như là phần dư của sản lượng thóc sau khi đã trừ đi các khoản để giống, hao hụt, TAGS và xuất khẩu.

Biểu Error! No text of specified style in document.-3 Tiêu dùng lúa gạo ở Việt Nam

1975 1980 1990 2000 2001 2002 Sản lượng lúa, triệu tấn 10.3 11.6 19.2 32.5 32.1 34.1 Thóc giống, triệu tấn 0.721 0.846 0.915 1.187 1.156 1.155 Thóc hao hụt & TAGS, tr. tấn 1.493 1.689 2.788 4.717 4.656 4.939 Xuất khẩu gạo, triệu tấn -0.300 -0.200 1.624 3.477 3.721 3.241 Dân số. triệu người 48.0 53.6 66.0 77.6 78.7 79.7 Thóc lương thực & TAGS, tr. tấn 9.0 9.9 14.0 22.9 22.2 24.7 % tiêu dùng so với sản lượng 94.3 92.6 77.4 74.0 72.7 75.8 Mức tiêu dùng gạo, kg/ng. 119 118 133 185 177 194 SL gạo trên 1 người, kg/ng. 144 146 195 281 273 286 Tiềm năng XK gạo ở mức tiêu dùng 147kg/ng, triệu tấn -1.6 -1.7 0.8 6.5 6.2 7.1

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa theo số liệu TCTK;

Ghi chú: Mức tiêu dùng gạo 147kg/người căn cứ theo mức năng lượng cần đảm bảo duy trì là 2350 calo/người/ngày; TAGS - Thức ăn gia súc

Hình Error! No text of specified style in document.-1 Tiêu dùng lúa gạo Việt Nam, 1975-2002

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa theo số liệu TCTK

0

5

10

15

20

25

30

35

40

45

1975 1980 1985 1990 1995 2000

Tấn

Xuất khẩu gạo

Tiêu dùng gạo trong nước

Sản lượng gạo

Các giả định về tỉ lệ hao hụt, tỉ lệ xay xát và đặc biệt là mức tiêu dùng gạo bình quân đầu người là những yếu tố rất quan trọng quyết định mức cân bằng lương thực thừa hay thiếu đối với từng vùng.

Hiện chưa có bằng chứng đầy đủ để chứng tỏ tỉ lệ hao hụt và tỉ lệ xay xát gạo đã được cải thiện nhiều trong mấy năm qua (Mặc dù việc đầu tư phát triển các nhà máy xay xát hiện đại qui mô lớn vẫn đang tiếp diễn, song đại đa số các cơ sở chế biến xay xát gạo vẫn chỉ là quy mô vừa và nhỏ). Cho nên mọi sự thay đổi trong cân đối lương thực chủ yếu được giả định là do có sự thay đổi về mức tiêu dùng bình quân trên khẩu.

Nếu lấy mức tiêu dùng theo ước tính của FAO (năm 2001) áp dụng cho các năm khác thì sẽ không phù hợp vì như vậy sẽ có nhiều năm thiếu hụt gạo mặc dù trên thực tế vẫn xuất khẩu gạo với khối lượng lớn. Nếu sử dụng mức tiêu dùng 149,37 kg/người của ĐTMS để cân đối gạo cho các năm thì mức dư thừa lại cao hơn mức xuất khẩu rất nhiều. Như vậy chứng tỏ là mức tiêu dùng gạo bình quân đầu người có thể tăng theo thời gian. Bảng trên cho thấy mức tiêu dùng gạo trong nước bình quân cho 1 người được xác định bằng lượng sản xuất dư thừa sau khi đã trừ đi xuất khẩu (chưa tính đến phần lưu trữ). Kết quả tính toán cho thấy mức tiêu dùng tiềm năng tính trên đầu người tăng từ 133kg/người/năm trong năm 1990 lên tới 185kg/người/năm trong năm 2000. Sản lượng lúa cả nước tăng liên tục trong thập kỷ 90, và có giảm chút ít trong giai đoạn 2000-2001 nhưng sang năm 2002 lại tiếp tục tăng. Tổng mức tiêu dùng của cả nước và mức tiêu dùng bình quân người cũng có xu hướng biến động giống như của tăng trưởng sản xuất gạo (194kg/người năm 2002).

Những tính toán cân đối ở trên cho thấy chính sách tháo gỡ hạn ngạch và tăng xuất khẩu gạo trong thời gian vừa qua không hề tác động tiêu cực đến tiêu dùng trong nước hay đến an ninh lương thực, ngược lại cùng với sự gia tăng sản xuất gạo phục vụ xuất khẩu thì mức tiêu dùng gạo trong nước cũng có xu thế tăng.

4. Giá cả

Giá cả không ổn định hiện vẫn là mối lo ngại lớn nhất đối với các tác nhân tham gia kênh thị trường lúa gạo. Trong những năm gần đây, mức giá tương đối của lúa gạo nội địa có xu thế giảm. Giá thóc (tính theo mặt bằng giá 1994) bình quân giai đoạn 1996-1999 giảm từ 1600 đ/kg xuống còn 1300 đ/kg trong giai đoạn 2000-2002. Nói một cách khác, giá "thực" (Real Price) của lúa gạo (tức giá cánh kéo, hay giá tương đối của lúa gạo so với các sản phẩm khác) trong thời kỳ này đã giảm đáng kể giúp người tiêu dùng được lợi, nhưng người sản xuất thì bị thiệt thòi.

Hình Error! No text of specified style in document.-4 Diễn biến giá thóc 1990-2002 (giá đã giảm phát theo CPI 1994=1), đồng/kg

1000

1200

1400

1600

1800

2000

1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002

Giá, đ/kg

Giá XK qui thóc Giá thóc ĐBSH Giá thóc ĐBSCL

Nguồn: TCTK và tính toán của tác giả

Ghi chú: ĐBSH - Đồng bằng sông Hồng; ĐBSCL - Đồng bằng sông Cửu Long.

Chênh lệch giá giữa các vùng

Sự khác biệt về giá cả giữa các vùng có thể được mô tả một cách rõ nét thông qua hệ thống chỉ số giá vùng tính theo mức giá trung bình cả nước bằng 100 đơn vị. Biểu dưới đây cho thấy những năm gần đây khi mức giá chung có xu thế giảm, thì khoảng cách chênh lệch giữa vùng có chỉ số giá cao nhất với vùng thấp nhất lại có chiều hướng gia tăng: từ mức chênh lệch 17,5 đơn vị trong giai đoạn 1996-1999 đã tăng lên 26,8 đơn vị trong thời kỳ 2000-02. Ngoài ra, khoảng chênh lệch giá giữa hai vùng sản xuất lúa gạo tập trung đó là ĐBSH và ĐBSCL đã tăng gần gấp đôi, từ 10,3 đơn vị lên 20,2 đơn vị. Xu thế này chúng tỏ sự cách biệt gia tăng giữa các thị trường trong nước, đặc biệt là giữa miền Nam và miền Bắc. Gạo xuất khẩu chủ yếu là từ các tỉnh phía Nam, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long. Như vậy chính sách tăng cường xuất khẩu chỉ thực sự đem lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân ĐBSCL khi mà giá cả thị trường quốc tế thuận lợi. Nếu giá thế giới giảm như giai đoạn 2000-2001 thì nông dân ĐBSCL sẽ ở tình thế "càng được mùa thì càng thất thu". Chi phí lưu thông Bắc Nam cao sẽ là trở ngại cho sự điều hoà giá cả thị trường giữa 2 miền. Có lẽ biện pháp ổn định thị trường nên hướng vào điều tiết và khống chế mức cung khi giá thế giới giảm.

.

Biểu Error! No text of specified style in document.-5 Chênh lệch giá thóc theo vùng ở Việt Nam

1990 1995 2000 2002 90-94 95-99 00-02 Giá bán thóc (đã giảm phát theo chỉ số giá tiêu dùng CPI 1994 = 1), Đồng/Kg ĐBSH 1285 1687 1391 1457 1431 1604 1397 ĐB 1353 1771 1352 1414 1521 1718 1372 TB 1353 1771 1432 1508 1521 1711 1483 BTB 1356 1762 1242 1320 1535 1597 1254 DHNTB 1368 1777 1275 1320 1571 1541 1273 TN 1380 1895 1237 1258 1623 1563 1244 ĐNB 1403 1983 1225 1242 1745 1615 1230 ĐBSCL 1263 1674 1113 1218 1385 1439 1135 T/b cả nước 1345 1790 1283 1342 1541 1598 1299 Chỉ số giá thóc (mức t/b cả nước = 100) ĐBSH 95.5 94.2 108.4 108.5 92.8 100.3 107.6 ĐB 100.6 98.9 105.3 105.4 98.7 107.5 105.7 TB 100.6 98.9 111.6 112.4 98.7 107.0 114.2 BTB 100.8 98.4 96.8 98.4 99.6 99.9 96.5 DHNTB 101.7 99.3 99.4 98.3 101.9 96.4 98.0 TN 102.6 105.9 96.4 93.7 105.3 97.8 95.8 ĐNB 104.3 110.8 95.4 92.5 113.2 101.0 94.7 ĐBSCL 93.9 93.5 86.7 90.7 89.9 90.0 87.4 T/b cả nước 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 Chênh lệch chỉ số giá giữa: Max & Min 10.4 17.3 24.9 21.7 23.4 17.5 26.8 ĐBSH & ĐBSCL 1.6 0.7 21.7 17.8 2.9 10.3 20.2

Nguồn: TCTK và UBVGCP

Ghi chú: ĐBSH - Đồng bằng sông Hồng; ĐB - Đông Bắc; TB - Tây Bắc; BTB - Bắc Trung Bộ; DHNTB - Duyên Hải Nam Trung Bộ; TN - Tây Nguyên; ĐNB - Đông Nam Bộ; ĐBSCL - Đồng bằng sông Cửu Long.

Giá thành và lợi nhuận trong sản suất lúa

Mặc dù chi phí sản xuất và lợi nhuận của các hộ sản xuất lúa giữa các vùng và giữa các nguồn số liệu có sự khác biệt đáng kể, song có thể nhận thấy một điển khái quát chung đó là sản xuất lúa có lãi với mức doanh lợi (% lãi trong doanh thu) khoảng từ 20-30%. Khoản chi phí lớn nhất trong sản xuất lúa gạo là lao động, chiếm khoảng 50% tổng chi phí sản xuất trực tiếp, sau đó là phân bón và thuốc sâu, chiếm khoảng 25-30%.

Biểu Error! No text of specified style in document.-6 Giá thành và lợi nhuận sản xuất lúa ở một số vùng, giai đoạn 1996-2001

Nam Bộ3

ĐV tính

ĐBSCL1 ĐX 1999

ĐNB2

Lúa 2000

ĐX 2001

HT 2001 Thanh Hoá4

ĐX 2001

Chi phí vật chất: 1000đ/ha 4015 2054 2885 2460 2281 Thóc giống 1000đ/ha 441 - 440 365 398 Phân bón 1000đ/ha 960 - 825 790 1508 Thuốc sâu 1000đ/ha 418 - 350 275 375 Lao động gia đình 1000đ/ha 1660 3250 2456 2018 3250 Tổng cộng chi phí SX 1000đ/ha 5675 5304 5341 4478 5531 Năng suất lúa Tấn/ha 5.529 4.330 5.550 4.200 3.750 Giá lúa 1000đ/kg 1.500 1.440 1.275 1.325 1.900 Doanh thu 1000đ/ha 8294 6235 7076 5565 7125 Giá thành sản phẩm 1000đ/kg 1.026 1.225 0.962 1.066 1.475 Lãi gộp 1000đ/ha 2619 931 1736 1087 1595 Tỉ lệ lãi trong d.thu % 31.6 14.9 24.5 19.5 22.4

Ghi chú: 1 Bình quân 5 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ và An Giang; Nguồn: Viện Công nghệ sau thu hoạch TP. Hồ Chí Minh, 1999 2 Lúa bình quân của Đông Nam Bộ; Nguồn: Sở Nông nghiệp & PTNT, TP. Hồ Chí Minh, 2000 3 Nguồn: Số liệu do Nhóm nghiên cứu của Ngân hàng TG thu thập thông qua phỏng vấn, 25-07-2002 4 Điều tra của Công ty tư vấn Nông phẩm quốc tế, 2001 Bảng trên cho thấy một bức tranh khái quát về giá thành và lợi nhuận của nông dân sản xuất lúa gạo trong mấy năm gần đây ở ĐBSCL, Đông Nam Bộ và Duyên hải Bắc Trung Bộ. Giá thành sản xuất lúa ở ĐBSCL thường thấp hơn các vùng khác và giao động trong khoảng 1000 đồng/kg. Mức lãi gộp (tức doanh thu trừ chi phí trực tiếp) trong sản xuất lúa đạt khoảng 110-115 USD/ha đối với vụ Đông-Xuân và từ 60-70 USD/ha đối với vụ Hè-Thu. Nếu không tính lao động gia đình thì mức lại gộp thu được trên 1 ha lúa còn cao hơn.

Vụ lúa Đông-Xuân thường đem lại mức lãi suất cho nông dân cao hơn là vụ lúa Hè-Thu. Giữa các vùng có sự chênh lệch đáng kể về mức thu nhập và lãi gộp tính trên 1 ha lúa, thường thì ĐBSCL có mức lãi cao hơn so với các vùng phía Bắc.

Theo ước tính của Viện Chính sách lương thực quốc tế IFPRI, lãi suất tính theo doanh thu của ĐBSCL vào khoảng 31% còn ở ĐBSH là khoảng 18% (năm 1996). Trong ngắn hạn, mức lãi suất có lẽ không thay đổi nhiều lắm.

3. Chính sách

Trong thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80, cơ chế kế hoạch hoá sản xuất tập trung đã khiến ngành lúa gạo lâm vào cảnh trì trệ, năng suất lúa giảm và các nguồn tiềm năng tự nhiên phục vụ sản xuất không được khai thác hết. Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu đổi mới kinh tế. Hộ gia đình được coi là một đơn vị sản xuất chính trong nông thôn và được trao quyền tự chủ quyết định sản xuất và tiêu thụ nông sản. Cơ chế khoán hộ cùng với những cải cách về chế độ sử dụng ruộng đất và thuế đã tạo ra một bước nhảy vọt trong nông nghiệp. Sản xuất lúa gạo tăng mạnh bắt đầu từ cuối thập kỷ 80, Việt Nam chuyển từ một nước nhập khẩu lương thực thành một nước xuất khẩu gạo quan trọng trên thế giới vào cuối những năm 90.

Bên cạnh chính sách đổi mới nhằm khuyến khích phát triển sản xuất trong nước, hoạt động thương mại quốc tế của ngành lúa gạo cũng được đẩy mạnh. Một trong những thay đổi quan trọng nhất trong chính sách thương mại là việc xoá bỏ hạn ngạch và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu gạo, nhờ đó tăng nhanh luợng gạo xuất khẩu của Việt Nam.

Ngày nay, phần lớn dân cư Việt nam đang sống ở nông thôn có nguồn sinh kế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, trong đó sản xuất lúa gạo là nguồn lương thực và thu nhập chính của đa số các hộ nông dân. Chỉ riêng ĐBSH và ĐBSCL đã có tới 27 triệu dân nông thôn có hoạt động sản xuất chính đem lại nguồn sinh sống cho họ là trồng lúa.

Chính sách thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu gạo sẽ đem lại nguồn lợi cho những người tham gia sản xuất và là công cụ hữu ích cho việc xoá đói giảm nghèo ở nông thôn Việt Nam.

PHẦN II.

TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY VỀ NGÀNH HÀNG LÚA GẠO

Do tầm quan trọng của ngành hàng lúa gạo đối với Việt Nam như đã phân tích ở trên, đã có rất nhiều nghiên cứu kinh tế xã hội về ngành lúa gạo Việt Nam. Trong khuôn khổ báo cáo này, tác giả chỉ liệt kê những nghiên cứu của các học giả nước ngoài kết hợp với nhà nghiên cứu Việt Nam đã xuất bản từ năm 2000 đến nay.

1. Chantal Pohl Nielsen, Trường Đại học Copenhagen và Viện Nghiên cứu Kinh tế Lương thực Đan Mạch, “Chính sách lúa gạo Việt Nam: cải cách và có hội cho tương lai”, Tạp chí Kinh tế Châu Á, Số 17, năm 2003

Sau khi tổng kết về tình hình sản xuất lúa gạo Việt Nam và đặc biệt là vai trò của Việt Nam trên thị trường lúa gạo thế giới, tác giả đã liệt kê một số chính sách thương mại có tác động trực tiếp đến ngành lúa gạo Việt Nam sau công cuộc đổi mới. Cụ thể là 3 chính sách: (i) xoá bỏ hạn ngạch xuất khẩu gạo và hạn ngạch nhập khẩu phân bón; (ii) những chính sách cải cách đất và phân bổ lại đất; (iii) Các hiệp định thương mại ưu đãi với EU: đối tác thương mại tiềm năng của Việt Nam.

Tác giả đã sử dụng mô hình cân bằng tổng thể để đưa ra một số kịch bản thay đổi 3 nhóm chính sách trên. Sau khi chạy mô hình cho một số kịch bản, có thể kết luận được rằng:

(i) Chính sách thương mại

- Hạn ngạch xuất khẩu gạo là một công cụ chính sách hữu hiệu cho mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và duy trì giá gạo ổn định ở Việt Nam;

- Tuy nhiên chính sách này cũng có thể khiến cho ngành sản xuất và xuất khẩu gạo Việt Nam không đạt được mức tiềm năng;

- Nghiên cứu cũng khẳng định việc xoá bỏ cùng một lúc hạn ngạch xuất khẩu gạo và hạn ngạch nhập khẩu phân bón là rất hợp lý bởi vì phân bón là đầu bào nông sản quan trong của Việt Nam nên việc gỡ bỏ hàng rào đối với loại hàng hoá này sẽ giúp tăng hiệu quả phân bổ nguồn lực của nền kinh tế.

(ii) Chính sách đất

- Mặc dù các chính sách đất của Việt Nam đã coi kinh tế hộ cá thể là đơn vị cơ bản trong sản xuất nông nghiệp nhưng những biện pháp hạn chế dịch chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp giữa các thành phần khác nhau là một cản trở lớn cho sản xuất và xuất khẩu.

- Tuy nhiên, việc kiểm soát hoạt động đa dạng hoá nông nghiệp bằng cách điều trỉnh lại việc phân bổ đất sẽ khiến cho cơ cấu sản xuất nông nghiệp không phản ánh được lợi thế so sánh và sẽ làm giảm lợi ích kinh tế xã hội của các đối tác khác nhau.

(iii) Các hiệp định thương mại gạo với liên minh Châu Âu EU:

- Việc tạo một sân chơi cào bằng cho tất cả các nước buôn bán gạo vào EU sẽ không có lợi cho sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam

- Nếu nhận được ưu tiên thương mại vào EU, Việt Nam có thể đa dạng hoá bạn hàng, nhưng có thể các nhà xuất khẩu VN sẽ không được lợi nhiều do Việt Nam vẫn chỉ là một đối tác nhỏ ở thị trường này so với Thái Lan, Mỹ và Ấn Độ.

Tuy nhiên, hạn chế của nghiên cứu này là rất khó thu thập được số liệu chính xác về hệ thống chính sách đất và tác động của nó. Ngoài ra, phạm vi của nghiên cứu này cũng rất hẹp, vì thế có rất nhiều chính sách khác có thể lượng hoá ra và cũng đóng vai trò quan trọng trong ngành lúa gạo Việt Nam đã không được đưa vào phân tích.

2. Trương Văn Tuyển và cộng sự, UNDP và Trường Đại học Huế Việt Nam, “Đánh giá tổng hợp tự do hoá thương mại trong ngành lúa gạo Việt Nam”, 12/2003

Báo cáo này thể hiện những kết quả tóm lược về đánh giá tổng hợp của những tác động tự do hóa thương mại trong ngành lúa gạo của Việt Nam,xem xét những tác động tốt và không tốt đến sự tăng trưởng trong sản xuất và thương mại lúa.

(i) Tác động môi trường

Tăng trưởng trong sản xuất lúa và xuất khẩu có đóng góp lớn về kinh tế nhưng lại có các tác động xấu đến môi trường, tác động tốt đến rừng

(ii) Các tác động về kinh tế

Tự do hóa thương mại cùng với chính sách gia nhập quốc tế đã có tác động tốt đến kinh tế quốc gia nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng, tạo ra cạnh tranh về sản xuất trong nước. Tự do hóa thương mại khi vào AFTA mang lại nhiều lợi ích kinh tế. Thuế giảm từ 20 xuống 5% sẽ dẫn đđến tăng giá xuất khẩu lúa khoảng 4%.

(iii) Các tác động về xã hội

Giảm được nghèo đđói cùng với thúc đẩy đđược tăng trưởng kinh tế từ 7 - 8%. Tổng thu nhập thực của hộ tăng từ 27,6% năm 1993 và 1998, trong khi thu nhập từ nông nghiệp tăng 60,6%.

Nếu loại bỏ giới hạn thương mại lúa nội bộ, sẽ tăng thu nhập hộ thành thị và hộ giàu. Loại bỏ hạn ngạch xuất khẩu lúa đđã có ảnh hưởng lớn đđến thu nhập nông hộ và nghèo đói.

3. Nicholas Minot, Viện Nghiên cứu Lương thực Quốc tế (IFPRI), “Khả năng cạnh tranh của ngành chế biến lương thực Việt Nam: nghiên cứu về gạo, cà phê, hải sản và rau quả”

(i) Kết luận

- Tăng trưởng sản xuất gạo Việt Nam chủ yếu nhờ tăng năng suất và hệ số quay vòng đất do diện tích đã không tăng từ giữa thập kỷ 80.

- Tuy nhiên, tăng năng suất đang có xu thế hạn chế, vì vậy tăng sản xuất chỉ có thể giựa vào tăng năng suất. Kết luận này đã giúp nhóm tác giả đưa ra một số khuyến nghị sau.

(ii) Kiến nghị

- Cần tăng đầu tư cho nghiên cứu ngành gạo, có thể thông qua hình thức tăng lương, đầu tư thêm chi phí vận hành và mua thiết bị cho các cơ sở nghiên cứu.

- Cần cải thiện trang thiết bị tại Cảng Sài Gòn, giảm thời gian bốc xếp và vận chuyển để tăng thêm giá FOB. Phát triển cảng Cần Thơ để giảm chi phí vận chuyển gạo tới cảng, tăng mức giá trả cho người nông dân.

- Chính phủ cần tránh những chính sách khiến cho người xuất khẩu VN bãi bỏ hợp đồng xuất khẩu gạo hiện nay. Cái giá phải trả không thể nhìn thấy trước mắt nhưng sẽ đe doạ danh tiến người xuất khẩu gạo của Việt Nam.

- Chính phủ cần triển khai hệ thống báo cáo thường xuyên về các hợp đồng xuất khẩu gạo đề các nhà hoạch định chính sách có thể kiểm soát lượng gạo xuất khẩu, nhằm đạo bảo an ninh lương thực và tránh tình trạng bãi bỏ hợp đồng.

- Cần cho phép các nhà xay xát gạo tư nhân tham gia xuất khẩu gạo, mang lại nhiều lợi ích hơn cho người nông dân mà không làm giảm giá xuất khẩu. Hơn nữa, các đối tác tư nhân có khả năng tìm kiếm và khai thác các thị trường đặc biệt cho gạo đặc sản.

4. Lê Khương Ninh, Niels Hermes và Ger Lanjouw, “Đầu tư, Bất ổn và Những điều không thể tránh khỏi: Nghiên cứu thực tiễn về các cơ sở xay xát gạo ở Đồng Bằng Sông Cửu Long Việt Nam” , (Investment, Uncertainty and Irreversibility: An Empirical Study of Rice Mills in the Mekong River Delta, Vietnam), 2002.

Báo cáo đã nghiên cứu tính không thể đảo ngược của đầu tư và tác động của nó đến bản chất mối quan hệ giữa đầu tư và tính bất ổn. Trên thực tế, có rất nhiều lý thuyết về mối quan hệ giữa quyết định đầu tư chắc chắn và tính bất ổn, kết luận răng, tính bất ổn có thể làm tăng hoặc giảm đầu tư phụ thuộc vào phương thức đầu tư và các điều kiện liên quan đế khả năng chấp nhận rủi ro của người đầu tư, mức độ cạnh tranh trên thị trường sản phẩm đầu ra và đặc tính của công nghệ được sử dụng trong sản xuất.

Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu thực tiễn đều chỉ ra rằng bất ổn làm giảm đầu tư. Nghiên cứu này dựa trên điều tra các cơ sở xay xát gạo ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Và kết luận rằng tính bất ổn đã làm giảm đầu tư của các cơ sở xay xát.

Nghiên cứu này đã có hai đóng góp lớn. Thứ nhất, nghiên cứu được tiến hành đối với nền kinh tế đang chuyển đổi nơi có rất ít nghiên cứu. Nghiên cứu này cho thấy các cơ sở xay xát gạo Việt Nam ở trong tình trạng bất ổn hơn là các đối tác ở đất nước đang phát triên

rnhư Italy. Thứ hai, nghiên cứu này sử dụng thông tin điều tra, cho phép tính toán được mức độ bất ổn.

Nghiên cứu này có thể mở ra hướng nghiên cứu mới về sự biến động của đầu tư và khả năng dự đoán của các nhà quản lý xay xát.

5.Chantal Pohl Nielsen, København, “Việt Nam trong thị trường gạo quốc tế - Tổng kết và đánh giá chính sách gạo trong nước và quốc tế” (Vietnam in the International Rice Market - A Review and Evaluation of Domestic and Foreign), 2002

Nghiên cứu đã tổng kết về tình hình sản xuất, cơ cấu và xu hướng thương mại thị trường gạo quốc tế. Bên cạnh đó nghiên cứu cũng tổng hợp các chính sách gạo của Việt nam cũng như các chính sách chính của các bạn hàng và đối thủ cạnh tranh. Phần chính của báo cáo tập trung đánh giá các chính sách gạo hiện nay, đặc biệt sự thay đổi chính sách trong bối cảnh đàm phán thương mại quốc têd đa phương.

Nghiên cứu kết luận rằng Việt Nam cần tiếp tục cải cách cơ chế chính sách gạo và những cải cách này cần được đặt trong bối cảnh thay đổi kinh tế toàn cầu. Việt Nam không chỉ cần tăng cường tiếp cận thị trường mà cần thận trọng đối với các biện pháp trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ trong nước của các quốc gia khác.Việc sử dụng các biện pháp này sẽ gây ra bất ổn thị trường gạo quốc tế.

Nghiên cứu chỉ ra rằng bản chất của các doanh nghiệp kinh doanh nhà nước đang thay đổi nhờ quá trình cải cách và cơ cấu lại. Tuy nhiên, điều này không cho thấy rõ có giúp tăng cường khả năng tiếp cận với các thị trường gạo quốc gia hay không. Mặt khác, thị trường gạo của EU cũng sẽ không hoàn toàn mở cửa đến tận năm 2009, vì vậy việc xâm nhập vào thị trường này cũng sẽ hoàn toàn không dễ dàng. Trung Quốc, Ấn Độ và Myanmar rất quan tâm đến việc ký hợp đồng gạo với Thái Lan và Việt Nam, điều này sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến tương lai. Cuối cùng, việc sử dụng giống gạo biến đổi gien sẽ có tác động đến cơ cấu thương mại và giá.

6. Agrifood Consulting International-ACI, Nghiên cứu Chuỗi giá trị gạo Việt Nam (Rice Value Chain Study:Viet Nam), 2002

Đây là nghiên cứu đầu tiên toàn diện về chuỗi giá trị gạo của Việt Nam do nhóm nghiên cứu của ACI triển khai, đưa ra nhiều kết luận đáng quan tâm.

- Việt Nam thiếu môi trường cơ sở hạ tầng và cơ chế chính sách. Cần phải cải thiện môi trường này để tăng cường an ninh lương thực, giảm nghèo nông thôn và tăng thu nhập từ xuất khẩu. Có hai phương thức tạo giá trị thăng dư cho ngành lúa gạo: (i) tăng cường năng suất, đặc biệt là các khu vực vùng núi, vùng sâu vùng xa (thông qua khâu chọn và sản xuất giống, tiếp cận đầu vào và dịch vụ khuyến nông); và (ii) tăng cường sản xuất và xuất khẩu gạo đặc sản,chất lượng cao. Việc cải thiện môi trường nói trên sẽ giúp tạo điều kiện thực hiện hai phương thức này.

- Vai trò của khu vực nhà nước trong đầu tư trực tiếp tăng năng suất chỉ nên giới hạn ở việc cung cấp thuỷ lợi, tăng cường cơ sở hạ tầng và cơ chế chính sách. Nhà nước chỉ nên khuyến khích chứ không nên trợ cấp đầu vào.

- Khu vực tư nhân nên phát triển các thị trường đặc sản, giá trị cao

- Ngoài ra, đầu tư vào ngành lúa gạo nên đi đôi với với chính sách đa dạng hoá cây trồng để giải quyết vấn đề nghèo đói nông thôn.

7. Jonathan Haughton và cộng sự, “Tác động của Chính sách gạo đến khả năng tự cung tự cấp lương thực và phân bố thu nhập ở Việt Nam”, (The Effects of Rice Policy on Food Self-Sufficiency and on Income Distribution in Vietnam), 12/2004

Nghiên cứu cho thấy xuất khẩu gạo Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục tăng trong tương lai. Tuy nhiên, tiêu thụ đầu người trong nước đã đạt gần mức đỉnh cao và nếu thu nhập tiếp tục tăng nhanh, tiêu thụ gạo sẽ bắt đầu giảm, mặt dù tăng dân số vẫn sẽ làm tăng tổng cầu gạo lên chút ít.

Cung gạo vẫn có thể còn tăng nhiều hơn dự đoán nhưng tốc độ tăng sẽ bị hạn chế do lương tăng (khiến người làm việc trong ngành sản xuất gạo chuyển sang các ngành khác).

Trong tương lai, Việt Nam có thể sẽ cân nhắc trợ cấp cho nông dân. Nghiên cứu cho thấy, tác động của chính sách này đối với đối nghèo không rõ ràng và phụ thuộc vào định nghĩa về đói nghèo (tính bằng chi tiêu hay thu nhập đầu người). Trong trường hợp tính bằng chi tiêu thị trợ cấp xuất khẩu gạo sẽ có hại cho nhóm người rất nghèo. Trong trường hợp tính bằng thu nhập, nhóm nghèo sẽ được trợ giúp.

8. Trương Văn Tuyến, Trường Đại học Nông lâm Huế, “Đổi mới chính sách và thay đổi sản xuất và thương mại gạo Việt nam thập kỷ 80-90”

- Cải cách thị trường: đạt được tiến bộ trong việc mở cửa nền kinh tế nông thôn cho thương mại tư nhân, tạo điều kiện buôn bán đầu vào nông sản và tạo cơ hội cho nông dân tự bán sản phẩm gạo.

- Bên cạnh tăng cường cơ sở hạ tần nông thôn, cần điều chỉnh lại tình trạng độc quyền nhóm giữa các đối tác buôn bán.

- Chính sách giá đối với gạo: Trong nhiều năm, Việt Nam thực hiện chính sách giá xuất khẩu gạo thế giới trong khi đầu tư và chi phí sản xuất và marketing thấp hơn và chuẩn bị một cơ chế ổn định giá cả trong nước.

Cần thực hiện đầu tư đa dạng hoá cây trồng và tạo điều kiện để nền kinh tế nông thôn hoạt động linh hoạt nhằm đối phó với những điều kiện thị trường thay đổi.

9. Nicholas Minot & Francesco Goletti, Viện Nghiên cứu Chính sách Lương thực Quốc tế (IFPRI), “Tự do hoá thị trường gạo và đói nghèo ở Việt Nam”, (Rice market Liberalization and Poverty in Viet Nam), 2000

(i) Kết luận

- Không giống như dự đoán của một số nhà phân tích rằng xuất khẩu gạo Việt nam sẽ không bền vững, nhưng thực tế xuất khẩu gạo Việt Nam tăng liên tục. Sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là gạo và tiêu thụ gạo đầu người tăng liên tục từ giữa thập kỷ 80

- Tác động đền đói nghèo:

+ 95% số làng đã cải thiện được mức sống trong 5 năm qua, 94% số họ xác định chính sách nông nghiệp là động lực chính

+ Số lượng TV và xe máy tăng mạnh trong những năm qua ở khu vực nông thôn mặc dù tỉ lệ nghèo vẫn cao và lợi ích của tự do hoá không được phân phối đồng đều cho các khu vực và giữa thành thị - nông thôn.

(ii) Gợi ý chính sách

- Nghiên cứu sử dụng mô hình cân bằng không gian đa thị trường để đánh giá tác động của các chính sách thương mại gạo, đặc biện là chính sách tự do hoá thương mại.

- Kết quả cho thấy tự do hoá xuất khẩu sẽ giúp tăng giá và gây hại cho người nghèo thành thị và các hộ gia đình thiếu gạo. Song bên cạnh đó, nông dân ở các khu vực trồng lúa sẽ nhận được lợi ích lớn hơn nhiều, nhờ đó làm giảm tổng tỉ lệ nghèo đói và tăng thu nhập hộ và quốc dân.

- Việc chuyển hạn ngạch xuất khẩu thành thuế xuất khẩu sẽ giúp tránh được việc phân bổ hạn ngạch, tăng tính công khai và tạo thu nhập cho chính phủ để đầu tư vào các chương trình XĐGN

- Lợi ích từ việc tự do hoá xuất khẩu gạo phụ thuộc nhiều vào độ co dãn cầu của xuất khẩu gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. Vì vậy, Chính phủ cần xác định chính xác hơn độ co giãn cầu gạo và rằng Việt Nam cần phải lobby cho tự do hoá thương mại các thị trường gạo trên thế giới, đặc biệt là các nước nhập khẩu.

- Tác động tổng hợp đến thu nhập và nghèo đói của việc xoá bỏ hạn chế thương mại trong nước cũng tương tực như đối với thương mại ngoài nước.

- Rõ ràng là tốc độ tăng trưởng trong tương lai của ngành lúa gạo phụ thuộc vào xuất khẩu. Và mở rộng xuất khẩu phụ thuộc vào sự phát triển của hệ thống marketing hiệu quả có khả năng đáp ứng các nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Việc phát triển hệ thống này phụ thuộc nhiều vào sự tham gia của khu vực tư nhân. Khu vực tư nhân phát triển nhờ cải cách nhưng vẫn bị hạn chế bởi tình trạng độc quyền của doanh nghiệp nhà nước và có ít cơ hội tiếp cận với vốn và thông tin.

- Thị trường trong nước không gắn kết chặt chẽ do hệ thống cơ sở hạ tầng chưa phát triển, chính sách hạn chế giao dịch liên khu vực, thiếu sự công khai và niềm tin vào các chính sách được ban hành.

10. Chu Thái Hoành, Đặng Kim Sơn & cộng sự trường Đại học Wagenningen, Các kịch bản cung cầu gạo của Việt Nam

Nghiên cứu này mô tả việc ứng dụng hệ thống thông tin địa lý (GIS) và mô hình hoá trong phân tích cân bằng cung cầu lúa gạo cho các vùng của Việt Nam. Một nội dung quan trọng của nghiên cứu này là tăng cường cơ sở sinh học cho việc ước tính sản lượng lúa gạo, có tính đến sự khác biệt giữa các vùng về lợi thế so sánh và về năng suất tiềm năng. Vì thế, việc cung cấp lúa gạo ở Việt Nam có thể được phân tích trên 7 vùng sinh thái (Hình 1) với các điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng và tài nguyên nước khác nhau (Phong, 1995). Phân vùng địa lý cũng được dùng trong ước tính nhu cầu vì mỗi vùng sinh thái bao gồm một số tỉnh, là đơn vị hành chính cơ bản có các thông tin để ước tính nhu cầu. Sau đó các vùng thừa hoặc thiếu lúa gạo được xác định khi tổng hợp cung cầu lên cấp vùng và tính toán cân bằng.

Phân tích cung cầu lúa gạo này cho thấy Việt Nam sẽ tiếp tục là nước xuất khẩu gạo. Vai trò chủ chốt của đồng bằng sông Cửu Long sẽ càng tăng thâm. Mặc dù gạo là mặt hàng quan trọng nhất ở Việt Nam nhưng thu nhập từ sản xuất gạo vẫn thấp hơn các mặt hàng khác. Do đó, dù vẫn tập trung tăng cường xuất khẩu gạo nhưng Việt Nam cũng đang xem xét chuyển một phần diện tích trồng lúa sang các cây trồng khác. Nghiên cứu của chúng tôi về các kịch bản cung cầu khác nhau cho thấy sản xuất lúa gạo đạt ở mức khoảng 30-36 triệu tấn, tùy thuộc vào mức độ can thiệp của Chính phủ. Giao động giá gạo sẽ tạo nên mức giao động sản lượng lúa khoảng 2 triệu tấn. Tăng cường hiệu quả quản lý nước/cây trồng sẽ giúp tăng sản lượng lúa gạo đề đáp ứng nhu cầu đang tăng. Thêm vào đó, giảm tổn thất sau thu hoạch cũng giúp bù đắp phần giảm bớt do chuyển từ đất lúa sang các mục đích khác. Nhu cầu gạo cho hộ gia đình trong năm 2010 với tỉ lệ đô thị hoá 33% sẽ vào khoảng 13,8 triệu tấn. Giao động giá gạo sẽ làm tăng hoặc giảm tiêu dùng gạo khoảng 1 triệu tấn.

Bằng cách duy trì diện tích đất lúa ở mức 4 triệu ha, Việt Nam vẫn có thể duy trì được mức xuất khẩu khoảng 2-4 triệu tấn khi giá gạo giao động ở mức 20% so với hiện nay, với điều kiện Chính phủ thực hiện đồng thời hai biện pháp là tăng cường hiệu quả quản lý nước/cây trồng và giảm tổn thất sau thu hoạch. Bên canh xuất khẩu gạo, cần trú trọng đến việc phân phối gạo trong nước để đảm bảo an ninh lương thực ở những vùng núi, vùng sâu và vùng xa.

11. Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế Úc (ACIAR) & Trường Đại học Cần Thơ, Kỷ yếu hội thảo tổng kết dự án nghiên cứu liên ngành về tính bền vững“ , 12/2000

- Sự kết hợp nuôi tôm vào mùa khô trong ruộng lúa đã tăng thu nhập cho nhiều nông dân trong vùng qua nhiều vụ liên tiếp. Trở ngại chủ yếu là khai thác tôm tự nhiên (tôm đất, tôm bạc, …) theo cách truyền thống là không bền vững vì đất canh tác bị mất đi do bồi lắng phù sa từ việc thay nước (lấy nước ra vào ruộng) nhiều lần để khai thác tôm. Biện pháp mới phát triển gần đây, thả nuôi tôm (sú) giống mua từ các trại ương giống kết hợp

với việc ít thay nước, tỏ ra có triển vọng nhưng bị hạn chế do thiếu nguồn tôm giống khoẻ mạnh và sự bùng phát của dịch bệnh tôm. Tình trạng thiếu đầu tư về công nghệ tiên tiến để kiểm tra sức khoẻ (chất lượng) tôm giống và về kỹ thuật sản xuất tôm giống như hiện nay là những hạn chế mang tính quyết định đến tính bền vững của tất cả mô hình sản xuất tôm, bao gồm hệ thống canh tác lúa-tôm ở đồng bằng sông Cửu Long.

- Nghiên cứu này cho thấy, ngay với tỉ lệ sống của tôm sú thấp như hiện nay, nhiều nông dân canh tác lúa-tôm đã và đang ứng phó với rủi ro tài chính tốt bằng cách đa dạng hoá nguồn thu nhập cho gia đình. Điều đó có nghĩa là những nông hộ này có các nguồn thu nhập khác thay thế khi xảy ra tình trạng tôm chết hàng loạt. Hơn nữa, hệ thống canh tác này cho phép sản xuất lúa và những nông sản chủ lực khác cho tiêu dùng trong gia đình, nhờ thế giảm bớt rủi ro từ nuôi tôm. Những kết quả nghiên cứu trong dự án này chỉ ra rằng năng suất lúa không bị ảnh hưởng bất lợi bởi việc sử dụng ruộng lúa cho nuôi tôm. Những cơn mưa lớn đầu mùa giúp rửa mặn trong ruộng lúa-tôm một cách hiệu quả. Chưa có bằng chứng về sự tích tụ muối hoặc mặn hoá đất đai từ việc nuôi tôm ảnh hưởng bất lợi đến năng suất lúa ở vụ tiếp theo. Tuy nhiên, nghiên cứu này đã đưa đến các khuyến cáo về những giống lúa và thời điểm gieo cấy lúa thích hợp nhất trong hệ thống lúa-tôm.

12. TS. Đỗ Kim Chung, TS. Kim Thị Dung, “Đánh giá kinh tế - xã hội của quản lý dịch hại trong sản xuất lúa ở Việt Nam (Pest Management in Rice Pro duction in Vietnam A Socio–Economic Assessment)”, NXBNN Hà Nội 2002.

Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu cac ứng xử ra quyết định của người nông dân và

các kiến thức bản địa của họ về quản lý dịch hại trong sản xuất nông lúa. Đồng thời đánh giá những lợi kinh tế xã hội mà chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) đã mang lại đối với ngành sản xuất lúa ở Việt Nam. Trên cơ sở phân tích các số liệu và thông tin thu được từ việc điều tra phỏng vấn 252 hộ nông dan đã thm dự và chưa tham dự tập huấn về IPM ở các vung sinh thái nông nghiệp khac nhau tại ĐBSH và ĐBSCL. Kết quả nghiên cứu cho thấy các hộ nông dân đã áp dụng các biện pháp canh tác khác nhau thuỳ thuộc vào sự hiểu biết của họ và các điều kiện kinh tế - xã hội, sinh thái nông nghiệp của từng vùng. Nhìn chung , các hộ nông dân có nhận thức và ứng xử khác nhau đối với dịch hại trên đồng ruộng. Việc lựa chọn giống lua, lựa chọn sử dụng cac biện pháp bảo vệ thực vật được thực hiện trên hiểu biết của nông dân về dịch hại vàquản lý dịch hại. các hộ nông dân được huấn luyện IPM về gio cấy và chăm sóc lúa theo cách bền vững hơn so với cac hộ nông dân canh tac tho kỹ thuật cũ. Điều này dãn đến sự khác biệt đáng kể về cac chi phí đầu vào và năng suất, thu nhập của sản xuất lúa. Thông qua áp dụng IPM, người nông dân đã thay đổi nhận thức của họ về dịch hại và biết ra quyết định hợp lý nhất trên ruộng lúa của mình. Chương trình IPM đã mang lại lợi ích về mặt kinh tế và xã hội cho cả người đã đưcộhc IPM và người chưa được học về IPM.

Lợi ích của của chương trình IPM là việc giảm chi phí thuốc BVTV cũn như các chi phí đầu vào khác, cải thiện môi trường và hệ sinh thí đồng ruộng, tăng năng suất, tăng thu nhập từ sản xuất lúa , hạn chế rủi ro.

Cuối cùng nghiên cứu này đề xuất một số định hướng chinh sách nhằm đảy mạnh chương trình IPM, áp dụng kiến thức bản địa về quản lý dịch hại và tăng cường vai trò của phụ nữ trong quá trình triển khai áp dụng IPM. 13. Trần Tiến Khai, “ Phương pháp phân tích thay đổi cơ cấu chi phí sản xuất lúa ở ĐBSCL (Việt Nam) (Methodology for analysis of rice production costs Evolution: Application to Mekong Region (Vietnam)”, Viện Khoa học nông nghiệp miền Nam, 2003

Sản xuất lúa gạo là ngành sản xuất nông nghiệp quan trọng nhất ở Việt Nam, nó không chỉ đảm bảo cho an ninh lương thực quốc gia mà còn đem lại một nguồn ngoại tệ mạnh nhờ có xuất khâủ, kể từ công cuộc đổi mới trong thập kỷ 80 đến nay. Gạo của Việt Nam được coi là SP có tính cạnh tranh cao trên thị trường hiện nay.

Mục tiêu chung của Tài liệu là tìm ra một phương pháp có tính tương đối để đánh giá những thây đổi động đến tính cạnh tranh của gạo Việt Nam thông qua sự thây đổi về chi phí sản xuất. Tài liệu được tiến hành ở quy mô nông hộ, trang trại và tập trung vào nguyên nhân chủ lực thích ứng của những hộ sản xuất gạo nhằm đảm bảo tính cạnh trânh. Để đáp ứng mục tiêu đặt ra, sự thay đổi của chi phí sản xuất trong mối quan hệ tác động qua lại giữa các điều kiện kinh tế và kỹ thuật canh tác được phân tích dưới góc độ đọng và phương pháp tiếp cận hệ thống. Nguồn số liệu chính được thu thập thông qua điều tra bán thường xuyên khoảng 150 hộ nông dân trong các hệ sinh thái khác nhau tại đồng bằng sông Mêkông vào giai đoạn 1994- 1999.

Tài liệu chỉ ra rằng chi phí sản xuất/đơn vị sản xuất lúa là không thay đổi nhưng cơ cấu chi phí thì thay đổi. Tính cạnh tranh được bảo toàn nhờ vào sự thâm canh trong sản xuất lúa khi sử dụng các đầu vào và các biện pháp kỹ thuật. Trong đó sản xuất không thay đổi, chất lượng được cải thiện và sự ứng dụng các kỹ thuật đầu vào an toàn kết hợp với tổng chi phí sản xuất giảm là giải pháp quan trọng. Tuy nhiên, sự khác nhau của quan hệ sản xuất giữa các hộ xảy ra vì sự khác nhau ở trình độ kỹ thuật và các yếu tố sản xuất. Các chính sách nông nghiệp của Việt Nam trong những năm 80 cũng có những ảnh hưởng quan trọng đế sự phát triển trong sản xuất lúa ở Việt Nam.

Các kết quả thu được cho phép kết luận rằng sự phối hợp các phương pháp phân tích cuộc cách mạng trong sản xuất lúa gạo ở trạng thái động và cách tiếp cận hệ thống đã thoả mãn được mục tiêu nghiên cứu. Sự khác nhau giữa các yếu tố về diều kiện kinh tế xã hội, chính sách kỹ thuật và công tác quản lý của các nông hộ đều được ghi nhận. Hơn thế nữa, sự phân tích đó dựa trên chuỗi thời gian và phân tích theo các vùng sinh thái - nông nghiệp khác nhau. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng sự lựa chọn các vùng sinh thái nông nghiệp phù hợp sự ứng dụng của các kỹ thuật được giao, sự hoàn thiện của các dịch vụ khuyến nông cũng như chuyển giao công nghệ kỹ thuật đến với người nông dân là những giái pháp chủ yếu để giữ vững tính cạnh tranh cho xuất khẩu lúa gạo Việt Nam.

3. Huỳnh Trấn Quốc & Lê Văn Gia Nhỏ, “Đánh giá hiệu quả sản xuất lúa ở mức nông hộ và một số vấn đề ảnh hưởng đến sản xuất lúa xuất khâủ vùng Đồng bằng sông Cửu Long”, Đại học Cần Thơ Sản xuất lúa gạo truyền thống ở ĐBSCL hiện tại chủ yếu là trong nông hộ. Qui mô sản xuất bình quân của nông hộ ở đây trên dưới 3 ha (30 công). Qui mô sản xuất có

ảnh hưởng rõ rệt đến hiệu quả kinh tế (lợi nhuận/ha) thu được. Qui mô quá nhỏ không tận dụng có hiệu quả cả về nông cụ (máy làm đất, gieo hạt, bơm nước, kho chứa…) và lao động chuyên nên giá thành cao. Qui mô trang trại lớn sử dụng máy móc trong canh tác năng suất lao động coa hơn, chi phí giảm nên giá thành thjấp, hiệu quả hơn. Qui mô hiệu quả cũng khác nhau tuỳ vùng, tuỳ điều kiện cơ sở hạ tầng chung.

4. TS, Trần Tiến Khai, “Sản xuất và cung ứng lúa gạo ở mức nông hộ tại Đồng

bằng sông Cửu Long, Việt Nam giai đoạn 1995-1998”, Viện KHKTNN miền Nam, Kỷ yếu nghiên cứu khoa học, 2000

Các nghiên cứa cho thấy nông hộ sản xuất lúa ở ĐBSCL chủ yếu theo phương

thức sản xuất hàng hoá. Có 60 số hộ bán toàn bộ lúa ngay sau thu hoạch. Việc tiêu dùng gạo lại dựa vào thị trường (chợ, tiệm chuyên doanh gạo). Phư\ơng thức này có cả những ưu điểm và nhược điểm. Việc tập trung lúa hàng hoá tươi để sấy và xay sát đảm bảo chất lượng tốt nhưng cần nhiều cơ sở kho tàng, máy sấy. Nông hộ ăn gạo mua nên ít quan tâm chất lượng gao mình sản xuất. Lợi nhuận thu được cũng ít hơn. Các nông hộ có qui mô diện tích lớn sẽ tiếp tục phương thức này. 5. Viện KHKTNN MN, “Một số kết quả chọn tạo giống lúa cho vùng canh tác khó khăn ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ,” Kỷ yếu nghiên cứu khoa học năm 2000 Các thành tựu nghiên cứu chọn tạo giống lúa dã cung cấp cho nông dân trong vùng ĐBSCLcác giống lúa có đạc tính cứng cây, phù hợp với cơ giới trong thu cắt. Vấn đề chất lượng và năng suất lúa cũng là các chỉ tiêu quan trọng. Tuy nhiên, do lúa thâm canh nên sử dụng nhiưêù thuộc hoá học BVTV ảnh hưởng đến chất lượng và tiêu chuẩn gao “sạch” cả với tiêu dùng trong nước và với xuất khẩu.

6. Ths Thanh Bé, Ks Trần Thế Như Hiệp, “Kết quả so sánh hoạt động sản

xuất hệ thống canh tác lúa - tôm tại Giá Rai và Mĩ Xuyên trong hai năm 1997-1998”, Ký yếu Hội nghị khoa học - Trường ĐH Cần Thơ - 1999”

Các kết quả khảo sát mô hình canh tác lúa tôm ở Giá Rai và Mỹ Xuyên cho thấy

hiệu quả thu được của vụ tôm khá cao, bổ sung cho tổng thu và phần giảm thu của vụ lúa do năng suất thấp và ít dùng thuốc BVTV. Tuy nhiên, để nuôi tôm đòi hỏi các chi phí đàu tư cải tạo hệ thống thuỷ lợi cấp thoát nước và chống ô nhiếm môi trường. Hệ thống canh tác này thể hiện tính ưu thế như\ng cũng có nhiều hạn chế , đặc biệt là xử lý ô nhiếm môi trường và cũng còn nhiều rủi ro trong tiêu thụ tôm,.

7. Nguyễn Đình Chính và CS , “Giá cánh kéo giữa vật tư phân bón với thóc trong sản xuất lúa ở miền Bắc”, Viện Kinh tế Nông nghiệp, 2003 Các kết quả nghiên cứu cho thấy phân bón, cđặc biệt phân bón vô cơ (Ủê, lân, Kali) chiến 24- 27 % CPSX với các qui trình canh tác lúa giống mới ở miền Bắc. Biểu đồ

tăng chi phí phân bón vô cơ với tăng năng suất lúa có tỉ lệ đồng thuận trong mức độ nhất định. Các klhảo sát cho thấy mức giá phân Urê tăng lên nhiều hơnm mức tăng giá lúa khiến nông dân thu thiệt và giảm mức đầu tư phân bón trong tham canh.

8. PTS Nguyễn Đức Hưng và CTV , “Kết hợp nuôi vịt với trồng lúa tại Thừa

Thiên - Huế” Nuôi vịt kết hợp với trồng lua là có hiệu quả cao bới các tác động tương hỗ trong

lúa + Vịt: Vịt xục bùn, diệt bọ rầy không hại lúa. Trong môi trường ruộng lúa có nhiều loại thức ăn cung cấp cho vịt để giảm chi phí thức ăn nhân tạo. Tuy nhiên, phải có qui trình thích hợp mới có thể đạt hiệu quả tốt. Mức tăng thu nhập và lợi nhuận của mô hình lên 30 - 50 %

9. Kim Quốc Chính, “Dự báo khả năng xuất khẩu gạo (lúa) của Việt Nam thời

kì 2001-2010”, Nghiên cứu kinh tế -số 1, 2002 Tác giá có các phân tích tình hình xuất nhập khẩu gạo của thị trường thế giới

những năm quan trên dưới 35 - 38 triệu tấn. Dự báo Việt nam sẽ tiếp tục là quốc gia xuất khẩu gạo trong 10 - 15 năm nữa ở mức giảm dần từ 4 xuống 2 triệu tấn/ năm khi dân số tăng lên và quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất

10. PTS Nguyễn Thế Bình, “Tiếp thị và tiêu thụ lúa gạo xuất khẩu ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long”, T/c KHKTNN

Theo tác giả thì hiện nay ĐBSCL đang là một nguồn xuất khẩu gạo chính của VN,

nhưng chưa có chiến lược tiếp thị và đảm bảo xuất xứ của sản phẩm. Do vậy chất lượng bị đánh giá thấp và gia luôn thấp hơn so gạo cùng loại của quốc gia khác như Thái Lan

11. PGS.TS. Đỗ Kim Chung, “Từ marketing nông nghiệp sang marketing

thực phẩm nông sản: kinh nghiệm từ các nước châu Á”, T/c Nghiên cứu kinh tế số 291 – 8/2002

Tác giả có nhiều dẫn liệu và phân tích về thị trường cung ứng vật tư, tiêu thụ

lương thực thực phẩm của nhiều quốc gia châu Á như Thái Lan, Nhật bản, Philippin v,.v. Đâyb là một tài liệu tham khảo tốt cho các đề tài tthị trường nông sản

12. Nguyễn Khắc Thanh, “Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời

gian trước mắt”, T/c Nghiên cứu kinh tế số 310 – 3/2004 Các biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Vn như trong dự báo sẽ vẫn ở

mức 3,5 - 4,0 triệu Tấn/năm là bao gồm cả từ qui hoạch tổ chức sản xuất đến vấn đề đầu tư nghiên cứu khoa học, phát triển thị trường, xây dựng thương hiệu và tiếp thị sản phẩm

13. PGS.TS. Đỗ Kim Chung, “Hiệu quả kinh tế của chương trình phòng trừ dịch hại trong trồng lúa bằng biện pháp tổng hợp ở hai vùng ĐBSH và ĐBSCL”, T/c Khoa học kỹ thuật nông nghiệp - 2003

Tài liệu công bos kết quả khảo sát tính toán hiệu quả của các chương trình phòng trừ dịch hại tổng hợp ở cả 2 vựa lúa ĐBSông Hồng và ĐBSCL. Các phân tích cho thấy những ngưỡng hiệu quả của chương trình IPM hoàn toàn có thể áp dụng rộng rãi ở VN.

14. “10 nước sản xuất lúa gạo lớn nhất trên thế giới”, T/c Nghiên cứu kinh tế -

số 284 – 1/2002 Trong tài liệu có số liệu thống kê diện tích, năng suất và sản lượng lúa của 10

quốc gia sản xuấtd lúa nhiều nhất trên thế giới, tập trung toàn bộ ở khu vực Châu Á. Trong đó Việt Nam đứng thừ 4 sau Trung quốc, Ấn Độ, Inđônnêxia.

15. Hoàng Sơn, “Sản xuất mặt hàng lúa - Lợi thế cạnh tranh số một trong các

mặt hàng nông sản của Việt Nam”, T/c Nông nghiệp và PTNT số 12/2004 Bài viết của tác giả phân tích các lợi thế so sánh giúp nâng cao khả năng canh

tranh của sản xuất lúa VN là khí hậu nhiệt đới, kinh nghiệm sản xuất và lao động nông nghiệp rdồi dao. Tuy nhiên chúng ta còn có nhiều hạn chế về tập quán, khả năng khoa học kỹ thuậ công nghệ và cả kinh nghiệm kinh tế thị trường.

16. PGS.TS. Nguyễn Đình Long, Phạm Minh Trí và CS, “Đa dạng hoá nông nghiệp và vai trò của canh tác lúa vùng đồng bằng sông Hồng”

Một báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu của nhóm đề tài ở các địa phương

vùng ĐBSH cho thấy đan dang hoá là hướng nâng cao hiệu quả kinh t, giảm rủi ro trong SXNN nói chung cũng như cụ thể với sản xuất lúa. Tuy nhiên chức năng của sản xuất lúa không chỉ là cung cấp lương thực cho người mà còn là vấn đề môi trường, nhân văn, xã hội v.v. Chính sách đầu tư vào sản xuất nông nghiệp phải là chiến lược dài hạn.

Canh tác lúa là một nghề truyền thống trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam. Sản xuất lúa không chỉ là vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn là góp phần xuất khẩu khoảng trên dưới 4 triệu tấn gạo/năm, tạo nguồn thu ngoại tệ cân đối thu chi ngoại hối. Mặt khác, trong cơ chế thị trường hoạt động kinh tế đặt ra mục tiêu phải thu được hiệu quả kinh tế cao nhất. Trong nông nghiệp, ngoài cây lúa còn có nhiều cây trồng con nuôi cũng được biết đến và cân nhắc trong bố trí cơ cấu sản xuất. Trong thực tế ở Việt Nam, hiệu quả kinh tế của sản xuất lúa đang giảm đi một cách tương đối so với một số cây trồng con nuôi khác. Với chủ trương cho phép chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp, nhiều hộ nông dân đã mạnh dạn chuyển từ sản xuất lúa sang trồng cây khác, hoặc làm mô hình trang trại VAC thu được giá trị kinh tế cao hơn.

Vấn đề đặt ra, nếu mới chỉ nhìn nhận 1 mặt về hiệu quả kinh tế mà không đánh giá đúng vai trò và giá trị đa chức năng trong đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, cung

cấp nhu yếu phẩm cho đời sống con người cũng như các chức năng hữu ích khác của sản xuất lúa như vấn đề thu nhập kinh tế để ổn định đời sống, an ninh xã hội, môi sinh môi trường, nếp sống văn hoá lúa nước truyền thống .v.v. Sẽ là thiếu sót và dẫn đến một nguy cơ của sự bất ổn định, sai lầm trong các quyết định đầu tư phát triển. Đa chức năng trong canh tác lúa vùng Đồng bằng sông Hồng đã được tién hành nghiên cứu từ năm 2001 đến 2003 khẳng định vai trò to lớn của canh tác lúa ở vùng ĐBSH trong đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, cung cấp nhu yếu phẩm cho đời sống con người cũng như các chức năng hữu ích khác như vấn đề thu nhập kinh tế để ổn định đời sống, an ninh xã hội, môi sinh môi trường, nếp sống văn hoá lúa nước truyền thống .v.v., ngoài ra còn chức năng tham gia hội nhập quốc tế (gạo xuất khẩu).

17. TS. Ngô Văn Hải và cộng sự, “Thị hiếu tiêu dùng gạo, thịt lợn và gỗ ván dăm”

Kết quả nghiên cứu đề tài cho thấy nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng gạo, thịt lợn và cả gỗ ván dăm ở nước ta trong những năm gần đây thay đổi rõ rệt. Nhu cầu lượng gạo tiêu thụ bình quân trên nhân khẩu giảm chỉ còn 120 - 140 kr/năm với nông thôn và 80 - 95 kg/năm với thành thị nhưng yêu cầu chất lượngcao hơn. Tương tự nhu cầu tiêu dùng thịt lợn giảm và được thay thế bằng các thực phẩm chất lượng cao hơn. Nhu cầu gỗ ván dăm nhân tạo tăng cả chất lương (nhập ngoạidễ tiêu thụ hơn) và số lượng. Các dự báo cho thấy nếu duy trì sản suất lúa như hiện tại thì Vn còn nhiều tiềm năng xuất khẩu gạo, thịt lơn và nhập các thực phẩm khác ( thịt bò, sữa …)

18. KS.Nguyễn Đình Chính và CS, “Các nhân tố ảnh hưởng đến giá thành sản xuất lúa”, 2004 – 2005 (Đề tài cấp Bộ)

Các nhân tố ảnh hưởng đến giá thành sản xuất lúa của VN là giá cả vật tư đầu

vào (phân bón, giống, điện nước, xăng dầu,…), giá công lao động tăng lên do mức tăng năng suất lao động và thu nhập bình quân của xã hội tăng lên.

19. GS. Vũ Tuyên Hoàng, “Một số ý kiến xây dựng các diện tích lúa gạo xuất khẩu tại ĐBSH”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học về quy hoạch phát triển vùng lúa hàng hoá chất lượng cao – tại Nam Định 1999

Giáo sư Vũ Tuyên Hoàng phân tích và đưa ra một số biện pháp xây dựng vùng lúa xuất khẩu ở ĐBSH trên cơ sở có qui hoạch và tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng tốt (chủ động tươid tiêu, canh tác cơ giới, .v.v.) và chủ yếu nên sản xuấtd các giống chất lượng gạo thơm ngon nhờ khí hậu đặc thù của miền Bắc.

20. Lưu Thanh Đức Hải, “Vấn đề hòa hợp thị trường lúa gạo ĐBSCL. Kết quả của chính sách tự do hóa thị trường lương thực ở VN”, Khoa kinh tế - Đại học Cần Thơ

Chuyên đề này phân tích sự chênh lệch giá giữa các vùng của thị trường lúa gạo ĐBSCL để đánh giá tác động của các chính sách tự do hoá thương mại đối với hoạt động của thị trường này. Kết quả của các chính sách được tiến hành trong hai thập kỉ vừa qua là rất ấn tượng. Hệ thống thị trường lúa gạo ở ĐBSCL có đặc tính là cạnh tranh. Giá cả có tính đồng nhất cao và hoà hợp với giá xuất khẩu được qui định. Tuy nhiên, giá cả ở các vùng khác và nhất là ở vùng phía Bắc có mức độ hòa hợp rất thấp so với giá cả ở các vùng phía Nam. Thương nhân ở phía Nam đáp ứng được nhu cầu địa phương và giao dịch với các Công ty lương thực Nhà Nước để xuất khẩu cũng như buôn bán với phía Bắc. Như vậy, các hoạt động thương mại đường dài nếu không có lãi sẽ không thực hiện được. Hơn nữa, các Công ty lương thực Nhà Nước sở hữu hầu hết loại giấy phép xuất khẩu (quota). Như vậy, ta có thể thấy rằng dù đã có những thay đổi sâu sắc, quá trình tự do hóa thương mại vẫn còn phải đối mặt với nhiều thử thách. Nhất là quá trình gia nhập WTO của VN.

21. Võ Thành Danh, “Duy trì nền sản xuất lúa bền vững”, Đại học Cần Thơ

Mục tiêu chủ yếu của Tài liệu này là ước lượng hàm cung cho sản xuất lúa ở Việt Nam. Mô hình cung động điều chỉnh từng phần và mô hình dựa trên giả thuyết mong đợi hợp lý được sử dụng để lựa chọn hàm cung thích hợp cho sản xuất lúa với các giả thuyết giá mong đợi khác nhau. Hàm cung của giá lúa thặng dư thị trường được rút ra từ các thông số ước lượng của các mô hình cung này. Kết quả cho thấy nông dân trồng lúa dựa trên mong đợi về giá cả và quyết định trồng lúa dựa trên những hông tin có được trong quá khứ. Mô hình cung dựa trên giả thuyết mong đợi hợp lí với sự hình thành mong đợi theo lí thuyết giá Cobweb được xem là mô hình kinh tế lượng hợp lí trong các mô hình cung đã được kiểm tra. Kết quả cho thấy sản lượng cung và giá lúa thăng dư thị trường có phản ứng tích cực với những mong đợi về giá. Đối với các chương trình Nhà Nước, các biến về chính sách có phản ứng tích cực với sản xuất lúa. Yếu tố thể chế của hệ thống trách nhiệm hộ gia đình không đóng góp gì như mong đợi trong việc cải thiện sản xuất lúa. Kết quả là các yếu tố khác bao gồm tiến bộ về công nghệ và những quy định của thị trường cần được xem như các công cụ tiềm năng để duy trì sản xuất lúa. Mong đợi về giá cả đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định sản xuất lúa của người nông dân trồng lúa. Chính sách về giá lúa hợp lí là một giải pháp được lựa chọn để tăng cường sản xuất gạo tại Việt Nam.

22. Ngành hàng lúa gạo Việt Nam - Từ sản xuất đến tiêu dùng. Chương trình hỗ trợ ngành nông nghiệp APS, DANIDA - 2004

Tài liệu là một công trình nghiên cứu về ngành hàng lúa gạoh của Việt nam tử trồng trọt đến thu hoạch chế biến và tiêu thụ. Đây là kết quả dự án nghiên cứu do ÁP và

DANIDA tài trợ. Đây cũng là một tài liệu tham khảo tôtá trong nghiên cứu liên quan đến các vấn đề KTXH của ngành hàng lúa gạo VN

23. Nghiên cứu phát triển gạo ở Việt Nam

Nguyễn Văn Bộ. Kỷ yếu Hội thảo lúa gạo Mê Kông. 15-17/10/2004. TPHCM

Các phân tích và giải pháp được đưa ra trong bài tham luận tại Hội thảo cũng tươpng đối thống nhất với nhiều nghiên cứu khác về vấn đề xác định qui hoạch sản xuất dựa trên hiệu quả kinh tế và lợi ích xã hội. Các giải pháp về đầu tư nghiên cứu khoa học kỹ thuật, khuyến nông, phát triển thị trường .v.v.

24. Gạo với đời sống và văn hóa của nhân dân vùng lưu vực sông Mê Kông Đào Trọng Tu. Kỷ yếu Hội thảo lúa gạo Mê Kông. 15-17/10/2004. TPHCM

Tác giả cho rằng việc di cư đến vùng ĐBSCL liên quan đến nghề sản xuất lúa.

Với các nguồn phù sa màu mỡ của 9 đầu sông (Cửu Long Giang) đã đem lại cho ĐBSCL những ưu đãi đặc biệt về màu mỡ trong sản xuất lúa kiểu”làm chơi ăn thật”. Với cánh đồng thẳng cánh cò bay và dân cư còn thưa đã tạo cho dân Nam Bộ các sắc thái văn hoá lúa nước ĐBSCL vừa thư thái, ung dung , vừa nhàn tản yêu đ[if. Trong nghiên cứu về nông nghiệp, về sản xuất lúa của ĐBSCL rõ ràng phải luôn cần đề cập đến những đặc diểm này.

25. Giống lúa chịu mặn cho vùng đồng bằng châu thổ sông Mêkông

Bùi Chí Bửu và Nguyễn Thị Lạng.

Kỷ yếu Hội thảo lúa gạo Mê Kông. 15-17/10/2004. TPHCM

Tài liệu giới thiêu đặc điểm sinh học và tính năng sản xuất của các giống lúa chịu

mặn được chọn tạo bởi các công trình nghiên cứu của Viện lúa ĐBSCLđể các nhà kỹ thuật, các chuyên gia kinh tế và nông dân có thể biết được và áp dụng trong nghiên cứu và sản xuất

26. Phát triển giống lúa lai giàu vi chất dinh dưỡng

Trần Thị Cúc Hoa và các TG. Kỷ yếu Hội thảo lúa gạo Mê Kông. 15-17/10/2004. TPHCM

Tài liệu đề cấp đến các vấn đề cần thiết trong phát trểin lúa lai giàu vi chất dinh dưỡng trên cơ sở phân tích các đặc tính sinh học và năng suất nông nghiệp của giống laas này. Đây cũng là các căn cứ cần thiết trong xây dựng qui trình sản xuất lúa lai chất lương cao

27. Kế hoạch sản xuất gạo ở Việt Nam:

Vũ Năng Dũng. Kỷ yếu Hội thảo lúa gạo Mê Kông. 15-17/10/2004. TPHCM

Bản báo cáo đưa ra các luận cứ khoa học trong xây dựng qui hoạch và kế hoạch phát triển lúa chất lượng cao (lúa thơm, lúa dẻo…) của các vùng trong cả nư\ớc Việt Nam.

Tài liệu này rất có giá trị tham khảo trong nghiên cứu giá thành sản xuất lúa ở các địa phương trong cả nước.

28. Sản xuất lúa gạo vùng đồng bằng sông Mêkông (Việt Nam): xu hướng phát triển và đa dạng hóa

Nguyễn Văn Nhân, Đỗ Mạnh Hùng, & CS. Kỷ yếu Hội thảo lúa gạo Mê Kông. 15-17/10/2004. TPHCM

Báo cáo phân tích thực trạng sản xuất lúa của Vn ở ĐBSCL và dự báo trong tương lai sẽ có các sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất sdang trồng cây ăn quả, thực phẩm do nhu cầu xã hội và hiệu quả sản xuất trong kinh tế thị trường

29. Điều hoà quan hệ trong sản xuất lúa gạo - thủy sản vùng ven biển khu vực đồng bằng châu thổ sông Mê Kông - những tác động tới đời sống nông thôn.

C.T. Hoanh, T.P. Tuong & CS. Kỷ yếu Hội thảo lúa gạo Mê Kông. 15-17/10/2004. TPHCM

Trong kinh tế thị trường thì việc chuyển dịch cơ câu sản xuất nhằm tăng hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp là tất yếu. Trong điều kiện cho phép thì nuôi trồng thuỷ luôn cho hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn so trồng lúa do chi phí thường xuyên ít hơn, giá trị sản lương thu được cao hơn. Tuy nhiên, mọi nhu cầu của đời sống xã hội đều có cân bằng cung cầu cho nên điều hòa và xác định một tỉ lệ chuyển dịch hợp lý trong sản xuất lúa - thuỷ sản ở vùng ĐBSCL là cần thiết và cũng là để giảm thiểu các rủi ro trong sản xuất và tiêu thụ NSHH.

31. Quản lý dinh dưỡng tổng hợp đối với lúa gạo vùng ĐB châu thổ sông Hồng

Trần Thúc Sơn, và CS. Kỷ yếu Hội thảo lúa gạo Mê Kông. 15-17/10/2004. TPHCM

Kết quả nghiên cứu về quản lý điều kiện dinh dưỡng của đất ruộng vùng ĐBSH do quá trình canh tác lúa thâm canh theo cách lạm dụng phân bón vô cơ và tăng vụ liên tục là không có lợi cho độ phì của đật. Công thực canh tác của đất lúa vùng ĐBSHH cần được cải tiến để phù hợp với hướng thâm canh sản xuất bền vững và hiệu quả lâu dài

31. Tác động của quản lý dịch hại tổng hợp (lúa) khu vực phía Nam (Việt Nam)

Trương Ngọc Chi. Kỷ yếu Hội thảo lúa gạo Mê Kông. 15-17/10/2004. TPHCM Bài viết phân tích những tác động tích cực và mặt hạn chế của việc quản lý dịch

hại tổng hợp ở khu vực phía nam (từ duyên hải miến Trung trở vào). Hiệu quả của quản lý dịch hại tổng hợp là khá rõ và cần được lập trình phố biến một cách bài bản.

32. Quản lý các giống lúa kháng rầy nâu ở đồng bằng sông Mêkông

Lương Minh Châu. Kỷ yếu Hội thảo lúa gạo Mê Kông. 15-17/10/2004. TPHCM Báo cáo trình bày kết quả nghjiên cứu khảo sát một số giống lúa kháng rầy ở

ĐBSCL. Hiệu quả kháng rầy cũng có xu hướng suy giảm trong sự chọn lọc và thich ứng tự nhiên. Do vậy trong sản xuất luôn đề cập đến áp dụng IPM một chác hữu hiệu nhất để tăng hiệu quả SX lúa.

33. Quy hoạch quản lý nguồn lực vùng Đồng bằng sông Mêkông - Mô hình "3 giảm - 3 tăng" (Trong SX lúa)

Nguyễn Hữu Huân. Kỷ yếu Hội thảo lúa gạo Mê Kông. 15-17/10/2004. TPHCM Mô hình 3 giảm (giảm giống, giảm phân bón và thuốc trừ sâu) với 3 tăng (tăng

năng suất, tăng chất nượng và hiệu quả) trong sản xuất lúa khá rõ rệt và được nông dân ĐBSCL tiếp thu nhanh và phát huy hiệu quả rõ rệt. Các công cụ cải tiên như máy sạ hạt theo hàng đóng góp tích cực vào kết quả này

34. Sản xuất thâm canh cây lúa - tác động bất lợi đối với quản lý dịch hại tổng hợp vùng đồng bằng sông Mêkông

Nguyễn Văn Huỳnh. Kỷ yếu Hội thảo lúa gạo Mê Kông. 15-17/10/2004. TPHCM

Sản xuất thâm canh trong nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói chung càn co giống mới, tăng cường đầu tư phân bón, tăng vụ sản xuất. Các giống mới thường chưa khả năng thích nghi cao nên là cơ hội sâu bệnh phát sinh nhiều. Trong khi đó, IPM là biện pháp phòng trừ dịch bệnh chủ yếu bằng biện pháp canh tác sinh học sẽ có những mâu thuẫn với qui trình thâm canh.

Biện pháp dung hoà và tính toán mức độ châp nhận gữa 2 thái xu hương này là cần thiết.

35. Liên kết những hộ nông dân miền núi phía Bắc không có đất tới hệ thống khuyến nông để hỗ trợ tuyên truyền tiến bộ kỹ thuật (SX lúa).

Đặng Đình Quang, Nguyễn Văn Lĩnh, Phạm Thị Hạnh Thơ và các TG

Tài liệu là kết quả nghiên cứu kinh nghiệm liên kết tổ chức khuyến nông để tuyên truyền tiến bộ kho học kỹ thuật trong các hộ nông dân không đất ở miền núi phía bắc. đây là một tài liệu tham khảo trong nghiênc cưu kinh tế xã hội ở ông thôn miền núi

36. Sản xuất lúa gạo vùng đồng bằng sông Mêkông: sự khác nhau về hiệu quả sản xuất lúa gạo giữa các hộ nông dân và các yếu tố nhân quả.

Phạm Văn Biên, Trần Tiến Khai, Philippe Lebailly. Kỷ yếu Hội thảo lúa gạo Mê Kông. 15-17/10/2004. TPHCM

Công trình được công bố cho thấy có sự khác nhau rõ rệt trong sản xuất lúa với

qui mô (diện tích) khác nhau trchính sách đất đai, dồn điện đổi thửa ở vùng ĐBSCL. Một qui mô diện tích sản xuất lúa của 1 nông hộ từ 7 -10 ha trở lên vừa tăng mức độ chuyên môn hoá vừa có hiệu quả kinh tế cao (giá thành lúa thấp) (các mô hình của vùng Đồng Tháp Mười)

37. Đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của gieo thành hàng đối với các hộ trồng lúa có lao động nữ: Mô hình nghiên cứu ở làng Thới Lai, tỉnh Cần Thơ.

Trương Thị Ngọc Chi và Thelma Paris. Kỷ yếu Hội thảo lúa gạo Mê Kông. 15-17/10/2004. TPHCM

Kết quả khảo sát mô hình gieo lúa thẳng hàng ở Thới lai (Cần Thơ)cho thấy góp phần thực hiện được mô hình 3 giảm 3 tăng và đặc biệt giảm được lao động nặng nhọc của phụ nữ nông dân trong cả sạ lúa, làm cỏ v.v.Việc gieo sạ hoàn toàn có thể thưcj hiện bằng máy sạ hàng (người kéo hoặc máy lớn kéo bằng máy động lực)

38. Vai trò của hộ nông dân tiên tiến (trồng lúa) đối với việc áp dụng khoa học kỹ thuật mới ở vùng đồng bằng sông Mêkông

Nguyễn Ngọc Đễ và Kotaro Ohara. Kỷ yếu Hội thảo lúa gạo Mê Kông. 15-17/10/2004. TPHCM

Ở vùng ĐBSCL nông dân sản xuất lúa hàng hoá . Do vậy, người nông dân có thói quen áp dụng cơ giớí hoá và khoa học kỹ thuật để tăng năng năng suất và giảm nhẹ lao động chân tay. Hiệu quả kinh tế ( lợi nhuận) thu được là động lực quan trọng để áp dụng kỹ thuật mới. Nông dân vùng có thể trực tiếp tiếp thu và áp dụng các tiến bộ KHKT vào sản xuất.

39. Chính sách đổi mới với sản xuất lúa gạo ở Việt Nam

Đặng Kim Sơn. Kỷ yếu Hội thảo lúa gạo Mê Kông. 15-17/10/2004. TPHCM Tác giá phân tích hệ thống các chính sách về đất đai, nguồn vốn đâu tư, khuyến

nông và chính sách thị trường ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và xu hương phát triưển sản xuất lúa gạo của Việt nam.

Đây là một tài liệu khoa học có giá trị tham khảo rất tốt trong nghiên cứu ban hành chính sách với ngành sản xuất lúagạo nói riêng và trong sản xuất nông nghiệp nói cung

40. Thử nghiệm và triển khai máy gặt đập (lúa) mini ở Việt Nam

Trần Văn Khánh, Phan Hiêu Hiền và các tác giả - Đại học Nông lâm TP HCM

Các tác giả giới thiệu tính năng kỹ thuật và kết quả khảo nghiệm máy gặt đập mini ở Vùng ĐBSCL. Các loại máy gặt đập mini tỏ ra phù hợp với điều kiện Việt nam hơn cả về tính năng kỹ thuật như trong lượng nhẹ, dễ chế tạo và cải tiến, dễ sử dụng và hiệu quả kinh tế như giá cả vừa phải, phần động lực có thể sử dụng đa năng .v.v.

Một vài nhược điểm cần nghiên cứu chính sửa để có thể sản xuất và lưu hành máy gặt đập mini ở ĐBSCL và các vùng khác trong nước

41. Tài liệu

Tăng cường trồng các giống lúa truyền thống để đa dạng hóa các giống lúa gieo trồng, hướng tới nông nghiệp bền vững.

Lưu Ngọc Trinh.

Duy trì việc chọn lọc và lưu giữ các quĩ gen của giống lúa truyền thống đã từng thích nghi vơi điều kiện địa phương là rất hữu ích trong công tác lai tạo, tuyển chọn giống lúa. Vấn đề này là rất quan trọng với một nền sản xuất nông nghiệp bền vững lâu dài.

42. Tác động của bón phân hữu cơ và phân vi sinh lâu dài đối với độ màu mỡ của đất thông qua hệ thống canh tác Lúa - Đậu tương – Lúa

Trần Thị Ngọc Sơn, Vũ Văn Thu, Lưu Hồng Mẫn và các tác giả

Phân bón vi sinh và phân hữu cơ không chỉ cung cấp cân đối các chất dinh dưỡng cho cây trồng mà trong lâu dài nó bổ sung và duy trì một hệ vi sinh vật hữu ích giúp độ màu mỡ cho đất trồng lúa + đậu tương. Trên diện tích canh tác lúa + đậu nhưng không có bón phân hữu cơ và vi sinh thì số lượng và mức độ hoạt động của khu hệ vi sinh vật tổng hợp Nitơ cũng ít hơn va ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất các cây trồng

43. Tác động của thâm canh lúa và gieo thành hàng đối với đời sống nông thôn vùng đồng bằng sông Mêkông

Nguyễn Ngọc Đễ và các tác giả -

Thâm canh sản xuất lúa bao gồm biện pháp tăng cường mật độ và phân bón để làm cơ sở cho tăng năng suất. Tuy nhiên, thay cho việc gieo sạ vãi tự do, biện pháp gieo sạ theo hàng đã tiết kiệm được 15- 20 % lượng giống, mật độ cây được tăng cường bằng đẻ nhánh hữu hiệu tăng. Lượng phân bón sử dụng hữu ích hơn. Lợi ích kinh tế rất rõ đối với sản xuất và đời sông nông dân vùng ĐBSCL. Biện pháp gieo sạ theo hàng cần được phổ biến rộng rãi, đặc biệt trong điều kiện thâm canh lúa.

44. Hoạt động khuyến nông đối với sản xuất lúa gạo ở Việt Nam (1993 - 2003)

Tống Khiêm – Trung tâm khuyến nông quốc gia

Các hoạt động KN đối với cây lúa bao gồm việc chuyển giao hướng dẫn nông dân các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, các giống mới có năng suất cao và ổn định.Các mô hình IPM, mô hình canh tác ruộng bậc thang, canh tác kết hợp lúa vịt, lúa cá.Các công nghệ sau thu hoạch tiên tiến đều được chuyến tải đến nông ndân, đặc biệt hộ nông dân nghèo.

Kết quả tăng năng suất và sản lượng lúa, duy trì mức tăng lượng gạo xuất khẩu liên tục trong 15 năm là hiệu quả rõ nhất của hoạt động KN với sản xuất lúa gạo của VN

45. Vai trò của sản xuất lúa gạo đối với an ninh lương thực, cải thiện các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường miền núi phía Bắc.

Lê quốc doanh, Hà Đình Tuấn -

Cây lúa được trồng ở miền Bắc từ lâu đời và trong cân đối lương thực thì đa phần các địa phương miền Bắc đều có nguồn lương thực tự sản xuất cơ bản đảm bảo tiêu dùng. Tuy nhiên, chất lượng một số loại gạo miền Bắc đáp ưng nhu cầu xuất khẩu gạo sang thị trường cá tính. Do vậy, các địa phương miền Bắc, đặc biệt châu thổ sông Hống có khả năng trồng lúa để tham gia xuất khẩu và vận chuyển gạo từ ĐBSCL ra để bổ sung nhu cầu tiêu dùng. Vấn đề an ninh lương thực cần xác định trong phạm vi cả quốc gia.

46. Sản xuất lúa gạo và vấn đề đói nghèo ở đồng bằng châu thổ sông Hồng

Đào Thế Anh và Lê Đức Thịnh - Bộ môn Hệ thống canh tác - VASI

Kết quả nghiên cứu cho thấy nghề trồng lúa ở nông dân vùng ĐBSH là truyền thống, nhưng nó không tạo ra một sự thay đổi nổi bật về thu nhập. Do vậy bộ phận nông dân nghèo thì một phần đất đem chuyển nhượng lấy tiền, phần còn lại thường chỉ cấy lúa để duy trì nguồn lương thực. Do vậy, họ luôn bị đói nghèo. Trong khi đó hộ nghèo cũng không có vốn và nhiều điều kiện khác để chuyển dịch cơ cấu sản xuất đạt hiệu quả cao hơn. Đó chiúnh là ván đề nan giải của mối tương quan giữa sản xuất lúa gạo với đói nghèo ở khu vực ĐBSH

47. Lúa gạo - Môi trường và những thách thức.

Nguyễn Bảo Sơn -

Sản xuất lúa gạo ở qui mô tự cấp tự túc lương thực chưa đặt ra các vấn đề gì và do vậy sản xuất lúa gạo để tự nuôi sống đã tồn tại bao đời nay.Tuy nhiên sản xuất lúa gọ được đầu tư thâm canh với mục tiêu hàng hoá thì có khá nhiều những thách thức về suy thoái độ phì, ô nhiếm môi trường rất cần được nghiên cứutìm ra biện pháp khắc phục cho nền nông nghiệp bền vững.

48. Các giải pháp chiến lược nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo Việt Nam

TS. Nguyễn Văn Sơn – NXB Thống kê – 2000

Sản xuất và xuất khẩu lúa gạo của VN có nhiều lợi thế so sánh . Để nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo cần xác định các chỉ tiêu định tính và định lương, nhóm các giải pháp được đưa ra. Trong lâu dài , Chính phủ cần có chiến lược toàn diện trong đầu tư phát triển sản xuất lúa gạo cho tiêu dùng và xuất khẩu

49. Lúa gạo Việt Nam trước thiên niên kỷ mới - Hướng xuất khẩu

TS. Nguyễn Trung Văn – NXB chính trị quốc gia HN – 2001

Từ năm 1988 đến nay, ngành lúa gạo VN liên tục phát triển. Tuy nhiên xét trong toàn diện, lúa gạo xuất khẩu của Vn còn nhiều hạn chế, thiệt thòi. Trong thiên niên ký mới, sản xuất lứa gạo của Vn vẫn tiếp tục tham gia xuất khẩu nhưng cần có những ván đề cả trong vi mô và vĩ mô cần được đặt ra để xem xét và xac định các biện pháp cần thiết.

50. Marketing gạo - SX, chế biến, bảo quản, tiêu thụ gạo như thế nào để đạt hiệu quả cao?

Các tác giả

Lúa gạo của VN là một nông sản hàng hoá quan trọng. Do vậy, xem xét trong giac độ ngành hàng nông sản thì rõ ràng cần có quan điểm hệ thống từ sản xuất nông nghiệp, công nghệ sau thu hoạch (chế biến, bảo quản) và tiêu thụ (tieu dùng và xuất khẩu) đảm bảo hiệu quả kinh tế cao nhất. Đó là bao gồm các biện pháp kỹ thuật, quản lý, thị trường kết hợp của cả từng doanh nghiệp và phạm trù vĩ mô của Nhà nước được bàn đến trong tài liệu này.

51. Kinh doanh gạo trên thế giới

Trung tâm thông tin thương mại - Bộ Thương mại

Tập sách tổng hợp tình hinh sản xuất và kinh doanh lúa gạo củaâcc quốc gia tren thế giới. đa phần các quốc gia sản xuất lúa gạo đều trước hết để tiêu dùng trong nước (nhu cầu an ninh lương thực) rồi đến xuất khẩu. Nhiều quốc gia không có điều kiện sản xuất đủ lương thực cho tiêu dùng phải nhập khẩu. Tổng sản lượng lúa gạo thế giới khoảng 560 triệu tấn/năm, nhưng lượng gao trao đổi chỉ xấp xỉ 35 – 38 triệu tấn (trên dưới 10%) nhưng khá sôi động. Việt nam làmọt trong các quốc gia có xuất khẩu gạo trong gia đoạn vừa qua và trong thời gia dài nữa gạo vẫn được xác định là mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Do vậy nghiên cứu tình hình kinh doanh gạo của thế giới để VN có chiến lược cụ thể của mình đảm bảo sản xuất và tiêu thụ lúa gạo thu được hiệu quả nhất

52. Thị trường Mỹ và hàng nông sản xuất khẩu (gạo) của Việt Nam sau 3 năm thực thi hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ

T/chí Nông nghiệp & nông thôn, Số 2/2004

Bài viết cung cấp các tư liệu về số lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu các NSHH của Việt Nam vào thị trường Hoa Ky trong thời gian từ khi hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ được ký kết và có hiệu lực. Xu hướng tăng lên cả số lượng và giá trị là một sự khả quan. Tuy nhiên, hàng nông sản VN cũng sẽ phải đối mặt với các qui chế ngặt nghèoỷtong ngoại thương của Mỹ,nhất là trong khi VN mới chỉ đang trong tiến trình tiến tới là thành viên của WTO.

53. Nông nghiệp Việt Nam trên lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế (TL lúa gạo)

Hà Văn Chức. T/chí Nông nghiệp & nông thôn, Số 11/2003

Bài viết đưa ra các tư liệu dẫn chứng quá trình VN đang đàm phán để trở thành thành viên của WTO. Trên cơ sở đó, tác giả cũng liên hệ các qui chế của WTO về trao đổi các mặt hàng nông sản mà thực tế sản xuất nông nghiệp của VN đã phù hợp hoặc có cái chưa phù hợp cần co một tinh thần chuẩn bị chuyển đổi để chủ động thích ứng để hoà nhập và khai thác mặt tích cực cho phát triển.

54. Xúc tiến thương mại, hợp lực 4 nhà - động lức để NSXK phát triển

Nguyễn Hữu Điệp. T/chí Nông nghiệp & nông thôn, Số 4/2003

Tác giả đề cập sự liên quan của quá trình thực hiện QĐ 80 – TTg về hợp tac 4 nhà trong hỗ sản xuất nông nghiệp với vấn đề xúc tiến thương mại. Đây cũng là một vấn đề cấp thiết vì tất cả các khâu sản xuất, chế biến đến tiêu thụ của một ngành hàng nông sản nào cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng và chất lượng của nông sản xuất khẩu. Như vậy, trong chiến lược kết hợp 4 nhà thì luôn cần quán triệt đến vấn đề xúc tiến thương mại.

55. Dự báo khả năng xuất khẩu gạo của Việt Nam thời kỳ 2001 – 2010

Kim Quốc Chính. T/chí Nghiên cứu kinh tế Số 284/1-2002

Bài viết của tác giả đề cập đến tình hình sản xuất và xuất khẩu gạo của Vn 10 năm (1991 2000) và dự báo thị trường nhập khẩu của thế giới thời kỳ 2001 – 2010. Từ đó cũng phân tích cácc khía cnhj cạnh tranh xuất khẩu gạo của thế giới và khă năng xuất khẩu gạo của VN. Theo tác giả thì từ giai đoạn 2001 đến 23005, Vn xuất khẩu bình quân 4,6 triệu Tấn/năm. Giai đoạn 2006 – 2010 thì lương xuất lkhẩu gạo của Vn còn tăng lên 5,4 triệu Tấn/năm.

56. Khảo sát và đánh giá lúa ưu thế lai nhập nội và lai tạo trong nước

Nguyễn Trí Hoàn. T/chí Nông nghiệp & nông thôn, Số 3/2003

Sau khi đưa ra các số liệu và phân tích, tác giả kết luận: Các tổ hợp lúa lai mới có triển vọng là lúa lai 3 dòng HYT183 thích ứng rộng, năng suất vượt trội so đối chưng (Bo you 903 ở nhiều địa phương.Như vậy giống lúa lai Trung Quốc này trước hết phù

hợp vơi vụ mùa sớm của cac tinh miền Bắc.đề nghị Bộ NN & PTNTcho phép công nhạn tạm thời để nhân rộng vụ mùa ở các tỉnh phía Bắc.

57. Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian trước mắt

Nguyễn Khắc Thanh. T/chí Nghiên cứu kinh tế Số 310/3-2004 Bài viết đề cập kết quả xuất khẩu gạo của VN thời gian qua là rất khả quan. Tuy

nhiên còn những hạn chế về chất lượng, gía cả và khả năng tập trung hàng. Tác giả đưa ra các kiến nghị chính về biện pháp nhằm đẩy mạnh tăng cường xuất khẩu gạo để thư ngoại têàmcauf khích cung sản xuất phát triển, cải thiện điều kiện kinh tế xã hội ở nông thôn.

58. Lúa gạo đối với người nghèo & tự do hoá thương mại ở VN Oxfam Anh & Oxfam Hồng Kông - 2001 85 trang

Báo cáo kết quả của dự án nghiên cứu tác động tương hỗ của quá trình tự do hoá

thương mại (trong mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới) với vấn đề sản xuất lúa gạo của Việt Nam và sinh kế của người nghèo. Từ do hoá thương mại gia tăng xuất khẩu gạo của Việt Nam, từ đó thúc đẩy qui mô sản xuất lúa gạo tăng cả diện tích và năng suất sản lượng. Do vậy cũng tạo cơ hội cho nông dân phát triển sản xuất lúa gạovà tím kiếm được việc làm thuê trong các mùa vụ gieo trồng và thu hoạch lúa ở ĐBSCL và ĐB sông Hông. Những phát hiện khuyến nghị cho rằng tự do hoá thương mại đã ảnh hưởng khác nhau đến các hộ nông dân sản xuất đủ ăn, sản xuất thừa gạo ăn và những hộ không đất phải đi làm thuê và mua gạo ăn quanh năm. Những biến động của thị trường gạo thế giới đã ảnh hưởng trược tiếp đến giá gạo trong nước và điều này cũng ảnh hưởng rất khác nhau đến các loại hộ nông dân. Rõ ràng giá giảm là không có lợi cho người có gạo hàng hoá và có lợi hơn cho người phải mua gạo tiêu dùng, tuy nhiên đó là khi gia gạo tăng giảm hợp lý trong một mức thu nhập ổn định.

Khi giá lương thực giảm thì Chính phủ đã có chính sách kích cầu thông qua trợ cáp cho các doanh nghiệp xuất khẩu lương thực mua tạm trữ một lượng nhất định (khoảng 1 triệu Tấn). Tuy nhiên,ếố gạo tạm trữ là để xuất khẩu,do vậy giá bán gạo tiêu dùng không ảnh hưởng nhiều và như vậy chỉ một ít hộ có mức kinh tế khá, thu hoạch lượn lúa hàng hoá nhiều mới có lợi. Trong quá trình ra nhập, WTO, Chính phủ đã có những lường trước về tác động của nó đến sản xuất nông nghiệp và có các biện pháp hỗ trợ để giảm thiểu rủi ro và cải thiện sinh kế cho hộ nông dân nghèo. 59. Tài liệu tạm thời về giống lúa ... OPAL & VASI

Tài liệu này của dự án OPAL phối hợp với Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp VN (VASI) thực hiện ở 2 huyền Điện Bàn và Đại Lộc ( Quảng Nam). Kết quả thực hiện dự án nhằm cải thiện về lâu dài khả năng cung cấp giống cây trồng phù hợp với nhu cầu của người sản xuất. Củng cố vai trò của hộ nông dân và tổ chức nông dân trong ngành hàng giống lú. Ngoài ra, dự án cũng đề cấp đến hiệu quả kinh tế của hệ thống chăn nuôi

gia súc gia cầm và cac ngành khac đề đa dạng hoá thu nhập, hạn chế rủi ro cho nông dân trong sản xuất nông nghiệp.

60. Kịch bản cung cầu lúa gạo của Việt nam - Phạm Quang Diệu , Hoành, Nguyễn ngọc Quế v.v. 2002 Trung tâm Thông tin - Bộ NN & PTNT, IRRI,

Việc tính toán cân bằng cung cầu lúa gạo rât quan trọng đối với VN nhằm đạt được cả 2 mục tiêu là an ninh lương thực và duy trì xuất khẩu gạo.Mô hình cân bằng cung cầu lúa gạo cấp vùng rất hữu ích với việc qui hoạch và quyết định chính sach.

Qua phân tích cho thấy VN vấn tiếp tục xuất khẩu gạo. Vai trò chủ chốt là ĐBSCL ngày càng rõ nét. Tuy coi trọng lúa gạo là một mặt hàng XK chủ lực, nhưng ngành nông nghiệpcủa Vn vẫn kiến nghị Nhà nước duy trì một diện tích lúa khoảng 4 triệu ha và cho chuyển đổi một phần diện tích lúa sang trồng các cây khác có hiệu quả kinh tế cao hơn. Với 10 phương án (kịch ban) được đưa ra thì với sản lượng lúa từ 30 – 36 triệu tấn/năm , tiêu dùng gạo trong nước dao động 13 -14 triệu tấn. Như vậy mỗi năm Vn vẫn có thể xuất từ 2 – 4 triệu tấn gạo thương phẩm.

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.http://www.fao.org/es/ESC/en/20953/21026/21631/highlight_23001en.html, Rice Market Monitor, January 2004, Volume VII - Issue No. 1

2. http://www.irri.org/science/abstracts/021.asp, IRRI Rice Study, Developments in the Asian rice economy, Proceedings of a Workshop, 25-28 January 2000, Bangkok, Thailand