Transcript
Page 1: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

VĂN PHÒNG QUỐC HỘI

- Thông tin chuyên đề-

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HOÁ

TRUNG TÂM THÔNG TIN, THƯ VIỆN VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

- HÀ NỘI, THÁNG 3/2007 -

Page 2: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

MỤC LỤC

I. VẤN ĐỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM.......... 3 1. Thực trạng vấn đề chất lượng sản phẩm hàng hóa ở Việt Nam hiện nay ... 3 2. Hệ thống văn bản pháp luật......................................................................... 5

2.1 Các văn bản quy phạm pháp luật .......................................................... 5 2.2. Đánh giá hệ thống pháp luật và thực trạng quản lý............................. 7

3. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa ở Việt Nam..... 8 II. TÌM HIỂU MỘT SỐ QUY ĐỊNH QUỐC TẾ VÀ NƯỚC NGOÀI.............. 9

1. Một số hệ thống quản lý chất lượng trên thế giới ....................................... 9 1.1 Hệ thống đảm bảo chất lượng ISO – 9000 .......................................... 10 1.2 Hệ thống quản lý chất lượng toàn diện (TQM) ................................... 11 1.3 Hệ thống quản lý chất lượng Q-Base .................................................. 12

2. Pháp luật của một số quốc gia................................................................... 13 2.1 Luật về quản lý chất lượng và kiểm tra an toàn sản phẩm công nghiệp của Hàn Quốc ............................................................................................ 13 2.2 Luật an toàn sản phẩm của Thụy Điển................................................ 14 2.3 Luật về an toàn của các sản phẩm tiêu dùng và dịch vụ của Phần Lan................................................................................................................... 15

III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆT NAM ........................................... 18 1. Hoàn thiện hệ thống pháp lý về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa. 18 2. Phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm .......................... 19 3. Tăng cường đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức .................................................................. 20 4. Tuyên truyền, phổ biến kiến thức và hiểu biết cho người tiêu dùng......... 21

IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH DỰ THẢO LUẬT CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM HÀNG HÓA................................................................................ 22

1. Về phạm vi điều chỉnh của Luật................................................................ 22 2. Về đối tượng áp dụng Luật........................................................................ 23 3. Bồi thường thiệt hại về chất lượng............................................................ 23 4. Luật cần có các quy định để nâng cao vai trò của các tổ chức hội, hiệp hội....................................................................................................................... 24 5. Về các biện pháp chế tài được quy định trong dự án luật ......................... 24 6. Về giải thưởng chứng nhận chất lượng sản phẩm, hàng hóa .................... 24

TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................. 26

2

Page 3: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

I. VẤN ĐỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM

1. Thực trạng vấn đề chất lượng sản phẩm hàng hóa ở Việt Nam hiện nay

Đất nước ta sau 20 năm đổi mới và mở cửa đã đạt được những thành tựu rất quan trọng trên một số lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó, sự thay đổi về quan điểm và chính sách kinh tế đã đem lại những tác động tích cực đối với thị trường hàng hóa, dịch vụ trong nước với sự biến đổi rõ nét về chất và phát triển vượt bậc về lượng.

Nhìn chung, chất lượng sản phẩm do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất trong những năm gần đây ngày càng được nâng cao. Một số loại sản phẩm như: Quạt điện, dây và cáp điện, xe đạp, xi măng, vật liệu xây dựng, nhựa, hàng dệt may, giày dép… đạt chất lượng ổn định, được người tiêu dùng tin cậy, chiếm lĩnh được thị trường trong nước và tham gia xuất khẩu. Hàng hóa Việt Nam đã được xuất khẩu tới hơn 200 thị trường nước ngoài. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng liên tục và đạt mức hơn 32 tỷ USD năm 2005; kim ngạch xuất khẩu năm 2006 đạt 39,5 tỷ. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu đạt bình quân 17,5%/năm. Đến hết năm 2005, có khoảng 35.700 doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia xuất khẩu hàng hóa, tăng gấp 1.000 lần so với năm 1986. Cùng với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, nhiều doanh nghiệp đã triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế. Đến nay, cả nước có hơn 2.000 doanh nghiệp được chứng nhận áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO:9000, một số được chứng nhận theo tiêu chuẩn ISO 14.000 và các hệ thống quản lý chất lượng khác; gần 1000 doanh nghiệp đoạt Giải thưởng chất lượng Việt Nam , hàng chục doanh nghiệp đoạt Giải thưởng chất lượng Châu Á – Thái Bình Dương.

Tuy nhiên, những thay đổi tích cực nói trên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới. Thực trạng chất lượng và quản lý chất lượng các sản phẩm, hàng hóa sản xuất, lưu thông trên thị trường trong nước và xuất nhập khẩu hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Nhiều hàng hóa nội địa chưa kịp thích ứng với yêu cầu tiêu dùng cả về chất lượng, mẫu mã, giá thành. Số lượng các mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng cao còn nhỏ, chủng loại đơn điệu, khả năng cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp còn thấp; hàm lượng gia công trong nhiều hàng hóa xuất khẩu chủ lực còn cao, dẫn tới hiệu quả xuất khẩu thấp. Ngoài ra, còn phải kể đến nạn gian lận thương mại, kinh doanh hàng giả, hàng không đảm bảo chất lượng còn phổ biến, gây thiệt hại không nhỏ cho Nhà nước, người sản xuất chân chính và người tiêu dùng.

3

Page 4: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

Những vi phạm về chất lượng sản phẩm hàng hóa diễn ra hàng ngày, hàng giờ ở tất cả các lĩnh vực từ thực phẩm, dược phẩm, hóa chất đến hàng tiêu dùng….Qua kiểm tra của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, hiện nay có tới 40% phân bón NPK lưu thông trên thị trường không đảm bảo chất lượng, nhiều loại thuốc bảo vệ thực vật bị cấm sử dụng vẫn được bán công khai tại các vùng nông thôn, gây nguy hại cho con người, vật nuôi và môi trường.

Những tháng đầu năm 2007, các đoàn kiểm tra liên ngành của Cục Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa (Bộ Khoa học và Công nghệ), Cục quản lý thị trường (Bộ Thương mại – nay là Bộ Công Thương) đã tăng cường kiểm tra việc sản xuất, lưu thông sản phẩm hàng hóa trên thị trường phục vụ Tết Nguyên đán và đã phát hiện liên tiếp các sai phạm về chất lượng sản phẩm hàng hóa khiến người tiêu dùng không khỏi lo lắng. Theo thông tin từ đoàn kiểm tra liên ngành số 6 kiểm tra tại Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An cho thấy, sản phẩm kém chất lượng có xu hướng dịch chuyển về các vùng nông thôn. Qua kiểm tra, đoàn đã phát hiện và tịch thu 290kg bánh phở chứa phooc môn tại một cơ sở sản xuất tại thị xã Bỉm Sơn, Thanh Hóa; tạm giữ 155kg hạt dưa nhuộm phẩm màu công nghiệp; tại Công ty Cổ phần Thanh Hoa – Sông Hàn, đoàn đã phát hiện một số sản phẩm rượu, bánh của cơ sở này không có nhãn phụ, một số mặt hàng trong nước sản xuất ghi nhãn chưa đủ nội dung, không có giấy phép kinh doanh…Lực lượng liên ngành tại Thanh Hóa đã kiểm tra 2.246 vụ, chuyển khởi tố hình sự 329 vụ, xử lý 1.906 vụ buôn lậu, buôn hàng cấm, phạt hành chính 6,5 tỷ đồng; kiểm tra xử lý 2.026 vụ kinh doanh hàng giả, kém chất lượng, phạt 1,45 tỷ đồng. Tại Hà Nội, qua kiểm tra một số cơ sở sản xuất, kinh doanh cho thấy, nhiều cửa hàng bán hạt dẻ cười, mì chính đóng thiếu khối lượng, hết hạn sử dụng. Tình trạng này cũng lặp lại khi đoàn kiểm tra tại quầy giới thiệu hàng hóa phố Hàng Khoai của Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà Nội. Nhiều mặt hàng như mì chính, hạt tiêu, hạt dẻ cười do quầy hàng tự đóng gói đều thiếu khối lượng. Đặc biệt, tại công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ Hoàng Hải (kinh doanh hàng điện tử), đoàn kiểm tra đã tạm giữ 2 tivi plasma, 4 máy điều hòa, 5 tủ lạnh là hàng nhập khẩu nhưng không có tem phụ và không có tem nhập khẩu. Đoàn kiểm tra cũng phát hiện nhiều trường hợp buôn bán pháo nổ, pháo diêm sản xuất từ Trung Quốc với số lượng lớn. Chỉ tính một vụ khám xét tại Chợ Long Biên, Chi Cục Quản lý thị trường Hà Nội đã phát hiện và thu giữ gần 298.000 quả pháo sản xuất từ Trung Quốc. Đoàn kiểm tra liên ngành số 6 tại Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An cũng thu giữ 19 kg pháo các loại.

Trên thực tế hiện nay, có một hiện tượng đáng lo ngại vẫn xảy ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng và việc quản lý chất lượng sản phẩm

4

Page 5: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

hàng hóa hiện nay là việc “núp bóng” danh hiệu. Nhiều loại hội chợ đã được tổ chức tùy tiện, tổ chức bình chọn sản phẩm để trao những danh hiệu về chất lượng nhưng nặng về mua bán danh mà bỏ qua các yêu cầu về chất lượng của sản phẩm. Nhiều đơn vị chỉ cần bỏ ra một khoản tiền tham gia hội chợ là nhận được những chiếc “cúp chất lượng”, “Bằng chứng nhận chất lượng” và coi đây là thước đo và sự bảo lãnh về chất lượng đối với hàng hóa của mình. Thậm chí, có một số tổ chức nước ngoài còn mời gọi doanh nghiệp Việt Nam đăng ký để được chứng nhận chất lượng này nọ, mang tầm quốc tế. Nhưng thực ra để nhận cúp, giấy chứng nhận ấy, doanh nghiệp chỉ cần phải làm một bộ hồ sơ hết sức đơn giản nhưng phải nộp vài ngàn đô la, mua vé máy bay, bay sang nhận về. Đây thực chất là một hành vi đánh lừa người tiêu dùng, tiếp tay cho nạn hàng giả, hàng kém chất lượng.

2. Hệ thống văn bản pháp luật

2.1 Các văn bản quy phạm pháp luật

Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề chất lượng sản phẩm hàng hoá hiện hành bao gồm:

Pháp lệnh Chất lượng hàng hóa số 18/1999/PL-UBTVQH10 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 13 tháng 1 năm 2000.

Nghị định số 179/2004/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ quy định quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

Nghị định số 126/2005/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2005 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Nghị định số 95/2007/NĐ-CP ngày 04 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 126/2005/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2005 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Quyết định số 41/2007/QĐ-BNN ngày 15 tháng 5 năm 2007 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về việc ban hành Quy định chứng nhận chất lượng giống cây trồng phù hợp tiêu chuẩn.

Quyết định số 12/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày 08 tháng 5 năm 2007 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội về việc chỉ định tổ chức kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

5

Page 6: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

Quyết định số 37/2007/QĐ-BNN ngày 24 tháng 4 năm 2007 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về việc ban hành Quy định khảo nghiệm, công nhận và đặt tên phân bón mới.

Quyết định số 36/2007/QĐ-BNN ngày 24 tháng 4 nă 2007 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về việc ban hành quy định sản xuất, kinh doanh và sử dụng phân bón.

Thông tư số 05/2007/TT-BYT ngày 07 tháng 3 năm 2007 của Bộ Y tế hướng dẫn về điều kiện và thủ tục chỉ định tổ chức thực hiện kiểm tra nhà nước về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm nhập khẩu.

Quyết định số 03/2007/QĐ-BNN ngày 19 tháng 01 năm 2007 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về việc ban hành “Quy định công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, hàng hóa đặc thù chuyên ngành nông nghiệp”.

Quyết định số 26/2006/QĐ-BKHCN ngày 18 tháng 12 năm 2006 của Bộ Khoa học và Công nghệ về việc ban hành Quy định về trách nhiệm tổ chức thực hiện việc kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa lưu thông trên thị trường trong nước và xuất khẩu, nhập khẩu.

Quyết định số 50/2006/QĐ-TTg ngày 07 tháng 3 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Danh mục sản phẩm, hàng hóa phải kiểm tra về chất lượng.

Quyết định số 03/2006/QĐ-BKHCN ngày 10 tháng 01 năm 2006 của Bộ Khoa học và Công nghệ về việc ban hành “Quy định về công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, hàng hóa”.

Quyết định số 04/2006/QĐ-BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ về việc ban hành “Quy định về nội dung, thủ tục công bố sản phẩm, hàng hóa phù hợp tiêu chuẩn, pháp quy kỹ thuật”.

Thông tư số 02/2006/TT-BKHCN ngày 10 tháng 01 năm 2006 của bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn về điều kiện và thủ tục chỉ định tổ chức thực hiện kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật Việt Nam số 68/2006/QH11 ban hành ngày 12 tháng 7 năm 2006

Nghị định số 127/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật

Nghị định 89/2006/NĐ-CP ngày 30 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về nhãn hàng hóa

6

Page 7: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

Thông tư số 09/2007/TT-BKHCN ngày 06 tháng 4 năm 2007 của Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ về nhãn hàng hoá

2.2. Đánh giá hệ thống pháp luật và thực trạng quản lý

Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về quản lý chất lượng như Pháp lệnh Chất lượng hàng hóa năm 1990 và Pháp lệnh Chất lượng hàng hóa (sửa đổi) năm 1999; Nghị định số 86/CP ngày 08 tháng 12 năm 1995 của Chính phủ quy định phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa và Nghị định số 179/2004/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ quy định quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, triển khai hoạt động quản lý chất lượng. Các Bộ, ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng đã ban hành các văn bản hướng dẫn về quản lý chất lượng hàng hóa trong lĩnh vực, địa bàn quản lý được phân công.

Với nguồn cơ bản của hoạt động quản lý chất lượng là Pháp lệnh Chất lượng hàng hóa năm 1999 và gần 140 văn bản các cấp hướng dẫn thi hành và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này đến nay đã không còn phù hợp với thực tiễn phát triển trong nước và thông lệ quốc tế.

Thực tiễn thi hành pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa ở nước ta từ năm 1999 đến nay cho thấy hệ thống pháp luật về lĩnh vực này tuy đã được xây dựng nhưng chưa đầy đủ, phân công trách nhiệm quản lý một số đối tượng còn dàn trải và chưa phù hợp mục đích quản lý (an toàn, vệ sinh, bảo vệ sức khỏe, bảo vệ môi trường), một số lĩnh vực cụ thể còn chồng chéo trong hoạt động thực tiễn, chưa tiếp thu và áp dụng kịp thời khoa học quản lý tiên tiến vào hoạt động quản lý chất lượng. Có thể nêu một số điểm bất cập như sau:

- Chính sách và giải pháp của Nhà nước về chất lượng chưa đủ mạnh để khuyến khích nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa sản xuất của Việt Nam, tạo động lực và môi trường cho sự phát triển sản xuất trên cơ sở đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp.

- Chưa phân định rõ trách nhiệm về chất lượng hàng hóa giữa người sản xuất, người nhập khẩu và người bán hàng; xử lý vi phạm pháp luật về chất lượng hàng hóa chưa đủ mạnh và kém tác dụng phòng ngừa, ngăn chặn; chưa làm tốt trách nhiệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

7

Page 8: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

- Hoạt động đánh giá chứng nhận chất lượng triển khai khá chậm, kết quả còn nhỏ bé, không tương xứng với hoạt động đánh giá chứng nhận hệ thống quản lý.

- Hoạt động kiểm tra chất lượng hàng hóa nhập khẩu hiện nay hầu như chỉ được thực hiện tại nơi đến (tại cửa khẩu của Việt Nam), là hình thức lạc hậu so với hoạt động kiểm tra từ nơi đi (tại nới sản xuất ở nước ngoài). Kiểm tra tại nơi đến là nguyên nhân gây ách tắc hàng hóa tại cửa khẩu, và khi hàng hóa không đủ điều kiện nhập khẩu, việc tái chế hoặc tái xuất hàng hóa sẽ gây phiền phức về thủ tục và tổn thất về kinh tế cho doanh nghiệp.

- Công tác kiểm tra chất lượng hàng hóa trên thị trường chưa tốt, việc tổ chức các hoạt động phối hợp giữa nhiều cơ quan quản lý lĩnh vực chuyên ngành còn kém hiệu quả, nhất là trong điều kiện chưa quản lý được hoàn toàn việc nhập khẩu tiểu ngạch và nhập lậu hàng hóa không an toàn (gia cầm, sữa và một số thực phẩm chế biến, hoa quả, nông sản, đồ chơi trẻ em, đồ điện gia dụng…)

- Việc xã hội hóa các hoạt động dịch vụ về chất lượng diễn ra chậm và kém cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, năng lực kỹ thuật phục vụ nhiệm vụ nghiên cứu phát triển chất lượng sản phẩm hàng hóa và phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước còn hạn chế, gây cản trở không nhỏ đối với hoạt động về chất lượng và quan hệ hợp tác kinh tế với bên ngoài. Một số nơi còn tồn tại tình trạng khép kín, cục bộ trong việc tận dụng năng lực kỹ thuật thử nghiệm của bên ngoài, chưa tách bạch bộ máy quản lý với các tổ chức sự nghiệp kỹ thuật, không phù hợp với tiến trình cải cách hành chính hiện nay.

3. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa ở Việt Nam

Trong đời sống xã hội, trong giao lưu kinh tế, chất lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ có vai trò hết sức quan trọng và đang trở thành một thách thức lớn đối với các quốc gia. Trong cuộc cạnh tranh ở quy mô toàn cầu hiện nay chất lượng đã trở thành yếu tố then chốt. Tiêu chuẩn và chất lượng không những là chìa khóa để mở cửa các thị trường khó tính mà tiêu chuẩn và chất lượng còn là cái khóa để khóa cửa thị trường nội địa, bảo vệ nền sản xuất trong nước, bảo vệ người tiêu dùng.

Vấn đề chất lượng sản phẩm hàng hóa hiện nay đang là vấn đề nóng nhất, đặc biệt là lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người tiêu dùng; các loại sản phẩm hàng hóa kém chất lượng được bán công khai đã gây thiệt hại lớn cho Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng.

8

Page 9: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

Trong khi đó, các lực lượng quản lý còn chồng chéo chức năng, nhiệm vụ nên hiệu quả quản lý chưa cao.

Từ thực trạng vấn đề chất lượng sản phẩm hàng hóa và và hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa ở Việt Nam thời gian qua cho thấy việc nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa ở Việt Nam hiện nay thật sự đang là một trong những yêu cầu mang tính cấp thiết. Nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa là để đảm bảo an toàn cho sử dụng và tiêu dùng, an toàn về sức khỏe và tính mạng của người, động thực vật, tài sản và môi trường, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Sản phẩm, hàng hóa phải được thường xuyên nâng cao chất lượng, thực chất là nâng cao mức độ đáp ứng nhu cầu kinh tế - xã hội của nền sản xuất, từ đó đảm bảo sự phát triển có hiệu quả và bền vững của từng nhà sản xuất, từng ngành và toàn bộ nền sản xuất của quốc gia.

Mặt khác, Việt Nam đã chính thức được kết nạp là thành viên của WTO, các sản phẩm hàng hóa của các doanh nghiệp chắc chắn sẽ phải đối đầu với một sự cạnh tranh quyết liệt; muốn sống còn và phát triển bền vững, các doanh nghiệp phải đảm bảo có được sản phẩm có chất lượng tốt để nâng cao được khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế.

Gia nhập WTO đồng nghĩa với hàng rào thuế quan giữa các quốc gia sẽ được dỡ bỏ dần theo lộ trình, thay vào đó là các hàng rào kỹ thuật trong thương mại sẽ được dựng lên. Đây là cách làm duy nhất và tất yếu để các nước có thể bảo vệ người tiêu dùng, lợi ích quốc gia, sản xuất trong nước…nhưng nó cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp, đối với sản phẩm hàng hóa sản xuất trong nước. Xét về lâu dài, trước áp lực cạnh tranh, chúng ta cần thực hiện đồng loạt các biện pháp đổi mới về công nghệ, nhân lực, về chính sách, pháp luật để nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, từ đó sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới.

II. TÌM HIỂU MỘT SỐ QUY ĐỊNH QUỐC TẾ VÀ NƯỚC NGOÀI

1. Một số hệ thống quản lý chất lượng trên thế giới

Trên thế giới hiện nay các nhà nghiên cứu chất lượng đã xây dựng nhiều mô hình hệ thống quản lý chất lượng khác nhau để đáp ứng các mục tiêu và quy mô khác nhau của doanh nghiệp. Trong số các hệ thống quản lý chất lượng này, hệ thống quản lý chất lượng toàn diện (TQM), hệ thống đảm bảo chất lượng ISO-9000, hệ thống chất lượng Q-Base…được nhiều nước trên thế giới áp dụng và đã mang lại hiệu quả đáng kể.

9

Page 10: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

Tùy theo điều kiện và khả năng thực tế, các doanh nghiệp có thể tự nghiên cứu, xem xét để chọn lựa áp dụng mô hình hệ thống quản lý chất lượng phù hợp và mang lại hiệu quả cao nhất.

1.1 Hệ thống đảm bảo chất lượng ISO – 9000

ISO- 9000 là bộ tiêu chuẩn do Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa ban hành nhằm đưa ra các chuẩn mực cho hệ thống quản lý chất lượng và có thể áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Nó đề cập đến các lĩnh vực chủ yếu trong quản lý chất lượng: Chính sách về chỉ đạo chất lượng, nghiên cứu thị trường, thiết kế triển khai sản phẩm và quá trình cung ứng, kiểm soát quá trình, bao gói, phân phối, dịch vụ sau khi bán hàng, xem xét đánh giá nội bộ, đào tạo…ISO-9000 là tập hợp các kinh nghiệm quản lý tốt nhất đã được thực thi ở nhiều quốc gia, khu vực và được chấp nhận thành tiêu chuẩn quốc gia của nhiều nước. Chứng chỉ về sự phù hợp với ISO-9000 là giấy thông hành để các doanh nghiệp vào được các thị trường chủ yếu trên thế giới. ISO-9000 được áp dụng trong 4 tình huống sau:

- Hướng dẫn để quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp: Doanh nghiệp áp dụng hệ thống chất lượng để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, thực hiện các yêu cầu đối với chất lượng sản phẩm một cách tiết kiệm nhất.

- Theo hợp đồng giữa doanh nghiệp và khách hàng: Khách hàng đòi hỏi doanh nghiệp phải áp dụng mô hình đảm bảo chất lượng cụ thể trong bộ ISO-9000 để đảm bảo cung cấp sản phẩm đáp ứng yêu cầu.

- Đánh giá và thừa nhận của bên thứ hai: Khách hàng đánh giá hệ thống chất lượng của doanh nghiệp.

- Chứng nhận của bên thứ ba: Hệ thống đảm bảo chất lượng của doanh nghiệp được Tổ chức chứng nhận (bên thứ ba) đánh giá và cấp chứng chỉ.

Bộ ISO-9000 gồm 17 tiêu chuẩn theo các chủ đề, riêng phần các mô hình đảm bảo chất lượng có các tiêu chuẩn sau:

- ISO-9000: 1994 Hệ thống chất lượng, mô hình đảm bảo chất lượng trong thiết kế, triển khai, sản xuất, lắp đặt và dịch vụ.

- ISO-9002: 1994 Hệ thống chất lượng, mô hình đảm bảo chất lượng trong sản xuất, lắp đặt và dịch vụ.

- ISO-9003: 1994 Hệ thống chất lượng, mô hình đảm bảo chất lượng trong kiểm tra và thử nghiệm cuối cùng.

10

Page 11: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

- ISO-9004: 1994 Các tiêu chuẩn quản trị chất lượng và đảm bảo chất lượng – hướng dẫn sử dụng.

Trong ISO-9001 có khoảng 230 yêu cầu và được cô đọng thành 10 yêu cầu: Nhiệm vụ và mục đích của tổ chức; hệ thống quản lý; các yêu cầu của khách hàng; quản lý các quy trình làm việc; các nhập lượng của quy trình; các quy trình phát triển công việc; kiểm soát các quy trình; kết quả xử lý; cải tiến các quy trình làm việc; bảo đảm các quy trình làm việc.

1.2 Hệ thống quản lý chất lượng toàn diện (TQM)

Lý thuyết về quản lý chất lượng toàn diện dựa trên 3 luận điểm cơ sở:

Thứ nhất, một điều có thể coi là tiền đề là không tài nào đảm bảo được chất lượng bằng cách kiểm nghiệm, tức là dùng các biện pháp kiểm tra kỹ thuật, chất lượng cần phải nhập thân vào chế phẩm ngay từ bước nghiên cứu, thiết kế đầu tiên.

Thứ hai, các nhà khoa học trên thế giới đều nhấn mạnh rằng trong số các vấn đề có liên quan đến chất lượng chỉ có 15-20% là lỗi của những người trực tiếp thi hành và công nhận, còn 80-85% là lỗi do hệ thống quản lý sản xuất không hoàn hảo mà trách nhiệm vận hành hệ thống thuộc về Ban lãnh đạo.

Thứ ba, quá trình hình thành chất lượng bao trùm lên toàn bộ hoạt động kinh tế- sản xuất của xí nghiệp, trong đó có sự tham gia thực tế của hết thảy mọi phòng ban chức năng và toàn bộ công nhân viên của doanh nghiệp.

TQM có hai mục tiêu liên quan với nhau là: Thói quen cải tiến và kỳ vọng hoàn thiện. Kỳ vọng hoàn thiện được xem là mục tiêu chủ yếu giúp giải quyết việc giáo dục công nhân có thói quen không ngừng cải tiến sản phẩm để đạt tới sự hoàn thiện.

Các chuyên gia hàng đầu về quản lý chất lượng trên thế giới đều có chung một quan điểm thừa nhận không có con đường tắt nào dẫn tới chất lượng, không có mẹo vặt nào giúp đạt được kết quả và sự cải tiến như yêu cầu đòi hỏi. Điều này chỉ có thể đạt được bằng sự quyết tâm của toàn cơ quan thông qua việc mở rộng đào tạo và thu hút tất cả các nhân viên tham gia.

Khái niệm quản lý chất lượng toàn diện thực ra rất đơn giản. Mỗi bộ phận trong tổ chức đều có những khách hàng riêng của mình, dù ở bên trong hay bên ngoài và do đó phải xác định xem khách hàng yêu cầu những gì để sau đó tổ chức thỏa mãn chúng một cách hợp lý nhất, hình thành nội dung cách tiếp cận chất lượng toàn diện. Việc này đòi hỏi phải đáp ứng một vài điều kiện: Một hệ thống quản lý chất lượng tốt; kiểm soát bằng thống kê và tinh thần hợp tác

11

Page 12: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

nhóm. Những điều kiện này bổ sung cho nhau theo nhiều cách và yêu cầu có sự cam kết thống nhất đối với chất lượng đề ra và phải được bắt đầu từ lãnh đạo cao nhất và thấm nhuần trong toàn doanh nghiệp.

Các công đoạn trong TQM là: Am hiểu về chất lượng; cam kết và chính sách; công tác tổ chức vì chất lượng; hệ thống vì chất lượng; năng lực để đạt chất lượng; kiểm soát chất lượng; hợp tác nhóm vì chất lượng; đào tạo và huấn luyện về chất lượng; thực hiện quản lý chất lượng toàn diện.

1.3 Hệ thống quản lý chất lượng Q-Base

Hệ thống quản lý chất lượng Q-Base là hệ thống quản lý chất lượng do Tổ chức Telarc của New Zealand đưa ra. Hệ thống Q-Base sử dụng chính các nguyên tắc của ISO-9000 nhưng đơn giản hơn và dễ áp dụng hơn. Hệ thống Q-Base là lý tưởng đối với các doanh nghiệp mới chập chững trên con đường chất lượng và những doanh nghiệp nhỏ. Mặc dù đơn giản và dễ áp dụng nhưng Q-Base chứa đựng đầy đủ những yếu tố cơ bản của một hệ thống quản lý chất lượng, giúp doanh nghiệp kiểm soát được các lĩnh vực chủ chốt trong hoạt động của mình. Q-Base tập trung việc phân công trách nhiệm và giao quyền hạn cho mọi nhân viên chịu trách nhiệm về công việc của mình.

Hệ thống Q-Base đề cập đến các lĩnh vực trong quản lý chất lượng: Chính sách và chỉ đạo về chất lượng, xem xét hợp đồng với khách hàng, quá trình cung ứng, kiểm soát nguyên vật liệu, kiểm soát quá trình, kiểm soát thành phẩm, xem xét đánh giá nội bộ, kiểm soát tài liệu, đào tạo, cải tiến chất lượng.

Hệ thống Q-Base là tập hợp các kinh nghiệm quản lý chất lượng đã được thực thi tại New Zealand và một số quốc gia khác như Australia, Canada, Thụy Điển, Đan Mạch…

Hệ thống Q-Base được áp dụng trong hướng dẫn để quản lý chất lượng các doanh nghiệp; theo hợp đồng giữa doanh nghiệp và khách hàng; chứng nhận của bên thứ ba.

Việc xây dựng hệ thống quản lý chất lượng Q-Base có thể được tiến hành qua 3 giai đoạn sau:

- Phân tích tình hình và hoạch định: Lãnh đạo doanh nghiệp xác định vai trò của chất lượng, có sự cam kết về xây dựng hệ thống quản lý chất lượng, tổ chức quản lý việc xây dựng và thực hiện hệ thống chất lượng, khảo sát hệ thống kiểm soát chất lượng hiện có và thu thập các chính sách chất lượng.

12

Page 13: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

- Xây dựng hệ thống chất lượng và triển khai áp dụng: Đào tạo từng cấp về Q-Base, thực hiện chính sách chất lượng theo các yêu cầu của Q-Base, viết các thủ tục chỉ dẫn công việc, viết sổ tay chất lượng…

- Hoàn chỉnh: Doanh nghiệp tổ chức đánh giá nội bộ, đề xuất các hành động khắc phục, làm đơn xin chứng nhận….

2. Pháp luật của một số quốc gia

2.1 Luật về quản lý chất lượng và kiểm tra an toàn sản phẩm công nghiệp của Hàn Quốc

Luật về quản lý chất lượng và kiểm tra an toàn sản phẩm công nghiệp của Hàn Quốc quy định các vấn đề liên quan đến việc thiết lập và hỗ trợ quản lý chất lượng của các tập đoàn, các cơ quan và tổ chức công và các vấn đề liên quan đến việc quản lý an toàn các sản phẩm công nghiệp nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh về chất lượng của các tập đoàn, cơ quan và tổ chức công… đảm bảo an toàn và thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.

Một số quy định quan trọng của luật là:

2.1.1. Quy định về ghi nhãn

Nhãn chất lượng: Luật quy định đối với các sản phẩm công nghiệp quy định trong các Quy định của Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng mà khách hàng khó phân biệt được thành phần, tính năng và tiêu chuẩn…thì Bộ trưởng Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng sẽ xây dựng và công bố các tiêu chuẩn ghi nhãn để giúp khách hàng có thể phân biệt chúng và buộc nhà sản xuất hoặc người bán các sản phẩm công nghiệp đó phải tuân thủ các tiêu chuẩn về ghi nhãn.

Nhãn an toàn: Đối với bất kỳ sản phẩm công nghiệp nào là đối tượng phải thử an toàn đã qua thử an toàn, nhà sản xuất hoặc nhập khẩu phải gắn dấu.. chỉ rõ là sản phẩm đó đã qua thử nghiệm an toàn lên sản phẩm công nghiệp tương ứng, lên hộp đựng hàng và bao bì theo đúng quy định của Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng.

2.1.2. Quy định về thử an toàn

Bất kỳ các tổ chức, cá nhân nào (kể cả những người sản xuất các sản phẩm công nghiệp ở nước ngoài nhằm mục đích xuất khẩu vào Hàn Quốc) sản xuất các sản phẩm công nghiệp được quy định trong các quy định của Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng, là sản phẩm công nghiệp có khả năng làm tổn hại đến thân thể và cuộc sống của khách hàng, gây thiệt hại lâu dài tới tài sản của khách hàng hoặc hủy hoại môi trường, hoặc bất kỳ tổ chức,

13

Page 14: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

cá nhân nào nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp tương tự sẽ phải thực hiện việc thử an toàn do các cơ quan thử nghiệm an toàn tiến hành được Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng chỉ định.

Bất kỳ cơ quan thử an toàn nào có thể tiến hành việc thử chu kỳ các sản phẩm công nghiệp trong nhà máy hoặc kho hàng của nhà sản xuất hoặc của người nhập khẩu hoặc khi phân phối để đảm bảo rằng sản phẩm công nghiệp đã qua thử an toàn vẫn an toàn.

Tiêu chuẩn để thử an toàn: Các tiêu chuẩn thử an toàn sẽ bao gồm những nội dung cần thiết do Bộ trưởng Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng quy định đối với các sản phẩm công nghiệp là đối tượng phải thử an toàn theo những nội dung thuộc một trong các mục: Đối tượng và loại hình áp dụng; thành phần, tính năng, tiêu chuẩn và các vấn đề khác liên quan đến an toàn; phương pháp giám định; các vật cần dán và phương thức ghi nhãn. Trong trường hợp nếu tiêu chuẩn thử an toàn quy định lứa tuổi của người được phép sử dụng các sản phẩm công nghiệp tương ứng và mục đích sử dụng các sản phẩm đó thì bất kỳ nhà sản xuất, nhà nhập khẩu hoặc người bán các sản phẩm công nghiệp nào là đối tượng thử an toàn sẽ không được bán sản phẩm công nghiệp cho bất kỳ ngưừoi nào thuộc lứa tuổi không phù hợp với tiêu chuẩn thử an toàn.

Việc miễn thử an toàn: Bộ trưởng Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng có thể cho phép các sản phẩm công nghiệp là đối tượng thử an toàn thuộc một trong các trường hợp sau được miễn thử an toàn toàn bộ hoặc từng phần, theo các điều kiện được quy định trong Quy định của Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng: Các sản phẩm công nghiệp được sản xuất hoặc nhập khẩu cho mục đích nghiên cứu, phát triển hoặc tái xuất; các sản phẩm công nghiệp đã qua thử an toàn do các cơ quan thử an toàn nước ngoài tiến hành được Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng chỉ định; các sản phẩm công nghiệp đã được gắn nhãn của Cơ quan tiêu chuẩn công nghiệp Hàn Quốc theo Luật Tiêu chuẩn hóa công nghiệp; sản phẩm công nghiệp đã được cấp phê duyệt mẫu hoặc đã qua thử nghiệm và giám định được tiến hành phù hợp với các Luật và quy định dưới luật khác; các sản phẩm công nghiệp theo quy định của Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng.

2.2 Luật an toàn sản phẩm của Thụy Điển

Mục tiêu của Luật An toàn sản phẩm của Thụy Điển là nhằm đảm bảo hàng hóa và dịch vụ cung cấp không gây tổn hại cho người tiêu dùng. Luật gồm các quy định về yêu cầu an toàn đối với hàng hóa và dịch vụ; các tiêu chí

14

Page 15: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

để đánh giá độ an toàn của hàng hóa và dịch vụ; các biện pháp và sự phối kết hợp giữa nhà sản xuất, nhà phân phối và cơ quan giám sát có thẩm quyền để ngăn ngừa mối nguy hiểm do hàng hóa hoặc dịch vụ mang lại; quy định về việc xử phạt…Luật cũng quy định tương đối rõ ràng và đầy đủ về nghĩa vụ của nhà cung ứng dịch vụ hoặc sản phẩm, cụ thể như sau:

Người sản xuất cung cấp hàng hóa hoặc nhà cung ứng cung cấp dịch vụ sẽ phải cung cấp thông tin về an toàn cần thiết cho người tiêu dùng để có thể đánh giá độ tủi ro của hàng hóa và dịch vụ và bảo vệ mình tránh những rủi ro đó. Thông tin về an toàn sẽ không cần phải cung cấp nếu rủi ro đã rõ ràng.

Nhà sản xuất – người cung cấp hàng hóa nguy hiểm hoặc nhà cung ứng – người cung cấp dịch vụ nguy hiểm phải thông báo kịp thời về độ rủi ro của hàng hóa và dịch vụ và làm thế nào để phòng tránh, nếu cần thiết phải ngăn ngừa không để tai nạn xảy ra. Thông tin sẽ được cung cấp cho người có hàng hóa hoặc thực hiện dịch vụ hoặc sở hữu dịch vụ đó. Thông tin được cung cấp sao cho những người có liên quan có thể nhận thức được vấn đề và thừa nhận nó, bằng cách thông báo, quảng cáo hoặc nhà cung ứng sẽ phải sử dụng các cách trình bày khác nhau khi tiếp thị. Thông tin phải được cung cấp ở quy mô hợp lý sao cho đáp ứng yêu cầu phòng ngừa không để tai nạn xảy ra.

Để ngăn ngừa tai nạn xảy ra, nếu thấy cần thiết, nhà sản xuất cung cấp hàng hóa nguy hiểm phải nhanh chóng thu hồi hàng hóa từ các nhà phân phối đang có những hàng hóa đó. Nếu những biện pháp này không hiệu quả để ngăn ngừa tai nạn xảy ra, nhà sản xuất phải kịp thời thu hồi hàng hóa từ người tiêu dùng đang có hàng hóa đó. Việc thu hồi phải tiến hành ở quy mô hợp lý sao cho đáp ứng yêu cầu phòng ngừa không để tai nạn xảy ra. Nếu hàng hóa đặc biệt nguy hiểm, nhà sản xuất phải kịp thời tiến hành việc tiêu hủy hoặc bằng một cách khác trả lại hàng hóa không độc hại cho khách hàng để được khách hàng chấp nhận kết hợp với việc đổi hoặc trả lại hàng.

2.3 Luật về an toàn của các sản phẩm tiêu dùng và dịch vụ của Phần Lan

Luật áp dụng cho các sản phẩm tiêu dùng mà doanh nghiệp sản xuất, tiếp thị, bán ngoài thị trường hoặc cung cấp, nhập khẩu, xuất khẩu. Đạo luật này bao gồm các nội dung đáng chú ý sau:

2.3.1. Nghĩa vụ của các doanh nghiệp và những người cung cấp dịch vụ

Các doanh nghiệp và người cung cấp dịch vụ phải tuân thủ sự chú ý và các kỹ năng yêu cầu theo từng tình huống để đảm bảo một sản phẩm hoặc dịch vụ tiêu dùng không dính dáng đến sức khoẻ hoặc tài sản của người tiêu dùng

15

Page 16: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

hoặc người khác liên quan đến dịch vụ. Các doanh nghiệp và nhà cung cấp dịch vụ phải có thông tin đầy đủ và chính xác về sản phẩm hoặc dịch vụ tiêu dùng và những nguy cơ liên quan.

Nếu một doanh nghiệp hoặc người cung cấp dịch vụ biết hoặc trên cơ sở nhận thức, hiểu biết có khả năng đưa ra kết luận rằng một sản phẩm hoặc một dịch vụ tiêu dùng có liên quan đến một nguy cơ cho sức khoẻ hoặc tài sản của người tiêu dùng hoặc những người khác có liên quan phải thông báo ngay lập tức cho cơ quan có thẩm quyền giám sát tính an toàn của sản phẩm về nguy cơ đó, đồng thời báo cáo về các biện pháp đã tiến hành để xử lý mối nguy đó. Các doanh nghiệp và người cung cấp dịch vụ sẽ phối hợp với cơ quan giám sát sự an toàn của sản phẩm để ngăn ngừa nguy cơ khi có yêu cầu sau này.

Các doanh nghiệp và người cung cấp dịch vụ phải cung cấp cho người tiêu dùng những thông tin cần thiết để đánh giá nguy cơ có thể xảy ra liên quan đến các sản phẩm tiêu dùng hoặc dịch vụ. Các doanh nghiệp và những người cung cấp dịch vụ cũng phải đảm bảo rằng thông tin đã cung cấp cho người tiêu dùng là có thể hiểu được. Cơ quan kiểm tra, giám sát có thể yêu cầu một doanh nghiệp hoặc người cung cấp dịch vụ cung cấp cho người tiêu dùng các hướng dẫn sử dụng thích hợp, các chỉ dẫn khác, những cảnh báo và thông tin cần thiết khác để phòng ngừa hoặc tránh các mối nguy xảy ra liên quan đến các sản phẩm tiêu dùng và dịch vụ.

2.3.2. Quy định về cơ quan giám sát an toàn sản phẩm

Cơ quan giám sát về an toàn sản phẩm gồm:

Cơ quan quốc gia về người tiêu dùng có trách nhiệm giám sát sự tuân thủ Luật về an toàn của các sản phẩm tiêu dùng và dịch vụ, các quy định và quyết định được ban hành kèm theo, lập kế hoạch, hướng dẫn và triển khai sự giám sát đó.

Cơ quan hải quan chịu trách nhiệm giám sát việc tuân thủ Luật về an toàn của các sản phẩm tiêu dùng và dịch vụ và các quy định, quyết định được ban hành kèm theo liên quan đến nhập khẩu, xuất khẩu hoặc quá cảnh các sản phẩm tiêu dùng hoặc các sản phẩm sẽ được sử dụng cùng với việc thực hiện các dịch vụ tiêu dùng, có trách nhiệm lập kế hoặch chỉ đạo và giám sát.

Cơ quan quản lý nhà nước thuộc tỉnh có trách nhiệm giám sát việc tuân thủ Luật về an toàn của các sản phẩm tiêu dùng và dịch vụ và các quy định, quyết định được ban hành kèm theo trong phạm vi tỉnh.

Cơ quan quản lý nhà nước thuộc thành phố có trách nhiệm giám sát việc tuân thủ Luật về an toàn của các sản phẩm tiêu dùng và dịch vụ và các quy

16

Page 17: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

định, quyết định được ban hành kèm theo trong phạm vi thuộc thành phố. Trong các thành phố, Ủy ban hoặc một số tổ chức (cơ quan giám sát thành phố) cũng có trách nhiệm này.

Một số quyền hạn của cơ quan giám sát

Khi cần thiết, các cán bộ của cơ quan giám sát có quyền tiếp cận vào bất cứ khu vực nào, nhà xưởng hoặc các khu vực khác trong khi thi hành nhiệm vụ giám sát của mình, để kiểm tra và tiến hành mọi biện pháp cần thiết cho việc thi hành nhiệm vụ. Các cán bộ của cơ quan giám sát có quyền lấy mẫu các sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng để giám sát việc tuân thủ Luật về an toàn của các sản phẩm tiêu dùng và dịch vụ và các quy định, quyết định được ban hành kèm theo. Cơ quan giám sát có thể chỉ định một chuyên gia bên ngoài để lấy và phân tích các mẫu để đánh giá sự nguy hiểm.

Cơ quan quốc gia về người tiêu dùng có thể cấm một doanh nghiệp hoặc một nhà cung cấp dịch vụ không được tiếp tục sản xuất hoặc cung cấp, tiếp thị, giới thiệu, bán một sản phẩm hoặc dịch vụ tiêu dùng nguy hiểm cho sức khỏe hoặc tài sản; đồng thời, lệnh cho doanh nghiệp đó ngay lập tức hoặc bằng cách hữu hiệu phải loại bỏ các sản phẩm tiêu dùng nguy hiểm ra khỏi thị trường, và có thể buộc doanh nghiệp hoặc lệnh cho nhà cung cấp dịch vụ phải chứng minh rằng các dịch vụ tiêu dùng nguy hiểm đó không được tiếp thị ngoài thị trường nữa.

Cơ quan hải quan có thể cấm nhập khẩu một sản phẩm được sử dụng như một sản phẩm tiêu dùng hoặc thực hiện một dịch vụ tiêu dùng có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe hoặc tài sản. Khi có lệnh cấm của cơ quan hải quan, trong thời hạn quy định doanh nghiệp hoặc nhà cung cấp dịch vụ phải đưa ra giải trình làm thế nào để loại trừ các sản phẩm tiêu dùng nguy hiểm ra khỏi thị trường hoặc đảm bảo rằng các sản phẩm này sẽ không được bán đến tay người tiêu dùng.

2.3.3 Quy định về sản phẩm, dịch vụ nguy hiểm và an toàn

Một sản phẩm tiêu dùng bị coi là có nguy cơ cho sức khỏe nếu nó có thể gây tổn thương, độc hại, gây bệnh hoặc một vài dạng nguy hiểm khác cho sức khỏe do có khiếm khuyết trong cấu trúc hoặc thành phần hoặc do bất kỳ lỗi nào, thông tin nhầm lẫn hoặc không đầy đủ.

Một dịch vụ tiêu dùng sẽ bị coi là có nguy cơ cho sức khỏe nếu có bất kỳ khiếm khuyết hoặc không hoàn hoàn chỉnh hoặc trong cách thực hiện, tiến hành dịch vụ hoặc trong cấu trúc, thành phần của bất kỳ sản phẩm nào sẽ được sử dụng trong quá trình cung cấp dịch vụ, hoặc cung cấp bất kỳ thông tin giả

17

Page 18: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

mạo, gây nhầm lẫn hoặc không đầy đủ, dịch vụ đó có thể gây tổn thương, độc hại, gây bệnh hoặc bất kỳ dạng nguy hiểm nào cho sức khỏe.

Một sản phẩm tiêu dùng sẽ bị coi là nguy cơ cho tài sản nếu nó có thể gây thiệt hại cho đối tượng khác hoặc dạng tài sản khác. Một dịch vụ tiêu dùng có thể bị coi là nguy cơ cho tài sản nếu nó có thể gây thiệt hại cho tài sản.

Một sản phẩm hoặc dịch vụ tiêu dùng không nguy hiểm theo nghĩa nêu trên sẽ được coi là an toàn.

2.3.4 Những tiêu chí để đánh giá phù hợp

Một sản phẩm hoặc dịch vụ tiêu dùng sẽ không bị coi là nguy hiểm cho sức khỏe hoặc tài sản nếu nó phù hợp với các tiêu chuẩn đã hài hòa của Châu Âu, các tiêu chuẩn tham khảo được công bố trong Công báo của Liên minh Châu Âu.

Trong quá trình đánh giá sự phù hợp của một sản phẩm hoặc dịch vụ tiêu dùng so với các yêu cầu an toàn, các cơ quan giám sát có thể xét đến: Các tiêu chuẩn khác ngoài tiêu chuẩn an toàn của quốc tế hoặc của quốc gia được đề cập đến ở trên; Các khuyến cáo của Ủy ban được ban hành dưới dạng các hướng dẫn về đánh giá an toàn sản phẩm; Các hướng dẫn và khuyến cáo do các cơ quan giám sát an toàn sản phẩm ban hành; Các tiêu chuẩn, quy tắc thực hành tốt liên quan đến sức khỏe và an toàn trong lĩnh vực liên quan; Hiện trạng công nghệ và kỹ năng.

III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆT NAM

1. Hoàn thiện hệ thống pháp lý về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa

Trong thời điểm hiện nay, rất cần thiết phải ban hành một văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn Pháp lệnh chất lượng hàng hóa để đáp ứng mục tiêu, yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, hội nhập kinh tế thế giới và tương thích với thông lệ quốc tế trong hoạt động thương mại.

Luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa ra đời sẽ tạo ra sự đổi mới mạnh mẽ phương thức quản lý chất lượng; nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu, kiểm soát chất lượng và độ an toàn đối với hàng hóa nhập khẩu; đồng thời cũng để đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động dịch vụ về chất lượng, tăng cường trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

18

Page 19: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

Luật cần kế thừa các quy định của hệ thống pháp luật hiện hành về quản lý chất lượng đã được thực tiễn kiểm nghiệm và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật của các nước để vận dụng phù hợp với tình hình thực tiễn Việt Nam. Đặc biệt, Luật cần có những quy định đổi mới trong hoạt động kiểm tra chất lượng, đổi mới phương thức kiểm tra Nhà nước đối với chất lượng hàng hóa nhằm tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời vẫn đảm bảo yêu cầu kiểm soát được chất lượng hàng hóa; hướng hoạt động kiểm tra từ bến đến (tại cửa khẩu của Việt Nam) thành kiểm tra từ bến đi (tại nơi sản xuất ở nước ngoài) thông qua Hiệp định Thừa nhận lẫn nhau giữa các bên về kết quả đánh giá sự phù hợp, đây là điều rất cần thiết để phù hợp với tiến trình hội nhập và thực hiện Hiệp định Hàng rào kỹ thuật trong thương mại, bảo vệ lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng, kích thích phát triển, thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ tiên tiến.

Luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa cũng cần phải phù hợp, thống nhất trong tổng thể hệ thống các luật khác như Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chuyển giao công nghệ…

Luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa cần tạo được sự quan tâm của toàn xã hội đối với vấn đề chất lượng: từ nhà hoạch định chính sách, người sản xuất đến người tiêu dùng…để tạo ra một sự thống nhất, đồng bộ trong mọi hoạt động xã hội liên quan đến vấn đề chất lượng, hướng tới một mục tiêu chung: nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa; nâng cao chất lượng cuộc sống…

Cùng với việc ban hành Luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến chất lượng sản phẩm hàng hóa cũng phải được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện. Cải tiến cơ chế chứng nhận chất lượng sản phẩm, chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng, hệ thống quản lý môi trường; đổi mới cơ chế chứng nhận bắt buộc và tự nguyện theo các kiến nghị thống nhất trong ASEAN và APEC; hoàn thiện các cơ chế công nhận theo các quy định trong các Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau, các chỉ dẫn của Tổ chức hợp tác công nhận khu vực Thái Bình Dương PAC và các tiêu chuẩn ISO.

2. Phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm

Tăng cường công tác thanh, kiểm tra để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm những hành vi gian lận về đo lường, chất lượng sản phẩm hàng hóa theo quy định của pháp luật.

19

Page 20: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

Việc phát hiện hàng hóa, sản phẩm kém chất lượng không chỉ là chức năng của các cơ quan có thẩm quyền mà cần phải làm sao để mỗi người dân là một “tai, mắt” trong việc phát hiện những vi phạm về chất lượng sản phẩm hàng hóa. Quan trọng hơn, tới đây cần có đầu mối tiếp nhận thông tin phản ánh từ phía người tiêu dùng (như kiện toàn và nâng cao vai trò, vị trí của Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng…) để kịp thời kiểm tra, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, nhằm làm lành mạnh thị trường.

Pháp luật cần quy định rõ ràng về trách nhiệm của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu, nhà cung cấp dịch vụ…đối với hàng hóa, dịch vụ do mình cung cấp, mức bồi thường cụ thể. Khắc phục tình trạng hiện nay, các biện pháp chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật về chất lượng chưa đủ mạnh, tác dụng răn đe, phòng ngừa còn bị hạn chế.

Việc xử lý không chỉ dừng lại ở xử phạt vi phạm hành chính, bồi thường thiệt hại mà ở mức độ cần thiết, cần quy định các biện pháp xử lý hình sự.

3. Tăng cường đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức

Hoàn thiện cơ chế và kiện toàn tổ chức kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hóa: Hoàn thiện về cơ chế, phương thức và tổ chức, bảo đảm khả năng kiểm soát tốt đối với chất lượng hàng hóa nói chung và hàng nhập khẩu, phòng ngừa và ngăn chặn hàng hóa kém chất lượng, không bảo đảm an toàn; chống gian lận thương mại; không làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.

Xây dựng và thực hiện chương trình phát triển công nghệ, đổi mới công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, ứng dụng và phát triển công nghệ cao như: Công nghệ sau thu hoạch, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới…Áp dụng các biện pháp sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng và giảm chi phí sản xuất, kinh doanh trong doanh nghiệp.

Trên cơ sở phát huy năng lực, trang thiết bị kỹ thuật hiện có, tiếp tục đầu tư nâng cao năng lực kỹ thuật về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng theo hướng hội nhập và yêu cầu quản lý nhà nước. Nâng cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ hoạt động đo lường, thử nghiệm. Phát huy nguồn lực các phòng kiểm nghiệm của các ngành kinh tế - kỹ thuật, các doanh nghiệp để phục vụ công tác quản lý nhà nước về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng. Khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng các phòng thí nghiệm, kiểm nghiệm chất lượng sản phẩm, để phục vụ quá trình sản xuất, kinh doanh.

20

Page 21: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

Xây dựng các trung tâm, phòng thử nghiệm mang tầm quốc gia và quốc tế: Các trung tâm, phòng thử nghiệm phải đủ năng lực để thử nghiệm chất lượng hàng hóa nói chung, hàng nhập khẩu nói riêng, bảo đảm có thể thử nghiệm, phân tích và đánh giá được chất lượng của hàng hóa cũng như những rủi ro, nguy cơ tiềm ẩn của chúng đối với con người, động vật, thực vật và môi trường.

Xây dựng các trung tâm, phòng thử nghiệm mang tầm quốc gia và quốc tế: Các trung tâm, phòng thử nghiệm phải đủ năng lực để thử nghiệm chất lượng hàng hóa nói chung, hàng nhập khẩu nói riêng, bảo đảm có thể thử nghiệm, phân tích và đánh giá được chất lượng của hàng hóa cũng như những rủi ro, nguy cơ tiềm ẩn của chúng đối với con người, động vật, thực vật và môi trường.

Chú trọng công tác phát triển nguồn nhân lực bao gồm: đào tạo lại, đào tạo mới, trẻ hóa nguồn nhân lực. Đối với đội ngũ cán bộ, công chức đang làm việc trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, vấn đề cập nhật, bổ sung kiến thức, bao gồm kiến thức quản lý và quản lý kinh tế nói chung, đặc biệt kiến thức, nghiệp vụ về các lĩnh vực mới, các phương pháp mới của hoạt đọng tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng là đặc biệt quan trọng. Bên cạnh đó, cần có chính sách ưu đãi để khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đào tạo nguồn nhân lực. Cho phép hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực đào tạo để nâng cao chất lượng đào tạo.

Tăng cường công tác đào tạo cán bộ quản lý về tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng hàng hóa cho các doanh nghiệp, quan tâm đào tạo chuyên gia về năng suất – chất lượng cho các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp.

4. Tuyên truyền, phổ biến kiến thức và hiểu biết cho người tiêu dùng

Tăng cường hoạt động tuyên truyền, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ và nâng cao hơn nữa nhận thức về chất lượng sản phẩm hàng hóa cho mọi thành phần xã hội, nhất là các cấp lãnh đạo, các nhà quản lý và các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Cần quan tâm đầu tiên là giáo dục lương tâm nghề nghiệp cho các nhà sản xuất, nhà nhập khẩu cũng như các tổ chức, cá nhân lưu thông hàng hóa. Tăng cường chặt chẽ và thường xuyên mối quan hệ và thông tin giữa các nhà khoa học, nhà quản lý, các cơ sở dịch vụ khoa học và công nghệ với các doanh nghiệp, người tiêu dùng.

Công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng những trường hợp vi phạm các quy định của pháp luật về đảm bảo chất lượng sản

21

Page 22: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

phẩm hàng hóa, việc xử lý các vi phạm cũng như hậu quả thực tế về mọi mặt đời sống xã hội của các vi phạm.

Nâng cao nhận thức của người tiêu dùng. Việc nâng cao nhận thức nên bắt đầu từ những kỹ năng sơ đẳng nhất như xem hạn sử dụng, phân biệt cách thức ghi nhãn mác ngoài bao bì có đúng khuyến cáo của nhà sản xuất không…Các cơ quan quản lý, truyền thông có vai trò rất quan trọng trong giáo dục, nâng cao nhận thức của người tiêu dùng, giúp họ trở thành người tiêu dùng “thông thái” để có thể nhận biết hàng rởm, hàng kém chất lượng.

Xác định việc tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của đại bộ phận người dân cần phải có quá trình lâu dài, có thể sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền như thông qua các phương tiện thông tin đại chúng: sách, báo, truyền thanh, truyền hình, thông qua công tác giáo dục....

IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XUNG QUANH DỰ THẢO LUẬT CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM HÀNG HÓA

Dự thảo Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa gồm các quy định về nội dung và phương thức quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm hàng hóa; trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Xung quanh các quy định trong dự thảo Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận về một số vấn đề được đề cập trong Dự án luật.

Đáng chú ý là một số nội dung cơ bản sau:

1. Về phạm vi điều chỉnh của Luật

Dự án Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa quy định phạm vi điều chỉnh của Luật như sau “Luật này quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hóa và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm. hàng hóa; trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm hàng hóa”. Điều 3 Dự án Luật có giải thích “sản phẩm là kết quả của quá trình khai thác, chế tác hoặc sản xuất nhằm mục đích kinh doanh hoặc tiêu dùng”, “hàng hóa là sản phẩm được đưa vào tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán, tiếp thị”.

Nhiều ý kiến cho rằng, xuất phát từ quan điểm coi chất lượng là một phạm trù rất cụ thể nên khi “đụng chạm” đến khái niệm “chất lượng dịch vụ” có vẻ hơi trừu tượng thì Dự luật “né tránh”. Dự án Luật thu hẹp phạm vi điều chỉnh, chỉ tập trung việc quản lý chất lượng đối với sản phẩm và hàng hóa (vật

22

Page 23: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

thể), còn chất lượng dịch vụ (phi vật thể) được nằm ngoài vòng pháp luật? Trong khi đó, chất lượng dịch vụ hiện nay đang là một vấn đề “nóng”, nhất là với tình trạng độc quyền, cửa quyền ở nhiều lĩnh vực vẫn đang tồn tại như hiện nay thì ai sẽ bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong những trường hợp họ bị xâm hại về chất lượng dịch vụ.

Dự án Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa không đề cập đến dịch vụ là một thiếu sót lớn vì trên thực tế một số loại dịch vụ vẫn được xem là hàng hóa như: dịch vụ y tế, dịch vụ du lịch, dịch vụ làm đẹp… Khi người tiêu dùng chọn mua những dịch vụ này coi như họ đã mua một loại hàng hóa, như vậy, nhà cung cấp dịch vụ phải bảo đảm chất lượng hàng hóa đó.

Hiện có hai hiệp định được áp dụng rộng rãi là Hiệp định chung về chất lượng thương mại hàng hóa (GATT) và Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS). Việt Nam là thành viên của WTO thì cũng phải áp dụng theo các hiệp định chung này. Hay như ISO 9000 (2000) cũng phân biệt rõ 4 nhóm sản phẩm: Vật liệu chế biến, phần cứng, phần mềm và dịch vụ. Trong dự án Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, nếu không bổ sung khái niệm “dịch vụ” là một loại hàng hóa thì sẽ không phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế.

2. Về đối tượng áp dụng Luật

Nhiều ý kiến đề nghị nên điều chỉnh và đưa hoạt động kinh doanh nông sản, thực phẩm tươi sống, thức ăn đường phố…của những người sản xuất nhỏ, buôn bán lẻ là đối tượng áp dụng Luật, vì đây là một vấn đề đang nổi cộm hiện nay.

Quy định về chất lượng của thực phẩm vào dự thảo Luật ít nhất cũng góp phần định hướng cho người sản xuất và kinh doanh trong các lĩnh vực này có ý thức trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

Bên cạnh chuyện an toàn thực phẩm còn vấn đề gene, giống, những vấn đề liên quan đến cải tạo nguồn gene, giống của sản phẩm nông nghiệp như thế nào để đáp ứng được tiêu chuẩn, đáp ứng yêu cầu thị trường. Nếu không có luật

thực phẩm riêng thì trong Luật này nên có phần về chất lượng thực phẩm, đặc biệt là các vấn đề về bảo toàn nguồn gene và di truyền, chọn giống để làm thế nào phát triển được những thực phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường.

3. Bồi thường thiệt hại về chất lượng

Nhiều ý kiến phản ứng với quy định trong dự Luật: Người bán hàng không phải bồi thường cho người mua, người sử dụng trong trường hợp sản phẩm, hàng hóa có khuyết tật do người sản xuất, người nhập khẩu tuân theo các

23

Page 24: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

quy định bắt buộc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc trong trường hợp trình độ khoa học, kỹ thuật chung của thế giới chưa đủ để phát hiện nguy cơ gây mất an toàn của sản phẩm tại thời điểm hàng hóa được bán cho người mua, người sử dụng. Điều đó có nghĩa người tiêu dùng phải gánh chịu thiệt hại mà thiệt hại ấy hoàn toàn do lỗi của người khác. Quy định như vậy rõ ràng là trái ngược hẳn với nguyên tắc cơ bản trong giao dịch dân sự “ai có lỗi gây thiệt hại, người đó phải bồi thường”. Dự Luật quy định như vậy là chưa thực sự hướng vào mục tiêu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

4. Luật cần có các quy định để nâng cao vai trò của các tổ chức hội, hiệp hội

Dự thảo chưa đề cập đến vai trò của hiệp hội trong việc hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện các quy chế liên quan để bảo đảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

Trên thực tế, hiệp hội chính là kênh thông tin gần nhất với doanh nghiệp, cung cấp đầy đủ những đặc tính ngành nghề. Vì vậy nếu hiệp hội làm tốt chức năng hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng theo luật thì sẽ hiệu quả hơn rất nhiều.

5. Về các biện pháp chế tài được quy định trong dự án luật

Rất nhiều ý kiến nhận xét đa số những biện pháp chế tài áp dụng đối với vi phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa chưa đủ mạnh, chưa thể hiện tính răn đe cao. Cụ thể, mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính được ấn định ít nhất bằng giá trị sản phẩm, hàng hoá vi phạm đã tiêu thụ và nhiều nhất không quá năm lần giá trị hàng hoá vi phạm đó như quy định trong dự án luật vẫn là quá thấp.

6. Về giải thưởng chứng nhận chất lượng sản phẩm, hàng hóa

Một số ý kiến còn đề nghị dự thảo luật nên quy định rõ đơn vị nào được phép tổ chức, trao giải thưởng chứng nhận chất lượng sản phẩm, hàng hóa để hạn chế tình trạng “ nhà nhà trao giải thưởng, người người nhận giải thưởng” như hiện nay khiến chất lượng sản phẩm, hàng hóa bị thả nổi. Một thực tế đang xảy ra là hiện nay có rất nhiều cơ quan, tổ chức cùng thực hiện việc kiểm tra, công bố chất lượng hàng hóa và “loạn” “cúp chất lượng” tại các cuộc thi, hội chợ, trong khi hàng hóa kém chất lượng vẫn xảy ra tràn lan. Nhiều đơn vị chỉ cần bỏ ra một khoản tiền tham gia hội chợ để nhận được những chiếc “Cúp”, “Bằng chứng nhận chất lượng” và coi đây là thước đo và sự bảo lãnh về chất lượng đối với hàng hóa của mình. Thậm chí, có một số tổ chức nước ngoài còn mời gọi doanh nghiệp Việt Nam đăng ký để được chứng nhận chất lượng mang

24

Page 25: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

tầm quốc tế; nhưng thực ra để nhận Cúp, giấy chứng nhận ấy, doanh nghiệp chỉ cần phải làm một bộ hồ sơ hết sức đơn giản nhưng phải nộp vài ngàn đô la, mua vé máy bay, bay sang nhận về.

Dự Luật quy định “Việc khen thưởng tổ chức, cá nhân có thành tích trong hoạt động nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa được thực hiện theo Luật Thi đua, khen thưởng. Việc đặt các giải thưởng đối với chất lượng sản phẩm, hàng hoá được thực hiện theo quy định của Chính phủ” vẫn còn quá chung chung.

Đây là sự bất cập, do vậy Luật cần có các quy định cụ thể hơn, nguyên tắc hơn để quản lý chặt chẽ, thống nhất về công tác kiểm tra và công bố chất lượng hàng hóa, trao giải thường, bằng khen… nhằm chấm dứt tình trạng công bố chất lượng hàng hóa không đúng chức năng, lừa người tiêu dùng.

Trên đây là một số vấn đề còn có nhiều tranh cãi xung quanh các quy định của dự thảo luật.

25

Page 26: Thông tin chuyên đề - ttbd.gov.vnttbd.gov.vn/Modules/NCS.Module.ReferenceDocument/Upload/New fol… · Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng ... chất lượng

26

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật về quản lý chất lượng và kiểm tra an toàn sản phẩm công nghiệp của Hàn Quốc

2. Luật An toàn sản phẩm của Thụy Điển

3. Luật về an toàn của các sản phẩm tiêu dùng và dịch vụ của Phần Lan

4. Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật Việt Nam

5. Dự thảo Luật Chất lượng sản phẩm Việt Nam

6. Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/8/2006 của Chính phủ về nhãn hàng hoá

7. Thông tư số 09/2007/TT-BKHCN ngày 06/4/2007 của Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/8/2006 của Chính phủ về nhãn hàng hoá

8. Nghị định số 127/2007/NĐ-CP, Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật

9. Nghị định số 179/2004/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ quy định quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa