32
Lời nói đầu Từ khi xuất hiện nền kinh tế hàng hoá giản đơn cho tới ngày nay mục tiêu lớn nhất mà con người đặt ra đó là sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Phạm trù này trong từng thời kỳ của nền kinh tế đều có những biểu hiện khác nhau và đã đạt được một số thành tựu nhất định. Các thành tựu đó dù nhỏ bé hay lớn lao đều nhằm mục đích phục vụ cho sự tăng trưởng không ngừng và sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam hiện nay, tăng trưởng kinh tế và điều kiện đảm bảo tăng trưởng cao và bền vững đang là mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước ta. Xoay quanh vấn đề này có nhiều ý kiến khác nhau về tốc độ, các điều kiện và xử lý các mối quan hệ đảm bảo tốc độ, các điều kiện và xử lý các mối quan hệ đảm bảo tốc độ tăng trưởng cao và phát triển bền vững. Trong hội thảo "Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý kinh tế trong giai đoạn mới" của chương trình Khoa học công nghệ cấp nhà nước "Đổi mới và hoàn thiện các chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế" mã số KX03 tổ chức vào tháng 7 - 1995 cho thấy nhiều ý

vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

Lời nói đầu

Từ khi xuất hiện nền kinh tế hàng hoá giản đơn cho tới ngày nay mục

tiêu lớn nhất mà con người đặt ra đó là sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.

Phạm trù này trong từng thời kỳ của nền kinh tế đều có những biểu hiện khác

nhau và đã đạt được một số thành tựu nhất định. Các thành tựu đó dù nhỏ bé

hay lớn lao đều nhằm mục đích phục vụ cho sự tăng trưởng không ngừng và

sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.

Ở Việt Nam hiện nay, tăng trưởng kinh tế và điều kiện đảm bảo tăng

trưởng cao và bền vững đang là mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước ta.

Xoay quanh vấn đề này có nhiều ý kiến khác nhau về tốc độ, các điều kiện và

xử lý các mối quan hệ đảm bảo tốc độ, các điều kiện và xử lý các mối quan hệ

đảm bảo tốc độ tăng trưởng cao và phát triển bền vững. Trong hội thảo "Hoàn

thiện chính sách và cơ chế quản lý kinh tế trong giai đoạn mới" của chương

trình Khoa học công nghệ cấp nhà nước "Đổi mới và hoàn thiện các chính

sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế" mã số KX03 tổ chức vào tháng 7 -

1995 cho thấy nhiều ý kiến xoay quanh vấn đề này cần được tiếp tục trao đổi

và làm sáng tỏ.

Nhiều ý kiến đã nhấn mạnh vai trò nhân tố nguồn lực và hệ thống quản

lý trong tăng trưởng kinh tế hiện đại. Dùa vào kinh nghiệm của nhiều nước

trong khu vực và trên thế giới, các ý kiến đó đã đề xuất tới việc giáo dục con

người, nâng cao trình độ dân trí, đào tạo chuyên môn nghề nghiệp cho đội ngò

cán bộ quản lý kinh tế nói chung và đội ngò kế toán viên, kiểm toán viên nói

riêng là cực kỳ quan trọng.

Thực tế các nước phát triển đã chứng minh, nếu việc đào tạo và tổ chức

hoạt động của đội ngò kế toán viên, kiểm toán viên tốt có thể thúc đẩy nền

kinh tế phát triển mạnh với tốc độ và đạt tới bền vững. Nhưng ngược lại, ở

Page 2: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

các nước chậm phát triển, do chưa nhận thức được vai trò của bộ phận kế toán

- kiểm toán nên nền kinh tế dễ rơi vào sự trì trệ, khủng hoảng hoặc lạm phát

kéo dài dẫn tới sự suy thoái nặng nề.

Vì vậy trong tiến trình phát triển kinh tế, sự ra đời của 92 tổ chức kinh

tế lớn của nhà nước, tập đoàn kinh doanh theo mô hình tổng công ty được

thành lập theo quyết định số 90/91 - TTG là rất cần thiết. Nh vậy việc tổ chức

và hoạt động của kế toán, kiểm toán là cần thiết cho tổng công ty này và sẽ

lớn mạnh cùng với sự phát triển của tổng công ty và sự tăng trưởng bền vững

của nền kinh tế nước nhà.

Trong phạm vi của bài viết này vì điều kiện thời gian còng nh điều kiện

vật chất không cho phép. Chúng em xin đi sâu phân tích.

- Sù tác động của việc đào tạo kế toán kiểm toán tới sự tăng trưởng và

phát triển bền vững của nền kinh tế là một đề tài rộng lớn, phải được nghiên

cứu qua nhiều thời kỳ, trên nhiều khía cạnh khác nhau. Trong phạm vi bài viết

này chúng em xin đi sâu nghiên cứu “Vai trò của việc đào tạo kiểm toán nhà

nước đến việc tăng trưởng bền vững nền kinh tế”. Từ đó tìm ra những giải

pháp thiết thực nhất và vận dụng vào thực tế một cách nhuần nhuyễn tạo ra

hiệu quả.

Để hoàn thành bài viết của mình, chúng em đã được sự giúp đỡ nhiệt

tình của thầy Ngô Trí Tuệ và Khoa Kế toán. Tuy nhiên do điều kiện còn hạn

chế về thời gian cũng như trình độ, chúng em còn nhiều thiếu sót trong bài

viết của mình. Rất mong các bạn, thầy cô đưa ra ý kiến và giúp đỡ.

Page 3: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

Nội dung

phần I: Những lý luận chung về "Tăng trưởng bền vững với vấn đề đào

tạo kiểm toán viên nhà nước

Thế kỷ 21 là thế kỷ của giao lưu văn hoá toàn cầu "bất kỳ nền kinh tế

nào muốn cất cánh đều phải phát huy nội lực nội lực mới là động lực chính

của sự phát triển, không gì bền vững và có thể thay thế được việc huy động

các nguồn tài nguyên quốc gia vào lao động sản xuất trong các lĩnh vực. Đó là

con đường phát triển duy nhất bền vững và cân đối. Nó đòi hỏi sự phát triển

phải thông qua: Tiết kiệm, kiểm soát tài chính chặt chẽ, đầu tư nội địa và

không được coi nhẹ thị trường trong nước.

Hiện nay theo ý kiến của một số chuyên gia kinh tế thì Việt Nam ở vào

vị thế có sức hấp dẫn kém nhất trong khu vực. Trong những năm gần đây

Đảng và Nhà nước ta đang không ngừng đưa ra mọi biện pháp để xây dưựg

một mô hình phát triển kinh tế Việt Nam đảm bảo sự tăng trưởng bền vững.

Về khái niệm: Tăng trưởng là tăng mức tổng sản phẩm trong nước tính

theo đầu người, thực chất cũng là tăng sức sản xuất của toàn bộ nền kinh tế

quốc dân. Vì tăng trưởng là tăng mức đầu ra GNP cho nên có thể nói mức

tăng trưởng được quyết định bởi các nhân tố đầu vào. Đối với nước ta hai

nguồn lực được coi là chủ yếu và quan trọng nhất là vật chất và con người.

Trong phạm vi bài viết này chúng em chỉ xin đề cập đến nhân tố con người

sâu hơn là đội ngò cán bộ quản lý trong đó có lực lượng kiểm toán viên nhà

nước.

Về mô hình: Tăng trưởng bền vững đảm bảo sự cân đối giữa công nghiệp

- nông nghiệp - dịch vụ. Mà trong đó lấy nông nghiệp làm nền móng thúc đẩy

Page 4: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

công nghiệp và dịch vụ. Tăng trưởng kinh tế phải giải quyết được các vấn đề

xã hội nh: lao động việc làm, y tế, giáo dục...

1. Dự báo tốc độ tăng trưởng và những điều kiện cần cho tăng

trưởng của Việt Nam đến năm 2010.

Chuyển mình cùng thế giới bước vào thiên niên kỷ mới, nền kinh tế

nước ta đang đứng trước những thách thức lớn lao và sự lùa chọn hết sức khó

khăn. Hiện nay qua phân tích kết quả tăng trưởng, nhiều nhà nghiên cứu đã

xem xét dưới giác độ cả quá trình phát triển nhưng cũng có tác giả phân chia

giai đoạn 86 - 90 và 91 - 95. Giai đoạn 86 - 90 là thời kỳ mở đầu cho quá

trình đổi mới toàn diện, giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng chưa cao và thiếu

ổn định vững chắc. Giai đoạn 91 - 95 là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam tăng

trưởng cao và khá ổn định. Tuy nhiên tới giai đoạn 96 - 2000 do ảnh hưởng

của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực Đông Nam á nền kinh

tế nước ta lại có xu hướng đi xuống. Biểu hiện ở chỉ số GDP và GNP giảm,

lạm phát gia tăng. Sự phát triển chưa đủ bền vững khủng hoảng cục bộ khủng

hoảng tiềm Èn trên một số lĩnh vực còn nặng và đang rình rập chuyển thành

khủng hoảng kịch phát. Do đó cần có những chính sách và biện pháp để tạo ra

những nguồn lực tăng trưởng bền vững trong những năm đầu thập kỷ 21. Dự

kiến từ năm 2000 - 2020 nước ta sẽ hoàn thành CNH - HĐH. Khi đó nền kinh

tế sẽ đi vào ổn định tăng trưởng với tốc độ cao.

Các điều kiện quyết tăng trưởng cao và bền vững: Về mặt ý kiến nói

chung 3 yếu tố cơ bản cho mọi mô hình tăng trưởng là: Lao động, đầu tư và

công nghệ. Trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá, bên cạnh sự coi trọng đung

mức nhân tố khoa học kỹ thuật và con người thì đa số các nước có tốc độ tăng

trưởng cao đều coi yếu tố đầu tư (vốn) là quyết định. Tuy nhiên, các yếu tố đề

xuất ra còn ở mức khác nhau. Có ý kiến cho rằng tổng mức đầu tư cho giai

đoạn 96 - 2000 cần Ýt nhất 65 tỷ USD. Cũng có phương án tính toán trong

giai đoạn 96 - 2000 nước ta cần 45 - 50 tỷ USD chiếm 29 - 31% GDP. Vậy

Page 5: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

quy mô đầu tư và tỷ lệ đầu tư so với GDP từ nay tới năm 2010 phải ở mức

nào?

Về cơ cấu nguồn vốn có những tính toán cụ thể nh nguồn huy động

trong nước chiếm 18 - 20% GDP, còn đầu tư nước ngoài chiếm 10 - 12%

GDP. Thực tế đến nay, việc huy động vốn trong dân là rất khó khăn mới chỉ

đạt khoảng 1/2. Vậy Nhà nước cần đề ra những chính sách và biện pháp gì để

có thể khai thác nguồn vốn trong nước nói chung và trong dân nói riêng.

Về nhân tố con người, vấn đề đặt ra là trình độ cách tổ chức sắp xếp

nguồn lao động hiện nay. Đội ngò công nhân Việt Nam đa phần có trình độ

rất thấp chưa đủ để tiếp thu trình độ khoa học tiến bộ. Đội ngò trí thức vẫn

còn quá Ýt ỏi. Ngoài ra bộ phận cán bộ quản lý kinh tế nhiều nơi chưa được

đào tạo chính quy đặc biệt là đội ngò kế toán viên kiểm toán viên.

Thậm chí nhiều cán bộ còn lạm dụng chức quyền dẫn tới quan liêu cửa

quyền làm ăn phạm pháp ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế nh EFCO - Minh

Phông.

Nhân tố công nghệ cho quá trình tăng trưởng cao và bền vững đang được

các nhà kinh tế quan tâm. Tuy nhiên việc xây dựng một chiến lược nghiên

cứu khoa học công nghệ như thế nào phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta

trong bối cảnh hoà nhập vào cộng đồng quốc tế và cạnh tranh quốc tế vẫn là

vấn đề cần được làm sáng tỏ.

2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng bền vững đối với vấn đề đào tạo

cán bộ KTNN.

T¨ng trëng bÒn v÷ng

Vèn ®Çu t

Con ngêi Tµi nguyªn

Tµi nguyªnC«ng nghÖ

Page 6: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

Thông qua sơ đồ trên ta thấy kế toán, kiểm toán là hệ thống không thể

thiếu góp phần vào nguồn lực con người tạo nên tăng trưởng bền vững.

Hiện nay kiểm toán nói chung vẫn là hoạt động hết sức mới mẻ ở Việt

Nam. Để đảm bảo cho việc xét duyệt các báo cáo quyết toán do các vụ tài vụ

của các bộ chủ quan, phòng tài chính của các sổ chủ quản tiến hành, ngày

11/07/1994 KTNN chính thức được thành lập theo nghị định 70/CP với chức

năng "xác nhận tính đúng đắn hợp pháp của tài liệu, số liệu kế toán báo cáo

quyết toán của các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể quần chúng các tổ chức

xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp".

Chỉ sau một năm thành lập, KTNN đã vừa ổn định bộ máy, xây dựng các

văn bản pháp quy, huấn luyện nghiệp vụ cho cán bộ kiểm toán và thực hiện

những cuộc kiểm toán và thực hiện những cuộc kiểm toán có quy mô lớn góp

Ngêi lao ®éng

C¸n bé qu¶n lý

TrÝ thøc kü s

Gi¸m

®èc

Héi

®ång

qu¶n

trÞ

Héi

®ång

gi¸m

®èc

Tµi vô

to¸n

KiÓm

to¸n

Page 7: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

phần chấn chỉnh công tác quản lý tài chính kế toán và thu nép cho ngân quỹ

hàng hàng trăm tỷ đồng.

Page 8: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

Phần II: Thực trạng công tác đào tạo cán bộ

kiểm toán nhà nước hiện nay.

Khái niệm về kiểm toán viên Nhà nước: KTVNN là những công chức

làm nghề kiểm toán. Do đó, họ được tuyển chọn và hoạt động do tổ chức

kiểm toán nhà nước phân công. Đồng thời họ được xếp vào ngành bậc chung

của công chức (theo tiêu chuẩn cụ thể của từng nước trong từng thời kỳ):

- Kiểm toán viên

- Kiểm toán viên chính

- Kiểm toán viên cao cấp.

1. Những mặt đạt được trong đào tạo cán bộ kiểm toán nhà nước.

Ngày 11/7/1994 Chính phủ ban hành Nghị định 70/CP về việc thành lập

cơ quan Kiểm toán nhà nước. Đây là một cơ cấu mới thuộc Chính phủ, nó là

công cụ kiểm soát vi mô của Nhà nước. Sự ra đời của kiểm toán Nhà nước

(KTNN) là phù hợp với công cuộc đổi mới mà Đảng ta đã khởi xướng từ

trước đây hơn 10 năm, nó phản ánh sự chuyển hướng tích cực của công cuộc

cải cách nền hành chính quốc gia, xây dựng Nhà nước pháp quyền và chuyển

dần sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Như vậy KTNN

hình hành ở nước ta là sản phẩm tất yếu của công cuộc đổi mới, phù hợp với

đòi hỏi khách quan của nền kinh tế chuyển đổi, đồng thời cũng thể hiện sự gia

tăng đáng kể của công tác kiểm tra, kiểm soát trên bình diện vĩ mô của Nhà

nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Tuy nhiên, KTNN Việt Nam khi mới ra đời đã có những đặc trưng khác

biệt so với các nước. ở các nước có nền kinh tế phát triển, KTNN đã có hàng

trăm năm và đã chứng tỏ là một công cụ có hiệu lực cao của Nhà nước trong

việc kiểm soát nền tài chính công. Còn ở nước ta, KTNN ra đời trong điều

Page 9: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

kiện không có tổ chức tiền thân, hệ thống kiểm soát của ta đang trong quá

trình đổi mới sắp xếp lại. Vì lẽ đó, công cuộc tạo dựng tổ chức, cơ chế hoạt

động xây dựng các cơ sở pháp lý cùng các chuẩn mực, quy trình công nghệ

kiểm toán đều như bắt đầu từ đầu.

Nhưng được sự quan tâm của Đảng, Quốc hội và sự chỉ đạo trực tiếp của

Chính phủ cho đến nay chóng ta đã làm được một số việc tuy mới chỉ là bước

đầu nhưng lại hết sức quan trọng: Chính phủ đã raNghị định 70/CP về việc

thành lập cơ quan KTNN, Thư tướng Chính phủ đã ra quyết định 61/TTG

ngày 24/1/1995 ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của KTNN. Những cơ

sở pháp lý đó góp phần xây dựng tổ chức, tuyển dụng cán Bộ vận hành một

bộ máy hoạt động, lúc đầu năm 1994 chỉ có ba bốn chục người đến nay đã có

xấp sỉ 500 kiểm toán viên Nhà nước. Tất cả đều tốt nghiệp đại học chuyên

ngành kế toán, tài chính kế toán và một số ngành kinh tế kỹ thuật.

Đó là những thành tích đạt được về mặt số lượng đội ngò còng nh chất

lượng. Bên cạnh đó còn nhiều mặt tốt trong tổ chức đào tạo như: dự án quản

lý tài chính Việt Nam - Canada với mục tiêu nâng cao năng lực hoạch định

chính sách tài chính bán bộ tài chính Việt Nam thông qua các hoạt động đào

tạo là phù hợp với yêu cầu tình hình hiện nay. KTNN Việt Nam là thành viên

cua hai tổ chức INTOSAI và ASOSAI, ngoài ra còn quan hệ với một số nước

nh: Đức, Malaysia, Nhật, Vương quố Anh, Thái Lan... mối quan hệ đó đã

giúp cho việc đào tạo kiểm toán viên Nhà nước. Ngoài ra, việc tổ chức đào

tạo trong nước ở các trường Đại học đối với kiểm toán viên chính quy cũng

được phát triển. Mới đầu chỉ có trường Đại học KTQD sau đó mở rộng sang

các trường khác hứa hẹn cung cấp. Một khối lượng kiểm toán viên có trình độ

cao trong tương lai

Bên cạnh đó đội ngò kiểm toán viên Nhà nước đã góp phần tích cực trên

mặt trận chống tham nhòng, củng cố hoạt động tài chính, bộ máyNhà nước,

cung cấp thông tin, đòi hỏi về phía thực tế. Kiềm toán Nhà nước đã tiến hành

Page 10: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

gần 1500 cuộc kiểm toán đối với hầu hết các tỉnh thành, nhiều bộ ngành và

hàng trăm doanh nghiệp lớn của Nhà nước, giúp tiết kiệm và tăng thu cho

Nhà nước hàng ngàn tỷ đồng. Nh vậy nó chứng minh cho sự phát triển không

ngừng của năng lực kiểm toán viên Nhà nước.

Tuy nhiên, KTNN mới ra đời, trong điều kiện chưa có tổ chức tiền thân

hệ thống kiểm soát còn đang trong điều kiện đổi mới sắp xếp lại nền đội ngò.

Kiểm toán viên vẫn còn "non trẻ" không tránh khỏi những hạn chế chưa đáp

ứng đòi hỏi của sự phát triển sự nghiệp KTNN trong thời kỳ đổi mới.

2. Những mặt hạn chế

a. Về mặt số lượng:

Đội ngò cán bộ và các chức danh KTV hiện nay đang còn thiếu trầm

trọng - cho đến nay tổng số mới có gần 500 cán bộ KTNN. Hơn nữa để phù

hợp với quá trình phát triển của chức năng nhiệm vụ và sự mở rộng khối

lượng kiểm toán, quy mô của KTNN, những yêu cầu gia tăng về số lượng,

chất lượng của đội ngò cán bộ công chức KTNN sẽ xuất hiện ngày càng lớn,

càng nhiều. Đòi hỏi chúng ta cần tăng cường hơn nữa công tác đào tạo để bổ

sung cho lực lượng cán bộ đang còn thiếu.

b. Về mặt chất lượng:

Thực tế cho thấy rằng những người đã giữ những cương vị công tác chức

ngành tài chính của khối trung ương và địa phương, kế toán trưởng của các

tổng công ty (hoặc tương đương), kế toán trưởng của các doanh nghiệp hạng I

nhìn chung là bề dày trong công tác quản lý, có khả năng tổng hợp ở tầm vĩ

mô và có thể tham gia việc hoạch định các chính sách, có khả năng chuyên

môn nghiệp vụ, nhưng số này chỉ chiếm một tỷ lệ không lớn trong tổng số

kiểm toán viên Nhà nước. Bên cạnh đó đội ngò công tác kiểm toán Nhà nước

Page 11: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

(từ lãnh đạo, quản lý đến các kiểm toán viên) phần lớn chưa được bồi dưỡng

cơ bản và bài bản về chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán và các kiến thức có

liên quan. Đội ngò công chức kiểm toán Nhà nước chủ yếu được điều động

từ các Bộ, ngành và các cơ quan đến, chưa tuân thủ những đòi hỏi nhất định.

Một vấn đề nữa là mặc dù đã được đào tạo chính quy chuyên ngành về

kế toán, tài chính và một số chuyên ngành kinh tế, kỹ thuật khác họ có kinh

nghiệm về công tác kế toán, tài chính... nhưng cũng chính đội ngò công chức

đó hiện lại chưa được trang bị đầy đủ những tri thức cần thiết để thích ứng với

cơ chế mới, cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và nghiêm ngặt của

một công chức Kiểm toán.

Tất cả những vấn đề đó được thể hiện ở các khía cạnh sau:

Một là, những kiến thức về kiểm toán:

Kiểm toán là một loại hình hoạt động nghề nghiệp, đòi hỏi phải có sự

đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, phong cách, kỹ năng, kỹ xảo thành thục trước

khi đảm đương, thực thi nhiệm vụ. Có năng lực để hiểu các chuẩn mực được

sử dụng, có đủ trình độ để hiểu biết các loại và số lượng bằng chứng cần thu

thập để đi đến một kết luận phù hợp, chuẩn xác sau khi kiểm tra xem xét các

bằng chứng có đủ trình độ mới làm chủ được quá trình thu nhập những tài

liệu bằng chứng cần thiết với những thông tin và suy nghĩ khách quan, độc

lập để đưa ra những phán đoán và quyết định chính xác. Như vậy việc thiếu

hụt những tri thức và nghiệp vụ thuộc công nghệ kiểm toán có thể nói là một

rào cản lớn khi kiểm toán viên thực hiện nhiệm vụ. Trong khi đó đến nay

kiểm toán nhà nước vẫn chưa có được chương trình đào tạo nghiệp vụ riêng

cho các kiểm toán viên kiểm toán nhà nước.

Tuy đã có 4 khoá tập huấn nghiệp vụ Kiểm toán nhà nước Trung ương

và khu vực, 2 khoá quản lý Nhà nước ngạch chuyên viên. Ngoài ra còn phối

hợp với dự án ADB và dự án ODA của cộng hoà Liên bang Đức, kiểm toán

Page 12: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

nhà nước đã cử nhiều đoàn cán bộ đi khảo sát, nghiên cứu chuyên đề ở nước

ngoài, cử một số thực tập sinh đi nước ngoài. Nhưng đây mới chỉ đáp ứng nhu

cầu trước mắt, hiện thời.

Hai là, những kiến thức về pháp luật.

Do trong một quá trình dài và đặc biệt là do chuyển sang một cơ chế

mới, chúng ta chưa có những điều kiện xây dựng hệ thống pháp luật hoàn

chỉnh và phù hợp. Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, kinh tế, chủ yếu dùa

vào các văn bản dưới luật. Phần đông kiểm toán viên hiện có được đào tạo từ

các trường kinh tế từ thời kỳ trước, nên đội ngò công chức kiểm toán nhà

nước chưa được trang bị căn bản và hoàn chỉnh mảng kiến thức về luật pháp,

bao gồm ngành luật chung và nhất là luật điều chỉnh các hoạt động kiểm toán

cũng như điều chỉnh hoạt động của các đối tượng kiểm toán.

Ba là, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhiều vấn đề mới xuất

hiện, đặc biệt những phạm trù vĩ mô và vai trò của Nhà nước trong việc quản

lý vĩ mô đối với nền kinh tế thị trường. Những kiểm toán viên được đào tạo ở

gian đoạn đại học truớc đây chưa được đầy đủ, do đó cần có chiến lược đào

tạo bổ sung kiến thức.

Bốn là, những tri thức ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại trong kiểm

toán chưa được đáp ứng. Hiện nay, một mặt Nhà nước chưa đủ kinh phí trang

bị hiện đại và phương tiện máy tính cho kiểm toán Nhà nước nhưng xét kỹ

hơn thì đội ngò kiểm toán viên kiểm toán nhà nước cũng chưa được đào tạo

để thích ứng với yêu cầu kiểm toán trong môi trường máy vi tính.

Năm là, sù tiếp cận với kiểm toán quốc tế tìm hiểu nghiên cứu về kinh

nghiệm kiểm toán của các nước trên thế giới còn hạn chế. Những phương

thức tổ chức, điều hành và chuẩn mực kiểm toán còn nhiều mặt chưa theo kịp

với tiến trình hội nhập kiểm toán quốc tế. Việc cần thiết phải tham khảo tài

liệu nước ngoài để tự học tập nâng cao trình độ và trao đổi kinh nghiệm tuy

Page 13: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

còn hạn chế do trình độ ngoại ngữ của các kiểm toán viên còn chưa hoàn

thiện nên không phải đa số kiểm toán viên đều làm được điều đó.

3. Yêu cầu đối với việc đào tạo kiểm toán.

Xuất phát từ vai trò của kiểm toán viên Nhà nước là:

Cơ sở để Nhà nước đưa các chính sách kinh tế vĩ mô: nh hệ thống pháp

luật, chính sách kinh tế củng cố hoạt động của các đơn vị thuộc khách thể

kiểm toán Nhà nước.

Góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp hoạt động kế toán nói

chung và hoạt động của đơn vị nói riêng: qua hoạt động kiểm toán, kiểm toán

viên Nhà nước đưa ra ý kiến nhằm xây dựng các quy định, quy tắc, chuẩn

mực cho hoạt động kiểm toán kế toán. Đồng thời giúp cho các doanh nghiệp

kịp thời phát hiện những sai sót, vi phạm chế độ kế toán nhằm xử lý chấn

chỉnh kịp thời các sai phạm.

Kiểm toán Nhà nước góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý

của các đơn vị thuộc khách thể kiểm toán Nhà nước.

Xuất phát từ tinh thần của Đảng và Nhà nước theo Nghị quyết hội nghị

lần 3 ban chấp hành TW Đảng (Khoá VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hoá đất nước đã khẳng định :"Cán bộ là nhân tố quyết định

sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và

chế độ, là khâu then chốt trong xây dựng Đảng" và "Xây dựng đội ngò cán bộ

công chức có phẩm chất và năng lực là yếu tố quyết định chất lượng của bộ

máy Nhà nước". Trên quan điểm cơ bản đó, Nghị quyết TW 3 đã xác định

yêu cầu đối với cán bộ công chức Nhà nước trong gian đoạn hiện nay là "cần

phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức toàn diện, trước hết là về đường lối

chính trị, về quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế". Trong đội ngò cán bộ quản

lý đó có một bộ phận rất quan trọng đó là lực lượng KTVNN. Nó góp phần

cho sự vững mạnh, trong sạch bộ máy Nhà nước... cho nên việc tiến hành

Page 14: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

phát triển việc đào tạo cán bộ kiểm toán là yêu cầu của Đảng và Nhà nước ta

hiện nay. Xuất phát từ thực tế kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới thì

việc đào tạo kiểm toán viên là một tất yếu và là xu hướng hiện nay. Theo ngài

Emer.B.Taats nguyên tổng kiểm toán Hoà kỳ đã từng khuyến cáo và khẳng

định. "việc đào tạo KTVNN có thể là một thử thách lớn nhất mà Nhà nước

của chúng ta phải đương đầu hiện nay và ngày mai. Các chuẩn mực kiểm toán

có thể áp dụng và kiểm toán tối cao của một quốc gia, nhưng nếu chẳng có

một khả năng nào đảm bảo cho kiểm toán hoạt động tồn tại thì chuẩn mực

kiểm toán đó sẽ trở nên vô nghĩa"

Do vậy ta thấy rằng việc đào tạo kiểm toán viên nói chung và đào tạo

Kiểm toán viên nhà nước nói riêng là rất quan trọng.

Xuất phát từ thực trạng đội ngò kiểm toán nhà nước và những bức bách

hiện nay còng nh trong tương lai khi bước sang thế kỷ 21. Ta thấy với nhiệm

vụ mà Chính phủ đã giao cho kiểm toán nhà nước rất lớn với 20.000 đơn vị

dự toán, 61 ngân sách tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương gồm 600 ngân

sách quận huyện, gần 10.000 ngân sách xã 26 ngân sách cán bộ và 21 ngân

sách cơ quan thuộc Chính phủ, các văn phòng của Đảng, Quốc hội, Chính phủ

các tổ chức xã hội, trên 6000 doanh nghiệp Nhà nước hàng trăm công trình

xây dựng cơ bản trọng điểm và các dự án Chính phủ. Trong khi đó hiện nay

kiểm toán nhà nước mới có gần 500 cán bộ ở trung ương và 4 khu vực. Theo

tương quan về số lượng ta thấy yêu cầu bức bách với tăng cường đào tạo đội

ngò cán bộ kiểm toán nhà nước hiện nay.

Bên cạnh đó, yêu cầu đặt ra là phải thông qua hoạt động kiểm toán phải

thúc đẩy sự lành mạnh hoá nền tài chính Quốc gia. Sau mỗi lần thực hiện

kiểm toán phải góp phần nâng cao trình độ quản lý, đặc biệt là góp phần chấn

chỉnh nâng cao chất lượng kế toán trong các cơ quan Nhà nước, các doanh

nghiệp Nhà nước, thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính

công. Để làm như vậy thì phải có đội ngò kiểm toán viên không những đủ về

Page 15: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

số lượng mà còn phải có phẩm chất và trình độ chuyên môn cao, phù hợp với

đòi hỏi và yêu cầu của kiểm toán. Trong khi đó với thực trạng chất lượng đội

ngò kiểm toán viên nhà nước hiện nay đã nêu và những căn cứ trên chúng ta

cần có sớm một chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm toán nhà nước

như là một sự đảm bảo cho chiến lược tăng trưởng và phát triển bền vững vào

đầu thế kỷ 21.

Page 16: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

PHẦN III: MỤC TIÊU, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ

1.Mục tiêu

Muốn xây dựng một chương trình đào tạo kiểm toán viên Nhà nước

chúng ta xác định rõ mục tiêu công tác.

Mục tiêu đó bao gồm:

1.1. Đạo đức nghề nghiệp: Đội ngò kiểm toán viên Nhà nước phải đáp

ứng những yêu cầu cơ bản sau: có kỹ năng và khả năng nghề nghiệp, chính

trực, khách quan, độc lập và phải tôn trọng bí mật.

1.2. Năng lực làm việc:

Có hiểu biết và kiến thức rộng, có đủ năng lực về chuyên môn và công

nghệ kiểm toán.

Nắm bắt, xử lý tình huống kiểm toán ngày càng đa dạng và phức tạp, có

bản lĩnh chủ động và sáng tạo đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ kiểm toán.

Hiện nay đối với kiểm toán Nhà nước thì nhu cầu đào tạo là rất lớn

nhưng khả năng để đáp ứng còn bị hạn chế rất nhiều. Vì vậy vấn đề đặt ra là

sớm hoạch định một chiến lược đào tạo bồi dưỡng và phải có cơ sở vật chất

để triển khai một cách kiên trì và quyết liệt.

2. Các giải pháp để đào tạo kiểm toán viên Nhà nước ở Việt Nam

2.1. Xây dựng một chiến lược đào tạo bồi dưỡng cán bộ giải quyết

những vấn đề còn hạn chế nhằm tạo ra một đội ngò kiểm toán viên Nhà nước

đủ về số lượng mạnh về chất lượng (bao gồm cả phẩm hạnh về nghề nghiệp

kiến thức hiện đại, trình độ và phương pháp kiểm toán, có đủ sức khoẻ để

phục vụ lâu dài trong ngành) nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cho

từng loại kiểm toán viên.

Page 17: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

2.2. Kiên trì thực hiện kế hoạch bồi dưỡng vào việc cập nhật hoá kiến

thức cho số cán bộ cũ, trợ giúp về kinh nghiệm và kiến thức chuyên ngành

cho đội ngò cán bộ mới bao gồm cả kiến thức luật pháp, kinh tế vi mô, kinh tế

vĩ mô, luật về kế toán, kiểm toán và các kiến thức bổ trợ cho việc giảng dạy

và học tập...

2.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng và hiệu

quả đào tạo. Xây dựng một đội ngò giáo viên giàu kinh nghiệm nhằm đảm

bảo qui trình đào tạo với chất lượng cao.

2.4. Xây dựng cơ sở vật chất cho quá trình đào tạo, củng cố và phát triển

tiềm lực cho trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ kiểm toán Nhà nước để

đảm bảo cho công tác đào tạo lâu dài.

2.5. Tổ chức công tác nghiên cứu khoa học phục vụ cho đào tạo các

kiểm toán viên Nhà nước, tạo nguồn kiến thức và đúc rút kinh nghiệm cho

quá trình đào tạo kiểm toán viên.

2.6. Đổi mới công tác tuyển chọn cán bộ đầu vào nhằm cả vào hai đối

tượng. Chỉ lùa chọn cán bộ cũ có đầy đủ điều kiện và thi tuyển kiểm toán viên

từ những sinh viên ưu tó của trường đại học để bồi dưỡng thành một lực

lượng kiểm toán viên giỏi có đủ khả năng đảm trách nhiệm vụ lâu dài và đáp

ứng được nhu cầu mới.

2.7. Mở rộng quan hệ giao lưu quốc tế về đào tạo bồi dưỡng kiểm toán

viên nhà nước, giúp kiểm toán viên có cơ hội và điều kiện hội nhập với Quốc

tế. Đây là một nhu cầu không thể thiếu được đặc biệt là trong điều kiện hiện

nay, kiểm toán viên Nhà nước là thành viên của hai tổ chức INTOSAI và

ASOSAI và có quan hệ hợp tác với một số nước như: Đức, Anh, Nhật... mối

quan hệ quốc tế đó sẽ giúp chúng ta trong việc đào tạo đội ngò cán bộ kiểm

toán viên Nhà nước, cung cấp những tư liệu giáo trình, những kinh nghiệm

Page 18: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả nghiên cứu của

kiểm toán nhà nước.

3. Kiến nghị.

Hiện nay, hoạt động của kiểm toán Nhà nước vẫn còn thiếu sự bảo đảm

của pháp luật. Hành lang pháp lý cao nhất cho loại hình hoạt động này chỉ

dừng ở Nghị định của Chính phủ. Để hoạt động kiểm toán thực sự có hiệu

quả, nhu cầu cấp thiết đặt ra là phải có một cơ sở pháp lý vững chắc nhằm

khuyến khích kiểm toán nhà nước phát triển mạnh.

Bên cạnh đó, cần tiến hành xây dựng hệ thống chức danh tiêu chuẩn của

kiểm toán viên. Sát hạch để nâng cấp, nâng bậc và cấp chứng chỉ hành nghề

của kiểm toán viên. Đặc biệt coi trọng việc gìn giữ phẩm chất đạo đức của

kiểm toán viên, chú trọng nâng cao chất lượng kiểm toán. Định kỳ tổ chức

học tập chính trị, rèn luyện, tu dưỡng lương tâm, đạo đức và việc hành nghề

cho kiểm toán viên. Nâng cao tính trách nhiệm cá nhân của kiểm toán viên

trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm toán. Kiểm toán viên phải chịu trách

nhiệm trước kết quả kiểm toán và những nhận xét, kết luận của mình trong

báo cáo kiểm toán.

- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát về chất lượng kiểm toán và đạo đức

hành nghề của kiểm toán viên. Xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm

qui chế hoạt động, vi phạm đạo đức hành nghề, vi phạm pháp luật để công tác

kiểm toán đi vào kỷ cương nề nếp.

- Ngày nay, các cử nhân kiểm toán khi ra trường vẫn chưa đủ trình độ

hành nghề kiểm toán viên. Để có một đội ngò kiểm toán viên Nhà nước chất

lượng cao, chóng ta phải phấn đấu để trình độ kiểm toán viên nước ta tương

đương với Quốc tế. Vì vậy, việc đầu tư cho giáo dục đặc biệt là giáo dục sau

đại học cũng tạo ra một tương lai sáng sủa cho ngành trong thời gian tới. Có

thể nói đầu tư cho giáo dục trồng người, xây dựng đội ngò cán bộ trong thời

Page 19: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

kỳ mới là đầu tư có hiệu quả nhất, lâu bền nhất. Hơn nữa hiện nay kiểm toán

là hoạt động hoàn toàn mới mẻ và còn non trẻ. Việc tạo mọi điều kiện thuận

lợi về vật chất để có một hệ thống đào tạo hoàn thiện cả về chất lượng và số

lượng là vô cùng cấp thiết. Ngoài ra Nhà nước ta nên thực hiện chính sách ưu

đãi đối với cán bộ nói chung và kiểm toán viên nói riêng để khuyến khích họ

chuyên tâm công tác.

Bản thân mỗi kiểm toán viên Nhà nước, không ngừng rèn luyện nâng

cao trình độ nghề nghiệp tự hoàn thiện về đạo đức.

Page 20: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

KẾT LUẬN

Em nhận thấy rằng từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế

có sự quản lý của Nhà nước thì hoạt động kiểm toán ngày càng phát triển. Sở

dĩ nh vậy là do hoạt động kiểm toán nâng cao chất lượng báo cáo tài chính và

nâng cao độ tin cậy của các thông tin nhưng điều quan trọng là để tạo ra một

hành lang pháp lý vững chắc và thước đo chất lượng. Kiểm toán đòi hỏi phải

sớm ban hành một chuẩn mực kiểm toán quy định rõ tính pháp lý của các báo

cáo kiểm toán và trách nhiệm pháp lý của những người kiểm tra để tránh được

một cách tối đa những sai sót ở cấp kiểm tra cao nhất. Chúng ta chuyển sang

nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước có thể

nói là tạo điều kiện tự do hơn, tự chủ hơn cho các thành phần kinh tế đồng

thời cũng nảy sinh rất nhiều mối quan hệ phức tạp, kinh tế phát triển càng

cao có nhiều mâu thuẫn về lợi Ých kinh tế vì vậy muốn đảm bảo tăng trưởng

bền vững trong những năm đầu thập kỷ 21 thì càng phải đề cao hơn nữa vai

trò của kiểm toán trong đó có đội ngò kiểm toán viên nhà nước là thành phần

nòng cốt. Chúng ta cũng thấy được yêu cầu cấp bách trong công tác đào tạo

đội ngò kiểm toán viên. Cần sớm có một chiến lược rõ ràng và hiệu quả để

lực lượng kiểm toán sớm trở thành cánh tay đắc lực của Nhà nước trong ổn

định và tăng trưởng nền kinh tế một cách bền vững.

Page 21: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Kiểm toán - Vương Đình Huệ.

2. Kiểm toán - Auditing - Alvin A. Arens và James K. Loebbecke

(Do Đặng Kim Cương và Phan Văn Dược - dịch)

3. Chuẩn mực kiểm toán quốc tế.

4. Nguyễn Hồng Thuỷ: Từ khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực

suy nghĩ về con đường phát triển của Việt Nam.

Tạp chí kinh tế phát triển số 7 (tháng 8+9 - 1999)

5. * Tăng trưởng kinh tế và điều kiện đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền

vững giai đoạn 1996 - 2000.

* Mô hình phát triển kinh tế xã hội đảm bảo sự tăng trưởng bền vững

ở nước ta.

Tạp chí kinh tế và phát triển số 7 (T8 +9 - 1995)

6. Mục tiêu và các giải pháp lớn của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội

năm 2000 của thành phố Hà Nội.

Tạp chí kinh tế và dự báo số 10 - 1999

7. Nguyễn Chu Hồi + Bùi Trọng Định: về việc lập kế hoạch phát triển

bền vững ở Việt Nam.

Tạp chí kinh tế và dự báo số 9 năm 1999

8. Tạp chí kiểm toán các số 2,4,5 - 1998

9. Tạp chí kiểm toán số 4,5 - 1999

10. Tạp chí kế toán số 1,3,4,5 - 1998

Page 22: vai-tro-cua-viec-dao-tao-Kiem Toán

11. Một số công trình nghiên cứu khoa học của sinh viên khoa kế toán.

MỤC LỤC