Upload
voxeoto68
View
1.104
Download
6
Embed Size (px)
Citation preview
1
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
-----------
TRẦN THỊ THU HẰNG
Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, từ 1996 đến 2005
Chuyên ngành : Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Mã số : 60.22.56
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thành tựu của công cuộc đổi mới là một trong ba thắng lợi vĩ đại của cách
mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, hoàn thành chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
khoa học và bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Việt Nam đã phá được thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tăng
cường mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững ổn định
chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh. Kinh tế tăng tưởng, đời sống của nhân
dân được cải thiện, vị thế Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Đất
nước ta có được thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, là nhờ đường lối đổi mới
do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Trong 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Đảng
Cộng sản Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách thể hiện rõ sự đổi mới
trong tư duy kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một chủ trương lớn của Đảng
ta. Đây chính là một trong những nội dung quan trọng trong đường lối phát triển
kinh tế thời kỳ đẩy mạnh công hiện hoá, hiện đại hoá đất nước, với mục tiêu đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng bộ và
nhân dân các tỉnh, thành phố trong cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng, trong
nhiều năm qua đã phát huy nội lực và thuận lợi, khắc phục mọi khó khăn, thách
thức, từng bước thực hiện có hiệu quả chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thực tiễn những năm qua đã chứng minh chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển kinh tế khách
quan, phù hợp sự phát triển không đồng đều của lực lượng sản xuất và phù hợp
với lòng dân. Nhờ có chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà cơ cấu kinh tế
có nhiều thay đổi và đạt kết quả to lớn, góp phần làm thay đổi bộ mặt địa
phương, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần vào sự nghiệp chung: Xây dựng
CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Hà Nội, Thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học công nghệ, giáo dục - đào tạo và giao 2
dịch quốc tế. Hà Nội có vị trí địa lý thuận lợi, nơi hội tụ nhiều tiềm năng cho sự
phát triển so với nhiều thành phố khác. Vì vậy, Nghị quyết Bộ chính trị (15-12-
2000) về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô, giai đoạn 2001-2010, nhấn
mạnh Hà Nội “là trái tim của cả nước, đầu não chính trị - hành chính quốc gia,
trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế" [8,
tr.3]-tư tưởng hồ chí minh
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ Thành phố Hà Nội đã
nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
đối với sự phát triển kinh tế của Thủ đô. Do vậy, Đảng bộ đã phát huy truyền
thống năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của người dân Hà Nội, đồng thời
đẩy mạnh khai thác tiềm năng của thành phố. Sau 20 năm tiến hành đổi mới,
kinh tế - xã hội Thủ đô đạt được nhiều thành tựu to lớn. Kinh tế tăng trưởng
nhanh, cơ cấu kinh tế có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần to lớn vào sự phát
triển chung của Thành phố trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; bộ mặt Thủ đô có nhiều thay đổi; đời sống của nhân dân không ngừng
nâng cao; an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định.Vai trò lãnh đạo của
Đảng bộ được củng cố, tăng cường, đáp ứng nhu cầu phát triển cả bề rộng lẫn
chiều sâu. Đạt được kết quả trên là do Đảng bộ Hà Nội luôn quan tâm chỉ đạo
xây dựng, “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là khâu then
chốt” [4, tr.58], quan tâm lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thủ đô phù hợp
với định hướng của Trung ương, phù hợp điều kiện cụ thể của Hà Nội. Chủ
trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế luôn được Đảng bộ Hà Nội chú ý tổng kết,
hoàn thiện, đổi mới trong thực tiễn các giai đoạn phát triển kinh tế của thành
phố.
Việc đánh giá đầy đủ, khách quan, khoa học qúa trình lãnh đạo thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng bộ Hà Nội và việc khẳng định tính đúng
đắn của chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng ta, là một vấn đề có ý
nghĩa chiến lược để xây dựng và phát triển nền kinh tế Thành phố Hà Nội. Mặt
khác, thành tựu, khuyết điểm, thuận lợi và khó khăn, kinh nghiệm thành công và
chưa thành công… trong sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Nội về chuyển dịch cơ 3
cấu kinh tế, cũng là những vấn đề của một số tỉnh, thành phố khác có đặc điểm,
vị trí, điều kiện tương tự, cần được nghiên cứu, tổng kết, rút kinh nghiệm, để
thực hiện thành công chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Từ đó tổng kết kinh nghiệm,
hoàn chỉnh về lý luận, phát triển về thực tiễn để tiếp tục hoàn thiện hơn nữa việc
cụ thể hoá đường lối của Đảng đối với từng địa phương, trong đó có Thành phố
Hà Nội.
Vì thế, tôi chọn đề tài "Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từ 1996 đến
2005" làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
chuyển dịch CCKT ở Việt Nam như: GS. Đỗ Đình Giao: Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, NXB
Chính trị Quốc gia, H, 1994; PGS. Đỗ Hoài Nam: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành và phát triển mũi nhọn, NXB KHXH, H, 1996; Lê Du Phong: Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng, thực trạng và
triển vọng, NXB Chính trị Quốc gia, H, 2003; Trần Ngọc Hiên: Mối quan hệ
công - nông nghiệp - dịch vụ trong sự hình thành nền kinh tế thị trường ở nước
ta, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, H, 1997; PGS.TS. Nguyễn Văn Khanh: Biến
đổi cơ cấu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở vùng châu thổ sông Hồng trong
thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, H, 2003; Ban Tư tưởng - Văn hoá
Trung ương và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn: Con đường công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, NXB Chính trị
Quốc gia, H, 2003; Davit Dapice: Việt Nam cải cách kinh tế theo hướng rồng
bay, NXB Chính trị Quốc gia, H, 1994…
Ở Trung ương và địa phương có nhiều đề tài nghiên cứu, về chuyển dịch
CCKT: Đề tài KX- 08 “Phát triển tổng thể kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam”,
1995. Thành uỷ Hà Nội có Chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm
01X13 và kết quả nghiên cứu đã in thành sách: Hai mươi năm đổi mới ở Thủ đô 4
Hà Nội định hướng phát triển đến năm 2010, NXB Hà Nội, 2005. Cuốn sách là
công trình nghiên cứu công phu, nội dung phong phú, đề cập đến hầu hết các
vấn đề cơ bản của quá trình đổi mới ở Thủ đô, trong đó có vấn đề CCKT và
chuyển dịch CCKT. Đây cũng là công trình tổng kết thực tiễn của Hà Nội.
Đã có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, viết về lĩnh vực này và đã bảo vệ thành công như: Đào Thị
Vân, “Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 1997 - 2003”. Luận văn thạc sĩ chuyên
ngành lịch sử Đảng, đã bảo vệ thành công tại ĐHQG, Hà Nội, năm 2004;
Nguyễn Ngọc Thanh, “Đảng bộ huyện Gia Lâm (Hà Nội) lãnh đạo thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1991 - 2000)”, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch
sử Đảng, đã bảo vệ thành công tại Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội 2004;
Đặng Thị Kim Oanh, “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu
kinh tế từ năm 1997 đến năm 2003”. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử
Đảng, đã bảo vệ thành công tại ĐHQG, Hà Nội, năm 2005...
Ngoài ra cũng có nhiều bài viết về chuyển dịch cơ cấu kinh tế đăng trên
các tạp chí chuyên ngành.
Các công trình nghiên cứu này chủ yếu đề cập đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, cơ cấu kinh tế ở đồng bằng sông Hồng hoặc
cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn ở nước ta… Một vài công trình có đề cập
đến sự lãnh đạo của Đảng bộ về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở một số tỉnh. Ở Hà Nội mới chỉ có một công trình
nghiên cứu về Đảng bộ Gia Lâm lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Huyện
Gia Lâm. Chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện
và đầy đủ về: Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từ 1996 đến 2005.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
5
+ Làm rõ quá trình vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối, chủ trương
của Trung ương trong lãnh đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa
phương của Đảng bộ Thành phố Hà Nội, từ 1996 đến 2005.
+ Đánh giá bước đầu thành tựu và hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ở Hà Nội, từ 1996 đến 2005.
+ Nêu lên một số kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của Đảng bộ Thành phố Hà Nội, từ 1996 đến 2005.
- Nhiệm vụ:
+ Trình bày một cách có hệ thống đường lối, chủ trương của Đảng về phát
triển kinh tế, về chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ 1996 đến 2005.
+ Trình bày quá trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội vận dụng đường lối,
chủ trương của Trung ương, lãnh đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở
Thủ đô Hà Nội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từ 1996 đến 2005.
+ Phân tích kết quả quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của Đảng bộ Hà Nội.
+ Tổng kết những kinh nghiệm trong lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của Đảng bộ Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Là sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Nội, là nghiên cứu những chủ trương,
giải pháp của Đảng bộ trong lãnh đạo, chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từ 1996 đến 2005.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Địa bàn nghiên cứu là Thành phố Hà Nội. Thời gian nghiên cứu từ
tháng 5 - 1996 (Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XII) đến tháng 12 -
2005 (Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XIV)
+ Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế có một số nội dung chính: chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội ngành, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế vùng, chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Luận văn tập trung nghiên
cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và nội ngành.6
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu, nguồn tư liệu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được tiến hành trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng một số phương pháp chuyên ngành như: Phương pháp
lịch sử và phương pháp lôgic, ngoài ra còn kết hợp các phương pháp như phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tiễn…
- Nguồn tư liệu:
+ Các văn kiện Đại Hội Đảng VI, VII, VIII, IX, X và nghị quyết Trung
ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khoá VI, VII, VIII, IX về phát triển
kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
+ Tác phẩm của Hồ Chí Minh về Đảng lãnh đạo kinh tế.
+ Các văn kiện Đại hội, hội nghị của Đảng bộ Thành phố Hà Nội các
khoá IX, X, XI, XII, XIII, XIV, các nghị quyết chỉ thị một số Quận uỷ, Huyện
uỷ tiêu biểu về kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Báo cáo hàng năm của
Thành uỷ, UBND thành phố, Báo cáo của Sở Kế hoạch - Đầu tư, Sở Công
nghiệp, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Sở du lịch - Thương mại. Niên
giám thống kê thành phố, tài liệu khảo sát thực tế…
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá chủ trương, giải pháp của Đảng bộ Thành phố Hà Nội
trong lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phương, từ 1996 đến 2005.
- Phân tích đánh giá một cách khách quan, khoa học thành tựu và hạn chế
trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở thủ đô Hà Nội, từ 1996 đến 2005.
- Rút ra một số kinh nghiệm của Đảng bộ Hà Nội về lãnh đạo, chỉ đạo
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng tham khảo trong nghiên
cứu và giảng dạy lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội thời kỳ đổi mới.7
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn gồm 2 chương, 7 tiết.
8
CHƯƠNG I. NHỮNG CHỦ TRƯƠNG VÀ QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO CỦA
ĐẢNG BỘ HÀ NỘI THỰC HIỆN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
(1996 - 2000)
1.1. ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU KINH TẾ
1.1.1.Một số khái niệm về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tếTrong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế, đặc biệt trong đường lối đổi
mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức sâu sắc việc chuyển dịch
CCKT, và coi đây là một trong những nội dung cốt lõi quan trọng nhất trong
chiến lược phát triển kinh tế theo định hướng XHCN. Vì thế, việc xác định được
một CCKT hợp lý sẽ thúc đẩy việc xây dựng cơ cấu sản xuất, điều chỉnh cơ cấu
đầu tư, cơ cấu lao động, tạo cơ sở vững chắc cho quá trình phân công lao động,
xã hội hóa lực lượng sản xuất, đổi mới quan hệ sản xuất, đẩy mạnh phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tạo động lực to lớn thúc đẩy nhằm đạt
mục tiêu kinh tế - xã hội. Mặt khác, chuyển dịch CCKT còn có vai trò đặc biệt
quan trọng để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN. Vì vậy, trong
quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ
trương và kiên quyết lãnh đạo thực hiện chuyển dịch CCKT theo hướng CNH,
HĐH.
C.Mác khi phân tích quá trình phân công lao động xã hội đã chỉ rõ:
“chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp
với quá trình phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất” [59, tr.70].
Khi xét CCKT là nói đến tổng thể cấu trúc của nền kinh tế với các bộ
phận hợp thành, với tỷ trọng tương ứng của mỗi bộ phận và quan hệ tương tác
giữa các bộ phận ấy trong quá trình sản xuất xã hội. CCKT chỉ ổn định tương
đối theo thời gian và không gian nhất định, nó thay đổi và phát triển theo sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Trong từng thời kỳ nhất định của quá trình tăng
trưởng kinh tế, nhà nước phải thông qua việc nhận thức các quy luật kinh tế
9
khách quan, phân tích đánh giá các xu thế của nền kinh tế, tìm ra phương án tối
ưu để điều chỉnh CCKT trong những điều kiện cụ thể của đất nước.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, xuất bản năm 2003: “cơ cấu kinh tế là
tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn
định hợp thành” [108, tr. 610].
CCKT giữ vai trò cốt lõi của nền kinh tế - xã hội, thể hiện trình độ phát
triển chuyên môn hóa các ngành kinh tế trong từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử.
CCKT phản ánh nội dung kinh tế của một xã hội, một vùng nên nó có lịch sử
không ngừng vận động, phát triển. CCKT không phải là hệ thống tĩnh mà là hệ
thống động, các nhân tố của CCKT vận động trong mối quan hệ hữu cơ tác động
lẫn nhau, ràng buộc chặt chẽ với nhau; giai đoạn sau cao hơn, hoàn thiện hơn so
với giai đoạn trước.
CCKT mang tính khách quan, được hình thành trên cơ sở trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã hội, sự tăng trưởng của
các yếu tố cấu thành nền kinh tế.
CCKT có các loại khác nhau; có thể nghiên cứu chuyển dịch CCKT dưới
nhiều trình độ, lĩnh vực nhưng về cơ bản nội dung đó gồm: cơ cấu nền kinh tế
quốc dân, cơ cấu theo ngành kinh tế - kỹ thuật, cơ cấu theo vùng, cơ cấu theo
đơn vị hành chính - lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế.
Trong những nội dung chủ yếu của CCKT, CCKT ngành là nội dung cơ
bản nhất quyết định phản ánh sự phát triển theo quan hệ cung cầu của thị trường,
theo tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Cơ cấu các thành phần kinh tế chỉ rõ
thành phần quan trọng thực hiện CCKT ngành, theo hướng của cơ cấu ngành,
các thành phần kinh tế được tổ chức thực hiện. Nhưng cơ cấu ngành và cơ cấu
thành phần kinh tế chỉ có thể được chuyển dịch đúng đắn trên từng lãnh thổ, địa
phương dựa trên cơ sở sự phân bố lãnh thổ một cách hợp lý để phát triển các
ngành và các thành phần kinh tế, đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Để có CCKT hợp lý phải thỏa mãn được một số tiêu chí cơ bản sau: Thứ
nhất, CCKT phải phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, trước hết là quy luật 10
kinh tế cơ bản. Thứ hai, CCKT phải khai thác hợp lý và phát huy được nguồn
lực, tiềm năng của đất nước, từng vùng, từng địa phương, vận dụng những tiến
bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Thứ ba, CCKT phải tạo nên sự phát
triển cân đối, phát huy lợi thế của các vùng các ngành kinh tế. Thứ tư, CCKT
phải tạo lên sự gắn kết giữa các loại thị trường trong nước và ngoài nước, mở
rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Thứ năm, CCKT phải tạo được tích lũy
ngày càng tăng cho nền kinh tế quốc dân, cùng với xã hội phát triển lành mạnh,
giữ vững quốc phòng an ninh.
Những nội dung chủ yếu của CCKT quốc dân có thể nghiên cứu dưới
nhiều góc độ, lĩnh vực, nhưng về cơ bản gồm: CCKT ngành kinh tế, CCKT
thành phần kinh tế, CCKT theo đơn vị hành chính lãnh thổ:
Cơ cấu kinh tế theo ngành kinh tế:
CCKT ngành là bộ phận cấu thành cơ bản của nền kinh tế quốc dân, là
nòng cốt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế.
Có nhiều cách phân loại ngành trong mỗi nền kinh tế. Có thể dựa vào đặc
điểm kinh tế kỹ thuật của mỗi ngành mà phân thành 3 ngành chủ yếu một cách
khái quát nhất là: công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Trong CCKT ngành, lĩnh
vực quan trọng nhất là nông nghiệp và công nghịêp, nhưng nông nghiệp và công
nghiệp muốn phát triển mạnh phải thông qua hệ thống dịch vụ.
Nông nghiệp, bao gồm nông - lâm - ngư nghiệp gắn liền với phát triển
toàn diện nông nghiệp nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Nông nghiệp là
ngành trực tiếp sản xuất ra các sản phẩm vật chất trực tiếp phục vụ nhu cầu thiết
yếu cho sự tồn tại phát triển của xã hội loài người, là nơi cung cấp sức lao động,
nguyên liệu và là thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm cho ngành công nghiệp
và dịch vụ.
Công nghiệp, bao gồm công nghịêp chế tạo, công nghiệp khai khoáng và
luyện kim, công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
và hàng xuất khẩu, công nghiệp nguyên liệu, công nghiệp điện tử tin học…Công
nghiệp đóng vai trò quan trọng quyết định sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu
11
tiêu dùng. Do vậy, công nghiệp được xếp vào vị trí hàng đầu của quá trình CNH,
HĐH.
Dịch vụ, là cầu nối giữa sản xuât nông nghiệp với công nghiệp, giữa sản
xuất với tiêu dùng; thể hiện quá trình trao đổi giữa các vùng, miền, giữa thành
thị với nông thôn, giữa trong nước với ngoài nước. Trong quá trình sản xuất,
dịch vụ có vai trò đáp ứng đầy đủ các nhu cầu đầu vào và đầu ra cho sản phẩm.
Dịch vụ thực hiện mối tương tác giữa các bộ phận hợp thành CCKT. Khi trình
độ phát triển kinh tế hàng hóa ngày càng cao, sự phân công lao động hóa ngày
càng nhanh, càng sâu rộng thì tỷ lệ dịch vụ trong CCKT ngày càng lớn.
Việc phân tích cơ cấu ngành kinh tế không chỉ phân tích về mặt lượng,
(số lượng, tỷ trọng…) mà điều quan trọng phải phân tích cho được mặt chất của
cơ cấu ngành: vị trí, vai trò, xu hướng vận động, sự tương tác giữa các ngành
hoặc phân ngành trong mối liên hệ phát triển chung với toàn bộ nền kinh tế, khả
năng hướng ngoại, khả năng chiếm lĩnh thị trường và đáp ứng nhu cầu xã hội,
quan hệ giữa cơ cấu ngành với cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế v.v.
Cơ cấu ngành luôn vận động và biến đổi phát triển không ngừng, nhất là
trong điều kiện cơ chế thị trường. Do vậy, khi phân tích cơ cấu ngành, phải làm
rõ tính quy luật của sự vận động, tìm ra phương hướng chuyển dịch CCKT
ngành phù hợp với CCKT khác và đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh
tế quốc dân trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Thông thường, một nền
kinh tế có ba ngành kinh tế cơ bản: nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Việc sắp
xếp thứ tự ưu tiên như thế nào là phụ thuộc vào lợi thế của từng ngành và của
mỗi nước trong từng thời kỳ khác nhau của đất nước. Cơ cấu ngành còn quyết
định cơ cấu đầu tư vào mỗi ngành trong từng thời kỳ để từ đó đánh giá được
hiệu quả đầu tư cho mỗi ngành, tính toán được cơ cấu sản phẩm và khả năng
thỏa mãn nhu cầu thị trường của từng loại sản phẩm.
Chuyển dịch CCKT ngành là quá trình làm thay đổi cấu trúc các mối liên
hệ của các ngành hoặc các phân ngành trong một ngành theo xu hướng, mục tiêu
và phương hướng nhất định. Đó là sự thay đổi có mục đích, có định hướng và
lựa chọn trên cơ sở phân tích đầy đủ, có cơ sở lý luận và thực tiễn, cùng với việc 12
áp dụng đồng bộ các giải pháp để chuyển dịch cơ cấu ngành từ trạng thái này
sang trạng thái khác một cách hợp lý và có hiệu quả hơn.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng CNH, HĐH là quá trình
làm thay đổi nền kinh tế từ chỗ có cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc
hậu, sang cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại, đó là quá trình
làm tăng tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế gắn với sự biến
đổi của công nghệ và năng suất lao động, tạo lên sự phát triển nhanh và bền
vững trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình ấy cơ cấu phân ngành trong
nội bộ ngành cũng có những biến đổi đáng kể cả về chất và lượng. Vì thế, yêu
cầu đặt ra là phải xác định được CCKT hợp lý và có hiệu quả, xác định được các
ngành mũi nhọn, các ngành trọng điểm, những ngành có tương lai phát triển và
đáp ứng được nhu cầu thị trường trong nước, ngoài nước và những vấn đề kinh
tế xã hội đặt ra trong mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước.
Cơ cấu kinh tế vùng thể hiện sự phân công lao động trên lãnh thổ với lợi
thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của mỗi vùng hình thành chuyên môn
hóa, đa dạng hóa nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực và tiềm năng kinh tế
trong vùng mang lại giá trị kinh tế. CCKT vùng gắn chặt chẽ với cơ cấu ngành
kinh tế, hợp thành hai mặt của quá trình phát triển.
Cơ cấu thành phần kinh tế đòi hỏi phải tạo được mối quan hệ hợp tác, hỗ
trợ giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân nhằm khai thác tiềm
năng nhân lực vật lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đai Hội X chỉ rõ:
nước ta hiện nay có năm thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể;
kinh tế tư nhân (kinh tế cá thể, tiểu chủ); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình
đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Trong quá trình phát triển kinh tế, lực lượng sản xuất luôn biến động
trong quá trình phát triển sản xuất và tái sản xuất. Vì vậy để phù hợp với quy
luật phát triển kinh tế khách quan CCKT cũng thường xuyên biến đổi, chuyển
dịch.13
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, xuất bản năm 2003:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình cải biến kinh tế xã hội từ trạng
thái lạc hậu, mang nặng tính chất tự cấp tự túc từng bước chuyên môn hóa hợp
lí, trang bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại, trên cơ sở đó tạo ra năng xuất lao động
cao, hiệu quả kinh tế cao và nhịp độ tăng trưởng mạnh, cho nền kinh tế nói
chung. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm việc chuyển biến cơ cấu kinh tế
theo ngành, theo vùng lãnh thổ và các thành phần kinh tế [108, tr.535].
Việt Nam là một nước có nền kinh tế kém phát triển so với các nước trên
thế giới và khu vực. Vì thế, việc chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH
vừa là vấn đề mang tính tất yếu khách quan, đồng thời là quá trình đi lên từng
bước dựa trên sự kết hợp mật thiết của các điều kiện chủ quan, các lợi thế kinh
tế - xã hội tự nhiên trong nước, trong vùng, đơn vị kinh tế với các khả năng đầu
tư, hợp tác liên kết, liên doanh về sản xuất, dịch vụ tiêu thụ sản phẩm của các
nước, các vùng, đơn vị kinh tế khác nhau.
Chuyển dịch CCKT phải được coi là điểm chủ yếu, nội dung cơ bản lâu
dài trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Nếu xác định được phương hướng và
phương pháp chuyển dịch CCKT đúng, sẽ có hiệu quả kinh tế xã hội cao trong
sự phát triển; ngược lại, sẽ phải trả giá đắt cho tương lai. Trong thời đại ngày
nay - thời đại của sự bùng nổ cách mạng khoa học - công nghệ và xu hướng
quốc tế hóa sản xuất - không nước nào không phải tính đến sự chuyển dịch
CCKT.
Do điều kiện thực tế của nền kinh tế nước ta từ một nền kinh tế nông
nghiệp nghèo nàn lạc hậu, cùng với sự tàn phá khốc liệt của nhiều năm chiến
tranh giành độc lập và bảo vệ Tổ quốc, vì thế, để đưa nền kinh tế Việt Nam phát
triển kịp và bằng nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới, không
bị tụt hậu, đói nghèo, điều tất yếu phải thực hiện CNH, HĐH. Trên cơ sở đó
ĐCS Việt Nam đã khẳng định quan điểm nhất quán CNH, HĐH là nhiệm vụ
trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH.
Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
14
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương khóa VII (7-1994), đã
xác định rõ: CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng xuất lao động xã hội cao.
Mục tiêu chủ yếu của CNH, HĐH là biến nước ta thành một nước công
nghiệp có cơ sở vật chất kỹ - thuật hiện đại, CCKT hợp lý, quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lượng sản xuất, nâng cao đời sống vật chất,
hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân, đảm bảo quốc phòng an ninh vững
chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Đặc điểm lớn của CNH, HĐH ở nước ta là vì mục tiêu xây dựng thành
công CNXH. Đảng ta đã xác định CNH, HĐH trước hết là CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn tạo cho nông nghiệp nông thôn những điều kịên thực tiễn về
cơ sở vật chất kỹ thuật, con người, khoa học công nghệ.
Nước ta tất yếu phải tiến hành CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân. Bởi vì,
Thứ nhất, chỉ có CNH, HĐH mới có thể xây dựng được cơ sở vật chất cho chế
độ mới. Văn kiện Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994), chỉ rõ:
“CNH, HĐH là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước
chung quanh, giữ vững được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ
quyền và định hướng XHCN” [29, tr.27]. Thứ hai, CNH, HĐH còn tạo ra lực
lượng sản xuất mới về chất tạo tiền đề cho sự hình thành những mối quan hệ
mới về kinh tế - xã hội, chính trị trong toàn xã hội. Thứ ba, CNH, HĐH còn đáp
ứng yêu cầu khách quan của việc củng cố và tăng cường khả năng quốc phòng,
của sự thống nhất giữa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN. CNH,
HĐH tạo điều kiện mở rộng kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế khu
vực và quốc tế [54, tr. 82-84].
Một trong những nội dung cơ bản của CNH, HĐH là xác lập CCKT mới,
hợp lý tương ứng với cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại của CNXH. CCKT mới
là CCKT công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.15
Quá trình chuyển dịch CCKT trong thời kỳ quá độ là quá trình chuyển từ
nền kinh tế có cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang cơ cấu công
nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Đặc trưng cơ bản của quá trình chuyển dịch là
giá trị sản xuất của ba ngành trên đều tăng qua các giai đoạn, nhưng tỷ trọng của
ngành nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ tăng, tỷ trọng
lao động trong nông nghiệp giảm, tỷ lệ lao động trong công nghiệp và dịch vụ
ngày càng tăng.
Ở nước ta quá trình chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là quá
trình phức tạp kéo dài trong suốt thời kỳ quá độ, điều đó đòi hỏi Đảng và nhà
nước, các cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở từng địa phương phải quan tâm lãnh
đạo, tìm tòi, sáng tạo, năng động để xây dựng một CCKT hợp lý theo hướng
CNH, HĐH.
Để đẩy mạnh chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH, cần dựa vào
một số quan điểm sau:
- Chuyển dịch CCKT phải nhằm thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển, phù
hợp với mô hình định hướng XHCN.
- Chuyển dịch CCKT phải khai thác được tối ưu khả năng và thế mạnh
của từng vùng kinh tế trong cả nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành
phần kinh tế, tập trung đầu tư đúng mức cho một số vùng kinh tế trọng điểm, có
khả năng thu hồi vốn nhanh, đem lại hiệu quả kinh tế.
- Chuyển dịch CCKT phải đảm bảo các quy mô và bước đi thích hợp, chú
trọng quy mô vừa và nhỏ, vốn đầu tư ít, tạo được nhiều việc làm cho người lao
động, đặc biệt chú ý hình thành và phát triển các ngành kinh tế trọng điểm,
ngành kinh tế mũi nhọn có công nghệ kỹ thuật tiên tiến hiện đại.
- Chuyển dịch CCKT phải đảm bảo được nền kinh tế có hiệu quả, có môi
trường sinh thái bền vững, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế, gắn tăng cường
ổn định chính trị - xã hội và an ninh quốc phòng.
- Chuyển dịch CCKT phải phù hợp với xu hướng mở rộng quan hệ hợp
tác kinh tế trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tranh thủ khả năng thu hút vốn
16
đầu tư và công nghệ hiện đại của nước ngoài nhằm phát triển kinh tế thúc đẩy
mạnh quá trình chuyển dịch CCKT trong nước.
Có thể thấy vấn đề xuyên suốt là:
Quá trình chuyển dịch CCKT được hoạt động thông qua hoạt động đầu tư
và sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế dưới tác động của cơ chế thị
trường được nhà nước hướng dẫn và thúc đẩy bằng công cụ quản lý vĩ mô và
chương trình đầu tư dựa vào nguồn vốn tập trung [31, tr.12].
Nội dung cơ bản của CNH, HĐH bao gồm hai vấn đề cốt lõi là áp dụng
rộng rãi thành tựu của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất và
các ngành kinh tế, xây dựng CCKT phát triển hợp lý có hiệu quả và ngày càng
hiện đại. Vì vậy, chuyển dịch CCKT và CNH, HĐH có mối quan hệ biện chứng,
gắn bó với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Chuyển dịch CCKT theo hướng
hiện đại sẽ tạo điều kiện thuận lợi và là nội dung cốt lõi của CNH, HĐH đất
nước. Cho nên, qúa trình chuyển dịch CCKT vừa là nguyên nhân vừa là kết quả
của qúa trình CNH, HĐH và ngược lại CNH, HĐH nền kinh tế sẽ tạo tiền đề vật
chất - kỹ thuật và là con đường phương hướng, mục tiêu thúc đẩy chuyển dịch
CCKT phổ biến là sản xuất nhỏ mà chủ yếu là sản xuất nông nghiệp lên một nền
kinh tế công nghiệp ngày càng hiện đại, có năng xuất cao, thúc đẩy sự phát triển
đồng bộ nền kinh tế quốc dân.
Đối với nước ta hiện nay, chuyển dịch CCKT tất yếu phải gắn liền và phải
phát triển theo hướng CNH, HĐH. Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH
là nội dung là điều kiện cho sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh
tế quốc dân và thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp.
Chuyển dịch CCKT là chiến lược kinh tế tổng quát nhằm khai thác lợi thế
tối ưu của các vùng, các ngành, các lĩnh vực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tạo
nên sự gắn kết giữa các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế, xuất hiện
những yêu cầu đòi hỏi lớn hơn để các yếu tố thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Để phát triển kinh tế đất nước, ở nước ta có thể đẩy mạnh chuyển dịch
CCKT theo hướng CNH, HĐH mới có thể khắc phục được nguy cơ tụt hậu xa 17
hơn về kinh tế so với các nước trên thế giới và khu vực, tạo điều kiện mở rộng
thị trường trong và ngoài nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút các
nguồn vốn đầu tư, kế thừa có chọn lọc kinh niệm quản lý, chuyển giao công
nghệ tiên tiến trên thế giới.
Sự chuyển dịch CCKT từ lạc hậu, ít hiệu quả sang cơ cấu hợp lý tối ưu,
có hiệu quả cao gắn với bước tăng trưởng cơ sở vật chất kỹ thuật do quá trình
CNH, HĐH tạo ra sẽ góp phần quan trọng tăng cường sức mạnh của hệ thống
chính trị XHCN, từ đó thúc đẩy sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học công
nghệ, phát triển văn hóa xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, giữ vững
an ninh quốc phòng, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về kinh tế giữa các vùng
miền, nhất là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, nông thôn với thành thị, tạo động lực
cho phát triển toàn diện đất nước.
Do vậy, có thể thấy chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là một
trong những nội dung kinh tế cốt lõi trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của
Đảng và nhân dân ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
1.1.2. Đường lối của Đảng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ đổi mớiChủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo lý luận cách mạng của chủ
nghĩa Mác-Lênin về CNXH và con đường tiến lên CNXH. Người chỉ rõ mối
quan hệ gắn bó hữu cơ, tác đông biện chứng thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển
giữa hai ngành kinh tế cơ bản: công nghiệp và nông nghiệp. Tháng 4-1962,
trong bài nói chuyện tại hội nghị lần thứ bảy BCH Trung ương Đảng Lao Động
Việt Nam (khóa III), Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Công nghiệp và nông nghiệp
là hai chân của nền kinh tế. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ
lẫn nhau và cùng phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiếp bước sẽ
nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích” [55, tr.544-545].
Nước ta là một nước nông nghiệp truyền thống do vậy việc phát triển
nông nghiệp luôn được chú trọng hàng đầu trong chặng đường đầu tiên của thời
kỳ quá độ lên CNXH. Người khẳng định: “phải lấy nông nghiệp làm chính, phải
toàn diện phải chú ý các mặt công nghiệp, thương nghiệp tài chính, ngân hàng,
giao thông, kiến trúc, văn hóa, giáo dục, y tế các ngành này phải lấy nông
18
nghiệp làm trung tâm” [56, tr.396]. Nông thôn phải tăng gia sản xuất, thực hành
tiết kiệm thì mới giàu có. Nông thôn giàu sẽ mua nhiều hàng hóa do công nghiệp
sản xuất ra. Đồng thời nông nghiệp cung cấp đầy đủ nguyên liệu, lương thực cho
công nghiệp và thành thị. Như thế là nông thôn giàu có giúp cho công nghiệp
phát triển. Công nghiệp lại thúc đẩy nông nghiệp phát triển mạnh hơn nữa. Công
nghiệp, nông nghiệp phát triển thì dân giàu nước mạnh. Khi đánh giá vai trò của
nông nghiệp, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Vì nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực và nguyên liệu, đồng thời
là nguồn xuất khẩu quan trọng, nông thôn là thị trường tiêu thụ to nhất hiện nay,
cho nên cần cải tạo và phát triển nông nghiệp thì mới có cơ sở để phát trển các
ngành kinh tế khác. Phải cải tạo và phất triển nông nghiệp để tạo điều kiện cho
việc công nghiệp hóa nước nhà [55, tr.14-15].
Những tư tưởng trên của Hồ Chí Minh đã đặt nền móng quan trọng cho
việc xác định một CCKT hợp lý giữa công nghiệp và nông nghiệp trong xây
dựng CNXH ở nước ta. Vì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn tiến lên CNXH thì
phải phát triển kinh tế công nghiệp và nông nghiệp vì hai ngành đó có quan hệ
khăng khít, hỗ trợ, tác động, thúc đẩy nhau cùng phát triển trong nền kinh tế
quốc dân thống nhất.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng, cơ sở quan trong để xây dựng chủ
trương, đường lối về phát triển các ngành kinh tế, CCKT hợp lý phù hợp với
nhiệm vụ xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ ở nước ta .
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng CNXH ở miền Bắc từ năm 1954 -
1975 và trên cả nước từ 1975 - 1985, căn cứ vào tình hình lịch sử cụ thể, Đảng
ta đã có nhiều chủ trương để phát triển kinh tế, trong đó nhấn mạnh vai trò và
mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp. Tuy nhiên do nhiều lý do khách
quan, chủ quan, có lúc còn nóng vội trong việc xác định mô hình kinh tế, vì thế
việc xác định CCKT, chuyển dịch CCKT có những yếu tố không hợp lý. CCKT
của cả nước và các địa phương suốt trong một thời gian dài chuyển dịch không
đáng kể, kinh tế tăng trưởng chậm, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã
hội, đời sống của nhân dân vô cùng khó khăn.19
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật,
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12 - 1986) đã tổng kết nêu lên bốn bài học
kinh nghiệm lớn, trong đó có bài học: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế
và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng” [26, tr.20]. Bài học này có ý nghĩa to lớn, nhưng quan trọng nhất là trên
lĩnh vực kinh tế.
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, quan điểm, chủ trương về
CCKT và chuyển dịch CCKT của Đảng là nhất quán, xuyên suốt và ngày càng
hoàn thiện qua các kỳ Đại hội, các Hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị các khóa
VI, VII, VIII, IX, X.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12-1986), với tinh thần đổi mới toàn
diện, bắt đầu đổi mới từ tư duy kinh tế, để phát triển kinh tế Đảng ta chỉ rõ:
Muốn đưa nền kinh tế sớm thoát khỏi tình trạng rối ren, mất cân đối, phải
dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý, trong đó các
ngành, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại sản xuất có quy mô và trình độ
kỹ thuật khác nhau phải được bố trí cân đối, liên kết với nhau, phù hợp với điều
kiện thực tế, đảm bảo nền kinh tế phát triển ổn định [26, tr.47].
Trong bố trí lại CCKT, Đại hội chủ trương phải đưa nông nghiệp lên mặt
trận hàng đầu, đưa nông nghiệp tiến một bước theo hướng sản xuất lớn; ra sức
phát triển công nghiệp nhẹ. Đây là sự cụ thể hóa nội dung chính của công
nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH, là
bước đột phá trong tư duy và nhận thức đổi mới về chuyển dịch CCKT trong
thời kỳ mới của Đảng. Đại hôi chỉ rõ: Bố trí lại CCKT, phải điều chỉnh lớn cơ
cấu đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước nhằm tập trung cho việc thực hiện ba
chương trình kinh tế lớn: “lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu” [26, tr. 47].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6-1991), đã tổng kết 5 năm đổi mới,
khẳng định một trong những thành tựu đầu tiên là trên lĩnh vực kinh tế đã đạt
được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện mục tiêu của ba chương trình
kinh tế. Đại hội chỉ rõ: “Những kết quả thực hiện các mục tiêu gắn liền với 20
những chuyển biến tích cực trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư và bố trí lại cơ
cấu kinh tế” [28, tr. 19-20].
Đại hội lần thứ VII đã đề ra những định hướng trong chính sách kinh tế
trong đó có quan điểm đảm bảo tăng trưởng kinh tế gắn liền với quá trình xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, chuyển dịch CCKT theo hướng từng bước công
nghiệp hóa, thoát khỏi tình trạng nông nghiệp lạc hậu. Quan điểm về chuyển
dịch CCKT được hiểu: Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp
chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ hàng đầu nhằm ổn định tình
hình kinh tế xã hội; tăng tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp, mở rộng kinh tế
dịch vụ theo hướng huy động triệt để các khả năng sản xuất hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu; đẩy mạnh thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí và một số loại
khoáng sản; lựa chọn để phát triển một số ngành công nghiệp.
Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh chỉ rõ: “Khi kết thúc thời kỳ quá độ, hình thành
về cơ bản nền kinh tế công nghiệp với cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch
vụ gắn với phân công và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng” [31, tr.12].
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế quốc dân sẽ gồm nhiều ngành, nghề,
nhiều quy mô, nhiều trình độ công nghệ. Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn
với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu. Đẩy mạnh công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, đẩy
mạnh kinh tế đối ngoại, phát triển kinh tế dịch vụ, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ
tầng. Xây dựng nền công nghiệp nặng với bước đi thích hợp, trước hết là ngành
trực tiếp phục vụ nông nghiệp. Thực hiện chuyên môn hóa và liên kết kinh tế
giữa các vùng, các địa phương. Xây dựng các trung tâm kinh tế của từng vùng
để tạo điều kiện liên kết giữa công nghiệp với nông nghiệp, thành thị với nông
thôn.
Đến năm 1996, con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được xác
định rõ hơn. Trên thế giới cuộc cách mạng khoa học - công nghệ ngày càng phát
triển cao, thúc đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa nền kinh tế. Nước ta cũng như
những nước đang phát triển khác trên thế giới đều có thời cơ và vận hội mới để 21
đẩy mạnh phát triển kinh tế trong nước. Trên cơ sở đánh giá thực tế thành tựu
đạt được sau 10 năm đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (6-1996), đã
khẳng định những nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là
chuẩn bị tiền đề cho CNH, HĐH đã cơ bản hoàn thành, cho phép nước ta chuyển
sang một thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH với những nhiệm vụ và
mục tiêu cụ thể. Đại hội khẳng định:
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn
đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp [34, tr.80].
Đại hội VIII nhấn mạnh: “Đặc biệt coi trọng Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp và nông thôn”, chỉ rõ nội dung cơ bản của CNH, HĐH nông
nghiệp nông thôn những năm còn lại của thập kỷ 90 là:
- Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình thành các vùng tập
trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng
hóa nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, đảm bảo an toàn về lương thực trong
xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và thị trường trong và
ngoài nước
- Thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa…
- Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản với công nghệ ngày
càng cao, gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị.
- Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề
mới bao gồm tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng
xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông
nghiệp, các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, từng bước hình thành nông
thôn mới văn minh hiện đại [34, tr.87].
22
Phát triển công nghiệp, ưu tiên các ngành chế biến lương thực - thực
phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử và công
nghệ thông tin. Phát triển có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng (năng
lượng - nhiên liệu, vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo, đóng và sửa tàu thủy, luyện
kim, hóa chất), tăng thêm năng lực sản xuất tương ứng với yêu cầu tăng trưởng
kinh tế, nâng cao khả năng độc lập về kinh tế [34, tr.88].
Phát triển nhanh du lịch và các dịch vụ hàng không, hàng hải, bưu chính -
viễn thông, thương mại, vận tải, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm công
nghệ, pháp lý, thông tin…và các dịch vụ phụ vụ cuộc sống nhân dân. “Từng
bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch, thương mại - dịch vụ có tầm
cỡ trong khu vực”.
Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ. Chuyển dịch CCKT lãnh thổ trên cơ
sở khai thác triệt để các lợi thế, tiềm năng của từng vùng, liên kết hỗ trợ nhau,
làm cho tất cả các vùng đều phất triển. Đầu tư ở mức cần thiết cho các vùng
kinh tế trọng điểm để thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế [34, tr.89].
Mở rông và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đẩy mạnh xuất khẩu, coi
xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Tạo thêm các
mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nâng mức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị
trường. Chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, các diễn đàn, các tổ
chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc, với bước đi thích hợp [34,
tr.91].
Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa VIII (12-1997), chỉ rõ: Đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải mở rộng kinh tế đối ngoại, tranh thủ vốn,
công nghệ và ra nhập thị trường quốc tế. Nhưng trên cơ sở độc lập tự chủ, phát
huy đầy đủ các yếu tố nội lực, dựa vào nguồn lực trong nước là chính, bao gồm
nguồn lực con người, đất đai, tài nguyên, trí tuệ, truyền thống lịch sử [37, tr.8].
Hội nghị đã ra nghị quyết “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế xã hội đến năm 2000” [37, tr.27].
23
Hội nghị nhấn mạnh cần tập trung thực hiện tốt chủ trương: “Thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư”. Nâng cao hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế là định hướng cơ bản cho sự chuyển dịch CCKT,
điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Muốn vậy phải phát triển nhanh, mạnh, vững chắc các
ngành công nghiệp, trước hết là ngành công nghiệp chế biến có khả năng cạnh
tranh cao [37, tr.54-55]. Nghị quyết xác định những việc cần tập trung thực hiện
là “Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lao động
ở nông thôn” [37, tr.62]. “Giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản” [37,
tr.66]. “Phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp tác, đổi mới hoạt động của các
cơ sở quốc doanh trong nông nghiệp và nông thôn, phát triển các cơ sở quốc
doanh ở vùng sâu, vùng xa” [37, tr.67].
Cụ thể hóa hơn nữa chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn
theo hướng CNH, HĐH, tháng 4-1998, Bộ Chính trị ra nghị quyết 10
“Về vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Nghị quyết nhấn mạnh việc chuyển dịch CCKT nông
nghiệp - nông thôn theo hướng CNH, HĐH là phải tạo ra những chuyển hướng
mạnh mẽ theo hướng sản xuất hàng hóa với cơ cấu đa dạng vừa để xuất khẩu với
sức cạnh tranh cao, vừa khai thác lợi thế tiềm năng của từng vùng sinh thái, tăng
nhanh năng xuất chất lượng và hiệu quả của nông nghiệp. Chuyển dịch CCKT
nông nghiệp - nông thôn theo hướng CNH, HĐH nghĩa là từ chỗ nặng về trồng
trọt, chủ yếu là cây lương thực sang sản xuất các cây trồng, vật nuôi có giá trị
hàng hóa cao; từ chỗ chủ yếu làm nông nghiệp sang phát triển các ngành công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Trong đó giải quyết tốt các mối quan hệ
cơ bản giữa trồng trọt với chăn nuôi, giữa nông nghiệp với lâm nghiệp, giữa
nông - lâm nghiệp với công nghiệp và dịch vụ…
Ngày 10-11-1998, BCT khóa VIII ra Nghị quyết 06-NQ/TW: " Về một số
vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn". Nghị quyết khẳng định bốn quan
điểm phát triển nông nghiệp - nông thôn:
Một là, coi trọng thực hiện CNH, HĐH trong phát triển nông nghiệp (gồm
cả nông nghiệp, ngư nghiệp..) và xây dựng nông thôn, đưa nông nghiệp và kinh 24
tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu
dài, là cơ sở để ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, củng cố liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước theo định hướng XHCN.
Hai là, đẩy mạnh chuyển dịch CCKT, gắn phát triển nông nghiệp với
công nghiệp chế biến, ngành nghề, gắn sản xuất với thị trường để hình thành sự
liên kết nông - công nghiệp - dịch vụ và thị trường trên địa bàn nông thôn và
trên phạm vi cả nước, gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới;
gắn công nghiệp hóa với thực hiện dân chủ hóa và nâng cao dân trí đào tạo nhân
lực ở nông thôn, tạo ra sự phân công lao động xã hội mới, giải quyết việc làm
nâng cao đời sống, xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống
giữa thành thị và nông thôn.
Ba là, phát huy lợi thế của từng vùng và cả nước, áp dụng nhanh các tiến
bộ khoa học, công nghệ để phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng, đáp ứng
ngày càng cao nhu cầu nông sản thực phẩm và nguyên liệu công nghiệp, hướng
mạnh ra xuất khẩu.
Bốn là, phát triển nông nghiệp với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế HTX dần trở thành nền tảng
hợp tác và hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển theo đúng pháp luật.Tiếp tục
phát triển nhiều hình thức kinh tế hợp tác; các loại hình HTX dịch vụ cho kinh tế
hộ nông dân, từng bước xây dựng hợp tác xã nông nghiệp theo luật hợp tác xã;
chú trọng liên kết kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác. Tạo điều
kiện và khuyến khích mạnh mẽ hộ nông dân và những người có khả năng đầu
tư, phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ ở nông
thôn.
Tuy nhiên, chuyển dịch CCKT nông nghiệp trước hết phải giữ vững mục
tiêu bảo đảm an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống. Nghị quyết đề
ra một số biện pháp để chuyển dịch CCKT nông nghiệp: đẩy mạnh thâm canh
lúa, từng bước hình thành các vùng tập trung sản xuất lúa năng suất, chất lượng
cao gắn với chế biến; hình thành các vùng sản xuất tập trung cây công nghiệp, 25
rau, hoa quả; khuyến khích kinh tế hộ, HTX và trang trại chăn nuôi quy mô vừa
và lớn…đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính trong nông nghiệp.
Cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về đẩy mạnh chuyển dịch
CCKT nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH, ngày 15-6-2000, Chính phủ ra
Nghị quyết 09 về một số chủ trương và chính sách chuyển đổi CCKT và tiêu thụ
sản phẩm nông nghiệp. Nghị quyết 09 của Chính phủ cho phép giảm diện tích
lúa cả nước từ 3,4 triệu ha xuống còn khoảng 4 triệu ha, tập trung sản xuất lúa ở
những vùng trọng điểm thích hợp nhất với cây lúa; các địa phương chuyển
những vùng trồng lúa bấp bênh sang sản xuất những sản phẩm khác phù hợp và
có giá trị kinh tế cao.
Đường lối và những quan điểm chỉ đạo về CNH, HĐH nông nghiệp nông
thôn của Đảng thể hiện sự đổi mới ngày càng rõ, trong nhận thức và tư duy lý
luận của Đảng về CNH, HĐH và chuyển dịch CCKT ở nước ta nhằm thực hiện
tốt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.
Những quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về chuyển dịch CCKT
và CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đã được cấp ủy Đảng các địa phương
quán triệt, thực hiện một cách đúng đắn, sáng tạo phù hợp với tiềm năng và lợi
thế của từng địa phương trên phạm vi cả nước. Đây là cơ sở quan trọng để Đảng
bộ Thành phố Hà Nội đề ra chủ trương, biện pháp, lãnh đạo thực hiện chuyển
dịch cơ cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH ở Thành phố Hà Nội, từ 1996 đến
2005.
1.2. CƠ CẤU KINH TẾ Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRƯỚC NĂM 1996
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội Hà NộiHà Nội, Thủ đô của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam nằm ở trung tâm
Bắc Bộ, giới hạn trong khoảng từ 20053' đến 21023' vĩ độ Bắc và từ 105044' đến
106002' kinh độ Đông, tiếp giáp với 5 tỉnh: phía Bắc giáp Thái Nguyên; phía
Đông giáp Bắc Ninh, Hưng Yên; phía Tây và Tây Nam giáp Hà Tây, Vĩnh Phúc.
Hà Nội có diện tích 920,97 km2, bằng 0,28% diện tích tự nhiên của cả nước.
Khoảng cách dài nhất từ phía Bắc xuống phía Nam Thành phố trên 50 km, chỗ
26
rộng nhất từ Tây sang Đông 30 km. Dân số 3.118,200 người (tính đến hết năm
2004), chiếm 3,6% dân số cả nước. Thành phố Hà Nội có 9 quận nội thành: Ba
Đình, Hoàn Kiếm, Tây Hồ, Long Biên, Cầu Giấy, Đống Đa, Hai Bà Trưng,
Thanh Xuân, Hoàng Mai và 5 huyện ngoại thành: Sóc Sơn, Đông Anh, Gia
Lâm, Thanh Trì,Từ Liêm [9, tr.9].
Hà Nội nằm ở châu thổ sông Hồng, trên vùng đồng bằng cao giới hạn ở
phía Bắc bởi bậc thềm Tam Đảo; phía Tây là bậc thềm Ba Vì; phía Đông và phía
Nam là vùng đồng bằng thấp được tạo thành về sau ở hạ lưu sông Hồng [9, tr.9-
10].
Hà Nội có khí hậu mang đặc trưng của khí hậu vùng nhiệt đới gió mùa
ẩm, với hai mùa chủ yếu trong năm: mùa nóng và mùa lạnh. Nhiệt độ không khí
trung bình năm của Hà Nội khá cao 24,4o C, chệnh lệch nhiệt độ giữa các tháng
trong năm lên tới 12,5o C, nhiệt độ tối đa có thể lên tới 40o C, nhiệt độ tối thiểu
có thể xuống 5 - 7o C, kéo dài 7 - 12 ngày. Độ ẩm trung bình các tháng trong
năm dao động từ 71% đến 82%, độ ẩm không khí trung bình có thể xuống 10%
vào tháng 12 và tháng 1 [100, tr.10].
Sơ đồ 1.1: Dân số trung bình qua các năm [21, tr.19]
0
10000
20000
30000
40000
50000
60000
Ngo¹ i thµnh 20815 21462 24290 20273 20680Néi thµnh 20526 21399 25085 30158 30370Toµn thµnh 41,341 42,861 49,375 50,431 51,050
2000 2002 2003 2004 2005
27
Lượng mưa trung bình năm vào khoảng 1.250 - 1.870 mm; số ngày mưa
trong năm là 140 ngày, phân bố không đều và hình thành 2 mùa, mùa mưa
thường tập trung 85% lượng mưa cả năm và chiếm tới 1.400 - 1.500mm, mưa
lớn thường vào tháng 8, lượng mưa trung bình 300 - 350mm [100, tr.10].
Chế độ thủy văn của Hà Nội tương ứng với đặc điểm của tình hình khí
hậu, chia làm hai mùa, mùa lũ và mùa cạn, mùa lũ thường kéo dài từ tháng 6 đến
tháng 10, lũ cao nhất vào tháng 8, lượng nước chiếm tới 70 đến 75% tổng lượng
nước cả năm [100, tr.10].
Mạng lưới sông ngòi trên Hà Nội khá dày, khoảng 0,5km/km2, thuộc hai
hệ thống sông chính là sông Thái Bình và sông Hồng. Hà Nội có nhiều đầm hồ
tự nhiên, với diện tích hiện còn 3.600 ha, khu vực nội thành tập trung khá nhiều
có tới 27 đầm hồ, còn lại phân bố ở các quận, huyện của Thành phố [100, tr.9-
10].
Tài nguyên khoáng sản Hà Nội rất phong phú và đa dạng. Hà nội và vùng
phụ cận có 500 mỏ và điểm quặng với gần 40 loại khoáng sản đã được phát hiện
và đánh giá ở các mức độ khác nhau [100, tr.12].
Hà Nội nổi tiếng từ xưa là nới tập trung nhiều nghề thủ công truyền thống
tinh xảo với những nghệ nhân và thợ tài hoa. Đến Hà Nội sẽ được tham quan các
nghề truyền thống như tranh dân gian; gốm sứ Bát Tràng; nghề làm giấy dó lụa;
dệt tơ lụa ở Bưởi; nghề thêu ở Yên Thái; nghề đúc đồng ở Ngũ xá; nghề chạm
khảm, trang trí đồ gỗ Vân Hà; sản xuất đồ da Kiêu Kỵ…
Trong gần 1000 năm phát triển Hà Nội luôn là trung tâm văn hóa của cả
nước. Hà Nội có nhiều địa danh nổi tiếng về cảnh quan như: Hồ Tây, hồ Hoàn
Kiếm, Đền Sóc…[100, tr.13].
Đầu thế kỷ XI, vua Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long
(1010). Từ đây Thăng Long chuyển dần thành đất kinh kỳ, nơi hội tụ nhân tài,
vật lực của bốn phương. Hà Nội trở thành trung tâm đầu não của đất nước từ
đây.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám nơi hội tụ “ nguyên khí” của dân tộc, là niềm
tự hào chung của đất nước, điểm cốt lõi của bản sắc văn hóa Thăng Long - Hà 28
Nội, không chỉ biểu hiện ở các giá trị văn hóa rất phong phú và đa dạng mà còn
ở chỗ hội tụ các tinh hoa để tạo lên nhân cách con người Thủ đô với “Hào khí
Thăng Long”, “Sĩ khí Hà Thành”, “Người Tràng An”, “Hà Nội thanh lịch”...
Cư dân tứ xứ hội tụ về Hà Nội đem theo những phong tục, lề thói địa
phương, rồi được chắt lọc, chau chuốt trong khung cảnh văn hóa kinh kỳ, tạo
thành nếp sống “thanh lịch Hà Nội”. Trong nét thanh lịch đó phải kể đến đặc
trưng của người Hà Nội là hiền hòa, hiếu học, chuyên cần, hào hoa và sáng tạo.
Chính từ đó tạo nên mặt bằng dân trí cao. Nhân dân Hà Nội nhanh nhạy với cái
mới, có nhiều yếu tố thuận lợi cho quá trình CNH, HĐH Thành phố Hà Nội.
Nhân dân Hà Nội có truyền thống đấu tranh kiên cường và nồng nàn yêu
nước. Trong hàng ngàn năm lịch sử, nhân dân Hà Nội đã đóng góp xứng đáng
vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhân dân Hà Nội đã phát huy cao độ truyền
thống tốt đẹp, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng tháng Tám, hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Vịêt Nam XHCN, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới. Nhân dân Hà Nội
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên trì mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc
và CNXH. Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hà Nội ra đời sớm,
dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo nhân dân trong đấu tranh và xây dựng đất nước
năng động, sáng tạo.
Hà Nội có vị trí địa lý - chính trị quan trọng, có ưu thế đặc biệt so với các
địa phương khác trong cả nước. Nghị quyết 15 - NQ/TW của Bộ Chính trị , ngày
15 - 12 - 2000 chỉ rõ: “là trái tim của cả nước, đầu não chính trị - hành chính
quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch
quốc tế” [8, tr.3]. Hà Nội là vùng đất “địa linh nhân kiệt” với lịch sử nghàn năm
văn hiến, nơi hội tụ kết tinh, lan tỏa và phát sáng các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc. Với vị thế là Thủ đô Hà Nội vừa có những tiềm năng, lợi thế
so sánh vừa có những thách thức.
Một mặt, với tư cách là Thủ đô, Hà Nội có một số mặt thuận lợi cơ bản
trong phát triển kinh tế:29
+ Hà Nội được Đảng và nhà nước chỉ đạo tập trung về mọi mặt trong quá
trình phát triển Thủ đô; có điều kiện thuận lợi trong tiếp cận những thành tựu
khoa học công nghệ, tinh hoa văn hóa thế giới, giải quyết kịp thời hiệu quả các
vấn đề kinh tế liên quan trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập khu vực và quốc
tế.
+ Là nơi đặt trụ sở của các cơ quan lãnh đạo Trung ương Đảng, Quốc
Hội, Chính phủ, các đoàn thể xã hội; nơi diễn ra các hội nghị trong nước và
quốc tế quan trọng, nơi đặt trụ sở đại sứ quán các nước; các cơ quan thông tấn
báo chí, xuất bản cấp quốc gia. Vì thế Hà Nội sớm được trực tiếp tiếp thu các
Nghị quyết, đường lối chính sách, thông tin đối nội và đối ngoại trong từng giai
đoạn lãnh đạo phát triển kinh tế.
+ Hà Nội hiện có 49 trường đại học và cao đẳng, 38 trường trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề, 112 viện nghiên cứu [100, tr.16-17]. Phần lớn các
chuyên gia đầu ngành đang nghiên cứu giảng dạy ở Thủ đô Hà Nội. Nếu Hà Nội
biết thu hút chất xám của các nhà khoa học các bộ ngành Trung ương, các viện
nghiên cứu, các trường đại học trên địa bàn thì sẽ có lợi rất to lớn mà không có
địa phương nào trong cả nước có được để phát triển kinh tế Thủ đô.
+ Hà Nội có ưu thế hơn các địa phương khác trong khu vực và phía Bắc
trong việc tuyên truyền, quảng bá, thu hút vốn đầu tư, sản xuất tiêu thụ sản
phảm, mở rộng dịch vụ công nghệ cao, tài chính, ngân hàng, dịch vụ đối ngoại,
du lịch…Về lâu dài, nhờ khả năng kế thừa, lôi cuốn, quy tụ, đúc kết nhiều tiềm
lực điều kiện từ bên ngoài cũng như tự tích lũy kinh nghiệm, bản lĩnh lãnh đạo
kinh doanh, trình độ phát triển hạ tầng, nguồn vốn, tri thức, công nghệ…tạo tiền
đề, động lực mạnh nhất cho sự phát triển và cất cánh của nền kinh tế Thủ đô.
+ Hà Nội đã, đang và sẽ giữ vai trò là trung tâm kinh tế lớn nhất của Bắc
Bộ, có sức hút và khả năng lan tỏa rộng tác động trực tiếp tới quá trình phát triển
của cả vùng, cả nước. Đồng thời, Hà Nội có khả năng khai thác thị trường rộng
lớn của vùng và của cả nước để sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và xuất khẩu.
Mặt khác, Hà Nội cũng có khó khăn trong phát triển kinh tế:
30
Hà Nội, là nơi những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được
ban hành, là trung tâm đầu não về chính trị. Vì vậy, mỗi động thái chủ trương,
chính sách và thực tiễn của Thành phố Hà Nội đều có tác động trực tiếp và gián
tiếp đến tình hình kinh tế của cả nước. Điều đó không cho phép Thành ủy Thành
phố dễ dàng, mạnh tay thử nghiệm các quyết sách quản lý, điều hành phát triển
kinh tế như một số tỉnh và thành phố khác.
Do sức hút của quá trình phát triển kinh tế, Hà Nội trở thành nơi hội tụ
dòng dân di cư tự do. Đây là một sức ép lớn cho quá trình phát triển kinh tế Thủ
đô.
Thủ đô Hà Nội địa bàn trọng điểm để các thế lực thù địch trong và ngoài
nước tập trung chống phá. Vì vậy, Thành ủy Hà Nội vừa phải lãnh đạo phát triển
kinh tế đồng thời dành nhiều thời gian lãnh đạo, chỉ đạo nhằm ổn đinh tình hình
chính trị, an ninh quốc phòng. Hà Nội phải đối mặt với thách thức, một mặt đẩy
nhanh tốc độ phát triển kinh tế Thành phố nhằm đuổi kịp sự phát triển kinh tế
của thủ đô các nước trong khu vực và thế giới; mặt khác, phải đảm bảo phát
triển kinh tế bền vững và bảo đảm sự ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã hội,
an ninh quốc phòng vững chắc. Điều đặc biệt quan trọng nhất là giữ vững và ổn
định tình hình kinh tế đất nước và kinh tế vùng trọng điểm Bắc Bộ.
1.2.2. Thực trạng kinh tế, cơ cấu kinh tế Thành phố Hà Nội trước năm 1996Những chủ trương, định hướng, chính sách lớn của Đảng và nhà nước
trong công cuộc đổi mới về chuyển dịch CCKT, đã được Thành ủy Hà Nội quán
triệt thực hiện một cách nghiêm túc, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể của
Thủ đô Hà Nội trong từng thời kỳ.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ X (10 - 1986), đã
xác định những vấn đề quan trọng mà Đảng bộ Thủ đô cần giải quyết: Mọi công
tác phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu; phải coi trọng tổ chức công
tác thực tiễn một cách cụ thể tỷ mỉ; phải chuyển mạnh từ cách làm ăn theo lối
cũ, quan liêu, bao cấp, sang hoạt động năng động sáng tạo, hạch toán kinh tế và
kinh doanh XHCN, không ngừng tăng năng suất và hiệu quả, nâng cao chất
lượng và tạo ra sản phẩm ngày càng nhiều cho xã hội, chúng ta phải kiên quyết,
31
không thỏa hiệp đối với những cá nhân, đơn vị vẫn giữ nếp nghĩ, cách làm theo
lối cũ, không chịu vận dụng để nắm vững và vận dụng đúng đắn các quy luật
kinh tế [2, tr.56].
Ngay từ Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ X, Thành ủy Hà Nội
đã quan tâm phát triển kinh tế theo chiều sâu, chú trọng chuyển dịch CCKT giữa
các ngành và nội ngành. Đại hội nhận định: “một nền kinh tế có cơ cấu hợp lý
mới ổn định và phát triển được” và đề ra mục tiêu “từng bước xây dựng cơ cấu
kinh tế hợp lý của Thủ đô”. Đảng bộ Hà Nội chủ trương: "Phải xây dựng cơ cấu
kinh tế bao gồm công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và kinh tế đối ngoại” [2,
tr.60].
Công nghiệp, phải tiến lên trình độ hiện đại có những ngành mũi nhọn,
những sản phẩm tiêu biểu cho Thủ đô và giữ vị trí quan trọng trong việc cung
ứng tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng cho cả nước.
Nông nghiệp, phải được trang bị kỹ thuật mới, áp dụng nhanh chóng các
thành tựu khoa học hiện đại về kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi, để trở thành
vành đai thực phẩm lớn, bảo đảm cung ứng ngày càng tăng hàng hoá cho nhu
cầu tiêu dùng của nhân dân Thành phố.
Dịch vụ, bao gồm các ngành lưu thông, phân phối, giao thông vận tải, các
ngành kinh tế đô thị, nhà ở, cấp thoát nước, cấp điện, giao thông công cộng,
thông tin liên lạc… phải được xây dựng và từng bước hiện đại hoá để đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng của một trung tâm công nghiệp lớn của hàng triệu người
làm việc sinh sống.
Kinh tế đối ngoại “bao gồm cả xuất, nhập khẩu và các quan hệ hợp tác
kinh tế dưới mọi hình thức giữa Hà Nội với thủ đô các nước XHCN và các nước
khác, phải được mở rộng nhanh chóng để sử dụng có hiệu quả sự phân công hợp
tác quốc tế” [2, tr. 61].
Đây được coi là những một trong những chủ trương, đầu tiên của Đảng bộ
Thành phố lãnh đạo chuyển dịch CCKT ngành và nội ngành.
Sau khi ổn định được sản xuất nông nghiệp, bước vào giai đoạn mới của
CNH, HĐH đồng thời để phát huy vai trò đầu tàu của Thủ đô đối với phát triển 32
kinh tế vùng, Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XI (vòng 1) ( từ 25
đến 24-4-1991); Đại hội (vòng 2) (ngày 16-11-1991), đã xác định: “Trong 5 năm
tới, Hà Nội phấn đấu có bước chuyển rõ về cơ cấu ngành kinh tế”.
Cơ cấu ngành kinh tế Thủ đô được hình thành trên cơ sở liên kết kinh tế
Trung ương với kinh tế địa phương trên địa bàn Hà Nội, có tính đến nhu cầu và
mở rộng sự liên kết kinh tế với toàn vùng, với các tỉnh khác cũng như hợp tác
với nước ngoài. Trong những năm trước mắt, sớm hình thành cơ cấu kinh tế:
Công nghiệp - thương mại, dịch vụ, du lịch - nông nghiệp [3, tr.50].
Từ ngày 29 đến ngày 31-3-1994, Đảng bộ Thành phố tiến hành Hôị nghị
đại biểu giữa nhiệm kỳ. Hội nghị đã nêu bật nhữmg thành tựu lớn của Đảng bộ
và nhân dân Thủ đô trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố
lần thứ XI và đề ra những nhiệm vụ chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội theo
hướng CNH, HĐH : tiếp tục phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, củng
cố vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh; mở rộng kinh tế đối ngoại.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghi giữa nhiệm kỳ của Thành ủy về điều
chỉnh CCKT theo hướng CNH, HĐH, Thành ủy đã chỉ đạo các cấp, các ngành
tiếp tục sắp xếp chấn chỉnh, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà
nước theo quyết định 90/CP của chính phủ.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh
đạo, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Hà Nội, so với nhiều năm trước, thế
và lực của Hà Nội đã tăng lên đáng kể. Kinh tế Thủ đô nhanh chóng vượt qua
khỏi khủng hoảng, tăng trưởng với tốc độ khá, từng bước phát triển theo hướng
bền vững. Các thành phần, các ngành, các lĩnh vực kinh tế đều phát triển. Tổng
sản phẩm quốc nội (GDP), tăng bình quân 8.35%/năm (giai đoạn 1986 - 1990
tăng 4.48%/ năm [3, tr.27], giai đoạn 1991 - 1995 tăng 11,9 %/ năm [4, tr.37].
Đời sống nhân dân được cải thiện.
Ngành công nghiệp có vai trò ngày càng quan trọng trong CCKT Thủ đô
giai đoạn 1991 – 1995 tăng bình quân 14,33% vượt chỉ tiêu đề ra (5-6%/năm)
[4, tr.37]. Một số ngành công nghiệp chủ lực như: quạt điện, xe đạp Viha, hàng
điện tử, may, dệt kim được ưu tiên phát triển; bước đầu hình thành một số ngành 33
công nghiệp mới ở Thủ đô, như công nghiệp thực phẩm vi sinh, công nghiệp
điện tử, tin học. Nhiều sản phẩm công nghiệp của Hà Nội đã khẳng định khả
năng cạnh tranh và đứng vững trên thị trường.
GDP ngành dịch vụ tăng bình quân 9,22%/năm. Lưu thông hàng hóa và
dịch vụ diễn ra thuận lợi, “Tổng mức mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ thị trường xã
hội trong 5 năm tăng gấp 3 lần” [4, tr.37]. Thị trường trong và ngoài nước được
củng cố và phát triển. Văn minh thương mại được Thành ủy quan tâm chỉ đạo,
đảm bảo phục vụ nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. “Tổng kim ngạch
xuất khẩu của địa phương trong 5 năm là 558,8 triệu USD, tăng bình quân hàng
năm 16,5%./ năm” [4, tr.38]; tỷ trọng các sản phẩm thô, tinh chế ngày càng
giảm. “Nhờ kinh tế phát triển, 5 năm qua chỗ làm việc đã tăng thêm 54% so với
thời kỳ 1986 - 1990” [4, tr.38].
Hoạt động kinh tế đối ngoại được mở rộng. Tính đến hết năm 1995, có
210 dự án đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký 3,3 tỷ USD (trong đó có 67 dự
án do Thành phố làm chủ quản đầu tư với số vốn hơn 1,4 tỷ USD); có 1,3 tỷ
USD vốn đầu tư nước ngoài đã triển khai thực hiện. Đã tạo được nhiều thị
trường xuất nhập khẩu mới, thay thế thị trường truyền thống bị thu hẹp [4, tr.37-
38].
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp ngày càng có sự chuyển dịch theo hướng
tiến bộ. Đời sống nông thôn ngoại thành từng bước được nâng cao. Trong khi
diện tích nông nghiệp thành phố liên tục giảm do yêu cầu phát triển đô thị, công
nghiệp, nhưng GDP nông nghiệp bình quân cả giai đoạn 1986 - 1995, vẫn tăng
6,19%/năm. Tỷ trọng ngành trồng trọt giảm từ 1,9%/năm giai đoạn 1986 - 1990
xuống còn 1,35%/năm thời kỳ (1991 - 1995); ngành chăn nuôi tăng từ
6,75%/năm giai đoạn (1986 – 1990) lên 7,2%/năm giai đoạn (1991 - 1995). Cơ
cấu sản phẩm chuyển dịch theo hướng phát triển các sản phẩm có giá trị kinh tế,
chất lượng cao; hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung, mô hình
làng nghề được quan tâm phát triển. Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XII (5 -
1996), đánh giá: “Nhờ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thâm canh và tăng
vụ, phát triển ngành nghề nên giá trị sản lượng tính trên một đơn vị diện tích 34
ngày càng tăng, năm 1991 đạt 14,9 triệu đồng/ ha, năm 1995 đạt 28,2 triệu đồng/
ha” [4, tr.40].
Bảng 1.1: Tăng trưởng cơ cấu kinh tế Thủ đô sau 10 năm đổi mới [17, tr.31]
Đơn vị tính: %
Giai đoạn 1986 - 1990 1991 - 1995
Tăng trưởng GDP 4,48 12,5
1. Công nghiệp 1,65 13,73
2. Dịch vụ 5,78 12,66
3. Nông lâm - thủy sản 6,76 5,62
Trong giai đoạn 1990 - 1995, dưới sự lãnh đạo của Thường vụ Thành ủy
và sự lãnh đạo thực hiện của UBND Thành phố, CCKT Thủ đô chuyển dịch
theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp làm đòn bẩy phát triển dịch vụ,
nông nghiệp; giảm tỷ trọng các ngành dịch vụ và nông nghiệp để chọn lọc từng
bước nâng cao chất lượng và phát triển theo chiều sâu. Tỷ trọng giá trị tăng
thêm: công nghiệp tăng từ 27,9% năm 1985, lên 33,01% năm 1995, dịch vụ
giảm từ 66,5% năm 1985, xuống còn 61,60% năm 1995, nông - lâm - thủy sản
từ 5,6% năm 1985 [100, tr. 94], xuống còn 5,39% năm 1995 [17, tr.31].
Sau 10 năm đổi mới, Thành phố Hà Nội đang hình thành rõ nét CCKT:
công nghiệp - thương mại, du lịch, dịch vụ - nông nghiệp theo hướng hiện đại
hóa. Cùng với sự phát triển quy mô và thay đổi tỷ trọng trong tổng GDP của nền
kinh tế, mối quan hệ giữa các ngành kinh tế cũng có sự thay đổi quan trọng về
chất. Các ngành có mối quan hệ chặt chẽ với nhau hơn, không chỉ trao đổi sản
phẩm mà trao đổi, hợp tác ngay trong quá trình sản xuất. Công nghiệp đã ngày
càng bám sát hơn nhu cầu thị trường và các ngành sản xuất khác; hoạt động dịch
vụ không tách rời mà ngày càng gắn vào phục vụ sự phát triển của công nghiệp -
nông, lâm, thủy sản. Nông nghiệp chuyển sang sản suất hàng hóa, trồng cây
công nghiệp cung cấp nguyên liêu cần thiết cho công nghiệp, sản xuất nhiều
35
lương thực, thực phẩm cung cấp cho các ngành thương mại, du lịch, dịch vụ,
thông qua dịch vụ để trao đổi hàng hóa, đồng thời áp dụng thành tựu công
nghiệp nâng cao năng xuất chất lượng sản phẩm. Từng bước trong các ngành
kinh tế hình thành mối liên hệ hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển giữa các
ngành.
Cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế Thành phố đang dần
được hoàn thiện theo những nguyên tắc của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Kinh tế Thủ đô tăng trưởng và phát triển gắn với việc đảm bảo phát
triển các mục tiêu văn hóa xã hội.
Bảng 2.2: Tỷ trọng cơ cấu kinh tế Hà Nội (theo GDP) trong 10 năm
đổi mới (%) [17, tr.31]
Năm 1985 1990 1995
Tổng số 100 100 100
1. Thương mại, du lịch, lịch vụ 66,5 61,95 61,60
2. Công nghiệp 27,9 29,04 33,01
3. Nông - lâm - thủy sản5,6 9,01 5,39
Kinh tế Thủ đô đã khắc phục được tình trạng đình đốn, liên tục đạt được
trình độ tăng trưởng cao, bước đầu đã có tích luỹ, lạm phát bị đẩy lùi, số lao
động có việc làm tăng lên, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhân dân
tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới.
Cùng với chuyển dịch CCKT ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và CCKT
vùng cũng có sự chuyển dịch tích cực.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế và chuyển dịch CCKT, Hà
Nội cũng còn một số hạn chế, yếu kém: tiềm năng của Thành phố chưa được
khai thác đúng mức, chương trình thu hút vốn chậm triển khai kết quả đạt được
thấp, vốn nhàn rỗi trong nhân dân còn nhiều, quỹ đất đai, nhà xưởng, kho tàng,
máy móc, thiết bị chưa được khai thác sử dụng hợp lý. Việc hợp tác sản xuất
36
kinh doanh với các cơ sở Trung ương trên địa bàn và các địa phương còn ít.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp chưa cao, nhất là khu vực
kinh tế Nhà nước. Một số cơ sở chưa năng động, tìm tòi phương hướng phát
triển, chậm đổi mới trong cơ chế quản lý và lúng túng trong việc huy động vốn,
để đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ. Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước
trên một số lĩnh vực kinh tế chưa thể hiện rõ nét, như: thương mại và thị trường,
tín dụng nông thôn, hướng dẫn và liên kết các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh. Trong sản xuất nông nghiệp vấn đề đổi mới hình thức tổ chức và quản lý
HTX chậm được nghiên cứu tổng kết thực tiễn và đề ra phương hướng chỉ đạo.
Việc quản lý đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn lỏng lẻo, hoạt động
liên doanh hợp tác với nước ngoài còn sơ hở, có những mặt chưa quản lý tốt gây
thiệt hại cho Nhà nước và quyền lợi công dân. Trong quản lý kinh tế, các cấp
chính quyền trong hoạt động thực tế chưa phân định rõ chức năng quản lý Nhà
nước về hành chính - kinh tế và chức năng quản lý kinh doanh, nên thường nắm
cái không cần nắm, buông lỏng cái cần quản lý; chuyển dịch CCKT còn chậm
[4, tr.46-48].
1.3. VẬN DỤNG ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG, ĐẢNG BỘ HÀ NỘI LÃNH
ĐẠO, CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở ĐỊA
PHƯƠNG (1996 - 2000), THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ
1.3.1. Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng bộ Hà Nội Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng, từ ngày 7
- 5 -1996, Đảng bộ Thành phố Hà Nội đã tiến hành Đại hội Đảng bộ Thành phố
lần thứ XII.
Trên cơ sở đánh giá mặt thành công và hạn chế trong lãnh đạo phát triển
kinh tế và chuyển dịch CCKT ở Hà Nội, Đại hội XII chỉ rõ: "Để phát triển kinh
tế Thủ đô theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong những năm trước
mắt, cơ cấu kinh tế ở Hà Nội vẫn là: Công nghiệp - Thương mại, du lịch, dịch vụ
- Nông nghiệp (Nhưng có thay đổi quan hệ tỷ lệ nội bộ và trọng điểm phát
triển)” [4, tr.65].
Về công nghiệp, Đại hội xác định:
37
Công nghiệp Hà Nội phải phát triển với tốc độ nhanh, có hiệu quả kinh tế
lớn, trên cơ sở cơ cấu sản xuất với phương châm ưu tiên những ngành đòi hỏi
công nghệ và hàm lượng chất xám cao, kết hợp với những ngành nghề truyền
thống, từng bước sử dụng công nghệ tiên tiến và thu hút nhiều lao động, đáp ứng
yêu cầu của thị trường, thay thế dần hàng nhập khẩu mà trong nước sản xuất
được, bảo đảm môi trường sinh thái. Trong khi coi trọng sản xuất sản phẩm cơ
khí chế tạo mà Hà Nội có thế mạnh, cần tăng cường sản xuất hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu, đầu tư công nghiệp phục vụ nông nghiệp, du lịch, dịch vụ,
thương mại. Huy động tiềm năng và liên kết các thành phần kinh tế, hợp tác và
liên doanh trong nước và nước ngoài để cải tạo phát triển các cơ sở sản xuất có
quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu. Phấn đấu đến năm 2000 đưa tỷ trọng công
nghiệp trong GDP tăng từ 33,01% (1995) lên 39-40% (năm 2000), đạt tốc độ
tăng giá trị sản xuất công nghiệp 19 - 20%/năm [4, tr.65-66].
Đại hội Đảng bộ Thành phố đề ra một số giải pháp để phát triển công
nghiệp: “phải đổi mới cơ cấu công nghiệp, tăng nhanh tốc độ phát triển các
ngành công nghiệp, trước hết là 5 ngành công nghiệp then chốt: Cơ khí - đồ
điện; Công nghiệp điện tử; Dệt - may - da; Công nghiệp thực phẩm; Công
nghiệp xây dựng [4, tr.66].
Về chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp, Đại hội chỉ rõ:
- Ngành cơ khí - đồ điện : Quy hoạch hình thành đồng bộ các cơ sở cơ
khí, kể cả cơ khí nặng, cơ khí chính xác. Củng cố phát triển ngành cơ khí chế tạo
động cơ các loại, máy móc và thiết bị phụ tùng sản xuất và chế biến sản phẩm
nông lâm nghiệp, thủy lợi, xây dựng...
- Công nghiệp điện tử: Ngành công nghiệp điện tử ngày càng phát triển
mạnh, trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn của Thủ đô. Phát triển công nghệ
tin học như các hệ thống chương trình quản lý, các hệ mạng để trao đổi thông
tin...Nhanh chóng mở rộng quy mô sản xuất các mặt hàng điện tử, dân dụng,
từng bước phát triển các mặt hàng điện tử phục vụ sản xuất. Phấn đấu đạt tốc độ
tăng trưởng 25 – 30%/năm.
38
- Ngành dệt - may - da: Cần phát triển nhanh để tạo nhiều việc làm và góp
phần tăng giá trị ngành công nghiệp. Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng trung
bình khoảng 20%/năm.
- Công nghiệp thực phẩm: Đẩy mạnh công nghiệp sơ chế và tinh chế nông
sản, thực phẩm. Khai thác tối đa khả năng sản xuất tại chỗ và liên kết với các
tỉnh bạn để tạo nguồn nguyên liệu cho công nghệp thực phẩm. Phát triển và hiện
đại hóa công nghệ bảo quản và chế biến thực phẩm truyền thống hướng tới xuất
khẩu. Thực hiện nền nông nghiệp “sạch” bằng cách sử dụng ngày càng rộng rãi
phân và thuốc trừ sâu sinh học, các chất kích thích sinh trưởng với mục tiêu
giảm tỷ lệ phân và thuốc trừ sâu hóa học. Phát triển công nghệ sinh học trong
tạo giống mới, bảo vệ cây con, trong y dược, bảo vệ môi trường. Nhịp độ tăng
trưởng bình quân khoảng 23%/năm.
- Công nghiệp xây dựng: Hướng vào vật liệu xây dựng cao cấp, đồ trang
trí nội thất, thanh hợp kim, nhôm định hình, kính, gạch men, gạch lát, đồ sứ vệ
sinh...đầu tư thiết bị, đổi mới công nghệ để có sản phẩm chất lượng cao phục vụ
tốt các công trình xây dựng.
- Các ngành công nghiệp khác: Khai thác những lợi thế những ngành công
nghiệp khác của Hà Nội để cùng với các ngành công nghiệp then chốt, góp phần
thực hiện vai trò động lực của trung tâm công nghiệp lớn.
Đại hội chỉ rõ: cần tổ chức hợp lý công nghiệp trên lãnh thổ, đối với các
khu công nghiệp tập trung hiện có nằm trong nội thành (Thượng Đình, Minh
Khai, Vĩnh Tuy, Trương Định, Đuôi cá) chủ yếu đầu tư chiều sâu, từng bước
thay đổi thiết bị và công nghệ, xây dựng bổ sung các phân xưởng để đồng bộ sản
xuất, nhằm cải tạo và hiện đại hóa các khu này, đặc biệt chú ý đầu tư cải thiện
môi trường, chống ô nhiễm. Đối với các khu công nghiệp tập trung còn nhiều
đất như Cầu Diễn, Nghĩa Đô, Chèm, Đông Anh, Cầu Bươu, cần xây dựng thêm
các xí nghiệp có quan hệ về sản xuất, công nghệ. Thúc đẩy các khu công nghiệp
mới hình thành ở Sài Đồng, Đông Anh, Sóc Sơn, Nội Bài, Bắc và Nam cầu
Thăng Long...Những nơi đã xây dựng xong từng phần, cần sớm đưa vào hoạt
động, phát huy hiệu quả nhanh. Có chính sách kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp của 39
nước ngoài và thu hút đầu tư trong nước về công nghiệp vào các khu công
nghiệp này. Tại đây sẽ tiếp thu và chuyển giao công nghệ mới, đào tạo lực lượng
lao động lành nghề cùng cách quản lý tiên tiến, mở rộng việc gia công cho các
xí nghiệp vệ tinh ở ngoài khu công nghiệp, hình thành khu công nghệ cao. Tổ
chức các công ty theo ngành hàng (như dệt - may, sản xuất cơ khí, xây dựng...)
bao gồm các cơ sở địa phương và Trung ương trên địa bàn Hà Nội.
Để có đủ nguyên liệu đáp ứng yêu cầu phát triển của công nghiệp, Đại hội
chỉ rõ: “Phát triển công nghiệp Hà Nội phải gắn với phát triển vùng nguyên liệu
và công nghiệp của tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, với các
tỉnh phía Bắc và trong cả nước” [4, tr.71].
Về Thương mại, du lịch, dịch vụ, mục tiêu phấn đấu của Thương mại Hà
Nội là : “Xây dựng thị trường phát triển lành mạnh, ổn định, góp phần tích cực
chống lạm phát, phát triển sản xuất, nâng cao mức sống của nhân dân” [4, tr.72].
Đối với các thành phần kinh tế tham gia hoạt động thương mại, Đại hội
xác định: “Thương mại Hà Nội gồm nhiều thành phần, trong đó quốc doanh
đóng vai trò chủ đạo, nắm và chi phối bán buôn những mặt hàng, ngành hàng
chiến lược; bán lẻ các mặt hàng thiết yếu; chủ động can thiệp thị trường khi
cung cầu căng thẳng” [4, tr.72-73]; không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế với
nông dân, thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Để phát huy thế mạnh và khả năng
của thương nghiệp quốc doanh, Đại hội chỉ rõ: “Đổi mới thương nghiệp quốc
doanh theo hướng gắn lưu thông với sản xuất, nội thương với ngoại thương; cải
tiến phương thức và tác phong kinh doanh, nâng cao văn minh thương nghiệp”
[4, tr.73].
Đại hội đề ra phương hướng phát triển thương mại là: Quy hoạch xây
dựng mạng lưới bán lẻ hàng hóa và cung ứng vật tư nông nghiệp, mạng lưới
mua bán nông sản của nông dân, các chợ, giảm hẳn việc buôn bán trên hè phố.
Hình thành các trung tâm thương mại, các cửa hàng bách hóa lớn, các siêu thị,
các cửa hàng tự chọn có quy mô hợp lý, tiến tới xây dựng trung tâm thương mại
quốc tế. Đẩy mạnh xuất khẩu nhằm phát triển sản xuất và góp phần ổn định thị
trường trong nước. Xây dựng cơ cấu hàng xuất khẩu và nhập khẩu hợp lý, nâng 40
cao tỷ trọng hàng xuất khẩu từ nguồn sản xuất trên địa bàn; đồng thời coi trọng
nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ sản xuất.
Nguyên tắc để duy trì và phát triển thương mại được Đại hội xác định như
sau: “Phát triển thương mại và thị trường phải đi đôi với việc tăng cường quản
lý thị trương, chống các hoạt động đầu cơ buôn lậu, nhập lậu, buôn bán hàng
cấm, hàng giả các hành vi gian lận thương mại” [4, tr.74].
Đối với du lịch : “Nhanh chóng phát triển các hoạt động du lịch, coi xây
dựng các chương trình, các tuyến du lịch nối liền Hà Nội với các nơi khác trong
nước, trước hết là các tỉnh, thành lân cận, các tuyến du lịch quốc tế” [4, tr.74].
Về giải pháp để phát triển du lịch, Đại hội xác định: Tôn tạo các khu di
tích lịch sử, kết hợp với việc xuất bản các ấn phẩm giới thiệu danh lam thắng
cảnh và lịch sử văn hóa truyền thống Thủ đô ngàn năm văn hiến. Nghiên cứu,
phục hồi phát triển các món ăn Hà Nội, các lễ hội truyền thống phù hợp với nhu
cầu của khách du lịch và nếp sống văn hóa dân tộc.
+ Phát triển mạnh các dịch vụ phục vụ du lịch như: khách sạn, nhà hàng,
khu giải trí, bán hàng lưu niệm, món ăn dân tộc, cửa hàng miễn thuế, thu đổi
ngoại tệ, lữ hành. Xây dựng quy hoạch du lịch và thống nhất quản lý các hoạt
động du lịch trên địa bàn Hà Nội .
+ Phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của tài chính, ngân hàng,
phấn đấu trở thành công cụ có hiệu quả của quản lý kinh tế ,bảo đảm nhu cầu tài
chính, tiền tệ cho kinh tế và đời sống.
Để đáp ứng phát triển dịch vụ thương mai và giao dịch tài chính góp phần
quan trọng chuyển dịch CCKT, Đại hội xác định: Hoạt động tài chính phải có kế
hoạch tạo ra nguồn thu mới trên cơ sở phát triển sản xuất kinh doanh. Bằng mọi
biện pháp tích cực và có hiệu lực giảm mạnh thất thu ngân sách xây dựng nền tài
chính lành mạnh, kỷ cương. Thực hiện tốt Luật ngân sách, Pháp lệnh kế toán
thống kê tăng cường công tác kiểm toán và thanh tra tài chính. Chặt chẽ trong
chi ngân sách, kể cả chi đầu tư cho sản xuất, xây dựng cũng như chi hành chính
sự nghiệp. Thực hiện nghiêm ngặt chính sách tiết kiệm chi tiêu ngân sách. Mở
rộng kinh doanh ngoại hối, tăng nhanh nguồn vốn ngoại tệ, đáp ứng yêu cầu đổi 41
mới công nghệ và thanh toán quốc tế. Mở rộng hoạt động của ngân hàng nông
nghiệp, triển khai hoạt động của các ngân hàng phục vụ người nghèo, xây dựng
hệ thống quỹ tín dụng nhân dân theo mô hình mới ở các xã có kinh tế hàng hóa
phát triển nhằm thiết lập thị trường vốn ở nông thôn ngoại thành. Hiện đại hóa
nhanh công nghệ ngân hàng phục vụ có hiệu quả các mặt nghiệp vụ và dịch vụ
ngân hàng [4, tr.76-77].
Về nông nghiệp, Trên cơ sở kết quả đạt được của chương trình 06 do
Thành ủy đề ra trong nhiệm kỳ khóa XI về “Kinh tế ngoại thành và xây dựng
nông thôn mới Thủ đô”, Đại hội chỉ rõ: “Nông nghiệp ngoại thành càng phải
tiếp tục đổi mới mạnh cơ cấu theo hướng tăng nhanh giá trị cây trồng, vật nuôi
trên đơn vị diện tích và tăng giá trị hàng hoá - dịch vụ/ 1 ha canh tác” [4, tr.78].
Đại hội đề ra một số giải pháp phát triển, nâng cao sản lượng trên lĩnh vực
nông nghiệp, góp phần thúc đẩy chuyển dịch CCKT nông nghiệp: Phát triển
mạnh sản xuất thực phẩm chất lượng cao, như lợn nạc, bò thịt, bò sữa, thịt và
trứng gia cầm, các loại cá ngon và thủy đặc sản, các loại quả, rau sạch...Chú
trọng các loại giống mới có năng suất và chất lượng cao, vừa thỏa mãn nhu cầu
tại chỗ, vừa cung ứng cho các tỉnh bạn. Cải tiến cơ cấu cây trồng theo hướng
phát triển các giống lúa đặc sản, các loại cây phục vụ chăn nuôi, các cây dược
liệu và công nghiệp ngắn ngày phục vụ công nghiệp chế biến. Phát triển kinh tế
ngoại thành bao gồm cả đẩy mạnh sản xuất tiểu thủ công nghiệp, các ngành
nghề truyền thống. Củng cố phát triển các loại hình dịch vụ sản xuất (thủy nông,
vật tư, phân bón, thuốc trừ sâu, giống...); phát triển mạng lưới tiêu thụ nông sản
hàng hóa.
Để đường lối phát triển nông nghiệp đi vào cuộc sống đạt kết quả và có
chất lượng, Đại hội xác định: “Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của
các loại hợp tác xã. Quản lý chặt chẽ đất đai theo luật định”. Đại hội đã nêu cao
quyết tâm: “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới, làm cho nông thôn
ngoại thành có bộ mặt mới và hạn chế dần sự cách biệt giữa thành thị và nông
thôn. Phấn đấu đến năm 2000 phần lớn các xã ngoại thành đều đạt tiêu chuẩn
nông thôn mới” [4, tr.79].42
Căn cứ vào Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ lần thứ XII, Thành ủy Hà
Nội đã có nhiều giải pháp nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tại kỳ họp lần thứ 2 (từ ngày 8 đến ngày 9-7-1996), Thành ủy đã quyết
nghị Chương trình công tác số 01- CTr/TU của Đảng bộ Thành phố: Bổ sung
hoàn thiện và tiếp tục chỉ đạo các chương trình công tác , các Nghị quyết quan
trọng về kinh tế mà Thành ủy khóa XI đã thông qua: Chương trình 13: “Huy
động và sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô", Chương trình
06: “Kinh tế ngoại thành và xây dựng nông thôn mới Thủ đô”, Chương trình 18:
“Sắp xếp lại sản xuất kinh doanh trên địa bàn Hà Nội”, Nghị quyết 17 về: “Phát
triển công nghiệp và khoa học công nghệ Thủ đô đến năm 2000 theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đai hóa”, và xây dựng chương trình công tác mới,
chương trình “Kinh tế đối ngoại”, chương trình “Quan hệ sản xuất”.
Thường vụ Thành ủy đã tổ chức cuộc tiếp xúc giữa Tổng Bí thư Đỗ Mười
với các doanh nghiệp quốc doanh, tư nhân, liên doanh, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần thuộc các ngành cơ khí, điện tử, công nghiệp nhẹ, giao
thông vận tải thương nghiệp...để góp phần xây dựng cơ chế, chính sách và định
hướng phát triển các thành phần kinh tế.
Thành phố đã đầu tư 137 tỷ đồng tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh
tế tư nhân sản xuất kinh doanh. Do đó, năm 1996, giá trị tổng sản lượng công
nghiệp tăng 18,6%, xuất khẩu tăng 33%, trong đó kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng
2,7% tăng 80,2%; kinh tế cá thể chiếm tỷ trọng 60%, tăng 15,4%; kinh tế hỗn
hợp chiếm tỷ trọng 28,8%, tăng 24,5% so với năm 1995. Tuy nhiên, sự đầu tư
của Thành phố chưa đủ mạnh để đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế. Năm 1996 nhịp
độ tăng trưởng kinh tế vẫn chững lại, chỉ đạt 12,3%, giảm 2,7% so với năm 1995
[9, tr.728].
Khắc phục những khó khăn do tác động của quy luật kinh tế thị truờng và
những bất cập trong cơ chế, chính sách, năm 1997, Thành ủy tập trung chỉ đạo
khâu trọng tâm nhất của công nghiệp - thương mại Thành phố là vốn đầu tư cho
các doanh nghiệp. Thành ủy, UBND Thành phố đã làm việc với Thống đốc ngân
43
hàng, thống nhất dành 300 tỷ đồng vốn ưu đãi cho các doanh nghiệp của Hà Nội
vay.
Về nông nghiệp, Hội nghị Thành uỷ lần thứ 3 (10 - 1996), đã bổ sung nội
dung của chương trình 06 - CTr/TU “Về phát triển kinh tế ngoại thành và xây
dựng nông thôn mới” theo hướng CNH, HĐH.
Để tiếp tục đổi mới củng cố HTX, Thành ủy đã ra Nghị quyết số
02-NQ/TU ngày (7 - 4 - 1997), chủ trương: tổ chức sắp xếp, đăng ký HTX hiện
có hoạt động theo luật HTX và các nghị định của Chính phủ. Qua đó làm cho
cho các HTX cổ phần hóa thực sự là một đơn vị kinh tế tập thể của những người
lao động tự nguyện góp vốn, góp sức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo nguyên
tắc bình đẳng cùng có lợi.
Ngày 6 - 8 - 1997, Thành uỷ ra Chỉ thị 19 - CT/TU, chỉ đạo các cấp, các
ngành, tiếp tục thực hiện Chương trình 18 - CTr/TU của Thành uỷ “Về sắp xếp
lại sản xuất” và Chỉ thị 500/TTg của Thủ tướng Chính phủ (25 - 8 - 1995), tổ
chức, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước nhằm đẩy nhanh quá trình tích tụ và
tập trung sản xuất tạo cho doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn, sức cạnh
tranh mạnh mẽ hơn trong cơ chế thị trường. Thành ủy coi đây là “Chương trình
công tác trọng điểm của Thành ủy, Hội đồng nhân dân và UBND Thành phố từ
nay đến năm 2000”. Chỉ thị chỉ rõ: "Trong xây dựng chương trình sắp xếp lại
doanh nghiệp Nhà nước, các sở, ngành, quận, huyện cần gắn kết chương trình
này với chỉ đạo triển khai đồng bộ các chương trình về đổi mới quan hệ sản
xuất, chương trình đổi mới khoa học công nghệ, chương trình CNH, HĐH,
chương trình huy động vốn” [72, tr.2]. Tiếp theo, ngày 28 - 10 - 1997 Thường
vụ Thành ủy đã đưa ra kế hoạch tiếp tục thực hiện Chương trình 18 về: “Sắp xếp
lại sản xuất kinh doanh trên địa bàn Hà Nội”.
Ngày 07 - 12 - 1998, Thường trực Thành ủy đã nghe báo cáo về tiến độ
triển khai thực hiện dự án các khu công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội.
Ngày 8 - 12 - 1998, Thành ủy Hà Nội ra Thông báo số 119 - TB/TU về “Ý kiến
chỉ đạo của Thường trực Thành ủy về tiếp tục triển khai thực hiện dự án các khu
công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội”, nêu rõ quan điểm chỉ đạo của 44
Thành phố là: “không thu lợi nhuận từ kinh doanh cơ sở hạ tầng, tiền đất và các
khoản chi phí khác...nhằm mục tiêu giảm giá thành sản xuất đầu tư nhỏ nhất, tạo
điều kiện để các doanh nghiệp làm thủ thục thuê đất nhanh nhất ” [83, tr.1].
Thực hiện Nghị quyết 02-NQ/TU, Thành phố đã kiện toàn Ban chỉ đạo
sắp xếp doanh nghiệp, lập hội đồng thẩm định việc thành lập và giải thể doanh
nghiệp theo quy định mới. Các doanh nghiệp tiếp tục sắp xếp, bố trí lại cán bộ
công nhân viên, giải thể, sáp nhập hoặc thành lập công ty mới: 1.887 doanh
nghiệp trong tổng số 2.638 doanh nghiêp đã được kiểm tra việc kê khai, đăng ký
và đăng ký lại kinh doanh theo chỉ thị 657/TTg của thủ tướng Chính phủ. Nhờ
có những biện pháp chỉ đạo kịp thời và nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc
đầu tư vốn và cải tiến chất lượng sản phẩm, sản xuất công nghiệp có bước phát
triển mới.
Về thương mại - du lịch, thực hiện Chỉ thị 46/CT-TW của BBT Trung
ương Đảng ngày 14-10-1994, về lãnh đạo đổi mới và phát triển du lịch trong
tình hình mới; căn cứ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XII, Ban
Thường vụ Thành ủy đã ra Nghị quyết số 11 - NQ/TU (12 - 8 - 1998), về “Đổi
mới và phát triển du lịch Thủ đô đến năm 2010 và những năm sau”. Nghị quyết
chỉ rõ: du lịch Hà Nội đã có những tiến bộ đáng kể, Hà Nội trở thành trung tâm
du lịch của cả nước, thu hút ngày càng nhiều du khách trong nước và quốc tế.
Tốc độ tăng bình quân hàng năm từ 1990 - 1998 đạt 25%/năm, hoạt động du lịch
phát triển phong phú, đa đạng, từ các khâu tiếp thị. Quảng cáo, lữ hành, khách
sạn, vận chuyển và các dịch vụ đồng bộ khác. Kinh tế du lịch đã góp phần vào
quá trình chuyển dịch CCKT của Thành phố.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được, hoạt động du lịch cũng
còn nhiều yếu kém. Du lịch Hà Nội chưa phát triển ngang tầm với tiềm năng
vốn của Thủ đô; hiệu quả kinh tế, xã hội còn thấp; thị trường du lịch, đặc biệt là
thị trường quốc tế còn nhỏ bé. Các cơ sở du lịch chưa năng động, nhạy bén nắm
bắt thời cơ để phát triển, bên cạnh đó nhận thức của các cấp, các ngành về kinh
tế du lịch còn chưa thống nhất, đồng bộ [81, tr.1-2].
45
Nghị quyết chỉ rõ: Mục tiêu tổng quát để phát triển du lịch là: Nắm vững
và khai thác triệt để những điều kiện thuận lợi, thời cơ mới trong nước và quốc
tế, sử dụng có hiệu quả những lợi thế so sánh của Thủ đô nhằm tạo ra bước
ngoặt phát triển mới cả về lượng và chất cho ngành du lịch; đưa ngành kinh tế
này trở thành một ngành kinh tế quan trọng trong cơ cấu kinh tế của Thành phố
vào đầu thế kỷ 21, góp phần đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm
cỡ trong khu vực. Hướng phát triển của du lịch Hà Nội trong thời gian tới sẽ
phát triển theo hướng “du lịch văn hóa, du lịch hội nghị hội thảo, du lịch sinh
thái, du lịch kinh doanh” [81, tr.2].
Mục tiêu cụ thể của ngành du lịch là: Phát huy mạnh mẽ nguồn lực hiện
có, mở rộng hợp tác quốc tế, hợp tác khu vực, chuẩn bị tốt cơ sở vật chất, lực
lượng cán bộ, phấn đấu đến năm 2000 đón 700 ngàn lượt khách du lịch quốc tế,
1,8 triệu khách du lịch nội địa, đưa tổng GDP của ngành du lịch chiếm 7 - 8%
tổng thu nhập trong nước của Thành phố [81, tr.2]..
Quan điểm phát triển kinh tế du lịch của Thành ủy là: Xây dựng ngành du
lịch Thành phố thành ngành mũi nhọn hết sức quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng Thủ đô, một ngành kinh tế tổng hợp có tính chất liên ngành, liên vùng và
xã hội hóa cao. Phát triển du lịch góp phần tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH
Thủ đô.
Thành ủy đã đề ra một số biện pháp phát triển du lịch: Trước hết các cấp
ủy Đảng cần làm cho mọi người nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò và triển vọng
phát triển du lịch nói chung và du lịch Hà Nội nói riêng. Phát triển đồng bộ các
dịch vụ phục vụ du lịch như khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng,...và đặc biệt chú
trọng xây dựng các tổ hợp trung tâm hội nghị, hội thảo quốc tế. Ưu tiên những
điều kiện cần thiết xây dựng một vài khu vui chơi giải trí có tầm cỡ để phục vụ
khách du lịch và nhân dân Thủ đô. Huy động các nguồn vốn đầu tư, xây dựng và
phục chế các công trình văn hóa lịch sử, cơ sở vật chất khác, phối hợp chặt chẽ
với các địa phương để xây dựng và nâng cấp các tuyến, điểm du lịch hấp dẫn,
phong phú, hình thành tuyến du lịch liên hoàn. Phát huy tiềm năng và sức sáng
tạo của các thành phần kinh tế phát triển du lịch, trong đó doanh nghiệp du lịch 46
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Phát triển các tour du lịch ở các quy mô và loại
hình khác nhau để phục vụ cho mọi đối tượng, mọi yêu cầu: tham quan, giải trí,
hội thảo, hội nghị, du lịch chữa bệnh, du lịch thể thao. Tăng cường công tác tiếp
thị, quảng bá du lịch để thu hút khách, đặc biệt du khách quốc tế. Tiến hành
công tác đào tạo mới, đào tạo lại nguồn nhân lực cho du lịch với trình độ cao để
từng bước có trình độ ngang tầm với các nước trong khu vực, đảm đương quản
lý điều hành các hoạt động du lịch lớn đa dạng, phong phú. Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền giáo dục nếp sống văn hóa văn minh, nâng cao dân trí tạo cho du
khách có ấn tượng tốt về con người Thủ đô. Phát triển tăng cường vai trò của tổ
chức Đảng và các tổ chức quần chúng, trong các doanh nghiệp du lịch trên địa
bàn Thành phố [81, tr.3-4].
Cụ thể hóa Nghị quyết số 11 - NQ/TU, UBND Thành phố đã có kế hoạch
số 104/UB - KH ngày 14 - 1 - 1999, xác định những nội dung cần triển khai
trong phạm vi toàn Thành phố với 13 chương trình cụ thể.
Ngày 28 - 4 - 1999, Chủ tịch UBND Thành phố đã ký quyết định thành
lập Ban chỉ đạo phát triển du lịch Thủ đô Hà Nội.
Tại kỳ họp đầu năm 1999, Hội đồng nhân dân Thành phố đã quyết định
triển khai 25 công trình phục vụ kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội, trong
đó có 13 Chương trình về cải tạo, nâng cấp các sản phẩm văn hóa, kiến trúc lịch
sử mà ngành du lịch được thừa hưởng và trở thành sản phẩm của mình. Như: Dự
án xây dựng một tuyến phố đi bộ, Dự án đường phố ẩm thực Việt Nam, Dự án
nâng cấp làng nghề Bát Tràng, Dự án phục chế làng cổ Đông Ngạc, Dự án nâng
cao môi trường văn hóa du lịch Thủ đô, Dự án khôi phục đoạn đường xe điện
cổ, Dự án khu công viên nước Hồ Tây...
Thực hiện Nghị quyết 12-NQ/TW của Bộ Chính trị (17 - 8 - 1996) về:
“Tiếp tục đổi mới hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”, Thành ủy chủ trương đến năm 2000, thương nghiệp
Thành phố phải hoàn thành một số nhiệm vụ cấp bách: tổ chức tốt Nghị định
02/CP của Chính phủ về chính sách ngân hàng, sắp xếp lại doanh nghiệp thương
47
nghiệp Nhà nước, phát triển cổ phần hóa; khôi phục và củng cố HTX thương
mại - dịch vụ.
Những chủ trương, chính sách và những giải pháp lớn của Trung
ương ,Thành ủy, UBND Thành phố là cơ sở quan trọng để phát triển kinh tế và
chuyển dịch CCKT trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Thực hiện chủ trương của Thành ủy nhiều Đảng bộ đã vận dụng sáng tạo
trên cơ sở điều kiện thực tế và lợi thế của địa phương nhằm đẩy mạnh chuyển
dịch CCKT và đã đạt một số kết quả tích cực.
Những chủ trương định hướng lớn và những giải pháp trên đây là cơ sở và
điều kịên quan trọng để đường lối của Đảng đi vào cuộc sống, và được nhân dân
Thủ đô, các doanh nghiệp đón nhận, ủng hộ, thực hiện một cách nghiêm túc
dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội và các cấp ủy cơ sở.
1.3.2. Kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 1996-2000* Thành tựu:
+ Tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ Thành phố khóa XII (1996- 2000), dưới
sự lãnh đạo và chỉ đạo sát sao, trên cơ sở có kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm
thực tiễn trong quá trình chuyển dịch CCKT. CCKT kinh tế có bước chuyển
quan trọng theo hướng CNH, HĐH. Tổng sản phẩm xã hội (GDP) tăng trưởng
bình quân hàng năm: 10,6%, (các năm tăng như sau: năm 1996 tăng 12,98%,
năm 1997 tăng 12,59%, năm 1998 tăng 12,01%, năm 1999 tăng 6,48%, năm
2000 tăng 9,34%). Hà Nội là một trong những địa phương có tốc độ tăng trưởng
cao. Năm 2000 đã chặn đà giảm sút tăng trưởng kinh tế. Kinh tế Thủ đô phát
triển trên tất cả các ngành và khu vực [4, tr. 30].
Bảng 1.3: Tốc độ tăng trưởng GDP của Hà Nội và cả nước
giai đoạn (1996 - 2000) [85, tr.6].
1996 1997 1998 1999 2000
Hà Nội 12,98 12,59 12,01 6,5 9,34
Cả nước 9,34 8,15 5,8 4,8 5.5
48
Qua bảng tốc độ tăng trưởng kinh tế tính theo GDP của Hà Nội và cả
nước ở trên. GDP của Thành phố Hà Nội luôn cao hơn bình quân chung của cả
nước từ 1,3 - 1,5 lần, xong đang có xu hướng thu hẹp khoảng cách trong những
năm cuối của giai đoạn 1996 - 2000.
Nhờ luôn tăng trưởng cao hơn mức trung bình của cả nước nên tỷ trọng
GDP của Hà Nội trong tổng GDP của cả nước ngày càng tăng cao. Tỷ trọng
GDP của Hà Nội trong tổng GDP của cả nước tăng từ 6,15% năm 1995 lên
7,22% năm 2000. Tỷ trọng GDP của Hà Nội so với vùng Đồng bằng sông Hồng
cũng tăng từ 34,8% năm 1995 lên 41% năm 2000 và so với vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ từ 62,47% 1995 lên 65,47% năm 2000 [85, tr.7].
Bảng 1.4: Cơ cấu tổng sản phẩm nội địa (GDP ) [19, tr.40] Đơn vị tính: %
199
5
199
6
199
7
199
8
199
9
200
0
Chia theo thành phần kinh tế
Khu vực kinh tế trong nước 93,5 89,8 88,8 85,3 84,8 81,5
Kinh tế Nhà nước Trung ương 60,5 57,0 59,5 56,1 55,0 53,1
Kinh tế Nhà nước địa phương 10,1 9,2 8,4 9,1 8,2 7,9
Kinh tế ngoài Nhà nước 22,9 23,7 20,9 20,1 21,6 20,5
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 6,5 10,2 11,2 12,6 13,0 15,9
Thuế nhập khẩu - - - 2,1 2,2 2,6
Chia theo ngành kinh tế
Dịch vụ 61,5 59,9 60,0 61,7 58,4 60,0
Công nghiệp mở rộng 33,1 34,9 35,3 36,4 37,9 37,0
Nông - Lâm nghiệp - Thủy sản 5,4 5,1 4,7 3,9 3,7 3,0
Trong những năm 1996 - 2000, kinh tế Thủ đô phát triển ở tất cả các
ngành, các khu vực, tăng nhanh nhất là công nghiệp mở rộng, đặc biệt là xây
dựng và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Trong 5 năm 1996 - 2000, công
49
nghiệp tăng bình quân 13,45%/ năm, nông - lâm nghiệp - thủy sản tăng bình
quân 4,44%/ năm. dịch vụ tăng bình quân 8,90%/ năm, Khu vực trong nước tăng
bình quân 8,68%/ năm, khu vực có vốn ĐTNN tăng bình quân 6,02%/ năm [19,
tr.40]. Qua số liệu của sự phát triển GDP của các ngành kinh tế có thể thấy sự
phát triển không ổn định và thiếu tính bền vững.
Cơ cấu kinh tế Thủ đô chuyển dịch theo hướng tích cực, đúng theo Đại
hội Đảng bộ Thành phố Khóa XII đề ra là nâng dần tỷ trọng ngành công nghiệp,
giảm tương ứng ngành dịch vụ và nông nghiệp. Tỷ trọng công nghiệp tăng từ
33,01% năm 1995 lên 38% năm 2000; ngành dịch vụ từ 61,60% năm 1995,
giảm xuống còn 60,0% vào năm 2000; ngành nông - lâm nghiệp và thủy sản từ
5,4% năm 1995 giảm xuống còn 3,0% vào năm 2000 [19, tr.40].
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 6,5% năm 1995, lên 15,9%
năm 2000. Khu vực kinh tế trong nước giảm từ 93,5% năm 1995, xuống còn
81,5% năm 2000. Đáng chú ý là tỷ trọng của quốc doanh Trung ương giảm
chậm từ 60,5% năm 1995 xuống còn 53,1% năm 2000; kinh tế quốc doanh địa
phương giảm từ 10,1% (1995) xuống còn 7,9% (2000); kinh tế ngoài Nhà nước
giảm 20,9% xuống còn 20,5% [19, tr. 40].
Từ sự phân tích trên có thể nhận thấy ngoài sự thay đổi quy mô và tỷ lệ
các ngành trong CCKT, mối quan hệ giữa các ngành kinh tế cũng có sự thay đổi
căn bản về chất. Có thể nhận thấy các ngành có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
hơn, không chỉ trong trao đổi sản phẩm cuối cùng mà cả ngay trong quá trình
sản xuất, theo sự điều tiết của thị trường và sự quản lý của nhà nước, sản xuất
công nghiệp bám sát hơn với yêu cầu của thị trường, các ngành sản xuất nông -
lâm nghiệp - thủy sản, ngành dịch vụ. Hoạt động của các ngành dịch vụ không
tách rời mà gắn vào phục vụ đắc lực cho phát triển công nghiệp, nông - lâm
nghiệp - thủy sản. Ngành thương mại không hoạt động tách rời như là một
ngành kinh tế biệt lập trong lĩnh vực lưu thông mà gắn với sản xuất trong từng
ngành, từng doanh nghiệp. Khác nhiều so với thời kỳ bao cấp, người sản xuất,
lưu thông, phân phối sản phẩm và người tiêu thụ liên kết với nhau một cách rời
rạc, thậm chí quay lưng lại với nhau. Đến đây, các nhà sản xuất không những 50
tăng cường các hoạt động thương mại của bản thân mình mà còn liên hệ chặt với
các nhà tiêu thụ sản phẩm và các doanh nghiệp coi đó là yếu tố quan trọng quyết
định sự sống còn của doanh nghiệp mình.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ các ngành và lĩnh vực chủ yếu:
Công nghiệp, hướng tới hòa nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới
bằng việc gia nhập hiệp Hội kinh tế Đông Nam Á (ASEAN) và tổ chức Hợp tác
kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC).
Thực hiện chủ chủ trương của Thành ủy, UBND Thành phố, Sở công
nghiệp Hà Nội chỉ đạo phát triển công nghiệp theo hướng CNH, HĐH. Công
nghiệp Hà Nội đã tập trung vào các ngành công nghiệp mũi nhọn có hàm lượng
chất xám cao, tạo ra hiệu quả kinh tế lớn như: công nghiệp điện tử, tin học, viễn
thông: sản xuất linh kiện, phụ kiện, lắp ráp, phần cững và phát triển công nghiệp
phần mềm. Công nghiệp hàng tiêu dùng chất lượng cao, phục vụ trong nước và
xuất khẩu từ các hàng tiêu dùng hàng ngày như: xà phòng, thuốc đánh răng, dầu
gội đầu các loại nước uống đến thưc ăn, rau quả sạch.
Trong giai đoạn 1996 - 2000, sản xuất công nghiệp của Hà Nội vẫn tiếp
tục tăng trưởng. Tỷ trọng công nghiệp từ 34,8% năm 1996 lên 38% năm 2000.
GTSX công nghiệp bình quân hàng năm tăng 15,6% [87, tr.30] (năm 1996 tăng
22,25%; năm 1997 tăng 17,60%; năm 1998 tăng 13,91%; năm 1999 tăng 7,56%;
năm 2000 tăng 8,67%) [19, tr.59-60]. Sản phẩm công nghiệp ngày càng phong
phú. Ngoài 9 khu công nghiệp cũ, Hà Nội đang hình thành và phát triển 5 khu
công nghiệp tập trung, 2 khu công nghiệp vừa và nhỏ.
Đây là giai đoạn đổi mới một cách đồng bộ cả về quan điểm nhận thức
cũng như tổ chức chỉ đạo điều hành công nghiệp Hà Nội. Đặc biệt trong chỉ đạo
có sự chuyển hướng từ khép kín sang mở cửa, từ tập trung cho công nghiệp
nặng sang phát triển công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu. Giai đoạn 1996 - 2000 còn có những tiến bộ đáng kể trong trang bị lại, đổi
mới và đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong các doanh nghiệp,
công nghiệp Hà Nội, đầu tư theo chiều sâu được chú trọng hơn. Nhờ đổi mới cơ
chế, nhiều doanh nghiệp đã có nhiều cách huy động vốn, trong đó có nguồn vốn 51
liên doanh đầu tư với nước ngoài, nhờ vậy đã đổi mới dây truyền thiết bị công
nghệ và thiết bị sản suất, tiếp thu công nghệ hiện đại. Với chủ trương phát triển
công nghiệp đúng đắn của Thành ủy công nghệp Hà Nội đã đạt được một số
thành tựu.
Qua bảng dưới đây ta thấy cơ cấu các nhóm ngành công nghiệp chuyển
dịch nhanh theo hướng phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp
kỹ thuật cao như: công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin tăng từ 9,50% năm
1995 lên 11,88% năm 2000; công nghiệp cơ khí tăng từ 28,21% năm 1995 lên
32,95% năm 2000; công nghiệp sản xuất vật liêu xây dựng tăng từ 5,51% năm
1995 lên 6,78% năm 2000. giảm công nghiệp chế biến nông - lâm sản - thực
phẩm từ 21,86% năm 1995 xuống còn 15,78% năm 2000; công nghiệp khai thác
giảm từ 1,65% năm 1995 xuống còn 1,43% năm 2000 [140, tr. 9].
Bảng 1.5: Chuyển dịch cơ cấu các nhóm ngành công nghiệp giai đoạn 1996
- 2000 [140, tr. 9]. Đơn vị tính: %
Năm 1995 2000 1996 -
2000
Tổng số 100 100 100
Công nghiệp khai thác 1,65 1,43 - 0,22
Công nghiệp chế biến 86,99 88,4 1,85
+ Công nghiệp chế biến nông-lâm-thuỷ sản,
thực phẩm
21,86 15,78 - 6,08
+ Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng 5,51 6,78 1,27
+ Công nghiệp cơ khí, luyện kim 28,21 32,95 4,74
+ Công nghiệp điện tử,công nghệ thông tin 9,50 11,88 2,38
+ Công nghiệp dệt may, da giày 14,45 12,39 - 2,06
+ Công nghiệp hóa chất và các SP hóa chất 7,47 9,07 1,60
Công nghiệp khác (điện, nước, in, tái chế...) 11,39 9,73 -1,66
+ Công nghiệp điện, nước 9,22 7,44 -1,78
52
+ In, tái chế... 2,17 2,29 0,12
Sự giảm sút giá trị sản xuất công nghiệp thể hiện rõ nhất là khu vực doanh
nghiệp Nhà nước Trung ương, giảm từ 52,12% năm 1995 xuống còn 42,64%
năm 2000 và khu vực doanh nghiệp Nhà nước địa phương, giảm từ 19,44% năm
1995 xuống còn 12,86% năm 2000. Nhưng khu vực kinh tế ngoài Nhà nước lại
tăng từ 9,53% năm 1995 lên 10,62% năm 2000, tốc độ tăng trưởng của khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 18,91% năm 1995 lên 33,88% vào năm 2000.
Nếu xét cả giai đoạn thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vẫn tăng trưởng cao
nhất và đạt tốc độ tăng bình quân 26,56%/năm, đưa cơ cấu của khu vực này theo
giá trị sản xuất từ 18,91% năm 1995 lên 33,88% năm 2000 [140, tr.10].
Bảng 1.6: Thực trạng chuyển dịch CCKT theo thành phần kinh tế (giá thực
tế) [140, tr.10] Đơn vị tính: %
Năm 1995 2000
Tổng số 100 100
1.Khu vực kinh tế trong nước 81,09 66,12
+ Doanh nghiệp Nhà nước Trung ương 52,12 42,64
+ Doanh nghiệp Nhà nướcđịa phương 19,44 12,86
+ Kinh tế ngoài Nhà nước 9,53 10,62
2.Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 18,91 33,88
Các cơ sở công nghiệp đã từng bước chuyển sang đa dạng hóa sản phẩm,
thực hiện sản xuất gắn với thị trường và hiệu quả kinh tế, từng bước khắc phục
sự chia cắt giữa sản xuất với lưu thông, giữa công nghiệp với thương mại và thị
trường. Nhiều doanh nghiệp cơ sở đã tích cực đầu tư đổi mới công nghệ, đổi
mới thiết bị, một số doanh nghiệp đầu tư đúng hướng nên có trình độ công nghệ
khá và đạt mức tăng trưởng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường. Trong tổng số
217 doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội hiện có khoảng 25% số doanh nghiệp có
53
công nghệ sản xuất tiên tiến. Công ty Xuân Hòa, Công ty điện cơ Trần Phú,
Công ty kim khí Thăng Long, Công ty khóa Việt - Tiệp, Công ty bia Việt Hà,
Công ty giầy Ngọc Hà...
Nhiều sản phẩm công nghiệp Hà Nội chiếm tỷ trọng cao so với vùng và
cả nước như: động cơ điện chiếm 83% so với cả nước, xe đạp chiếm 35%, máy
chế biến gỗ chiếm 46,6%, đồ nhôm chiếm 74%, lắp ráp tivi chiếm 57,7%, giầy
vải chiếm 40%, thuốc tẩy chiếm 29,5%, lốp xe đap chiếm 47,6%, quạt máy các
loại chiếm 73,9% [85, tr.10].
Ngoài 9 khu công nghiệp cũ, Thành phố đã và đang hình thành và phát
triển các khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp vừa và nhỏ. Đến năm
2000, Hà Nội đã hình thành 5 khu công nghiệp tập trung: Sóc Sơn, Bắc Thăng
Long, Sài Đồng B, Đài Tư; Sài Đồng A. Trong các khu công nghiệp tập trung có
22 dự án đầu tư với tổng số vốn 322 triệu USD. Cùng với các khu công nghiệp
tập trung ở Hà Nội đã hình thành các khu công nghiệp vừa và nhỏ ở các huyện
ngoại thành: Khu công nghiệp Vĩnh Tuy (Thanh Trì), với diện tích 12 ha, đã có
18 dự án đầu tư; khu công nghiệp Phú Thị (Gia Lâm), diện tích 17 ha, có 22 dự
án đăng ký đầu tư...[85, tr.10-11].
Lĩnh vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp với các mặt hàng thủ công mỹ
nghệ truyền thống như: Gốm sứ Bát Tràng, Kim Lan (Gia Lâm); dệt xe tơ chỉ
Triều Khúc (Thanh Trì); may (Cổ Nhuế); gỗ mỹ nghệ Vân Hà (Đông Anh), rèn
(Xuân Phương - Từ Liêm)... với đặc điểm chung là có đội ngũ nghệ nhân và thợ
có tay nghề cao, có bí quyết nghề nghiệp độc đáo, sản phẩm tinh xảo, có sức
cạnh tranh cao ở cả thị trường trong nước và nước ngoài, là một thế mạnh của
Thành phố Hà Nội.
Nhìn tổng thể quá trình chuyển dịch CCKT công nghiệp giai đoạn 1996 –
2000, cơ cấu nhóm ngành kinh tế - kỹ thuật của công nghiệp Hà Nội đã có sự
chuyển dịch theo hướng đa dạng; cơ cấu thành phần kinh tế ngoài nhà nước phát
triển nhanh, song kinh tế Nhà nước vẫn giữ được vai trò chủ đạo, chiếm tỷ trọng
trên 50%. Công nghiệp Thủ đô phát triển theo hướng kỹ thuật cao, tạo ra một số
ngành chủ lực.54
Nguồn vốn đầu tư cho công nghiệp ngày càng đa dạng nhưng chưa huy
động được nhiều vốn nhàn rỗi trong dân cư. Tỷ trọng vốn Nhà nước đầu tư vào
công nghiệp Hà Nội giảm mạnh đã phần nào ảnh hưởng tới chuyển dịch CCKT.
Thành phố Hà Nội thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn thấp hơn so với Thành
phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương. Tỷ lệ vốn nước ngoài đầu tư vào
công nghiệp mới chiếm khoảng 15 - 16%.
Đã xuất hiện một số doanh nghiệp sản xuất có công nghệ tiên tiến, sản
phẩm công nghiệp ngày càng phong phú, một số sản phẩm có khả năng cạnh
tranh, chiếm lĩnh và đứng vững trên thị trường như: đồ điện gia dụng, sứ xây
dựng, bánh kẹo, sản phẩm đồ uống... Một số sản phẩm công nghiệp có giá trị
xuất khẩu ngày càng cao, như điện tử, máy in phun, sản phẩm may mặc, hàng
thủ công mỹ nghệ, bước đầu hình thành công nghệ phần mềm.
Sự phát triển và chuyển dịch CCKT ngành công nghiệp trên đây là phù
hợp với nhu cầu thị truờng. Các ngành và nhóm ngành công nghiệp trong từng
khu vực kinh tế cũng phù hợp với việc khai thác những lợi thế có sẵn. Khu vực
sản xuất trong nước chủ yếu phát triển mạnh và chiếm tỷ lệ cao ở các ngành,
lĩnh vực sản xuất thu hút nhiều lao động, có nguồn nguyên liệu trong nước
không nhất thiết phải yêu cầu kỹ thuật cao và vốn đầu tư quy mô lớn.
Dịch vụ - Thương mại - du lịch
Dịch vụ: Trong 5 năm, tăng trưởng GDP ngành dịch vụ Thành phố Hà
Nội đạt 8,90%/ năm, thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP chung của kinh tế toàn
Thành phố, nên tỷ trọng của dịch vụ đã giảm từ 61,60% năm 1995 xuống còn
58,3 % năm 2000 [19, tr.41]. Tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch CCKT trong
nội bộ ngành dịch vụ có điểm đáng chú ý là:
Các hoạt động tài chính, tín dụng tăng trưởng cao nhất trong khối các
ngành dịch vụ. Tính bình quân giai đoạn 1996 - 2000, tốc độ tăng trưởng của
lĩnh vực dịch vụ này là 20,65%/ năm. Song tỷ trọng GDP của lĩnh vực này chỉ
chiếm 3,9% (2000) trong tổng số GDP của Thành phố. Tiếp đến lĩnh vực phát
triển nhanh là văn hóa thông tin tăng bình quân 12,3%/ năm, nhưng tỷ trọng
cũng chỉ chiếm 2,1% [85, tr.11]. 55
Lĩnh vực chiếm tỷ trọng cao nhất trong khu vực dịch vụ là lĩnh vực vận
tải - kho bãi - thông tin liên lạc, tiếp đến là lĩnh vực thương nghiệp và sửa xe có
động cơ. Tuy nhiên nếu tính cả giai đoạn, hai lĩnh vực này tăng trưởng chỉ đạt
8,5%/ năm và 6,93%/ năm [85, tr.12].
Về thương mại: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trên thị trường
Thành phố đạt mức tăng trưởng khá và tương đối ổn định. Tốc độ tăng bình
quân giai đoạn 1996 - 2000, là 10,14%/ năm; khu vực thương mại hỗn hợp tăng
cao nhất, tốc độ tăng trưởng bình quân là 31,92%/ năm; khu vực thương mại có
vốn đầu tư nước ngoài tăng trưởng bình quân 9,41%/ năm; khu vực thương mại
Nhà nước tăng trưởng chậm nhất, đạt 5,27%/ năm.
Trong cơ cấu tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ, khu vực kinh tế Nhà
nước giảm từ 29, 39% năm 1995 xuống còn 25,79% năm 2000; khu vực kinh tế
tư nhân và cá thể giảm từ 64,30% năm 1995 xuống 63,5% năm 2000; khu vực
kinh tế tập thể tăng từ 1,97% năm 1995 lên 5,65% năm 2000; khu vực kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 3,4 năm 1995 lên 4,19 năm 2000 [85, tr.12].
Thương nghiệp quốc doanh giữ được vai trò chủ đạo trong bán buôn, nhất
là các loại hàng hóa chiến lược như xăng dầu, xi măng, sắt thép, vật liệu xây
dựng, phân bón. Năm 1999 tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán buôn của Thành
phố Hà Nội là 45.500 tỷ đồng thì thương nghiệp quốc doanh đảm bảo gần 80%,
các thành phần ngoài quốc doanh chỉ chiếm khoảng 20%.
Về kim ngạch xuất nhập khẩu, kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn Hà Nội
phát triển đáng kể, bình quân hàng năm tăng 14,91%, tổng kim ngạch xuất khẩu
đạt khoảng 6,5 tỷ USD. Bước đầu hình thành những mặt hàng có kim ngạch
xuất khẩu và thị trường tương đối ổn định: Dệt - may - da giầy, điện - điện tử,
nông - thủy sản, thủ công mỹ nghệ...[87, tr.31]. Trong đó kim ngạch xuất khẩu
của kinh tế Trung ương chiếm tỷ trọng 75%, tăng bình quân 14,93%/ năm; xuất
khẩu địa phương chiếm tỷ trọng 25%, tăng trưởng bình quân 19,29%/ năm.
Nhưng nhịp độ tăng trưởng giữa các năm không ổn định, tăng cao trong 2 năm
1996 - 1997, năm 1998 nhịp độ tăng trưởng chững lại và được phục hồi nhịp độ
tăng trưởng năm 1999 - 2000. Tốc độ tăng trưởng bình quân của cả giai đoạn là 56
18,39%/ năm. Trong đó nhập khẩu của Trung ương chiếm tỷ trọng khoảng 85%/
năm, tăng bình quân 19,06%/ năm; nhập khẩu địa phương chiếm tỷ trọng 15%,
tăng trưởng bình quân 15,1%/ năm [85, tr.13].
Trong cơ cấu hàng xuất khẩu địa phương đã hình thành các nhóm hàng
xuất khẩu chủ lực: tỷ trọng xuất khẩu công nghệ phẩm đã tăng từ 47,35% năm
1995 lên 57,39% năm 2000; hàng nông sản giảm từ 14,95% xuống còn 12,91%;
hàng thủy hải sản từ 4,56% giảm xuống còn 2,3%, hàng lâm sản từ 4,06% giảm
xuống còn 1,72%. Đặc biệt đã hình thành mặt hàng chủ lực có kim ngạch xuất
khẩu ổn định và có thị trường tiêu thụ tốt như: Dệt - may; giầy - dép; điện - điện
tủ; nông hải sản; thủ công mỹ nghệ.
Thị trường xuất nhập khẩu của Hà Nội ngày càng ổn định và mở rộng.
Tính đến năm 2000, Hà Nội đã quan hệ thương mại với hơn 60 quốc gia và vùng
lãnh thổ ở hầu hết các châu lục trên thế giới, kể cả thị trường khó tính như Nhật
Bản, EU, Mỹ. Những thị trường xuất nhập khẩu chủ yếu của Hà Nội là: EU.
Hàn Quốc, Nhật Bản. ASEAN [85, tr.13].
Cùng với thành tựu đạt được trên, hoạt động thương mại của Thành phố
Hà Nội cũng đạt nhiều tiến bộ trên các mặt sau: đã và đang hình thành mạng
lưới thương mại hợp lý hơn theo hướng CNH, HĐH: hệ thống chợ trung tâm, hệ
thống các siêu thị, hệ thống văn phòng đại diện, hệ thống chợ nông thôn, hệ
thống lò giết mổ gia súc, hệ thống cửa hàng thương mại, dịch vụ. Đến năm
2000, Hà Nội đã có 40 siêu thị và cửa hàng tự chọn, trong đó thương nghiệp
quốc doanh chiếm khoảng 50%. Văn minh thương mại và dịch vụ ngày càng
được chú ý theo hướng phục vụ nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Công tác
xúc tiến mở rộng thị truờng, quản lý thị trường đã và đang được chú ý quan tâm;
hình thức hội chợ, quảng cáo hàng hóa đang được ngày càng nhiều nhà sản xuất
và người tiêu dùng quan tâm. trong công tác thị trường đã thực hiện dán tem đối
với hàng nhập khẩu tạo điều kiện nâng sức cạnh tranh hàng nội, thực hiện tốt
bình ổn giá và một số mặt hàng chủ đạo, những mặt hàng chiến lược.
Du lịch: giai đoạn 1996 - 2000, ngành du lịch Hà Nội đã có bước phát
triển đáng kể cả về quy mô và chất lượng, từng bước trở thành một ngành có vai 57
trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế của Thành phố. Đặc biệt sau khi có Nghị
quyết số 11-NQ/TU về “Đổi mới và phát triển du lịch Thủ đô đến năm 2010 và
những năm sau”, ngày 12-8-1998, du lịch Hà Nội đã có bước phát triển mới.
Môi trường du lịch ngày càng được cải thiện, số lượng khách quốc tế đến Hà
Nội có tốc độ tăng trưởng cao.Tổng lượt khách tăng từ 1.052.000 lượt khách
năm 1996, lên 2.600.000 năm 2000. tốc độ tăng bình quân giai đoạn 1996 - 2000
là 19,02%/ năm, trong đó khách quốc tế tăng từ 352.000 lượt khách năm 1996
lên 500.400 năm 2000, khách quốc tế tăng bình quân 2,22%/ năm; khách nội địa
tăng trưởng bình quân 30,95%/ năm. Doanh thu du lịch đạt 914 tỷ đồng năm
1995, lên 3000 tỷ đồng năm 2000 [145, tr.6].
Trong ngành du lịch, do liên doanh, liên kết đã có một số khách sạn đạt
tiêu chuẩn 5 sao, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và tiếp đón các đoàn. Các thị
trường du lịch quan trọng vẫn được giữ vững (Châu Âu, Nhật Bản, Các nước
ASEAN), gần đây nổi lên thị trường Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc đang có tốc độ
phát triển cao, đóng góp ngân sách ngày càng tăng, doanh thu xã hội phát triển
không ngừng, tạo được nhiều việc làm cho xã hội. Đặc biệt du lịch Hà Nội đã
gắn kết chặt chẽ với các thị trường trong nước (từ Bắc đến Nam) và thị trường
quốc tế.
Các công ty du lịch Hà Nội có sự phát triển đáng kể, tổng số có 142 đơn
vị lữ hành, trong đó có 32 đơn vi lữ hành quốc tế, có 331 khách sạn trên 9000
phòng, có hàng chục đơn vị vận chuyển khách du lịch, có trên 700 người được
cấp thẻ hướng dẫn viễn chính thức, hàng ngàn người là hướng dẫn viên hợp
đồng. Tổng số lao động trong ngành du lịch trên 15.000 người.
Nhiều tuyến du lịch, nhiều loại hình du lịch được mở ra. Nếu trước năm
1996, hoạt động du lịch chủ yếu tập trung vào lĩnh vực khách sạn, doanh thu
khách sạn thường chiếm 80 - 90% doanh thu ngành du lịch, trong khi doanh thu
lữ hành chỉ chiếm 1 - 3% thì từ năm 1996 đến năm 2000 du lịch lữ hành đã
được mở rộng [85, tr.14].
Các hoạt động tuyên truyền quảng bá cho du lịch được đẩy mạnh nhằm
giúp cho du khách hiểu được tiềm năng du lịch của Thành phố Hà Nội. Trong 5 58
năm 1996 - 2000, ngành du lịch đã phối hợp với ngành hàng không, văn hóa, thể
dục - thể thao tổ chức nhiều hoạt động hội thảo, hội thao, liên hoan du lịch để
giới thiệu văn hóa, con người Hà thành với bạn bè và du khách.
Hà Nội cũng đã xây dựng được hệ thống cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ
quản lý, hướng dẫn viên phục vụ cho phát triển kinh tế du lịch. Số lượng khách
sạn, nhà nghỉ không ngừng tăng, từ 233 khách sạn, nhà nghỉ năm 1995, tính đến
năm 2000 trên toàn Thành phố đã có 331 khách sạn với 9.396 phòng, gồm 100
khách sạn quốc doanh với 3.359 phòng, 17 khách sạn liên doanh với nước ngoài
và 214 khách sạn thuộc các thành phần khác. Đã có 67 khách sạn được xếp
hạng, gồm 3 khách sạn 5 sao, 3 khách sạn 4 sao, 128 khách sạn 3 sao, 30 khách
sạn 2 sao và 13 khách sạn 1 sao. Hệ thống vận tải du lịch phát triển nhanh, riêng
hệ thống taxi đã có trên 20 hãng với trên 1000 đầu xe [85, tr.15].
Nhờ những định hướng lớn của Nghị quyết số 11 - NQ/TU về “Đổi mới
và phát triển du lịch Thủ đô đến năm 2010 và những năm sau”, sự chỉ đạo sát
sao của UBND Thành phố, đặc biệt sự quan tâm của thường trực Thành ủy, Hội
đồng nhân dân Thành phố, ngành du lịch Hà Nội đã phát triển một cách vững
chắc, mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính của các nước Đông Nam Á, Đông Bắc
Á, có tác động đến thị trường du lịch Hà Nội. Song du lịch Hà Nội ngày càng
thể hiện rõ vai trò của mình trong CCKT chung của Thành phố. Doanh thu đã
tăng 2 lần so với năm 1998, đạt tỷ trọng 13% tổng doanh thu. Bên cạnh đó, Sở
du lịch đẩy mạnh phát triển các tour du lịch liên tỉnh. Ngoài tuyến Hải Phòng,
Quảng Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Huế. Du lịch Hà Nội còn phát triển mạnh
mẽ các tour sang phía Tây (Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu), lên phía Bắc như Cao
Bằng, Bắc Cạn, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Lào Cai, Yên Bái.
Sự chuyển dịch CCKT của ngành du lịch thể hiện 2 xu hướng trong phát
triển kinh tế - xã hội Thành phố: đó là xu hướng tập trung phát triển các ngành,
lĩnh vực dịch vụ cao cấp như tài chính ngân hàng, giáo dục - đào tạo, văn hóa
thông tin; xu hướng làm dịch vụ trực tiếp cho sản xuất như vận tải, kho bãi,
thương nghiệp.
59
Nông nghiệp: Trong 5 năm, sản xuất nông - lâm nghiệp - thuỷ sản tiếp tục
tăng trưởng và phát triển khá: tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông - lâm
nghiệp - thủy sản bình quân đạt 4,98%/ năm [87, tr.32], vượt chỉ tiêu Đại hội
XII đề ra. Tăng cao nhất là ngành thủy sản, bình quân 6,56%/năm, tiếp đến là
ngành chăn nuôi, bình quân 5,96%/năm, ngành trồng trọt, bình quân tăng
3,65%/năm, ngành lâm nghiệp giảm 1,80%/năm.
Cơ cấu giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp - thủy sản chuyển dịch theo
chiều hướng tích cực. Tỷ trọng ngành chăn nuôi, thủy sản tăng dần từ 36,65%
năm 1995 lên 38,35% năm 2000; tỷ trọng ngành trồng trọt giảm dần trong khi
giá trị tuyệt đối vẫn tăng [85, tr.16].
Trong cơ cấu nội bộ các ngành có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ
trọng cây trồng, vật nuôi có chất lượng và giá trị hàng hóa cao như tăng diện tích
trồng cây thực phẩm từ 8755 ha năm 1995 lên 9173 ha năm 2000, cây công
nghiệp tăng 6478 ha năm 1995 lên 7303 ha năm 1999, giảm diện tích trồng cây
lương thực từ 71111 ha năm 1995 xuống còn 66217 ha năm 2000 [19, tr.171].
Cơ cấu cây trồng có sự chuyển dịch giảm diện tích gieo trồng, vật nuôi
nhưng tăng năng suất, chất lượng và giá thành sản phẩm như trồng trọt đạt
734803 triệu đồng năm 1995 lên 931921 triệu đồng năm 2000. Chăn nuôi từ
394170 triệu đồng năm 1995 lên 542566 triệu đồng năm 2000, thủy sản từ
49272 triệu đồng năm 1995 lên 76671 năm 2000 [19, tr.172-177].
Bảng 1.7: Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp [19, tr.172-177]
Đơn
vị tính1995 1996 1997 1998 1999 2000
Lúa
Diện tích ha 56086 54795 54535 54018 53895 54162
Năng suất tạ/ha 36,8 34,9 34,4 37,1 38,5 41,5
Sản lượng tấn 20629
2
19099
3
18773
0
20019
7
20760
3
19566
7
Ngô
60
Diện tích ha 9658 11201 11572 12253 11718 12055
Năng suất tạ/ha 22,6 27,6 31 26,4 26,5 26,3
Sản lượng tấn 21815 30945 35874 32393 31103 31675
Rau các loại
Diện tích ha 5732 7897 7468 7655 7670 7985
Năng suất tạ/ha 169,9 145,7 158,5 164,4 170,0 179,5
Sản lượng tấn 95095 11503
8
11813
4
12582
5
13042
3
14334
5
Hoa các loại
Diện tích ha 389 507 517 1008 1075 1562
Sản lượng
(giá thực tế)
Triệu
đồng
11670 - 39407 71184 63115 67044
Nhìn bảng trên ta thấy, diện tích trồng cây lương thực và cây thực phẩm
có loại tăng, có loại giảm diện tích gieo trồng nhưng sản lượng và giá trị hàng
hóa của các loại cây trồng ngày càng tăng như: diện tích trồng lúa ngày càng
giảm từ 56086 ha năm 1995 xuống còn 54161 ha năm 2000, nhưng năng suất
lúa và chất lượng lúa để xuất khẩu và có giá trị kinh tế ngày càng cao từ 36,8
tạ/ha năm 1995 lên 41,5 tạ/ha năm 2000. Diện tích trồng ngô phục vụ chăn nuôi
tăng từ 9658 ha năm 1995 lên 12005 ha năm 2000, sản lượng ngô không ngừng
tăng từ 21815 tấn năm 1995 lên 31675 tấn năm 2000. Diện tích trồng rau tăng từ
5732 ha năm 1995 lên 7985 ha năm 2000, năng suất tăng từ 169,9 tạ/ ha năm
1995 lên 179,5 tạ/ ha năm 2000, sản lượng tăng từ 95095 tấn năm 1995 lên
143345 tấn năm 2000, đặc biệt là rau sạch cung cấp cho các siêu thị, cửa hành
rau sạch Thủ đô ngày càng tăng.
Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, sự chỉ đạo của UBND Thành phố, Sở
nông nghiệp và phát triển nông thôn, cấp ủy Đảng cơ sở các huyện Từ liêm, Gia
Lâm, Đông Anh đã thực hiện quy hoạch vùng sản suất rau theo quy trình rau
sạch cung cấp cho Thủ đô.
61
Cơ cấu ngành chăn nuôi chuyển dịch theo hướng tăng nhanh các sản
phẩm có chất lượng như lợn nạc, bò sữa, thủy sản, chăn nuôi gia cầm. Tổng đàn
lợn trên 2 tháng tăng bình quân 3,4%/ năm, đàn bò sữa tăng bình quân 4,5%/
năm, sản lượng lợn thịt tăng bình quân 6,7%/năm, thịt gia cầm tăng bình quân
7,6%/năm trong đó chủ yếu là chăn nuôi gà công nghiệp [85, tr.16-17].
+ Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế :
Giai đoạn 1996 - 2000, Đảng bộ Thành phố Hà Nội đã tập trung nguồn
lực phát triển kinh tế Nhà nước, trong những ngành, lĩnh vực trọng yếu như kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ
sơ sản xuất và thương mại, dịch vụ then chốt. Bỏ cơ chế quản lý “cấp chủ quản”,
nâng cao chất lượng cấp quản lý của cơ sở chuyên ngành. Đổi mới và tăng
cường vai trò của kinh tế Nhà nước trong lĩnh vực phân phối lưu thông. Phát
triển mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Trừ một số doanh nghiệp
100% vốn Nhà nước, nói chung, nhà nước chỉ nắm tỷ lệ cổ phần chi phối, cổ
phần đặc biệt, còn lại chủ yếu bán cổ phần cho cán bộ công nhân viên doanh
nghiệp, một phần bán ra ngoài doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp Nhà nước Trung ương, điạ phương đã góp phần cung
ứng hầu hết các sản phẩm thiết yếu phục vụ cho nhu cầu của nhân dân Thủ đô
và các vùng phụ cận; nhiều sản phẩm xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới,
tạo điều kiện thúc đẩy các doanh nghiệp ngoài nhà nước phát triển, đồng thời
tiếp tục đảm nhận những công việc, hoặc đầu tư vào các lĩnh vực mà các thành
phần kinh tế khác chưa có điều kiện tham gia do mức đầu tư ban đầu quá lớn
trong khi lợi nhuận thấp, thậm chí không có lợi nhuận. Tỷ trọng kinh tế Nhà
nước trên địa bàn giảm từ 70,6% năm 1995 xuống còn 61,0% năm 2000, trong
đó tỷ trọng khu vực kinh tế Nhà nước địa phương trong GDP trên địa bàn đạt
10,1% năm 1995 giảm xuống còn 7,9% năm 2000. Tốc độ tăng GDP trung bình
trên địa bàn giai đoạn 1996 - 2000, đạt 7,89%/năm, trong đó khu vực kinh tế địa
phương đạt 5,59%/năm, các doanh nghiệp Nhà nước địa phương đóng góp 1,7%
tổng thu ngân sách trên địa bàn. tạo việc làm ổn định cho 70 ngàn lao động, góp
phần ổn định đời sống kinh tế - xã hội Thủ đô [19, tr.40].62
Mặc dù tỷ trọng giảm, nhưng khu vực kinh tế Nhà nước đã và đang phát
huy vai trò chủ đạo, là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền
kinh tế, chiếm vị trí quan trọng cơ cấu GDP Thành phố, nắm giữ những ngành
và lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế (điện, nước, viễn thông, cơ sở hạ tầng...),
quản lý các tài nguyên của Thủ đô.
Chủ trương đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước
được Hà Nội tiến hành thực hiện một cách thận trọng, bài bản bước đầu đạt
được một số thành tựu nhất định. Nhưng do nhiều nguyên nhân, tốc độ cổ phần
hóa doanh nghiệp còn chậm. So với nhiều thành phần kinh tế khác doanh
nghiệp Nhà nước được sự hỗ trợ về cơ chế, chính sách, vay vốn, nắm giữ nhiều
lợi thế về địa điểm kinh doanh, nhưng một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước
chưa năng động, chậm đổi mới dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển nhanh và từng bước tham
gia vào hầu hết các lĩnh vực kinh doanh, trong đó có những lĩnh vực trước đây
chỉ do Nhà nước đảm nhận. Cơ cấu tổng sản phẩm nội địa (GDP) trung bình cả
giai đoạn 1996 - 2000, đạt 21,36%/ năm. Cùng với quá trình chuyển chuyển dịch
CCKT thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp mới được hình thành.
Đến năm 2000 toàn thành phố có khoảng 6.760 doanh nghiệp ngoài quốc doanh
và phát triển khá hiệu quả [100, tr.98]. Do tính năng động kinh tế, khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh còn là nhân tố thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế Thủ
đô.
Do những đổi mới về nhận thức, cùng hàng loạt cơ chế chính sách hỗ trợ,
khuyến khích của Trung ương và Thành phố, khu vực kinh tế tư nhân ngày càng
phát triển và có vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển và chuyển dịch
CCKT Thành phố Hà Nội. Tỷ trọng các doanh nghiệp tư nhân trong GDP Thành
phố tăng liên tục từ 3,4% năm 1995 lên 6,1% năm 2000, nếu tính cả hộ kinh tế
cá thể thì mức tăng là 17,6% (1995) và 17,5% (2000). Các doanh nghiệp tư nhân
và hộ sản xuất kinh doanh đã tạo ra Giá trị sản xuất công nghiệp bằng 90% Giá
trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp Nhà nước địa phương, chiếm
khoảng 8% kim ngạch xuất khẩu, 7,5% tổng mức bán lẻ trên thị trường, cung 63
cấp 60% lượng hàng hóa bán cho các tỉnh lân cận và thu hút 50% lao động xã
hội trên địa bàn. Các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu kinh doanh thương mại và
dịch vụ, hầu như chưa có doanh nghiệp tư nhân nào tham gia vào hoạt động dịch
vụ cao.
Kinh tế tập thể (chủ yếu là kinh tế hợp tác) vẫn giữ vị trí nhất định trong
cơ cấu kinh tế Thành phố, góp phần tạo nhiều sản phẩm trong xã hội, tăng GDP,
giải quyết việc làm, đời sống của một bộ phận dân cư. Nhiều HTX sau chuyển
đổi hoạt động hiêu quả hơn.
Về kinh tế hộ: tính đến năm 2000, Hà Nội có 282.520 hộ sản xuất kinh
doanh, trong đó hoạt động trong ngành thương mại, dịch vụ chiếm 25,3%, ngành
nông nghiệp 69,2% và ngành thủ công nghiệp chiếm 5,5%, Kinh tế hộ hoạt động
đa dạng và đạt kết quả khá nhất trong thu hút lao động và phát triển nghề mới.
Kinh tế HTX: Đến cuối năm 2000, Toàn Thành phố có 728 HTX; so với năm
1996, tăng 114 HTX, nhưng số lượng xã viên giảm nhiều (365.000 xã viên).
Trong đó, HTX nông nghiệp chiếm 43,7%, HTX phi nông nghiệp chiếm 56,3%.
Trong HTX phi nông nghiệp, HTX tiểu - thủ công nghiệp chiếm 70%, HTX vận
tải 14,6%, HTX xây dựng 10%, HTX thương mại 5,4% [88, tr 10].
Qua khảo sát, phân loại có 28% HTX khá, 41% trung bình, 31% yếu kém.
Chất lượng, hiệu quả hoạt động của một số loại hình HTX như sau: HTX nông
nghiệp: cung cấp dịch vụ đầu vào là chủ yếu, lãi không nhiều, dịch vụ đầu ra của
sản phẩm gặp nhiều khó khăn. HTX tiểu – thủ công nghiệp: sản xuất phát triển
nhanh (giai đoạn 1996 - 2000 tăng 40,17%/ năm), mỗi năm tuyển dụng thêm
10,12% lao động, thu nhập bình quân khá 420.000 đồng/ người/ tháng. HTX
thương mại: có bước phát triển mới về vốn kinh doanh, doanh thu, nộp ngân
sách và thu nhập của xã viên đề tăng [95, tr, 15]
Tuy nhiên, hoạt động của kinh tế tập thể còn nhiều yếu kém: vấn đề tài
chính chưa được giải quyết triệt để, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, tổ chức
quản lý yếu, cơ sở vật chất nghèo nàn, thu nhập thấp so với bình quân của xã
hội, sản phẩm thiếu sức cạnh tranh.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng (nội thành - ngoại thành):64
Từ 1996 – 2000 do quá trình đô thị hóa, diện tích nội thành và khu vực
ven đô dành cho phát triển kinh tế trở nên chật hẹp. Đặc biệt phát triển công
nghiệp ở khu vực này dễ dẫn đến ô nhiễm môi trường, các vấn đề bức xúc xã
hội, trong khi tiềm năng của ngoại thành còn rất lớn chưa được khai thác sử
dụng nhiều. Nhận thức rõ vai trò và từ thực trạng nông nghiệp, nông thôn ngoại
thành, từ năm 1990, Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố, đã có chủ trương
tăng cường lãnh đạo chỉ đạo phát triển kinh tế ngoại thành. Ngày 5 - 5 - 1992,
Thành ủy ra chương trình 06 “Kinh tế ngoại thành và xây dựng nông thôn mới
Thủ đô giai đoạn 1992-1995”, năm 1996 Thành ủy có kế hoạch 05/KH - TU tiếp
tục thực hiện chương trình 06/CTr - TU đến năm 2000.
Tính đến năm 2000, ngoại thành Hà Nội có 5 huyện, 118 xã và 8 thị trấn,
với dân số là: 1.273.800 (chiếm 46,6% dân số toàn Thành phố), diện tích tự
nhiên của ngoại thành là 83.440 ha (chiếm 91% diện tích toàn Thành phố), trong
đó 43.400 ha đất nông nghiệp, 6.630 ha đất lâm nghiệp [131, tr.1]. Chương trình
06/CTr-TU, đã đi vào cuộc sống, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch
CCKT, cải thiện đời sống văn hóa ngoại thành, góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp phát triển kinh tế Thủ đô Hà Nội.
Trong giai đoạn 1996 - 2000, tốc độ phát triển của kinh tế ngoại thành
thấp hơn khu vực nội thành.
Một số Đảng bộ huyện đã lãnh đạo thực hiện tốt chuyển dịch CCKT ở địa
phương, như : Từ Liêm, Gia Lâm...Ở 2 huyện này đã hình thành CCKT: công
nghiệp - nông nghiệp - thương mại, dịch vụ với tỷ lệ thích hợp.
Nguyên nhân của những thành tựu:
Trước hết, đó là việc thực hiện đương lối đổi mới và các Nghị quyết của
Trung ương Đảng và được cụ thể hóa bằng 12 chương trình và kế hoạch của
Thành ủy một cách đúng đắn.
Sự năng động sáng tạo của nhân dân Thủ đô, của các sở, ban, ngành và
các doanh nghiệp trong tìm tòi các hình thức, giải pháp khai thác tiềm năng,
phát huy sức mạnh, lợi thế của Thành phố và của các thành phần kinh tế từ cơ
sở, từ thực tiễn sản xuất, kinh doanh.65
Sự đổi mới một số khâu trong nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng
bộ, Ban thường vụ Thành ủy, UBND Thành phố và cấp ủy, chính quyền các các
quận, huyện.
Sự cố gắng và tinh thần trách nhiệm cao của đại bộ phận cán bộ, đảng
viên trong toàn Đảng bộ Thành phố.
Sự quan tâm chỉ đạo chặt chẽ, có kiểm tra của Trung ương đối với Thành
phố.
Về hạn chế:
Kinh tế Hà Nội phát triển chưa vững chắc, chuyển dịch CCKT chưa tương
xứng với tiềm năng, vị thế của Thủ đô. Một số chỉ tiêu chuyển dịch CCKT được
đề ra ở Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XII và chỉ tiêu đã điều
chỉnh không đạt, (đến năm 2000 công nghiệp đạt 39% (năm 2000 đạt 37%),
nông - lâm nghiệp - thủy sản là 3,3% (năm 2000 đạt 3,0%), dịch vụ 57,7% (năm
2000 đạt 60,0%).
Hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của các ngành trong
CCKT còn thấp. Trong nội bộ từng ngành, cơ cấu các ngành, các sản phẩm có
trình độ kỹ thuật, công nghệ cao còn ít, sản phẩm kém sức cạnh tranh. Đây là
một trở ngại cho quá trình CNH, HĐH và hội nhập của nền kinh tế Thành phố
Hà Nội.
Đầu tư cho phát triển kinh tế và chuyển dịch CCKT còn tình trạng dàn
trải, chưa hợp lý. Chưa xác định chính xác và đầu tư cho những ngành, sản
phẩm mũi nhọn nhằm đẩy mạnh chuyển dịch CCKT của Thành phố Hà Nội.
Thu hút đầu tư của nước ngoài giảm. Dịch vụ chất lượng cao phát triển
chậm, hiệu quả hạn chế; lĩnh vực tài chính - ngân hàng còn nhiều mặt chậm đổi
mới. sản xuất chưa thật gắn kết với thị trường; Sắp xếp đổi mới doanh nghiệp
Nhà nước còn chậm; hoạt động của các HTX sau chuyển đổi còn lúng túng, khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh chưa được quan tâm, hỗ trợ đúng mức. Quan hệ
hợp tác giữa các địa phương trong vùng và cả nước còn hạn chế.
Kinh tế Nhà nước, nhất là kinh tế Nhà nước Trung ương chiếm tỷ trọng
cao trong CCKT Thành phố. Đây là một thế mạnh cũng là vấn đề phức tạp cho 66
qua trình hoạch định chính sách và điều hành chuyển dịch CCKT và phát triển
kinh tế Thành phố.
Tuy còn một số hạn chế, nhưng thành tựu to lớn của chuyển dịch CCKT ở
Thành phố Hà Nội giai đoạn 1996 - 2000, chứng minh chủ trương chuyển dịch
CCKT do Đảng bộ Thành phố đề ra và lãnh đạo thực hiện trong 5 năm qua là
hoàn toàn đúng định hướng. CCKT chuyển dịch theo hướng nâng tỷ trọng công
nghiệp, giảm tỷ trọng dịch vụ và nông nghiệp, đồng thời đi vào chiều sâu
chuyển dịch CCKT ngành. Đây là điều kịên, cơ sở khoa học đã được thực tiễn
kiểm nghiệm khẳng định đường lối chủ trương của Đảng đã, đang và sẽ đi vào
cuộc sống. Những thành tựu đạt được trong quá trình chỉ đạo thực hiện ở giai
đoạn này, làm cơ sở để Đảng bộ Thành phố Hà Nội tiếp tục lãnh đạo đẩy mạnh
chuyển dịch CCKT giai đoạn 2001 - 2005.
CHƯƠNG II. ĐẢNG BỘ HÀ NỘI LÃNH ĐẠO, ĐẨY MẠNH CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ ( 2001 – 2005 )
2.1. CHỦ TRƯƠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ CỦA ĐẢNG
NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI
Bước vào thế kỷ XXI, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng,
tháng 4-2001, đã xác định đường lối phát triển kinh tế là: “Đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp” [41, tr.24].
Về mục tiêu phát triển kinh tế trong kế hoạch 5 năm (2001 - 2005), Đại
hội chỉ rõ: “Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyển dịch mạnh cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nâng
cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối
ngoại” [41. tr.28]. Chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch là: Nhịp độ tăng GDP bình
quân 7,5%/ năm. Đến năm 2005, tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp là 20 - 21%
GDP; công nghiệp và xây dựng 38 - 39%, các ngành dịch vụ 41 - 42%.67
Đại hội chủ trương: Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn
theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá phù hợp với nhu cầu thị
trường và điều kiện sinh thái từng vùng; chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu
lao động, tạo việc làm thu hút nhiều lao động ở nông thôn. Xây dựng hợp lý cơ
cấu sản xuất nông nghiệp. Tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong
nông nghiệp phát triển mạnh công nghiệp dịch vụ ở nông thôn. Đưa nhanh tiến
bộ và khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đạt mức tiên tiến trong khu
vực về trình độ công nghệ và về thu nhập trên một đơn vị diện tích; tăng năng
suất lao động, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Mở rộng thị
trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước [41, tr.168-169].
Trong định hướng phát triển các ngành kinh tế, Đại hội chỉ rõ:
Phát triển và chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH. Nâng cao chất
lượng và hiệu quả phát triển kinh tế, tăng sức cạnh tranh. Chuyển dịch CCKT,
cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát triển các thế mạnh và lợi thế so sánh của đất
nước, gần với nhu cầu thị trường trong nước và ngoài nước [41, tr.26].
Đại hội xác định: Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần
thiết để đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục phát triển và
đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên trình độ mới bằng việc ứng dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học; đẩy mạnh thủy lợi
hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa; quy hoạch sử dụng đất hợp lý; đổi mới cơ cấu
cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích; giải quyết tốt vấn
đề tiêu thụ nông sản hàng hóa; đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng
kinh tế và xã hội ở nông thôn, phát triển công nghiệp, dịch vụ, các ngành, nghề
đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng
nghề, chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và
dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện
đời sống nhân dân.
Về công nghiệp, Đại hội chủ trương vừa phát triển các ngành sử dụng
nhiều lao động, vừa đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại,
công nghệ cao. Phát triển mạnh công nghệ chế biến nông sản, thủy sản, may 68
mặc, da - giầy, một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghiệp phần mềm...Xây
dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng, sản xuất tư liệu sản
xuất cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế và quốc phòng. Khai thác có
hiệu quả các nguồn tài nguyên, dầu khí, khoáng sản, vật liệu xây dựng. Chú
trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ; xây dựng một số doanh nghiệp
lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hóa. “Phát triển nhanh các ngành công
nghiệp có lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất
khẩu, như chế biến nông, lâm, thuỷ sản, may mặc, da - giầy, điện tử - tin học,
một số sản phẩm cơ khí và tiêu dùng…" [41, tr.173].
Phát triển mạnh thương mại, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động
để mở rộng thị trường trong nước và hội nhập quốc tế có hiệu quả, phát triển
dịch vụ vận tải hàng hoá, hành khách phát triển nhanh hiện đại dịch vụ bưu
chính - viễn thông, phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi
nhọn…mở rộng dịch vụ tài chính - tiền tệ, phát triển mạnh các dịch vụ kỹ thuật,
dịch vụ tư vấn, dịch vụ phục vụ đời sống.
Dịch vụ, phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ:
thương mại, kể cả thương mại điện tử, các loại hình vận tải, bưu chính - viễn
thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, chuyển giao công
nghệ, tư vấn pháp lý, thông tin thị trường [41, tr. 92-94].
Sau Đại hội IX Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX), 18-3-2002, ra Nghị
quyết về: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
thời kỳ 2001- 2010". Nghị quyết làm rõ hơn quan điểm về đẩy nhanh CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn. CNH, HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển dịch
CCKT nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế
biến và thị trường, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng
các thành tựu khoa học, công nghệ trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị
kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức mạnh cạnh tranh của nông sản hàng hóa
trên thị trường. Nghị quyết nhấn mạnh:
69
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động
các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng và lao động nông nghiệp,
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo
vệ môi trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp, xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ở nông thôn [43, tr.93-94].
Nghị quyết Trung ương 5 khẳng định 5 quan điểm về đẩy nhanh CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn tới.
Một là, CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là một trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của CNH, HĐH đất nước. Phát triển công nghiệp dịch vụ
phải gắn bó chặt chẽ hỗ trợ đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn.
Hai là, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn
lực con người, ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học, công nghệ thúc đẩy
chuyển dịch CCKT theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng, gắn với thị
trường để sản xuất hàng hóa quy mô lớn với chất lượng và hiệu quả cao bảo vệ
môi trường, phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai, phát triển nông nghiệp
và nông nghiệp nông thôn bền vững...
Ba là, dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực
bên ngoài, phát huy tiềm năng các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc. Phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ sản xuất hàng hóa, các lọai hình
doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế và xã hội trong quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhằm giải quyết việc làm, xóa đói giảm
nghèo ổn định xã hội và phát triển kinh tế. Nâng cao đời sống vật chất và văn
hóa của người dân nông thôn, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng sâu,
vùng xa...
70
Năm là, kết hợp chặt chẽ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn với xây
dựng tiềm năng và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân...Thể
hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển - xã hội của cả
nước, của các ngành, các địa phương...[43, tr.94-95].
Đường lối và những quan điểm chỉ đạo quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn của Đảng thể hiện quá trình phát triển nhận thức và tư duy lý
luận của Đảng ta về CNH, HĐH, về chuyển dịch CCKT ở nước ta, nhằm phấn
đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Tháng 2 - 2004, BCHTƯ họp Hội nghị lần thứ 9, ra Nghị quyết “Về một
số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết
Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng”. Về phát triển kinh tế Trung ương chủ
trương:
- Tiếp tục sắp xếp, đổi mới phát triển và nâng cao hiệu qủa khu vực doanh
nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa mạnh hơn nữa; khuyến khích phát
triển mạnh kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và
các tổ chức kinh tế cổ phần; nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp; nâng
cao hiệu quả đầu tư.
- Tạo lập và phát triển đồng bộ các loại thị trường: Thị trường chứng
khoán, thị trường tài chính - tín dụng, thị trường bất động sản, thị trường lao
động, thị trường khoa học và công nghệ.
- Tiếp tục chủ động hội nhập, thực hiện có hiệu quả các cam kết và lộ
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước để sớm ra
nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO).
- Đổi mới cơ bản công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh
tế - xã hội và điều chỉnh mạnh CCKT. Trên cơ sở chiến lược quy hoạch, có
chính sách điều chỉnh mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư và cơ cơ cấu lao động
trong từng ngành, từng vùng theo hướng CNH, HĐH nhằm phát huy lợi thế so
sánh, gắn với thị trường trong nước và thế giới. Chuyển mạnh CCKT nông
nghiệp, nông thôn theo hướng tạo ra các vùng sản xuất hàng hóa tập trung
chuyên canh, thâm canh, có năng suất, chất lượng cao; áp dụng tiến bộ khoa học 71
và công nghệ mới nhất là công nghệ sinh học, gắn với chế biến và tiêu thụ. Phát
triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, phù trợ cần thiết. Mở rộng và nâng cao chất
lượng các hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống, đặc biệt là dịch vụ
chất lượng cao, phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng dịch vụ cao hơn tốc độ tăng
trưởng chung của nền kinh tế.
Những chủ trương của Đảng về chuyển dịch CCKT giai đoạn 2001-2005,
được Đảng bộ các địa phương trong cả nước quán triệt và vận dụng sáng tạo phù
hợp với đặc điểm, lợi thế, tiềm năng của từng địa phương. Đây là nền tảng cơ sở
rất quan trọng để Đảng bộ Thành phố Hà Nội đề ra chủ trương, biện pháp, lãnh
đạo, chỉ đạo đẩy mạnh chuyển dịch CCKT ở Thủ đô (2001 - 2005) và đề ra định
hướng phát triển, chuyển dịch CCKT trong giai đoạn 2006 - 2010.
2.2. CHỦ TRƯƠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ CỦA ĐẢNG BỘ HÀ NỘI
Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XIII (từ 27 đến 30-12-2000)
đã đề ra những định hướng cơ bản nhằm phát triển kinh tế Thủ đô: Đảm bảo
kinh tế Thủ đô có nhịp độ tăng trưởng nhanh, bền vững, cơ cấu kinh tế hợp lý
theo hướng ưu tiên phát triển các lĩnh vực có sử dụng công nghệ cao, hiệu quả
kinh tế lớn, ít gây ô nhiễm môi trường, giải quyết nhiều việc làm, nâng cao trình
độ, chất lượng dịch vụ trở thành thế mạnh của kinh tế Thủ đô, phấn đấu đi đầu
cả nước về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, về tiếp cận kinh tế tri thức,
phục vụ có hiệu quả yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố, của các
tỉnh lân cận, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước [87, tr.49-50].
Đại hội quán triệt phương châm: “phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ
trung tâm, xây dựng Đảng và bộ máy chính quyền là nhiệm vụ then chốt” [87,
tr.52]
Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XIII đề ra những nhiệm vụ cơ bản
của kế hoạch 5 năm (2001-2005) cụ thể: "Tiếp tục thực hiện tốt cơ cấu kinh tế
công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp"; Tập trung phát triển mạnh lực lượng sản
xuất kết hợp chặt chẽ với xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững. Từ đó, “chuyển cơ 72
cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp trong giai đoạn tiếp
theo "[87, tr.53-54].
Các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (2001-2005):
- Tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm: 10 - 11%.
- Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm: 14,5 -
15,5%.
- Tốc độ tăng giá trị sản xuất của ngành dịch vụ bình quân hàng năm: 9 -
10%.
- Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân hàng năm: 3,5 - 4%.
- Vận tải khách công cộng đến năm 2005 đáp ứng được 20 - 25% nhu cầu
[87, tr.60].
Về công nghiệp, Đại hội chủ trương: phát triển công nghiệp với tốc độ
nhanh, hiệu quả cao trên cơ sở phát huy mạnh các nguồn lực, đặc biệt là nội lực,
đưa công nghệ hiện đại và công nghệ tiên tiến vào sản xuất bình quân 8 - 10%/
năm. Hỗ trợ hiện đại hóa những ngành nghề truyền thống, thu hút nhiều lao
động, nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, thích ứng nhanh với thị
trường, bảo đảm đủ năng lực và tiêu chuẩn cạnh tranh với các nước trong khu
vực.
Thu hút các dự án để lấp đầy và phát huy hiệu quả các khu công nghiệp;
hỗ trợ xây dựng và phát triển các khu công nghiệp vừa và nhỏ. Hình thành
ngành công nghiệp môi trường. Cải tạo, chuyển hướng sản xuất có kế hoạch, di
chuyển các cơ sở gây ô nhiễm, kỹ thuật giản đơn đến khu vực xa dân cư. Đầu tư
chiều sâu mở rộng các khu công nghiệp cũ ở ngoại thành còn khả năng về quỹ
đất, phù hợp với quy hoạch chung.
Các ngành công nghiệp chủ lực được xác định theo thứ tự: điện - điện tử -
thông tin, cơ - kim khí, dệt - may - da giầy, chế biến thực phẩm, vật liệu mới.
Chỉ tiêu của các ngành công nghiệp chủ lực:
Điện - điện tử - thông tin: Phấn đấu đạt tốc độ tăng giá trị sản xuất bình
quân 15 – 16%/năm.
73
Cơ - kim khí: Phấn đấu đạt tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân 14 –
15%/ năm.
Dệt - may - da giầy: tốc độ tăng giá tri sản xuất bình quân đạt 15%/năm.
Chế biến thực phẩm: phấn đấu đạt tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân
14 - 15%/ năm.
Công nghệ vật liệu mới: tốc độ tăng giá tri sản xuất bình quân 14 – 15%/
năm [87, tr.63- 64].
Về dịch vụ, phát triển mạnh các loại dịch vụ chất lượng cao.
Nâng cao chất lượng và phát triển đồng bộ dịch vụ du lịch trở thành ngành
quan trọng trong CCKT Thủ đô. Phát triển du lịch văn hóa - sinh thái, du lịch
truyền thống, du lịch lễ hội, du lịch kinh doanh...Kết hợp tốt du lịch với tôn tạo
các di tích, danh lam thắng cảnh; giữa phát triển các sản phẩm du lịch gắn với
quảng bá truyền thống lịch sử, văn hóa Thăng Long - Hà Nội. Phối hợp với các
địa phương khác để xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho các chương trình phát
triển du lịch đa dạng. Tổng doanh thu du lịch tăng 10%/năm
Xây dựng Hà Nội thành trung tâm thương mại thị trường hàng hóa bán
buôn, xuất nhập khẩu và dịch vụ theo hướng văn minh, hiện đại. Ưu tiên các
hoạt động xúc tiến thương mại; mở rộng và tăng cường quản lý thị trường. Phấn
đấu đạt kim ngạch xuất khẩu năm 2005 trên địa bàn khoảng 3,3 tỉ USD, tăng
bình quân 16 - 18%/năm.
Tích cực khai thác thị trường trong nước, đặc biệt là thị trường nông thôn.
Cơ cấu lại từng nhóm hàng và nâng cao chất lượng hàng hóa tạo sự ổn định, chủ
động trong xuất khẩu. Xây dựng các trung tâm thương mại hiện đại, hoàn chỉnh
hệ thống chợ, nhất là các chợ đầu mối bán buôn. Chống nạn hàng giả, hàng lậu,
gian lận thương mại...
Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính, xây dựng Hà Nội thành một
trung tâm tài chính hàng đầu khu vực phía Bắc và đóng vai trò quan trọng trong
cả nước. Phát triển đồng bộ và hiện đại hóa hệ thống tài chính - ngân hàng, đảm
bảo nhu cầu thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn cho quá trình CNH,
HĐH Thủ đô. Củng cố, lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng thương mại quốc 74
doanh, ngân hàng cổ phần; phát triển hệ thống tín dụng, ngân hàng phục vụ
người nghèo, phát huy vai trò các tổ chức tín dụng nhân dân ở nông thôn. Đa
dạng hóa các loại hình bảo hiểm phục vụ đầu tư và phát triển; xây dựng các
công ty tài chính làm nhiệm vụ huy động và phân phói vốn. Tham gia thị trường
chứng khoán an toàn, hiệu quả.
Nâng cao chất lượng dịch vụ bưu chính viễn thông sử dụng công nghệ
hiện đại, tăng dung lượng các tổng đài hiện có; cáp quang hóa mạng bưu chính
viễn thông; đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin phục vụ quản lý và sản xuất
kinh doạnh
Phát triển vận tải hành khách chất lượng cao, bảo đảm an toàn, thông suốt.
Phát triển các loại hình dịch vụ; kiểm toán, pháp luật, bảo hiểm, đối
ngoai, dịch vụ văn hóa, công nghệ, khám chữa bệnh và các dịch vụ chất lượng
cao khác [87, tr.65-66-67].
Về nông nghiệp, Đại hội chủ trương tập trung chỉ đạo việc giao đất ổn
định lâu dài cho nông dân. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn,
từng bước hiện đại hóa nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu sản xuất tạo nhiều sản
phẩm hàng hóa có giá trị cao làm cơ sở cho phát triển các ngành trồng trọt, chăn
nuôi thủy sản. Chú trọng sản xuất các loại nông phẩm đặc sản phù hợp với điều
kiện thổ nhưỡng và lợi thế khoa học - công nghệ của Thủ đô. Xây dựng, củng
cố các trung tâm chuyển giao công nghệ, cung cấp giống, cây con theo phương
pháp tiên tiến và công nghệ sinh học hiện đại. Quy hoạch một số vùng chuyên
canh như: rau rạch, hoa, cây cảnh, cây ăn quả, chăn nuôi có hiệu quả kinh tế cao.
Phát triển công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm nhằm tăng giá trị sản
phẩm nông nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ.
Củng cố các làng nghề truyền thống, phát triển các quần thể trang trại -
khu dân cư, điểm du lịch sinh thái - văn hóa. Xây dựng kinh tế ngoại thành gắn
với quá trình đô thị hóa và xây dựng nông thôn mới [87, tr.67-68].
Đối với các thành phần kinh tế, Đại hội nhấn mạnh: Phát triển mạnh các
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng. Tiếp tục đổi mới doanh nghiệp, 75
tách chức năng quản lý sản xuất kinh doanh với chức năng quản lý Nhà nước.
Đẩy nhanh tiến độ sắp xếp, cổ phần hóa vững chắc các DNNN.
Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, HTX sau chuyển đổi về phương
thức sản xuất kinh doanh, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, đào tạo cán bộ và
tìm kiếm thị trường. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp ngoài quốc doanh,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế hộ gia đình phát triển. Coi
trọng sử dụng cơ chế kinh tế gắn với lợi ích vật chất và tinh thần của người lao
động; phát triển mạnh các thành phần và loại hình kinh tế [87, tr.68-69].
Để đẩy mạnh chuyển dịch CCKT, Đại hội chỉ rõ: “Đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa” [87, tr.61].
Đảng bộ Thành phố Hà Nội đã đề ra định hướng phát triển các ngành và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 như sau:
Phát triển và chuyển dịch CCKT Thủ đô phải đặt trong mối quan hệ với CCKT
của vùng tam giác tăng trưởng và CCKT chung của cả nước, trong mối quan hệ
kinh tế Trung ương với kinh tế địa phương. Việc phát triển và chuyển dịch
CCKT phải gắn hài hòa giữa củng cố quan hệ sản xuất với phát triển lực lượng
sản xuất, quan tâm đến chất lượng CCKT. Phát triển và chuyển dịch CCKT phải
đảm bảo tính ổn định bền vững, kết hợp chặt chẽ giữa hiệu quả kinh tế với ổn
định xã hội và bảo vệ môi trường.
Mô hình chuyển dịch CCKT ở Hà Nội được thực hiện theo hướng kết hợp
khai thác nguồn lực bên trong với mở rộng quan hệ kinh tế, tham gia hội nhập
khu vực và thế giới, phát huy ưu thế các ngành truyền thống có hiệu quả cao, kết
hợp với những ngành có hàm lượng kỹ thuật, chất xám cao có sức đột phá, có
tác động thúc đẩy sự phát triển của các ngành khác [85, tr.21].
Trên cơ sở đổi mới nhận thức, Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XIII,
đã làm rõ hơn, cụ thể hơn một số vấn đề sử dụng cơ chế, chính sách trong phát
triển kinh tế : “Coi trọng sử dụng cơ chế kinh tế gắn với lợi ích vật chất và tinh
thần của người lao động, phát triển mạnh các thành phần, loại hình kinh tế, phát
huy dân chủ từ cơ sở, tạo động lực trực tiếp cho sự phát triển”[87, tr.69]; “Tiếp 76
tục đổi mới quản lý doanh nghiệp, tách chức năng quản lý sản xuất kinh doanh
với chức năng quản lý Nhà nước”[87, tr.68]; “tạo điều kiện thuận lợi để các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế
hộ gia đình phát triển”[87, tr.69]. Theo tinh thần đó, Thành phố đã thực hiện
nhiều giải pháp tổ chức, tài chính, khen thưởng để thúc đẩy kinh tế phát triển.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền Thành phố đã đổi mới nhiều
cơ chế, chính sách theo hướng đồng bộ, thông thoáng, nhất quán, phù hợp với
những nguyên tắc của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN để tạo môi
trường thuận lợi thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế trong nước và đầu tư
nước ngoài nhằm đẩy nhanh tăng trưởng, chuyển dịch CCKT, đi đầu cả nước
trong sự nghiệp CNH, HĐH.
Để thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII Đảng bộ Thành phố và nghị
quyết Hội nghị lần thứ 2 của Thành ủy (khóa XIII), ngày 6 - 02 - 2001, Thường
vụ Thành ủy Hà Nội đã họp với các đồng chí chủ nhiệm chương trình công tác
của Thành ủy (khóa XIII), thống nhất các chương trình công tác gắn với chuyển
dịch CCKT Thành phố như sau:
+ Chương trình phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn và công
nghệ thông tin.
+ Chương trình phát triển một số ngành dịch vụ.
+ Chương trình phát triển kinh tế ngoại thành và hiện đại hóa nông thôn.
+ Chương trình củng cố quan hệ sản xuất.
Hội nghị lần thứ 3 BCH Đảng bộ Thành phố (khóa XIII), họp từ ngày 2-3
tháng 4 năm 2001, quyết định thông qua ứng dụng và phát triển công nghệ thông
tin. Hội nghị xác định: đây là chương trình mới có tầm quan trọng đặc biệt, liên
quan đến các lĩnh vực hoạt động của Thủ đô. Hội nghị nhấn mạnh: Trong qúa
trình thực hiện chương trình, cần chú ý đến các đặc điểm của Thủ đô để chọn
bước đi thích hợp, đạt hiệu quả thiết thực. Phải tiến hành từng bước vững chắc
có trọng điểm, phù hợp với đặc điểm riêng của từng ngành, từng đơn vị, cần coi
trọng cả hai mặt: ứng dụng và phát triển công nghệ.
77
Từ ngày 2 đến ngày 3-10-2001, Hội nghị lần thứ 5 BCH Đảng bộ Thành
phố Hà Nội họp và quyết định Chương trình “tiếp tục củng cố, đổi mới quan hệ
sản xuất, phát triển một số ngành công nghiệp chủ lực”. Đây là một chương
trình quan trọng có liên quan, tác động đến nhiều lĩnh vực phát triển kinh tế xã
hội. Hội nghị chỉ rõ nội dung chương trình phải bám chắc các quan điểm cơ bản
nêu trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết 15 của
BCT, pháp lệnh Thủ đô và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XIII,
đảm bảo tăng trưởng kinh tế, giữ vững định hướng XHCN, phát triển mạnh các
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập
thể, cùng với kinh tế Nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Ngày 8-5-2002, Ban thường vụ Thành ủy Hà Nội đã họp bàn về tình hình
các khu công nghiệp tập trung và các khu - cụm công nghiệp vừa và nhỏ của
Thành phố. Ban thường vụ đã nhất trí đánh giá: Hà Nội vẫn luôn là trung tâm
công nghiệp lớn của cả nước. Trong CCKT của Thủ đô, công nghiệp vẫn chiếm
vị trí quan trọng và có đóng góp lớn cho sự phát triển chung. Việc xây dựng các
khu công nghiệp tập trung và các khu - cụm công nghiệp vừa và nhỏ của Thành
phố là chủ trương đúng đắn và đã có tác dụng tích cực trong việc thu hút các dự
án đầu tư nước ngoài, từng bước đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn về địa điểm
đầu tư sản xuất của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, quy mô và kết quả hoạt động
chưa tương xứng với lợi thế của Thủ đô, tiến độ thực hiện các dự án còn chậm,
thủ tục cấp giấy phép chưa thông thoáng, việc giải phóng mặt bằng còn khó
khăn, diện tích lấp đầy trong các khu công nghiệp tập trung còn thấp, môi
trường đầu tư nhiều nơi chưa thực sự hấp dẫn.
Từ tình hình đó, Ban Thường vụ Thành ủy chủ trương:
+ Trên cơ sở xem xét, đánh giá cụ thể các khu - cụm công nghiệp đã có ở
Thủ đô, căn cứ quy hoạch đã được phê duyệt của Thành phố để đinh ra chiến
lược phát triển.
+ Đối với các khu công nghiệp tập trung cần tăng cường xúc tiến đầu tư,
khẩn trương cụ thể hóa các cơ chế chính sách của Thành phố để tạo ra môi
trường đầu tư thông thoáng hơn.78
+ Đối với các khu - cụm công nghiệp vừa và nhỏ cần được xây dựng theo
hướng đồng bộ, văn minh, hiện đại.
+ Cần ưu tiên quan tâm đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn, trình độ
kỹ thuật và công nghệ cao, hoạt động trong những ngành công nghiệp chủ lực
của Thành phố.
+ Phát triển khu công nghiệp nói chung và các khu công nghiệp tập trung,
các khu - cụm công nghiệp vừa và nhỏ phải gắn với việc hợp tác phát triển giữa
Hà Nội với các tỉnh lân cận và chủ động đẩy mạnh tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế.
Để nâng cao hiệu quả quản lý và thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Hà
Nội. Ngày 20-5-2002, Thường trực Thành ủy họp và quyết định: Hoạt động thu
hút vốn trực tiếp nước ngoài (FDI) cần được tiếp tục đổi mới và nâng cao chất
lượng và phương thức hoạt động; nghiên cứu chọn lọc những ngành nghề đầu tư
hợp lý, mang tính chiến lược, ưu tiên phát triển 5 ngành chủ lực theo định hướng
phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô. Thành phố tiếp tục tập trung cải cách hành
chính về thủ tục xem xét, thẩm định dự án đầu tư; các ngành, các cấp có biện
pháp hỗ trợ cho các doạnh nghiêp sau khi được cấp phép. Trong quá trình thu
hút vốn nước ngoài, Thành phố cần tạo cơ chế ưu đãi, động viên khen thưởng
cho các nhà đầu tư thực hiện tốt chính sách, có hiệu quả; đối với những dự án
không còn phù hợp hoặc không có khả năng triển khai cần chỉ đạo nghiên cứu
kỹ để có phương án tháo gỡ hoặc kiên quyết thu lại giấy phép đầu tư.
Hội nghị lần thứ 8 BCH Đảng bộ Thành phố (khoá XIII) 02 và 03-7-
2002. đã thông qua các đề án thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH
Trung ương Đảng:
Về đề án đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể , Thành
ủy đã đề ra các giải pháp:
+ Tiếp tục rà soát, đánh giá đúng thực chất hoạt động của HTX, trên cơ sở
đó định ra phương hướng, giải pháp thích hợp cho từng loại hình cụ thể (HTX
nông nghiệp, HTX Tiểu thủ công nghiệp, HTX vận tải, HTX thương mại, dịch
vụ ở nội thành và ngoại thành).79
+ Tổng kết, nhân rộng một số mô hình HTX làm ăn có hiệu quả. Tạo điều
kiện để xây dựng một số mô hình mới như các HTX thương mại, liên hiệp tác xã
trồng rau sạch, HTX tiêu thụ sản phẩm. Nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh để
phát triển kinh tế tập thể với hình thức, quy mô đa dạng.
+ Tập trung giải quyết các vấn đề tồn đọng về đất đai, tài chính của các
HTX; sắp xếp, giải thể các HTX làm ăn không hiệu quả, chỉ tồn tại trên danh
nghĩa.
Trong Đề án khuyến khích tạo điều kịên phát triển kinh tế tư nhân, Thành
ủy đề ra những giải pháp nhằm tạo động lực cho phát triển nội lực của kinh tế tư
nhân, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng, nguồn lực phát triển các ngành có lợi
thế, phối hợp với các thành phần kinh tế khác đảm bảo cho nền kinh tế Thủ đô
tăng trưởng nhanh và bền vững.
+Làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, thống nhất nhận thức tạo môi
trường thể chế và tâm lý thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển theo đúng pháp
luật. Xóa bỏ sự kỳ thị gây khó khăn, thực hiện bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế.
+ Tiếp tục xây dựng và cụ thể hóa cơ chế, chính sách về đất đai, tạo
nguồn vốn thị trường, hỗ trợ mặt bằng sản xuất, hỗ trợ khoa học công nghệ, dạy
nghề, gắn với cải cách hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
tư nhân yên tâm sản xuất kinh doanh.
Đối với nông nghiệp, ngày 05 - 11 - 2001 Thành ủy Hà Nội ban hành
Chương trình 12/CTr-TU Phát triển kinh tế ngoại thành, từng bước hiện đại hóa
nông thôn (2001-2005), định hướng phát triển giai đoạn 2006 - 2010”, nhằm
phát triển kinh tế ngoại thành, từng bước hiện đại hóa nông thôn có vị trí chiến
lược rất quan trọng đối với việc phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh chính trị
của Thủ đô. Phấn đấu từng bước xây dựng một nền nông nghiệp đô thị, sinh
thái, có những sản phẩm chất lượng cao và giá trị kinh tế lớn, góp phần đẩy
nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Thủ đô, không ngừng
nâng cao đời sống nhân dân.
80
Để đạt được mục tiêu trên, Thành ủy xác định: phải đẩy mạnh việc quy
hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết về phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông
thôn mới tới làng, xã; đầu tư mạnh mẽ hơn nữa cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội
cho nông thôn, nhất là đường giao thông, điện, nước sạch, vệ sinh môi trường,
thủy lợi, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa. Chỉ đạo xây dựng làng, xã mới để
nhân ra diện rộng. Đẩy mạnh chuyển dịch CCKT trong nông nghiệp, chuyển
nhanh số diện tích cấy lúa sang nuôi trồng các loại cây, con có giá trị kinh tế
cao, có những sản phẩm mũi nhọn bảo đảm CCKT nông nghiêp phù hợp với
CCKT chung của Thành phố.
Mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2001 – 2005 là:
“Phấn đấu đến năm 2005, Hà Nội đi dần vào nền nông nghiệp đô thị, sinh thái”.
Để đạt mục tiêu và hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch, Thành ủy đã xác
định một số nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện:
Chuyển mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản
xuất hàng hóa thành vùng tập trung, sản lượng có hàm lượng chất xám và chất
lượng cao, giá trị lớn trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất các nông sản có lợi thế; phát
triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản và dịch
vụ. Trong sản xuất nông nghiệp với lợi thế nông nghiệp đô thị, áp dụng mạnh
công nghệ sinh học, công nghệ sạch để tập trung sản xuất giống thương phẩm
các sản phẩm mũi nhọn: rau xanh, hoa, quả và chăn nuôi bò sữa, lợn nạc, thủy
sản chất lượng cao.
Hiện đại hóa công nghệ sản xuất nông nghiệp, tập trung áp dụng công
nghệ sản xuất nông sản phẩm sạch, công nghệ cao trong sản xuất giống, bảo
quản chế biến nông sản hàng hóa.
Phát triển nông nghiệp gắn bảo vệ môi trường, xây dựng nền nông nghiệp
sinh thái bền vững.
Thực hiện từng bước đô thị hóa nông thôn gắn với xây dựng nông thôn
hiện đại theo hướng văn minh sinh thái. Quy hoạch xây dựng kiến trúc không
gian nông thôn phù hợp với quá trình đô thị hóa, bảo đảm tính văn hóa, sinh thái
và sự hài hòa giữa nét đẹp truyền thống với tính hiện đại của nông thôn đô thị.81
Tháng 7 - 2002 Thành ủy thông qua Đề án số 19 Về “Thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX) về đẩy
nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn”.
Đề án xác định 2 nhiệm vụ chủ yếu: Một là, “Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp”: Chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hóa thành vùng tập trung với những sản phẩm mũi nhọn có lợi thế, chất lượng
cao, cho giá trị lớn gắn với công nghệ bảo quản sau thu hoạch, công nghệ chế
biến và thị trường. Thực hiện từng bước hiện đại hóa nông nghiệp, ứng dụng
mạnh mẽ các thành tựu công nghệ, tăng cường hệ thống thủy lợi, đẩy mạnh tốc
độ cơ giớ hóa, điện khí hóa trong các khâu sản xuất và sau thu hoạch. Chú trọng
công nghệ sản suất nông sản sạch, công nghệ cao, công nghệ sinh học, tạo và
nhân nhanh giống cây trồng, vật nuôi có năng xuất cao và chất lượng tốt. Hai là,
“Công nghệp hóa, hiện đại hóa nông thôn”: Khôi phục và phát triển các làng
nghề truyền thống, nghề mới, đi đôi với phát triển các ngành dịch vụ nông thôn.
Xây dựng khu (cụm) công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp vừa và nhỏ tập trung ở
các huyện. Ưu tiên đầu tư công nghiệp xây dựng chế biến nông sản, gắn liền xây
dựng chợ và khu trung tâm thương mại ở các xã, liên xã.
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, nông
thôn là:
+ Đẩy mạnh công tác quy hoạch nông nghiệp, nông thôn:
+ Xây dựng các đề án, dự án phát triển trọng tâm, chuyển đổi nhanh
CCKT, nông nghiệp, nông thôn tạo vùng sản xuất hàng hóa tập trung.
+ Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa tập trung với các sản phẩm mũi nhọn có lợi thế của nông nghiệp
đô thị ở Hà Nội: rau, hoa, chăn nuôi bò sữa, lợn lạc và thủy sản chất lượng cao,
công nghệ sạch, giá trị lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững và hình thành
các vùng sản xuất hàng hóa tập trung.
+ Chuyển mạnh diện tích lúa và cây lương thực, đặc biệt vùng cao hạn,
đồi gò sang trồng cây ăn quả, rau cao cấp, hoa, cây cảnh. Chuyển đổi mạnh diện
82
tích ruộng trũng sang phát triển thủy, đặc sản bằng những giống mới có chất
lượng cao.
+ Xây dựng các vùng sản xuất tập trung: Vùng sản xuất hoa (Từ Liêm,
Đông Anh); Vùng sản xuất rau an toàn (Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn); Vùng
cây ăn quả (Sóc Sơn); vùng chăn nuôi bò sữa (Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn);
vùng chăn nuôi lợn nạc (Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn).
+ Xây dựng các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tập trung ở Vĩnh
Tuy, Phú Thụy, Ninh Hiệp, Cầu Giấy, Từ Liêm, Ngọc Hồi và Cầu Bươu (Thanh
Trì).
+ Xây dựng các làng nghề các làng nghề tập trung, Bát Tràng, Kiêu Kỵ,
Tân Triều, Liên Hà, Vân Hà, Xuân Phương, Hữu Hòa, Vạn Phúc, Ninh Hiệp,
Đình Xuyên. Để thu hút lao động, giải quyết việc làm cho nông dân.
Cũng trong tháng 7 – 2002, Thành ủy thông qua đề án về: “Phát triển
công nghiệp chế biến rau quả; giết mổ và chế biến gia súc, gia cầm theo hướng
CNH, HĐH ở Hà Nội”. Đây là Đề án rất quan trọng, có ý nghĩa thiết thực đẩy
nhanh việc chuyển dịch CCKT của Thành phố, trước hết là CCKT nông nghiệp.
Thực hiện tốt đề án sẽ góp phần thúc đẩy phát triển nhiều mặt kinh tế - xã hội
của Thành phố, vừa đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, nâng cao giá trị nông sản, giải
quyết lao động, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân; vừa bảo đảm chất
lượng, vệ sinh ăn toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường Thủ đô, tạo điều kiện để
công nghiệp cơ khí, công nghệ vi sinh, xuất khẩu hàng hóa phát triển.
Đối với dịch vụ, thương mại, du lịch, Thành ủy có Chương trình “Nâng
cao hiệu quả đầu tư, phát triển một số ngành dịch vụ, chủ động tham gia hội
nhập kinh tế quốc tế’: Đây là chương trình có phạm vi rộng, cần tập trung vào
những vấn đề cơ bản, cấp bách nhất. Đầu tư phải gắn và phục vụ hiệu quả kinh
tế - xã hội (2001-2005) của Thành phố; quan tâm cải tiến thủ tục hành chính và
đổi mới cơ chế chính sách, thu hút các nguồn vốn đầu tư; sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn (ngân sách Nhà nước, vốn trong dân, vốn đầu tư nước ngoài, tín
dụng, ngân hàng). Ban quản lý các khu công nghiệp trên cơ sở phân loại hợp lý
các dự án quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm, đầu tư mạnh vào các ngành sản 83
xuất kinh doanh, các ngân hàng cần cải tiến phương thức hoạt động trong kinh
doanh tiền tệ để phát huy hiệu quả nguồn vốn huy động vào phát triển kinh tế -
xã hội Thủ đô.
Đối với một số ngành dịch vụ có trình độ cao, có chất lượng cao, cần nhận
thức rõ hơn quan điểm Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XIII và quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố, để xác đinh vị trí ưu tiên của các
ngành dịch vụ. Đổi mới nhận thức về ngành du lịch, phát huy sức mạnh tổng
hợp, đồng bộ của các ngành, các cấp tạo ra sản phẩm du lịch, quảng bá du lịch
sâu rộng trong nước và quốc tế; nghiên cứu xây dựng một số trung tâm thương
mại lớn, phát triển mạng lưới chợ đặc biệt là chợ đầu mối và cơ sở vật chất
nhằm phát triển thương mại dịch vụ và xuất khẩu.
Để phát triển thương mại một cách lành mạnh, Thường vụ Thành ủy ra
chỉ thị số 15 ngày 12 - 8 - 2000, về việc “Tăng cường công tác đấu tranh chống
buôn lậu, sản xuất buôn bán hàng giả và gian lận thương mại trên địa bàn Hà
Nội”. Nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh và khắc phục được những yếu kém tồn
tại, Thường vụ Thành ủy yêu cầu các cấp ủy Đảng, các ngành chức năng, cùng
các tổ chức đoàn thể quần chúng, các cơ quan thông tin của Thành phố phải phối
hợp với chính quyền các cấp làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật
cho moị thành phần xã hội kể cả người tiêu dùng và người sản xuất...
Các Đảng bộ quận, huyện đều triển khai Nghị quyết để thực hiện có hiệu
quả chủ trương và giải pháp lớn của Thành ủy.
2.3. THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở HÀ NỘI (2001 - 2005)
2.3.1. Thành tựuĐại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XIV (12 - 2005), kiểm điểm qúa trình
thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XIII, đánh giá: Kinh tế
phát triển nhanh và khá toàn diện; hầu hết các chỉ tiêu đều đạt và vượt so với
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XIII, bình quân 5 năm (2001-
2005) tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng 11,1%/năm (chỉ tiêu Đại hội XIII là
10-11%/năm), Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên địa bàn Thủ đô các năm
84
tăng như sau: năm 2001 tăng 10,02%, năm 2002 tăng 10,3%, năm 2003 tăng
11,1%, năm 2004 tăng 11,12%, năm 2005 tăng 11,1%. Giá trị công nghiệp tăng
13,2%/năm, dịch vụ tăng 10,3%/năm, nông - lâm - thủy sản tăng 2,5%/năm
[101, tr, 26].
Bảng 2.1: Cơ cấu Tổng sản phẩm nội địa (GDP) (giá thực tế) [21, tr.41-42] Đơn vị tính: %
Tổng sản phẩm
nội địa GDPDịch vụ
Công nghiệp –
Xây dựng
Nông - lâm
nghiệp - thủy
sản
2000 100,0 60,0 37,0 3,0
2001 100,0 60,5 36,8 2,7
2002 100,0 59,7 37,8 2,5
2003 100,0 57,2 40,5 2,3
2004 100,0 57,5 40,6 1,9
2005 100,0 57,5 40,5 2,0
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng định hướng do Đại hội Đảng bộ
Thành phố lần thứ XIII đề ra là: Cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông
nghiệp dần chuyển theo xu thế hiện đại hóa. Cơ cấu kinh tế dịch vụ - công
nghiệp - nông nghiệp đã hình thành rõ nét; tỷ trọng các ngành kinh tế trong GDP
là dịch vụ 57,5% - công nghiệp 40,5% - nông nghiệp 2%. Công nghiệp và dịch
vụ tăng trưởng nhanh; chất lượng, trình độ các ngành kinh tế được nâng cao;
quan hệ giữa các ngành kinh tế bước đầu có sự thay đổi về chất (công nghiệp đã
bám sát hơn nhu cầu thị trường và hỗ trợ các ngành sản xuất nông - lâm - thủy
sản phát triển; hoạt động dịch vụ đã từng bước phục vụ cho sự phát triển nông -
lâm - thủy sản), hiệu qủa và sức cạnh tranh của kinh tế Thủ đô được cải thiện
[101, tr.29]. Cùng sự phát triển quy mô và thay đổi trong tỷ trọng GDP của nền
kinh tế Thủ đô giai đoạn 2001-2005, các ngành kinh tế cũng có sự thay đổi
quan trọng về chất.
85
Trong những năm qua kinh tế Thủ đô phát triển ở tất cả các ngành, các
khu vực, tăng nhanh nhất là công nghiệp - xây dựng, khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài và dịch vụ. Trong 5 năm (2001-2005), giá trị công nghiệp tăng
13,2%/năm, dịch vụ tăng 10,3%/năm, nông - lâm - thủy sản tăng 2,5%/năm.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng bình quân 12,7%/ năm, khu vực
kinh tế ngoài Nhà nước tăng 12,3%, khu vực kinh tế Nhà nước tăng 10,3%. Qua
số liệu của sự phát triển GDP của các ngành, thành phần kinh tế kinh tế có thể
khẳng định sự phát triển tương đối ổn định của nền kinh tế Thành phố Hà Nội.
CCKT Thủ đô chuyển dịch theo hướng nâng dần tỷ trọng ngành công
nghiệp, giảm tương ứng ngành dịch vụ và nông nghiệp. Tỷ trọng công nghiệp từ
36,8%/năm năm 2001 lên 40,8% năm 2005; ngành dịch vụ giảm từ 60,8%/năm
2001, giảm xuống còn 57,5% vào năm 2005; ngành nông - lâm nghiệp và thủy
sản từ 2,7%/năm 2001 giảm xuống còn 1,7 vào năm 2005.
Khu vực kinh tế trong nước tăng từ 79,1% năm 2000 lên 81,4% năm
2005. Trong đó: khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng từ 20,4% năm 2000 lên
21,9 năm 2005, khu vực kinh tế trong nước tăng từ 58,7% năm 2000, lên 59,5%
năm 2005. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm từ 16,9% năm 2000, xuống
còn 15,5% năm 2005. Đặc biệt đáng chú ý là kinh tế Nhà nước Trung ương đã
có sự tăng trưởng từ 50,8% năm 2000 tăng lên 52,4 năm 2005, kinh tế Nhà nước
địa phương giảm từ 7,9 năm 2000 xuống còn 7,1 năm 2005 [21, tr.41].
Đầu tư trong nước phát triển, đầu tư nước ngoài tăng khá. Thu hút vốn
đầu tư xã hội trên địa bàn năm 2005 tăng gần 2,1 lần so với năm 2000 (32.120 tỷ
đồng/ 15.427 tỷ đồng). Thu ngân sách hàng năm luôn đạt và vượt kế hoạch giao,
năm 2005 tăng gần 2,2 lần so với năm 2000 (30.295 tỷ đồng/ 14.038 tỷ đồng)
[101, tr.32].
Từ số liệu trên có thể nhận thấy ngoài sự thay đổi quy mô và tỷ lệ các
ngành trong CCKT, thì mối quan hệ giữa các ngành kinh tế cũng có sự thay đổi
căn bản về chất. Có thể nhận thấy các ngành có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
hơn, không chỉ trong trao đổi sản phẩm cuối cùng mà cả ngay trong quá trình
sản xuất, theo sự điều tiết của thị trường và sự quản lý của nhà nước; sản xuất 86
công nghiệp bám sát hơn với yêu cầu của thị trường, các ngành sản xuất nông -
lâm nghiệp - thủy sản, ngành dịch vụ. Hoạt động của các ngành dịch vụ không
tách rời mà gắn vào phục vụ đắc lực cho phát triển công nghiệp, nông - lâm
nghiệp - thủy sản. Ngành thương mại không hoạt động tách rời như là một
ngành kinh tế biệt lập trong lĩnh vực lưu thông mà gắn với sản xuất trong từng
ngành, từng doanh nghiệp. Khác nhiều so với thời kỳ bao cấp, người sản xuất,
lưu thông, phân phối sản phẩm và người tiêu thụ liên kết với nhau một cách rời
rạc, thậm chí quay lưng lại với nhau. Đến đây, các nhà sản xuất không những
tăng cường các hoạt động thương mại của bản thân mình mà dần từng bước liên
hệ chặt với các nhà tiêu thụ sản phẩm và các doanh nghiệp coi đó là yếu tố quan
trọng quyết định sự sống còn của doanh nghiệp mình.
Về chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế:
Công nghiệp giai đoạn này về cơ bản đã thực hiện thành công những bước
đi ban đầu chiến lược CNH, HĐH hướng về xuất khẩu, khác về cơ bản so với
đường lối công nghiệp trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Sự chuyển
dịch CCKT đang diễn ra theo xu thế tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ
trong tổng GDP của Thành phố. Quá trình cơ cấu lại các ngành công nghiệp
được đẩy nhanh theo hướng ngày càng hợp lý và có hiệu quả hơn. Một số ngành
có thế mạnh về lợi thế so sánh như chế biến thực phẩm, cơ kim khí, điện - điện
tử và công nghệ thông tin, dệt, may, da giầy...chiếm tỷ trọng cao hơn trong cơ
cấu ngành. Các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, thu hút nhiều lao động có tốc độ
tăng trưởng cao, sản xuất được nhiều mặt hàng đa dạng, từng bước đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của Thành phố và cả nước cả về số lượng, chất lượng, và đang có
khả năng thay thế dần một số hàng nhập ngoại.
Các ngành công nghiệp được sắp xếp lại và phát triển mạnh. Tăng bình
quân 19%/năm (chỉ tiêu 14,5-15,5%/năm); trong đó các ngành công nghiệp chủ
lực tăng 19,7%/năm. Vốn đầu tư 5 năm ngành công nghiệp chủ lực (thiết bị điện
- điện tử - tin học, cơ - kim khí, dệt may - da giầy, chế biến thực phẩm, vật liệu
mới chiếm 84% tổng vốn đầu tư phát triển công nghiệp ở Hà Nội ). Sản phẩm
công nghiệp phong phú hơn; hình thành một số ngành công nghiệp mới. Thành 87
phố đã huy động vốn đầu tư xây dựng 4 khu công nghiệp tập trung và 16 khu,
cụm công nghiệp vừa và nhỏ; di chuyển 80 cơ sở sản xuất công nghiệp gây ô
nhiễm ra khỏi nội thành và các khu dân cư [101, tr.29].
Bảng 2.2: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp Hà Nội (giá 1994) [21, tr.63-
64] Đơn vị tính: tỷ đồng
2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tổng số 17746 20353 25230 30474 36598 42047
Công nghiệp chế biến 18657 18657 23279 28357 34275 39420
Tỷ trọng % 91,36 91,67 92,26 93,03 93,65 93,75
SX và phân phối điện,
nước1431 1431 1651 1841 1978 2229
Tỷ trọng % 7,26 7,03 6,54 5,95 5,54 5,53
Công nghiệp khai thác 256 256 300 303 345 398
Tỷ trọng % 1,39 1,26 1,19 0,99 0,94 0,95
Trong cơ cấu Giá trị sản xuất nội ngành công nghiệp, tốc độ tăng không
đều và thiếu ổn định giữa các nhóm ngành như: sản xuất thực phẩm đồ uống
(tăng từ 1567 tỷ đồng năm 2000 lên 3356 tỷ đồng năm 2005), sản xuất thuốc lá
(tăng từ 547 tỷ đồng năm 2000 lên 940 tỷ năm 2005), dụng cụ y tế (giảm từ 146
tỷ đồng năm 2000 xuống 132 tỷ năm 2005), sản xuất chế biến giấy (tăng từ 339
tỷ đồng năm 2000 lên 718 tỷ năm 2005). Ngành công nghiệp sản xuất hóa chất
(không được khuyến khích phát triển) nhưng vẫn tăng trưởng khá (tăng từ 594 tỷ
đồng năm 2000 lên 1912 tỷ năm 2005) [21, tr.63-64].
Sự phát triển các khu, cụm công nghiệp đang đặt ra vấn đề trước mắt và
lâu dài, là tăng trưởng và phát triển bền vững. Hiện nay trên địa bàn Thành phố
có 5 khu công nghiệp tập trung với diện tích 97464 ha, trong đó diện tích đã xây
dựng hạ tầng kỹ thuật là 260 ha (chiếm 26,68% diện tích), tỷ lệ lấp đầy đạt
khoảng 60% diện tích đã xây dựng cơ sở hạ tầng, đã có 69 doanh nghiệp (trong
đó có 64 doanh nghiệp nước ngoài) vào thuê đất với tổng vốn đầu tư 742 triệu
88
USD, giải quyết việc làm cho 12.000 lao động, đóng góp gần 1/4 kim ngạch
xuất khẩu toàn Thành phố [100, tr.107].
Ở các khu cụm công nghiệp vừa và nhỏ, trong 5 năm đã hoàn thành 6 dự
án: cụm công nghiệp vừa và nhỏ Phú Thị 14,8 ha; khu công nghiệp vừa và nhỏ
Vĩnh Tuy 12,2 ha; khu công nghiệp vừa và nhỏ Từ Liêm 21,1 ha; cụm sản xuất
tiểu thủ công vừa và nhỏ Cầu Giấy 8,2 ha; cụm tiểu thủ công nghệp Hai Bà
Trưng 9 ha; cụm công nghiệp vừa và nhỏ Đông Anh 18 ha. Năm 2005, Thành
phố tiếp tục triển khai xây dựng thêm 4 khu, cụm công nghiệp nữa: cụm công
nghiệp Phú Thị 5,4 ha; cụm công nghiệp Ngọc Hồi 56,4 ha; cụm công nghiệp
Ninh Hiệp 64 ha; cụm công nghiệp thực phẩm HAPRO 31 ha. Thành phố cũng
đã ban hành những quy định về quy trình thực hiện những dự án đầu tư xây
dựng, các cụm công nghiệp vừa và nhỏ, quy chế quản lý các cụm công nghiệp
trên địa bàn Thành phố [99, tr15].
Tuy nhiên, việc Thành phố xây dựng các khu cụm công nghiệp gần nội
thành với nhiều ưu đãi và chính sách hỗ trợ tuy bước đầu tạo điều kiện cho
doanh nghiệp công nghiệp phát triển, nhưng lại hạn chế thu hút đầu tư, lấp đầy
nhanh các khu công nghiệp tập trung, quy mô lớn ở ngoại thành, ảnh hưởng đến
quá trình chuyển dịch CCKT vùng. Ở đây chưa có sự ăn khớp giữa biện pháp
trước mắt và chiến lược lâu dài.
Dưới tác động của Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa VIII) về sắp xếp và
đổi mới doanh nghiệp, Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII), về tiếp tục đổi
mới cơ chế, chính sách khuyến khích và phát triển kinh tế tư nhân, đặc biệt là
luật doanh nghiệp được ban hành năm 1999 và có hiệu lực thi hành từ 1-1-2000,
đã đánh dấu về cơ bản sự cải thiện môi trường pháp lý cho doanh nghiệp, trong
cải cách hành chính, cải thiện quan hệ giữa Nhà nước và các doanh nghiệp, đã
khiến cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần
tăng nhanh về số lượng trong ngành công nghiệp. Vì vậy sự chuyển dịch CCKT
thành phần kinh tế trong ngành công nghiệp Hà Nội giai đoạn 2001 - 2005, diễn
ra theo chiều hướng: Công nghiệp các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước có xu
hướng tăng, tăng từ 13,06% năm 2000 lên 20,45% năm 2005; công nghiệp có 89
vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 32,88% năm 2000 lên 37,85% năm 2005. Công
nghiệp Nhà nước Trung ương và điạ phương giảm từ 54,06% năm 2000 xuống
còn 41,70% năm 2005. Tuy Giá trị sản xuất công nghiệp Nhà nước Trung ương
và điạ phương trên địa bàn Thành phố giảm, nhưng vẫn nắm vai trò điều tiết sự
phát triển của ngành công nghiệp và vẫn nắm các ngành công nghiệp then chốt
và tài nguyên của Thành phố [21, tr.63-64].
Bảng 2.3: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp [21, tr.66-74]Đơn vị tính: %
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tổng số 100 100 100 100 100 100
Khu vực kinh tế trong
nước
54,06 55,56 49,16 47,09 45,42 41,70
-Kinh tế NN Trung ương 42,26 43,32 39,15 37,34 35,57 32,24
- Kinh tế NN địa phương 11,80 12,24 10,08 9,75 9,85 9,46
- Kinh tế ngoài Nhà nước 13,06 14,56 16,85 19,88 19,63 20,45
Kinh tế có vốn ĐTNN 32,88 29,88 34,0 33,03 34,95 37,85
Nhóm 5 ngành công nghiệp chủ lực về cơ bản vẫn được xác định khá
thống nhất trong các kỳ Đại hội Đảng bộ Thành phố. Tuy có những bước thăng
trầm nhưng trong giai đoạn 2000 - 2005, tăng trưởng Giá trị sản xuất của ngành
công nghiệp chủ lực đạt 19,7%/ năm. Đáng chú ý là trong 5 nhóm ngành công
nghiệp chủ lực có 2 ngành có tốc độ tăng trưởng khá là cơ kim khí tăng
25,23%/năm, điện - điện tử tăng 21,67%/năm, các ngành còn lại tăng chậm, chế
biến thực phẩm tăng 17,5%/năm, dệt may - da dầy tăng 12,6%/ năm. Mặc dù 2
ngành cơ - kim khí, điện - điện tử tăng trưởng có nhưng chủ yếu vẫn là gia công,
lắp ráp nên tỷ trọng giá trị gia tăng trên Giá trị sản xuất thấp nhất ( chi phí sản
xuất cao nhất) trong 5 nhóm ngành chủ lực đã xác định [100, tr.106].
- Ngành dịch vụ, thương mại, du lịch:
Thực hiện chủ trương nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển một số ngành
dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ trình độ cao, chất lượng cao, các loại dịch vụ được 90
mở rộng, chất lượng dịch vụ được nâng lên. Giá trị sản xuất tăng bình quân
10,5%/năm (chỉ tiêu 9 - 10%/năm) [100, tr.29-30]. (năm 2001 tăng11,2%, năm
2002 đạt 8,1%, năm 2003 đạt 8,5%, năm 2004 đạt 11,8%, năm 2005 đạt 10,6).
Thương mại, Tổng mức lưu chuyển hàng hóa trên thị trường trong 5 năm
liên tục tăng từ 23682 tỷ đồng năm 2001 (đạt 95,24%) tăng lên 45000 năm 2005
(đạt 86,44%) (trong đó khu vực trong nước tăng từ 2557 tỷ đồng năm 2001 (đạt
95,24%) lên 38900 tỷ đồng năm 2005 (86,44%), kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài tăng 1125 tỷ đồng năm 2001 (4,76%) lên 6100 tỷ năm 2005 (13,56%).
Khu vực kinh tế trong nước dịch vụ thương mại phát triển từ 810 tỷ đồng năm
2001 tăng lên 1952 tỷ năm 2005 [21, tr.127-128].
Bảng 2.4: Cơ cấu Tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ [21, tr.127]Đơn vị tính: tỷ đồng
2001 2002 2003 2004 2005
Tổng số 23683 27843 39097 39350 45000
Khu vực kinh tế trong nước 22557 25434 27911 34915 38900
Tỷ số % 95,24 91,34 90,31 88,73 86,44
Khu vực có vốn ĐT NN 1125 2409 2996 4435 6100
Tỷ số % 4,76 8,66 9,69 11,27 13,56
Ngành thương mại coi trọng khai thác thị trường trong nước; văn minh
thương mại có chuyển biến, phục vụ tốt hơn nhu cầu của nhân dân, với sự tham
gia tích cực của các thành phần kinh tế. Thị trường xuất khẩu được mở rộng,
chủng loại sản phẩm xuất khẩu phong phú (hàng nông sản tăng từ 478 triệu
USD năm 2001 lên 606 triệu USD năm 2005, hàng dệt may tăng từ 362 triệu
USD (2001) lên 581 triệu USD (2005), giầy dép, sản phẩm từ da tăng từ 66 triệu
USD (2001) lên 110 triệu USD (2005), hàng thủ công mỹ nghệ tăng từ 96 triệu
USD (2001) lên 101 triệu USD (2005), hàng điện tử 98 triệu USD (2001) lên
222 triệu USD). Hà Nội đã xuất khẩu đến 187 khu vực của các quốc gia và vùng
lãnh thổ với kim ngạch tăng 15,4%/năm (tăng từ 1402 triệu USD năm 2000 lên
2866 triệu USD năm 2005) [21, tr. 114]. 91
Một số lĩnh vực dịch vụ khác phát triển khá, ứng dụng công nghệ hiện đại
ngày càng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế (dịch vụ viễn thông, thông tin, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn...). Ngành
bưu điện không ngừng tăng (số máy điện thoại tăng từ 604 nghìn cái (2001) tăng
lên 1310 nghìn cái, doanh thu tăng từ 1919 tỷ đồng (2001) lên 3088 tỷ đồng
(2005) (trong đó thu viễn thông tăng từ 1687 tỷ đồng (2001) lên 2654 tỷ đồng
(2005) [21, tr.162].
Giai đoạn này du lịch Hà Nội đã có bước tiến nhiều mặt, hiệu quả đầu tư
được nâng cao, hệ thống cơ sở vật chất được nâng cấp và hoàn thiện dần, nhiều
chương trình và dịch vụ du lịch mới được ra đời, công tác hội nhập được thực
hiện một bước, môi trường du lịch ngày càng được cải thiện, chất lượng dịch vụ
thường xuyên được nâng lên. Tổng lượt khách du lịch đến Hà Nội kể cả quốc tế
và nội địa đã tăng từ 3 triệu lượt khách năm 2001 lên 5,340 triệu lượt năm 2005.
Thị phần khách quốc tế đến Hà Nội đứng thứ 2 cả nước sau Thành phố Hồ Chí
Minh. Hà Nội đã đón khách quốc tế đến từ 160 thị trường trên thế giới, hàng
năm tăng 20 - 30%, chiếm 32,42% lượng khách quốc tế đến Việt Nam. Khách
đến Hà Nội có tốc độ tăng trung bình 15% năm.
Doanh thu nộp ngân sách của ngành du lịch không ngừng tăng lên, từ
1.651 tỷ đồng năm 2001 lên 3.981 tỷ năm 2005.
Hà Nội có 4.230 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, vận chuyển khách du
lịch và các dịch vụ du lịch khác, trong đó có 175 đơn vị kinh doanh lữ hành
quốc tế, chiếm 30% tổng số doanh nghiệp lữ hành quốc tế cả nước (từ 1999 đến
nay Hà Nội luôn có 2 - 3 doanh nghiệp đạt danh hiệu doanh nghiệp lữ hành hàng
đầu Việt Nam).
Ngành du lịch Hà Nội hiện có 420 cơ sở lưu trú du lịch với 12500 phòng,
trong đó có 166 khách sạn đã xếp hạng với 8830 phòng. Có 7 khách sạn 5 sao
với 2045 phòng, 5 khách sạn 4 sao với 1933 phòng, 74 khách sạn 2 sao với 2494
phòng, 50 khách sạn 1 sao với 962 phòng, 8 khách sạn đạt tiêu chuẩn tối thiểu
với 81 phòng, từ năm 2001 đến nay Hà Nội luôn có 2 - 3 khách sạn đạt danh
hiệu 10 khách sạn hàng đầu Việt Nam.92
Du lịch Hà Nội phát triển với nhiều loại hình dịch vụ mới, hấp dẫn du
khách, doanh thu tăng 16%/năm (lượng khách du lịch đến Hà Nội tăng
13%/năm, trong đó khách quốc tế tăng 16%/năm) [145, tr 4-5].
Nông nghiệp được quan tâm đầu tư phát triển, hiệu quả sản xuất có tiến
bộ. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các
ngành chăn nuôi, thủy sản, các loại nông sản, hàng hóa có chất lượng và giá trị
cao (tỷ trọng Giá trị sản xuất trồng trọt giảm từ 58,2% năm 2000 xuống còn
khoảng 51% năm 2005, Giá trị sản xuất chăn nuôi, thủy sản tăng từ 37,7% lên
khoảng 47% năm 2005); đã hình thành một số vùng chuyên canh sản xuất tập
trung (hoa, rau an toàn, cây ăn quả nuôi trông thủy sản); việc ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào sản xuất có chuyển biến; bước đầu
hình thành và sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Giá trị sản xuất/ ha đất nông
nghiệp - thủy sản năm năm 2005 tăng gần 1,5 lần so với năm 2000 (52,6 triệu
đồng/ 36,4 triệu đồng).
Chú trọng đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng nông thôn, đặc biệt là hệ thống
kênh mương, đường giao thông, mạng lưới điện, trường học, (cứng hóa 100%
kênh loại 1,53% kênh loại 2,100% thôn, xã và hầu hết các hộ có điện sử dụng,
73% số hộ được dùng nước hợp vệ sinh, 80% hệ thống giao thông liên thôn, liên
xã, liên huyện được cứng hóa. Trong 5 năm (2001 - 2005) tổng vốn đầu tư xây
dựng cơ bản ở nông thôn khoảng 2.540 tỷ đồng, chiếm 26% vốn đầu tư xây
dựng cơ bản của Thành phố; hỗ trợ phát triển một số làng nghề, đời sống nông
dân được cải thiện, thu nhập bình quân của nông dân năm 2005 tăng 1,8 lần so
với năm 2000 (465.000 đồng/ người/ tháng so với 262.000 đồng/ người/ tháng)
[101, tr.30-31].
Tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình 12/CTr-TU Phát triển kinh tế
ngoại thành và từng bước hiện đại hóa nông thôn (2001 - 2005), đạt được những
kết quả nổi bật:
Kết quả phát triển sản xuất nông nghiệp: “Sản xuất nông nghiệp đã có
bước phát triển nhanh, chuyển mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa với chất
lượng va giá trị kinh tế cao. Tốc độ bình quân trong 5 năm đạt 2,3%, đạt xấp xỉ 93
chỉ tiêu Hội đồng nhân dân Thành phố đề ra nhưng thấp hơn chỉ tiêu của
Chương trình 12/CTr-TU. Trong đó ngành trồng trọt - lâm nghiệp tăng bình
quân 1,0% năm, ngành chăn nuôi thủy sản tăng 4,1% năm. Diện tích trồng rau
tăng 1,25 lần, số đầu lợn nạc tăng 1,69 lần, bò sữa tăng 2,2 lần. Năng suất và sản
lượng cây trồng, vật nuôi đều tăng khá trong đó có sự đẩy mạnh thâm canh,
chuyển đổi cơ cấu, đưa giống mới và công nghệ mới vào sản xuất.
Giá trị sản xuất nông nghiệp trên một ha đất nông nghiệp tăng từ 40,4
triệu đồng năm 2000 lên 55 triệu đồng năm 2005, vượt chỉ tiêu chương trình
12/CTr-TU đề ra (50 triệu đồng/ha). Đã từng bước hình thành các vùng sản xuất
chuyên canh tập trung: vùng hoa Từ Liêm 500 ha, vùng rau an toàn 2000 ha ở
Vân Nội (Đông Anh), Văn Đức, Dương Xá (Gia Lâm), Yên Mỹ (Thanh Trì),
cây ăn quả kết hợp nuôi trông thủy sản và du lịch sinh thái ở (Từ Liêm, Đông
Anh, Sóc Sơn), bò sữa ở (Gia Lâm, Sóc Sơn) [146, tr.2].
CCKT nông nghiệp chuyển dịch đúng hướng. Sản phẩm nông nghiệp đã
đáp ứng một phần quan trọng đối với sản xuất và đời sống của nhân dân Thủ đô.
Qua 5 năm thực hiện Chương trình tỷ trọng giá trị sản xuất trồng trọt - lâm
nghiệp giảm từ 59,06% năm 2000 còn 52,81% năm 2005; tỷ trọng chăn nuôi
thủy sản tăng từ 38,69% năm 2000 lên 45,10% năm 2005 đạt mức chỉ tiêu
Chương trình 12 đề ra. Cơ cấu cây trồng có sự chuyển dịch đúng hướng: diện
tích trồng lúa giảm 18,7% (khoảng 10.000 ha gieo trồng) so với năm 2000, được
thay thế bằng diện tích trồng rau, hoa, cây ăn quả, thủy sản.
Trồng trọt các loại cây có chất lượng như lúa thơm, rau chất lượng, qủa
ngon, hoa đẹp được phục hồi và phát triển các giống hoa mới.
Hàng năm sản phẩm nông nghiệp ngoại thành đã đảm bảo một phần quan
trọng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân Thủ đô: 167.000 tấn rau xanh, (đáp ứng
70%), 200.000 tấn lúa, (đáp ứng 30%). 200.000 tấn lợn thịt, (đáp ứng 40%),
8000 tấn thịt gia cầm (đáp ứng 40%), 37.000 tấn quả tươi (đáp ứng 10%), 1.000
tấn thịt trâu, bò (đáp ứng 6%).
Dịch vụ trong nông nghiệp được quan tâm, có bước phát triển khá. Hàng
năm cung cấp hơn 400 tấn lúa nguyên chủng, gần 5.000 con lợn giống hậu bị 94
cấp 1, sản xuất, cung cấp 160 bò, bê sữa, 100 triệu cá bột, 70 triệu cá giống,
hàng triệu cây giống phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất của nông dân ngoại
thành và các tỉnh bạn [146, tr 3].
Thành ủy, UBND Thành phố đã quan tâm đầu tư ứng dụng khoa học công
nghệ và tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất nông nghiệp. Trong 5 năm thực hiện
Chương trình, đã tổ chức nghiên cứu 73 đề tài khoa học với tổng kinh phí là
18,325 tỷ đồng và 9 dự án sản xuất thử nghiệm với nguồn vốn vay có thu hồi là
6,406 tỷ đồng. Các đề tài dự án thử nghiệm đã bám sát chương trình mục tiêu
phát triển nông nghiệp, nông thôn Hà Nội theo hướng đô thị sinh thái và hiện đại
hóa nông thôn, nghiên cứu về nông nghiệp công nghệ cao, về phát triển mở rộng
vùng rau an toàn, về giống cây trồng vật nuôi, nâng cao hiệu quả khai thác công
trình thủy lợi.
Trồng trọt đã được ứng dụng thành công các tiến bộ khoa học kỹ thuật
như sản xuất và gieo trồng các giống ngô lai, lúa lai chất lượng cao, nhiều giống
rau, hoa mới được nhân rộng. Đã hoàn thiện tập đoàn giống rau chất lượng cao
như: súp lơ xanh, cải ngọt, cải thảo...và tập đoàn giống hoa: hoa hồng Đà Lạt,
Đài Loan, cúc Nhật Bản, hoa lan hồ điệp, vũ nữ Delro, địa lan, nhiều giống cây
ăn quả được đưa vào sản xuất đại trà như bưởi Phú Diễn, cam Canh, nhãn,
vải...Nhân giống cây trồng bằng công nghệ In vitro (nuôi cấy mô tế bào thực
vật), ứng dụng công nghệ vi ghép sinh trưởng để sản xuất giống cây ăn quả sạch.
Chăn nuôi bước đầu thành công trong việc cấy hợp tử cho bò, tạo ra giống
bò lai có năng suất, chất lượng sữa cao. Nhiều giống gà siêu thịt, siêu trứng đã
được đưa ra nuôi trên diện rộng tại các trang trại hộ gia đình cho năng suất, chất
lượng cao. Trong nuôi trồng thủy sản, nhiều giống mới được đưa vào sản xuất
như cá rô phi đơn tính, trê lai, tôm càng xanh, cá chim trắng.
Hà Nội đã đầu tư đưa vào sản xuất khu nông nghiệp cao tại công ty giống
cây trồng Hà Nội; đang tiếp tục xây dựng trại lợn giống ông, bà theo hướng
công nghệ cao. Một số dự án sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại đã được
quan tâm đầu tư: vùng hoa Tây Tựu (Từ Liêm), vùng rau Đông Anh, Gia Lâm,
vùng thủy sản Đông Mỹ (Thanh Trì).95
- Về phát triển kinh tế - xã hội nông thôn:
Kinh tế nông thôn được tăng truởng liên tục với chất lượng cao. Tổng Giá
trị sản xuất (giá 1994), các ngành trong nông nghiệp 5 năm (2001-2005), tăng
bình quân 13,3%. Giá trị sản xuất các ngành công nghiệp - xây dựng cơ bản
tăng bình quân 5 năm 19,2%; năm 2005 so với năm 2000 tăng 2,41 lần, trong đó
lĩnh vực xây dựng cơ bản tăng mạnh do nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng và nhà
ở của nông thôn. Công nghiệp nông thôn Hà Nội phong phú đa dạng, sản xuất
mang tính hàng hóa rõ rệt, tập trung vào một số ngành nghề chủ yếu như: chế
biến thực phẩm, chế biến sữa, rau, giết mổ gia súc, sản xuất gốm, sứ, dệt may.
Thủ công mỹ nghệ, cơ kim khí, sản xuất đồ gỗ, điêu khắc trạm khảm. Ngoại
thành Hà Nội đang hình thành khu công nghiệp vừa và nhỏ ở Dương Xá, Kiêu
kỵ, Nguyên Khê, Phú Minh, Minh Khai...
Ngành thương mại, dịch vụ ở nông thôn tăng trưởng khá ổn định. Tốc độ
tăng trưởng bình quân 5 năm 10%, Giá trị sản xuất năm 2005 so với năm 2000
tăng 1,61 lần. Đã tập trung xây dựng các chợ đầu mối, cải tạo xây dựng lại hoặc
xây dựng mới các chợ tại huyện. Bước đầu quan tâm đến công tác xúc tiến
thương mại, xây dựng thương hiêu, quản lý chất lượng và chuẩn bị tiền đề hội
nhập kinh tế quốc tế [146, tr.3].
CCKT nông thôn chuyển dịch đúng hướng: tăng nhanh tốc độ phát triển
Giá trị sản xuất công nghiệp – xây dựng cơ bản, thương mai - dịch vụ và giảm
tốc độ phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp. So sánh Giá trị sản xuất năm 2005
và năm 2000 (tính theo giá thực tế) cho thấy, cơ cấu công nghiệp - xây dựng cơ
bản tăng từ 52% năm 2000 lên 63% năm 2005, cơ cấu ngành thương mại - dịch
vụ tăng từ 19,1% năm 2000 lên 20,3 % năm 2005, cơ cấu ngành nông - lâm
nghiệp giảm từ 28,9% năm 2000 xuống còn 16,7% năm 2005 [146, tr.3].
Trong 5 năm, ngành nông nghiệp đã tập trung sắp xếp được hơn 70% số
doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa được 7 doanh nghiệp, giải thể 1 doanh
nghiệp, sáp nhập 8 doanh nghiệp. Đã hình thành 3 doanh nghiệp lớn với 100%
vốn Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sản xuất và cung ứng giống chất lượng
cao phục vụ nông nghiệp.96
Để triển khai Nghị quyết số 13, Đề án 17/ĐA-TU Hà Nội tiếp tục đổi mới
nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể ở nông thôn. Đã tập trung một số chính sách
hỗ trợ HTX, chính sách đào tạo cán bộ HTX, chính sách xúc tiến thương mại.
Trong 5 năm đã có hơn 30 HTX được thành lập và phát triển có hiệu quả.
Kinh tế hộ và kinh tế trang trại phát triển mạnh cả về quy mô và số lượng.
Toàn Thành phố có hơn 400 trang trại, chủ yếu chăn nuôi, thủy sản kết hợp du
lịch sinh thái.
Các dự án chuyển dịch CCKT, hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập
trung cũng có nhiều kết quả: Dự án hoa ở Tây tựu - Từ Liêm (500 ha), dự án
vùng thủy sản Đông Mỹ - Thanh Trì (90 ha), vùng sản xuất rau an toàn Vân Hội
- Đông Anh, Văn Đức, Dương Xá - Gia Lâm, Lĩnh Nam - Hoàng Mai...
Đời sống vật chất tinh thần của nông dân được tăng lên rõ rệt, thu nhập
bình quân đầu người trong 5 năm tăng 1,8 lần. Tỷ lệ hộ nghèo từ 12,5% năm
2000 xuống còn 0,8 năm 2005. Trong 5 năm đã giải quyết được 2 vạn lao động
nông nghiệp sang sản xuất phi nông nghiệp.
Hạn chế của việc thực hiện Chương trình 12/ CTr-TU: Chuyển dịch
CCKT nông nghiệp và nông thôn còn chậm, chưa tạo ra sự bứt phá mạnh mẽ.
Chăn nuôi công nghiệp, ngành nghề dịch vụ nông thôn phát triển chưa tương
xứng với tiềm năng và yêu cầu đổi mới. Chất lượng tăng trưởng và sức cạnh
tranh của sản phẩm nông nghiệp còn thấp. Một số loại hình dịch vụ trình độ cao
phục vụ nông nghiệp có khả năng mang lại giá trị lớn chưa được quan tâm đầu
tư phát triển như: sản xuất giống, sản xuất vật tư, dịch vụ phục vụ nông nghiệp,
công nghệ chế biến sau thu hoạch...Một số dự án đề ra nhưng quá trình triển
khai chậm, chưa có hiệu quả.
Một số dự án chuyển dịch CCKT nông nghiệp và nông nghiệp, nông thôn,
dự án quy hoạch, dự án phát triển làng nghề, khu công nghiệp vừa và nhỏ triển
khai chậm, hiệu quả thấp, thiếu quy hoạch và chưa có tác dụng giải quyết việc
làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn.
So với Đà Nẵng giai đoạn 2001 - 2005, tổng sản phẩm GDP Hà Nội tăng
thấp hơn. Tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2001 - 2005 của Đà Nẵng là 97
13% đạt so với chỉ tiêu Đại hội XIX đề ra (chỉ tiêu Đại hội là 13-14%) [100,
tr.18], cao hơn Hà Nội (11,1%). CCKT ngành giai đoạn 2001 - 2005 của Đà
Nẵng có giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 20,1%/ năm, dịch vụ
11,4%/ năm, nông - lâm nghiệp - thuỷ sản là 5,9%/ năm [100, tr. 18-19], trong
khi ở Hà Nội là công nghiệp - xây dưng là 13,2%/ năm, dịch vụ 10,3%/ năm,
nông - lâm nghiệp - thuỷ sản 2,5%/ năm [101, tr, 26].
Các thành phần kinh tế đều phát triển. Hà Nội tiếp tục đổi mới sắp xếp lại
doanh nghiệp Nhà nước, góp phần phát huy rõ hơn vai trò chủ đạo của kinh tế
Nhà nước; kinh tế tập thể được quan tâm chỉ đạo, phát hiện một số mô hình
HTX kiểu mới hoạt động có hiệu quả; kinh tế ngoài Nhà nước và kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài phát triển nhanh (bình quân 5 năm, GDP khu vực kinh tế Nhà
nước tăng 10,3%/năm, kinh tế ngoài Nhà nước tăng 12,3%/năm, kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài tăng 12,7%/năm), đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh
tế, cung cấp hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu [101, tr.32].
Qua 5 năm triển khai thực hiện Chương trình 13- CTr/TU, quan hệ sản
xuất tiếp tục được củng cố và có bước phát triển theo đúng định hướng XHCN.
Kinh tế Nhà nước giữa vai trò chủ đạo đối với một số lĩnh vực quan trọng, các
thành phần kinh tế khác đều phát triển và có sự đóng góp lớn vào phát triển kinh
tế - xã hội Thủ đô. Kinh tế Nhà nước có mức tăng trưởng khá và chiếm tỷ trọng
lớn trong GDP, (kinh tế Nhà nước chiếm tỷ trọng 64% năm 2001, 64,3% năm
2003, 62,9% năm 2004). Ngành công nghiệp chủ lực do khu vực kinh tế Nhà
nước nắm giữ đã tạo điều kiện điều tiết ổn định thị trường, thúc đẩy các khu vực
kinh tế khác phát triển; một số ngành dịch vụ được quan tâm đầu tư, hiện đại
hóa.
Kinh tế ngoài Nhà nước đặc biệt các doanh nghiệp hoạt động theo Luật
doanh nghiệp tăng nhanh cả về số lượng, quy mô, vốn đăng ký, (đến 30 - 6 -
2005, đã cấp 32.712 giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, với tổng số vốn đăng
ký 60.330 tỷ đồng)
Thành phố đã áp dụng một số biện pháp tích cực huy động vốn cho đầu tư
phát triển. Trong năm 5 Thành phố đã xây dựng 18 dự án khu, cụm công nghiệp 98
vừa và nhỏ, với diện tích khoảng 8000 ha; có 7 khu, cụm đã xây dựng xong hệ
thống kiến trúc và tiếp nhận 143 doanh nghiệp vào sản xuất kinh doanh với số
vốn đầu tư 3000 tỷ đồng. Kinh tế tư nhân liên tục đạt tăng trưởng cao; tổng sản
phẩm nội địa khu vực kinh tế tư nhân tăng bình quân 13,5%/năm cao hơn tốc độ
GDP (11,07%) và chiếm tỷ trọng 21% trong GDP của Thành phố [99, tr.4].
Thực hiện Đề án 17 - ĐA/TU, khu vực kinh tế tập thể được quan tâm chỉ
đạo, nhiều HTX chuyển đổi và đăng ký kinh doanh theo luật HTX, đến 31 - 6 -
2005 có 528/764 HTX được chuyển đổi.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng cả về số lượng và vốn đầu tư. Đến
15 - 8 - 2005 có 559 dự án có vốn đầu tư nước ngoài còn hiệu lực, tổng số vốn
đầu tư dự kiến 2.800 triệu USD, vốn thực hiện dự kiến 1.100 triệu USD, chiếm
tỷ trọng cao (năm 2000 chiếm tỷ trọng 15,4%, năm 2004 chiếm 14,4%, năm
2003 chiếm 16,3%, năm 2004 chiếm 15,4%, năm 2005 chiếm 16,9%)., góp phần
giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao trình độ quản lý, tay nghề lao
động và chuyển dịch CCKT theo hướng đồng bộ, hiện đại.
Việc đổi mới củng cố các doanh nghiệp được Thành phố quan tâm chỉ đạo
và tổ chức triển khai thực hiện quyết liệt. Trong 5 năm tuy gặp nhiều khó khăn
nhưng công tác đổi mới sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước đã có chuyển biến tích
cực. Đến 31- 8 - 2005 Hà Nội đã thực hiện cổ phần hóa 78 doanh nghiệp, sáp
nhập 40 doanh nghiệp, giải thể phá sản 4 doanh nghiệp, chuyển đổi 17 doanh
nghiệp thành công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên, chuyển sang mô hình
công ty mẹ, công ty con 1 doanh nghiệp, thành lập 5 Tổng công ty hoạt động
theo mô hình công ty mẹ con [99, tr.4-5].
Bên cạnh thành tựu đạt được, việc thực hiện nội dung của Chương trình
còn một số hạn chế: một số dự án khi thực hiện còn vướng mắc chậm được giải
quyết, năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp còn thấp,
quy mô kinh doanh nhỏ thiếu mạnh dạn trong đầu tư, công tác quản lý các
doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh còn chưa chặt chẽ, một số cơ chế, chính
sách về sắp xếp đổi mới doanh nghiệp Nhà nước chậm được ban hành, khu vực
99
kinh tế HTX còn nhiều khó khăn yếu kém, tiến độ thực hiện chủ trương phát
triển một số ngành công nghiệp chủ lực còn chậm, kết quả đạt được còn hạn chế.
Với những thành tựu mà Hà Nội đạt được trong giai đoạn 2001-2005,
“mặc dù Hà Nội chỉ chiếm 3,7% về dân số và 0,3% diện tích lãnh thổ, Hà Nội
đóng góp khoảng 8% vào GDP của cả nước, 10,1% giá trị sản xuất công nghiệp,
8,7% kim ngạch xuất khẩu, 10,8% vốn đầu tư xã hội, 14,5 thu ngân sách quốc
gia” [102, tr.1].
Kinh tế Thành phố Hà Nội trong 5 năm (2001-2005) không chỉ chuyển
dịch CCKT theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp mà chất lượng và
CCKT nội ngành có sự chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH.
2.3.2. Hạn chếTrong 5 năm (2001-2005) chất lượng phát triển kinh tế chưa cao, đầu tư
còn dàn trải, vai trò các ngành chủ lực nói chung, chủ lực trong công nghiệp nói
riêng, chưa rõ nét. (Trong 5 năm ngành công nghiệp chủ lực chỉ có ngành cơ -
kim khí có tốc độ tăng Giá trị sản xuất cao hơn tốc độ phát triển công nghiệp
chung (đạt 25,6%/năm), các ngành còn lại đều có Giá trị sản xuất bằng hoặc
thấp hơn Giá trị sản xuất công nghiệp chung). Các ngành công nghiệp chung,
các ngành công nghiệp nguồn, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển.
Nguồn nhân lực và thiết bị, công nghệ phổ biến ở trình độ trung bình, ảnh
hưởng đến chất lượng phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. (Theo kết
quả điều tra của Phòng công nghiệp và thương mại (VCCI) và Dự án nâng cao
năng lực cạnh tranh Việt Nam (VNCI), chỉ số năng lực cạnh tranh về môi trường
kinh doanh của Hà Nội chỉ xếp thứ 14 trong 42 tỉnh, Thành phố được điều tra).
Một số dịch vụ yêu cầu trình độ cao, có khả năng mang lại giá trị gia tăng lớn
(như tài chính - tín dụng, KH - CN, du lịch, tin học...) phát triển chưa mạnh.
Mức tăng trưởng GTSX nông nghiệp và kim ngạch xuất khẩu chưa đạt kế hoạch
do Đại hội XIII đề ra. (GTSX nông nghiệp tăng 2,2%/ năm (chỉ tiêu 3,5 -
4%/năm), xuất khẩu tăng 15,4%/năm (chỉ tiêu 16 - 18%/năm).
Thể chế pháp lý, môi trường đầu tư chưa thật thông thoáng, chưa theo kịp
yêu cầu phát triển. Công tác quản lý Nhà nước đối với kinh tế ngoài quốc doanh
100
còn hạn chế, sơ hở. Liên kết, liên doanh giữa các doanh nghiệp trên địa bàn và
các doanh nghiệp địa phương khác còn yếu.
Việc thu hút nguồn vốn và điều chỉnh cơ cấu đầu tư ra ngoại thành, thực
hiện chủ trương phát triển Hà Nội sang phía Bắc và phía Tây Bắc (Bắc sông
Hồng) triển khai thiếu kiên quyết. Đầu tư xây dựng còn dàn trải, hiệu quả chưa
cao. Một số công trình trọng điểm chưa đảm bảo tiến độ.
2.4. KẾT QUẢ 10 NĂM LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
KINH TẾ VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO, CỦA ĐẢNG BỘ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI (1996-2005)
2.4.1. Kết quả 10 năm chuyển dịch CCKT (1996-2000)Nghiên cứu thực tiễn chuyển dịch CCKT Thành phố Hà Nội thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH Thủ đô (1996 - 2005), có thể thấy quan điểm nhất quán trong
việc đề ra chủ trương chuyển dịch CCKT Thành phố và quá trình lãnh đạo chỉ
đạo, việc thực hiện theo đúng định hướng của Đảng nhằm thúc đẩy mạnh
chuyển dịch CCKT.
Một là, CCKT ngành của Hà Nội đã chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH.
Kinh tế Thành phố Hà Nội từ nền kinh tế bao cấp theo cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, quan liêu bao cấp từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao.
Trong hai nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ Thành phố (khóa XII, XIII), CCKT
Thành phố Hà Nội chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH. Tỷ trọng công nghiệp
ngày càng cao, và tương đối đều trong CCKT của Thành phố. Công nghiệp từ
34,9% năm 1996 [18, tr.35-36], tăng lên 40,5% năm 2005 [21, tr.41-42]. Dịch
vụ, du lịch, thương mại và nông nghiệp tuy giảm tỷ trọng trong GDP nhưng đều
tăng cao giá trị tuyệt đối. Dịch vụ chuyển dịch dần tương ứng với lợi thế và thực
tiễn của Thành phố là từng bước sử dụng công nghệ hiện đại, ngày càng đáp ứng
yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực (dịch vụ giảm từ 59,9% năm 1996 [18, tr.36], giảm xuống
còn 57,5% năm 2005 [21, tr. 42]), Thị trường xuất khẩu được mở rộng, chủng
loại sản phẩm xuất khẩu phong phú. Đến nay Hà Nội đã xuất khẩu đến 187 khu
101
vực của các quốc gia và vùng lãnh thổ với kim ngạch xuất khẩu trong 10 năm
(1996-2005) tăng từ 1308 triệu USD năm 1996 [18, tr.126], lên 2866 triệu USD
năm 2005 [21, tr.144]. Nông - lâm nghiệp - thủy sản chuyển dịch sang sản xuất
hàng nông sản có chất lượng và giá trị hàng hóa cao trên một đơn vị diện tích (tỷ
trọng nông nghiệp giảm từ 5,1% năm 1996 [18, tr.35], xuống 2% năm 2005 [21,
tr.41]).
Từ những kết quả đạt được, trong 10 năm (1996 - 2005), CCKT Hà Nội
đã chuyển dịch từ công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp thành dịch vụ - công
nghiệp - nông nghiệp, vượt yêu cầu do Đại hội XIII Đảng bộ Hà Nội đề ra.
Hai là, cơ cấu thành phần kinh tế cũng chuyển dịch theo hướng tích cực.
SƠ ĐỒ 2.1: CƠ CẤU GIÁ TRỊ TĂNG THÊM TRÊN ĐỊA BÀN
[18, tr.35-36; 21, tr, 41-42]
N¨m 1996
34.9%5.1%
59.9%
N¨m 2000
37%
3%
60%
z
102
N¨m 2005
40.8%1.7%
57.5%
C«ng NghiÖp N«ng nghiÖp DÞch vô
Doanh nghiệp nhà nước (Trung ương, địa phương), mặc dù giảm trong cơ
cấu GDP chung của Thành phố từ 79,2% năm 1996 xuống còn 59,5% năm
2005, nhưng vẫn, đã và đang nắm giữ vai trò chủ đạo, là công cụ quan trọng để
Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bởi kinh tế Nhà nước luôn nắm giữ hầu
hết những ngành, lĩnh vực then chốt (điện, nước, bưu chính - viễn thông) và
quản lý các nguồn tài nguyên quan trọng của Thành phố. Thực hiện chủ trương
sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước đến 15-11-2005,
cổ phần hóa được 54 doanh nghiệp. Tuy được sự quan tâm đầu tư của Đảng và
Thành phố nhưng một bộ phận lớn doanh nghiệp Nhà nước vẫn chưa thực sự
năng động, chậm đổi mới dẫn đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh đạt được thấp
hơn so với các thành phần kinh tế khác.
Kinh tế tập thể, chủ yếu là kinh tế HTX có nhiều chuyển biến, xuất hiện
một số mô hình HTX kiểu mới hoạt động có hiệu quả (Tính đến 31 - 6 - 2005
Hà Nội có 764 HTX tạo việc làm ổn định cho 160.000 xã viên và người lao
động, đóng góp ngân sách trên 22 tỷ đồng/ năm trong đó đã có 85% HTX hoạt
động có hiệu quả [100, tr.98-99]. Các HTX thành lập theo Luật HTX đã đứng
vững trong cơ chế thị trường và từng bước phát triển. Tuy nhiên kinh tế HTX
còn nhiều khó khăn, để tiếp tục phát triển kinh tế tập thể, nâng cao hiệu quả hoạt
động của HTX trong thời gian tới cần đổi mới hơn nữa mô hình và phương thức
hoạt động của HTX, phải quan tâm gắn kết chặt chẽ giữa vốn đóng góp và lợi
103
nhuận được hưởng, gắn quyền lợi và trách nhiệm của người tham gia HTX trên
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài mặc dù phát triển muộn hơn, nhưng với
tiềm lực về vốn và công nghệ nên đã phát triển nhanh, đóng góp ngày càng
quan trọng trong CCKT của Thành phố. Tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế này
không ngừng tăng từ 10,2 năm 1996 [18, tr.35], lên 15,5% năm 2005 [21, tr.41],
đóng góp vào tổng thu ngân sách của Thành phố tăng từ 7,0% năm 1997 [18,
tr.43], lên 10,8% năm 2005 [21, tr.49]. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài góp
phần quan trọng vào chủ trương chuyển dịch CCKT Thành phố. Đó là sự
chuyển dịch cơ cấu công nghệ trong ngành công nghiệp, dịch vụ theo hướng
đồng bộ hiện đại, góp phần nâng cao trình độ cán bộ quản lý và tay nghề kỹ
thuật của người lao động.
Kinh tế ngoài quốc doanh trong 10 năm đã phát triển nhanh và từng bước
tham gia vào tất cả các lĩnh vực kinh doanh. GDP do khu vực này đóng góp tăng
trưởng tương đối đều, bình quân đạt 21,36%, thu hút gần 60% lao động đang
làm việc của Thành phố. Do tính năng động của thành phần kinh tế này, đây
được coi là nhân tố thúc đẩy cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh của Thành
phố.
Ba là, CCKT vùng có sự chuyển dịch mạnh mẽ.
Thành phố đã ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ngoại thành (đường
giao thông, hệ thống điện nước, thông tin liên lạc...), hình thành nhiều khu vực
đô thị, nhiều khu công nghiệp mới. Năm 2001, Thành ủy đã xây dựng Chương
trình 12 về phát triển kinh tế ngoại thành, từng bước hiện đại hóa nông thôn, ban
hành quy chế cho doanh nghiệp đầu tư vào khu vực Sóc Sơn, Đông Anh, có cơ
chế đấu giá quyền sử dụng đất để bổ sung ngân sách tái đầu tư. Tuy nhiên, tốc
độ phát triển kinh tế ngoại thành vẫn còn thấp hơn khu vực nội thành. Tăng
trưởng bình quân khu vực ngoại thành đạt 9,8%/ năm, khu vực nội thành đạt
12,12%.
So với Thành phố Hồ Chí Minh, qua bảng 2.5 có thể thấy rõ sự tăng
trưởng GDP của thành phố Hà Nội có năm cao hơn so với tăng trưởng GDP của 104
Thành phố Hồ Chí Minh, có năm thấp hơn. Ở những năm 2002, 2003, 2004 thì
xấp xỉ băng nhau.
Bảng 2.5: Tăng trưởng GDP Hà Nội so với Thành phố Hồ Chí Minh
[103, tr. 80 - 86]Đơn vị tính: %
Năm 1996 1997 1998 2000 2001 2002 2003 2004
Tổng số 100 100 100 100 100 100 100 100
Hà Nội 12,98 12,59 12,01 9,34 10,02 10,03 11,1 11,12
Thành phố
HCM
14,7 12,1 9,2 9,0 9,5 10,2 11,2 11,5
Bảng 2.6: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh, giai đoạn 2001 - 2005 [21, tr.41; 62, tr.50]Đơn vị tính: %
Năm 2001 2002 2003 2004 2005
HÀ NỘI
+Dịch vụ 60,5 59,7 57,2 57,5 57,5
+Công nghiệp - xây dựng 36,8 37,8 40,5 40,6 40,8
+Nông - lâm nghiệp - thuỷ sản 2,7 2,5 2,3 1,9 1,7
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
+Dịch vụ 59,9 51,6 49,3 50,1 50,7
+Công nghiệp - xây dưng 46,2 46,7 49,1 48,5 48,1
+Nông - lâm nghiệp - thuỷ sản 1,9 1,7 1,6 1,3 1,2
Bảng trên cho thấy cơ cấu ngành công nghiệp - xây dựng Thành phố Hồ
Chí Minh tăng cao hơn Hà Nội. Ngành dịch vụ, nông - lâm - thuỷ sản Hà Nội
giảm nhẹ nhưng vẫn có tỉ trọng cao hơn thành phố Hồ Chí Minh.
Do những thành tựu mà Thành phố đạt được trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là
kinh tế những năm qua “Vị thế, uy tín của Thủ đô được nâng cao trên trường
quốc tế. Năm 2004 Hà Nội được một số tổ chức có uy tín trên thế giới bình chọn 105
là một trong 5 thành phố tốt nhất châu Á và đứng thứ hai về du lịch ở châu Á”
[101, tr.53-54].
Từ những thành công, hạn chế trong chuyển dịch CCKT Thủ đô theo
hướng CNH, HĐH 10 năm qua có thể khẳng định:
+ Chủ trương đẩy mạnh chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH trong
suốt 10 năm phát triển kinh tế Thủ đô (1996 - 2005), là phù hợp với lợi thế và
thực tiễn của Thành phố. Để chủ trương này thực hiện tốt, đạt hiệu quả cao, cần
quán triệt sâu rộng đến tất cả các cấp, các ngành; mặt khác, phải cụ thể hóa chủ
trương thành các cơ chế, chính sách có tác dụng khuyến khích phát triển chuyển
dịch CCKT. Các Chương trình, Dự án lớn cần được nghiên cứu, xác định rõ hơn
nội dung chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH, với những quy định, bước
đi, lộ trình triển khai cụ thể, phù hợp với thực tiễn của từng quận, huyện để đạt
tốc độ tăng trưởng cao, tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế.
+ Chủ trương của Thành ủy là kiên quyết lãnh đạo, chuyển nền kinh tế
Thành phố từ khép kín sang nền kinh tế mở, từ nền kinh tế chủ yếu là hướng nội
(sản xuất chủ yếu hướng vào thị trường địa phương), sang nền kinh tế hướng
ngoại (hướng vào cả thị trường trong nước, trong vùng và thế giới). Đây là chủ
trương đúng vừa phù hợp với yêu cầu phát triển chuyển dịch CCKT, vừa là điều
kiện để đổi mới công nghệ, phương thức sản xuất kinh doanh, chủ động cạnh
tranh, hội nhập nền kinh tế quốc tế.
+ Chủ trương chuyển dịch CCKT ngành, nội ngành tạo động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế và chuyển dịch CCKT của Thành phố là phù hợp cả về lý luận
và thực tiễn. Có được thành là do Thành ủy tập trung chỉ đạo, xây dựng cơ chế,
chính sách, trong đó ưu tiên các nguồn lực cho phát triển ngành và nội ngành.
Để nâng cao hiệu quả hợp tác giữa các ngành cần có sự chỉ đạo thường xuyên,
kịp thời của Thành ủy, Hội đồng nhân dân, UBND thành phố.
+ Chủ trương, chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và
chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế của Thành phố đã thực hiện trong thời
gian qua là đúng đắn, nhất quán. Các thành phần kinh tế đều được thừa nhận và
đều là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong 106
10 năm qua cơ chế, thể chế kinh tế thị trường đã hình thành và ngày càng hoàn
thiện, từng thành phần kinh tế có chuyển biến cả về lượng và chất; khả năng
cạnh tranh của các thành phần kinh tế Thủ đô được nâng lên. Kinh tế Nhà nước
đã phát huy vai trò chủ đạo, là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế,
nắm giữ các ngành kinh tế quan trọng, quản lý các tài nguyên của Thủ đô. Mặc
dù so với các thành phần kinh tế khác, kinh tế Nhà nước có nhiều lợi thế hơn
hẳn, nhưng một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước vẫn chưa thực sự năng động,
chậm đổi mới, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Chủ trương, sắp xếp, đổi mới,
nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nước được đại đa
số doanh nghiệp, công nhân viên và nhân dân Thủ đô ủng hộ, tuy nhiên do nhiều
nguyên nhân tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước còn chậm. Kinh tế tập
thể với kinh tế HTX là nòng cốt được triển khai nghiêm túc, một số HTX đã
thích ứng với cơ chế thị trường, hoạt động có hiệu qủa từng bước phát triển,
quyền lợi, thu nhập của xã viên và người lao động được nâng lên. Tuy nhiên,
còn nhiều HTX hoạt động kém hiệu quả, có HTX chỉ tồn tại trên danh nghĩa.
Trong 10 năm qua kinh tế ngoài nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở
Hà Nội phát triển tương đối nhanh, tham gia vào nhiều loại hình kinh tế, đóng
vai trò ngày càng quan trọng vào đời sống kinh tế - xã hội và chuyển dịch CCKT
Thủ đô. Tuy nhiên, so với tốc độ tăng trưởng về số lượng thì doanh thu, lợi
nhuận nộp ngân sách còn chưa tương xứng.
Những thành công trong chuyển dịch CCKT đã tác động tích cực đến tăng
trưởng và phát triển kinh tế Thủ đô, nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân.
Trên cơ sở tăng trưởng kinh tế, Hà Nội có điều kiện phát triển các lĩnh vực văn
hóa xã hội, tăng cường an ninh quốc phòng. Hà Nội được đánh giá là địa
phương có điều kiện phúc lợi đảm bảo cho sự phát triển con người và chỉ số
phát triển con người cao nhất cả nước.
* Nguyên nhân chủ yếu của thành tựu chuyển dịch cơ cấu kinh tế
(1996-2005):
Nguyên nhân khách quan quan trọng đầu tiên là công cuộc đổi mới ở Việt
Nam với những chủ trương và chính sách của Đảng Nhà nước về phát triển kinh 107
tế, chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH, đã tạo động lực cho phát triển
kinh tế cả nước nói chung và Thành phố Hà Nội, Thủ đô trái tim của cả nước nói
riêng.
Sức ép trong cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế, sự bùng nổ những
tiến bộ khoa học công nghệ trong, ngoài nước và khu vực ở hầu hết trên các lĩnh
vực tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch CCKT Thành phố Hà Nội theo
hướng CNH, HĐH.
Thành phố Hà Nội, Thủ đô cả nước có lợi thế về mặt điều kiện tự nhiên,
kinh tế - xã hội, vị trí địa lý quan trọng cho sự phát triển kinh tế nói chung và sự
chuyển dịch CCKT nói riêng. So với những Thành phố và địa phương khác
trong cả nước Hà Nội có tiềm lực khoa học kỹ thuật và số lượng giáo sư, tiến sĩ,
cán bộ khoa học có trình độ khoa họa kỹ thuật và tay nghề cao.
Thành phố Hà Nội là thị trường tiêu thụ hàng hóa lớn nhất của cả nước.
Mặt khác Hà Nội vừa có điều kiện thuận lợi về khả năng khai thác thị trường
trong nước, trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ vừa có điều kiện thuận lợi
khai thác thị trường quốc tế. Đây cũng chính là điều kiện để Đảng bộ Thành phố
quyết định chủ trương chuyển dịch CCKT với định hướng phát triển công
nghiệp, giảm tương ứng tỷ trọng dịch vụ hướng vào sản xuất hàng hóa và dịch
vụ chất lượng cao trên cơ sở áp dụng thành tựu khoa học công nghệ, để hàng
hóa và sản phẩm có giá trị kinh tế lớn tiến tới hình thành CCKT dịch vụ - công
nghiệp - nông nghiệp ở Thủ đô.
Nguyên nhân chủ quan:
Đường lối chuyển dịch CCKT do Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra hoàn
toàn đúng đắn, phù hợp điều kiện phát triển thấp và không đều của lực lượng sản
xuất ở nước ta, là định hướng lớn cho cấp ủy Đảng của các tỉnh, thành phố trong
cả nước đề ra chủ trương chuyển dịch CCKT ở từng địa phương nhằm thực hiện
mục tiêu chung là đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển kịp và bằng sự phát triển
kinh tế các nước trong khu vực và thế giới.
Trong các nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ IX, XI, XII,
XIII, đều đề ra chủ trương, định hướng chuyển dịch CCKT Thành phố Hà Nội 108
phù hợp với điều kiện cụ thể và xu hướng phát triển kinh tế của Thủ đô, của
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước.
Đảng bộ Thành phố, UBND Thành phố đã ban hành một số chủ trương,
chính sách cụ thể, đúng đắn khuyến khích, thúc đẩy quá trình chuyển dịch
CCKT.
Tính chủ động, năng động, sáng tạo của nhân dân Thủ đô, của các doanh
nghiệp, hộ sản xuất trong việc mạnh dạn đầu tư vốn vào sản xuất và đổi mới
công nghệ hiện đại và đặc biệt là các doanh nghiệp, hộ sản xuất, kinh doanh đã
quan tâm chú ý theo dõi yếu tố thị trường, từ đó điều chỉnh sản xuất, kinh doanh
nhằm tạo ra năng suất, chất lượng cao, hạ giá thành sản phẩm.
- Những hạn chế và nguyên nhân:
Chuyển dịch CCKT Thành phố chưa tạo được sự phát triển kinh tế ổn
định; chất lượng chuyển dịch và hiệu quả kinh tế do chuyển dịch CCKT đem lại
còn thấp. Sự gia tăng của GDP toàn Thành phố trong cả thời kỳ tăng bình quân
10,7%/ năm và tỷ trọng (GDP) của các các ngành công nghiệp - dịch vụ - nông
nghiệp tăng bình quân (1996 - 2005) là dịch vụ 59,24%, công nghiệp 37,8%,
nông nghiệp 3,15%. Nhưng nếu đi sâu vào xem xét CCKT từng ngành thì thấy
đây vẫn là cơ cấu của nền kinh tế phát triển và chuyển dịch CCKT chậm và đang
trong quá trình CNH, HĐH. Cụ thể: dịch vụ liên tục giảm từ 59,9% (1996)
xuống 57,5 (2005) do sự tăng nhanh hơn của sản xuất công nghiệp và của bản
thân sự chuyển dịch CCKT nội ngành dịch vụ. Vì trong nội ngành dịch vụ
những ngành có trình độ công nghệ cao và khả năng mang lại giá trị tăng thêm
lớn như tài chính - tín dụng, khoa học, giáo dục - đào tạo, y tế còn chậm phát
triển và chiếm tỷ lệ thấp, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh pháp lý, sở hữu trí tuệ, quản
lý trí tuệ trình độ còn hạn chế.
Nhìn bề nổi, ngành công nghiệp Thành phố có sự phát triển giá trị tăng
thêm hàng năm cao, nhưng sự chuyển dịch CCKT nội ngành công nghiệp lại
phát triển không đều và thiếu ổn định. Bên cạnh một số doanh nghiệp có vốn,
thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đại (trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài và một số doanh nghiệp ngoài Nhà nước), phần lớn 109
ngành công nghiệp vẫn đang ở trong tình trạng có thiết bị công nghệ trung bình,
một số lạc hậu. Các ngành công nghiệp nguồn như thiết kế và sản xuất khuôn
mẫu, công nghiệp vật liệu mới, công nghiệp phần mềm, công nghiệp phụ trợ
chưa phát triển.
Sản xuất nông nghiệp tuy có tiến bộ trong chuyển dịch, đổi mới cơ cấu
cây trồng, vật nuôi, áp dụng nhiều thành tựu khoa học, kỹ thuật vào sản xuất và
chăn nuôi với giống cây, con mới, có năng suất và chất lượng cao; nhưng kiểu tổ
chức sản xuất, chăn nuôi, kinh doanh dịch vụ nông nghiệp vẫn chủ yếu là cách
thức truyền thống, quy mô nhỏ, năng suất thấp, nguy cơ khó đảm bảo sự ổn định
về chất lượng sản phẩm nông - lâm nghiệp - thủy sản.
Vai trò chủ đạo của các ngành công nghiệp chủ lực được xác định nhất
quán trong các nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ Thành phố trong nền kinh tế còn chưa
phát huy rõ nét. Cụ thể trong 5 ngành công nghiệp chủ lực được xác định chỉ có
2 ngành đạt tốc độ tăng Giá trị sản xuất cao hơn tốc độ tăng Giá trị sản xuất sản
xuất công nghiệp chung là cơ - kim khí, tăng 22,5% và điện - điện tử tăng
22,6%. Còn ngành dệt may - da giầy, chế biến thực phẩm, sản xuất vật liêu xây
dựng đều có tốc độ tăng Giá trị sản xuất thấp hơn tốc độ tăng chung.
Việc triển khai sắp xếp, đổi mới nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của
các doanh nghiệp Nhà nước còn chậm so với yêu cầu đặt ra. Công tác quản lý
hoạt động của các doanh nghiệp ngoài Nhà nước sau khi cấp giấy chứng nhận
kinh doanh chưa chặt chẽ, quản lý lợi nhuận thuế còn gặp không ít khó khăn,
lúng túng. Kinh tế HTX chuyển đổi chậm, hiệu quả sản xuất chưa cao, một số
HTX chỉ tồn tại trên hình thức. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Thành phố
Hà Nội còn hạn chế trong giai đoạn 1996 - 2000 do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính, tiền tệ khu vực.
Sự phối hợp quản lý giữa Trung ương và địa phương trong phát triển kinh
tế ở một số lĩnh vực còn chưa rõ ràng, dẫn đến hiệu quả thực hiện chưa cao.
Quan hệ hợp tác giữa các địa phưong trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ chủ
yếu mới dừng lại ở quan hệ song phương thiếu sự chỉ đạo thống nhất từ Trung
110
ương, kết quả hợp tác mới chỉ là bước đầu, chưa có sự tham gia mạnh của các
doanh nghiệp.
- Nguyên nhân hạn chế
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH
của cả nước nói chung và Thành phố Hà Nội nói riêng, kinh tế Thành phố mặc
dù đã thay đổi nhiều sau 10 năm đầu đổi mới (1986 – 1996), nhưng hạ tầng kỹ
thuật còn nhiều lạc hậu, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế cho đầu tư phát triển còn
hạn chế, nhiều doanh nghiệp còn gặp không ít khó khăn trong đầu tư vốn để đổi
mới công nghệ và thiết bị công nghệ.
Trong quá trình đổi mới và đẩy mạnh chuyển dịch CCKT chưa lường hết
những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực. Do vậy, hạn chế đầu
tư nước ngoài vào Thủ đô Hà Nội.
Mô hình chuyển dịch CCKT theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH còn nhiều
vấn đề chưa thống nhất từ Trung ương đến địa phương, làm cho quá trình thực
hiện chuyển dịch CCKT còn lúng túng, hiệu quả chưa cao.
Việc thực hiện nguyên tắc phối hợp quản lý kinh tế theo ngành và lãnh
thổ chưa hợp lý, phân cấp quản lý trên địa bàn giữa Trung ương và Thành phố
nhiều điểm chưa rõ, còn nhiều chồng chéo.
Các giải pháp, cơ chế và chính sách cụ thể địa phương chưa theo kịp với
chủ trương, định hướng, mục tiêu đề ra cho chuyển dịch CCKT Thành phố Hà
Nội. Việc xây dựng và triển khai trên thực tế các cơ chế chính sách, biện pháp
khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp chủ lực thiếu và chưa đủ tầm,
nên chưa tạo động lực, và sự đột phá trong phát triển ngành công nghiệp chủ lực
của Thành phố.
Thành phố chưa thực hiện tốt chủ truơng CNH, HĐH, chưa tận dụng tốt
lợi thế của Thủ đô đi sau so với các thủ đô các nước trong khu vực và thế giới để
có thể đi ngay vào phát triển các ngành công nghiệp chủ lực. Mặt khác việc xác
định nhóm ngành, sản phẩm công nghiệp chủ lực còn quá rộng và chưa theo kịp
biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, mà chủ yếu xuất phát từ khả năng
lợi thế của Thành phố.111
Hệ thống kết cấu hạ tầng của Thành phố mặc dù so với trước năm 1996 có
nhiều đổi mới, tiến bộ nhưng chưa đáp ứng kịp với yêu cầu đô thị hóa, yêu cầu
phát triển sản xuất kinh doanh, đặc biệt là quá trình chuyển dịch CCKT theo
hướng CNH, HĐH.
Thành phố Hà Nội chưa tận dụng tốt khả năng lợi thế Thành phố hòa
bình, ổn định về chính trị - xã hội để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư
vào Thành phố trong khi lợi thế về nguồn lao động và đất đai ngày càng giảm do
quá trình đô thị hóa.
Trình độ cán bộ quản lý và người lao động nhìn chung chưa đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH. Đặc biệt thiếu nhiều quản lý và
công nghân có trình dộ tay nghề cao sẵn sàng đáp ứng yêu cầu tuyển dụng của
các doanh nghiệp.
2.4.2.Một số kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Hà NộiTừ những kết quả đạt được và những mặt hạn chế trong lãnh, đạo chỉ đạo
chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH, từ 1996 - 2005, có thể rút ra một số
kinh nghiệm chủ yếu sau:
Một là, vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước, nắm vững điều kiện cụ thể của địa phương phát huy thế mạnh lợi thế,
tiềm năng, hạn chế, khắc phục khó khăn, đề ra chủ trương, giải pháp phù hợp
nhằm đẩy nhanh chuyển dịch CCKT.
Để lãnh đạo chuyển dịch CCKT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH,
Đảng bộ Thành phố Hà Nội đã luôn luôn bám sát và quán triệt sâu sắc các chủ
trương nghị quyết của Đảng và Nhà nước về chuyển dịch CCKT. Đảng bộ
Thành phố Hà Nội đã không ngừng nghiên cứu, học tập và vận dụng sáng tạo
vào thực tế Thủ đô, tạo được bước đột phá trên nhiều lĩnh vực. Trong quá trình
lãnh đạo, Đảng bộ Thành phố Hà Nội đã xác định thuận lợi, thời cơ, tiềm năng
và khó khăn từ đó xác định và thực hiện nhất quán quan điểm phát triển kinh tế
là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, tập hợp trí tuệ của
toàn Đảng bộ, từng đảng viên, và của mọi tầng lớp nhân dân và các thành phần
kinh tế Thủ đô để phát triển kinh tế - xã hội. Chủ động kịp thời đề ra những chủ
112
trương, giải pháp đúng đắn trên từng ngành, lĩnh vực cụ thể để đẩy nhanh quá
trình chuyển dịch CCKT của Thành phố, tăng tỷ trọng công nghiệp đặc biệt
công nghiệp chế biến, giảm tương ứng dịch vụ theo hướng phát triển những
ngành dịch vụ công nghệ cao đáp ưng yêu cầu của thời kỳ mới.
Các mục tiêu phát triển chuyển dịch CCKT do Đảng bộ Thành phố đề ra
vừa mang tính tiến tiến khoa học, vừa phù hợp với điều kiện của địa phương và
xu hướng phát triển chung của vùng. Thành phố tập trung chỉ đạo các cấp, sở,
ban, ngành, các quận, huyện phát huy nội lực, khai thác tiềm năng trong phát
triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, du lịch, phát triển các làng nghề truyền
thống và thực hiện tốt việc lưu thông hàng hóa. Đẩy mạnh hợp tác đầu tư để
tranh thủ nguồn lực bên ngoài váo phát triển các ngành kinh tế, đồng thời tranh
thủ sự ủng hộ của Trung ương và các sở, ban ngành và đóng góp của nhân dân
để xây dựng kết cấu hạ tầng đặc biệt giao thông đô thị và giao thông nông thôn.
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc chủ trương, đường lối đổi mới, chủ trương
chuyển dịch CCKT của Đảng, trên cơ sở xác định lợi thế của Thành phố và tầm
quan trọng của các ngành công nghiệp, vai trò nông nghiệp, nông thôn, của du
lịch, thương mại, các thành phần kinh tế, Đảng bộ Thành phố đã đề ra nhiều
Chương trình, dự án, đề án và chiến lược phát triển theo hướng CNH, HĐH
nhằm đạt hiệu quả cao tăng nhanh nhiều sản phẩm có chất lượng cho xã hội,
nâng cao chất lượng và mức hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân.
Trên cơ sở chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, sự
vận dụng linh hoạt sáng tạo, đảm bảo tính nguyên tắc trong việc đề ra những chủ
trương biện pháp đúng đắn của Đảng bộ, Ban Thường vụ Thành ủy, UBND
Thành phố đã kịp thời, phù hợp xu thế phát triển chung của đất nước và khu
vực, hợp lòng dân nên được nhân dân Thủ đô đồng tình ủng hộ và hưởng ứng
tích cực. Nhân dân Thành phố Hà Nội sẵn sàng góp sức người, sức của, thực
hiện nghiêm túc chủ trương của Đảng bộ Thành phố thực hiện chuyển dịch
CCKT, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển.
113
Hai là, để chuyển dịch CCKT đạt hiệu qủa cao cần phải xây dựng lộ trình
và định hướng chiến lược lâu dài trên cơ sở có những giải pháp đồng bộ, cụ thể
phù hợp điều kiện, lợi thế, tiềm năng của từng quận, huyện.
Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là vấn đề mới đòi hỏi sự
tham gia của toàn Đảng, toàn dân, của mọi thành phần kinh tế. Vì vậy, khi đề ra
chủ trương và định hướng lớn, cần quan tâm xác định cụ thể mục tiêu, lộ trình
thực hiện rõ ràng. Không thể sử dụng các biện pháp hành chính chung chung mà
phải được cụ thể hóa bằng pháp luật, trên cơ sở ban hành đồng bộ kịp thời
những cơ chế chính sách khuyến khích, tác động trực tiếp đến lợi ích của doanh
nghiệp, lợi ích người lao động nhằm thúc đẩy qúa trình chuyển dịch chiến lược
phát triển kinh tế, trong định hướng đầu tư kinh doanh, đổi mới thiết bị công
nghệ phục vụ quá trình sản xuất, kinh doanh, theo hướng CNH, HĐH.
Chuyển dịch CCKT đồng bộ trên tất cả các ngành và nội ngành, nhưng
không có nghĩa là làm đồng loạt, dàn đều, mà phải đề ra chiến lược phát triển
kinh tế và chuyển dịch CCKT lâu dài, lãnh đạo có trọng tâm, trọng điểm, trên cơ
sở có sự tính toán cẩn thận các bước đi, hình thức, biện pháp thực hiện phù hợp.
Ba là, kế thừa, phát huy có chọn lọc những kinh nghiệm chuyển dịch
CCKT của các địa phương trong nước, trong vùng, của các nước trên thế giới
và khu vực, vận dụng phù hợp với điều kiện, vị trí chiến lược của Thủ đô.
Nội lực có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nói chung và
chuyển dịch CCKT nói riêng. Vì có phát huy nội lực mới tranh thủ thu hút và sử
dụng tốt nguồn ngoại lực. Phát huy nội lực trước hết là phát huy nguồn lực con
người, chất xám của địa phương, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên
nhiên của Thành phố và sử dụng tốt nguồn lực của Nhà nước. Tuy nhiên, điều
có ý nghĩa quan trọng quyết định để phát huy nội lực là có cơ chế chính sách
phù hợp để khai thác và phát huy tối đa khả năng vật chất, trí tuệ, tinh thần của
mọi người dân Thành phố, các thành phân kinh tế đặc biệt là kinh tế tư nhân.
Ngoại lực có vai trò quan trọng đối với qúa trình chuyển dịch CCKT nếu kết
hợp tốt nội lực. Ngoại lực sẽ là động lực mạnh để thúc đẩy chuyển dịch CCKT
đạt hiệu quả cao khi mà Thành phố đang trong quá trình mở rộng đô thị hóa ra 114
ngoại thành thì việc thu hút nguồn ngoại lực là tối cần thiết. Tuy nhiên không vì
thế mà có thể thu hút một cách tùy tiện được mà phải trên nguyên tắc chủ trương
và quy hoạch tổng thể của Thành phố.
Việc vận dụng kinh nghiệm lãnh đạo chuyển dịch CCKT của các địa
phương trong và ngoài nước, phải chú ý lựa chọn, kế thừa những mô hình, kinh
nghiệm được thực tế kiểm nghiệm đạt kết quả cao, nhưng phải phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh, những tiềm năng và lợi thế của Thành phố.
Bốn là, cần xác định chính xác, cụ thể những ngành, sản phẩm mũi nhọn
của địa phương có lợi thế đáp ứng nhu cầu thị trường, từ đó tập trung vốn đầu
tư để nâng cao chất lượng hàng hóa và giá thành sản phẩm.
Phát huy lợi thế của Thủ đô đi sau trong quá trình CNH, HĐH, hạn chế sự
tụt hậu xa hơn về kinh tế, cùng với sự phát triển những ngành, sản phẩm đáp
ứng nhu cầu thị trường, cần xác định chính xác và tập trung nguồn lực phát triển
nhanh một số ngành và sản phẩm chủ lực có vai trò dẫn đường mà Thành phố
Hà Nội có tiềm năng và lợi thế, cần chú ý những ngành và sản phẩm có giá trị
lâu dài. Không nên lựa chọn nhiều ngành vì tiềm năng của Thành phố có hạn.
Thành phố Hà Nội là một trong những địa phương đi đầu trong xác định
nhóm các ngành công nghiệp chủ lực. Chủ trương này được các kỳ Đại hội
Đảng bộ Thành phố thông qua tương đối thống nhất từ những năm đầu sự
nghiệp đổi mới. Mặc dù các ngành công nghiệp chủ lực phát triển đã mang lại
nhiều thành tựu, tuy nhiên, cho đến nay một số ngành phát triển vẫn chưa tương
xứng với vốn đầu tư và tiềm năng của Thành phố. Do vậy trong thời gian tới
Đảng bộ Thành phố cần xác định một số ngành trọng điểm để phát triển đạt hiệu
quả cao hơn.
Năm là, tăng cường khối đại đoàn kết, phát huy dân chủ trong sản xuất,
đầu tư, kinh doanh, huy động sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế ,
nhằm thực hiện thắng lợi chủ trương chuyển dịch CCKT.
Cùng với việc xác định cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế
vốn và nguồn nhân lực là 2 vấn đề đảm bảo sự phát triển và chuyển dịch CCKT
theo hướng CNH, HĐH. Do đó cần coi trọng việc huy động đầu tư của 5 thành 115
phần kinh tế, nhằm chuyển dần từ đầu tư trực tiếp từ nguồn ngân sách Nhà nước
sang hỗ trợ sau đầu tư. Quan tâm đào tạo kiến thức kinh tế thị trường cho đội
ngũ cán bộ quản lý và đào tạo nghề, kỹ thuật cho người lao động và người sản
xuất kinh doanh để sẵn sàng đáp ứng yêu cầu công nhân của các doanh nghiệp.
Cần tạo lòng tin cho nhân dân và các doanh nghiệp bằng việc coi trọng
công tác cải cách hành chính, quản lý thị trường, chống buôn lậu và làm hàng
giả. Xây dựng văn hoá trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh mang
đặc trưng phong cách của người Thủ đô văn minh thanh lịch trước đối tác và
nhà đầu tư.
Sáu là, chú trọng xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ
chuyên môn, năng lực quản lý, luôn năng động, sáng tạo, đủ mạnh để đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô.
Đảng bộ Hà Nội luôn nhận thức sâu sắc yêu cầu, nhiệu vụ, vai trò, vị thế
của Thủ đô trong trái tim cả nước. Vì vậy, Đảng bộ Hà Nội luôn quan tâm, chú
trọng việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng từ Thành
phố đến cơ sở, đề cao tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên; phát huy dân
chủ trong tổ chức Đảng, nhưng gắn với việc thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương.
Đảng bộ Hà Nội chủ trương: các cán bộ, đảng viên phải gần dân, tin dân, luôn
quan tâm, phấn đấu vì lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không ngừng học
tập, rèn luyện nâng cao năng lực trình độ để đáp ứng yêu cầu cao của nhiệm vụ
lãnh đạo phát triển kinh tế và chuyển dịch CCKT.
Hà Nội là Thành phố có nhiều tiềm năng và lợi thế so với các tỉnh và
Thành phố khác, nhưng để tiềm năng, lợi thế trở thành hiện thực. Yêu cầu đặt ra
là: không chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn kịp thời của Đảng là đủ, mà cần phải có
đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, có
năng lực lãnh đạo và quản lý kinh tế. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề,
về công tác cán bộ Thành ủy đã tập trung chỉ đạo và có một số mặt đổi mới, nhất
là trong việc đánh giá, quy hoạch, điều động, luân chuyển cán bộ. Số tổ chức cơ
sở đảng trong sạch, vững mạnh, đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ
116
và số lượng đảng viên mới đều tăng so với các kỳ Đại hội đề ra, thể hiện chủ
trương trẻ hóa đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng bộ Thành phố.
Trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội nói chung và chuyển
dịch CCKT nói riêng, Đảng bộ Thành phố Hà Nội luôn tổng kết, rút kinh
nghiệm nhằm phát huy thành tựu, hạn chế mặt chưa đạt, để Đảng bộ không
ngừng hoàn thiện, trưởng thành, phát triển ngang tầm với nhiệm vụ phát triển
kinh tế, hoàn thành thắng lợi mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ
XII, XIII đề ra.
Với chủ trương đúng đắn, sự chỉ đạo kịp thời của Đảng bộ Thành phố Hà
Nội, sự triển khai kịp thời của HĐND, UBND, các sở, ban, ngành chuyên môn,
trong 10 năm từ 1996 – 2005, tình hình kinh tế - xã hội của Thành phố đã có
bước phát triển: kinh tế phát triển nhanh và khá toàn diện, CCKT chuyển dịch
theo hướng CNH, HĐH, văn hóa xã hội có tiến bộ, an ninhchính trị, trật tự an
toàn xã hội được tăng cường, hoạt động đối ngoại tiếp tục mở rộng và phát huy
hiệu quả, đời sống nhân dân Thủ đô được nâng lên, nhân dân Thủ đô phấn khởi
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố, tích cực xây dựng Thành phố
ngày càng giàu đẹp. Quá trình lãnh đạo trong thời gian qua của Đảng bộ Thành
phố, đã để lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành
phố trong những năm tiếp theo, để Đảng bộ tiếp tục lãnh đạo thành công sự
nghiệp CNH, HĐH của Thành phố, để đến năm 2020 Hà Nội trở thành đô thị
văn minh, hiện đại, Thành phố du lịch hấp dẫn của khu vực; phát huy tốt vai trò
là trung tâm lớn về văn hóa, khoa học – công nghệ, giáo dục - đào tạo, kinh tế và
giao dịch quốc tế của cả nước.
117
KẾT LUẬN
Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ 1996 đến 2005, là một đề tài rộng và
khó. Trong luận văn này chủ yếu chỉ đề cập một số vấn đề cơ bản của quá trình
Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo chuyển dịch CCKT ở Thủ đô. Đó là quá
trình Đảng bộ Thành phố Hà Nội đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo, linh hoạt chủ
trương, đường lối của Đảng, chỉ đạo qúa trình chuyển dịch CCKT, đánh giá
thành tựu và hạn chế, phân tích nguyên nhân để rút ra những kinh nghiệm cho
Đảng bộ, tiếp tục lãnh đạo đẩy mạnh hơn quá trình chuyển dịch CCKT theo
hướng CNH, HĐH trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2006 - 2010.
Chuyển dịch CCKT là quá trình cải biến kinh tế xã hội từ trạng thái lạc
hậu, mang năng tính tự cấp, tự túc từng bước chuyên môn hoá hợp lí, trang bị kỹ
thuật, công nghệ hiện đại, trên cơ sở tạo ra năng suất lao động cao, hiệu quả kinh
tế cao và nhịp độ tăng trưởng mạnh, cho nền kinh tế nói chung. Việc chuyển
dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH vừa là vấn đề mang tính tất yếu khách quan,
đồng thời là quá trình đi lên từng bước dựa trên sự kết hợp mật thiết của các
điều kiện chủ quan, lợi thế, tiềm năng của địa phương. Vì thế, chuyển dịch
CCKT được coi là điểm chủ yếu, nội dung cơ bản lâu dài trong quá trình CNH,
HĐH. Chủ trương, định hướng lớn về chuyển dịch CCKT của Đảng Cộng sản
Việt Nam và qúa trình vận dụng sáng tạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội, thể
hiện qua việc đề ra chủ trương, giải pháp cụ thể nhằm thực hiện các Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và lãnh đạo thực hiện chuyển dịch CCKT
theo hướng CNH, HĐH trên địa bàn Thành phố từ 1996 đến 2000. Việc lãnh
đạo, thực hiện chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH ở Thành phố Hà Nội
là do yêu cầu khách quan và những đòi hỏi bức thiết của Thành phố, đồng thời
thể hiện sự nhạy bén, sáng tạo trong lãnh đạo phát triển kinh tế và chuyển dịch
CCKT của Đảng bộ Thành phố Hà Nội. Bởi, Hà Nội là một trong những địa
phương đầu tiên của cả nước lãnh đạo chuyển dịch CCKT (Đại hội Đảng bộ
Thành phố lần thứ XI 1986). Quá trình chuyển dịch CCKT diễn ra ở tất cả các
ngành, công nghiệp, dịch vụ - thương mại - du lịch, nông - lâm nghiệp - thủy 118
sản...,các thành phần kinh tế, ở các quận, huyện, vùng sản xuất của Thành phố.
Những chủ trương chuyển dịch CCKT mà Đại hội Đảng bộ Thành phố đề ra
nhằm rút ngắn quá trình chuyển từ nền kinh tế khép kín với CCKT công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ và kinh tế đối ngoại mà chủ yếu phát triển công nghiệp
nặng và nông nghiệp là chủ yếu chiếm phần lớn ngân sách đầu tư, sang nền kinh
tế mở thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH với CCKT công nghiệp - dịch vụ - nông
nghiệp.
Bước sang thế kỷ XXI, quán triệt Nghị quyết Đại hội IX của Trung ương
Đảng, Đảng bộ Thành phố Hà Nội đã đề ra chủ trương, giải pháp đẩy mạnh
chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH từ 2001 - 2005. Quá trình lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện chủ trương chuyển dịch CCKT ở Thành phố Hà Nội thể hiện
cụ thể qua các Nghị quyết, dự án, đề án, các Chương trình công tác và công trình
trọng điểm của BCH, Ban Thường vụ Thành ủy Thành phố (khóa XIII), nhằm
đẩy mạnh phát triển kinh tế và chuyển dịch CCKT từ công nghiệp - dịch vụ -
nông nghiệp sang CCKT dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, và sự chuyển
dịch nội ngành công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp, xuất khẩu, hợp tác, thu hút
vốn đầu tư nước ngoài... Luận văn trình bày thành tựu chuyển dịch CCKT của
Thành phố, kết quả đạt được từ các Đề án, Dự án, Chương trình do Thành ủy đề
ra, UBND Thành phố, Ban chỉ đạo dự án lãnh đạo thực hiện từ 2001 - 2005. Với
thành tựu đạt được trong 10 năm đẩy mạnh CNH, HĐH Thủ đô (1996 - 2005) đã
làm thay đổi khá toàn diện bộ mặt kinh tế - xã hội của Thành phố, đồng thời
nâng cao vị trí Thủ đô. Thành phố Hà Nội xứng đáng “Là trái tim của cả nước,
đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học,
giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế". Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH của một địa phương là thủ đô của một nước, quá trình
chuyển dịch CCKT còn có nhiều hạn chế và những vấn đề nảy sinh trong lãnh
đạo chuyển dịch CCKT trên địa bàn Thành phố cũng được luận văn trình bày
khá rõ. Trên cơ sở đó, Luận văn rút ra một số kinh nghiệm trong quá trình lãnh
đạo, chỉ đạo chuyển dịch CCKT của Đảng bộ Thành phố Hà Nội từ 1996 đến
2005. Những kinh nghiệm, sẽ giúp cho Đảng bộ Thành phố Hà Nội lãnh đạo tốt 119
hơn chuyển dịch CCKT trong thời kỳ mới và cũng là cơ sở để các địa phương
trong vùng, trong nước tham khảo trong quá trình lãnh đạo thực hiện chuyển
dịch CCKT ở địa phương.
Qua nghiên cứu sự lãnh đạo chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH
của Đảng bộ Thành phố (1996 - 2005), mặc dù còn có những hạn chế nhất định
trên một số lĩnh vực, nhưng cũng đạt một số kết quả bước đầu, là cơ sở để khẳng
định chủ trương, giải pháp trong lãnh đạo, chỉ đạo chuyển dịch CCKT mà Đảng
bộ Thành phố Hà Nội đề ra đã đi vào cuộc sống và được thực tiễn kiểm nghiệm
là hoàn toàn đúng đắn, khoa học, phù hợp với điều kiện, lợi thế, tiềm năng của
Thành phố.
120
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội. Văn kiện Đại hội Đảng bộ Thành
phố Hà Nội lần thứ IX (1983). Lưu hành nội bộ.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội. Văn kiện Đại hội Đảng bộ Thành
phố Hà Nội lần thứ X (1986). Lưu hành nội bộ.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội. Văn kiện Đại hội Đảng bộ Thành
phố Hà Nội lần thứ XI (1991). Lưu hành nội bộ.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội. Văn kiện Đại hội Đảng bộ Thành
phố Hà Nội lần thứ XII (1996). NXB Hà Nội
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (4-5-1998), Số 32-NQ/TW. “Chỉ thị về việc
kỷ niệm 1000 năm Thăng Long (1010-2010)”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
6. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (10-11-1998), Số 06-NQ/TW. Nghị quyết
của Bộ Chính tri “ Về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn”.
7. Ban Chấp hành Trung ương Đảng(11-11-1998), Số 179-NQ/TW. “Thông báo
kết luận của Bộ Chính trị “về phát triển du lịch trong tình hình mới”. Phòng lưu
trữ Thành ủy Hà Nội.
8. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (15-12-2000), Số15-NQ/TW: Nghị quyết của
Bộ Chính trị “về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội trong thời
kỳ 2001-2010”, Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
9. Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội (2004). Lịch sử Đảng bộ Thành
phố Hà Nội (1930-2000). NXB Hà Nội.
10. Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội (2005). Biên niên sự kiện cơ bản
lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (2001-2005. NXB Hà Nội.
11. Ban quản lý các khu công nghiệp và chế xuất Hà Nội (27-11-1998), số 194
BC/BQL. “Báo cáo kiểm điểm việc thực hiện nghị định của Chính phủ về khu
công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà
Nội.
12. “Biên bản Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ X, XI, XII, XIII, XIV ”.
Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.121
13. Chính phủ (11-9-1997), số 747-QĐ/TT-CP: Quyết định của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng kinh tế trọng điểm
Bắc bộ thời kỳ 1996-2010. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
14. Chính phủ (15-6-2000), số 09/2000/NQ-CP: Nghị quyết của Chính phủ về một
số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm
nông nghiệp.
15. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư, nâng cao hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế Thành phố Hà Nội (4-1998). Phòng lưu trữ
Thành ủy Hà Nội.
16. Chủ tịch Nước, 11-1-2001- lệnh số 01/2001/L-CTN về việc công bố pháp lệnh
Thủ đô Hà Nội và pháp lệnh thư viện. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
17. Cục thống kê Thành phố Hà Nội. Niên giám thống kê 1995, Hà Nội.
18. Cục thống kê Thành phố Hà Nội. Niên giám thống kê 1999, Hà Nội.
19. Cục thống kê Thành phố Hà Nội. Niên giám thống kê 2001, Hà Nội.
20. Cục thống kê Thành phố Hà Nội. Niên giám thống kê 2004, Hà Nội.
21. Cục thống kê Thành phố Hà Nội. Niên giám thống kê 2005, Hà Nội.
22. Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Ban Chấp hành Đảng bộ Quận Ba Đình, “Báo cáo
Chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quận lần thứ XXI (1996); lần thứ XXII
(2000); lần thứ XXIII (2005)”, Hà Nội .
23. Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Từ Liêm “Báo cáo
Chính trị Đại hội lần thứ XIX (1996); lần thứ XX (2000); lần thứ XXI (2005)”,
Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (21-1-1983), số 08-NQ/TW: Nghị quyết Hội nghị Bộ
Chính trị về công tác Thủ đô Hà Nội. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1987): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, NXB Sự thật, H.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1987): Văn kiện Hội nghị Toàn quốc lần thứ hai
(khoá VI) NXB Sự thật, H.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1989): Nghị quyết hội nghị lần thứ VI (khoá VI)
NXB sự thật, H.122
28. Đảng Cộng sản Việt Nam,(1991): Văn kiện Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, NXB Sự thật, H.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1994): Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khoá VII, NXB Chính trị Quốc gia, H.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1991): Chiến lược ổn định phát triển kinh tế xã hội
đến năm 2000, NXB sự thật, H.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1991): Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, NXB sự thật, H.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1993): Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban chấp
hành Trung ương khoá VII, NXB sự thật, H.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (03-1-1996), số
12-NQ/TW: Nghị quyết của Bộ Chính trị “về việc tiếp tục đổi mới tổ chức và
hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1996): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, NXB Chính trị Quốc gia, H.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (20-10-1996), số 10-
TB/TW. “Thông báo ý kiến của Thường vụ Bộ Chính trị về Điều chỉnh quy
hoạch chung Thủ đô Hà Nội tới năm 2020”.Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1997): Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp
hành Trung ương (khóa VIII), NXB Chính trị Quốc gia, H.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1998): Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương (khóa VIII), NXB Chính trị Quốc gia, H.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (17-10-1998), số 05-
NQ/TW: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 (lần1) Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII về nhiệm vụ kinh tế, xã hội năm 1999.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (17-10-2000), số 58-
CT/TW. “Chỉ thị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục
vụ sự nghiệp CNH, HĐH”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
123
40. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (06-11-2000), số 329-
TB/TW. “Thông báo kết luận của Bộ Chính trị về Thủ đô Hà Nội”. Phòng lưu
trữ Thành ủy Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2001): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, NXB Chính trị Quốc gia, H.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2001): Nghị quyết hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa IX), NXB Chính trị Quốc gia, H.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2002): Văn kiện hội nghị Đại biểu toàn quốc lần
thứ năm (khoá IX) , NXB Chính trị Quốc gia, H.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2002): Văn kiện hội nghị Đại biểu toàn quốc lần
thứ sáu (khoá IX) , NXB Chính trị Quốc gia, H.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2003): Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hàng Trung ương Đảng (khóa IX), NXB Chính trị Quốc gia, H.
46. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2004): Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc lần
thứ chín, khoá IX, NXB Chính trị Quốc gia, H.
47. Đảng Cộng sản Việt Nam,( 2005): Báo cáo một số vấn đề lý luận - thực tiễn
qua 20 năm đổi mới 1986 -2000, NXB Chính trị Quốc gia, H.
48. Đào Duy Tùng (1994). Quá trình hình thành con đường đi lên Chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, H.
49. Đặng Kim Oanh (2005) “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu
kinh tế từ năm 1997 đến năm 2003”. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử
Đảng, đã bảo vệ thành công tại ĐHQG, H.
50. Đỗ Mạnh Khởi, (2004). “Phương hướng và giải pháp chuyển dịch CCKT
ngành trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đến năm 2010”. Luận án tiến sỹ kinh tế đã bảo
vệ thành công tại Học viện CTQG Hồ Chí Minh, H.
51. Đỗ Xuân Tài, (1999). “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đaị hoá ở tỉnh Cần Thơ”. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử Đảng,
đã bảo vệ thành công tại ĐHQG, H.
124
52. Đào Thị Vân (2004), “Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chuyển dich cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn 1997-2003”. Luận
văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử Đảng, đã bảo vệ thành công tại ĐHQG, H.
53. Giáo trình Kinh tế học phát triển. (2005), NXB Lý luận Chính trị, H.
54. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, (2005), NXB Lý luận Chính trị, H.
55. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 10, NXB Chính trị Quốc gia, H.
56. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 11, NXB Chính trị Quốc gia, H.
57. Hội khoa học kinh tế Việt nam, Trung tâm thông tin và phát triển kinh tế
(2004). Toàn cảnh kinh tế Việt nam. NXB Chính trị Quốc gia, H.
58. C. Mác và Ph.Ăngghen (1993): Toàn tập, tập 13, NXB Chính trị Quốc gia, H.
59. C. Mác và Ph.Ăngghen (1993): Toàn tập, tập 23, NXB Chính trị Quốc gia, H.
60. Nguyễn Ngọc Thanh (2004). “Đảng bộ Huyện Gia Lâm (Hà Nội) lãnh đạo
thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1991-2000)”. Luận văn thạc sĩ chuyên
ngành lịch sử Đảng, đã bảo vệ thành công tại HVCTQG Hồ Chí Minh, H.
61. Niên giám thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh năm 2001.
62. Niên giám thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh năm 2005.
63. Thành ủy Hà Nội (12-7-1996), số 01-CTr/TU, “Chương trình công tác của Ban
Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội khóa XII”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà
Nội.
64. Thành ủy Hà Nội (10-11-1996), số 05-KH/TU. “Kế hoạch tiếp tục thực hiện
Chương trình 06 của Thành ủy về phát triển kinh tế ngoại thành và xây dựng
nông thôn mới Thủ đô đến năm 2000”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
65. Thành ủy Hà Nội (1996-2000). Các văn bản chủ yếu của Thành ủy Hà Nội ban
hành trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ Thành phố khóa XII, Tập I, II, III, IV, V.
Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
66. Thành ủy Hà Nội (23-01-1997), số 09-BC/TU, “Báo cáo kiểm điểm công tác
lãnh đạo, chỉ đạo của ban thường vụ Thành ủy 6 tháng cuối năm 1996 và định
hướng nhiệm vụ năm 1997”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
125
67. Thành ủy Hà Nội (7-4-1997), số 02-NQ/TU. Nghị quyết về một số chủ trương,
biện pháp củng cố và phát triển Hợp tác xã ở Hà Nội”. Phòng lưu trữ Thành ủy
Hà Nội.
68. Thành ủy Hà Nội (15-5-1997), số 28-BC/KT, “Về việc thực hiện CTr- 06”.
Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
69. Thành ủy Hà Nội (6-1997). Kế hoạch “Tiếp tục thực hiện Chương trình số
13/CTr-TU về huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ
đô”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
70. Thành ủy Hà Nội (6-1997). “Chương trình xây dựng và củng cố quan hệ sản
xuất của Thành ủy Hà Nội ( khóa XII)”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
71. Thành ủy Hà Nội (02-7-1997), số 06-NQ/TU. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5
Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố (khóa XII)”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà
Nội.
72. Thành ủy Hà Nội (6-8-1997). Số 19/CT-TU. Chỉ thị “V/v lãnh đạo thực hiện
chương trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội”. Phòng
lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
73. Thành ủy Hà Nội (6-8-1997). Số 20/CT-TU. Chỉ thị “V/v thực hiện chủ trương
đổi mới và phát triển HTX nông nghiệp theo luật HTX”. Phòng lưu trữ Thành ủy
Hà Nội.
74. Thành ủy Hà Nội (5-9-1997), số 08-CTr/TU. “Chương trình Một số vấn đề về
xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất mới”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
75. Thành ủy Hà Nội (28-10-1997). Số 20-KH/TU. “Kế hoạch Tiếp tục thực hiện
Chương trình 18-Ctr/TU về việc sắp xếp lại sản xuất kinh doanh trên địa bàn
Hà Nội”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
76. Thành ủy Hà Nội (6-12-1997), số 25-BC/TU. “Báo cáo kết quả kiểm tra thực
hiện chương trình 06-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội”. Phòng lưu trữ Thành ủy
Hà Nội.
77. Thành ủy Hà Nội (11-1-1998), số 77-TB/TU, “Thông báo ý kiến của Ban
Thường vụ Thành ủy về tình hình kinh tế- xã hội năm 1997 và nhiệm vụ năm
1998 của Thành phố Hà Nội”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.126
78. Thành ủy Hà Nội (15-1-1998), số 27-BC/TU, “Báo cáo kiểm điểm công tác của
Ban Thường vụ Thành ủy năm 1997 và nhiệm vụ chủ yếu năm 1998”. Phòng lưu
trữ Thành ủy Hà Nội.
79. Thành ủy Hà Nội (2-4-1998). “Báo cáo việc thực hiện chương trình 18/CTr/TU
về sắp xếp lại sản xuất kinh doanh trên địa bàn Hà Nội (12-1-1993)”. Phòng lưu
trữ Thành ủy Hà Nội.
80. Thành ủy Hà Nội (2001-2005). Các văn bản chủ yếu của Thành ủy Hà Nội
khóa XIII nhiệm kỳ 2001-2005, Tập I, II, III, IV, V. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà
Nội.
81. Thành ủy Hà Nội (12-8-1998), Số 11- NQ/TU, “Nghị quyết về đổi mới và phát
triển du lịch Thủ đô từ nay đến năm 2010 và những năm sau”. Phòng lưu trữ
Thành ủy Hà Nội.
82. Thành ủy Hà Nội (15-9-1998), số 39-BC/TU. “Báo cáo phát huy vai trò của tổ
chức cơ sở Đảng ở nông thôn trong lãnh đạo phát triển kinh tế- xã hội”. Phòng
lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
83. Thành ủy Hà Nội (08-12-1998), Số 119-TB/TU. “Thông báo ý kiến chỉ đạo của
Thường trực Thành ủy về tiếp tục triển khai thực hiện dự án các khu công
nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
84. Thành ủy Hà Nội (26-01-1999), Số 45- BC/TU. “Báo cáo tóm tắt kết quả thực
hiện 12 chương trình công tác của Thành ủy”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
85. Thành ủy Hà Nội (7-2000). “Báo cáo Thủ đô Hà Nội trong chương trình phát
triển vùng kinh tế trọng điểm”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội .
86. Thành ủy Hà Nội (20-11-2000), số 83- BC/TU. “Báo cáo kết quả 4 năm thực
hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và Kế hoạch số 11- KH/TU về khoa
học công nghệ”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
87. Thành ủy Hà Nội. “Văn kiện Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XIII
(2001)”. NXB Hà Nội.
88. Thành ủy Hà Nội (7-2002). “Đề án thực hiện Nghị quyết lần thứ 5 Ban Chấp
Hành Trung ương Đảng (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao
hiệu quả kinh tế tập thể”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.127
89. Thành ủy Hà Nội (7-2002). “Đề án thực hiện Nghị quyết lần thứ 5 Ban Chấp
Hành Trung ương Đảng (khóa IX) về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách,
khuyến khích tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”. Phòng lưu trữ Thành ủy
Hà Nội.
90. Thành ủy Hà Nội (12-2002). “Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã
hội, an ninh- quốc phòng năm 2002- kế hoạch năm 2003 của Thành phố Hà
Nội”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
91. Thành ủy Hà Nội (12-2003). “Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã
hội, an ninh quốc phòng năm 2003, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm
2004 của Thành phố Hà Nội”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
92. Thành ủy Hà Nội (7-2003), “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội Thủ đô Hà Nội
nửa nhiệm kỳ đầu Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIII”. Phòng lưu trữ
Thành ủy Hà Nội.
93. Thành ủy Hà Nội (06-01-2004), số 71-BC/TU. “Báo cáo sơ kết 3 năm thực
hiện Nghị quyết 15-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về phương hướng,
nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ 2001-2010”. Phòng lưu trữ
Thành ủy Hà Nội.
94. Thành ủy Hà Nội (06-01-2004), số 72-BC/TU. “Báo cáo kết quả 3 năm xây
dựng, triển khai thực hiện 10 chương trình công tác lớn của Thành ủy và 9 cụm
công trình trọng điểm Thành phố; phương hướng công tác năm 2004”. Phòng
lưu trữ Thành ủy Hà Nội .
95. Thành ủy Hà Nội (06-7-2004), số 90-BC/TU. “Báo cáo kiểm điểm 2 năm thực
hiện Nghị quyết 13-NQ/TW Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 5 (khóa IX) và
đề án 17-ĐA/TU của Thành ủy Hà Nội về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu qủa kinh tế tập thể”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
96. Thành ủy Hà Nội (23-11-2004). “Báo cáo kiểm điểm 2 năm thực hiện Đề án
18-ĐA/TU của Thành uỷ về thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá IX), Tiếp
tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư
nhân", Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
128
97. Thành ủy Hà Nội (06-01-2005), số 107-BC/TU. “Báo cáo kết quả công tác
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội Thủ đô năm 2004; phương
hướng, nhiệm vụ cơ bản năm 2005”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
98. Thành ủy Hà Nội (04-10-2005), số 136-BC/TU. “Báo cáo tình hình kinh tế - xã
hội quý III và 9 tháng đầu năm; nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm 3 tháng cuối năm
của Thành phố Hà Nội”, Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
99. Thành ủy Hà Nội (04-10-2005), số 137-BC/TU, “Báo cáo tổng kết thực hiện 10
chương trình công tác lớn của Thành ủy, 9 cụm công trình trọng điểm của
Thành phố giai đoạn 2001-2005”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
100. Thành ủy Hà Nội (2005). Chủ trương nghiên cứu khoa học trọng điểm 01X-13
"Hai mươi năm đổi mới ở Thủ đô Hà Nội định hướng và phát triển đến năm
2010". NXB Hà Nội.
101. Thành ủy Hà Nội. Văn kiện Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XIV
(2006), Hà Nội.
102. Thành uỷ Hà Nội (03-2006). “Báo cáo tóm tắt dự thảo kế hoạch phát triển kinh
tế-xã hội 5 năm 2006 - 2010 của thành phố Hà Nội”. Lưu trữ văn thư Thành ủy
Hà Nội.
103. Thành phố Đà Nẵng. Văn kiện Đại hội XIX Thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng
2006.
104. Thường vụ thành uỷ (1-2002). “Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế -
xã hội năm 2001 và kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2002 Thành phố Hà Nội”.
Phòng lưu trữ Thành uỷ Hà Nội.
105. Thường vụ thành uỷ (29-1-2002), số 16-BC/TU. “Báo cáo kiểm điểm công tác
năm 2001, phương hướng nhiệm vụ 2002 của Ban Thường vụ Thành ủy”. Phòng
lưu trữ Thành uỷ Hà Nội.
106. Tô Xuân Dân, Vũ Trọng Lâm (2003), Cơ chế chính sách đặc thù phát triển Thủ
đô Hà Nội - Một số định hướng cơ bản. Nxb khoa học và kỹ thuật, H.
107. Trần Văn Nhưng, (2001), “Xu hướng chuyển dịch CCKT ngành công nghiệp
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”. Luận án tiến sỹ kinh tế đã bảo vệ tại Học
viện CTQG Hồ Chí Minh, H129
108. Từ điển bách khoa Việt Nam (2003), H.
109. UBND Thành phố Hà Nội (10-10-1996). Số 2344/ VP, “Chương trình hành
động của UBND Thành phố Hà Nội thực hiện NQ 12 của BCT tiếp tục đổi mới
tổ chức và hoạt động thương nghiệp phát triển thị trường theo định hướng
XHCN”. Lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ UBND Thành phố.
110. UBND Thành phố Hà Nội (26-10-1996), số 42/BC-UB. “Báo cáo kết quả thực
hiện 5 năm 1991 - 1995 và phương hướng nhiệm vụ 1996 - 2000 về phát triển
kinh tế ngoại thành và xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô”. Lưu trữ tại Trung
tâm lưu trữ UBND Thành phố.
111. UBND Thành phố Hà Nội (1-1997). “Báo cáo tóm tắt tình hình thực hiện
nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 1996 và nhiệm vụ - mục tiêu chủ yếu của kế hoạch
kinh tế - xã hội năm 1997 của Thành phố Hà Nội”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà
Nội.
112. UBND Thành phố Hà Nội (24-02-1997), số 11/ TTr - UB, “Tờ trình về biện
pháp phát triển sản xuất khu vực công nghiệp vừa và nhỏ ở Hà Nội”. Phòng lưu
trữ Thành uỷ Hà Nội.
113. UBND Thành phố Hà Nội, Sở Thương Mại (5-5-1997), “ Báo cáo định hướng
cụ thể về quy hoạch, sắp xếp mạng lưới thương nghiệp trên địa bàn Hà Nội”.
Lưu trữ phòng tổng hợp Sở Thương mại Hà Nội.
114. UBND Thành phố Hà Nội (13-8-1997), số 1939/CV-UB. “Hướng dẫn thi hành
luật hợp tác xã trong ngành nông nghiệp Hà nội”. Lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ
UBND Thành phố.
115. UBND Thành phố Hà Nội (15-8-1997). “Báo cáo tổng kết chỉ đạo điểm chuyển
đổi hợp tác xã nông nghiệp Hà Nội theo luật hợp tác xã”. Phòng lưu trữ Thành
ủy Hà Nội.
116. UBND Thành phố Hà Nội, Sở Du Lịch Hà Nội (17-11-1997), số 502/SDL/DL-
HTĐT. “Những định hướng lớn phát triển du lịch Thủ đô đến năm 2000 và
những năm sau”. Lưu trữ tại phòng tổng hợp sở du lịch Hà Nội.
130
117. UBND Thành phố Hà Nội (10-01-1998). “Báo cáo tóm tắt thực hiện nhiệm vụ
kinh tế xã hội năm 1997 và kế hoạch năm 1998 của Thành phố Hà Nội”. Phòng
lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
118. UBND Thành phố Hà Nội (31-3-1998), số 17/BC-UB. “Báo cáo tổng kết
chuyển đổi HTX phi nông nghiệp theo luật HTX trên địa bàn Thành phố Hà
Nội”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
119. UBND Thành phố Hà Nội (03-4-1998), số 19 BC/UB. “Báo cáo phương
hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế ngoại thành và xây dựng nông thôn mới năm
1998-2000”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
120. UBND Thành phố Hà Nội, Sở Du Lịch (5-1998). “Định hướng phát triển du
lịch Thủ đô đến năm 2000 và 2010”. Lưu trữ văn thư Sở Du lịch Hà Nội.
121. UBND Thành phố Hà Nội “Báo cáo tổng kết thực hiện chuyển đổi HTX nông
nghiệp hoạt động theo luật HTX trên địa bàn thành phố năm 1998,1999”. Phòng
lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
122. UBND Thành phố Hà Nội (1998). Số 19- BC/UB. “Báo cáo phương hướng
nhiệm vụ phát triển kinh tế ngoại thành và xây dựng nông thôn mới năm 1998 -
2000”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
123. UBND Thành phố Hà Nội, Sở Nông Nghiệp & PTNT (13-3-1998), số 195
BC/CS-NN&PTNT. “Báo cáo tổng kết 2 năm phát triển NN&XDNT. mới Thủ
đô Hà Nội 1996-1997”. Lưu trữ phòng tổng hợp Sở Nông nghiệp và phát triển
nông thôn Hà Nội.
124. UBND Thành phố Hà Nội (21-9-1998), số 22/KH&ĐT-VVVT. “Xác định
phương hướng đầu tư và lựa chọn các chương trình dự án hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA) của Thành phố Hà Nội giai đoạn 1998-2010 và 2020”. Phòng
lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
125. UBND Thành phố Hà Nội (17-5-1999), số 28/KH-UB. “Kế hoạch công tác của
ban chỉ đạo Chương trình phát triển kinh tế ngoại thành và xây dựng nông thôn
mới Thành phố Hà Nội- năm 1999”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
131
126. UBND Thành phố Hà Nội (4-1-2000). “Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ
kinh tế - xã hội năm 1999 và kế hoạch kinh tế xã hội năm 2000 của Thành phố
Hà Nội”. Phòng lưu trữ Thành uỷ Hà Nội.
127. UBND Thành phố Hà Nội (4-2000). “Báo cáo định hướng kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội Thủ đô Hà Nội 5 năm 2001-2010”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà
Nội.
128. UBND Thành phố Hà Nội (4-2000). “Báo cáo một số vấn đề chuyển dịch cơ
cấu kinh tế Thủ đô theo hướng CNH, HĐH và hội nhập kinh tế với khu vực và
thế giới thời kỳ 2000-2010”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội .
129. UBND Thành phố Hà Nội (17-5-2000). “Chiến lược phát triển kinh tế ngoại
thành giai đoạn 2000-2010”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
130. UBND Thành phố Hà Nội (18-5-2000). “Đánh giá tình hình du lịch Hà Nội
theo tinh thần Nghị quyết 11/NQ-TU của Ban Thường vụ Thành ủy về đổi mới
và phát triển du lịch Hà Nội từ nay đến năm 2010 và những năm sau”. Phòng
lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
131. UBND Thành phố Hà Nội (5-6-2000), số 384/CS-NN. “Báo cáo tổng kết
chương trình 06/CTr-TU về phát triển kinh tế ngoại thành và xây dựng nông
thôn mới”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
132. UBND Thành phố Hà Nội (07-6-2000). “Báo cáo định hướng chiến lược phát
triển kinh tế ngoại thành Thủ đô Hà Nội, giai đoạn 2000-2010”. Phòng lưu trữ
Thành ủy Hà Nội.
133. UBND Thành phố Hà Nội (8-2000). “Báo cáo tóm tắt quy hoạch tổng thế phát
triển kinh tế-xã hội Thành phố Hà Nội 2000-2010”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà
Nội.
134. UBND Thành phố Hà Nội (01-11-2000). “Báo cáo về tình hình thi hành luật
doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà Nội”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
135. UBND Thành phố Hà Nội (13-11-2000). “Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm
vụ kinh tế – xã hội năm 2000 và kế hoạch kinh tế-xã hội năm 2001 của Thành
phố Hà Nội”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
132
136. UBND Huyện Từ Liêm (22-5-2002). “Báo cáo kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh
tế 4 năm theo nghị quyết TW 4 (khóa VIII)”. Lưu trữ phòng kế hoạch tổng hợp
UBND huyện Từ Liêm.
137. UBND Thành phố Hà Nội, Sở Thương Mại (17-01-2003). “Báo cáo tổng kết
hoạt động thương mại Hà Nội năm 2002; phương hương, kế hoạch năm 2003”,
lưu trữ phòng tổng hợp Sở Thương mại Hà Nội.
138. UBND Thành phố Hà Nội (2004). “Báo cáo tổng kết năm 2003 của Sở nông
nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
139. UBND Thành phố Hà Nội, Sở Thương Mại (5-2004). “Báo cáo tổng kết phát
triển các thành phần kinh tế trên địa bàn trong thời kỳ đổi mới ngành thương
mại Hà Nội”. Lưu trữ phòng tổng hợp Sở Thương mại Hà Nội.
140. UBND Thành phố Hà Nội, Sở công nghiệp Hà Nội (5 - 2004), “Báo cáo tổng
kết chuyển dịch CCKT Thủ đô theo hướng CNH, HĐH”. Lưu trữ phòng tổng
hợp Sở Công nghiệp Hà Nội.
141. UBND Thành phố Hà Nội (04-01-2005). “Báo cáo tóm tắt tình hình thực hiện
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng năm 2004, kế hoạch phát triển
năm 2005 của Thành phố Hà Nội”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
142. UBND Thành phố Hà Nội, Sở Thương Mại (3-2005), “Báo cáo tổng kết hoạt
động thương mại Hà Nội năm 2004; phương hương, nhiệm vụ trọng tâm năm
2005”, lưu trữ phòng tổng hợp Sở Thương mại Hà Nội.
143. UBND Thành phố Hồ Chí Minh, Viện kinh tế - Sở văn hóa thông tin (2005).
Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh 30 năm xây dựng và phát triển (1975-2005).
144. UBND Thành phố Hà Nội, Sở Thương Mại (21-7-2005), số 1439/BC-STM.
“Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển thương mại năm 2005 và kế hoạch
phát triển thương mại năm 2006”. Lưu trữ phòng tổng hợp Sở Thương mại Hà
Nội.
145. UBND Thành phố Hà Nội, Sở Du Lịch Hà Nội (11-8-2005), số 572/BC-SDL.
“Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005 và xây dựng kế hoạch
2006-2010”. Lưu trữ văn thư Sở Du lịch Hà Nội.
133
146. UBND Thành phố Hà Nội, Ban chỉ đạo chương trình 12/Ctr-TU, (9-2005),
“Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện chương trình 12/CTr-TU phát triển kinh tế
ngoại thành và từng bước hiện đại hóa nông thôn (2001-2005), định hướng phát
triển năm 2006 - 2010”. Phòng lưu trữ Thành ủy Hà Nội.
147. UBND Thành phố Hà Nội, Sở công nghiệp Hà Nội (1-2006), “Báo cáo đón
nhận Huân chương độc lập hạng III và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XIV của ngành công nghiệp Hà Nội”. Lưu
trữ phòng tổng hợp Sở Công nghiệp Hà Nội.
148. UBND Thành phố Hà Nội, Sở Thương Mại (24-3-2006). “Báo cáo hoạt động
thương mại Hà Nội năm 2005; phương hương, nhiệm vụ trọng tâm năm 2006”.
Lưu trữ phòng tổng hợp Sở Thương mại Hà Nội.
134
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu.....................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................4
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu, nguồn tư liệu.................................4
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn.......................................................4
7. Kết cấu của luận văn......................................................................................4
CHƯƠNG I. NHỮNG CHỦ TRƯƠNG VÀ QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO CỦA
ĐẢNG BỘ HÀ NỘI THỰC HIỆN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ............................5
1.1. ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ.................................................................................5
1.1.1.Một số khái niệm về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.......5
1.1.2. Đường lối của Đảng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ đổi
mới................................................................................................................10
1.2. CƠ CẤU KINH TẾ Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRƯỚC NĂM 1996......15
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội Hà Nội........................................15
1.2.2. Thực trạng kinh tế, cơ cấu kinh tế Thành phố Hà Nội trước năm 1996
.......................................................................................................................18
1.3. VẬN DỤNG ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG, ĐẢNG BỘ HÀ NỘI LÃNH
ĐẠO, CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở ĐỊA
PHƯƠNG (1996 - 2000), THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ...............................22
1.3.1. Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng bộ Hà Nội............22
1.3.2. Kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 1996-2000..................29
CHƯƠNG II. ĐẢNG BỘ HÀ NỘI LÃNH ĐẠO, ĐẨY MẠNH CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ ( 2001 – 2005 )......................................................40
2.1. CHỦ TRƯƠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ CỦA ĐẢNG
NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI...............................................................40135
2.2. CHỦ TRƯƠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU KINH TẾ CỦA ĐẢNG BỘ HÀ NỘI.....................................................43
2.3. THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở HÀ NỘI (2001 - 2005)....................50
2.3.1. Thành tựu............................................................................................50
2.3.2. Hạn chế...............................................................................................59
2.4. KẾT QUẢ 10 NĂM LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU KINH TẾ VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO, CỦA ĐẢNG
BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI (1996-2005)........................................................60
2.4.1. Kết quả 10 năm chuyển dịch CCKT (1996-2000)..............................60
2.4.2.Một số kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Hà Nội...............67
KẾT LUẬN........................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................73
136