180
Ba Chiều Kích Của Sự Ngợi Khen Tác giả: A. W. Tozer Nguồn: tinlanhhyvong.com Ðấng Christ đối với dân sự Ngài là rất tuyệt vời và Ngài mang đến cho họ những lợi ích phong phú mà tâm trí không thể hiểu nổi, cả đến tấm lòng cũng không biết phải dùng từ gì để diễn tả. Những kho báu này vừa có ở hiện tại, và cũng sẽ có ở tương lai. Thần Lẽ Thật, qua Phao-lô, bảo đảm với chúng ta rằng Ðức Chúa Trời đã chúc phước cho chúng ta với mọi thứ phước thiêng liêng trong Ðấng Christ. Những phước hạnh đó là của chúng ta, là con của sự sáng tạo mới và luôn sẵn có cho chúng ta ngay bây giờ bởi sự vâng phục của đức tin. Phi-e-rơ, cũng được cảm động bởi chính Thần Lẽ Thật đó, nói với chúng ta về sự thừa kế được bảo đảm cho chúng ta bởi sự sống lại của Ðấng Christ, một sự thừa kế không thể mất đi, không có một chút ô uế, không hề phai tàn, đã được sắm sẵn cho chúng ta trên thiên đàng. Không có gì mâu thuẫn ở đây cả, vì một sứ đồ nói về những ích lợi hiện tại và người kia thì nói về những món quà sẽ được ban tặng khi Ðấng Christ tái lâm. Và cả hai đều vượt quá mọi lời lẽ của con người, để ca ngợi về quá nhiều những phước lành mà chúng ta đã nhận lãnh rồi. Có lẽ chúng ta sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta tưởng tượng chính mình như một con cá trong một dòng sông rộng lớn, lập tức được hưởng trọn dòng chảy của con sông, nhớ lại với lòng biết ơn dòng nước đã chảy qua và chờ đợi trong sự biết trước về sự đầy trọn đang tuôn chảy trên chúng ta từ nơi thượng nguồn. Ðây là một hình ảnh thi vị bất toàn; nhưng điều này là thật, chúng ta, những người tin cậy nơi Ðấng Christ, được sinh ra trong ân điển hiện tại, và khi chúng ta nhớ lại, với lòng tạ ơn Chúa về sự nhân từ mà chúng ta đã tận hưởng trong những ngày đã qua và với niềm hy vọng phước hạnh, chúng ta trông đợi ân điển và sự nhân từ đang chờ chúng ta ở phía trước. Bernard ở Clairvaux từng nói về một loại "hương thơm được hình thành từ những phước hạnh của Ðức Chúa Trời được (con cái Chúa) ghi nhớ."

Tong hop

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Tong hop

Ba Chiều Kích Của Sự Ngợi Khen

Tác giả: A. W. Tozer

Nguồn: tinlanhhyvong.com

Ðấng Christ đối với dân sự Ngài là rất tuyệt vời và Ngài mang đến cho họ những lợi ích phong phú mà tâm trí không thể hiểu nổi, cả đến tấm lòng cũng không biết phải dùng từ gì để diễn tả.

Những kho báu này vừa có ở hiện tại, và cũng sẽ có ở tương lai. Thần Lẽ Thật, qua Phao-lô, bảo đảm với chúng ta rằng Ðức Chúa Trời đã chúc phước cho chúng ta với mọi thứ phước thiêng liêng trong Ðấng Christ. Những phước hạnh đó là của chúng ta, là con của sự sáng tạo mới và luôn sẵn có cho chúng ta ngay bây giờ bởi sự vâng phục của đức tin.Phi-e-rơ, cũng được cảm động bởi chính Thần Lẽ Thật đó, nói với chúng ta về sự thừa kế được bảo đảm cho chúng ta bởi sự sống lại của Ðấng Christ, một sự thừa kế không thể mất đi, không có một chút ô uế, không hề phai tàn, đã được sắm sẵn cho chúng ta trên thiên đàng.

Không có gì mâu thuẫn ở đây cả, vì một sứ đồ nói về những ích lợi hiện tại và người kia thì nói về những món quà sẽ được ban tặng khi Ðấng Christ tái lâm. Và cả hai đều vượt quá mọi lời lẽ của con người, để ca ngợi về quá nhiều những phước lành mà chúng ta đã nhận lãnh rồi.

Có lẽ chúng ta sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta tưởng tượng chính mình như một con cá trong một dòng sông rộng lớn, lập tức được hưởng trọn dòng chảy của con sông, nhớ lại với lòng biết ơn dòng nước đã chảy qua và chờ đợi trong sự biết trước về sự đầy trọn đang tuôn chảy trên chúng ta từ nơi thượng nguồn. Ðây là một hình ảnh thi vị bất toàn; nhưng điều này là thật, chúng ta, những người tin cậy nơi Ðấng Christ, được sinh ra trong ân điển hiện tại, và khi chúng ta nhớ lại, với lòng tạ ơn Chúa về sự nhân từ mà chúng ta đã tận hưởng trong những ngày đã qua và với niềm hy vọng phước hạnh, chúng ta trông đợi ân điển và sự nhân từ đang chờ chúng ta ở phía trước.

Bernard ở Clairvaux từng nói về một loại "hương thơm được hình thành từ những phước hạnh của Ðức Chúa Trời được (con cái Chúa) ghi nhớ."

Page 2: Tong hop

Thức hương đó rất hiếm. Mỗi người theo Chúa phải toát ra mùi hương đó; không phải những gì chúng ta đã nhận lãnh từ lòng tốt của Ðức Chúa Trời nhiều hơn điều mà chúng ta có thể tưởng tượng, trước khi chúng ta biết Ngài và tự chúng ta đã khám phá ra Ngài giàu có và rộng rãi như thế nào, hay sao?Chúng ta đã nhận lãnh sự đầy trọn của ân điển Ngài vì ân điển là điều mà không ai chối từ; nhưng hương thơm không đến từ sự nhận ơn; nó đến từ sự biết ơn, một điều hoàn toàn khác biệt. Mười người phung được chữa lành; đó là ơn phước. Một người trở lại tạ ơn Ðấng ban phước cho mình; đó là thức hương. Những ơn phước bị lãng quên, giống như những con ruồi chết, có thể khiến cho thứ dầu xức bốc mùi khủng khiếp.

Những ơn phước được ghi nhớ, sự tạ ơn vì những đặc ân hiện tại và sự ngợi khen vì ân điển đã được ứng hứa hòa trộn vào nhau như nhũ hương, một dược để tạo nên một hương thơm quý hiếm cho những bộ trang phục của các thánh nhân. Với thức hương này, Ða-vít cũng đã thoa lên cây đàn của mình và những bài thánh ca của thời đại đó đã trở nên ngọt ngào với nó.

Có lẽ cần phải có một đức tin thuần khiết hơn để ngợi khen Ðức Chúa Trời vì những ơn phước chúng ta nhận lãnh được mà chúng ta không nhận biết hơn là những cái mà chúng ta đã hưởng hay hiện đang được vui hưởng. Vậy mà nhiều người đã lên đến đỉnh cao chan hòa ánh sáng đó, như Anna Waring đã viết,

Vinh hiển thuộc về Ngài vì tất cả mọi ân điểnmà con chưa từng nếm trải...

Khi chúng ta bước vào sự hiểu biết cá nhân sâu nhiệm hơn với Ðức Chúa Trời Ba Ngôi, tôi nghĩ trọng tâm của đời sống chúng ta sẽ chuyển từ cái quá khứ và hiện tại sang cái tương lai. Lần hồi chúng ta sẽ trở thành những người con của một hy vọng sống và là con của một tương lai chắc chắn. Lòng chúng ta sẽ trân trọng những kỷ niệm của quá khứ và đời sống chúng ta sẽ ngọt ngào với lòng biết ơn Ðức Chúa Trời vì con đường vững chắc mà chúng ta đi tới; nhưng đôi mắt chúng ta sẽ ngày càng hướng về hy vọng phước hạnh của ngày mai.Phần lớn Kinh Thánh chứa đựng những lời tiên tri. Không có điều gì mà Ðức Chúa Trời đã làm cho chúng ta lại có thể so sánh với tất cả những gì được viết trong lời tiên tri chắc chắn đó. Và không có gì Ngài đã làm hay

Page 3: Tong hop

có thể còn làm cho chúng ta có thể so sánh với việc Ngài là gì và sẽ là gì đối với chúng ta. Có lẽ một soạn giả thánh ca đã nghĩ đến điều này trong tâm trí mình khi cô hát:

Con có một di sản của niềm vuiLà cái mà con không cần phải thấy;Bàn tay đã tuôn huyết để biến nó thành của conÐang gìn giữ nó cho con.

Có thể nào "di sản của niềm vui" đó lại kém hơn Khải Tượng Hạnh Phúc sao?

Bài Báo Cáo Của Người Quan Sát

Nếu có một người quan sát hay một thánh nhân nào đó từ thế giới chói sáng bên trên đến giữa vòng chúng ta trong một khoảng thời gian nào đó với khả năng chẩn đoán những bệnh tật thuộc linh của các thành viên trong Hội Thánh, có một ghi nhận mà tôi chắc chắn là sẽ xuất hiện trên phần lớn những bản báo cáo của ông: Dấu hiệu rõ ràng của chứng mệt mỏi thuộc linh kinh niên; mức độ nhiệt thành đạo đức cực kỳ thấp.

Ðiều khiến cho tình trạng này đặc biệt có ý nghĩa là những người Mỹ cố nhiên không phải là những người không nhiệt tình. Thực ra họ nổi tiếng khắp thế giới vì họ là những người sống trái ngược với điều đó. Các du khách đến những bờ biển của chúng ta từ nhiều quốc gia khác nhau mà chẳng bao giờ ngạc nhiên trước sức mạnh và nghị lực chúng ta dùng để tấn công những vấn đề của mình. Cuộc sống chúng ta giống như cơn sốt, và dù chúng ta đang xây dựng nhà cao tầng, mở đường cao tốc, tổ chức các cuộc thi điền kinh, kỷ niệm những ngày đặc biệt hay chào mừng những người anh hùng trở về, chúng ta luôn luôn làm nó với vẻ hoa mỹ vốn đã được phóng đại lên. Các tòa nhà của chúng ta sẽ cao hơn, đường cao tốc của chúng ta sẽ rộng hơn, các cuộc thi điền kinh sẽ nhiều màu sắc hơn, những buổi lễ kỷ niệm sẽ được trau chuốt hơn, tốn kém hơn bất cứ nơi nào khác trên trái đất. Chúng ta đi bộ nhanh hơn, lái xe nhanh hơn, kiếm và tiêu xài tiền nhiều hơn, rồi huyết áp cũng cao hơn bất kỳ dân tộc nào khác trên thế giới.

Duy chỉ trong một lĩnh vực ích lợi cho con người là chúng ta chậm chạp và thờ ơ: Ðó là lĩnh vực tôn giáo của mỗi cá nhân. Ở đó, vì một vài lý

Page 4: Tong hop

do lạ lùng, lòng nhiệt tình của chúng ta lùi lại đằng sau. Các thành viên trong Hội Thánh thường xuyên đối diện với vấn đề mối tương giao cá nhân giữa họ với Ðức Chúa Trời trong sự thờ ơ, không thật tâm, chẳng chút nhiệt tình; một phương cách hoàn toàn khác hẳn với tính khí chung của họ và hoàn toàn mâu thuẫn với tầm quan trọng của vấn đề.Quả thật là có khá nhiều hoạt động tôn giáo giữa vòng chúng ta. Các cuộc thi đấu bóng rổ liên Hội Thánh, những buổi tiệc tôn giáo hấp dẫn tiếp sau buổi cầu nguyện, những chuyến dã ngoại cuối tuần có phần đố Kinh Thánh quanh đống lửa, những cuộc picnic do ban Trường Chúa Nhật tổ chức, gây quỹ để làm một công việc nào đó và những bữa điểm tâm mục vụ... đang vây quanh chúng ta với một con số không thể tin được, và chúng được thực hiện với sự thích thú đặc trưng kiểu Mỹ. Chính ngay khi chúng ta bước vào vùng Thánh địa của tôn giáo cá nhân trong lòng, thình lình chúng ta mất hết mọi nhiệt huyết.

Thế là chúng ta đã hiểu tình trạng lạ kỳ và trái ngược này rồi: Một thế giới ồn ào, hoạt động tôn giáo hấp dẫn được tiến hành mà không có chút năng lực đạo đức hay sự hăng hái thuộc linh nào. Trong một năm đi chu du khắp các Hội Thánh, một người hiếm khi tìm được tín hữu nào có huyết áp bình thường và thân nhiệt đúng tiêu chuẩn. Sự tươi trẻ và phấn khích của linh hồn trong tình yêu thay vì phải được tìm kiếm trong Thánh Kinh Tân Ước hay trong tiểu sử của các thánh nhân; thì chúng ta lại tìm kiếm chúng trong sự tự phụ giữa vòng những người tự nhận mình đi theo Ðấng Christ trong thời đại của chúng ta.

Bây giờ nếu có bất cứ thực tại nào trong toàn bộ kinh nghiệm của con người mà bởi bản chất tự nhiên của nó xứng đáng để thách thức tâm trí, mê hoặc tấm lòng và đưa cả đời sống đến điểm nóng cháy, thì đó là thực tại xoay quanh Thân Vị của Ðấng Christ. Nếu Ngài thật là Ðấng và là Ðiều mà sứ điệp Cơ Ðốc tuyên bố, thì tư tưởng về Ngài chắc chắn là tư tưởng thú vị nhất, hào hứng nhất, để thâm nhập vào tâm trí con người. Thật không khó để hiểu vì sao Phao-lô lại có thể liên kết rượu nho với Thánh Linh trong một câu Kinh Thánh: "Ðừng say rượu, vì rượu xui cho luông tuồng; nhưng phải đầy dẫy Ðức Thánh Linh" (Ê-phê-sô 5:18). Khi Thánh Linh bày tỏ Ðấng Christ cho tầm nhìn bên trong của chúng ta, điều đó tạo nên một tác dụng làm cho linh hồn chúng ta phấn chấn, cũng như tác dụng của rượu trên thân thể. Người đầy dẫy Thánh Linh có thể sống trong một trạng thái hăng hái thuộc linh đến mức độ của một cơn say nhẹ, thuần khiết.

Page 5: Tong hop

Ðức Chúa Trời ngự trị trong một trạng thái mà lòng nhiệt thành không bao giờ dứt. Ngài vui mừng với tất cả những điều tốt và lo lắng về mọi điều xấu. Ngài luôn theo đuổi những công việc của mình với cả tấm lòng sốt sắng thánh khiết. Không có gì lạ khi Thánh Linh đến trong Lễ Ngũ Tuần như tiếng gió thổi ào ào và đặt lưỡi bằng lửa lên đầu mỗi người. Làm như vậy, Ngài hành động giống như một trong Ba Ngôi của Ðức Chúa Trời Hạnh Phước.Trong những điều khác đã xảy ra vào Lễ Ngũ Tuần, có một điều mà người quan sát vô tình nhất cũng Trong những điều khác đã xảy ra vào Lễ Ngũ Tuần, có một điều mà người quan sát vô tình nhất cũng bên trong không tàn lụi. Họ hăng hái đến độ hoàn toàn từ bỏ mọi sự.

Thi hào Dante, trong chuyến hành trình tưởng tượng của mình xuống địa ngục, tình cờ gặp một nhóm linh hồn hư mất đang liên tục thở dài và rên rỉ khi họ di chuyển vu vơ trong bầu không khí đầy bụi bặm. Virgil, người dẫn đường của ông, giải thích rằng họ là "những người độc ác", những người "gần như không có linh hồn", những người mà khi họ còn sống trên đất đã không có đủ năng lực đạo đức để hoặc làm người tốt hoặc làm người xấu. Họ chẳng kiếm được một lời khen cũng như một lời khiển trách nào. Cùng chia sẻ một hình phạt với họ là những thiên thần cũng đã không lựa chọn đứng bên nào, hoặc Ðức Chúa Trời hoặc Sa-tan. Sự trừng phạt của tất cả những người yếu đuối và hay lưỡng lự sẽ treo lơ lửng mãi như thế giữa một địa ngục coi rẻ họ và một thiên đàng vốn sẽ không bao giờ chấp nhận sự hiện diện dơ bẩn của họ. Ngay cả tên họ cũng chẳng một lần được nhắc đến trên thiên đàng, ở trần gian, hoặc dưới địa ngục. "Hãy xem kìa," người dẫn đường nói, "và đi qua."

Có phải Dante đang nói theo cách của mình điều mà Chúa chúng ta đã phán từ lâu với Hội Thánh Lao-đi-xê: "Ước gì ngươi lạnh hoặc nóng thì hay! Vậy, vì ngươi hâm hẩm, không nóng cũng không lạnh, nên ta sẽ nhả ngươi ra khỏi miệng ta"?Mức độ lòng nhiệt thành đạo đức thấp kém giữa vòng chúng ta có thể có một ý nghĩa còn sâu xa hơn những gì mà chúng ta đang muốn tin.

Bám Lấy Đức Chúa Trời

“Linh hồn tôi đeo theo Chúa; tay hữu Chúa nâng đỡ tôi”Thi thiên 63:8

Page 6: Tong hop

Thần học Cơ Đốc dạy tín lý về sự nhân từ có trước, có nghĩa là trước khi con người có thể tìm thấy Đức Chúa Trời, chính mình Ngài đã tìm kiếm họ. Trước khi một con người tội lỗi có được một suy nghĩ đúng đắn về Đức Chúa Trời, công việc của sự khai sáng phải được thực hiện trong lòng người đó. Dẫu nó chưa hoàn tất, thì nó cũng là một công việc thật sự, và là nguyên nhân sâu xa của sự khao khát, tìm kiếm và cầu xin đến sau.

Chúng ta tìm kiếm Đức Chúa Trời vì, và chỉ vì, trước đó Ngài đã đặt trong lòng chúng ta một sự thúc giục mạnh mẽ đưa chúng ta đến chỗ phải tìm kiếm Ngài. Chúa phán, “Ví bằng Cha, là Đấng sai ta, không kéo đến, thì chẳng có ai được đến cùng ta” (Giăng 6:44), và cũng chính bởi sự lôi kéo từ trước này, Đức Chúa Trời đã cất đi khỏi chúng ta mọi dấu tích về món nợ chúng ta đang mang để Ngài có thể đến với chính chúng ta. Sự thôi thúc tìm cầu Đức Chúa Trời có nguồn gốc từ chính Đức Chúa Trời, nhưng phần việc còn lại của sự thúc giục đó chính là: Chúng ta phải đeo theo Ngài. Trọn thời gian chúng ta tìm kiếm Ngài, chúng ta đã ở trong tay Ngài rồi: “Tay hữu Chúa nâng đỡ tôi.”

Giữa sự “nâng đỡ” thánh và sự “đeo đuổi” của con người không có gì mâu thuẫn nhau cả. Tất cả đều thuộc về Đức Chúa Trời, cũng như Von Hugel đã dạy, Đức Chúa Trời luôn luôn ở phía trước. Tuy nhiên trong thực tế (tức là khi công việc Đức Chúa Trời đã làm trong quá khứ gặp sự đáp ứng của con người trong hiện tại), con người phải tìm cầu Đức Chúa Trời. Về phần chúng ta, chúng ta phải có một sự hồi đáp tích cực nếu muốn sự lôi kéo bí mật này của Đức Chúa Trời đưa chúng ta đến những kinh nghiệm cá nhân với Ngài. Những lời lẽ ấm áp của cảm nhận riêng tư được thể hiện trong Thi thiên 42:1, 2: “Đức Chúa Trời ôi! Linh hồn tôi mơ ước Chúa, như con nai cái thèm khát khe nước, linh hồn tôi khát khao Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời hằng sống; tôi sẽ đến ra mắt Đức Chúa Trời chừng nào?” Đây là lời kêu gọi sâu thẳm trong đáy lòng, và một tấm lòng khao khát, khao khát thật sự sẽ thấu hiểu nó.

Giáo điều cứu rỗi bởi đức tin, một chân lý Thánh Kinh, một sự giải thoát khỏi luật pháp và sự tự nỗ lực vô bổ, trong thời đại của chúng ta đã bị nhiều người diễn dịch theo cách chia cắt con người khỏi sự nhận biết Đức Chúa Trời. Tiến trình cải đạo đã được thực hiện cách máy móc và không có chút sinh khí nào cả. Ngày nay đức tin có thể bị thử thách mà không có một tác động nào đến đời sống đạo đức, không một chút

Page 7: Tong hop

tác động nào đến cái tôi A-đam. Đấng Christ có thể được “tiếp nhận” mà không có bất cứ một tình yêu đặc biệt nào dành riêng cho Ngài trong tâm hồn của người tiếp nhận. Người đó được “cứu”, nhưng họ không có một chút khao khát nào nơi Đức Chúa Trời cả. Trên thực tế, người đó được dạy phải thỏa lòng và thỏa lòng với những hiểu biết ít ỏi về Đức Chúa Trời.

Các khoa học gia đương đại đã đánh mất Đức Chúa Trời ngay trong chính những kỳ quan mà Ngài tạo dựng nên; Cơ Đốc nhân chúng ta đang thực sự gặp nguy hiểm khi đánh mất Đức Chúa Trời ngay trong chính những điều kỳ diệu của Lời Ngài. Hầu như chúng ta đã quên rằng Đức Chúa Trời là Thần (Đấng tạo dựng nên con người theo hình Ngài), và vì thế, Ngài có thể được đam mê, theo đuổi, tìm kiếm như bất kỳ một con người nào có thể được như vậy. Bằng nhân cách chúng ta mới có thể tìm hiểu nhân cách của người khác được, nhưng hiểu biết hoàn toàn cá tính, nhân cách một con người chỉ sau một lần gặp mặt là điều phi thực tế. Chỉ sau một quá trình tìm hiểu lâu dài trong tình yêu và mối quan hệ thân thiết thì những khả năng hiểu biết nhau mới có được.

Tất cả các mối quan hệ xã hội giữa con loài người với nhau là một lời hồi đáp giữa cá tính người này với cá tính người khác, từ những cái xa lạ nhất đến sự thông công thân mật nhất mà linh hồn con người có thể đạt được. Cho đến tận bây giờ, cũng như chính bản chất thật của nó, Cơ Đốc giáo về cốt lõi là sự hồi đáp của những cá tính thọ tạo với Cá Tính Sáng Tạo, Đức Chúa Trời. “Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến” (Giăng 17:3).

Đức Chúa Trời là một Thân Vị, và sâu thẳm trong bản chất phi thường của Ngài, Ngài suy nghĩ, mong muốn, thích thú, cảm nhận, yêu thương, ao ước, và đau khổ giống như bất cứ một con người nào. Để cho chúng ta được biết Ngài, Ngài phải chịu lụy dưới một cá tính của chúng ta (Đức Chúa Jêsus đã đến trần gian trong thân xác và cá tính của một con người). Ngài tương giao với chúng ta qua tâm trí, ý chí và cảm xúc của chúng ta. Sự trao đổi hỗ tương của một tình yêu bất diệt, không hề dời đổi cùng những tư tưởng giữa Đức Chúa Trời và linh hồn những con người đã được cứu chính là trái tim đang đập cách sung mãn của tín ngưỡng Tân Ước.Sự tương giao giữa Đức Chúa Trời và linh hồn con người được chúng ta cảm nhận một cách riêng tư có ý thức. Nó mang tính cá nhân. Vì thế

Page 8: Tong hop

nó không đến từ thể xác của những người tin nhưng được biết bởi các cá thể, rồi đến thân thể của các cá thể tạo ra nó. Nó hoàn toàn có sự tham gia của ý thức con người: Nó không nằm dưới ngưỡng ý thức mà không có sự nhận biết của linh hồn (giống như lễ rửa tội cho trẻ sơ sinh); nhưng nó đến trong ý thức cho nên con người có thể nhận biết nó cũng giống như nhận thức mọi việc khác.

Bạn và tôi rất nhỏ bé (tội lỗi chúng ta đã giới hạn chúng ta) nhưng Đức Chúa Trời là vĩ đại vô cùng. Được tạo dựng theo hình Ngài, do đó ngay bên trong chúng ta đã có khả năng nhìn biết Ngài. Trong tội lỗi, chúng ta thiếu đi sức mạnh đó. Giây phút Thánh Linh làm chúng ta sống lại qua sự tái sanh, trọn vẹn bản thể chúng ta cảm nhận được mối quan hệ gần gũi với Đức Chúa Trời và đưa chúng ta đến sự nhận thức trong niềm vui và phước hạnh. Đó chính là sự tái sanh thiên thượng, mà không có nó, chúng ta sẽ không thể nhìn thấy nước Đức Chúa Trời. Nó không phải là điểm kết thúc, mà chỉ là điểm khởi đầu, vì bấy giờ sẽ bắt đầu thời điểm cho sự khao khát vinh hiển, sự khám phá hạnh phúc của tấm lòng trong sự giàu có vô song của Thượng Đế. Đó chính là nơi chúng ta bắt đầu, và tôi cũng nói rằng, đó chính là nơi chúng ta đã dừng lại, chưa một ai khám phá ra hết, vì sự sâu nhiệm và huyền diệu của Đức Chúa Trời Ba Ngôi không hề có một giới hạn, hay một điểm kết thúc nào cả.

Ngài là đại dương không bờ bến, ai có thể đo lường?Sự vĩnh cửu thuộc về Ngài, Thượng Đế của chúng con.

Đã được gặp Chúa và tiếp tục tìm cầu Ngài là một nghịch lý của linh hồn trong tình yêu, sự thật đó bị khinh rẻ bởi những người cuồng tín quá dễ thỏa mãn, nhưng lại được chứng thực bởi kinh nghiệm trong hạnh phước mà những đứa con với tấm lòng khao khát nóng cháy đã trải qua. Thánh Bernard đã mô tả nghịch lý này trong một bài thơ tứ tuyệt mà chắc chắn bất kỳ linh hồn nào khao khát cũng sẽ thấu hiểu ngay:

Chúng con nếm trải Ngài! Ôi! Ngài là Bánh Hằng Sống,

Và khao khát được dự tiệc với Ngài dẫu rằng:

Chúng con uống nước từ nơi Ngài, Nguồn Nước Sống

Song linh hồn chúng con vẫn khao khát, khao khát, khao khát Ngài

Page 9: Tong hop

đổ đầy luôn luôn.

Tìm hiểu cặn kẽ những thánh nhân trong quá khứ, bạn sẽ sớm cảm nhận sức nóng của sự khao khát Đức Chúa Trời nơi họ. Họ than khóc với Ngài, họ cầu nguyện, tranh đấu gay gắt và tìm kiếm Ngài ngày và đêm, tháng này sang năm nọ; và khi họ đã gặp Ngài, đó là những giây phút ngọt ngào nhất của cả một quá trình tìm kiếm lâu dài, trung kiên và khổ hạnh. Môi-se đã dùng một sự kiện, đó là ông biết Đức Chúa Trời qua “sự tranh luận” để biết Ngài nhiều hơn. “Vậy bây giờ, nếu tôi được ơn trước mặt Chúa, xin cho tôi biết đường của Chúa, để cho tôi biết Chúa và được ơn trước mặt Ngài”; và từ chỗ đó, ông tiến đến một đề nghị táo bạo, “Tôi xin Ngài cho tôi xem sự vinh hiển của Ngài!” Đức Chúa Trời rất hài lòng trước sự nóng cháy, khao khát này; ngày hôm sau Ngài đã gọi Môi-se lên núi, và ở đó, Đức Chúa Trời đã đáp lại lời cầu xin của ông, khi sự vinh hiển của Đức Chúa Trời đi qua trước mắt ông.Đời sống của Đa-vít là một cơn lũ của sự khao khát thuộc linh; những bài thánh thi của ông chứa đựng tiếng khóc nức nở của một người tìm kiếm và tiếng thét vui mừng của một người đã tìm gặp điều mình mong muốn, khao khát. Phao-lô đã thừa nhận động cơ chính cho đời sống của ông là một sự khao khát Đấng Christ đến độ nóng cháy, hực lên như lửa thiêng. “Cho đến nỗi tôi được biết Ngài” chính là mục đích của lòng ông, và cũng vì điều này ông đã tận hiến tất cả mọi thứ. “Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Jêsus Christ là quý hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ” (Phi-líp 3:8).

Sự ngợi khen rất ngọt ngào, đi đôi với sự tìm kiếm Đức Chúa Trời, Đấng mà khi con người tìm kiếm trong sự ngợi khen, họ biết rằng họ đã gặp Ngài. “Tôi đã thấy dấu Ngài, và tôi sẽ tìm cầu Ngài”, những lời đó đã được bậc cha ông chúng ta thốt lên cách đây một thế hệ, nhưng bài hát đó không còn được hát trong các Hội thánh lớn nữa. Thật là một bi kịch khi chúng ta, trong thời điểm tăm tối này, đã để cho các giáo viên của chúng ta thực hiện sự tìm kiếm thay cho mình. Mọi thứ được thực hiện xoay quanh một hành động ban đầu, “tiếp nhận” Đấng Christ (tình cờ là một khái niệm không tồn tại trong Kinh Thánh) và sau đó chúng ta không nài xin thêm bất cứ khải tượng nào từ nơi Đức Chúa Trời cho chính linh hồn mình. Chúng ta đã mắc bẫy trong cái vòng luẩn quẩn của lôgic giả mạo rằng chúng ta đã gặp Chúa và không cần phải tìm kiếm Ngài nữa. Điều này bày ra trước mắt chúng ta như một lời cuối cùng cho

Page 10: Tong hop

tính chính thống, và người ta đã cho là đúng khi nói rằng không một Cơ Đốc nhân nào được sự dạy dỗ của Kinh Thánh lại tin nơi những điều khác hơn. Vì thế, mọi chứng cớ về sự thờ phượng, tìm kiếm, ca hát trong Hội thánh về chủ đề này đã bị gạt sang một bên. Thần học tấm lòng dựa trên kinh nghiệm của một đạo binh lớn những vị thánh nổi tiếng là sự không chấp nhận cách giải thích Kinh Thánh thiển cận và tự mãn vốn đã có vẻ rất lạ lùng đối với Augustine, Rutherford hay Brainerd.

Ngay trong cơn giá lạnh này vẫn có một số người, tôi rất vui khi được nói đến, không thỏa lòng với cái lôgic nông cạn đó. Họ chấp nhận sức mạnh của sự tranh luận, và rồi quay đi tìm kiếm một nơi yên tĩnh, riêng tư mà cầu nguyện trong nước mắt, “Chúa ôi! Xin bày tỏ sự vinh hiển của Ngài cho con.” Họ muốn được nếm, muốn được rờ chạm đến bằng tấm lòng, muốn được thấy bằng con mắt thuộc linh điều diệu kỳ nơi Đức Chúa Trời.

Tôi cố ý thúc đẩy sự khao khát Đức Chúa Trời phi thường này. Chính vì thiếu nó mà chúng ta bị đưa đến tình trạng thuộc linh thấp kém trong hiện tại. Tính cứng nhắc, vụng về trong đời sống thuộc linh của chúng ta là hậu quả của sự thiếu sự khao khát thánh. Tính tự mãn là một kẻ thù đáng sợ của mọi sự tăng trưởng thuộc linh. Cần phải có một khao khát mãnh liệt, nếu không thì sẽ chẳng có sự hiện diện của Đấng Christ trong dân sự Ngài. Ngài đang chờ đợi chúng ta khao khát, khao khát Ngài ngày và đêm, khao khát trong từng khoảnh khắc của cuộc sống. Điều đáng buồn là đối với quá nhiều người trong số chúng ta, Chúa đã chờ đợi, chờ đợi từ lâu lắm rồi, thật lâu lắm rồi, song không có kết quả gì.

Mỗi thời đại đều có những đặc điểm riêng của nó. Ngay hiện tại, chúng ta đang sống trong thời đại của sự phức tạp tôn giáo. Tính đơn giản trong Đấng Christ lại hiếm khi được tìm thấy trong vòng chúng ta. Thay vào đó là các chương trình, các phương thức, các tổ chức, và cả một thế giới các hoạt động đầy căng thẳng chiếm hết mọi thời gian và sự tập trung, song không bao giờ có thể thỏa mãn được sự khao khát của lòng. Sự nông cạn của kinh nghiệm thuộc linh, sự rỗng tuếch trong sự thờ phượng của chúng ta và sự bắt chước thế giới chung quanh cách mù quáng đã đánh dấu các phương cách “bóng lộn” mà chúng ta sử dụng, tất cả đều cho thấy rằng: chúng ta, trong thời đại này, chỉ biết Đức Chúa Trời một cách “nửa vời”, và hiếm khi thấu triệt sự bình an thật của Ngài.

Page 11: Tong hop

Nếu chúng ta muốn tìm thấy Đức Chúa Trời giữa vòng vây của những tôn giáo khác, trước hết, chúng ta phải quyết định, phải khao khát tìm thấy Ngài, rồi sau đó thực hiện theo một phương cách đơn giản. Lúc nào cũng vậy, Đức Chúa Trời bày tỏ chính mình Ngài cho những “người thơ ngây” và che giấu chính mình Ngài trước những con người thông thái. Chúng ta cần phải đơn giản hóa bước tiến đến gần Đức Chúa Trời. Chúng ta phải lược bỏ hết những yếu tố chúng ta cho là cần thiết (và rồi sẽ thấy rằng chỉ có một số ít các yếu tố là thật sự cần thiết). Chúng ta phải loại bỏ mọi nỗ lực để được cảm động, và hãy đến với sự vô tư của con trẻ. Nếu chúng ta làm như vậy, chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ sớm đáp lời.

Khi tôn giáo đã chấm dứt lời cuối cùng của mình, chúng ta không cần gì khác hơn là chính Đức Chúa Trời. Thói quen xấu trong việc tìm kiếm Đức Chúa Trời và tìm kiếm Ngài cách hiệu quả đã ngăn chúng ta tìm thấy Ngài. Từ “và” đó chứa đựng nỗi thống khổ của chúng ta. Nếu chúng ta bỏ chữ và đi, chúng ta sẽ sớm gặp mặt Đức Chúa Trời, và trong Ngài, chúng ta sẽ thấy cái mà chúng ta đã mất cả một đời để khao khát và tìm kiếm.

Chúng ta không phải lo sợ rằng khi tìm kiếm Đức Chúa Trời, chúng ta phải thu hẹp đời sống mình và giới hạn những cảm xúc của tấm lòng đang rộng mở của chúng ta. Trái lại, chúng ta có thể tiếp nhận Chúa làm tất cả cho đời sống mình, để tập trung thờ phượng, hiến dâng nhiều điều cho một Đấng mà thôi.

Tác giả của một tác phẩm kinh điển, Áng mây vô tri (The Cloud of Unknowing), đã dạy chúng ta cách làm việc này. “Hãy dâng lòng bạn lên cho Đức Chúa Trời với một tình yêu sôi nổi, khiêm cung; và hướng về Ngài, không phải lợi ích từ Ngài. Và đừng miễn cưỡng suy nghĩ, hãy hướng lòng về nơi Đức Chúa Trời. Đừng làm theo trí khôn, hay lý trí của bạn, hãy để chính Ngài vận hành. Đây là công việc của linh hồn, một việc làm Đức Chúa Trời hài lòng nhất.”

Một lần nữa, ông đề nghị rằng khi cầu nguyện, chúng ta phải bỏ qua mọi thứ, ngay cả thần học của mình. “Vì như vậy đã đủ rồi, một mục đích hướng về Đức Chúa Trời, không vì bất kỳ lý do nào khác, chỉ vì Ngài mà thôi.” Bên dưới tất cả những suy tưởng của tác giả này là nền tảng rộng lớn của chân lý Tân Ước, vì ông nói “chính Ngài” tức là “Đức Chúa Trời đã tạo dựng chúng ta, mua chuộc chúng ta, và cũng là Đấng đã kêu gọi

Page 12: Tong hop

chúng ta.” Tựu trung lại, những điều ông viết hướng về sự đơn giản: Nếu chúng ta có một tôn giáo “nằm trọn và gói gọn trong một từ, phù hợp với công việc của Đức Thánh Linh và chúng ta nên nắm bắt, từ đó chính là ‘ĐỨC CHÚA TRỜI’ hoặc là ‘TÌNH YÊU THƯƠNG.’”

Khi Chúa phân chia xứ Ca-na-an cho các chi phái Y-sơ-ra-ên, chi phái Lê-vi không được nhận phần đất nào cả. Đức Chúa Trời chỉ phán với họ một điều đơn giản: “Ta là phần của ngươi, và là cơ nghiệp của ngươi”, và chính bởi những lời này, chi phái Lê-vi trở nên giàu có hơn mọi chi phái anh em, giàu có hơn mọi ông vua và các tiểu vương đã từng sống trên đất. Và có một nguyên tắc thuộc linh ở đây, một nguyên tắc đúng với mọi cá nhân là con cái cũng như là tôi tớ Đức Chúa Trời Chí Cao.

Một người coi Đức Chúa Trời là kho báu của mình, người đó sẽ có tất cả trong Ngài. Nhiều kho báu thông thường khác sẽ bị người đó từ chối, hay nếu người đó được có chúng (các kho báu - nghĩa đen), niềm vui đem đến từ những kho báu đó cũng chẳng là gì cả; chúng không cần thiết, không tồn tại trong niềm hạnh phúc của người ấy. Hay nếu người đó phải mất chúng đi, từng cái một (giống ông Gióp), người đó sẽ không cảm thấy mất mát gì cả, vì đã có Cội Nguồn của mọi sự trên đời, một Đấng của mọi sự thỏa lòng, mọi niềm vui, mọi phước hạnh. Cho dù có mất mát điều gì đi nữa, đối với người đó, cũng như là chẳng mất gì cả, vì bấy giờ người ấy đã có tất cả trong một Đấng, Đấng đó là Nguồn Sống tràn tuôn cho đến muôn đời, hôm qua, hôm nay, và mãi mãi.

Lạy Chúa, con đã nếm trải sự ngọt ngào nơi Ngài, nó vừa làm con thỏa lòng, vừa làm con khao khát hơn nữa. Con biết mình cần nhiều ân điển Ngài hơn nữa. Con thật xấu hổ vì cớ thiếu sự khao khát. Ôi Chúa, Đức Chúa Trời Ba Ngôi, con muốn có Ngài; con muốn được ngập tràn sự khao khát; con khao khát được Ngài khiến cho lòng con khao khát hơn nữa. Hãy bày tỏ sự vinh hiển của Ngài cho con, con xin Ngài, để con được thật sự biết Ngài. Bởi sự nhân từ, hãy bắt đầu công việc của tình yêu ngay trong lòng con. Hãy phán với hồn con, “Hãy đứng dậy, con yêu của ta, và đến đây.” Rồi hãy ban cho con ân điển để con đứng lên và bước theo Ngài mà ra khỏi nơi đất thấp đầy mù sương này, nơi mà con đã từng lang thang vô hướng từ lâu. Nhân danh Đức Chúa Giê-xu Christ, A-men.

Cái Nhục Dục Và Cái Thuộc Linh

Page 13: Tong hop

Thời kỳ chúng ta đang sống đây có thể được ghi vào lịch sử như là Kỷ Nguyên (của) Nhục Dục (Erotic Age). Tình yêu nhục dục đã được đề cao thành một thần tượng. Ngày nay, thần Ái Tình được nhiều người văn minh tôn thờ hơn là bất cứ vị thần nào khác. Đối với hàng triệu con người, cái nhục dục đã hoàn toàn thay thế cái thuộc linh.

Việc làm thế nào thế giới lâm vào tình trạng này là một điều không mấy khó để phát hiện. Các yếu tố góp phần chính là máy hát và ra-đi-ô, vốn có thể phát một bản tình ca khắp từ nơi này đến nơi khác trong vòng một khoảng thời gian có vài ngày; điện ảnh và truyền hình, vốn có thể khiến toàn bộ số dân (ở một nơi nào đó) dán mắt vào những phụ nữ hấp dẫn và những người đàn ông đa tình đang siết chặt vòng tay (điều này cũng diễn ra ngay trong phòng khách của những gia đình “Cơ Đốc”, ngay trước mắt những trẻ em ngây thơ!); giờ làm việc ngắn hơn và vô số vật dụng máy móc tạo nên thời gian rảnh rỗi nhiều hơn cho mọi người. Thêm vào những điều này là các chiến dịch quảng cáo rầm rộ mà trong đó tình dục là miếng mồi lấp ló thu hút khách hàng trên hầu hết các sản phẩm có thể tưởng tượng ra được; các nhà bình luận thoái hóa, những con người đã đổ dồn cuộc đời mình vào nhiệm vụ quảng bá những con người bất tài, ẻo lả, yếu đuối dưới bộ mặt của các thiên thần và cái luân lý của những người đàn bà nanh ác; những nhà văn viết tiểu thuyết vô lương tâm, những con người đã đạt được sự nổi tiếng và giàu lên từ một việc làm không chút vinh dự: nạo vét những thứ độc hại từ các cống rãnh trong lòng họ để làm nên một trò giải trí cho công chúng. Những điều này cho chúng ta thấy đôi điều về việc làm thế nào thần Ái Tình đã đạt được thắng lợi của mình trên thế giới văn minh.

Bây giờ, nếu vị thần này không động đến các Cơ Đốc nhân, tôi cũng sẽ để yên cho ông ta. Một ngày nào đó cái mớ hỗn độn, hôi hám, lỗ rỗ này sẽ chìm xuống bởi chính sức nặng của mình và trở thành nhiên liệu tuyệt vời cho địa ngục, một sự đền bù công bằng rất thích hợp, và chúng ta sẽ cảm thấy thương hại những con người bị mắc kẹt trong đó. Nước mắt và sự yên lặng có lẽ tốt hơn lời nói nếu mọi thứ khác hơn chính chúng một chút. Nhưng sự sùng bái thần Ái Tình đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến Hội Thánh. Tôn giáo thuần túy của Đấng Christ, vốn tuôn chảy giống như dòng sông pha lê từ trái tim của Đức Chúa Trời, đang bị ô nhiễm bởi những thứ nước ô uế chảy nhỏ giọt từ phía sau những bàn thờ của sự bội đạo xuất hiện trên từng đỉnh đồi và

Page 14: Tong hop

bên dưới những gốc cây xanh khắp từ New York đến Los Angeles.

Sự ảnh hưởng của tinh thần nhục dục được cảm thấy hầu như là ở khắp mọi nơi trong các quỹ đạo Tin Lành. Phần nhiều trong số những lời hát ở một số loại hội họp nào đó chứa đựng sự lãng mạn hơn là nói về Thánh Linh. Cả nhạc và lời đều được viết để kích thích tính dâm đãng. Đấng Christ được thu hút bởi sự gần gũi vốn cho thấy sự không biết Ngài là ai. Đó không phải là sự gần gũi có tính kính sợ của một vị thánh có lòng tấm tha thiết, nhưng là sự gần gũi trơ trẽn của tình yêu thể xác.

Các tiểu thuyết tôn giáo cũng lạm dụng tình dục để thu hút giới độc giả, lời bào chữa mong manh chính là: Nếu sự lãng mạn và tôn giáo được hòa quyện vào trong một câu chuyện, và một con người bình thường vốn không thích đọc các sách tôn giáo thuần túy sẽ đọc câu chuyện và vì thế Phúc Âm sẽ được phơi bày cho người đó. Bỏ sang một bên sự thật là hầu hết các nhà văn viết tiểu thuyết tôn giáo ngày nay đều là những tay nghiệp dư, hiếm khi có một người có thể viết một hàng đơn giản với lối văn thật đẹp, cả quan niệm đằng sau tiểu thuyết lãng mạn tôn giáo có khuyết điểm lớn. Sự thúc đẩy tính dâm đãng và sự cảm động ngọt ngào, sâu xa của Đức Thánh Linh hoàn toàn đối nghịch với nhau. Quan niệm cho rằng thần Ái Tình có thể trở thành một “trợ thủ” cho Đức Chúa Trời vinh hiển là một quan niệm sỉ nhục Ngài. Phim ảnh “Cơ Đốc” lôi kéo người xem bằng cách quay những cảnh yêu đương say đắm trong quảng cáo là một điều hoàn toàn sai trái đối với Tin Lành của Đấng Christ. Chỉ có những kẻ mù lòa thuộc linh mới chấp nhận nó.Cái mốt hiện tại của vẻ đẹp thể xác và những nhân cách sinh động trong sự thăng tiến (trong) tôn giáo là một biểu hiện khác nữa của sự ảnh hưởng của tinh thần lãng mạn trên Hội Thánh. Sự lãnh đạo nhịp nhàng, nụ cười giả tạo, và giọng nói quá vui vẻ tố cáo cái tôn giáo trần tục. Anh đã học hỏi kỹ xảo của mình qua màn ảnh truyền hình, nhưng chưa học đủ để thành công trong lĩnh vực chuyên nghiệp, vì thế anh mang cái sản phẩm vớ vẩn của mình vào nơi thánh và bán cho những Cơ Đốc nhân ốm đau và nhỏ bé, những người đang tìm kiếm một cái gì đó để hấp dẫn họ đang khi ở trong ranh giới của tôn giáo hiện tại.

Nếu lời tôi nói có vẻ nghiêm trọng quá, thì xin nhớ rằng nó không được viết để hướng về bất cứ cá nhân nào. Hướng về thế giới hư mất của con người, tôi cảm nhận một sự thương cảm sâu xa và một ao ước rằng mọi người sẽ trở lại ăn năn. Vì những Cơ Đốc nhân có sự lãnh đạo

Page 15: Tong hop

mạnh mẽ nhưng sai lầm đã đẩy Hội Thánh hiện tại từ chỗ bàn thờ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời sang những bàn thờ của sai lầm; tôi cảm nhận một tình yêu thật và sự thông cảm. Tôi muốn là người cuối cùng làm tổn thương họ, nhưng cũng là người đầu tiên tha thứ họ, nhớ lại những tội lỗi của tôi trong quá khứ và nhu cầu cần sự nhơn từ, cũng như sự yếu đuối của riêng tôi cùng với khuynh hướng tội lỗi và sai lầm tự nhiên. Con lừa của Ba-la-am đã được Đức Chúa Trời dùng để quở trách nhà tiên tri. Điều này cho thấy rằng Đức Chúa Trời chẳng cần sự hoàn hảo trong phương tiện Ngài dùng để cảnh cáo và khích lệ dân sự Ngài.

Khi bầy chiên của Đức Chúa Trời lâm vào mối hiểm họa, người chăn không được nhìn vào các ngôi sao và suy nghĩ về những đề tài “gây cảm hứng”. Anh ta, về phương diện đạo đức, bị buộc phải chộp lấy vũ khí của mình và chạy ra bảo vệ bầy chiên. Khi hoàn cảnh đòi hỏi, tình yêu thương có thể dùng lưỡi gươm, dầu vậy, bởi bản chất của mình, nó sẽ hàn gắn những tấm lòng tan vỡ và chăm sóc những người bị thương. Đã đến lúc nhà tiên tri và những người thấy được sự việc phải lên tiếng để người ta nghe và cảm với họ. Trong ba thập kỷ vừa qua, tính rụt rè cải trang dưới sự khiêm tốn đã chui rúc trong góc đang khi mà chất lượng thuộc linh của Phúc Âm Cơ Đốc ngày càng trở nên tệ hơn hết từ năm này sang năm khác. Bao lâu, ôi Chúa ôi, bao lâu?

Lòng Can Đảm Với Sự Tiết Độ

Tội lỗi đã thực hiện một công việc tàn phá chúng ta khá thành công, và quá trình phục hồi vừa lâu dài lại vừa chậm chạp. Các công việc của ân điển trong đời sống mỗi cá nhân có thể chưa một lần nào được thể hiện cách sáng sủa và rõ ràng (trong kinh nghiệm của cá nhân đó, và của người khác - ND), nhưng chúng thực sự là công việc của Đức Chúa Trời: Đem tấm lòng đã một lần sa ngã trở lại sự giống với những điều thiêng liêng. Điều này thể hiện rõ trong khó khăn lớn mà chúng ta phải trải qua để đạt được sự cân đối thuộc linh trong đời sống mình. Sự bất lực, ngay cả của những linh hồn có mức độ tận hiến nhiều nhất, để thể hiện những đức tính Cơ Đốc trong tỉ lệ cân bằng và không có sự trộn lẫn (admixture) với những đức tính không giống Đấng Christ đã trở thành nguyên nhân nỗi đau buồn cho nhiều người là dân sự Đức Chúa Trời.

Page 16: Tong hop

Các đức tính trước mắt chúng ta, lòng can đảm và sự tiết độ, khi được giữ ở đúng tỉ lệ, dẫn đến một đời sống cân bằng và là một trong những điều hữu ích lớn nhất cho vương quốc của Đức Chúa Trời. Bất cứ nơi nào một trong hai điều đó bị mất đi hay còn đó nhưng chỉ ở một mức độ thấp kém, hậu quả sẽ là một đời sống mất cân bằng và sức mạnh bị lãng phí. Nếu xem xét kỹ lưỡng, thì ta sẽ tìm thấy được tính chất tự truyện trong Hầu như bất cứ tác phẩm chân thật nào. Chúng ta biết rõ nhất những gì chúng ta đã kinh nghiệm. Bài báo này cũng không là một ngoại lệ. Tôi cũng có thể thừa nhận cách thẳng thắn là nó cũng mang tính tự truyện, vì một độc giả sáng suốt sẽ khám phá được sự thật cho dù tôi có cố gắng che đậy nó đến đâu đi nữa.

Nói một cách ngắn gọn, tôi hiếm khi bị gọi là một kẻ hèn nhát, ngay cả bởi những kẻ thù căm hờn tôi nhất, nhưng sự đòi hỏi sự tiết độ của tôi đôi lúc khiến cho những người bạn thân nhất của tôi buồn. Một đức tính hàng đầu không phải dễ mà có được, dù trải qua luyện tập nhiều, và sự cám dỗ đưa đến những phương pháp khắt khe, thái quá làm trợ cụ cho Đức Chúa Trời là một điều không dễ dàng gì kháng cự lại. Sự cám dỗ đó càng được làm cho mạnh thêm bởi tri thức đến độ nó ở sát bên những điều bất khả đại loại như là bắt buộc một diễn giả ngồi xuống và khiến ông rút lui ý kiến, rồi tự nhận là mình sai. Có một sự miễn thứ chức vụ (ministerial immunity) được chấp nhận bởi người của Đức Chúa Trời vốn có thể đưa Boanergers vào trong một ngôn ngữ ngông cuồng và vô trách nhiệm trừ phi anh ta dùng những phương cách quả cảm để đưa bản chất của mình vào trong sự cai trị yêu thương của Đức Thánh Linh. Điều này tôi cũng đã đôi lần thất bại, và luôn luôn đưa đến nỗi đau buồn thực sự của riêng tôi.

Tại đây, một lần nữa sự tương phản giữa đường lối Đức Chúa Trời và đường lối con người lại được thấy rõ. Ngoài sự hiểu biết đó ra, như kinh nghiệm đau đớn có thể đem lại, chúng ta có khuynh hướng cố gắng bảo vệ các mục đích của mình bằng sự tấn công trực tiếp, xông lên và chiến thắng bằng vũ lực. Đó là phương cách của Sam-sôn, và nó có hiệu quả ngoại trừ một việc nhỏ bị lãng quên: Nó kéo kẻ chiến thắng chết chung với kẻ chiến bại! Tấn công từ phía bên hông thật là khôn ngoan, nhưng sự khôn ngoan đó là cái mà một tâm linh thiếu suy nghĩ (hay hấp tấp) có khuynh hướng chối từ.Đấng Christ được nói đến như sau: “Người sẽ chẳng cãi lẫy, chẳng kêu la, và chẳng ai nghe được tiếng người ngoài đường cái. Người sẽ chẳng bẻ cây sậy đã gãy, chẳng tắt ngọn đèn gần tàn, cho đến chừng nào người

Page 17: Tong hop

khiến sự công bình được thắng” (Ma-thi-ơ 12:19-20). Ngài đạt được những mục đích lớn lao của mình mà không cần sức mạnh vật lý quá đáng và nhìn chung không có bạo lực. Cả cuộc đời của Ngài được đánh dấu bằng sự tiết độ; nhưng trước hết Ngài là một trong số những con người can đảm nhất. Ngài đã nhắn gởi những lời này với Hê-rốt, kẻ đe dọa Ngài, “Hãy đi nói với con chồn cáo ấy rằng: Ngày nay, ngày mai, ta đuổi quỷ chữa bệnh, đến ngày thứ ba, thì đời ta sẽ xong rồi” (Lu-ca 13:32). Có một sự can đảm tột bực ở đây, nhưng không phải là sự thách thức, không có dấu hiệu gì của sự khinh rẻ, không có sự thái quá của lời nói và hành động. Ngài có lòng can đảm và sự tiết độ.

Thất bại để đạt được sự cân bằng giữa hai đức tính này đã tạo nên nhiều điều xấu trong Hội Thánh trải qua nhiều năm, và vết thương còn lớn hơn khi những nhà lãnh đạo Hội Thánh có dính dáng vào. Thiếu sự can đảm là một thiếu sót trầm trọng và có thể là một tội thật sự khi nó dẫn đến sự thỏa hiệp trong giáo lý hay thực hành. Ngồi lại vì cớ lợi ích của sự hòa bình và cho phép kẻ thù chiếm đoạt những cái bình thánh khỏi đền thờ không bao giờ có thể là một phần của một con người thật sự thuộc về Đức Chúa Trời. Sự tiết độ đến mức đầu hàng nơi mà những điều thiêng liêng có liên quan đến chắc chắn không phải là một đức tính tốt; song thói hiếu chiến lại chẳng bao giờ chiến thắng khi mà trận chiến thuộc về cõi thiên thượng. Sự giận dữ của con người chẳng bao giờ có thể tôn cao sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Có một cách đúng đắn để làm những việc đó, và nó không bao giờ là phương cách có tính chất bạo lực. Người Hy Lạp có một câu nói nổi tiếng: “Tiết độ là tốt nhất”; và câu cách ngôn trong gia đình của những người nông dân Mỹ là, “Cái nào dễ, làm nó đi,” cũng chứa đựng bên trong một triết lý sâu sắc.

Đức Chúa Trời đã dùng, và hoàn toàn không có gì nghi ngờ việc Ngài sẽ dùng con người bất luận sự thất bại trong việc giữ những đức tính này ở trạng thái cân bằng hoàn hảo của họ. Ê-li là một con người dũng cảm; không ai có thể nghi ngờ điều đó, nhưng cũng không ai là quá vội vàng khi tuyên bố rằng ông cũng là một người kiên nhẫn hay tiết độ. Ông thắng lợi bằng sự tấn công, bằng hiệu lệnh, chứ không phải bằng sự mỉa mai, và lạm dụng khi ông nghĩ nó sẽ giúp nhiều; song khi kẻ thù thất bại, ông bị cuốn vào vòng xoáy và chìm sâu vào tuyệt vọng. Đó là phương cách của bản chất cực đoan, của con người có lòng can đảm mà không có sự tiết độ.

Page 18: Tong hop

Hê-li, về mặt khác, là một con người tiết độ. Ông không thể nói “không” ngay cả với gia đình mình. Ông yêu mến một sự hòa bình mong manh, và một bi kịch ảm đạm là cái giá ông phải trả cho sự hèn nhát của mình. Cả hai người đều là những người tốt, nhưng họ đã không thể tìm được một phương cách tốt hơn. Về cả hai, Ê-li nóng cháy chắc chắn là người vĩ đại hơn. Thật là đau đớn khi nghĩ đến những gì Hê-li có lẽ sẽ làm trong những hoàn cảnh của Ê-li. Và tôi có thể thương xót ngay cả với Hốp-ni và Phi-lê-a nếu như Ê-li đã là cha của họ!

Một cách logic, điều này đưa chúng ta đến chỗ suy nghĩ về sứ đồ Phao-lô. Đây là một người mà chúng ta không được xem thường. Ông có một lòng can đảm gần như hoàn hảo cùng với tính kiên nhẫn và tính chịu đựng thực sự giống Chúa. Ngoài ân điển ra, việc ông đã từng là người như thế nào được tìm thấy trong một lời mô tả ngắn gọn về ông trước sự cải đạo. Sau khi ông giúp ném đá Ê-tiên đến chết, ông đi ra và săn đuổi Cơ Đốc nhân, “hằng ngăm đe và chém giết” (Công vụ 9:1). Ngay cả sau khi cải đạo rồi, ông vẫn còn có thể đưa ra lời nhận xét khi ông cảm nhận mạnh mẽ một vấn đề nào đó. Sự từ chối cụt ngủn của ông đối với Mác sau khi Mác bỏ dở công việc là một thí dụ cho phương cách ngắn gọn ông dùng để cư xử với những người mà ông không tin tưởng. Nhưng thời gian, sự chịu đựng gian khổ và sự giống Cứu Chúa nhẫn nại của ông càng gia tăng dường như đã chữa ông khỏi sai lầm này, sai lầm bên trong một con người của Đức Chúa Trời. Những ngày sau đó của ông rất ngọt ngào với tình yêu thương và thơm ngát bởi sự nhịn nhục cũng như lòng nhân đức. Điều này cũng nên như vậy đối với tất cả chúng ta.

Việc Kinh Thánh không ghi lại cho chúng ta một ví dụ nào cho thấy một người hèn nhát được chữa khỏi thói hư của mình là một điều rất có ý nghĩa. Không có “linh hồn nhút nhát” nào đã từng lớn lên thành một con người can đảm. Phi-e-rơ đôi lúc bị nêu ra như là một ngoại lệ, nhưng không có sự gì trong cuộc đời ông chứng tỏ ông là một con người hèn nhát, trước cũng như sau Lễ Ngũ Tuần. Ông đã chạm đến lằn ranh một hay hai lần, điều này là thật, nhưng hầu hết phần còn lại, ông là một con người can đảm hết mực đến độ ông cứ mãi gặp vấn đề với sự can đảm của mình.

Việc Hội Thánh ngày nay thực sự cần những con người can đảm như thế nào là một điều mà mọi người đều biết, không cần phải lập lại. Sự sợ hãi ấp ủ trên Hội Thánh giống như một lời nguyền cổ xưa. Sợ cho sự

Page 19: Tong hop

sống còn của chúng ta, sợ cho công việc của chúng ta, sợ đánh mất danh tiếng, sợ lẫn nhau: đây là những bóng ma lảnglảng vảng quanh những con người ngày nay đứng trong những vị trí của sự lãnh đạo Hội Thánh. Tuy nhiên, nhiều người trong số họ đã có được danh tiếng vì sự can đảm lập lại những gì an toàn và được mong đợi với một sự táo bạo đến tức cười.

Nhưng sự can đảm tự có không phải là phương thuốc. Vun xới thói quen “nói toạc móng heo” có thể chỉ kết quả trong việc chúng ta tự làm cho mình trở thành điều phiền toái cho người khác và đem đến rất nhiều nguy hại cho cả tiến trình. Điều lý tưởng dường như là một sự can đảm thầm lặng đến độ không nhận biết được sự tồn tại của nó. Nó lôi kéo sức mạnh của mình từ Thánh Linh và hiếm khi cái tôi biết được sự tồn tại của nó. Sự can đảm đó sẽ là kiên nhẫn và cân bằng cũng như an toàn khỏi hai thái cực. Xin Chúa ban cho chúng ta một phép Báp-tem của lòng can đảm đó.

Cẩn Thận Với Hình Thức Máy Móc Yếu tính của tôn giáo thật là tính tự giác, sự cảm động tối cao, không giới hạn của Chúa Thánh Linh bên trên và trong một tâm linh tự do của những người đã được cứu. Ðiều này, trải qua nhiều năm của lịch sử loài người, đã là dấu xác nhận tiêu chuẩn của tính ưu tú thuộc linh, bằng chứng của sự thực hữu trong một thế giới ảo.

Khi tôn giáo đánh mất đặc tính thiêng liêng của nó và chỉ còn cái hình thức (bên ngoài), tính tự giác này cũng bị mất luôn, và từ chỗ của nó xuất hiện các tiền lệ, khuôn phép, hệ thống - và hình thức máy móc.

Ðằng sau cái thói quen máy móc đó là niềm tin cho rằng cái thuộc linh có thể được tổ chức, sắp xếp. Rồi hình thức máy móc đó được đưa vào tôn giáo với những ý tưởng khác hẳn ba điều: Những con số, các bảng thống kê, các quy luật của thói quen, và những cái khác thuộc về tự nhiên, thuộc về con người. Và sự chết dần chết mòn luôn luôn theo sau nó.

Hiện nay, các bản lập trình (danh sách v.v... - file-card) là một công cụ nhỏ bé vô hại và là một thứ rất hữu dụng cho vài mục đích. Nó thật tuyệt cho việc ghi nhận sự hiện diện của các học viên lớp Trường Chúa Nhật, và một danh sách ghi địa chỉ có thể khó mà xoay xở được nếu không có

Page 20: Tong hop

nó. Nó tốt khi ở đúng vị trí của mình và nếu ra khỏi đó, nó trở nên một vật làm chết người. Mối hiểm họa của nó đến từ một xu thế phổ biến của con người là tin tưởng chắc chắn vào sự giúp đỡ từ bên ngoài để giải quyết những điều bên trong.

Khi những hình thức máy móc bắt đầu chi phối đời sống Cơ Ðốc nhân, ngay tập tức nó trở thành một điều phiền toái và một tai họa. Khi nó thoát ra khỏi tủ đựng hồ sơ và đi vào lòng con người, điều bất hạnh sẽ đổ ập lên chúng ta; ngoại trừ một cuộc cách mạng thuộc linh bên trong, không có thứ gì có thể giải phóng nạn nhân khỏi định mệnh của mình.Ðây là cách mà những hình thức máy móc hành động khi nó xâm nhập vào đời sống Cơ Ðốc nhân và bắt đầu tạo nên những thói quen tinh thần: Nó chia Kinh Thánh ra thành nhiều phần tương thích với những ngày trong năm, và buộc Cơ Ðốc nhân phải đọc theo quy tắc (nhất định). Bất luận việc Thánh Linh cố phán với người đó như thế nào, anh ta cứ tiếp tục đọc chỗ tấm card đó bảo, anh ta nghiêm túc hoàn tất nó mỗi ngày.

Mỗi thánh nhân được Thánh Linh dẫn dắt biết rằng có những lúc ông được sự thôi thúc từ bên trong để đọc một đoạn nào đó, hay ngay cả chỉ có một câu thôi, và trong nhiều ngày ông vật lộn với Chúa cho đến khi một lẽ thật nào đó thực thi công việc của nó trong ông. Bỏ phân đoạn Thánh Linh thôi thúc đọc mà lại đi theo một lịch đọc được sắp đặt trước đối với ông là điều hoàn toàn không thể thực hiện được. Ông ở trong tay tự do của Thánh Linh, và thực tại đang hiện ra trước mắt ông là tan vỡ, hạ mình xuống, hướng lên cao, đến sự tự do và vui mừng. Nhưng chỉ có linh hồn tự do mới có thể biết sự vinh hiển của điều này. Một tấm lòng bị trói buộc bởi hệ thống sẽ mãi mãi là một người lạ đối với điều này.

Người nô lệ của hình thức máy móc sẽ sớm nhận ra rằng những lời cầu nguyện của mình mất đi sự tự do và trở nên ít có tính tự giác hơn, ít hiệu quả hơn. Anh ta sẽ thấy chính mình quan tâm đến những vấn đề mà lẽ ra anh ta không cần quan tâm đến - anh ta đã giành bao nhiêu thời gian cầu nguyện ngày hôm qua, liệu anh đã, hay chưa trình dâng hết mọi chi tiết trong danh sách cầu nguyện của mình trong ngày, liệu anh ta sẽ thức sớm như anh đã thường làm hay sẽ thức khuya trong sự cầu nguyện. Thật rõ ràng là cái lịch đó xua đuổi Thánh Linh và mặt đồng hồ đã che giấu mặt của Ðức Chúa Trời. Lời cầu nguyện kết thúc là hơi thở tự do của linh hồn đã được giải thoát, và trở thành một nhiệm vụ đã được hoàn tất. Và

Page 21: Tong hop

ngay cả trong những hoàn cảnh như thế, anh ta cũng thành công trong việc biến lời cầu nguyện của mình thành một cái gì đó, anh vẫn còn phải gánh chịu những mất mát bi thảm và đang mang vác trên linh hồn mình một cái ách, là cái mà Ðấng Christ đã chết để giải phóng anh.

Mục sư/truyền đạo cũng vậy, phải cảnh giác, kẻo ông ta cũng trở thành nạn nhân của hình thức máy móc. Nhìn từ bên ngoài vào, lập nên một hệ thống những bài giảng, đánh dấu những giáo lý của Thánh Kinh như một nông dân phân chia cánh đồng của mình, dành một số thời gian nào đó trong năm cho những bài giảng về các lẽ thật Kinh Thánh khác nhau để rồi đến cuối khoảng thời gian đó có thể gợi nhớ, tóm tắt lại từng cái một trông có vẻ là một ý tưởng tốt. Về mặt lý thuyết mà nói, điều này có vẻ tốt, nhưng nó sẽ giết chết bất cứ ai đi theo nó, và cũng giết hại cả Hội Thánh luôn; và một đặc trưng của loại chết chóc này là cái mà cả mục sư/truyền đạo cũng như dân sự đều không hề biết rằng nó đã đến.

Những ai có trách nhiệm trong các hoạt động của Hội Thánh và những nhân sự Tin Lành phải cảnh giác với cái bẫy của hình thức máy móc này. Nó là một thứ giết người và nó hành động để dập tắt sự vận hành tự nhiên của Thánh Linh. Không ai cần phải chết, không ai cần phải nói dối trong lời cầu nguyện kiên nhẫn và đau khổ trong sự hiện diện của Ðức Chúa Trời trong khi Thánh Linh truyền đạt ý muốn tể trị của Ngài cho tấm lòng tin cậy của người đó. Với tinh thần máy móc sẽ không có sự khải thị của Ðức Chúa Trời, cao sâu và kỳ diệu; không có sự phơi bày gây căm phẫn về sự không thánh sạch bên trong; không có sự đau đớn của than lửa đỏ nơi đầu môi.

Sự vinh hiển của Phúc Âm chính là sự tự do của nó. Những người Pha-ri-si, là những nô lệ, căm ghét Ðấng Christ vì Ngài tự do. Trận chiến giành sự tự do thuộc linh đã không chấm dứt khi Chúa chúng ta sống lại từ cõi chết. Nó vẫn tiếp diễn, và trong một tình trạng bi đát, những đứa con của sự tự do đang đánh mất nó. Những người hiểu biết nhiều hơn đang từ bỏ những tự do của họ với chỉ một cuộc tranh chiến chiếu lệ. Họ thấy việc làm theo một tấm card xem ra dễ hơn là cứ tiếp tục cầu nguyện cho đến khi đạt được sự khai sáng thuộc linh và sự tin chắc mang tính tiên tri bên trong.

Ðó sẽ thực sự là nguyên nhân để than khóc tại Si-ôn khi mà chủng tộc của những con người tự do chết dần trong Hội Thánh và công việc của Ðức Chúa Trời lại được trao phó hoàn toàn cho những tay làm chương

Page 22: Tong hop

trình.

Cần Thiết Và Nguy Hiểm Của Tổ Chức

Về cơ bản mà nói, tổ chức là sự sắp đặt nhiều phần của một tổng thể vào trong một mối quan hệ với nhau để có thể đạt được mục đích tối hậu. Điều này có thể đạt được, bởi sự nhất trí hay sự cưỡng bách, tùy thuộc vào các hoàn cảnh. Một mức độ tổ chức nào đó là cần thiết ở khắp nơi xuyên suốt cõi vũ trụ được tạo dựng và trong mọi xã hội loài người. Không có nó sẽ không có khoa học, không có chính phủ, không có các đơn vị gia đình, không có nghệ thuật, âm nhạc, văn chương, cũng như không có bất kỳ hoạt động sáng tạo nào.

Cuộc sống đòi hỏi sự tổ chức. Không có điều gì giống như sự sống ngoại trừ những môi trường mà trong đó có thể hiện ra được chính mình. Nó không thể tồn tại như là một chi thể độc lập khỏi một thân thể có tổ chức. Sự sống chỉ được tìm thấy nơi nào có thân thể, trong một hình hài nào đó mà nó có thể trú ngụ. Và nơi nào có thân thể và các hình thể, nơi đó có sự tổ chức. Chẳng hạn như một con người là tổng thể các bộ phận được tổ chức và liên kết lại, và qua những bộ phận này, huyền nhiệm của sự sống hội đủ điều kiện để hiện hữu. Khi các bộ phận, vì bất cứ lý do gì đó, trở nên hỗn độn, không còn tổ chức nữa, sự sống lìa khỏi và con người sẽ chết đi.

Xã hội đòi hỏi sự tổ chức. Nếu con người phải sống với nhau trên thế giới này, thì họ phải được tổ chức trong một hình thức nào đó. Điều này đã được ghi nhận qua mọi thời đại cũng như mọi nơi chốn và được nhận thấy trên mọi cấp bậc của xã hội loài người từ những bộ lạc sống trong rừng rậm cho đến những thể chết trên toàn cầu. Một cách lý tưởng mà nói, mục đích của chính phủ là để đạt được trật tự với sự ràng buộc tối thiểu trong khi đảm bảo sự tự do tối đa cho từng cá nhân.

Việc có một số giới hạn sự tự do của cá nhân là tốt và cần thiết đã được thừa nhận bởi tất cả những con người thông minh; việc có quá nhiều hạn chế là xấu cũng được mọi người thừa nhận. Sự bất đồng nổi lên khi chúng ta cố gắng định nghĩa những từ ngữ tương đối như “một số”, “quá nhiều”, hay "quá ít". Thế thì quá nhiều là nhiều bao nhiêu? Và một số là ít bao nhiêu? Nếu điều này có thể giải quyết được, hòa bình sẽ bất ngờ viếng thăm quốc hội và nghị viện, đảng Dân chủ và những người tự do

Page 23: Tong hop

sẽ nằm xuống với đảng Cộng hòa và những người bảo thủ, rồi một đứa bé cũng có thể lãnh đạo toàn quốc.

Sự khác biệt giữa tình trạng nô lệ và sự tự do chỉ có một chút xíu mà thôi. Ngay cả những nước chuyên chế còn có một chút tự do, và các công dân của những nước tự do phải cam chịu một số hạn chế nào đó. Chính sự cân nhắc giữa hai điều này quyết định một nước nào đó là nô lệ hay tự do. Không một công dân sáng suốt nào tin rằng mình tuyệt đối tự do. Người đó biết rằng sự tự do của mình phải bị cắt giảm như thế nào đó vì lợi ích của tất cả mọi người. Điều tốt nhất có thể hy vọng được là sự giới hạn đó sẽ được giữ ở mức tối thiểu. Sự giới hạn tối thiểu này loài người gọi là “Tự Do”, và thật quý giá làm sao khi con người sẵn sàng mạo hiểm sự sống mình vì nó. Thế giới phương Tây đã có hai cuộc chiến lớn trong vòng 25 năm để gìn giữ cán cân của sự tự do và thoát khỏi những ràng buộc mà chủ nghĩa đế quốc xã và chủ nghĩa quân phiệt toan áp đặt lên nó.

Có Chúa làm trung tâm và hướng về Hội Thánh trong tư tưởng của mình, tôi đã và đang trải qua nhiều năm lo lắng vì khuynh hướng tổ chức cộng đồng Cơ Đốc cách thái quá, và vì lý do này tôi đã khiến nó quay sang chống lại tôi. Người ta cho rằng tôi không tin nơi sự tổ chức. Sự thật hoàn toàn khác.

Người nào muốn chống lại mọi sự tổ chức trong Hội Thánh thì cần phải là người ngu dốt về những thực tế của sự sống. Nghệ thuật là cái đẹp được tổ chức; Âm nhạc là âm thanh được tổ chức; Triết học là tư tưởng có tổ chức; Khoa học là tri thức được tổ chức; Chính phủ cũng chỉ là một xã hội được tổ chức. Và Hội Thánh thật của Đấng Christ là gì nếu không phải là một huyền nhiệm được tổ chức?

Trái tim đang đập của Hội Thánh là sự sống - trong một câu nói của Henry Scougal, “Sự sống của Đức Chúa Trời trong linh hồn của con người.” Sự sống này, cùng với sự hiện diện thật của Đấng Christ trong Hội Thánh, cấu thành Hội Thánh như một điều rất thiêng liêng, một huyền nhiệm, một phép lạ. Nhưng nếu không có thực thể, hình hài và trật tự, sự sống thiêng liêng này sẽ không có nơi trú ngụ, và nó không có cách gì để thể hiện chính mình cho cộng đồng.

Vì lý do đó, Thánh Kinh Tân Ước nói nhiều đến sự tổ chức. Các thư tín có tính chất mục vụ của Phao-lô và những lá thư ông viết cho tín hữu

Page 24: Tong hop

Cô-rinh-tô cho thấy vị sứ đồ vĩ đại là một nhà tổ chức. Ông nhắc nhở Tít rằng ông đã để Tít ở Cơ-rết để thiết lập trật tự cho mọi việc đang xáo trộn và sắp xếp các trưởng lão trong mỗi thành phố. Điều này rõ ràng chỉ có nghĩa là Tít đã được vị sứ đồ của chúng ta ủy nhiệm để sắp đặt trật tự trên những nhóm tín hữu khác nhau sống trên đảo, và chỉ có thể qua tổ chức mới có được trật tự.

Cơ Đốc nhân có khuynh hướng đi lang thang theo một số hướng vì họ không hiểu mục đích của sự tổ chức hay những mối nguy hiểm theo sau nó nếu như nó tuột khỏi tầm tay. Một số không có sự tổ chức gì cả, và tất nhiên, hậu quả là sự lẫn độn và vô trật tự; những điều này hoàn toàn không thể giúp loài người đem vinh hiển đến cho Chúa. Những người khác thì thay thế sự tổ chức cho sự sống, và trong khi cái tên còn sống thì họ đã chết rồi. Còn những người khác trở nên say sưa với các luật lệ và quy tắc đến độ họ tăng chúng lên mà không có một lý do nào cả, rồi chẳng bao lâu sau tính tự phát sẽ bùng lên trong Hội Thánh, và sự sống bị tống khứ ra khỏi đó.

Chính sai lầm này là điều mà tôi lo lắng nhất. Nhiều nhóm Hội Thánh đã tàn lụi do sự tổ chức nhiều quá mức, cũng như những hội khác do sự tổ chức quá ít ỏi. Những nhà lãnh đạo Hội Thánh thông minh sẽ phòng ngừa cả hai thái cực đó. Một người có thể chết do hậu quả của việc áp huyết quá thấp, cũng như khi áp huyết quá cao. Vấn đề quan trọng trong tổ chức Hội Thánh là khám phá được sự quân bình của Thánh Kinh giữa hai thái cực đó (quá chú trọng tổ chức và vô tổ chức) và tránh xa chúng. Thật là đau lòng khi thấy một nhóm Cơ Đốc nhân phước hạnh, hình thành rất giản dị và được cột chặt bởi dây đai của tình yêu thiên thượng, từ từ mất dần đặc tính giản dị của họ, bắt đầu cố gắng bình thường hóa từng sự thúc đẩy ngọt ngào của Thánh Linh và chết dần từ bên trong. Nhưng đó lại là cái hướng mà hầu như tất cả các hệ phái Cơ Đốc đã đi trong suốt lịch sử, và bất chấp những lời cảnh tỉnh bởi Đức Thánh Linh cũng như lẽ thật Kinh Thánh, đây vẫn là cái hướng mà hầu hết các nhóm Hội Thánh ngày nay đang đi.

Theo thông thường thì khi Hội thánh gặp phải mối nguy hiểm nào đó đang xảy ra trong tình trạng tổ chức bị xáo trộn và muốn kềm chế nó thì điều đầu tiên là làm ngược lại sự tổ chức hiện đang có, và chạy ùa vào sự phức tạp để thay đổi giống như bầy vịt chạy ào xuống ao. Điều nầy xuất phát từ một ước muốn, tự nhiên nhưng xác thịt, của một nhóm thiểu số những người được ơn. Họ mong muốn đưa số đông còn lại của những

Page 25: Tong hop

người ít được ơn hơn trong Hội Thánh vào một chỗ, để rồi đẩy những người thiếu ơn nầy đến nơi nào đó để những người này sẽ không chặn đứng đường tiến của những khát vọng cao xa mà họ có.

Một nguyên nhân khác cho sự tổ chức thái quá và nặng nề của chúng ta là sự sợ hãi. Các Hội Thánh và các cộng đồng được những người biệt riêng ra để thiết lập với lòng can đảm, đức tin và một trí tưởng tượng được thánh hóa có vẻ đã không thể tự phát triển với cùng một mức độ thuộc linh trước đó chỉ một hay hai thế hệ. Những tổ phụ thuộc linh đã không thể sản sinh trong hậu duệ mình lòng can đảm và đức tin ngang bằng với của họ. Những tổ phụ đó có Đức Chúa Trời và có rất ít những điều khác, nhưng hậu duệ của họ đã đánh mất khải tượng mình và đang tìm kiếm những phương pháp cũng như những cơ cấu tổ chức vì quyền lực mà lòng họ bảo rằng họ đang thiếu. Rồi thì những quy luật và quyền ưu tiên đông cứng lại thành một cái vỏ bọc, nơi mà họ có thể trốn chạy khỏi vấn đề. Lúc nào việc rúc đầu chạy trốn cũng dễ hơn và an toàn hơn việc đứng ra tranh đấu trên chiến trường.

Trong toàn bộ đời sống sa ngã của chúng ta có một hấp lực mạnh mẽ hướng về sự phức tạp và đẩy xa những điều giản dị, thực tế. Dường như có một điều gì đó thật đáng buồn và không thể chối cãi được đang ở đằng sau sự ham muốn bệnh hoạn của chúng ta hướng về sự tự sát thuộc linh. Chỉ bởi cái nhìn tiên tri sáng suốt, sự thức canh và cầu nguyện cùng với công việc chăm chỉ mới có thể giúp chúng ta đảo ngược xu hướng đó và khôi phục lại vinh quang đã mất. Trong một nghĩa trang cổ gần Plymouth Rock, nơi những tín đồ Thánh Giáo Anh yên nghỉ, có một hòn đá được khắc mấy chữ trang trọng như sau (tôi nhớ sao thì ghi lại vậy): “Những gì cha ông chúng ta đã trả giá rất đắt để giữ gìn, thì chúng ta không được nông nổi vứt bỏ đi.” Vào giai đoạn cuối thế kỷ này, những người Tin Lành chúng ta cần phải thông minh mà áp dụng những lời này cho tình trạng tôn giáo của mình. Chúng ta vẫn là những người theo đạo Tin Lành. Chúng ta phải chống lại sự lìa bỏ tự do tôn giáo của chúng ta. Sự tự do giản dị của Cơ Đốc giáo đầu tiên là điều chúng ta đã đánh mất. Từng cái một, chúng ta đang bỏ rơi những quyền đã được chính Chúa mua bởi huyết của giao ước đời đời cho chúng ta, đó là quyền được sống thật, quyền được vâng theo Thánh Linh, quyền được suy nghĩ những tư tưởng riêng tư của chúng ta, quyền được làm những gì chúng ta muốn với cuộc đời mình, quyền quyết định dưới ý muốn của Đức Chúa Trời việc chúng ta sẽ phải làm gì với tiền của mình.

Page 26: Tong hop

Và xin nhớ rằng, những mối hiểm họa trong hiện tại của chúng ta không đến từ bên ngoài, bèn là từ bên trong chúng ta.

Chúa Phán Với Người Quan Tâm

Kinh Thánh được viết trong nước mắt và đào sâu vào đó sẽ tìm được những kho báu tuyệt diệu nhất. Đức Chúa Trời không có gì để nói với con người phù phiếm.

Chính Môi-se, một người đang run rẩy, được nghe Đức Chúa Trời phán trên núi, và cũng chính ông là người sau này đã giải cứu cả đất nước khi ông sấp mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời với một của lễ để xin Ngài xóa tên ông khỏi sách của Ngài vì lợi ích của dân Y-sơ-ra-ên. Lần kiêng ăn cầu nguyện dài ngày của Đa-ni-ên đã đưa Gáp-ri-ên từ thiên đàng đến để nói với ông về bí mật của các thế kỷ. Khi Giăng, một người rất được yêu mến, khóc dầm dề vì không có ai xứng đáng để mở cuốn sách có bảy ấn, thì một trong số những trưởng lão đã an ủi ông bằng một tin vui rằng Sư Tử của chi phái Giu-đa đã chiến thắng.

Những người viết thánh thi thường viết trong nước mắt, các nhà tiên tri khó có thể che đậy lòng phiền muộn của mình, và sứ đồ Phao-lô trong một lá thư đầy sự vui mừng gởi cho người Phi-líp đã đổ nước mắt khi ông nghĩ đến những người là kẻ thù của thập giá Đấng Christ và kết cuộc của họ là sự hủy diệt. Những nhà lãnh đạo Cơ Đốc đã làm rung chuyển thế giới là những người có lòng sầu não, những người mà lời chứng của họ cho cả nhân loại xuất phát từ cõi lòng phiền muộn, nặng gánh lo âu: Không hề có chút sức mạnh nào trong bản thân những giọt nước mắt, nhưng những giọt nước mắt và sức mạnh nằm sát cạnh nhau trong Hội Thánh đầu tiên.

Thật không phải là một ý tưởng đáng để yên lòng khi nhận ra rằng các tác phẩm của những nhà tiên tri mòn mỏi vì buồn phiền thường được nghiền ngẫm bởi những người thích thú chỉ vì tò mò và những người chẳng bao giờ đổ một giọt nước mắt nào vì những tai ương của thế giới này. Họ có sự tò mò về thời gian biểu của những sự kiện trong tương lai, mà quên rằng mục đích lớn của lời tiên tri trong Kinh Thánh là để chuẩn bị chúng ta về phương diện đạo đức cũng như thuộc linh cho thì giờ sắp đến.

Page 27: Tong hop

Ngày nay, giáo lý về sự trở lại của Đấng Christ đã bị xao lãng, ít nhất là trên lục địa Bắc Mỹ, và như những gì tôi nhận thấy, khiến cho trong hàng ngũ các Cơ Đốc nhân tin vào Kinh Thánh không còn một chút sức mạnh nào. Về vấn đề này, theo như điều tôi tin, có thể có vài yếu tố góp phần, nhưng cái chủ yếu là lẽ thật của những lời tiên tri đã phải chịu đựng sự rủi ro giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, khi mà những con người không có nước mắt đảm trách việc hướng dẫn chúng ta vào các tác phẩm của những nhà tiên tri thánh chứa chan nước mắt. Những đám đông khổng lồ và những của dâng to lớn bởi đó mà ra cho đến khi thực tế chứng minh rằng các giáo viên đã sai lầm ở quá nhiều điểm; rồi thì phản ứng nổ ra và lời tiên tri mất đi thiện ý nơi mọi người. Đây là một cú lừa tinh xảo của ma quỷ: nó thực hiện quá hiệu quả. Chúng ta nên và phải học biết rằng chúng ta không thể luận giải những điều thánh khiết một cách bất cẩn mà không vướng phải những hậu quả nghiêm trọng.

Những con người không có nước mắt cũng đã gây nên mối nguy hại khôn tả cho chúng ta trong một lĩnh vực khác: cầu nguyện cho người bệnh. Luôn luôn có những con người kính sợ, nghiêm túc khi cảm biết nhiệm vụ thánh khiết của họ là cầu nguyện cho người bệnh để họ được chữa lành theo ý muốn Đức Chúa Trời. Người ta nói về Spurgeon rằng những lời cầu nguyện của ông đã vực dậy nhiều người bệnh hơn bất cứ sự chữa trị nào của các bác sĩ ở Luân Đôn. Khi những người lãnh đạo không có nước mắt tóm lấy giáo lý, nó đã bị biến thành một cái vợt sinh lợi. Những con người dịu dàng, đầy sức thuyết phục đã dùng các phương pháp tối ưu của nghệ thuật bán hàng để tạo nên những của cải ấn tượng từ các chiến dịch của họ. Những nông trại lớn và những món đầu tư tài chính khổng lồ của họ chứng minh họ đã thành công như thế nào trong việc tách rời người bệnh và tiền bạc của mình. Và điều này được làm trong danh của Đấng từng trải sự buồn bực, Đấng không có chỗ gối đầu!

Cái gì được thực hiện mà không có tấm lòng là cái được thực hiện trong bóng tối bất luận việc nó có vẻ phù hợp với Kinh Thánh như thế nào đi nữa. Bởi luật đền bù công bình, tấm lòng của những người hay đùa giỡn với tôn giáo sẽ bị hủy diệt trong sự sáng chói lọi của lẽ thật mà anh ta chạm vào. Những con mắt không giọt lệ cuối cùng sẽ bị mù vì chính ánh sáng mà chúng nhìn vào. Chúng ta, những người thuộc về các Hội Thánh không mang tính nghi lễ, có khuynh hướng nhìn vào những Hội Thánh tiến hành một hình thức thờ phượng đã được cẩn thận lên chương

Page 28: Tong hop

trình với một thái độ khinh khỉnh, và chắc chắn phải có một cái gì đó tốt bên trong những buổi thờ phượng như thế, mà điều này có ít hoặc không có chút ý nghĩa nào đối với một người tham dự bình thường - điều này không phải là do nó được lên chương trình cẩn thận mà là vì chính bản chất của những người tham dự bình thường. Nhưng tôi đã quan sát và thấy rằng những bài giảng ứng khẩu quen thuộc của chúng ta, được nhà lãnh đạo làm dàn ý 20 phút trước đó, thường có khuynh hướng đi theo một trật tự rời rạc và mệt mỏi, gần như được tiêu chuẩn hóa rất thành công. Ít nhất những bài giảng mang tính lễ nghi cũng đẹp vậy; còn của chúng ta thì thường là xấu xí. Những bài giảng của họ đã được cẩn thận vạch ra từ hàng thế kỷ để nắm bắt cái vẻ đẹp càng nhiều càng tốt, và để duy trì một tinh thần kính sợ giữa vòng những người thờ phượng. Còn của chúng ta thường là những bài giảng tạm bợ, ứng khẩu, không có gì đáng lưu tâm. Cái gọi là quyền tự do thường không tự do chút nào, mà thay vào đó là tính lười biếng cẩu thả.

Lý thuyết là ở chỗ cho rằng nếu buổi nhóm không có chương trình thì Thánh Linh sẽ tự do hành động, và điều này là thật nếu tất cả những người thờ phượng đều là những người kính sợ Chúa và đầy dẫy Thánh Linh. Nhưng hầu hết đều không có trật tự, cũng chẳng có Thánh Linh, buổi nhóm chỉ là một buổi cầu nguyện thường lệ, ngoại trừ một số thay đổi nhỏ, chúng giống như nhau từ tuần này sang tuần khác, với một số ít bài hát mở đầu cũng không có gì nhiều, vả lại, từ lâu lắm rồi, nó đã mất đi tất cả mọi ý nghĩa bởi sự lập lại vô nghĩa.Trong phần lớn những buổi nhóm của chúng ta, hiếm khi có dấu hiệu của một ý tưởng tôn kính, không có biểu hiện của sự hiệp nhất trong Thân Thể, chỉ có chút ít cảm giác về Sự Hiện Diện Thánh, không có giây phút nào yên tĩnh, không có tính trang nghiêm, không có điều kỳ diệu, cũng không có sự kính sợ thánh. Nhưng thường lại có hoặc một người uể oải hay một người hoạt bát với những câu bông đùa bất khiết lên hướng dẫn hát, cũng như một trưởng ban nào đó lên thông báo từng “con số” cùng với những tiếng sột soạt phát ra từ cái máy tăng âm cũ kỹ trong một nỗ lực để gắn liền mọi thứ lại với nhau.

Cả gia đình Cơ Đốc đang cố gắng một cách tuyệt vọng trong nhu cầu khôi phục lại lòng ăn năn, khiêm nhường và nước mắt. Xin Chúa sớm gởi chúng đến

Cơ Đốc Giáo Ăn Liền

Page 29: Tong hop

Thật chẳng có gì ngạc nhiên khi những quốc gia trên thế giới bào chế những sản phẩm như trà uống liền, cà phê uống liền, và mì ăn liền. Và rồi thì thế giới cũng cho ra đời một tôn phẩm cao siêu "Cơ Ðốc giáo ăn liền". Nếu những sản phẩm ăn liền đó đã không xuất xứ từ Hoa Kỳ, thì có một điều không thể phủ nhận được, là chính trào lưu Chính thống Mỹ đã đem Cơ Ðốc giáo ăn liền đến cho các Hội Thánh Tin Lành.

Chúng ta bỏ qua một bên Công Giáo La Mã và chủ nghĩa tự do trong những bộ dạng trá hình khác nhau của nó, và hướng sự chú ý lên hình thể của những người Tin Lành, ngay lập tức chúng ta sẽ thấy con dân của Ðấng Christ phải chịu đựng như thế nào ngay chính trong căn nhà của người bạn thân là Hội Thánh. Thiên tài trên Nước Mỹ chú ý đến việc làm cho mọi kết quả đạt được nhanh chóng và dễ dàng và không cần quan tâm nhiều đến chất lượng hay tính lâu dài. Ðiều nầy đã sản sinh ra một loại vi khuẩn đầu độc toàn bộ cơ cấu trong Hội Thánh tại Hoa Kỳ từ điều hành, hành chánh, giảng dạy, tổ chức, quy chế, chăm sóc, và những hệ thống khác nữa, và đã gây ảnh hưởng rộng khắp trên thế giới qua những công cuộc truyền giáo.

"Cơ Ðốc giáo ăn liền" xuất hiện cùng với thời đại máy móc. Con người phát minh ra máy móc với hai mục đích là những công việc quan trọng được thực hiện nhanh hơn và dễ dàng hơn làm bằng tay. Họ muốn công việc được kết thúc nhanh chóng để họ có thêm thời gian tìm kiếm những cái khác mà họ thích, chẳng hạn như rong chơi hay thưởng thức những lạc thú của trần gian này. "Cơ Ðốc giáo ăn liền" ngày nay cũng phục vụ những mục đích đó trong tôn giáo.

Nói đến "Cơ Ðốc giáo ăn liền", tôi muốn ám chỉ cái được tìm thấy ở khắp nơi trong những quỹ đạo Tin Lành là cái được sinh ra từ tư tưởng cho rằng "chúng ta có thể làm hết những bổn phận đối với linh hồn mình chỉ bằng một vài hành động của đức tin, và khi được giải phóng khỏi mọi lo lắng về tình trạng thuộc linh, thì cho là đã làm xong bổn phận thuộc linh của chính mình và đưa đến kết luận là đức tin nơi Thiên Chúa một lần đủ cả". Cái đức tin đó không phù hợp với Ðức Tin mà Chính Phao-lô đã nói trong Rô-ma 1:17 rằng "...Ðức Tin lại dẫn đến đức tin nữa".

Nhưng vấn đề rắc rối là chúng ta có khuynh hướng đặt để sự tin cậy của mình trên những kinh nghiệm và đưa đến hiểu sai toàn bộ Thánh Kinh Tân Ước. Chúng ta liên tục được thúc đẩy phải quyết định, phải

Page 30: Tong hop

giải quyết vấn đề ngay bây giờ vì muốn toàn bộ sự việc được quan tâm đến ngay lập tức. Ðương nhiên là tôi không phủ nhận là có những quyết định của chúng ta nên quyết định một lần đủ cả, và cũng có những vấn đề riêng tư có thể giải quyết được ngay tức thì bằng một hành động kiên quyết trong sự đáp ứng của đức tin có nền tảng là Kinh Thánh.

"Cơ Ðốc giáo ăn liền" có khuynh hướng biến hành động đức tin thành một kết cuộc vì thế mà đã bóp chết sự khao khát tiến bộ thuộc linh. Nó hiểu sai bản chất thật của đời sống Cơ Ðốc, vốn là một đời sống đức tin năng động và phát triển. Nó bỏ qua sự thật là tân Cơ Ðốc nhân được lớn lên giống như một em bé mới ra đời, và cần phải có thực phẩm và hoạt động thì cơ thể mới phát triển bình thường. Nó không đếm xỉa đến sự thật là hành động đức tin trong Ðấng Christ thiết lập một mối quan hệ cá nhân giữa hai bản thể đạo đức và thông sáng. Ðức Chúa Trời và con người đã được giải hòa, và chỉ với một lần tiếp xúc với Ðức Chúa Trời thì không đủ để thiết lập một tình bạn thắm thiết giữa Ngài và tạo vật được dựng nên theo hình ảnh của Ngài.

Vì muốn phong tỏa sự cứu rỗi vào trong một hoặc hai kinh nghiệm, những người biện hộ cho "Cơ Ðốc giáo ăn liền" phô trương ra định luật của sự phát triển, và nói rằng sự phát triển là cái đã chi phối toàn cõi thiên nhiên này. Họ bỏ qua những ảnh hưởng thiêng liêng của sự thương khó, việc vác thập tự giá mình theo Chúa và sự vâng lời thiết thực. Họ bỏ qua nhu cầu cần huấn luyện thuộc linh, sự cần thiết của việc hình thành những thói quen tôn giáo đúng đắn và nhu cầu đấu tranh chống chọi lại thế gian.

Mối thỏa mãn quá đáng với hành động ban đầu của đức tin đã tạo nên một tâm lý thỏa lòng nào đó, hay ít nhất là không có sự mong chờ nào cả.

Ðối với nhiều người, nó đã tạo ra một tâm trạng chán nản với niềm tin Cơ Ðốc. Ðức Chúa Trời dường như ở đâu quá xa xôi, còn thế gian thì lại quá gần, xác thịt thì lại quá mạnh để giữ lòng bền đỗ. Hãy coi chừng sự thỏa mãn với những hành động đức tin ban đầu sẽ giải phóng chúng ta ra khỏi nhu cầu thức canh, tranh chiến, cầu nguyện, và đưa đến sự tự do thụ hưởng thế giới này.

Có phải "Cơ Ðốc giáo ăn liền" là niềm tin chính thống của thế kỷ 21

Page 31: Tong hop

nầy? Hãy đọc Kinh Thánh Phi-líp 3:7-16 để thấy được tâm tình của Phao-lô là "...quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Ðức Chúa Trời trong Ðức Chúa Giê-xu Christ."

Cơ Đốc Nhân Lạ Thường

Tôi tin rằng nỗ lực hiện tại của rất nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo để hòa hợp Cơ Ðốc giáo với khoa học, triết học và những thứ tự nhiên, hợp lý khác là hậu quả của sự thất bại trong việc thấu hiểu Cơ Ðốc giáo và cũng là, rút ra từ những gì tôi đã nghe và đọc được, một thất bại trong việc hiểu khoa học cũng như triết học.

Tâm điểm của hệ thống Cơ Ðốc là thập giá của Ðấng Christ với cái nghịch biện thiêng liêng của nó. Sức mạnh của Cơ Ðốc giáo xuất hiện trong cái ác cảm của mình hướng về những đường lối của con người sa ngã, và không bao giờ là sự đồng tình với những đường lối đó. Lẽ thật về thập tự giá được bày tỏ trong chính những điều nó phủ nhận. Lời chứng của Hội Thánh có hiệu quả nhất khi Hội Thánh tuyên bố hơn là giải thích, vì Phúc Âm được đáp ứng không phải bằng lý lẽ bèn là đức tin. Những cái gì có thể được chứng minh thì không cần đến đức tin để tiếp nhận. Ðức tin dựa vào thuộc tính của Ðức Chúa Trời, chứ không phải những chứng minh của phòng thí nghiệm hay logic.

Thập tự giá đứng trong vị trí đối lập đầy sức sống với con người tự nhiên. Triết lý của thập tự giá trái ngược với những cách thức suy nghĩ của tâm trí chưa được tái sanh, vì thế Phao-lô có thể nói một cách thẳng thắn rằng sự rao giảng về thập giá là dành cho những người ngu dại, đáng diệt vong. Cố gắng tìm kiếm một mảnh đất chung giữa sứ điệp của thập tự giá và lý lẽ của con người sa ngã là cố gắng làm một điều bất khả thi, và nếu cứ tiếp tục cố gắng làm việc đó sẽ tạo nên một hậu quả tai hại vô cùng, một thập giá vô nghĩa và một Cơ Ðốc giáo không có chút quyền năng.

Nhưng chúng ta hãy đưa toàn bộ vấn đề từ đỉnh cao của lý thuyết xuống thấp, và chỉ đơn giản quan sát Cơ Ðốc nhân thật khi anh ta áp dụng vào thực tiễn những điều dạy dỗ của Ðấng Christ và các sứ đồ Ngài. Hãy lưu ý những sự tương phản sau đây:

Page 32: Tong hop

Cơ Ðốc nhân tin rằng trong Ðấng Christ, anh ta đã chết, nhưng anh còn sống nhiều hơn trước đây và anh hoàn toàn mong muốn được sống mãi mãi. Anh bước đi trên trần gian này trong khi đã được đặt để ở thiên đàng và dầu rằng được sinh ra trên trần gian, nhưng sau khi cải đạo, anh khám phá ra rằng nhà của anh không phải là ở đây. Giống như con chim cú, trong không khí là cả một sự uyển chuyển và đẹp đẽ, nhưng ở trên đất thì lại vụng về và xấu xí, Cơ Ðốc nhân xuất hiện với điều đẹp đẽ nhất của mình trong những nơi thuộc về thiên thượng nhưng không thích hợp lắm với những đường lối của chính cái xã hội mà anh ta được sinh ra.

Cơ Ðốc nhân sớm học biết rằng nếu anh phải chiến thắng như là con của thiên đàng giữa vòng những con người trên đất, thì anh không được phép đi theo những đường lối thông thường của loài người, mà phải đi theo hướng ngược lại. Ðể mình có thể được an toàn, anh đặt mình vào cảnh hiểm nghèo; anh mất mạng sống mình để cứu nó và sẽ gặp nguy cơ đánh mất nó nếu anh cố gắng gìn giữ nó. Anh đi xuống thấp để được lên cao. Nếu anh ta từ chối đi xuống, thì anh đã ở dưới sẵn rồi, nhưng khi anh ta bắt đầu đi xuống, anh ta đang ở trên con đường đi lên của mình.

Anh mạnh mẽ nhất khi mình yếu đuối nhất và yếu đuối nhất khi mình mạnh mẽ. Dầu nghèo khổ, nhưng anh có sức mạnh để khiến người khác trở nên giàu có, nhưng khi anh trở nên giàu có rồi, khả năng làm cho người khác được trở nên giàu có của anh biến mất. Anh có nhiều nhất sau khi anh đã ban cho nhiều nhất và có ít nhất khi mà anh sở hữu nhiều nhất.

Anh có thể và thường ở chỗ cao nhất khi anh cảm thấy mình thấp hèn nhất và hầu như không có tội khi anh ý thức về tội lỗi nhiều nhất. Anh khôn ngoan nhất khi anh biết rằng mình không biết và biết ít nhất khi anh đã thu nạp được một lượng kiến thức vĩ đại nhất. Ðôi lúc anh làm tốt nhất bằng cách không làm gì cả và đi xa nhất khi vẫn còn đứng yên. Trong cơn phiền muộn, anh đạt được sự vui mừng và giữ lòng anh hớn hở ngay cả trong sự buồn đau.

Ðặc tính nghịch lý của Cơ Ðốc nhân được thể hiện cách liên tục. Chẳng hạn như anh tin rằng bây giờ anh đã được cứu, tuy nhiên anh vẫn mong muốn sau này sẽ được cứu và lòng anh hướng về sự cứu rỗi phước hạnh tương lai. Anh kính sợ Ðức Chúa Trời nhưng không kinh

Page 33: Tong hop

hãi Ngài. Trong sự hiện diện của Ðức Chúa Trời anh cảm thấy được đầy dẫy và được cởi mở, dầu rằng không còn chỗ nào khác thích hợp cho anh hơn là ở trong sự hiện diện bao phủ đó. Anh biết rằng mình đã được thanh tẩy khỏi tội lỗi, nhưng anh đau đớn ý thức rằng xác thịt mình chẳng đưa đến điều gì tốt lành.

Anh vô cùng yêu mến Ðấng mà anh chưa từng nhìn thấy, và dầu rằng anh nghèo khó, hèn mọn, anh nói chuyện cách thân mật với Ðấng là Vua trên muôn vua, Chúa trên muôn chúa, và không hề cảm thấy phi lý khi làm như vậy. Anh cảm biết rằng anh không có chút quyền hành gì trên chính mình cả, và anh tin không một chút nghi ngờ rằng anh là con ngươi của mắt Ðức Chúa Trời và chính vì anh mà Con Ðời Ðời đã trở nên xác thịt để chết trên thập giá của sự sỉ nhục.

Cơ Ðốc nhân là một công dân của thiên đàng và đối với quyền công dân thánh đó, anh nhận biết bổn phận trước; dù rằng anh có thể yêu đất nước trần gian của mình với sự mãnh liệt vốn đã khiến John Knox (4) thốt lên khi cầu nguyện, "Lạy Chúa, xin cho con đất nước Scotland, hoặc con sẽ chết."

Từ rất lâu anh đã vui vẻ mong đợi để bước vào thế giới rực rỡ bên trên, nhưng anh không vội vã rời bỏ thế giới này và hoàn toàn sẵn sàng chờ đợi sự triệu tập của Cha Thiên Thượng của mình. Và anh không thể hiểu tại sao những người không tin hay chỉ trích lại kết tội anh về điều này; tất cả dường như rất là tự nhiên và đúng đắn trong những hoàn cảnh mà anh không thấy có gì mâu thuẫn bên trong.

Hơn nữa, Cơ-Ðốc-nhân-mang-thập-tự-giá vừa là một người yếm thế thật sự, lại vừa là một người lạc quan vốn chẳng giống ai và cũng chẳng thể tìm được nơi đâu trên cõi đời này cả.

Khi anh nhìn lên thánh giá, anh là một người bi quan, vì anh biết rằng cùng một sự đoán phạt vốn đã đổ lên Chúa của sự vinh hiển sẽ xử phạt toàn cõi thiên nhiên và thế giới con người. Anh từ chối mọi hy vọng của con người ngoài Ðấng Christ vì anh biết rằng nỗ lực đáng khâm phục nhất của con người chỉ là bụi đất xây dựng trên bụi đất.

Nhưng anh rất bình tĩnh, yên lặng mà lạc quan. Nếu thập giá luận tội thế giới, thì sự sống lại của Ðấng Christ bảo đảm chiến thắng cuối cùng của điều tốt bao trùm toàn cõi vũ trụ này. Qua Ðấng Christ, tất cả đều sẽ trở

Page 34: Tong hop

nên tốt lành vào thời điểm cuối cùng và Cơ Ðốc nhân chờ đợi thời điểm đó. Cơ Ðốc nhân lạ thường!

Cội Rễ Người Công Bình

Một khác biệt đáng lưu ý giữa đức tin của tổ tiên chúng ta, được các tổ tiên nhận thức, và cùng một đức tin đó được hiểu và sống theo bởi con cháu họ, thì đức tin của các tổ tiên gắn liền với cội rễ của niềm tin, trong khi đó hậu duệ của họ ngày nay dường như chỉ nghĩ đến bông trái.

Ðiều này xuất hiện trong thái độ chúng ta hướng về một số Cơ Ðốc nhân vĩ đại đã quá cố, tên của họ được tôn vinh trong các Hội Thánh, như Augustine, Bernard trong thời kỳ đầu, hoặc Luther và Wesley trong thời kỳ gần đây hơn. Ngày nay chúng ta viết tiểu sử của những người này và kỷ niệm thành quả của họ, nhưng có khuynh hướng quên lãng cội nguồn mà từ đó những bông trái của họ kết thành. "Rễ của người công bình sanh bông trái," người khôn ngoan đã nói như thế trong Châm ngôn 12:12. Tổ tiên của chúng ta nhìn vào cội rễ của một cái cây và sẵn sàng kiên nhẫn chờ đợi bông trái xuất hiện. Chúng ta đòi hỏi bông trái ngay lập tức dầu rằng bộ rễ đang yếu mỏn và có bứu hay đã bị bong cả lên. Những Cơ Ðốc nhân không kiên nhẫn ngày nay giải thích cách nào đó để làm giảm đi giá trị của những niềm tin đơn sơ mà các vị thánh ngày xưa đã có và cười cợt trước sự nghiêm túc của họ khi họ đến gần Ðức Chúa Trời và những điều thánh khiết. Các Cơ Ðốc nhân đó là những nạn nhân của quan niệm tôn giáo thiển cận của chính mình, nhưng những linh hồn vĩ đại và vững mạnh là những người đã có thể đạt được một kinh nghiệm thuộc linh thỏa lòng và làm nhiều điều tốt trong thế giới bất chấp những cản trở đối với họ. Thế thì chúng ta bắt chước bông trái mà không tiếp nhận thần học của các tổ tiên hay tự gây phiền phức cho chính mình quá mức bởi việc chấp nhận thái độ có-tất-cả-hoặc-không-có-gì-cả hướng về tôn giáo của họ.

Vì thế chúng ta nói (thường là nghĩ nhiều hơn), từng giai điệu của sự khôn ngoan, từng kinh nghiệm tôn giáo, từng định luật của tự nhiên cho chúng ta biết chúng ta đã sai như thế nào. Cành cây bị gãy ra khỏi thân cây trong một trận bão có thể nở hoa trong chốc lát và để lại trong lòng người đi đường thiếu suy nghĩ ý tưởng rằng nó là một nhánh cây khỏe mạnh và sai quả, nhưng những nụ hoa mềm mại của nó sẽ sớm bị tàn

Page 35: Tong hop

lụi và chính bản thân nhánh cây rồi cũng sẽ khô héo và chết đi. Tách khỏi bộ rễ thì sự sống không còn lâu dài nữa (nếu không muốn nói là không còn).

Phần lớn điều được chấp nhận là Cơ Ðốc giáo ngày nay chỉ là sự nỗ lực ngắn ngủi, lóe lên trong phút chốc của cái nhánh cây đã bị cắt lìa (khỏi bộ rễ) để cho ra bông trái trong mùa của nó. Nhưng những định luật sâu thẳm của sự sống chống lại điều này. Mối bận tâm tới thể diện bên ngoài và một sự xao lãng tương đương của cội rễ sự sống thuộc linh thật không nhìn thấy được là những dấu hiệu tiên tri mà không ai chú ý đến. "Những kết quả" tức thì là tất cả vấn đề đó, những bằng chứng chóng vội của sự thành công hiện tại, không có lấy một suy nghĩ đến tuần sau hay năm sau. Chủ nghĩa thực dụng tôn giáo đang mọc lên lung tung giữa vòng niềm tin chính thống. Lẽ thật là một cái gì đó hành động. Nếu nó có kết quả, nó là tốt. Chỉ có một điều để đánh giá nhà lãnh đạo tôn giáo: Sự thành công. Mọi việc đều được tha thứ cho ông ta, ngoại trừ sự thất bại.

Một cái cây có thể vượt qua hầu hết mọi cơn bão nếu rễ của nó vững chắc, nhưng khi cây vả mà Chúa chúng ta đã quở "khô cho tới rễ", nó lập tức "khô đi rồi". Một Hội Thánh có cội rễ vững chắc không thể nào bị tiêu diệt, nhưng không có gì có thể cứu vãn một Hội Thánh mà cội rễ đã bị khô đi. Không có sự kích thích, không có chiến dịch quảng cáo nào, không có những của dâng bằng tiền và không có một dinh thự đẹp đẽ nào có thể mang lại sự sống cho một cái cây (hay Hội Thánh) không còn rễ.

Không bận tâm đến các phép ẩn dụ, sứ đồ Phao-lô đã thúc đẩy chúng ta nhìn lại cội nguồn của mình. "Ðâm rễ vững nền trong sự yêu thương," ông nói trong cái rõ ràng là một hình ảnh tượng trưng; và một lần nữa ông thúc giục những độc giả của mình "hãy châm rễ và lập nền trong Ngài," điều này mô tả Cơ Ðốc nhân như là cái cây có bộ rễ tốt và như một thánh đường được xây trên một nền đá vững chãi.

Cả Kinh Thánh và mọi thánh nhân vĩ đại trong quá khứ cùng nói với chúng ta một điều: "Ðừng mặc nhiên công nhận điều gì. Hãy trở lại với cội nguồn. Hãy mở lòng mình ra, và tìm kiếm Lời Chúa. Hãy mang thập giá mình mà bước theo Chúa, đừng chú ý đến những mốt tôn giáo thoáng qua. Những thứ hổ lốn luôn luôn sai trật. Trong mỗi thế hệ, số người công bình ít ỏi lắm. Hãy chắc rằng mình đang ở trong số đó."

Page 36: Tong hop

"Loài người chẳng phải vì hung ác mà được lập vững bền; song rễ người công bình chẳng bị lay động" (Châm ngôn 12:3).

Con Người: Nơi Cư Ngụ Của Đức Chúa Trời

Sâu thẳm trong mỗi con người có một nơi thiêng liêng, nơi đó tồn tại bản chất huyền bí của con người anh ta. Thực thể sâu thẳm bên trong này là một phần của con người, cái mà tự nó thuộc về nó mà không liên quan gì đến bất cứ phần nào khác thuộc bản chất phức tạp của con người. Ðó là cái "Tôi là" của con người, một món quà của Ðấng Ta Là, Ðấng đã tạo nên anh ta.

Ðấng Ta Là chính là Ðức Chúa Trời, Ðấng không có nguồn gốc và tự tồn tại; cái "Tôi là" của con người có nguồn gốc từ Ðức Chúa Trời và luôn lệ thuộc nơi quyền năng sáng tạo của Ngài để được tiếp tục tồn tại. Một là Ðấng Tạo Hóa chí cao, tồn tại từ trước vô cùng, Ngài ngự trong ánh sáng không thể đến gần được. Cái kia là một tạo vật, và dù được nhiều đặc quyền hơn hết thảy mọi tạo vật khác, nhưng vẫn chỉ là một tạo vật, tồn tại bởi sự hào phóng của Ðức Chúa Trời và là một người cầu xin trước ngai của Ngài.

Thực thể sâu thẳm bên trong con người, cái mà chúng ta đang nói đến, được gọi trong Kinh Thánh là "tâm linh của con người". "Vả, nếu không phải là thần linh trong lòng người, thì ai biết sự trong lòng người? Cũng một lẽ ấy, nếu không phải là Thánh Linh của Ðức Chúa Trời, thì chẳng ai biết sự trong Ðức Chúa Trời" (I Cô-rinh-tô 2:11). Vì sự tự biết mình của Ðức Chúa Trời nằm trong Thánh Linh đời đời, nên sự tự biết mình của con người được nhận thức bởi chính linh của anh ta, và sự hiểu biết của anh về Ðức Chúa Trời đến bởi sự linh cảm trực tiếp của Thánh Linh Ðức Chúa Trời trên tâm linh con người.

Tầm quan trọng của toàn bộ việc này không thể được đánh giá quá cao khi chúng ta suy nghĩ, học hỏi và cầu nguyện. Nó bày tỏ tính thuộc linh cần thiết của loài người. Nó phủ nhận việc con người là một tạo vật có phần tâm linh mà tuyên bố rằng anh ta là một tâm linh có thân thể. Ðiều khiến anh ta được gọi là một con người không phải là cái thể xác bên ngoài nhưng là tâm linh bên trong, nơi mà hình ảnh của Ðức

Page 37: Tong hop

Chúa Trời từ ban đầu đã ở đó.

Một trong những lời tuyên bố đem lại sự giải phóng trong Thánh Kinh Tân Ước là như thế này: "Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy. Ðức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy" (Giăng 4:23-24). Bản chất của sự thờ phượng được bày tỏ ở đây, hoàn toàn mang tính thuộc linh. Tôn giáo thật được dời khỏi sự kiêng ăn (xác thịt) và việc giữ những ngày tháng (các ngày lễ, ngày thánh v.v...), từ bỏ những bộ trang phục và các nghi lễ, rồi nó được đặt vào đúng chỗ của mình - trong sự hiệp nhất của tâm linh con người với Thánh Linh Ðức Chúa Trời.

Từ quan điểm của con người, sự mất mát bi thảm nhất mà con người phải chịu đựng xảy đến trong sự Sa ngã, là việc Thánh Linh Ðức Chúa Trời lìa khỏi nơi thánh bên trong của con người. Tại trung tâm sâu thẳm bên trong và bị che giấu của con người, có một bụi cây thích hợp làm nơi ngự trị của Ðức Chúa Trời Ba Ngôi. Tại đó, Ðức Chúa Trời hoạch định sẽ ngơi nghỉ và chiếu sáng với ngọn lửa thuộc linh thánh khiết. Con người, bởi tội lỗi mình, đã để mất đặc quyền tuyệt vời khôn tả này và bây giờ phải sống ở đó một mình. Vì đó là một nơi hết sức riêng tư nên không một tạo vật nào có thể xâm phạm vào; không một ai có thể vào ngoại trừ Ðấng Christ, và Ngài chỉ vào với lời mời gọi bởi đức tin. "Này, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người, và người với ta" (Khải huyền 3:20).

Bởi sự vận hành huyền diệu của Thánh Linh trong sự tái sanh, cái mà Phi-e-rơ gọi là "bổn tánh Ðức Chúa Trời" (II Phi-e-rơ 1:4) đã bước vào tâm điểm sâu thẳm bên trong của lòng người tin và bắt đầu ngự trị ở đó. "Nếu ai không có Thánh Linh của Ðấng Christ, thì người ấy chẳng thuộc về Ngài," vì "chính Ðức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Ðức Chúa Trời" (Rô-ma 8:9, 16). Một người như thế là một Cơ Ðốc nhân thật, và chỉ những người như thế mà thôi. Lễ Báp-têm, sự tuyên xưng đức tin, việc tiếp nhận các thánh lễ, việc trở thành thành viên của Hội Thánh (hữu hình) - những điều này không có ý nghĩa gì trừ phi công việc tối cao của Ðức Chúa Trời trong sự tái sanh cũng diễn ra. Những cái bên ngoài mang tính tôn giáo có thể có một ý nghĩa nào đó cho những linh hồn có Chúa ngự trị; còn đối với bất cứ người nào

Page 38: Tong hop

khác, chúng không chỉ vô dụng mà còn có thể thực sự trở thành những cái bẫy, lừa dối họ vào một cảm giác an toàn giả tạo và nguy hiểm.

"Khá cẩn thận giữ tấm lòng của con hơn hết" còn hơn là một câu nói khôn ngoan, nó là một mạng lệnh nghiêm túc được đặt để lên trên chúng ta bởi Ðấng quan tâm đến chúng ta nhiều nhất. Ðối với mạng lệnh đó, chúng ta phải hết sức cẩn thận chú ý đến, nếu không, một lúc nào đó chúng ta sẽ để nó tuột mất.

Con Người Thuộc Linh

Khái niệm về tính thuộc linh không giống nhau trong vòng những hệ phái Cơ Ðốc khác nhau. Trong một số hệ phái, nếu một người có giọng thanh tiếng tốt, thường hay nói về tôn giáo được cho là người rất thuộc linh; những người khác chấp nhận tính hoa mỹ ồn ào là dấu hiệu của tính thuộc linh, và trong một số Hội Thánh Việt Nam thì người cầu nguyện đầu tiên, lâu nhất, lớn nhất nhận được danh tiếng và được coi là người có bản tính thuộc linh cao nhất trong Hội Thánh.

Bây giờ, có một bằng chứng hùng hồn đây: Những lời cầu nguyện thường xuyên và lớn tiếng ngợi khen có thể gắn liền với tính thuộc linh, nhưng điểm quan trọng nằm ở chỗ là chúng ta phải hiểu rằng tự bản thân chúng ta không tạo nên tính thuộc linh, và cũng không chứng minh là tính thuộc linh hiện diện.

Bản tính thuộc linh thật chỉ thể hiện trong chúng ta khi chúng ta có những khao khát lớn lao. Bản tính thuộc linh là những mong muốn luôn luôn tồn tại, có nguồn gốc sâu thẳm, có đủ sức mạnh để thúc đẩy và điều khiển đời sống. Ðể cho tiện, tôi sẽ liệt kê chúng ra, ở đây tôi không sắp theo thứ tự tầm quan trọng.

1. Trước tiên là khao khát được trở nên thánh khiết hơn là hạnh phúc. Sự mong mỏi hạnh phúc được tìm thấy rộng khắp giữa vòng các Cơ Ðốc nhân tuyên bố một mức độ cao hơn của tính thiêng liêng là một bằng chứng đầy đủ cho thấy tính thiêng liêng đó thực ra không tồn tại (trong họ). Con người thuộc linh thật biết rằng Ðức Chúa Trời sẽ ban cho người ấy dư dật niềm vui sau khi nhận lãnh mà không gây thương tổn cho linh hồn mình, nhưng vẫn không đòi hỏi phải có nó ngay. John Wesley đã nói

Page 39: Tong hop

về những thành viên của một trong số những cộng đồng Giám Lý đầu tiên rằng ông nghi ngờ việc họ được tạo dựng hoàn hảo trong tình yêu thương vì họ đến nhà thờ để thưởng thức tôn giáo thay vì học biết làm thế nào để trở nên thánh khiết.

2. Một người có thể được coi là thuộc linh khi anh ta muốn thấy Ðức Chúa Trời được tôn vinh qua đời sống của mình ngay cả khi nó có nghĩa là chính anh phải chịu sự ô nhục hay mất mát tạm thời. Một người như thế cầu nguyện rằng, "Danh Cha được tôn thánh," và thầm lặng thêm vào, "bằng bất cứ giá nào mà con phải trả, Cha ạ!" Người đó vì sự tôn vinh Ðức Chúa Trời bởi sự phản xạ thuộc linh. Mỗi quyết định liên quan đến sự vinh hiển của Ðức Chúa Trời của người ấy đều đã được lựa chọn trước khi nó thể hiện chính mình. Người đó không cần tranh luận vấn đề với lòng mình; và cũng chẳng có gì để mà tranh luận. Sự vinh hiển của Ðức Chúa Trời là cần thiết, và người đó bắt lấy nó như một người đang nghẹt thở và cần hít lấy không khí.

3. Người thuộc linh muốn mang thập giá của mình. Nhiều Cơ Ðốc nhân chấp nhận nghịch cảnh hay nỗi đau bằng một tiếng thở dài và gọi nó là thập giá của họ, quên rằng những điều đó cũng đến với thánh nhân và tội nhân. Thập giá là những nghịch cảnh đến với chúng ta khi chúng ta vâng lời Ðấng Christ. Thập giá này không hề được áp đặt lên chúng ta; chúng ta tự nguyện mang vác nó với ý thức đồng ý rõ ràng. Chúng ta lựa chọn vâng lời Ðấng Christ và bởi việc làm đó, chúng ta lựa chọn việc mang vác thập giá. Vác thập giá có nghĩa là gắn bó với Thân Vị của Ðấng Christ, trao phó trọn vẹn cho quyền làm Chủ của Ðấng Christ và vâng theo mạng lệnh Ngài. Một người gắn bó như thế, tận hiến như thế, vâng phục như thế là một con người thuộc linh

4. Hơn nữa, một Cơ Ðốc nhân có tính thuộc linh khi anh ta nhìn mọi sự trong cái nhìn của Ðức Chúa Trời. Khả năng đo lường mọi sự vật trong cái cân thiêng liêng và xác định đúng giá trị của chúng như Ðức Chúa Trời làm là dấu hiệu của một đời sống đầy dẫy Thánh Linh.

Ðức Chúa Trời nhìn vào và xuyên qua cùng một lúc. Cái nhìn của Ngài không chú trọng vào bề mặt bèn là xuyên thấu vào trong ý nghĩa thật của mọi sự. Cơ Ðốc nhân xác thịt nhìn vào một vật hay một hoàn cảnh, nhưng vì anh ta không thấy bên trong nó, anh ta tự hào hay thất vọng vì những gì mình thấy. Con người thuộc linh có thể nhìn xuyên qua mọi sự như cách Ðức Chúa Trời nhìn và nghĩ về chúng như cách Ðức Chúa Trời nghĩ. Anh

Page 40: Tong hop

ta nhấn mạnh đến việc xem xét mọi sự theo cách mà Ðức Chúa Trời xem xét ngay cả khi nó hạ anh xuống và phơi bày sự thờ ơ của anh trước nỗi đau thật.

5. Một ao ước khác của con người thuộc linh là được chết cho lẽ phải hơn là sống sai trái. Một dấu hiệu chắc chắn của con người trưởng thành trong Chúa là sự bình thản của anh trước chuyện sống chết. Một Cơ Ðốc nhân yêu trần thế, có ý thức về bản thân nhìn vào sự chết và lặng đi với nỗi sợ trong lòng; nhưng khi anh ta tiếp tục sống trong Thánh Linh, anh ngày càng trở nên hờ hững với số năm sống của mình trên trần gian này, và cùng lúc đó gia tăng sự quan tâm đến loại đời sống thiêng liêng mà anh có trong khi ở tại trần gian. Anh sẽ không mua thêm một vài ngày sống trên trần gian này bằng sự thỏa hiệp hay thất bại. Anh muốn mọi sự đều đúng và anh vui vẻ để cho Ðức Chúa Trời quyết định việc anh sẽ phải sống bao lâu. Anh biết rằng anh không thể chết trong sai trái được, vì anh đang ở trong Ðấng Christ, và ý thức này trở thành một con quay hồi chuyển để củng cố điều anh suy nghĩ và hành động.

6. Ao ước được thấy người khác cao trọng hơn mình là một dấu hiệu khác của con người thuộc linh. Anh ta muốn thấy những Cơ Ðốc nhân khác được tôn trọng hơn mình và vui mừng khi họ được đề cao còn mình thì bị lãng quên. Không có chút ghen tị nào trong lòng anh; khi những anh em khác được vinh dự, anh thỏa lòng vì đó là ý muốn Ðức Chúa Trời và ý muốn đó là thiên đàng trần gian của anh. Nếu Ðức Chúa Trời vui lòng, anh cũng vui lòng vì lý do đó, và nếu việc làm Ðức Chúa Trời hài lòng là đề cao người khác lên trên anh, anh sẵn lòng làm như thế.

7. Con người thuộc linh thường có óc suy xét dựa trên cõi đời đời thay vì dựa vào thời gian. Bởi đức tin, anh vượt qua những chướng ngại vật của trái đất và dòng chảy thời gian mà học cách suy nghĩ, cách cảm nhận như một người đã rời khỏi thế gian mà hòa vào đoàn thiên binh không đếm xuể và hòa mình với Hội Thánh của Con Ðầu Lòng vốn được ghi khắc trên thiên đàng. Một người như vậy thường hữu ích hơn là nổi tiếng, và sẵn sàng phục vụ hơn là được phục vụ.

Và tất cả điều này phải được vận hành bởi Thánh Linh ở trong lòng anh.Không một người nào có thể tự mình trở nên thuộc linh. Chỉ Thánh Linh tự do hành động mới có thể dựng nên một con người thuộc linh.

Page 41: Tong hop

Đầy Dẫy Đức Thánh Linh

Trước khi chúng ta nói đến việc làm thế nào để được đầy dẫy Thánh Linh, có một số vấn đề cần phải được giải quyết. Là những tín hữu, bạn phải đưa những vấn đề đó ra khỏi đường đi của mình, và ngay tại điểm này khó khăn xuất hiện. Tôi lo ngại rằng những người lắng nghe tôi có lẽ đã thu nhặt được ở đâu đó ý tưởng cho rằng tôi có một giáo lý làm-thế-nào-để-được-đầy-dẫy-Thánh-Linh-trong-năm-bài-học-đơn-giản, cái mà tôi sẽ trình bày cho bạn. Nếu bạn có bất kỳ những ý tưởng mơ hồ đại loại như thế, thì tôi chỉ có thể đứng trước bạn và nói rằng, "Tôi rất tiếc"; vì nó không đúng; tôi không thể cho bạn một điều như thế. Tôi nói có một vài điều bạn phải loại ra khỏi đường đi của mình, phải san bằng chúng. Một trong số chúng là: Trước khi bạn được đầy dẫy Thánh Linh, bạn phải biết chắc rằng bạn có thể được đổ đầy.

Sa-tan đã chống đối lại giáo lý về đời sống đầy dẫy Thánh Linh cũng kịch liệt như bất cứ giáo lý nào khác. Hắn đã làm cho giáo lý đó trở nên lẫn lộn, chống lại nó, vây quanh nó với những quan điểm sai lầm và sự sợ hãi. Hắn đã đóng chặt mọi nỗ lực của Hội Thánh Ðấng Christ để nhận lãnh từ nơi Chúa Cha sự thừa kế thánh và được mua bằng chính huyết Ngài. Hội Thánh đã quá thờ ơ trước lẽ thật tự do lớn lao này - tức là ngày nay có một sự xức dầu trọn vẹn, tuyệt vời và hoàn toàn thỏa lòng của Ðức Thánh Linh dành cho con cái Ðức Chúa Trời.

Vì thế bạn phải chắc rằng đời sống đầy dẫy Thánh Linh là dành cho bạn. Bạn phải chắc rằng chính đó là ý muốn Ðức Chúa Trời cho bạn; có nghĩa là đó là một phần của toàn bộ kế hoạch; nó bao gồm và xoay quanh công việc của Ðấng Christ trong sự chuộc tội; rằng nó là, như trong những buổi hội họp ngày xưa, người ta đã nói, "cái được mua bởi chính huyết của Ngài."

Tôi sẽ bỏ cái ngoặc kép đi bắt đầu từ chỗ này và bất cứ khi nào tôi dùng đại từ giống trung "nó" thì có nghĩa là tôi đang nói về món quà. Khi tôi nói trực tiếp đến Thánh Linh, tôi sẽ dùng đại từ nhân xưng, "Ngài" hay "của Ngài", ám chỉ một ngôi vì Ðức Thánh Linh không phải là một nó, nhưng món quà của Thánh Linh trong tiếng Anh của chúng ta cần thiết phải gọi là "nó."

Page 42: Tong hop

Tôi nói rằng bạn cần phải hài lòng vì điều này không phải là một cái gì đó được cộng thêm hay là phụ thêm. Ðời sống đầy dẫy Thánh Linh không phải là một bản sao đặc biệt và xa xỉ của Cơ Ðốc giáo. Nó là một phần và là một chương trong toàn bộ kế hoạch của Ðức Chúa Trời cho dân sự Ngài.

Bạn cần phải hiểu rằng đời sống đầy dẫy Thánh Linh không có gì là dị thường. Tôi thừa nhận là nó khác bình thường, vì có rất ít người bước đi trong ánh sáng của nó, hay vui hưởng nó, nhưng nó không có gì là dị thường. Trong một thế giới nơi mà con người ở khắp mọi nơi đang đau yếu, bệnh tật, sức khỏe sẽ là điều khác thường, nhưng nó không phải là dị thường. Ðiều này khác thường chỉ vì đời sống thuộc linh của chúng ta bị đau bệnh trầm trọng và trở nên quá thấp kém so với mức độ mà nó phải có.

Một lần nữa bạn cần phải đồng ý rằng không có gì thuộc về Thánh Linh mang tính kỳ quặc, lập dị hay quái đản. Tôi tin rằng công việc của ma quỷ là vây quanh con người thuộc về Thánh Linh bằng sự kỳ quặc, thói lập dị hay trò quái đản, vì thế dân sự của Ðức Chúa Trời cảm thấy rằng đời sống đầy dẫy Thánh Linh là một đời sống dị thường và cá biệt, và có một chút huyền bí.

Các bạn của tôi ơi, điều này không đúng! Ma quỷ tạo nên điều đó. Hắn khai sinh ra nó, cũng chính ma quỷ đã từng một lần nói với người mẹ cổ xưa của chúng ta, "Mà chi, Ðức Chúa Trời há có phán dặn," và như vậy đã vu khống Ðức Chúa Trời quyền năng. Cũng chính ma quỷ đó đã vu khống Thánh Linh. Ðức Thánh Linh chẳng có gì dị thường, chẳng có gì lập dị, cũng không có gì kỳ quặc, chẳng có gì trái ngược với sự hoạt động bình thường của lòng con người. Ngài là bản chất Ðức Chúa Jêsus truyền ban cho những người tin. Bạn đọc bốn sách Phúc Âm và chính bạn đã thấy Ðức Chúa Jêsus tuyệt vời, bình tĩnh, thánh khiết, đúng mực, giản dị, ngọt ngào, tự nhiên và đáng yêu làm sao. Ngay cả những triết gia không tin nơi tính chất thần thánh của Ngài cũng phải thừa nhận sự đáng yêu của nhân cách Ngài.

Bạn phải chắc rằng mọi điều này đưa đến sự nhìn biết tội lỗi. Tức là bạn phải được thuyết phục đến một điểm, nơi mà bạn không còn thử thuyết phục Ðức Chúa Trời nữa.

Bạn không cần phải thuyết phục Ðức Chúa Trời đâu. Chẳng có sự thuyết

Page 43: Tong hop

phục nào là cần thiết. Tiến sĩ A.B. Simpson thường nói, "Ðược đầy dẫy Thánh Linh cũng dễ dàng như thở; bạn có thể dễ dàng hít vào và thở ra." Ông có viết một bài thánh ca về ảnh hưởng này. Tôi lấy làm tiếc rằng đó không phải là một bài thánh ca có giai điệu hay hơn, nhưng đó là một bài thần học tuyệt vời.

Trừ phi bạn đi đến điểm này trong sự lắng nghe, suy nghĩ, suy gẫm và cầu nguyện, chỗ mà bạn biết rằng đời sống đầy dẫy Thánh Linh là giành cho bạn, rằng không có gì nghi ngờ về điều đó cả - không có cuốn sách nào bạn đọc, bài giảng nào bạn nghe, tờ truyền đơn mà ai đó gởi cho bạn làm bạn phiền lòng; bạn thật thư thái đối với tất cả điều này; bạn được thuyết phục rằng trong huyết Ðức Chúa Jêsus, khi Ngài chết trên thánh giá, đã bao gồm cả việc bạn được quyền có một đời sống đầy dẫy Thánh Linh, như là điều đã được mua bởi chính huyết Ngài - trừ phi bạn được thuyết phục bởi điều đó, trừ phi bạn được thuyết phục rằng đời sống đó không phải là một điều gì được cộng thêm, một thứ dị thường, xa xỉ, một cái gì đó mà bạn phải đến với Ðức Chúa Trời, đấm tay vào ngực mà nài xin; tôi đề nghị với bạn điều này: Ngoại trừ việc suy gẫm lời Thánh Kinh chứa đựng lẽ thật về sự đầy dẫy Thánh Linh, đừng làm bất cứ điều gì khác hơn để được đầy dẫy. Hãy chạy đến với Lời của Ðức Chúa Trời và tới những phần có liên quan đến đề tài đang thảo luận hôm nay và suy gẫm về chúng; vì "đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Ðấng Christ được rao giảng" (Rô-ma 10:17). Ðức tin thật bắt nguồn không phải từ những bài giảng, nhưng từ Lời của Ðức Chúa Trời, và chỉ từ những bài giảng khi chúng thuộc về Lời của Ðức Chúa Trời. Tôi đề nghị bạn nên bình tĩnh và tin tưởng nơi điều này. Ðừng sôi nổi, đừng nản lòng. Thời điểm đen tối nhất là ở ngay trước khi bình minh. Có lẽ giây phút của sự chán nản mà bạn đang trải qua chỉ là bước khởi đầu cho một ánh mặt trời lóe sáng của sự sống đẹp và mới mẻ, nếu bạn cứ tiếp tục nhìn biết Ðức Chúa Trời.

Hãy nhớ rằng, nỗi sợ hãi là thuộc về xác thịt và sự hoảng loạn là thuộc về ma quỷ. Ðừng bao giờ sợ hãi, và cũng đừng bao giờ để cho mình trở nên hoảng loạn. Khi dân chúng đến với Ðức Chúa Jêsus, không có ai ngoại trừ một kẻ đạo đức giả, lại cần phải sợ hãi Ngài. Khi một kẻ giả hình đến gặp Ðức Chúa Jêsus, Ngài chỉ "cắt hắn ra thành từng mảnh nhỏ và đuổi đi xa với thân thể đẫm máu". Nếu họ sẵn sàng từ bỏ tội lỗi mình và bước đi với Chúa, và họ đến trong sự mộc mạc của tấm lòng rồi nói, "Lạy Chúa, Ngài muốn con làm chi?" Lúc đó Chúa sẽ giành hết mọi thời gian có trên trần thế này để nói với họ, giải thích và sửa sai bất cứ dấu vết sai

Page 44: Tong hop

trật nào hoặc những tư tưởng lầm lạc nào mà họ có. Ngài là Vị Giáo Sư ngọt ngào nhất, thấu hiểu nhất và tuyệt vời nhất trên thế giới, và Ngài chẳng bao giờ làm một ai hoảng loạn. Chính tội lỗi làm điều đó. Nếu có cảm giác hoảng loạn trong đời sống bạn, đó là vì có một tội lỗi nào đó trong đời sống mà bạn cần phải tống khứ nó ra.

Một lần nữa, trước khi bạn có thể được đầy dẫy Thánh Linh, bạn phải khao khát được đầy dẫy. Tại điểm này tôi gặp một số người hoang mang. Họ sẽ nói, "Làm thế nào mà ông lại nói rằng chúng tôi phải khao khát được đầy dẫy, vì ông biết chúng tôi mong muốn được như vậy? Chẳng phải chúng tôi đã nói riêng với ông rồi sao? Chẳng phải chúng tôi đã từng gọi điện cho ông sao? Chẳng phải là chúng tôi tối nay đến đây để nghe giảng về Thánh Linh à? Chẳng phải đây là tất cả những dấu hiệu đầy khích lệ đối với ông về việc chúng tôi thật ao ước được đầy dẫy Thánh Linh sao?"

Không cần thiết phải như vậy, và tôi sẽ giải thích tại sao. Chẳng hạn, bạn có chắc rằng bạn muốn thuộc về một thần linh nào khác hơn là của chính bạn không? Dù rằng thần linh đó thực sự là Thánh Linh Ðức Chúa Trời? Dù rằng Ngài là bản chất rất ngọt ngào của Ðức Chúa Jêsus dịu dàng? Dù rằng Ngài tiết độ, thuần khiết và tự do? Dù rằng Ngài là hiện thân của sự thông sáng, chính Ngài là Sự Thông Sáng, dù rằng Ngài có quyền năng chữa lành, hay sự xức dầu thánh để ban cho? Dù rằng Ngài thật đáng yêu như tấm lòng của Ðức Chúa Trời? Thánh Linh đó, nếu Ngài đã từng sở hữu bạn, sẽ là Chúa của đời sống bạn!

Tôi hỏi bạn, bạn có muốn Ngài trở thành Chúa của đời sống bạn không? Tôi biết bạn muốn có những ích lợi từ Ngài. Tôi cho điều đó là tất nhiên. Nhưng liệu bạn có muốn được Ngài sở hữu không? Bạn có muốn trao chiếc chìa khóa của linh hồn bạn cho Thánh Linh và nói rằng: "Lạy Chúa, từ bây giờ trở đi con không còn chìa khóa căn nhà của chính con nữa. Con đến và đi như Ngài phán bảo con" không? Bạn có sẵn lòng trao trọn công việc làm ăn của bạn, linh hồn bạn cho Chúa và nói với Ðức Chúa Jêsus rằng: "Ngài hãy ngồi lên chiếc ghế này, nhấc điện thoại lên và điều hành đội ngũ nhân viên và hãy là Chúa của doanh nghiệp này" không? Ðó là điều tôi muốn nói. Bạn có chắc là mình muốn điều này chứ? Và bạn có chắc rằng bạn khao khát nó không?

Bạn có chắc rằng bạn muốn nhân cách của mình được tiếp quản bởi Ðấng luôn mong đợi sự vâng phục những Lời đã được viết ra không? Bạn có

Page 45: Tong hop

chắc rằng bạn muốn nhân cách của bạn được tiếp quản bởi Ðấng không hề phạm phải những tội lỗi thuộc về cái tôi không (chẳng hạn như tính ích kỷ)? Bạn không thể vừa có Thánh Linh lại vừa có lòng ích kỷ cũng như là có sự thuần khiết và sự dơ nhớp trong cùng một nơi. Ngài sẽ không cho phép bạn nuông chiều thói tự tín. Ích kỷ, tự tín, công bình riêng, tự hâm mộ, tự đề cao, và tự ti đều ở dưới sự cấm đoán của Ðức Chúa Trời toàn năng, và Ngài không thể ban Thánh Linh quyền năng của Ngài đến sở hữu một tấm lòng chứa đựng những điều này.Một lần nữa tôi hỏi bạn, liệu bạn có để cho nhân cách của mình được tiếp quản bởi Ðấng vốn đứng ở một chỗ hoàn toàn đối lập với những con đường dễ dàng của thế gian không? Không chấp nhận điều ác, không cười trước những câu đùa thiếu đứng đắn, không cười cợt, nhưng lánh xa những điều Ðức Chúa Trời ghét. Thánh Linh của Ðức Chúa Trời, nếu Ngài tiếp quản, sẽ đưa bạn vào vị trí đối lập hoàn toàn với thế gian cũng như vị trí của Ðức Chúa Jêsus (khi còn tại thế). Thế gian đóng đinh Ðức Chúa Jêsus vì họ không thể chịu đựng được Ngài! Có một cái gì đó trong Ngài quở trách họ và họ ghét Ngài vì điều đó và cuối cùng đã đóng đinh Ngài. Thế gian căm ghét Thánh Linh cũng giống như là họ đã từng căm ghét Ðức Chúa Jêsus, Ðấng mà từ đó Ngài (Thánh Linh) đã tiếp tục hành động. Người anh em của tôi, bạn có chắc không? Bạn muốn sự giúp đỡ từ nơi Ngài, đúng vậy; bạn muốn được nhiều lợi ích từ Ngài, phải; nhưng bạn có sẵn lòng đi với Ngài theo một hướng hoàn toàn đối lập với thế gian hay không? Nếu bạn không sẵn lòng, bạn chẳng cần phải áp dụng thêm bất cứ điều gì vào những điều bạn có, vì bạn không thật sự muốn Ngài, bạn chỉ nghĩ là mình muốn mà thôi!

Một lần nữa, bạn có chắc rằng bạn cần được đầy dẫy không? Bạn không thể xoay xở với điều mà bạn đang có sao? Bạn đã đang làm tốt đấy chứ: Bạn cầu nguyện, đọc Kinh Thánh, dâng hiến cho việc truyền giáo, thích hát thánh ca; bạn tạ ơn Chúa vì bạn không rượu chè, cờ bạc, rằng bạn thành thật, bạn có thì giờ cầu nguyện ở nhà. Bạn vui mừng vì tất cả mọi điều này. Bạn không thể cứ tiếp tục như thế sao? Bạn có chắc rằng bạn cần bất cứ gì nhiều hơn những điều đó không? Tôi muốn công bằng với bạn. Tôi muốn làm điều mà Ðức Chúa Jêsus đã làm. Ngài quay sang đám đông đang theo Ngài, và giảng lẽ thật cho họ. Tôi không muốn đưa bạn vào đòi hỏi sai lầm. "Còn các ngươi, cũng muốn lui chăng?" Ðức Chúa Jêsus hỏi, và nhiều người quay đi. Nhưng Phi-e-rơ nói, "Lạy Chúa, chúng tôi đi theo ai? Chúa có những lời của sự sống đời đời" (Giăng 6:68). Và những người không quay đi là những người đã làm nên lịch sử. Nhóm người không quay đi chính là

Page 46: Tong hop

nhóm người đã ở đó khi Thánh Linh đến và đầy dẫy khắp mọi chỗ họ ngồi. Ðám đông đã ra về chẳng bao giờ biết được tất cả những điều đó là gì.

Nhưng có lẽ bạn cảm thấy trong lòng mình rằng bạn không thể tiếp tục như cách bạn là như vậy, rằng mức độ tình trạng thuộc linh mà bạn biết chính mình được kêu gọi đến là con đường ở quá xa với bạn. Nếu bạn cảm thấy rằng lòng bạn phải có một cái gì đó nếu không thì nó sẽ chẳng bao giờ được thỏa mãn, rằng có những mức độ thuộc linh, những sự sâu nhiệm huyền bí, và sự thông công thuộc linh rất gần gũi, sự thánh khiết và quyền năng mà bạn chưa hề biết đến, rằng có một bông trái bạn biết bạn phải kết quả, nhưng lại không có; chiến thắng bạn biết rằng bạn phải có, nhưng bạn không được - tôi muốn nói, "Hãy tiến lên," vì Ðức Chúa Trời có một điều gì đó cho bạn tối hôm nay.

Có một sự cô đơn thuộc linh, một sự cô độc bên trong, một nơi bên trong, chỗ mà Ðức Chúa Trời đưa người tìm kiếm đến, nơi anh ta cô đơn đến độ dường như không có một thành viên nào khác của Hội Thánh trên thế giới. À, khi bạn đến đó, có một sự tăm tối của tâm trí, một sự trống rỗng của lòng, sự cô đơn của linh hồn, nhưng nó là bước mở đầu cho bình minh. Ôi Chúa, bằng cách nào đó, hãy đưa chúng con đến với ánh bình minh!

Sau đây là cách để nhận lãnh. Trước hết, dâng thân thể mình cho Ngài (Rô-ma 12:1-2). Ðức Chúa Trời không thể đổ đầy cái mà Ngài không có. Bây giờ tôi hỏi bạn: Bạn có sẵn sàng dâng thân thể mình với mọi hoạt động của nó và mọi thứ mà nó có - tâm trí, nhân cách, tâm linh, tình yêu, những khát vọng, tất cả mọi thứ của bạn không? Ðó là điều trước tiên. Ðiều đó là một hành động đơn giản và dễ dàng - dâng thân thể mình. Bạn có sẵn sàng làm điều đó không?

Bây giờ là việc thứ hai, hãy cầu xin (Lu-ca 11:9-11), và tôi đặt sang một bên mọi chống đối mang tính chất thần học đối với phân đoạn này. Người ta nói rằng nó không dành cho ngày nay. Thế thì tại sao Ðức Chúa Trời lại đặt để nó vào Kinh Thánh? Tại sao Ngài không để nó ở một nơi nào khác; tại sao Ngài đặt nó vào nơi tôi có thể thấy được nếu Ngài không muốn tôi tin nó? Ðó là tất cả cho chúng ta, và nếu Ðức Chúa Trời muốn làm điều đó, Ngài có thể ban cho mà không cần có sự cầu xin, nhưng Ngài lựa chọn việc chúng ta phải cầu xin. "Hãy cầu ta, ta sẽ ban cho con" (Thi thiên 2:8) luôn luôn là mệnh lệnh của Ðức Chúa Trời; thế

Page 47: Tong hop

thì tại sao bạn không cầu xin?

Công vụ 5:2 nói với chúng ta việc thứ ba. Ðức Chúa Trời ban Thánh Linh cho những ai vâng phục Ngài. Bạn có sẵn lòng vâng phục và làm điều mà bạn được bảo phải làm không? Ðiều đó có nghĩa là gì? Chỉ đơn giản là sống theo Thánh Kinh, như điều mà bạn hiểu về nó. Ðơn giản thôi, nhưng mang tính chất cách mạng.

Ðiều kế tiếp là có đức tin (Ga-la-ti 3:2). Chúng ta tiếp nhận Thánh Linh bởi đức tin như chúng ta tiếp nhận Chúa trong sự cứu rỗi bởi đức tin. Ngài đến như một món quà của Ðức Chúa Trời ban cho chúng ta trong quyền năng. Trước tiên, Ngài đến ở một mức độ, một lượng nào đó khi chúng ta cải đạo; nếu không thì chúng ta chẳng thể nào cải đạo được. Không có Ngài chúng ta không thể được tái sanh, vì chúng ta được sanh ra từ Thánh Linh. Nhưng bây giờ tôi đang nói về một điều khác, một điều cao hơn nữa. Tôi đang nói đến sự đến và chiếm hữu toàn bộ thân thể và tâm trí, đời sống và tấm lòng, tiếp quản hoàn toàn nhân cách, mềm mại, nhưng trực tiếp và thẳng thắn đóng ấn chúng ta thuộc về Ngài, vì thế mà chúng ta có thể trở thành nơi ngự của Ðức Chúa Trời qua Ðức Thánh Linh.

Thế cho nên, bây giờ giả sử như chúng ta đang hát, hãy hát Kìa Thần Yên Ủi giáng lai, vì Ngài đã đến. Nếu Ngài chưa đến lòng bạn một cách trọn vẹn, Ngài sẽ đến; mặc dù Ngài đã đến trần gian này rồi. Ngài đang ở đây và đã sẵn sàng, khi chúng ta dâng cái bình (dầu) của mình lên, Ngài sẽ đổ đầy bình nếu chúng ta cầu xin và tin quyết. Bạn sẽ làm điều đó chứ?

Đức chúa Trời Cần Được Yêu Mến

Ðức Chúa Trời là Ðấng mà Ngài là như vậy thì Ngài phải luôn được tìm kiếm vì chính Ngài, chứ đừng bao giờ xem Ngài như là một phương tiện để hướng về một cái gì đó khác hơn.

Bất kỳ ai tìm kiếm những mục đích khác hơn là Ðức Chúa Trời, thì anh ta phải tự mình làm lấy; anh ta có thể đạt được những mục đích đó nếu có đủ năng lực, nhưng sẽ chẳng bao giờ có Ðức Chúa Trời. Không thể nào tìm gặp Ðức Chúa Trời cách tình cờ được. "Các ngươi sẽ tìm ta, và gặp được, khi các ngươi tìm kiếm ta hết lòng" (Giê-rê-mi 29:13).

Page 48: Tong hop

Bất kỳ ai tìm kiếm Ðức Chúa Trời như là một phương tiện để hướng về những mục đích lòng mình khao khát sẽ không gặp được Ngài. Ðức Chúa Trời quyền năng, Ðấng dựng nên thiên đàng và trần gian, sẽ không phải là một trong nhiều kho báu, cũng không phải là kho báu lớn nhất so với mọi kho báu. Ngài là Mọi sự trong mọi sự hoặc Ngài không là gì cả. Ðức Chúa Trời không thể bị sử dụng. Sự nhân từ và ân điển của Ngài là vô hạn và sự hiểu biết, kiên nhẫn của Ngài vượt quá mọi sự đo lường, nhưng Ngài sẽ không giúp con người đạt được những mục đích vốn, khi đã đạt được, sẽ thay thế vị trí Ngài, xét về mọi quyền hạn, và bị nắm giữ trong sở thích và tình cảm của họ.

Nhưng Cơ Ðốc giáo phổ thông có một trong những đề tài hữu hiệu nhất để nói về ý niệm Ðức Chúa Trời tồn tại để giúp đỡ con người tiến bộ trong thế giới. Ðức Chúa Trời của người nghèo đã trở thành Ðức Chúa Trời của một xã hội giàu có. Ðấng Christ không còn từ chối làm một vị thẩm phán hay một người chia phần giữa những anh em đói khát tiền bạc. Bây giờ Ngài có thể bị thuyết phục để giúp một anh em đã tiếp nhận Ngài trở nên tốt hơn người anh em chưa làm điều đó.

Một ví dụ thô thiển của cái nỗ lực hiện tại để sử dụng Ðức Chúa Trời cho những mục đích ích kỷ là trường hợp người diễn viên hài kịch nổi tiếng, sau hàng loạt các thất bại, đã hứa với một ai đó mà anh ta gọi là Chúa rằng nếu Ngài giúp anh ta thành đạt trong thế giới giải trí, anh ta sẽ báo đáp lại Ngài bằng cách dâng hiến cách rời rộng để chăm sóc những đứa trẻ bệnh hoạn. Chẳng bao lâu sau đó anh vớ được những buổi diễn lớn trong các hộp đêm và trên truyền hình. Anh ta đã giữ lời mình và bỏ ra một số tiền lớn để xây dựng những bệnh viện cho trẻ em. Anh ta cảm thấy những đóng góp từ thiện này là một cái giá thấp để trả cho sự thành công trong một trong những lĩnh vực nhớp nhúa nhất của nỗ lực con người.

Một ai đó có thể bào chữa cho hành động của người làm trò vui này như là một điều gì đó được mong đợi của một kẻ ngoại giáo thế kỷ hai mươi; nhưng việc một số đông những người theo Tin Lành ở Bắc Mỹ nên thực sự tin rằng Ðức Chúa Trời có liên quan gì đó đến toàn bộ công việc vốn là điều không dễ dàng bị xem nhẹ. Quan điểm thấp kém và sai lầm này về Ðức Chúa Trời là một lý do chính cho tính đại chúng rộng lớn mà Ðức Chúa Trời có được trong những ngày này giữa vòng những người phương Tây ăn sung mặc sướng.

Page 49: Tong hop

Kinh Thánh dạy rằng chính Ðức Chúa Trời là mục đích con người đã được tạo dựng. "Ở trên trời tôi có ai trừ ra Chúa? Còn dưới đất tôi chẳng ước ao người nào khác hơn Chúa," tác giả Thi thiên đã thốt lên như thế (Thi thiên 73:25). Mạng lệnh đầu tiên và lớn nhất là yêu Chúa với trọn cả năng lực mà chúng ta có. Nơi nào tình yêu đó tồn tại, nơi đó không thể có một mục đích thứ hai nào khác. Nếu chúng ta yêu Chúa nhiều như điều chúng ta phải yêu thì chắc chắn một điều là chúng ta không thể mơ tưởng về một đối tượng yêu thích nào khác hơn là chính Ngài, điều mà Ngài có thể giúp chúng ta có được.

Bernard ở Clairfaux bắt đầu luận thuyết nhỏ bé nhưng sáng chói của mình về tình yêu của Ðức Chúa Trời với một câu hỏi và một lời đáp. Câu hỏi là: "Tại sao chúng ta phải yêu Chúa?" và lời đáp là: "Vì Ngài là Ðức Chúa Trời." Ông phát triển ý tưởng đó thêm hơn, nhưng đối với một tấm lòng đã được khai sáng thì không cần nói thêm gì nữa cả. Chúng ta phải yêu mến Ðức Chúa Trời vì Ngài là Ðức Chúa Trời. Các thiên thần không thể nghĩ xa hơn điều này.

Là Ðấng vốn là như vậy (being who he is), Ðức Chúa Trời được yêu mến vì chính Ngài. Ngài là lý do để chúng ta yêu Ngài, cũng giống như Ngài là lý do của sự yêu thương Ngài dành cho chúng ta cùng với mọi việc khác Ngài đã thực hiện, đang và sẽ không ngừng thực hiện trên thế giới này. Lý do đầu tiên của Ðức Chúa Trời đối với mọi thứ là sự vui thích tốt lành của Ngài. Tìm kiếm những lý do thứ nhì là một việc vô cớ và hầu như vô ích. Nó cung cấp việc làm cho các nhà thần học và làm dầy thêm những cuốn sách giáo lý, nhưng việc nó lật ngược bất cứ những sự giải thích đúng nào là điều đáng ngờ.

Nhưng bản chất của Ðức Chúa Trời là chia sẻ. Những hành động đầy quyền năng của sự sáng tạo và chuộc tội đã được thực hiện vì ý muốn tốt lành của Ngài, nhưng điều vui thích của Ngài vượt quá mọi thứ được tạo dựng. Một người nhìn xem đứa trẻ khỏe mạnh đang chơi đùa hay lắng nghe tiếng chim hót lúc hoàng hôn và anh ta sẽ biết rằng Ðức Chúa Trời muốn vũ trụ của Ngài là một chốn đầy dẫy niềm vui.

Những ai đã được sự ban cho thuộc linh để yêu Ðức Chúa Trời vì chính Ngài sẽ tìm thấy hàng ngàn suối nước tuôn ra từ ngai vàng lấp lánh sắc cầu vồng và đem đến vô số của báu vốn được nhận lãnh với sự tạ ơn hết lòng, giống như dòng chảy tình yêu của Ðức Chúa Trời luôn tuôn đổ ra cho con cái Ngài. Mỗi quà tặng là một phần thưởng của ân điển, cái

Page 50: Tong hop

có thể được thích thú thưởng thức mà không tổn hại gì cho linh hồn, bởi nó không được tìm kiếm vì chính nó. Những điều này bao gồm cả những phước hạnh đơn giản của sự sống chẳng hạn như sức khỏe, một căn nhà, gia đình, những người bạn hợp tính, đồ ăn, nơi nương dựa, những niềm vui thuần khiết của tự nhiên hay những thú vui có tính chất nhân tạo nhiều hơn như nhạc và họa.

Nỗ lực tìm kiếm những kho báu này bởi sự tìm kiếm trực tiếp trừ Ðức Chúa Trời ra đã là một hoạt động chính yếu của loài người xuyên suốt các thế kỷ; và điều này đã là gánh nặng cũng như nỗi phiền muộn của con người. Nỗ lực đạt được chúng như một động cơ kín đáo đằng sau việc tiếp nhận Ðấng Christ có thể là một cái gì đó mới dưới mặt trời; nhưng dù mới hay cũ, nó vẫn là một tội lỗi đưa đến sự đoán phạt vào giờ phút cuối cùng.

Ðức Chúa Trời muốn chúng ta yêu mến Ngài vì chính Ngài mà thôi, không vì những lý do kín giấu nào khác, tin cậy Ngài đối với tất cả chúng ta là cái mà bản chất chúng ta đòi hỏi. Chúa chúng ta đã phán một điều mà không còn gì sánh bằng: "Nhưng trước hết hãy tìm kiếm nước Ðức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa" (Ma-thi-ơ 6:33).

Để Đúng Phải Suy Nghỉ Đúng

Những gì chúng ta suy nghĩ khi chúng ta được tự do suy nghĩ theo ý muốn chính là cái mà chúng ta là như vậy hay sẽ sớm trở thành như vậy.

Kinh Thánh đã nói nhiều về những tư tưởng của chúng ta; thuyết Phúc Âm ngày nay không có gì thực tế hơn để nói về chúng. Lý do Kinh Thánh nói nhiều là vì những tư tưởng của chúng ta là cực kỳ quan trọng đối với chính mình; lý do thuyết Phúc Âm nói quá ít là vì chúng ta phản ứng quá mạnh trước sự sùng bái “tư tưởng”, chẳng hạn (trào lưu) Tư Tưởng Mới (New Thought), Hiệp Nhất (Unity), Khoa Học Cơ Đốc (Christian Science) và những cái tương tự như vậy. Những sự sùng bái này khiến tư tưởng chúng ta trở nên rất gần gũi với mọi sự vật và chúng ta đối đầu bằng cách xem chúng như không có gì cả. Cả hai vị trí đều sai trật.

Những tư tưởng tự nguyện của chúng ta không chỉ thể hiện chúng ta là gì, mà chúng còn tiên đoán chúng ta sẽ trở thành cái gì. Ngoại trừ những hành vi cơ bản phát xuất từ bản năng tự nhiên, tất cả các hành

Page 51: Tong hop

vi có ý thức đều đến trước và hình thành từ trong tư tưởng chúng ta. Ý chí có thể trở thành đầy tớ cho tư tưởng, và ở một mức độ rộng lớn hơn, ngay cả những tình cảm của chúng ta cũng đi theo điều chúng ta suy nghĩ. “Càng nghĩ về nó nhiều bao nhiêu thì tôi càng điên tiết hơn” là câu nói mà một con người bình thường hay phát ra, và việc làm đó không chỉ thể hiện chính xác các quá trình tư duy của cá nhân anh ta, nhưng cũng cống nạp một cách vô ý thức cho sức mạnh của tư tưởng. Tư tưởng khuấy động cảm xúc và cảm xúc làm phát sinh hành động. Đó là cách chúng ta đã được tạo dựng và chúng ta cũng chấp nhận nó.

Các sách văn thơ và tiên tri chứa đựng vô số lời đề cập đến sức mạnh của việc tư tưởng đúng đã đưa đến cảm xúc tôn giáo và thúc đẩy hành vi đúng đắn. “Tôi tư tưởng về đường lối tôi, bèn trở bước tôi về chứng cớ Chúa.” “Lòng tôi nóng nảy trong mình tôi, đương khi tôi suy gẫm, lửa cháy lên, bấy giờ lưỡi tôi nói.” Hết lần này lại lần khác, các tác giả trong Cựu Ước thúc đẩy chúng ta yên lặng và suy nghĩ về những điều cao cả, thánh khiết như là một bước mở đầu cho sự biến đổi đời sống trở nên tốt hơn hay một việc làm tốt hoặc một hành động can đảm.

Cựu Ước không hề cô đơn trong sự đề cao sức mạnh của tư tưởng con người, cái mà Đức Chúa Trời đã ban tặng. Đấng Christ dạy rằng con người làm ô uế chính mình bởi tư tưởng tội lỗi và thậm chí còn đi xa hơn đến chỗ đặt tư tưởng ngang bằng một hành động: “Hễ ai ngó đờn bà mà động tình tham muốn thì trong lòng đã phạm tội tà dâm cùng người rồi.” Phao-lô kể ra một loạt các đức tính sáng chói và truyền bảo: “Anh em phải nghĩ đến.”Những trích dẫn này là bốn trong số hàng trăm chỗ khác Kinh Thánh viết về tư tưởng con người. Suy nghĩ về Đức Chúa Trời và những điều thánh khiết tạo nên một môi trường đạo đức thuận lợi cho sự tăng trưởng của đức tin, tình yêu thương, sự khiêm nhường và lòng kính sợ Chúa. Chúng ta không thể dùng tư tưởng để tái sanh tấm lòng, cất tội lỗi đi hay thay đổi tính nết của mình. Chúng ta cũng không thể dùng tư tưởng mà làm chúng ta cao thêm một chút, hay khiến cái xấu thành cái tốt, hóa đen ra trắng. Chủ trương như thế là xuyên tạc lẽ thật Thánh Kinh và dùng nó cho những việc làm sai trái của cá nhân chúng ta. Nhưng bởi tư tưởng do Thánh Linh cảm thúc, tâm trí chúng ta sẽ được thuần khiết và trở thành nơi thiêng liêng Đức Chúa Trời hài lòng khi ngự vào.

Trong một đoạn ở bên trên tôi có đề cập đến “tư tưởng tự nguyện” của

Page 52: Tong hop

chúng ta và tôi đã thận trọng khi dùng từ đó. Trong hành trình chúng ta băng qua thế giới tội lỗi và đầy căm thù này, nhiều tư tưởng sẽ xuất hiện trong đầu chúng ta mà chúng ta không thích và cũng là những tư tưởng chúng ta không có lấy một chút đồng tình nào về phương diện đạo đức. Sự cần thiết phải kiếm sống có thể ràng buộc chúng ta nhiều ngày liền vào sự tiếp nhận những tư tưởng mà không có tra xét. Nhận thức thông thường về các việc làm của những người chung quanh sẽ gieo các tư tưởng mâu thuẫn vào linh hồn Cơ Đốc nhân chúng ta. Những cái này ảnh hưởng chúng ta chút ít. Đối với những tư tưởng này, chúng ta không phải chịu trách nhiệm và chúng có thể lướt qua tâm trí chúng ta như con chim bay trong không khí, không để lại một dấu vết gì. Chúng không để lại ảnh hưởng lâu dài trên chúng ta vì chúng không phải là của chúng ta. Chúng là những kẻ xâm nhập không được hoan nghênh, những cái chúng ta không dành một chút tình cảm nào, và có thể thoát khỏi một cách nhanh chóng.

Bất kỳ ai muốn kiểm tra tình trạng thuộc linh thật của mình có thể kiểm tra bằng cách lưu ý xem những tư tưởng tự nguyện của mình trong những giờ qua hay những ngày qua là gì. Anh ta nghĩ gì khi được tự do để suy nghĩ về những điều làm mình vui lòng? Lòng anh hướng về điều gì khi nó được tự do để xoay về hướng mà nó muốn? Khi con chim tư tưởng được thả ra, nó bay lượn rồi đậu lên những cái xác trôi nổi như con quạ hay giống như con bồ câu lượn vòng rồi trở về chiếc thuyền của Đức Chúa Trời? Việc kiểm tra đó rất dễ, và nếu chúng ta thành thật với chính mình, chúng ta có thể khám phá ra không chỉ việc chúng ta là gì mà cả việc chúng ta sẽ trở nên cái gì. Chúng ta sẽ sớm trở thành cái mà những tư tưởng tự nguyện của chúng ta hướng đến.

Khi tư tưởng khuấy động cảm xúc của chúng ta, và vì nó thế ảnh hưởng mạnh mẽ đến ý chí, thì việc ý chí có thể là và nên là ông chủ của những tư tưởng là một điều cần lưu ý đến. Mỗi một con người có thể quyết định điều mà anh ta sẽ suy nghĩ đến. Dĩ nhiên một con người lo lắng hay đang bị cám dỗ sẽ thấy khó điều khiển tư tưởng và ngay cả khi tập trung vào một đề tài xứng đáng, những tư tưởng hoang dại và thoáng qua vẫn có thể xuất hiện trong tâm trí anh như một tia chớp nóng bỏng giữa đêm hè. Những cái này có khuynh hướng quấy nhiễu hơn là gây hại và trong cuộc chạy đường dài thì nó cũng không khác gì mấy.

Cách tốt nhất để điều khiển tư tưởng chúng ta là dâng tâm trí mình lên cho Đức Chúa Trời và hoàn toàn đầu phục Ngài. Đức Thánh Linh sẽ

Page 53: Tong hop

nhận lấy nó và điều khiển ngay lập tức, rồi sẽ rất dễ dàng khi suy nghĩ đến những điều thuộc linh, đặc biệt là nếu chúng ta huấn luyện tư tưởng mình bằng những khoảng thời gian dài trong sự cầu nguyện hàng ngày. Bài tập trong nghệ thuật cầu nguyện bằng tâm trí (tức là thưa chuyện với Đức Chúa Trời trong khi chúng ta làm việc hay đi lại) sẽ giúp chúng ta hình thành thói quen tư tưởng những điều thánh khiết.

Đức Tin: Giáo Lý Bị Hiểu Lầm

Trong chương trình cứu rỗi thiêng thượng, giáo lý đức tin là trung tâm. Ðức Chúa Trời hướng Lời Ngài vào đức tin, và nơi nào không có đức tin, nơi đó hoàn toàn không thể có sự cứu rỗi thật. "Vả, không có đức tin thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài" (Hê-bơ-rơ 11:6).

Mọi ơn phước tuôn chảy từ sự chuộc tội của Ðấng Christ đến với mỗi cá nhân qua cánh cổng đức tin. Sự tha thứ, sự tẩy sạch, sự tái sanh, Ðức Thánh Linh, sự đáp lại lời cầu xin, được ban cho và được tiếp nhận bởi đức tin. Không hề có một phương cách nào khác! Ðây là một giáo lý Phúc Âm thông thường và được chấp nhận bất cứ nơi nào thập giá của Ðấng Christ được thấu hiểu.

Vì đức tin có tính chất sống còn đối với mọi hy vọng của chúng ta, nên nó cũng cần thiết như thế đối với sự đầy trọn của mọi khát vọng trong lòng chúng ta, chúng ta không dám coi nó là không quan trọng. Bất cứ gì đi kèm với đức tin, chứa đựng nhiều niềm vui hay nỗi buồn, vốn thực sự quyết định thiên đàng hay địa ngục là của chúng ta, là rất quan trọng, không thể nào xao lãng được. Chúng ta không được để cho chính mình dốt nát hay tin tưởng sai lầm. Chúng ta phải biết.

Trong một vài năm gần đây, lòng tôi bị bối rối về giáo lý đức tin khi nó được tiếp nhận và dạy dỗ giữa vòng các Cơ Ðốc nhân Tin Lành ở khắp mọi nơi. Ðức tin đã được nhấn mạnh rất nhiều trong những hệ phái chính thống, và điều đó là tốt, nhưng tôi vẫn băn khoăn. Một cách thật đặc biệt, điều tôi lo sợ là khái niệm hiện tại về đức tin không phải là khái niệm đức tin trong Kinh Thánh; rằng khi các giáo viên trong thời đại chúng ta dạy dỗ, họ dùng những lời không có cùng một ý nghĩa với những lời mà các trước giả Kinh Thánh đã dùng.

Những nguyên nhân khiến tôi băn khoăn là:

Page 54: Tong hop

1. Sự thiếu hụt bông trái thuộc linh trong đời sống của quá nhiều người tuyên bố là mình có đức tin.

2. Sự hiếm hoi của một thay đổi hoàn toàn trong hành vi và quan điểm chung của những con người tuyên bố họ có đức tin mới trong Ðấng Christ, như Ngài là Cứu Chúa của cá nhân họ.

3. Sự thất bại của các giáo viên chúng ta trong việc định nghĩa hay ngay cả mô tả điều mà từ đức tin ám chỉ đến.

4. Sự thất bại đáng buồn của số đông những người tìm kiếm, dù họ rất nóng lòng, để hiểu được giáo lý (đức tin) hay để nhận lãnh bất cứ kinh nghiệm thỏa lòng nào qua nó.

5. Mối nguy hiểm thật sự đó là một giáo lý được lập đi lập lại như vẹt một cách rộng rãi, và được tiếp nhận mà thiếu đi óc phê bình (nhận xét) bởi quá nhiều người, đã bị chính họ hiểu sai lệch đi.

6. Tôi đã nhìn thấy đức tin được trình bày như là một điều thay thế cho sự vâng lời, một sự trốn chạy khỏi thực tại, một nơi trốn tránh khỏi nhu cần phải động não nhiều, một nơi ẩn náu của bản tính yếu đuối. Tôi cũng biết những người bị gọi nhầm bởi tên của đức tin bằng tinh thần động vật cấp cao, chủ nghĩa lạc quan tự nhiên, xúc cảm tình cảm và chứng co giật thần kinh.

7. Một cảm giác trung thực phải cho chúng ta biết rằng bất cứ điều gì không tạo nên một sự thay đổi nào đó trong lòng người tuyên bố có nó cũng không tạo nên sự khác biệt nào đối với Ðức Chúa Trời, và đây quả là một sự thật rất dễ quan sát: Ðối với vô số người, sự thay đổi từ chỗ không có đức tin cho đến chỗ có đức tin thật tình chẳng tạo nên một sự khác biệt nào trong đời sống người đó.

Có lẽ chúng ta sẽ biết đức tin là gì nếu trước tiên chúng ta lưu ý việc đức tin không phải là gì. Ðức tin không phải là việc tin vào một lời tuyên bố mà chúng ta biết là thật. Tâm trí con người được tạo dựng theo cách mà nó cần thiết phải tin khi chứng cớ được trình bày cho nó có tính thuyết phục. Nó không thể tự giúp chính mình. Khi chứng cớ không thể thuyết phục được, thì không thể có chút đức tin nào. Không một lời đe dọa, không một sự trừng phạt nào có thể bắt buộc tâm trí tin vào những

Page 55: Tong hop

điều trái ngược với chứng cớ.

Ðức tin được đặt nền tảng trên lý trí là một loại đức tin, điều này là thật; nhưng nó không phải là đặc tính của đức tin trong Kinh Thánh, vì nó tuyệt đối theo sau chứng cớ và không có chút gì dính dáng đến bản chất đạo đức hay thuộc linh bên trong. Sự thiếu hụt đức tin cũng không thể đặt nền tảng trên lý trí chống lại bất kỳ ai, vì bằng chứng, chứ không phải cá nhân nào, quyết định lời phán quyết. Tống một người vào địa ngục chỉ vì tội anh ta là bám theo bằng chứng vì kết luận chính xác của nó rõ ràng là quá bất công; đoán xét một tội nhân trên nền tảng là anh ta đã quyết định dựa vào những sự thật rõ ràng sẽ biến sự cứu rỗi thành hậu quả những việc làm của một định luật chung của tâm trí như có thể áp dụng với Giu-đa hay Phao-lô. Nó sẽ đưa sự cứu rỗi ra khỏi lĩnh vực ý chí và đẩy vào lĩnh vực tinh thần, nơi mà, theo Lời Kinh Thánh, chắc chắn nó không thuộc về đó.

Ðức tin thật dựa trên bản chất của Ðức Chúa Trời và không đòi hỏi thêm bằng chứng nào khác hơn sự trọn vẹn về mặt đạo đức của Ðấng không thể nói dối. Ðức Chúa Trời đã phán, như thế là đủ rồi, và dẫu rằng lời phán đó có trái ngược với một trong 5 giác quan của con người cũng như mọi kết luận logic, người tin vẫn tiếp tục tin. "Hãy kể Ðức Chúa Trời là thật và mọi con người đều là dối trá," là ngôn ngữ của đức tin thật. Thiên đàng chấp nhận đức tin đó vì nó chỉ xuất phát từ những chứng cớ của Chúa và nảy nở từ trên ngực Ngài.

Trong những năm gần đây, giữa vòng những người Tin Lành nào đó đã nổi lên một cuộc cách mạng được sắp đặt nhằm để chứng minh những lẽ thật của Kinh Thánh bằng cách áp dụng khoa học. Chứng cớ được tìm kiếm trong thế giới tự nhiên để cung cấp cho sự khải thị siêu nhiên. Bông tuyết, máu, những hòn đá, các tạo vật biển kỳ lạ, các con chim và nhiều vật tự nhiên khác được đưa ra như bằng chứng cho thấy Kinh Thánh là thật. Cái này được xem như là một nguồn cung cấp lớn cho đức tin; ý tưởng là nằm ở chỗ này: Nếu một giáo lý Thánh Kinh có thể được chứng minh là thật, đức tin sẽ nảy nở và đơm hoa như là một kết quả.

Ðiều mà những anh em này không thấy đó là việc họ cảm thấy cần thiết phải tìm kiếm bằng chứng cho những lẽ thật của Kinh Thánh cho thấy một điều hoàn toàn khác biệt: sự vô tín cố hữu của họ. Khi Ðức Chúa Trời phán, thì kẻ vô tín lại hỏi, "Làm sao tôi biết rằng điều này là thật?" TA

Page 56: Tong hop

LÀ ÐẤNG TA LÀ (TA LÀ ÐẤNG TỰ HỮU HẰNG HỮU) là nền tảng duy nhất cho đức tin. Ðào sâu vào các hòn đá, hay lặn dưới biển sâu nhằm kiếm tìm những bằng chứng chứng minh Kinh Thánh tức là lăng mạ Ðấng đã viết nên nó. Chắc chắn tôi không tin rằng điều này được cố tình thực hiện; nhưng tôi không thể hiểu làm thế nào chúng ta có thể thoát khỏi kết luận là nó đã được thực hiện.

Ðức tin, như Kinh Thánh viết, là đức tin nơi Ðức Chúa Trời và Con Ngài là Ðức Chúa Jêsus Christ; nó là sự hồi đáp của linh hồn trước bản chất thánh khiết được bày tỏ trong Kinh Thánh; và lời hồi đáp này cũng không thể nào tách khỏi công việc bên trong mà trước đó Ðức Thánh Linh đã hoàn tất. Ðức tin là một món quà của Ðức Chúa Trời cho một linh hồn ăn năn và hoàn toàn không có chút dính líu gì đến những cảm giác hay các dữ kiện mà nó có. Ðức tin là một phép lạ; nó là khả năng Ðức Chúa Trời ban cho để tin Con Ngài; và bất cứ gì không kết quả trong hành động thuận hiệp với ý muốn Ðức Chúa Trời đều không phải là đức tin, mà là một cái gì đó khác hơn.

Ðức tin và những đức hạnh là hai mặt của cùng một đồng tiền. Thật vậy, bản chất cốt lõi của đức tin có tính chất đạo đức. Bất cứ loại đức tin nào được tuyên xưng là ở trong Ðấng Christ, tin rằng Ngài là Cứu Chúa của cá nhân, mà không đưa sự sống vào dưới sự vâng phục Ðấng Christ cách trọn vẹn, như là Chủ của mình, thì đức tin đó còn thiếu và chắc chắn sẽ phản bội nạn nhân của nó trong giây phút cuối cùng.

Người tin thì sẽ vâng lời; thất bại trong sự vâng lời là bằng chứng đầy sức thuyết phục của việc không có một đức tin thật hiện diện. Ðể đạt được những điều không thể làm được, Ðức Chúa Trời phải ban đức tin, hoặc là sẽ không có gì được thực hiện, và Ngài chỉ ban đức tin cho những tấm lòng biết vâng lời. Nơi nào có sự ăn năn thật, nơi đó có sự vâng lời; vì sự ăn năn không chỉ là buồn đau về những sai lầm và tội lỗi trong quá khứ, nó cũng là một quyết định để bắt đầu làm theo ý muốn Ðức Chúa Trời ngay khi Ngài bày tỏ nó cho chúng ta.

Đức Tin Thách Thức Thất Bại

Trong thế giới này, con người được đánh giá bằng khả năng làm việc của mình. Họ được đánh giá tùy vào quãng đường họ đã đi được trên lộ

Page 57: Tong hop

trình tiến lên ngọn đồi của thành tựu. Tận bên dưới là sự thất bại hoàn toàn; cao ngất bên trên là sự thành công vượt bậc; ở giữa hai thái cực này, số đông những con người văn minh đổ mồ hôi và tranh chiến từ khi còn trẻ cho đến lúc già nua.Một số thì chịu thua, tuột xuống tận đáy và trở thành cư dân của những khu nhà ổ chuột. Tại nơi đó, tham vọng ra đi và tan vỡ, họ sinh tồn nhờ vào của bố thí cho đến khi tự nhiên ngăn họ lại và cái chết đến cướp họ đi.Trên đỉnh chỉ có một số ít người, bởi sự kết hợp của tài năng, sự làm việc chăm chỉ, cùng với cơ hội tốt, đã thành công và vươn tới đích; mọi sự xa hoa, danh vọng và quyền lực đều có ở đó.

Nhưng bên trong tất cả những điều này không hề có chút niềm vui nào cả. Nỗ lực để thành công đã tạo nên quá nhiều áp lực đè nén các dây thần kinh. Sự bận bịu quá mức trong việc tranh chiến để thắng lợi đã thu hẹp tâm trí, làm tấm lòng trở nên cứng cỏi, và ngăn chặn hàng ngàn mặc khải sáng chói vốn có thể đem đến niềm hạnh phúc nếu chỉ dành chút ít thời gian lưu tâm đến chúng. Người leo đến đỉnh thường không tìm được nguồn hạnh phúc lâu dài. Anh ta trở nên đắm chìm trong nỗi lo sợ rằng mình sẽ trượt ngã và buộc phải nhường vị trí của mình cho một người nào khác. Những ví dụ đại loại như thế thường thấy trong cách mà các ngôi sao điện ảnh theo dõi mức độ người khác yêu thích mình hay cách một chính trị gia lo âu trước sự ủng hộ của dân chúng.

Một viên chức đắc cử biết rằng qua cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 8, uy tín của ông giảm 2% so với hồi tháng 3, và ông bắt đầu đổ mồ hôi giống như một tên tội phạm đang trên đường đến nhà giam. Một cầu thủ sống bằng bàn thắng, một thương gia bằng cái biểu đồ gia tăng của mình và một ngôi sao nhạc giao hưởng bằng đồng hồ đo tiếng vỗ tay. Chẳng có gì lạ khi một người thách đấu trên vũ đài khóc nức nở khi anh ta không thể hạ gục đương kim vô địch. Việc đứng thứ nhì khiến anh ta rất buồn bã; đứng nhất mới làm anh vui.Ham thích thành công là một điều tốt đã bị xuyên tạc. Khao khát hoàn thành mục đích chúng ta được tạo dựng dĩ nhiên là một món quà từ Đức Chúa Trời, nhưng tội lỗi đã xoay ngược nó lại và đẩy nó vào tham vọng ích kỷ các địa vị đầu tiên và những vinh dự cao nhất. Vì tham vọng này, cả thế giới loài người bị điều khiển bởi một con quỷ, và không có lối thoát.

Khi chúng ta đến với Đấng Christ, chúng ta bước vào một thế giới

Page 58: Tong hop

khác. Thánh Kinh Tân Ước giới thiệu cho chúng ta một triết lý thuộc linh vô cùng cao sâu và hoàn toàn trái ngược với cái triết lý làm động cơ thúc đẩy thế giới này. Theo sự dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus, người nghèo khó thuộc linh là người được phước; người nhu mì sẽ hưởng được đất; kẻ đầu nên rốt và kẻ rốt nên đầu; người vĩ đại nhất là người phục vụ người khác tốt nhất; người mất tất cả mọi sự, vào thời điểm cuối cùng, là người duy nhất có được tất cả; người thành công trên thế gian này sẽ thấy những kho báu mình tích trữ được bị cuốn trôi bởi trận cuồng phong của sự đoán xét; người nghèo công bình sẽ được ngồi ở trước ngực Áp-ra-ham và người giàu sẽ bị thiêu đốt trong lửa địa ngục.

Chúa chúng ta đã chết như một người thất bại rõ ràng, do những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ mang đến, bị xã hội loại trừ và bạn bè bỏ rơi. Người ra lệnh đưa Ngài lên thánh giá có đường lối chính trị thành công, một người mà các chính trị gia đầy tham vọng đã ôm hôn. Cần phải có sự sống lại mới chứng minh Đấng Christ đã chiến thắng vinh hiển như thế nào, và nhà cầm quyền đã thất bại thảm hại ra sao.

Nhưng ngày nay Hội Thánh phổ thông dường như chẳng học hỏi được điều gì. Chúng ta vẫn còn nhìn theo cách con người nhìn, và đánh giá theo cách mà con người thường đánh giá. Bao nhiêu công việc tôn giáo đã được thực hiện mà không có một mong muốn làm cho tốt đến bởi xác thịt? Bao nhiêu giờ cầu nguyện đã bị lãng phí khi van nài Đức Chúa Trời chúc phước cho những dự án đề cao sự vinh dự cho những con người nhỏ bé? Bao nhiêu số tiền thánh đã đổ ra trên những con người, bất luận họ cầu khẩn khóc lóc thế nào, chỉ tìm kiếm để thực hiện một cuộc biểu diễn đẹp trong xác thịt?Cơ Đốc nhân thật nên xây khỏi tất cả những điều này. Đặc biệt là những mục sư Tin Lành nên tìm kiếm và tra xét trong lòng mình xem động cơ sâu thẳm của mình là gì. Không một người nào xứng đáng với sự thành công cho đến khi nào anh ta sẵn sàng để thất bại. Không một người nào xứng đáng, về mặt đạo đức, với sự thành công trong các hoạt động tôn giáo cho đến khi anh ta sẵn lòng để cho vinh dự của sự thành công thuộc về người khác nếu Đức Chúa Trời muốn như vậy.

Đức Chúa Trời có thể cho phép tôi tớ Ngài được thành công khi Ngài đã kỷ luật anh ta đến một điểm, nơi mà anh ta không cần phải có thành công mới thấy hạnh phúc. Một người hãnh diện bởi thành công và chán nản trước thất bại vẫn là một con người xác thịt. Dù có điều kiện tốt

Page 59: Tong hop

nhất đi nữa, bông trái của anh ta vẫn có một con sâu bên trong. Đức Chúa Trời sẽ cho phép tôi tớ Ngài thành công khi anh ta học biết rằng sự thành không không làm cho anh ta trở nên thân thuộc hơn với Đức Chúa Trời, cũng không có giá trị hơn trong toàn bộ hệ thống vật chất. Chúng ta không thể mua ân huệ của Đức Chúa Trời bằng các đám đông, những người cải đạo, hay những giáo sĩ mới được sai phái đi, hoặc sự phân phối Kinh Thánh. Tất cả những điều này có thể được thực hiện mà không có sự giúp đỡ của Đức Thánh Linh. Một nhân cách tốt và một tri thức sắc xảo của bản chất tự nhiên của con người là tất cả những gì mà bất kỳ ai cũng cần để trở thành một sự thành công trong các giới tôn giáo ngày nay.

Vinh dự lớn của chúng ta nằm ở chỗ trở nên giống như Đức Chúa Jêsus: Được chấp nhận bởi những ai chấp nhận Ngài, bị đào thải bởi những ai đào thải Ngài, được yêu mến bởi những ai yêu mến Ngài, và bị căm thù bởi những ai căm thù Ngài. Còn vinh hiển nào hơn cho con người?Chúng ta có thể theo chân Ngài đi đến thất bại (trong cái nhìn của thế giới này). Đức tin thách thức thất bại. Sự sống lại và sự đoán xét sẽ chứng minh trước tất cả các thế giới ai thắng và ai thua. Chúng ta có thể chờ.

Giá Trị của Sự Tưởng Tượng Ðã Ðược Thánh Hóa

Giống như những sức mạnh khác thuộc về chúng ta, sự tưởng tượng có thể hoặc là một ơn lành hoặc là một sự rủa sả, tùy thuộc hoàn toàn vào việc nó được sử dụng như thế nào và nó được kỷ luật ra sao.Chúng ta thảy đều có một mức độ sức mạnh nào đó để tưởng tượng. Món quà này cho phép chúng ta thấy được ý nghĩa trong những gì thuộc về vật chất, nắm bắt được những cái giống nhau giữa các sự vật vốn lúc đầu xem có vẻ chẳng giống nhau chút nào cả. Nó cho phép chúng ta biết những cái mà cảm giác không bao giờ có thể nói với chúng ta, vì bởi nó mà chúng ta có thể thấy xuyên qua sự biểu hiện của cảm giác đến thực tại nằm đằng sau của các sự vật.

Mỗi tiến bộ do con người thực hiện trong bất cứ lĩnh vực nào trở nên giống như một ý tưởng vốn hoàn toàn mới mẻ trong khung thời gian. Tâm trí của nhà phát mình chỉ đơn giản nắm bắt những chi tiết rất nhỏ của các ý tưởng tương tự với nhau và tạo nên một cái gì đó không

Page 60: Tong hop

những hoàn toàn khác biệt mà còn là một thứ chưa hề tồn tại cho đến thời điểm đó. Vì thế chúng ta “sáng tạo” nên các đồ vật, ý tưởng; và việc làm đó minh chứng chúng ta được tạo dựng theo hình và ảnh của Đấng Tạo Hóa. Việc con người sa ngã thường sử dụng năng lực sáng tạo của mình để phục dịch cho điều ác không hề làm giảm hiệu lực lý luận của chúng ta. Bất cứ tài năng nào cũng có thể được dùng cho điều ác cũng như cho điều thiện, tuy nhiên, mọi tài năng đều đến từ Đức Chúa Trời.

Một số người lẫn lộn cách sai lầm từ “giàu tưởng tượng” và từ “có tính chất tưởng tượng” (ảo) đã phủ nhận việc tưởng tượng có một giá trị rất lớn trong sự hầu việc Đức Chúa Trời. Phúc Âm của Đức Chúa Jêsus Christ không hề có dính dáng gì đến những điều có tính chất tưởng tượng. Cuốn sách hiện thực nhất trên thế giới này là quyển Kinh Thánh. Đức Chúa Trời là thật, con người là thật, tội lỗi, sự chết và địa ngục cũng vậy, một nơi mà chắc chắn tội lỗi sẽ đưa đến. Sự hiện diện của Đức Chúa Trời không hề có tính chất tưởng tượng, sở thích cầu nguyện miệt mài cũng vậy. Những gì gắn liền với sự chú ý của người đang cầu nguyện, dù không phải vật chất, hoàn toàn là thật; còn hơn là thật nữa, cuối cùng nó sẽ được thừa nhận, hơn bất cứ điều gì khác trên trần gian này.

Giá trị của một trí tưởng tượng thánh sạch thuộc phạm vi tôn giáo nằm bên trong sức mạnh giúp nắm bắt được trong những cái tự nhiên bóng dáng của những cái thuộc linh. Nó cho phép một con người kính sợ

Thấy thế giới trong một hạt cátVà cõi vĩnh hằng trong một giờ

Sự yếu đuối của người Pha-ri-si chính là sự thiếu trí tưởng tượng, hay những cái đưa đến điều đó, ông ta từ chối để nó bước vào lĩnh vực tôn giáo. Ông thấy các con chữ với những ý nghĩa thần học được gìn giữ cẩn thận và ông không thấy gì phía sau cả.

Hoa anh thảo ở cạnh bờ sôngMột bông hoa vàng cho anh,Và không còn gì hơn nữa

Khi Đức Chúa Jêsus đến với sự sâu sắc thuộc linh rạng rỡ của Ngài và một sự nhạy cảm đạo đức tuyệt vời, thì người Pha-ri-si coi Ngài như

Page 61: Tong hop

một người mộ đạo của một tôn giáo nào khác, nhưng thật ra là chính Ngài; giá như thế giới này hiểu được điều đó. Ngài có thể thấy được linh hồn của những con chữ trong khi người Pha-ri-si chỉ thấy được cái xác bên ngoài, và ông ta chỉ có thể loanh quanh cố tìm cách minh chứng Đức Chúa Jêsus sai trật bằng cách bám vào các con chữ của luật pháp hay sự giải thích được truyền thống coi là thiêng liêng. Khoảng cách giữa chúng (truyền thống luật pháp và sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh - ND) là quá lớn để cho phép chúng cùng tồn tại; vì thế người Pha-ri-si, người ở địa vị lập nên truyền thống, đã đẩy Nhà Tiên Tri trẻ vào chỗ chết. Nó đã luôn là như vậy, và tôi cho rằng nó cũng sẽ luôn là như vậy cho đến khi trái đất này đầy dẫy tri thức về Đức Chúa Trời, giống như nước bao phủ đại dương.

Vì là một bản năng của tâm trí tự nhiên, nên sự tưởng tượng cần thiết phải chịu đựng cả từ những giới hạn bên trong cũng như từ một khuynh hướng di truyền hướng về điều ác. Vì văn tự trong bản King James (tương đương là Bản dịch cũ của Kinh Thánh tiếng Việt - ND) không mang ý nghĩa về sự tưởng tượng, mà chỉ nói về những nguyên nhân của con người tội lỗi, tôi không viết để bào chữa cho trí tưởng tượng ô uế. Tôi biết rõ rằng từ đó đã chảy ra một dòng suối ô nhiễm bởi những ác tưởng trải qua các tháng năm, đưa đến hành vi không tôn trọng pháp luật và có tính chất hủy diệt về phần của con người.

Tuy nhiên, trí tưởng tượng được thanh tẩy, được điều khiển bởi Đức Thánh Linh là một điều hoàn toàn khác, và đó chính là cái tôi muốn nói đến ở đây. Tôi ao ước thấy trí tưởng tượng được giải phóng khỏi nhà tù của nó và được đưa đến đúng chỗ của mình giữa vòng những đứa con của sự sáng tạo mới. Cái mà tôi cố diễn tả ở đây là một đặc ân thánh cho phép con người được nhìn, một năng lực nhìn xuyên qua bức màn và chăm xem, với sự ngạc nhiên kỳ diệu, nơi những vẻ đẹp, những bí mật của những điều thánh khiết và đời đời.

Tâm trí lề mề, nặng nề không ích lợi gì cho Cơ Đốc giáo cả. Để nó cai trị Hội Thánh đủ lâu thì nó sẽ dồn ép Hội Thánh vào chỗ lựa chọn một trong hai hướng: Hoặc là hướng về chủ nghĩa tự do, nơi mà Hội Thánh tìm thấy sự khoây khỏa trong sự tự do giả tạo, hay hướng về thế giới, nơi mà Hội Thánh sẽ tìm thấy một thú vui rất thú vị, nhưng đầy tai họa. Nhưng tôi tự hỏi liệu điều này có phải là tất cả những gì Lời Chúa đã ghi lại trong sách Phúc Âm Giăng: “Lúc nào Thần Lẽ Thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều

Page 62: Tong hop

mình đã nghe và bày tỏ cho các ngươi những sự sẽ đến. Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta mà rao bảo cho các ngươi” (16:13-14).

Có được một tâm trí do Thánh Linh cai trị là đặc quyền bởi ân điển của Cơ Đốc nhân, và điều này bao trùm mọi việc tôi đã nói ra ở đây.

Hãy Vun Trồng Tính Giản Dị và Tạo Lập Một Cõi Riêng Tư

Cơ Ðốc nhân chúng ta phải đơn giản hóa đời sống mình nếu không thì sẽ đánh mất những kho báu không kể xiết trên trần gian và cõi đời đời.Nền văn minh hiện đại quá ư phức tạp đến nỗi không thể khiến một đời sống mộ đạo trở nên trọn vẹn. Nó làm chúng ta kiệt sức với vô số trò tiêu khiển và đánh bại chúng ta bằng cách tiêu diệt sự riêng tư của chúng ta, nếu không thì chúng ta đã có thể đón nhận và làm tươi mới lại sức mạnh của mình trước khi ra ngoài tiếp tục đối đầu với trần gian.

"Linh hồn lo lắng nghỉ ngơi trong cõi riêng tư," một nhà thơ, của thời đại khác và yên tĩnh hơn, đã nói như thế; nhưng chúng ta có thể tìm đâu ra nơi riêng biệt để mà nghỉ ngơi trong thời đại này? Khoa học, vốn đã mang đến cho con người vô số tiện nghi vật chất lại cướp đi linh hồn của họ bằng cách bao vây họ với một thế giới thù địch sự tồn tại của họ. "Trên giường mình hãy suy gẫm trong lòng và làm thinh" (Thi thiên 4:4) là một lời khuyên khôn ngoan để chữa lành vết thương, nhưng làm thế nào có thể tuân theo nó trong thời đại của báo chí, điện thoại, truyền thanh và truyền hình này? Những thứ tiêu khiển hiện đại này, giống như những con cọp con đáng yêu, đã phát triển rộng khắp và trở nên nguy hiểm khi chúng đe dọa nuốt chửng lấy tất cả chúng ta. Cái gì đã được định là phúc lành nay rõ ràng trở thành điều nguyền rủa. Không có nơi nào ngày nay thoát khỏi sự xâm nhập của thế gian.Một phương cách mà thế giới văn minh dùng để tiêu diệt con người là ngăn ngừa họ tư duy bằng chính tư tưởng của mình.

"Những phương tiện truyền thông được cải thiện cách nhanh chóng" của chúng ta, với một lời khoe khoang thiển cận, ngày nay lại cho phép một vài người ngồi trong những trung tâm chiến lược nhồi nhét vào đầu hàng triệu người những tư tưởng ngoại lai, đã được chuẩn bị

Page 63: Tong hop

sẵn và gọt giũa sao cho dễ hiểu. Với một chút hấp thu, không cần phải cố gắng, những tư tưởng vay mượn này, một người bình thường đã sản sinh mọi tư tưởng anh ta muốn hay có thể sản sinh. Sự tẩy não tinh tế này diễn ra hàng ngày và từ năm này sang năm khác gây nên sự thương tổn vĩnh viễn cho quần chúng - thật bất ngờ, một quần chúng sẵn sàng chi trả một số tiền lớn để thực hiện việc này. Tôi nghĩ lý do là nó giải phóng họ khỏi những khó khăn và nhiệm vụ thường gây lo sợ của việc thực hiện những quyết định độc lập, điều mà sau này họ sẽ phải chịu trách nhiệm.Ðã có một thời, cách đây chưa lâu lắm, khi mà nhà của một người là nơi riêng tư và an toàn của anh ta, một nơi trú ẩn mà anh sẽ quay về tìm kiếm sự yên tĩnh và riêng tư. Nơi đó, "những cơn mưa của thiên đàng có thể tạt vào, nhưng chính bản thân vị vua không thể bước vào mà không được phép," người Anh kiêu hãnh đã nói thế, và có lẽ đúng trong câu nói của họ. Ðó thực sự là một ngôi nhà. Nó thật là một nơi thiêng liêng mà nhà thơ đã hát:

Ôi, khi tôi an ổn trong ngôi nhà thôn dã của mình,Tôi giẫm lên sự kiêu hãnh của Hy Lạp và Rô-ma;Và khi tôi nằm bên dưới gốc cây thông,Nơi những ngôi sao đêm chiếu sáng cách lạ kỳ,Tôi cười nhạo sự thông sáng và niềm kiêu hãnh của con người,Những trường phái triết học, và phe đảng của những người học thức;Tất cả họ sẽ là gì, trong sự kiêu ngạo của mình,Khi con người trong bụi rậm có thể gặp Ðức Chúa Trời? - Ralph Waldo Emerson trong Good-bye

Dù chưa có dấu hiệu rõ ràng nào trong thời điểm hiện tại, song tôi không thể bỏ qua nhận xét rằng dấu hiệu đáng ngại nhất của sự sụp đổ sắp đến của đất nước chúng ta là sự tan rã của gia đình Mỹ. Người Mỹ không còn sống trong nhà nữa, họ sống trong các rạp hát. Những thành viên của nhiều gia đình hiếm khi biết lẫn nhau, và gương mặt một số ngôi sao truyền hình đối với nhiều bà vợ cũng quen thuộc như gương mặt của chồng mình vậy. Ðừng cười. Chúng ta nên khóc vì điềm báo đó thì hơn. Sẽ chẳng tốt lành gì khi chúng ta quấn mình trong lá cờ sao và sọc (cờ Mỹ) để bảo vệ mình. Không một quốc gia nào có thể chịu đựng lâu dài những con người đã bán mình cho miếng ăn và rạp xiếc. Ông cha chúng ta đã ngủ ngon lành; tiếng ầm ĩ khó nghe của hoạt động mua bán nhận chìm chúng ta, giống một cái gì đó trong địa ngục của thi hào Dante, đã không thể quấy rầy giấc ngủ của họ. Họ để lại cho chúng ta một

Page 64: Tong hop

di sản đồ sộ. Ðể bảo vệ di sản của họ, chúng ta phải có một nghị lực dân tộc mạnh mẽ như của họ. Và điều này chỉ có thể được phát triển trong gia đình Cơ Ðốc.

Nhu cầu cần sự riêng tư và yên tĩnh chưa bao giờ to lớn như hiện nay. Thế gian sẽ làm gì về nó là vấn đề của họ. Rõ ràng là con người muốn nhu cầu đó theo cách của họ và số đông Cơ Ðốc nhân lại hoàn toàn chạy theo thời đại đến độ họ cũng muốn các thứ theo cách mà những điều đó thể hiện. Họ có thể bị làm phiền chút ít bởi tiếng la hét ầm ĩ và bởi lối sống cá chậu, chim lồng, nhưng rõ ràng là họ đã không bị làm phiền đủ để có thể đứng ra làm một điều gì đó. Tuy nhiên, có một số ít con cái của Ðức Chúa Trời đã nhận đủ sự phiền toái đó. Họ muốn học lại những phương cách của sự riêng tư và tính giản dị, cũng như đạt được sự giàu có vô tận của đời sống bên trong. Họ muốn khám phá những ơn phước của điều mà tiến sĩ Max Reich gọi là "sự lẻ loi thuộc linh". Ðối với vấn đề đó, tôi có một lời nhắn nhủ như sau:

Hãy rời khỏi thế giới mỗi ngày và tìm đến một nơi riêng tư nào đó ngay cả nếu đó chỉ là phòng ngủ (đã có lúc tôi chạy vào phòng sưởi vì muốn có một nơi tốt hơn). Hãy ở trong nơi kín đáo đó cho đến khi những tiếng động chung quanh thảy đều biến mất khỏi lòng bạn và một cảm giác của sự hiện diện của Ðức Chúa Trời bao trùm lấy bạn. Cẩn thận loại bỏ mọi âm thanh gây khó chịu trong lòng và quyết định không nghe chúng nữa. Hãy lắng nghe Tiếng phán bên trong cho đến khi bạn biết cách nhận biết nó. Ðừng có cố mà thi đua với người khác. Hãy dâng chính bạn cho Ðức Chúa Trời và rồi trở thành con người thực của bạn bất chấp người khác nghĩ gì. Hãy giảm những sở thích của bạn xuống còn một ít thôi. Ðừng cố để biết cái gì sẽ không giúp ích cho bạn. Tránh kiểu suy nghĩ vắn tắt - những mẫu nhỏ của các dữ kiện không có liên quan với nhau, những câu chuyện hấp dẫn và những câu nói ý nghĩa. Từng giây phút, hãy học cầu nguyện trong lòng. Sau một lúc bạn có thể làm được điều này ngay cả khi bạn đang làm việc. Thực hành tính bộc trực, chân thật như con trẻ, khiêm nhường. Hãy cầu nguyện cho một mục đích. Hãy đọc nhiều hơn những gì quan trọng đối với đời sống bên trong của bạn, còn những điều ít quan trọng hơn thì đọc ít thôi. Ðừng bao giờ để cho tâm trí bạn trở nên bừa bãi như cũ. Hãy gọi những tư tưởng lang thang của bạn về. Hãy chăm xem Ðấng Christ với con mắt của linh hồn bạn. Thực hành sự tập trung thuộc linh.Tất cả những điều trên còn tùy thuộc vào mối tương giao đúng đắn với Ðức Chúa Trời qua Ðấng Christ và sự suy gẫm Kinh Thánh hàng ngày. Thiếu những điều này chẳng có gì giúp ích chúng ta cả; hãy chấp nhận

Page 65: Tong hop

những điều này; tính kỷ luật được đề nghị sẽ tiến xa để vô hiệu hóa những ảnh hưởng xấu từ bên ngoài và làm cho chúng ta quen thuộc với Ðức Chúa Trời và linh hồn mình.

Học Thì Phải Hành

Ông Charles G. Finney tin rằng việc dạy Kinh Thánh mà không có sự áp dụng trên phương diện đạo đức có thể còn tệ hơn việc không dạy gì cả và có thể gây nên những tổn thương thực sự lớn cho những người nghe. Tôi thường cảm thấy rằng điều này có vẻ là một quan điểm cực đoan, nhưng sau nhiều năm chiêm nghiệm, tôi thay đổi ý kiến, hay có một quan điểm gần như giống hệt nó.

Hầu như không có bất cứ điều gì buồn tẻ và vô nghĩa cho bằng giáo lý Kinh Thánh được dạy vì cớ lợi ích của chính nó. Lẽ thật tách rời cuộc sống không phải là lẽ thật trong ý nghĩa Thánh Kinh, nhưng là một cái gì đó khác hơn và là một cái gì đó thấp kém hơn. Thần học là một tập hợp các sự kiện liên quan đến Ðức Chúa Trời, con người và thế giới. Những sự kiện này có thể và thường được công bố như là những giá trị nội tại; và ở đó có một cái bẫy cho cả người dạy lẫn người nghe.

Kinh Thánh, giữa vòng những điều khác, là một cuốn sách của lẽ thật được bày tỏ. Tức là một số sự kiện nào đó được mặc khải mà không một tâm trí vô cùng lỗi lạc nào có thể khám phá. Chúng ta chỉ có thể hiểu được bản chất của những sự kiện này khi kinh nghiệm chúng. Chúng được giấu đằng sau một tấm màn; và cho đến khi có ai đó nói rằng họ được cảm thúc bởi Thánh Linh để đến và dở bỏ tấm màn đi, không một con người hay chết nào có thể biết đến chúng. Chúng ta gọi việc dở bỏ tấm màn vô thức khỏi những cái chưa được khám phá là sự khải thị thiêng liêng.

Tuy nhiên, Kinh Thánh còn hơn là một tuyển tập những sự kiện mãi cho đến nay chưa được biết đến về Ðức Chúa Trời, con người và vũ trụ. Nó là một cuốn sách của sự mời gọi nhiệt thành dựa trên những sự kiện đó. Phần lớn Kinh Thánh là một nỗ lực cấp bách nhằm thuyết phục con người thay đổi đường lối của mình và đưa đời sống của họ trở lại hòa thuận với ý muốn Ðức Chúa Trời như đã được viết trong những trang quý báu của nó.

Page 66: Tong hop

Chẳng có người nào trở nên tốt hơn vì biết rằng từ ban đầu Ðức Chúa Trời đã dựng nên trời và đất. Ma quỷ cũng biết điều đó, A-háp và Giu-đa Ích-ca-ri-ốt cũng thế. Chẳng có người nào trở nên tốt hơn khi biết rằng vì Ðức Chúa Trời quá yêu thương thế gian nên đã ban Con Một của Ngài xuống trần chịu chết vì sự cứu chuộc tội lỗi họ. Trong địa ngục, có hàng triệu người biết điều đó. Lẽ thật thần học hoàn toàn vô dụng cho đến khi nó được vâng theo. Mục đích đằng sau mọi giáo lý là để bảo vệ hành động đạo đức.

Nhìn chung, điều đã bị bỏ qua chính là sự thật, như được chép trong Thánh Kinh Cơ Ðốc, đó là một điều mang tính đạo đức; nó không chỉ nhằm vào lý trí, mà còn nhằm vào ý chí con người nữa. Nó hướng chính mình đến toàn bộ con người và những đòi hỏi của nó không thể được hoàn thành chỉ bởi việc nắm bắt, thấu hiểu nó trong tâm trí mà thôi. Lẽ thật chiếm lấy pháo đài của lòng người và sẽ không được thỏa mãn cho đến khi nó chinh phục được mọi sự ở đó. Ý chí phải đến và quy phục dưới lưỡi gươm của lẽ thật. Ý chí phải đứng đó chú ý nhận những mệnh lệnh mà nó phải vui vẻ vâng phục. Thiếu điều này, bất cứ sự hiểu biết nào về lẽ thật Cơ Ðốc cũng không đủ và chỉ vô ích mà thôi.

Sự giải nghĩa Kinh Thánh mà không có sự áp dụng mang tính chất đạo đức sẽ chẳng gây nên sự đối kháng nào. Chỉ khi nào người nghe được làm cho hiểu rằng lẽ thật mâu thuẫn với lòng mình, khi đó sự chống đối xuất hiện. Chừng nào mà con người có thể nghe rằng lẽ thật chính thống đã tách rời khỏi đời sống, khi đó họ sẽ gia nhập và ủng hộ các Hội Thánh, các học viện mà không một lời phản đối nào. Lẽ thật chỉ là một bài hát hay, trở nên ngọt ngào bởi những cuộc nhóm họp dài hơi, dễ xúc động; và vì nó không đòi hỏi gì nhiều, chỉ vài đô la thôi, mà lại vừa được nghe nhạc hay, vừa có những tình bạn thú vị, và một cảm giác khỏe mạnh thoải mái, lẽ thật sẽ không gặp sự chống đối nào từ những tín đồ sùng đạo. Phần lớn điều đó được xem là Cơ Ðốc giáo Tân Ước, vốn chỉ nhỉnh hơn lẽ thật bị chống đối một chút, được làm cho ngọt dịu với bài hát và làm cho dễ chịu bởi trò giải trí tôn giáo.Có lẽ không có phần nào khác trong Kinh Thánh có thể so sánh với những thư tín của Phao-lô khi nói đến việc tạo nên những vị thánh nhân tạo. Phi-e-rơ cảnh báo rằng những người dốt nát và những người không tin quyết sẽ xuyên tạc những điều Phao-lô viết và rồi tự chuốc lấy sự hư mất cho riêng mình (II Phi-e-rơ 3:16); và chúng ta chỉ cần viếng thăm một hội nghị Kinh Thánh nào đó, lắng nghe một vài bài thuyết trình thì sẽ biết được ông muốn nói gì. Một điều đáng lo ngại là

Page 67: Tong hop

những giáo lý của Phao-lô có thể được dạy với sự chính xác đến từng con chữ mà không khiến người nghe trở nên tốt hơn chút nào. Vị giáo sư có thể và thường dạy lẽ thật không khác gì nhồi nhét, bỏ mặc nó ở đó cho người nghe mà không tạo cho họ một nhân thức về bổn phận đạo đức nào cả.

Một lý do cho việc tách rời giữa lẽ thật và đời sống có lẽ là do thiếu sự soi sáng của Thánh Linh. Một nguyên nhân chắc chắn khác là người giáo viên không muốn gây rắc rối cho chính mình. Bất cứ người nào có khả năng giảng dạy hợp lý đều có thể gần gũi với hội chúng bình thường nếu ông ta chỉ việc "cho họ ăn" và để họ yên. Ban phát nhiều lẽ thật khách quan và không bao giờ ám chỉ rằng họ sai thì mọi chuyện sẽ ổn, họ sẽ thỏa lòng lắm.Trái lại, người nào giảng dạy lẽ thật và áp dụng nó vào đời sống của người nghe sẽ cảm biết móng vuốt và gai nhọn. Ông ta sẽ sống rất khó khăn, nhưng là một đời sống vinh hiển. Nguyện Chúa sẽ dấy lên nhiều những tiên tri như vậy. Hội Thánh hết sức cần họ.

Nhu Mì Và Yên Nghỉ

“Phước cho những kẻ nhu mì, vì sẽ hưởng được đất”(Ma-thi-ơ 5:5)

Ta có thể trình bày chính xác khái niệm “chủng tộc loài người” với một người hoàn toàn không biết tí gì về nó bằng cách xoay mặt trái của Các Phước Lành lại, và nói rằng: “Đây là chủng tộc loài người.” Vì những điều trái ngược với các tiêu chuẩn đạo đức trong Các Phước Lành chính xác là những đức tính phân biệt đời sống và hành vi của con người.

Trong thế giới loài người, chúng ta không thấy có điều gì gần với những đức tính Đức Chúa Jêsus đã nói trong Bài Giảng Trên Núi, vốn rất nổi tiếng. Thay vì sự nghèo khó thuộc linh, chúng ta tìm thấy sự kiêu ngạo; thay vì những người than khóc, chúng ta tìm thấy những kẻ tìm kiếm trụy lạc; thay vì sự nhu mì, chúng ta tìm thấy sự ngạo mạn; thay vì sự đói khát công bình, chúng ta nghe con loài người nói, “Ta giàu, ta nên giàu có rồi, không cần chi nữa”; thay vì lòng nhân từ, chúng ta thấy sự tàn bạo; thay vì sự tinh sạch của lòng, chúng ta tìm thấy những mơ tưởng đồi bại; thay vì

Page 68: Tong hop

những người làm cho người khác hòa thuận, chúng ta tìm thấy những con người hay cự cãi, và đầy căm phẫn; thay vì vui mừng trong nghịch cảnh, chúng ta thấy họ chống trả lại bằng mọi thứ vũ khí họ có.

Xã hội văn minh được hình thành trên sự suy đồi đạo đức này. Bầu không khí cũng đóng góp vào đó; chúng ta hít nó vào, uống nó với dòng sữa mẹ. Văn hóa và giáo dục gạn lọc những điều này cách hết sức sơ sài, song về căn bản, vẫn chẳng đụng chạm gì đến chúng. Toàn bộ thế giới văn chương đã được tạo nên để bào chữa cho loại đời sống này, cho rằng nó rất bình thường. Và còn đáng ngạc nhiên hơn khi thấy rằng chúng là những điều ác biến cuộc đời chúng ta thành một cuộc chiến cay đắng. Tất cả những nỗi đau và rất nhiều những căn bệnh thể xác của chúng ta trực tiếp bắt nguồn từ tội lỗi mình. Sự kiêu căng, ngạo mạn, căm phẫn, mơ tưởng tội ác, hiểm độc, tham lam... là cội nguồn của những nỗi đau con người, nhiều hơn tất cả những căn bệnh gây nên trên thể xác.

Những Lời của Đức Chúa Jêsus cho trần gian này thật rất tuyệt và lạ lùng, một sự thăm viếng từ trên cao. Đức Chúa Jêsus phán thật sâu sắc, không ai có thể thực hiện nó trọn vẹn cũng chẳng sao, và thật tốt khi chúng ta lắng nghe. Lời Ngài là cốt lõi của lẽ thật. Ngài không trình bày một quan điểm; Đức Chúa Jêsus chẳng bao giờ thốt ra các quan điểm. Ngài chẳng bao giờ suy đoán; Ngài đã biết, và Ngài hiện đang, cũng như sẽ biết. Lời Ngài chẳng phải những lời Sa-lô-môn đã nói, những lời về sự khôn ngoan hay kết quả của sự tìm kiếm trung kiên. Ngài phán về sự trọn lành của Đức Chúa Trời, và Lời Ngài tự nó đã là Chân Lý. Ngài là Đấng duy nhất có thể nói “phước” với trọn vẹn thẩm quyền, vì Ngài là Đấng đã được Chúc Phước, đến từ thế giới trên cao để ban phước cho con loài người. Và Lời Ngài luôn kèm theo những việc làm đầy năng quyền hơn bất cứ điều gì con người thực hiện được trên đất này. Chúng ta lắng nghe, điều đó là rất khôn ngoan.

Đức Chúa Jêsus rất thường dùng từ “nhu mì” trong những câu ngắn gọn, và đã không ít lần Ngài giải thích nó. Trong sách Ma-thi-ơ, Ngài phán với chúng ta về nó nhiều hơn và áp dụng nó vào đời sống chúng ta. “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. Vì ách ta dễ chịu, gánh ta nhẹ nhàng” (Ma-thi-ơ 11:28-30). Ở đây, chúng ta có hai thứ đối lập nhau, một gánh nặng và một sự yên nghỉ. Gánh nặng

Page 69: Tong hop

không có tính cục bộ, đặc biệt đối với những người nghe lần đầu tiên, bèn là cái mà cả chủng tộc loài người đã mang vác. Nó không bao hàm sự áp bức chính trị, nghèo khó hay công việc nặng nhọc. Nó sâu nhiệm hơn những điều đó nhiều. Người giàu, cũng như người nghèo đều cảm thấy nó, vì gánh nặng là một điều gì đó mà của cải vật chất cũng như sự nhàn rỗi không bao giờ có thể giúp giải thoát cho chúng ta.

Gánh nặng mà con người mang vác là một thứ rất nặng nề và đau đớn. Từ mà Đức Chúa Jêsus dùng có nghĩa là “một gánh nặng được mang hay vác rất cực nhọc đến mức kiệt sức.” Yên nghỉ đơn giản là thoát khỏi gánh nặng đó. Nó chẳng phải là một việc để chúng ta làm; nó là một cái gì đó đến khi chúng ta ngừng làm. Sự nhu mì của Chúa chính là sự yên nghỉ.Chúng ta hãy xem xét gánh nặng của mình. Tất cả chúng là một cái gì đó ở bên trong. Nó tấn công tấm lòng và tâm trí, đụng chạm đến thân thể từ bên trong. Trước tiên, có một gánh nặng của sự kiêu ngạo. Nô lệ cho sự ích kỷ thì thật là nặng nề. Nghĩ về chính bạn xem, có bao giờ nỗi buồn của bạn lại không dâng lên khi một ai đó nói năng cách khinh rẻ với bạn không? Bao lâu bạn đặt chính mình lên, giống như một thần tượng nhỏ mà bạn phải trung thành, sẽ có những người sẵn lòng lăng mạ thần tượng của bạn. Thế thì khi đó, làm thế nào bạn có được sự bình an trong lòng? Những cố gắng mãnh liệt của con tim để tự bảo vệ mình khỏi sự coi khinh, để bảo bọc chút danh giá dễ vỡ của nó khỏi những quan điểm xấu của bạn bè và kẻ thù sẽ chẳng bao giờ làm cho tâm trí được yên nghỉ cả. Tiếp tục cuộc chiến này qua nhiều năm trường, rồi thì gánh nặng sẽ trở nên bất kham, không thể chịu đựng nổi. Thế nhưng con cái của thế gian này đang không ngừng mang vác gánh nặng đó, thách thức mọi lời nói chống lại họ, nép mình xuống dưới lời phê bình, đau khổ trước sự khinh miệt võ đoán, trở mình trằn trọc và mất ngủ vì cớ người khác được yêu thích hơn họ.

Một gánh nặng như thế thật chẳng đáng mang chút nào cả. Đức Chúa Jêsus kêu gọi chúng ta đến với sự yên nghỉ của Ngài, và sự nhu mì chính là phương cách của Ngài. Một người nhu mì không quan tâm đến những người to tát, vĩ đại hơn mình, vì từ lâu anh ta đã quyết định rằng sự tôn trọng của thế giới này chẳng đáng để anh ta nỗ lực đạt được. Anh ta hướng mình vào chiều kích hài hước, tốt bụng, và học cách nói rằng, “Ồ, thế là anh đã bị bỏ qua phải không? Người ta đã đặt ai đó lên trước anh à? Họ cũng đồn rằng anh chỉ là một tên nhãi nhỏ nhoi ư? Và bây giờ anh cảm thấy đau đớn vì thế giới này đang ầm ĩ về mọi điều anh

Page 70: Tong hop

đã nói về chính anh chăng? Chỉ mới hôm qua anh thưa với Chúa rằng anh chẳng ra chi cả, chỉ là một con mọt bé tẻo teo. Tính cứng rắn của anh đâu rồi? Thôi nào, hãy hạ mình xuống, và đừng thèm bận tâm đến những điều người ta nghĩ nữa.”

Một người nhu mì không phải là con chuột bị chi phối bởi cảm giác về địa vị thấp hèn của mình. Nhưng trong đời sống tinh thần của anh ta, anh ta dũng cảm như một con sư tử, và mạnh mẽ như Sam-sôn; song, anh đã không còn bị lừa về chính mình nữa. Anh tiếp nhận sự đánh giá của Đức Chúa Trời về chính đời sống anh. Anh biết rằng anh yếu đuối và vô dụng như những gì Đức Chúa Trời đã tuyên bố về anh, nhưng nghịch lý thay, anh ta biết rằng cùng lúc đó, trong cái nhìn của Đức Chúa Trời, anh quan trọng hơn cả các thiên thần. Trong chính mình anh, chẳng là gì cả; song trong Đức Chúa Trời, là tất cả. Đó chính là phương châm của anh. Anh biết rõ là thế giới sẽ không bao giờ nhìn anh như Đức Chúa Trời nhìn anh, và anh ta chẳng thèm bận tâm đến. Anh yên nghỉ cách thư thái, hoàn toàn thỏa lòng để cho Đức Chúa Trời đặt để nơi anh những giá trị của chính Ngài. Anh ta sẽ kiên nhẫn đợi chờ cái ngày mà mọi sự đều sẽ được định giá, và giá trị thật của nó sẽ là chính nó. Rồi thì người công bình sẽ sáng chói vinh quang trong Vương Quốc của Cha họ. Anh ta sẵn sàng chờ đợi ngày đó.

Trong khi ấy, anh đã có được một nơi chốn để linh hồn được yên nghỉ. Khi bước đi trong sự nhu mì, anh ta sẽ vui vẻ để cho Đức Chúa Trời che chở anh. Cuộc tranh chiến quá khứ để tự bảo vệ mình không còn nữa. Anh đã tìm và gặp được sự bình an mà lòng nhu mì mang đến.Kế đó, anh ta cũng sẽ được giải thoát khỏi gánh nặng của sự gian trá. Tôi không có ý nói sự đạo đức giả ở đây, mà là một dục vọng thông thường của con người để đặt những điều tốt đẹp nhất ra trước, và che giấu thế giới sự nghèo nàn thật sự bên trong. Tội lỗi đã thực hiện nhiều cú lừa trên chúng ta, và một trong số đó là cảm giác xấu hổ sai lầm đang ngấm ngầm ăn sâu vào mỗi chúng ta. Thật hiếm có một người nam hay người nữ nào dám sống thật với bản chất và những thứ mình có (hay không có) mà không bị pha trộn bởi cảm giác đó (cảm giác xấu hổ). Nỗi lo sợ bị phát hiện giày vò giống như loài gặm nhấm đang ở trong lòng họ. Một con người có văn hóa bị ám ảnh bởi nỗi lo sợ rằng một ngày nào đó, anh ta sẽ phải đụng độ với một người có văn hóa cao hơn mình. Một con người tri thức lo sợ phải gặp người có nhiều tri thức hơn mình. Một con người giàu có toát mồ hôi khi lo sợ rằng trang phục, xe cộ, nhà cửa của anh ta một lúc nào đó sẽ trở nên rẻ mạt khi đem

Page 71: Tong hop

so với một người khác giàu hơn mình. Cái gọi là “xã hội” bị điều khiển không bởi một động cơ nào khác hơn động cơ này, và tầng lớp những người nghèo hơn chỉ tốt hơn một tí.

Chúng ta đừng cười. Những gánh nặng này là thật, và dần dần, chúng giết chết những nạn nhân của phương cách sống tội lỗi, khác thường đó. Và cái tâm lý loại này, vốn được khởi tạo trong nhiều năm, đã biến sự nhu mì thật thành một điều vô thực, giống như một giấc mơ, xa vời như một ngôi sao bé nhỏ. Với tất cả những nạn nhân của căn bệnh đang gặm nhấm này, Đức Chúa Jêsus phán, “Các ngươi phải nên như đứa trẻ.” Vì cớ trẻ nhỏ không hề so sánh; chúng nhận được niềm vui trực tiếp từ những gì chúng có mà không so đo với một thứ nào khác, hay một ai khác. Chỉ khi chúng lớn hơn, và tội lỗi bắt đầu khuấy động trong lòng chúng khiến cho sự ghen tị và đố kỵ xuất hiện. Rồi thì chúng không thể vui mừng với những gì chúng có nếu một ai đó có những cái lớn hơn hay tốt hơn. Ngay từ khi còn nhỏ tuổi, gánh nặng khó chịu đó đã đổ ập xuống linh hồn thơ bé của chúng, và nó sẽ chẳng bao giờ lìa khỏi đó cho đến khi Đức Chúa Jêsus giải cứu chúng.

Một cội nguồn khác của gánh nặng là tính chất giả tạo. Tôi chắc rằng hầu hết mọi người sống trong nỗi sợ hãi thầm kín rằng một ngày nào đó, họ bất cẩn và nhân cơ hội đó, một kẻ thù hay một người bạn thân sẽ hé nhìn vào tâm hồn khốn khổ, trống rỗng của họ. Thế là họ chẳng bao giờ ngơi nghỉ. Những người thông minh thì rất căng thẳng và luôn cảnh giác với nỗi lo sợ rằng họ sẽ bị mắc bẫy khi nói một điều gì đó tầm thường hay ngớ ngẩn. Những con người đi lại nhiều thì lo sợ rằng họ có thể sẽ phải đụng độ với một Marco Polo, người có thể mô tả một nơi xa xôi nào đó mà họ chưa từng đặt chân đến.

Tình trạng không bình thường này là một phần di sản tệ hại của tội lỗi, nhưng trong thời đại này, nó đã trở nên trầm trọng hơn do lối sống của cuộc đời chúng ta. Quảng cáo phần lớn dựa trên thói quen giả tạo này. Các “cách cư xử” được đề nghị trong lĩnh vực này hay lĩnh vực kia của việc học hành của con người lôi cuốn mạnh mẽ dục vọng con người muốn được “sáng chói” tại một “buổi tiệc” (chốn đông người). Sách vở được bán ra, quần áo và mỹ phẩm được tiêu thụ rất nhiều để liên tục đóng kịch trên dục vọng này, tức là xuất hiện không phải với vẻ ngoài cố hữu của chúng ta. Sự giả tạo là một tai họa sẽ cướp đi giây phút chúng ta quỳ nơi chân Chúa Jêsus và phủ phục dưới sự nhu mì của Ngài. Rồi thì chúng ta sẽ không bận tâm đến những điều người

Page 72: Tong hop

khác nghĩ về mình miễn là Đức Chúa Trời hài lòng. Kế đó, những gì chúng ta là sẽ là mọi sự; chúng ta xuất hiện với dáng vẻ gì sẽ ở chỗ của nó, rất xa bên dưới mức độ của sự yêu thích dành cho chúng ta. Ngoài tội lỗi, chúng ta chẳng có gì đáng phải xấu hổ cả. Chỉ vì một dục vọng muốn được rạng rỡ mà chúng ta lại sẵn sàng xuất hiện với hình hài và bản chất không thực tồn tại nơi chúng ta sao?

Trái tim của thế giới đang tan vỡ vì cớ gánh nặng của sự kiêu ngạo và gian trá này. Không có con đường giải thoát nào cho gánh nặng của chúng ta ngoại trừ sự nhu mì của Đấng Christ. Sự lý giải tốt và sắc xảo có thể giúp không đáng kể, nhưng thói xấu này mạnh đến độ nếu chúng ta đẩy nó xuống một nơi nào đó, nó sẽ trồi lên ở một nơi khác. Đức Chúa Jêsus phán với mọi con người ở khắp mọi nơi rằng, “Hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ.” Sự yên nghỉ mà Ngài mời gọi là sự yên nghỉ của lòng nhu mì, một sự giải thoát chứa chan phước hạnh sẽ đến khi chúng ta chấp nhận chính mình ở điều mà mình là như vậy, và chấm dứt trò giả tạo. Đầu tiên phải có một chút can đảm, nhưng sự thương xót cần thiết sẽ đến khi chúng ta học biết rằng chúng ta đang chia sẻ gánh nặng mới và dễ dàng này với chính Con Một của Đức Chúa Trời, vốn rất mạnh mẽ, và oai nghi. Ngài gọi nó là “gánh của ta”, và Ngài bước đi ở đầu bên kia, còn chúng ta thì ở đầu bên này.

Lạy Chúa, hãy khiến con nên như đứa trẻ. Hãy giải cứu con khỏi tham muốn tranh cạnh với người khác về uy thế, hay địa vị. Con sẽ trở nên đơn giản và chất phát như một đứa trẻ. Hãy giải cứu con khỏi thái độ màu mè và giả tạo. Hãy tha thứ cho con vì con đã chỉ nghĩ đến mình. Hãy giúp con quên chính mình đi và tìm thấy sự bình an thật khi con chăm xem Ngài. Nguyện xin Cha hãy đáp lại lời cầu xin của con. Con hạ mình xuống trước Ngài đây. Hãy đặt lên con gánh của Ngài về sự tự quên mình để qua đó mà con tìm thấy sự yên nghỉ thánh, sự bình an thật nơi Cha, Cha ôi! A-men.

Không Có Gì Thay Thế Cho Thần Học

Tri thức quan trọng nhất và hữu ích nhất mà bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể có được đó là tri thức về thần học.

Môn thần học có lẽ nhận được sự lưu ý ít hơn bất cứ những môn học

Page 73: Tong hop

nào khác, tại vì nó chỉ cho chúng ta thấy rằng con người còn đang giấu mình trong những bụi cây trong vườn Ê-đen sau khi đã phạm tội và lìa khỏi sự hiện diện của Ðức Chúa Trời. Nó tạo sự cảm biết sâu sắc bực bội, khó chịu khi con người phải đương đầu trước vấn đề "mối tương giao mật thiết với Ngài". Học thần học chỉ ra một khoảng cách sâu thẳm giữa Ðức Chúa Trời và loài người, vì thế cho nên loài người chỉ có thể sống bình an với chính họ bằng cách "quên rằng mình vẫn chưa hòa thuận lại với Ðức Chúa Trời".

Nếu không có Ðức Chúa Trời, thì mọi sự sẽ hoàn toàn khác hẳn đối với chúng ta. Chúng ta sẽ không mang một gánh nặng trong tâm trí nếu không có ai để chúng ta cuối cùng phải giải thích hành động của mình. Chúng ta chỉ cần phải sống trong luật lệ, không phải làm những nhiệm vụ quá khó khăn đối với tổ quốc, và sẽ không có gì phải sợ cả.

Nhưng

Ðức Chúa Trời đã dựng nên trái đất và đặt để con người quản lý nó cùng với ý thức đạo đức, thì bổn phận nặng nề của chúng ta là phải học biết ý muốn Ðức Chúa Trời và làm theo ý muốn của Ngài.

Ðối với tôi, thuyết hiện sinh phủ nhận sự tồn tại của Ðức Chúa Trời và rồi tiếp tục dùng ngôn ngữ của thuyết hữu thần để thuyết phục con người sống đúng đắn là một điều hết sức mâu thuẫn. Một tác giả người Pháp, ông Jean-Paul Sartre, chẳng hạn, đã khẳng định cách thẳng thắn rằng ông đại diện cho thuyết hiện sinh vô thần. Ông nói: "Nếu Chúa không tồn tại thì chúng ta không tìm thấy những giá trị hay mạng lệnh để hướng tới, cái có thể hợp pháp hóa hành vi chúng ta. Vì thế trong thực tại sáng chói của những giá trị, chúng ta không có lời bào chữa sau lưng mình, cũng không có sự biện hộ ở phía trước chúng ta. Chúng ta hoàn toàn cô đơn, và không hề có lời bào chữa nào." Nhưng trong đoạn tiếp theo ông lại khẳng định, "Con người chịu trách nhiệm về hành động của chính mình, và một kẻ hèn nhát cũng phải có trách nhiệm về sự hèn nhát của mình."

Ðối với tôi, dường như những lý lẽ đó đã thừa nhận lẽ thật về những điều mà nó cố gắng tìm cách để phủ nhận. Nếu không có Ðức Chúa Trời, thì không thể có những từ như "trách nhiệm". Không một phạm nhân nào mà cần phải sợ một quan án vốn không tồn tại; người đó cũng không cần lo lắng về việc phạm luật vốn chưa được thông qua. Chính sự

Page 74: Tong hop

nhận biết rằng luật lệ và quan án là thực sự tồn tại đã dóng lên trong lòng những kẻ phạm luật một hồi chuông lo sợ, vì biết rằng có một ai đó mà chính mình phải chịu trách nhiệm; nếu ngược lại, thì quan niệm về tinh thần trách nhiệm sẽ không thể có một ý nghĩa nào.

Ðiều này chính xác là vì Ðức Chúa Trời thực hữu, vì con người được dựng nên theo hình ảnh Ngài và chịu trách nhiệm trước mặt Ngài, và đó là thần học tối quan trọng. Chỉ có sự khải thị của Ðức Chúa Trời mới có câu trả lời cho những vấn nạn không thể trả lời được về Ðức Chúa Trời và số phận con người. Nếu chúng ta để cho những câu trả lời đầy năng quyền này bị lãng quên, và đi tìm kiếm những lời giải đáp ngoài sự mặc khải của Ðức Chúa Trời cho loài người qua Kinh thánh, thì đối với tôi, đó là điều dường như chẳng khác gì hơn là sự điên rồ.

Không có một tài xế nào bào chữa được cho hành động điên rồ khi bị lạc đường vì không tham khảo bản đồ, nhưng lại tìm đường bằng cách quan sát đường bay của những con ong rừng, xem xét sự chuyển động của những tinh tú, hoặc là dùng xí ngầu để tìm hướng đi. Nếu không có bản đồ, một người có thể định hướng bằng các ngôi sao; nhưng đối với một du khách muốn tìm đường về nhà, thì các ngôi sao quả là vật thay thế điên rồ nhất cho bản đồ.

Không có bản đồ nhưng người Hy Lạp đã làm những vật định hướng rất đáng khâm phục; người Hê-bơ-rơ thì có bản đồ và vì thế họ không cần đến triết lý con người. Những đoạn có tính chất hùng biện của Ê-sai, và những bài thánh vịnh đầy cảm hứng của Ða-vít đã chứa đựng sự giúp đỡ thực tế cho loài người hơn là tất cả những sản phẩm trí tuệ ưu tú nhất của Hy Lạp trong suốt những thế kỷ đã qua.

Sự thờ ơ hiện tại của con người văn minh đối với Lời Kinh Thánh được hà hơi là một điều đáng xấu hổ, và là một sự xúc phạm; vì chính những phân đoạn Kinh Thánh đó cho họ biết tất cả những gì họ muốn biết hay nên biết về Ðức Chúa Trời, linh hồn mình và số phận con người. Thật mỉa mai một điều là con người đã và sẽ tiêu phí thời gian lẫn tiền bạc trong nỗ lực khám phá những bí mật quá khứ của mình khi mà tương lai họ mới thực sự là vấn đề cần quan tâm.

Không một người nào cần chịu trách nhiệm về tổ tiên của mình; và cái quá khứ duy nhất họ phải chịu trách nhiệm là cái quá khứ ngắn ngủi mà họ đã sống ở trên trần gian này. Học biết làm thế nào tôi có thể thoát khỏi tội

Page 75: Tong hop

lỗi tôi đã phạm trong những ngày qua, làm thế nào tôi có thể sống tự do khỏi tội lỗi và cuối cùng bước vào sự hiện diện phước hạnh của Ðức Chúa Trời trong một ngày mai vui vẻ - Những điều đó đối với tôi quan trọng hơn bất cứ gì đã khám phá được từ những nhà nhân chủng học. Thật là một sở thích sai lầm kỳ dị khi tôi thấy loài người cứ chúi mũi vào bụi đất mà tìm kiếm quá khứ của họ trong khi họ được trang bị để nhìn lên sự vinh hiển tột cùng của Ðức Chúa Trời.

Bất cứ điều gì kéo tôi ra khỏi Kinh Thánh thì nó là kẻ thù của tôi, mặc dù nó có vẻ vô hại ra sao.

Bất cứ điều gì lôi kéo sự chú ý của tôi khi tôi suy gẫm về Ðức Chúa Trời và những điều thuộc cõi vĩnh hằng đều làm thương tổn linh hồn tôi. Nếu để sự lo âu về cuộc sống thế chỗ cho Lời Chúa trong tâm trí tôi, thì tôi sẽ phải mất mát những điều mà lẽ ra tôi đã sở hữu. Nếu tôi chấp nhận bất cứ thứ gì khác thay vì Kinh Thánh thì tôi đã bị lừa, và đã bị cướp đoạt hết những điều tốt đẹp mà chỉ còn lại sự nhầm lẫn đời đời của tôi mà thôi.

Bí mật của sự sống có tính chất thần học và chìa khóa vào thiên đàng cũng vậy. Chúng ta học thì khó khăn, quên lãng lại rất dễ dàng và phải chịu nhiều điều rối trí. Vì thế chúng ta nên đặt để lòng mình vào việc nghiên cứu thần học. Chúng ta nên giảng về nó trên tòa giảng, hát về nó trong các bài thánh ca, dạy dỗ nó cho con cháu chúng ta và biến nó thành đề tài chính của những cuộc nói chuyện khi chúng ta gặp các bạn Cơ Ðốc của mình.

Khuôn Mẫu Của Jaffray

Ðây có lẽ là lúc rất tốt để nhìn vào triết lý Jaffray về những sứ mệnh Cơ Ðốc. Ðó là một triết lý đơn giản dựa trên những nguyên tắc Thánh Kinh Tân Ước và thường gặp nhiều phản ứng chua chát khi được trình bày với sự cảm nhận sâu sắc. Từ triết lý đó ông phát triển một khuôn mẫu cho công việc của mình, một khuôn mẫu mà từ đó ông đã làm mọi sự từ những ngày đầu tiên ở nam Trung Hoa cho đến cuối cuộc đời.

Việc Robert Jaffray có ngồi xuống và vạch ra một chính sách nào hay không là điều khó mà biết được. Tâm trí của ông không hoạt động

Page 76: Tong hop

theo kiểu đó. Ông thu nhặt những tư tưởng của mình trong lúc đang đi lại giống như một con én đớp lấy miếng mồi của mình lúc đang bay lượn mỗi chiều tà. Quyển Kinh Thánh và một bản năng vững vàng đã hướng dẫn ông, và kinh nghiệm khó nhọc chẳng bao lâu sau đó đã sửa chữa những thiếu sót trong các học thuyết của ông. Những quan điểm của ông chẳng bao giờ quá phức tạp hoặc khó hiểu. Công việc của các sứ mệnh thật rất đơn giản. Nó chủ yếu bao gồm bốn việc để làm: tiếp xúc, truyền giảng (làm chứng), tổ chức và hướng dẫn. Chỉ có thế thôi. Nhưng để làm những điều cần thiết này, một con người có thể phải vất cả cả đời, và sự khó nhọc của anh ta sẽ mang lại kết quả, vì đây là những điều Ðấng Christ đã sai các đầy tớ mình đi ra để làm.Tiếp xúc là điều đầu tiên. Chẳng có thể thực hiện được điều gì trước khi mối thông công được thiết lập. Một nhà truyền giáo phải đến với những bộ lạc hư mất. Ðây là nguyên lý cơ bản trong tín điều truyền giáo của ông. Và đối với ông, đó là tiếng gọi của mạng lệnh. Nó tạo nên trong tâm trí ông một sự sốt sắng không ngừng vốn chẳng bao giờ lìa ông một ngày hay một giờ nào trong suốt cuộc đời mình. Một dấu hiệu trên bản đồ hay một cái tên ngoại đạo xa lạ khuấy động ông giống như tiếng chuông cảnh báo rung lên khi đoàn xe cứu hỏa xưa kia chạy ngang. Vì thế Jaffray là một người tiên phong, một người khám phá, một nhà thám hiểm luôn bị ám ảnh bởi sự thôi thúc khám phá những dân tộc mới và những bộ lạc ẩn kín mới.

Chính khía cạnh này của công việc truyền giáo là cái đã bắt được sự chú ý của công chúng. Như thế đã đủ để tất cả chúng ta yêu thích câu chuyện cảm động về cuộc phiêu lưu truyền giáo của một người đại diện, và Jaffray biết điều này. Như là một người có tài quảng cáo, ông sẵn sàng đem đến cho những người ngồi ở nhà cái mà họ muốn. Những bức thư thông báo tin tức và các bài báo trên những tờ tạp chí thường được đọc giống như những câu chuyện cổ có thật của chốn hoang dã, nhưng họ chẳng bao giờ nói vì lợi ích của họ, cũng không nói vì một chút thích thú nào đó. Jaffray lại hoàn toàn nghiêm túc đối với bất kỳ trò chơi nào của một đứa trẻ. Nếu ông đã có thể lôi kéo sự chú ý bằng những bảng báo cáo trung thực về những phong tục đẹp đẽ và những phương cách khác thường của những dân tộc xa lạ, ông đã không bị chống đối vì làm điều đó, nhưng những động cơ của ông luôn luôn hướng về cái nhìn toàn vẹn. Ông muốn được giúp đỡ, ông muốn có tiền, nhiều tiền, nhưng ông còn muốn hơn thế nữa, ông muốn những thanh niên trai trẻ nhanh chóng ra đi để giúp đỡ ông. Và họ đã đến, những thanh niên trai trẻ đó đã đến; họ đến, chắp cánh với lời cầu nguyện và

Page 77: Tong hop

mang theo những của dâng của những người ở nhà.

Sau khi tiếp xúc thì đến phần truyền giảng Tin Lành. Ðấng Christ đã nói với những môn đồ của mình là hãy đi khắp thế gian và môn đồ hóa. Ðối với Jaffray, đó không chỉ có một ý nghĩa là: đưa những người hư mất trở lại với Ðấng Christ ngay bây giờ, đưa họ đến chỗ tin nhận Ngài như là Cứu Chúa của mình ngay lập tức, mà không cần chờ đợi những ảnh hưởng của thế giới văn minh đến, hay những chương trình đào tạo lâu dài để họ hội đủ điều kiện. Họ chỉ cần nghe Phúc Âm và họ đã có thể được cứu, cũng như bất kỳ người da trắng nào khác.

Ðó là học thuyết của Jaffray, và sự vững chắc của nó được xác định qua việc thực hành từ người này đến người khác. Nó có tác dụng, và đó chính là sự vinh quang của nó. Nhiều đời sống đã thực sự thay đổi chỉ qua một đêm, đã được biến đổi chỉ bởi phương pháp đơn giản này. Con người có thể và đã thoát khỏi sự tàn bạo, độc ác mà chạy vào vương quốc của Ðức Chúa Trời, họ chỉ việc vượt qua một biên giới mà thôi, và đối với phần còn lại, những người đã thực hiện một thay đổi vĩ đại đã sống để minh chứng sự thay đổi đó là thực và bền lâu.Bước tiếp theo là tổ chức những Cơ Ðốc nhân mới này thành một Hội Thánh. Lúc đầu cần phải đơn giản, hơi lỏng lẻo một chút, có được sự đồng lòng của một tổ chức mà một số người nào đó được lựa chọn để làm những người lãnh đạo, và dẫn dắt cả nhóm cùng đi. Sau đó, Hội Thánh có thể phát triển thành một tổ chức hoàn hảo hơn, có một mục sư, các chấp sự và những trưởng lão; nhưng điều đó có thể chờ đợi, vì nhà truyền giáo nên hành động như là một nhà lãnh đạo thật sự cho đến khi những người mới tin đã được dạy dỗ tốt hơn. Những người thuộc giới tu sĩ có thể mỉm cười trước điều này, nhưng nó thực sự hành động, và nó vẫn còn hành động, và sự thật đó không thể bỏ qua.

Rồi thì Hội Thánh mới này phải được dạy về những lẽ thật lớn của niềm tin Cơ Ðốc, phải được dạy dỗ, thấm nhuần các giáo lý, và để hoàn thành được điều này, có hai phương tiện cần phải sử dụng: trường học và báo chí. Những điều này đến sau tổ chức và nơi mà Jaffray đã có thể thực hiện phương cách của mình không lâu sau đó.

Những ấn phẩm (báo chí) đối với Jaffray giống như các thư tín được viết tay của Phao-lô, một công cụ để giữ liên lạc với những người mới tin của mình khi họ gia tăng về số lượng, vì khoảng cách khiến cho việc liên hệ cá nhân là không thể. Rồi thì báo chí cũng có thể trở thành một hình

Page 78: Tong hop

thức văn chương thuộc linh tốt nhất cho những Cơ Ðốc nhân mới này. Thường thì các ấn phẩm của Jaffray thể hiện những vấn đề do chính ông viết ra và hướng về những nhu cầu đặc biệt nào đó, nhưng chúng cũng hình thành nên các quyển sách, truyền đạo đơn, tạp chí, bài học Kinh Thánh, và những tác phẩm văn chương dựa trên lần lượt hết sách này đến sách khác trong Kinh Thánh khi ông đã có thể chuẩn bị chúng và khi ông cảm thấy dân sự đã sẵn sàng để tiếp nhận chúng.

Cùng với các ấn phẩm là trường Kinh Thánh, cũng là một công cụ hữu hiệu cho việc truyền đạt lẽ thật. Jaffray tin nơi trường Kinh Thánh với một sự quả quyết đến độ hầu như võ đoán. Ông biết sức mạnh của nó và thúc đẩy nó với một lòng nhiệt huyết không hề suy giảm. Những giáo sĩ ngoại quốc sẽ chẳng bao giờ là lời cuối cùng cho sự truyền giảng Phúc Âm của một quốc gia. Công việc tốt và nhanh chóng nhất nên được những Cơ Ðốc nhân bản địa thực hiện ngay giữa vòng dân tộc họ. Nhưng những Cơ Ðốc nhân bản địa trước hết phải được dạy về lẽ thật và được huấn luyện để có sự phục vụ hiệu quả nhất. Trường Kinh Thánh có thể làm điều này; không có một chỗ nào khác có thể làm. Vì thế trong mỗi lĩnh vực phải có một trường học; ít nhất là một, và nhiều hơn nếu nhu cầu đòi hỏi. Ðó là quan điểm của Jaffray, và một lần nữa, sự vững chắc của nó chính là sự xác nhận công việc thực tiễn.

Cho đến nay, tốc độ niềm tin Cơ Ðốc lan rộng ra giữa những dân tộc chưa được biết đến xác chứng một sự thật rằng khải thị của Jaffray là sự ban cho thiêng liêng. Ông chẳng bao giờ để cho những nhân sự của mình co cụm lại với nhau; họ phải đi ra, luôn luôn đi ra và lúc nào cũng đi. Ông nhấn mạnh điều này đến nỗi một số những cộng sự của ông đã có lúc nghi ngờ sự thông sáng của ông, và một số ít người dám ra mặt chống đối lại ông. Thường thì những sự phát triển đến sau đánh giá chính ông, và những người nghi ngờ đã bị buộc phải nhìn nhận rằng ông đúng.

"Dĩ nhiên," một viên chức nói khi Jaffray đến xin phép rao giảng Phúc Âm trong vùng của mình, "Ông sẽ tập trung lực lượng của mình chứ?""Chắc chắn rồi," Jaffray nhanh chóng đáp lời. Rồi bước lại chỗ bức tường có treo một bản đồ quốc gia, ông chỉ tay vào nhiều điểm trên bản đồ."Chúng tôi sẽ tập trung ở đây, đây và đây.""Tại sao? Ông có bao nhiêu giáo sĩ?" viên chức ngạc nhiên hỏi."Sáu," Jaffray đáp.

Page 79: Tong hop

Chính chiến lược "tập trung" trên toàn bộ bản đồ này đã đẩy mạnh những hành trình truyền giáo của ông.

Tuy nhiên, dù có một vận tốc tiến bước nhanh như chớp nhoáng này, ông vẫn không bao giờ rơi vào một sai lầm diễn ra ở vài nơi trong thời đại ngày nay - ông không bao giờ tin rằng ông đã hoàn tất công việc của Ðức Chúa Trời chỉ bởi việc công bố Phúc Âm và đi tiếp. Ông không để những Cơ Ðốc nhân mới rơi trở lại tà giáo. Bất cứ nơi nào có một vài người mới tin Chúa, thì ở đó phải thành lập một Hội Thánh; công việc phải được tiếp tục. Rồi thì người sứ giả đã có thể đi tiếp, nhưng không chỉ đến khi đó. Ðây là sự thông sáng mà Thánh Kinh Tân Ước bày tỏ. Nó có thể phục vụ như là một khuôn mẫu cho mọi cộng đồng truyền giáo ở khắp nơi.

Ý niệm cho rằng chúng ta chỉ việc công bố Phúc Âm một lần cho mỗi bộ lạc và rồi đi tiếp đến chỗ khác mà không xem lại những kết quả là một ý niệm xưa cũ và sai lầm. Dù là triết lý sâu kín của nhiều đoàn truyền giáo ngày nay, nó rõ ràng là một dị giáo của phương pháp, xuất hiện do sự đọc sai trật tự. Thật thú vị khi biết rằng Wesley và những người trong hội Giám Lý của ông đã phải đối đầu với điều này trong những hoạt động truyền giáo đầu tiên của mình, và thật đáng cho chúng ta học hỏi cách mà họ đối đầu với nó như thế nào.

Trong một phần của cuốn sách Methodist Discipline (tạm dịch là Giám Lý Nhập Môn) được xuất bản năm 1848 (theo những gì tôi nhớ) và từ buổi ban đầu đã chứa đựng những dấu ấn của tâm trí Wesley, "Những Quy Tắc Rao Giảng mà chúng ta phải Tiếp Tục, hoặc là Ngừng Lại ở Bất Kỳ Nơi Nào," vấn đề được đặt ra là, "Có khôn ngoan không khi chúng ta đi rao giảng ở thật nhiều nơi, những nơi mà chúng ta có thể đến, mà không cần thành lập bất kỳ Hội Thánh nào cả?" Câu trả lời rất nhấn mạnh: "Tuyệt nhiên không. Chúng ta đã để lại dấu vết ở nhiều nơi khác nhau; và đó là cho những lúc đáng lưu ý đến. Nhưng tất cả hột giống đã rơi vãi trên đường. Hiếm có một bông trái nào còn lại."

Jaffray là một người thuộc hệ phái Trưởng Lão, song thật đáng ngờ việc ông lưu tâm nhiều đến những phương cách của những người Giám Lý đầu tiên; nhưng trong đám lửa nóng cháy của kinh nghiệm, ông học biết được những bài học giống như họ đã học trước ông và ông đi đến một kết luận. Ðây có thể không phải là lời cuối cùng có thể nói về đề tài này, nhưng một nhà truyền giáo khôn ngoan sẽ kính cẩn lắng nghe

Page 80: Tong hop

những bậc thầy của mình. Họ đã đưa ra bằng chứng cho triết lý của mình, sự tranh luận không thể trả lời được của một thành công vượt bậc.

Lời Cầu Nguyện Của Một Tiên Tri Nhỏ

Lời cầu nguyện này của một người được kêu gọi để làm chứng nhân cho các nước. Đây là những gì ông nói với Chúa của mình vào ngày ông được kêu gọi. Sau khi các trưởng lão và các mục sư cầu nguyện rồi đặt tay lên ông, ông trở về gặp gỡ Cứu Chúa của mình trong nơi kín nhiệm và trong sự tĩnh lặng, xa khỏi những nơi mà các anh em của ông có thể tìm thấy ông.

Ông thưa với Chúa: Lạy Chúa, con đã nghe tiếng Ngài và con sợ hãi. Ngài đã kêu gọi con vào một chức vụ đáng sợ trong hầm mộ và giờ phút hiểm nghèo. Ngài sắp sửa lay chuyển tất cả các nước, cả trái đất cùng toàn thể thiên đàng, đến độ những thứ không thể lay chuyển được cũng phải đổ xuống. Ôi Chúa, là Giê-hô-va Đức Chúa Trời, là Chúa của con, Ngài đã đoái thương và chọn con làm tôi tớ Ngài. Không một người nào có thể lấy được vinh dự này ngoại trừ người đã được Ngài kêu gọi như A-rôn. Ngài đã khiến con trở thành người mang sứ điệp của Ngài đến cho những kẻ cứng lòng mà không chịu lắng nghe. Họ đã chối bỏ Ngài, vị Chủ Tể Oai Quyền, và con cũng không mong đợi họ sẽ chấp nhận con, một tôi tớ.

Lạy Chúa của con, con sẽ không lãng phí thời gian kể lể về những yếu đuối của mình cũng như sự thiếu năng lực để hoàn thành công việc. Trách nhiệm đó không phải của con, bèn là của Ngài. Ngài đã phán, “Ta đã biết ngươi rồi - ta đã biệt riêng ngươi - lập ngươi làm kẻ tiên tri cho các nước,” và Ngài cũng đã phán, “Ngươi sẽ đi khắp nơi nào ta sai ngươi đi, và sẽ nói mọi điều ta truyền cho nói.” Con là ai mà dám tranh luận với Ngài hay nghi ngờ sự lựa chọn thánh của Ngài? Quyết định không phải của con, bèn là của Ngài. Xin ý Cha được nên, Chúa ôi! Ý Cha, chứ không phải ý con, được nên. Phải, con biết rõ Ngài là Đức Chúa Trời của các đấng tiên và sứ đồ, và hễ khi nào con tôn cao Ngài thì Ngài lại nhắc con lên. Vì thế xin hãy giúp con giữ được lời hứa trang nghiêm này, rằng con sẽ tôn cao Ngài suốt cả cuộc đời và công việc tương lai của con, bất luận khi con được hay mất, sống hay chết, và xin hãy giữ lời hứa đó nguyên vẹn chừng nào con còn sống.

Page 81: Tong hop

Đã đến lúc rồi Cha ơi, đến lúc Ngài hành động, vì kẻ thù đã xâm lấn vào các đồng cỏ của Ngài, và bầy chiên thì tan lạc, tẻ tách khắp nơi. Những kẻ chăn chiên trá hình có nhiều vô số, họ mặc kệ các mối hiểm họa và mỉm cười trước cơn nguy khốn đang vây quanh bầy của Ngài. Những con chiên bị đánh lừa bởi những kẻ làm thuê này và bước đi theo họ một cách rất trung thành trong khi lũ sói đang đến gần để giết chóc và hủy diệt. Con xin Ngài ban cho con đôi mắt tinh xảo để phát giác được sự hiện diện của kẻ thù; hãy ban cho con sự thông sáng để thấy và can đảm thuật lại những gì mình thấy cách thành tín. Hãy khiến cho giọng con giống như tiếng của chính Ngài để những con chiên đang bệnh sẽ nhận ra và bước theo Ngài.

Lạy Chúa Jêsus, con đến với Ngài và xin Ngài chuẩn bị phần thuộc linh cho con. Xin hãy đặt tay lên con. Hãy thánh hóa con với dầu của Nhà Tiên Tri Tân Ước. Hãy ngăn chặn để con không trở thành người sao chép tôn giáo và vì thế đánh mất sự kêu gọi tiên tri. Hãy cứu con khỏi mọi sự rủa sả vốn nằm đó che mất gương mặt của một mục sư hiện đại, lời nguyền của sự thỏa hiệp, sự bắt chước, của trình độ nghiệp vụ. Xin hãy cứu con khỏi sai lầm của việc đánh giá một Hội Thánh bằng độ lớn, sự nổi tiếng của Hội hay số dâng hàng năm. Xin hãy giúp con nhớ rằng con là một nhà tiên tri, chứ không phải một người sáng lập ra cái gì, cũng không phải một nhà quản lý tôn giáo, bèn là một tiên tri. Xin đừng bao giờ để con trở thành nô lệ của đám đông. Hãy chữa lành linh hồn con khỏi những tham vọng xác thịt và giải phóng con khỏi ham muốn nổi danh. Hãy cứu con khỏi sự ràng buộc vào vật chất. Xin đừng để con lãng phí các ngày của mình lăng xăng trong và quanh nhà. Hãy đặt để lòng kính sợ Ngài lên con, Chúa ôi, và thúc đẩy con vào sự cầu nguyện, nơi mà con có thể vật lộn với sự thống trị, những sức mạnh và các vua cầm quyền thế giới tối tăm này. Xin hãy giải phóng con khỏi thói ham ăn nhiều và ngủ dậy trễ. Hãy dạy con biết tự kỷ luật mình để trở thành một người lính giỏi của Đấng Christ.

Con chấp nhận công việc nặng nhọc và phần thưởng ít ỏi trong cuộc đời này. Con không cầu xin một chỗ dễ dàng nào cả. Con sẽ cố nhắm mắt trước những con đường rộng lớn có thể khiến cuộc sống dễ dàng hơn. Nếu những người khác tìm kiếm con đường bằng phẳng, con sẽ cố tìm kiếm và đi theo con đường chông gai mà không đoán xét họ quá khắc nghiệt. Con thực sự chờ đón sự chống đối và sẽ cố đương đầu với nó cách thầm lặng khi nó đến. Hay nếu, như thỉnh thoảng các

Page 82: Tong hop

tôi tớ Ngài vẫn rơi vào, khi nào đó con phải nhận những món quà từ dân sự tốt bụng của Ngài, xin hãy đứng bên cạnh con và cứu con khỏi ảnh hưởng xấu rất thường hay theo sau. Xin hãy dạy con sử dụng bất cứ gì con nhận lãnh được trong các trường hợp đó để con sẽ không làm tổn thương linh hồn mình hay làm giảm bớt sức mạnh thuộc linh của con. Và nếu trong ý muốn cho phép của Ngài, vinh dự đến với con từ Hội Thánh Ngài, thì xin đừng để con quên rằng ngay chính trong những giờ đó con không đáng giá chút nào với ân điển Ngài, và rằng nếu người khác biết con tường tận như con biết chính mình thì họ sẽ rút lại những vinh dự đó hay ban tặng cho những người khác xứng đáng nhận lãnh chúng hơn con.Và bây giờ, hỡi Chúa của cả trời và đất, con hiến dâng trọn vẹn những ngày còn lại của con trên đất này cho Ngài; xin hãy cho chúng được nhiều hay ít, tùy vào ý muốn Ngài. Hãy để con đứng trước những người vĩ đại hay các mục sư hoặc trước người nghèo và thấp hèn; lựa chọn đó không phải của con, và xin đừng để con gây ảnh hưởng lên nó khi mà con có thể. Con là đầy tớ Ngài để làm theo ý muốn Ngài. Và ý muốn đó đối với con ngọt ngào hơn cả địa vị hay sự giàu sang, hoặc sự nổi tiếng và con lựa chọn nó trên hết mọi thứ trên đất cũng như trên thiên đàng.

Dầu con đã được lựa chọn thuộc về Ngài và được tôn cao bởi sự kêu gọi cao cả và thánh khiết, xin đừng bao giờ để cho con quên rằng con chỉ là một con người của đất cát và tro bụi, một con người với tất cả những thiếu sót và đam mê tự nhiên vốn đã đang tràn lan khắp nơi trong vòng chủng tộc loài người. Vì thế, con cầu xin Ngài, Đấng Cứu Chuộc con, hãy giải cứu con khỏi chính mình và khỏi tất cả những tổn thương con gây ra cho chính mình khi cố gắng trở thành một nguồn phước cho người khác. Hãy đầy dẫy con bởi quyền năng của Thánh Linh, và con sẽ ra đi với sức mạnh của Ngài mà nói về sự công bình của Ngài, và chỉ mình Ngài mà thôi. Con sẽ rao giảng khắp nơi sứ điệp giải cứu của tình yêu thương trong khi những sức mạnh tự nhiên của con tồn tại.

Rồi thì, ôi Chúa của con, khi con già yếu, kiệt sức và quá mệt mỏi để tiếp tục, xin hãy chuẩn bị cho con một chỗ ở trên nơi cao kia và hãy khiến con được ở chung nhóm với các thánh Ngài trong sự vinh hiển đời đời vô cùng. Amen. AMEN

Phép Lạ Theo Sau Cái Cày

Page 83: Tong hop

"Hãy vỡ đất mới! Vì là kỳ tìm kiếm Ðức Giê-hô-va, cho đến chừng nào Ngài đến và sa mưa công bình trên các ngươi" - Ô-sê 10:12

Có hai loại đất: đất hoang hóa, và đất đã vỡ ra bởi cái cày.

Cánh đồng hoang: đất chai sạn, không thấm nước, cứng cỏi trước lưỡi cày và sự khuấy động của cái bừa. Một cánh đồng như thế, khi nó nằm đó hết năm này sang năm khác, trở thành chỗ vui chơi quen thuộc cho đám đông và những con chim giẻ cùi. Nếu nó có lý trí, có lẽ nó sẽ rất thỏa lòng vì danh tiếng của mình; nó bền chặt; thiên nhiên chấp nhận nó; có thể tin chắc rằng nó vẫn sẽ cứ mãi như vậy trong khi những cánh đồng xung quanh thay đổi từ màu nâu sang màu xanh và rồi trở lại màu nâu. An toàn và không bị quấy nhiễu, nó nằm ườn ra đó cách biếng nhác dưới ánh nắng; bức tranh về sự thỏa mãn thật là buồn ngủ. Nhưng nó đang trả một cái giá khủng khiếp cho sự thanh bình của mình: Nó sẽ chẳng bao giờ có thể thấy được phép lạ của sự phát triển; chẳng bao giờ nó cảm nhận được những xúc cảm của sự sống đang dâng lên, cũng không thấy được những kỳ quan của hạt giống khi chúng nứt ra hoặc vẻ đẹp của một vụ mùa chín mọng. Nó sẽ chẳng bao giờ biết đến bông trái vì nó sợ cái cày và cái bừa.

Trái ngược với điều này, một cánh đồng được canh tác đã cống hiến chính mình cho cuộc phiêu lưu của sự sống. Hàng rào bảo vệ đã được mở ra để tiếp nhận lưỡi cày, và lưỡi cày đã đến theo cách mà chúng luôn luôn đến như vậy, thực tế, dữ dội, giống như trong thương trường và vội vã. Sự thanh bình đã bị phá tan bởi người nông dân đang gào thét và tiếng ầm ì của máy móc. Cánh đồng đã cảm nhận được cố gắng khó nhọc của sự thay đổi; nó đã buồn, bị vỡ lên, thâm tím và nát bấy, nhưng những phần thưởng của nó thật nhiều vì công việc nặng nhọc nó phải chịu. Hạt giống mọc lên dưới ánh sáng ban ngày, trở thành một phép lạ của sự sống, tò mò, khám phá thế giới mới bên trên nó. Trên toàn bộ cánh đồng, bàn tay của Ðức Chúa Trời đang hành động trong công tác sáng tạo lâu đời, nhưng luôn luôn được làm cho tươi mới lại. Những thứ mới ra đời, lớn lên, chín muồi, và hoàn thành sự tiền định lớn lao tiềm tàng trong hạt giống khi nó mới rơi xuống đất. Những kỳ quan của thiên nhiên theo sau cái cày.

Cũng có hai loại đời sống: một loại còn hoang sơ, khô cằn, và một loại đã

Page 84: Tong hop

được cày xới. Về những ví dụ cho đời sống khô cằn, chúng ta chẳng cần phải nói nhiều. Chúng có khắp mọi nơi giữa vòng chúng ta.

Con người có đời sống khô cằn, cứng cỏi tự thỏa mãn với chính mình và bông trái mà mình đã từng một lần sản sinh. Anh ta không muốn bị quấy rầy. Anh mỉm cười trước những cơn phấn hưng, các kỳ kiêng ăn, sự tự tìm kiếm, và mọi khó nhọc của việc kết quả cũng như nỗi đau của việc tiến về phía trước. Tinh thần phiêu lưu mạo hiểm đã chết bên trong con người anh. Anh ta vững vàng, "thành tín", luôn luôn ở trong nơi quen thuộc của mình (giống như cánh đồng cũ), bảo thủ, và là một cái gì đó giống như một cái mốc quan trọng trong một Hội Thánh nhỏ. Nhưng anh chẳng kết quả gì. Ðiều rủa sả của một đời sống như thế chính là ở chỗ nó bị định đoạt, cả về tầm thước vóc giạc lẫn nội dung. Cái là đã được thay thế thành cái trở thành. Ðiều tồi tệ nhất có thể nói về một người như thế là anh ta hiện là cái mà anh ta sẽ là như vậy. Anh đã tự rào chính mình lại, và cũng bởi hành động đó, anh khước từ Ðức Chúa Trời và phép lạ.

Ðời sống đã được cày xới là một đời sống, trong hành động ăn năn, đã phá vỡ hàng rào và để cho cái cày của sự xưng tội cày xới linh hồn mình. Sự thúc đẩy của Thánh Linh, áp lực của hoàn cảnh và sự căng thẳng của một đời sống không kết quả đã phối hợp lại với nhau làm cho tấm lòng hạ mình xuống. Ðời sống như thế đó đã dở bỏ hàng rào và đã từ bỏ sự an toàn chết chóc, thay vào đó là sự nguy hiểm của sự sống. Không thỏa lòng, khao khát, ăn năn, can đảm vâng phục ý muốn của Ðức Chúa Trời: tất cả những điều này tác động mạnh mẽ và đập vỡ những cục đất cứng cỏi, làm tơi ra cho đến khi nó sẵn sàng cho hạt giống. Và lúc nào cũng vậy, bông trái theo sau cái cày. Sự sống và sự tăng trưởng bắt đầu khi Ðức Chúa Trời "mưa sự công bình xuống." Một người như thế có thể làm chứng rằng, "Tay Giê-hô-va Ðức Chúa Trời tôi phù trợ tôi" (E-xơ-ra 7:28).

Tương ứng với hai loại đời sống này, lịch sử tôn giáo đã cho ra hai cụm từ, năng động và thụ động.Những thời kỳ năng động là những thời kỳ anh hùng, khi dân sự của Ðức Chúa Trời khuấy động chính mình để làm theo mạng lệnh của Ngài và đi ra mà không có một chút sợ hãi nào để làm chứng cho khắp thế giới về chính Ngài. Họ đánh đổi sự an toàn của việc không làm gì cả lấy những nguy hiểm của cả tiến trình đã được Ðức Chúa Trời linh cảm. Lúc nào cũng vậy, quyền năng của Ðức Chúa Trời theo sau những hành động đó. Phép lạ của Ðức Chúa Trời đi đến khi

Page 85: Tong hop

và nơi nào dân sự Ngài đến; nó dừng lại nơi nào dân sự Ngài dừng lại.

Những thời kỳ thụ động là những giai đoạn khi mà dân sự của Ðức Chúa Trời mỏi mệt vì tranh chiến và quay sang tìm kiếm chút bình an và sự an toàn. Rồi thì họ làm cho chính mình bận rộn với việc cố gắng duy trì những gì đã làm được trong những khoảng thời gian đối đầu với nguy hiểm, lúc mà quyền năng của Ðức Chúa Trời vận hành qua họ.Lịch sử Thánh Kinh có rất nhiều ví dụ. Áp-ra-ham bước đi trên cuộc phiêu lưu đức tin vĩ đại của mình, và Ðức Chúa Trời đi với ông. Những khải tượng, sự hiện ra của Chúa, quà tặng của xứ Pa-lét-tin, các giao ước và lời hứa ban phước dồi dào trong tương lai chính là kết quả. Rồi thì dân Y-sơ-ra-ên đi xuống Ai Cập, và những điều kỳ diệu dừng lại trong 400 năm. Vào cuối thời kỳ đó, Môi-se nghe tiếng gọi của Ðức Chúa Trời và đã bước ra để thách thức kẻ chống đối. Một cơn gió của quyền năng đi cùng với thách thức đó, và chẳng bao lâu sau Y-sơ-ra-ên bắt đầu diễu hành. Chừng nào dân tộc này còn dám diễu hành, Ðức Chúa Trời còn làm những phép lạ của Ngài để mở đường cho họ. Bất cứ khi nào Y-sơ-ra-ên nằm xuống giống như cánh đồng cằn cỗi, Ngài cất những ơn phước của Ngài và chờ đợi dân sự đứng lên trở lại để thi triển quyền năng đó.

Ðây là một nét phác thảo ngắn gọn nhưng rất đúng trong lịch sử của Y-sơ-ra-ên và của cả Hội Thánh nữa. Chừng nào họ còn "đi ra giảng đạo khắp nơi", Chúa "cùng làm với môn đồ, và lấy các phép lạ cặp theo." Nhưng khi họ rút lui vào các tu viện hay miễn cưỡng xây dựng các thánh đường, sự giúp đỡ của Ðức Chúa Trời sẽ bị rút lại cho đến khi có một Luther hay Wesley đứng dậy để lại thách thức địa ngục một lần nữa. Và rồi thì lúc nào cũng thế, Ðức Chúa Trời tuôn đổ quyền năng của Ngài như trước.Trong mỗi hệ phái, mỗi cánh đồng truyền giáo, mỗi Hội Thánh địa phương hay mỗi cá nhân Cơ Ðốc nhân, quy luật này đều vận hành. Ðức Chúa Trời hành động hễ chừng nào dân sự Ngài còn dám sống mạo hiểm: Ngài dừng lại khi họ không còn cần đến sự trợ giúp của Ngài nữa. Chừng nào chúng ta còn tìm kiếm sự bảo vệ ở bên ngoài Ðức Chúa Trời, chúng ta tìm thấy sự thất bại của chính mình. Chúng ta hãy cứ xây dựng một tường thành bảo vệ bằng những tài năng, bằng các luật lệ, uy tín, bằng những trụ sở rộng rãi cho những phái đoàn thuộc nhiệm vụ của chúng ta, và cứ ở trong tình trạng tê liệt, một tình trạng vốn chỉ có thể mang đến cái chết mà thôi.

Page 86: Tong hop

Quyền năng của Ðức Chúa Trời chỉ đến nơi nào nó được gọi đến bởi cái cày. Nó được phóng thích vào Hội Thánh chỉ khi nào Hội Thánh đang làm một điều gì đó cần đến nó. Dùng từ "làm" ở đây, tôi không chỉ muốn nói đến sự hoạt động. Hội Thánh có vô số "công việc lăng xăng", nhưng trong mọi hoạt động, Hội Thánh rất cẩn thận để không chạm đến mảnh đất cằn cỗi của chính mình. Hội Thánh cẩn thận hạn chế hoạt động của mình trong những ranh giới của sự lo sợ sẽ mất đi sự an toàn trọn vẹn. Ðó là lý do tại sao Hội Thánh không kết quả; Hội Thánh được an toàn, nhưng cằn cỗi.

Ngày nay, hãy nhìn quanh xem nơi nào các phép lạ của quyền năng đang diễn ra: Chẳng bao giờ trong những trường dòng, nơi mà mỗi tư tưởng đều được chuẩn bị cho học sinh để được tiếp nhận một cách không đau đớn và gián tiếp; chẳng bao giờ trong học viện tôn giáo nơi mà truyền thống và thói quen đã từ lâu khiến đức tin không còn cần thiết nữa; chẳng bao giờ trong Hội Thánh lâu đời, nơi mà những tấm thẻ ghi nhớ phủ đầy trên các mặt bàn chứa đựng những lời chứng câm lặng cho sự vinh hiển một lần đã từng ở đó. Lúc nào cũng vậy, nơi nào đức tin mạo hiểm đang tranh đấu để tiến lên chống lại những cái xem chừng như chẳng còn hy vọng gì, nơi đó Ðức Chúa Trời "từ nơi thánh sai ơn giúp đỡ."

Trong cánh đồng truyền giáo, nơi mà tôi đã từng nhiều năm cộng tác, tôi chú ý một điều rằng quyền năng của Ðức Chúa Trời luôn luôn bay lượn trên các biên cương của chúng tôi. Những phép lạ luôn luôn đi cùng với bước tiến của chúng tôi và bị mất đi khi và ở nơi nào chúng tôi để cho chính mình trở nên thỏa mãn và không tiến bước nữa. Tín điều về quyền năng không thể cứu một phong trào khỏi sự cằn cỗi. Phải có công việc của phép lạ cặp theo.Nhưng tôi quan tâm nhiều hơn đến tác động của lẽ thật này trên Hội Thánh địa phương và từng cá nhân. Hãy nhìn vào Hội Thánh nơi mà những bông trái đã từng là một cái gì đó xuất hiện rất thường xuyên và được mong đợi, nhưng bây giờ lại có ít, thậm chí chẳng có tí bông trái nào cả, và quyền năng của Ðức Chúa Trời dường như không còn nữa. Vấn đề là gì? Ðức Chúa Trời không thay đổi, mục đích của Ngài cho Hội Thánh đó cũng vậy, dù chỉ thay đổi một chút thôi cũng không. Không! Chính Hội Thánh đã thay đổi!

Tự kiểm tra một chút thôi cũng sẽ thấy được rằng Hội Thánh đó và những thành viên của mình đã trở nên cằn cỗi. Hội Thánh đã sống sót

Page 87: Tong hop

trước những khó khăn ban đầu và bây giờ đã đi đến chỗ chấp nhận một con đường dễ dàng hơn của sự sống. Hội Thánh thỏa mãn với việc cứ tiếp tục chương trình không gây đau đớn gì với đủ số tiền để trả các hóa đơn và một sổ hội viên đủ lớn để bảo đảm tương lai của mình. Các thành viên bây giờ nhìn vào sự an toàn của Hội Thánh hơn là sự hướng dẫn trong trận chiến giữa điều thiện và điều ác. Hội Thánh đã trở thành một trường học thay vì một trại lính. Những thành viên của Hội Thánh là các học sinh chứ không phải những người lính. Họ học những kinh nghiệm của người khác thay vì tìm kiếm những kinh nghiệm mới cho chính mình.

Con đường duy nhất để quyền năng quay trở lại với Hội Thánh là Hội Thánh phải ra khỏi nơi ẩn nấp của mình và một lần nữa lựa chọn con đường có muôn vàn nguy hiểm vây quanh của sự vâng lời. Sự an toàn của Hội Thánh chính là kẻ thù đáng gờm nhất. Hội Thánh nào lo sợ trước cái cày, Hội Thánh đó đang viết bia mộ cho mình, Hội Thánh nào sử dụng cái cày là Hội Thánh đang đi trên con đường phấn hưng.

Quá Đà Hạ Mình !

"Ðương chờ đợi sự trông cậy hạnh phước của chúng ta, và sự hiện ra của sự vinh hiển Ðức Chúa Trời lớn và Cứu Chúa chúng ta, là Ðức Chúa Jêsus Christ, là Ðấng liều mình vì chúng ta, để chuộc chúng ta khỏi mọi tội và làm cho sạch, đặng lấy chúng ta khỏi mọi tội và làm một dân thuộc riêng về Ngài, là dân có lòng sốt sắng về các việc lành"Tít 2:13-14

Dân sự của Ðức Chúa Trời, các Cơ Ðốc nhân ngày nay, là những người đang sống giữa hai biến cố đầy quyền năng, sự hiện thân của Ðấng Christ và sự tái lâm của Ngài, không phải là những người đang sống trong một khoảng chân không!

Thật là ngạc nhiên khi các phần tử của Hội Thánh Cơ Ðốc phủ nhận tính chắc chắn của sự tái lâm của Ðức Chúa Jêsus tố cáo những ai thật lòng tin nơi sự sớm trở lại của Ngài, lại đang ngồi lại với nhau, bẻ các ngón tay, nhìn lên trời và trông chờ những điều tốt nhất với vẻ mặt thẩn thờ!

Không có gì có thể thêm vào lẽ thật. Chúng ta sống trong một thời đại

Page 88: Tong hop

chuyển tiếp giữa hai lần hiện ra của Ngài, nhưng chúng ta không sống trong một khoảng chân không. Chúng ta có nhiều điều phải làm trong một thời gian ngắn ngủi!Hãy mở rộng tâm trí bạn ra và xem xét vài sự kiện rất rõ ràng ngày nay.

Ai là những Cơ Ðốc nhân đã từ bỏ mọi sự để đi vào chức vụ truyền giáo ở khắp nơi trên thế giới? Ai là những Cơ Ðốc nhân đang ở nhà và dâng hiến để ủng hộ công cuộc truyền giáo và giúp sức thúc đẩy rao giảng Phúc Âm khắp mọi nơi? Họ là những người tin quyết rằng Ngài sẽ đến.

Những Hội Thánh nào đang nỗ lực cầu nguyện, dạy dỗ và dâng hiến, chuẩn bị những người trẻ của họ cho chức vụ và cho công tác truyền giáo? Ðó là những Hội Thánh đang đáp lại lời mời gọi của Ðấng Christ: "Hãy dùng bạc này sanh lời cho đến khi ta trở về."

Trong phân đoạn này, Tít đã nói với Cơ Ðốc nhân chúng ta một giáo lý vốn thích hợp cả trong ánh sáng của sự tái lâm được mong đợi của Ðấng Christ cũng như trên gương mặt của sự chết.Chính trong những thư phẩm của những người Giám Lý đầu tiên tại Anh quốc, khi nổ ra cuộc bắt bớ và thử thách trên mọi phương diện, John Wesley đã nói, "Dân sự chúng ta chết nhanh quá!"

Trong những năm gần đây, tôi có nghe lời trích dẫn của một giám mục thuộc một hệ phái nọ, ông ước chừng có khoảng 10% những người nam và người nữ là thành viên Hội Thánh ông đã được chuẩn bị về phương diện thuộc linh và sẵn sàng để chết khi thời điểm của họ đến.

Tôi tin rằng bạn chỉ có thể chết cách tốt đẹp khi bạn đã sống tốt, nhìn từ góc độ thuộc linh. Giáo lý của đời sống Cơ Ðốc này và sức sống thuộc linh của tín hữu như đã được Tít nêu ra có sự hiệu lực trước bất cứ điều bất ngờ nào đang chờ đợi chúng ta.

Tít nhanh chóng xác định Ðức Chúa Jêsus Christ là Cứu Chúa, là "Ðấng liều mình vì chúng ta," và chúng ta có thể nhanh chóng học biết giá trị của bất kỳ vật gì bởi cái giá mà người ta sẵn sàng chi trả cho nó. Có lẽ tôi nên nói rõ một điều - bạn có thể không biết được giá trị thật, vì quan điểm của riêng tôi cho rằng một viên đá quý hay những món nữ trang khác về bản chất chẳng có chút giá trị gì cả.

Page 89: Tong hop

Bạn có thể nhớ lại câu chuyện về chú gà trống cào bới quanh sân để tìm những hạt bắp. Thình lình nó bươi nhằm một viên ngọc trai thật đẹp có một cái giá thật đắt và đã bị thất lạc từ biết bao nhiêu năm về trước, nhưng nó cứ bươi viên ngọc sang một bên và tiếp tục tìm kiếm hạt bắp của mình. Viên ngọc trai chẳng có chút giá trị gì đối với con gà trống, dẫu rằng nó có một giá trị thật to lớn đối với những ai đã đặt cho nó một cái giá.

Có nhiều loại chợ khác nhau trên thế giới, và một cái gì đó, có thể chẳng có giá trị gì đối với một người không hề thích thú nó, lại được xem là có giá trị rất lớn bởi những người ao ước có và sẵn sàng bỏ tiền ra mua nó bằng mọi giá.

Rồi cũng chính trong ý nghĩa này mà chúng ta học biết rằng chúng ta thân thiết và quý báu đối với Ðấng Christ như thế nào bởi những gì Ngài đã sẵn sàng lìa bỏ vì chúng ta.

Tôi tin rằng nhiều Cơ Ðốc nhân bị cám dỗ để xem nhẹ giá trị của chính mình quá mức. Tôi không tranh luận chống lại việc khiêm nhường thật, và lời tôi nói với bạn là: Hãy suy nghĩ về bản thân bạn như là một người hèn mọn thế nào đó theo như ý bạn muốn, nhưng hãy luôn nhớ rằng Chúa Jêsus chúng ta đánh giá bạn rất cao - đủ cao để Ngài từ bỏ chính mình, đến với sự chết và trở thành một tế lễ chuộc tội.

Nếu ma quỷ đến với bạn và thì thầm rằng bạn không tốt, đừng đồng ý với hắn. Thực ra, bạn cũng có thể thừa nhận điều đó, nhưng sau đó hãy nhắc ma quỷ rằng: "Bất luận những điều ngươi nói với ta, ta nói cho ngươi biết rằng Ðức Chúa Trời suy nghĩ về ta như thế nào. Ngài phán rằng đối với Ngài, ta có giá trị đến độ Ngài đã hy sinh chính mình vì ta trên thập giá!"

Vì thế, giá trị được định đoạt bởi cái giá được trả - và, trong trường hợp của chúng ta, cái giá được trả chính là Ðức Chúa Jêsus Christ!Mục đích của Cứu Chúa là giải thoát chúng ta khỏi mọi tội lỗi, tức là khỏi quyền lực và hậu quả của tội lỗi.

Chúng ta thường hát những lời thánh ca của Charles Wesley mà trong đó sự chết của Chúa Jêsus được mô tả như là "phương thuốc kép" cho tội lỗi. Tôi nghĩ rằng nhiều người hát bài thánh ca, nhưng không nhận biết được điều Wesley muốn nói trong cụm từ "phương thuốc kép".

Page 90: Tong hop

"Là phương thuốc kép cho tội lỗi, cứu rỗi tôi khỏi cơn thạnh nộ và quyền lực của nó." Cơn thạnh nộ của Ðức Chúa Trời chống lại tội lỗi và quyền lực của tội lỗi trong đời sống con người - cả hai điều này phải được chữa lành. Vì thế, khi Ngài phó chính mình Ngài vì chúng ta, Ngài giải thoát chúng ta với một phương thuốc kép, giải phóng chúng ta khỏi hậu quả của tội lỗi và giải phóng chúng ta khỏi quyền lực mà tội lỗi hành động trong đời sống con người.

Bây giờ, trong khối vàng ròng của lẽ thật thuộc linh này, Tít nhắc nhở chúng ta rằng Ðấng-Christ-giải-phóng thực hiện một công việc làm thánh sạch dân sự của Ðức Chúa Trời.

Bạn sẽ phải đồng ý với tôi rằng một trong những bệnh tật sâu thẳm đã bùng nổ trên thế giới và xã hội ngày nay là sự ô uế, và nó biểu lộ chính mình qua hàng tá các triệu chứng. Chúng ta có khuynh hướng nhìn những hành động thân thể dâm dục và khiếm nhã nào đó như là sự ô uế vốn lan truyền như một dịch bệnh trong đời sống và xã hội con người - nhưng thói dâm dật, thủ đoạn, kế hoạch và âm mưu thực sự đến từ một nguồn gốc sâu thẳm hơn của sự ô uế trong mỗi tâm trí và từ nơi sâu kín nhất của tâm hồn những người nam và người nữ tội lỗi.

Nếu chúng ta là con người của những bàn tay thánh sạch và những tấm lòng thuần khiết, chúng ta sẽ hướng về việc làm những điều vừa lòng Ðức Chúa Trời. Sự ô uế không chỉ là một hành động sai trật; sự ô uế là một trạng thái tâm trí, tấm lòng và linh hồn vốn trái ngược hẳn với sự thánh khiết và trọn vẹn.

Thông gian tình dục là một triệu chứng của căn bệnh ô uế - nhưng thói ghen ghét cũng thế. Sự kiêu ngạo và thói tự cao tự đại, sự phẫn uất và thói cáu kỉnh xuất phát từ những tâm trí và tấm lòng tội lỗi, ô uế, cũng giống như thói phàm ăn và sự lười biếng, thói bê tha. Tất cả những điều này và vô số những thứ khác xuất hiện như là những triệu chứng của căn bệnh sâu thẳm bên trong của sự ích kỷ và tội lỗi.

Vì điều này là sự thật trong đời sống và kinh nghiệm, chính công việc thuộc linh của Ðức Chúa Jêsus Christ là tẩy uế dân sự Ngài bởi chính huyết báu của mình để cứu họ khỏi căn bệnh nằm sâu bên trong này. Ðó là lý do tại sao Ngài được gọi là Thầy Thuốc Ðại Tài - Ngài có thể chữa lành chúng ta khỏi bệnh dịch ô uế và tội lỗi này, giải phóng chúng ta khỏi hậu

Page 91: Tong hop

quả của tội lỗi mình và thanh tẩy chúng ta khỏi sự tồn tại của tội lỗi trong đời sống.Hỡi những anh em của tôi, hoặc điều này là thật và có thể hiểu được trong đời sống và kinh nghiệm con người, hoặc Cơ Ðốc giáo là một trò gian lận rẻ tiền của thời đại. Hoặc điều này là thật và tùy thuộc vào sự lựa chọn thuộc linh, hoặc chúng ta nên gấp Kinh Thánh lại và quẳng nó đi cùng với những tác phẩm văn chương cổ điển khác, vốn không còn thích hợp trên bề mặt địa cầu này nữa.

Tạ ơn Chúa là có hàng triệu người dám đứng lên giống như trong một ban hợp xướng và cùng lớn tiếng nói với tôi, "Ðó là chân lý! Ðức Chúa Trời thật đã phó chính mình Ngài để giải phóng chúng ta khỏi mọi tội lỗi và Ngài hiện đang làm công việc tẩy uế đời sống chúng ta hằng ngày!"

Kết quả của công việc tẩy uế của Ðấng Christ là sự hoàn hảo của dân sự rất yêu dấu của Ðức Chúa Trời, được đề cập đến trong đoạn này là "dòng giống được lựa chọn" (theo Bản dịch cũ).

Nhiều người trong chúng ta biết quá rõ rằng từ "được lựa chọn" này đã thường được sử dụng để che đậy hành vi tôn giáo vừa lạ thường, vừa phi lý. Dân sự đã được biết đến như là những người làm những điều khá lạ thường rồi lại nhe răng cười cách có ý thức mà nói lời xin lỗi không thật tâm, rằng: "À, chúng tôi là những người được lựa chọn mà!"

Bất cứ ai có một sự lưu tâm nghiêm túc và chân thật đến lời khuyên răn và sự hướng dẫn của Kinh Thánh có thể nhanh chóng học biết được rằng từ được lựa chọn trong tiếng Việt mô tả dân sự được giải phóng của Ðức Chúa Trời, không hề có chút ý nghĩa nào của tính kỳ quặc, lố lăng hay dại dột.Cùng một từ đó đã được dùng lần đầu tiên trong Xuất 19:5 (ở đây Bản dịch cũ dịch là thuộc riêng - ND), khi Ðức Chúa Trời phán rằng dân Y-sơ-ra-ên "sẽ thuộc riêng về ta, vì cả thế gian đều thuộc về ta." Ðây là cách Ðức Chúa Trời dùng để nhấn mạnh rằng dân sự của Ngài đối với Ngài là cả một kho báu, quý giá hơn mọi kho báu khác. Trong ý nghĩa từ nguyên, nó có nghĩa là "ta cất giấu như món trang sức quý giá đặc biệt của mình."Mỗi người cha người mẹ đầy tình yêu thương đều có một ý tưởng tốt về điều Ðức Chúa Trời muốn nói. Có nhiều trẻ con bò lê khắp nơi trong các căn hộ, cũng như bạn có thể nhận ra những quần áo trẻ em được treo

Page 92: Tong hop

trên dây vào một ngày hè.

Nhưng trong căn nhà của bạn, có một em bé đặc biệt, và bé là một kho báu đặc biệt đối với bạn, hơn bất cứ một đứa bé nào khác. Nó không cần thiết phải có nghĩa là em bé đó đẹp hơn, bèn là một kho báu trên mọi kho báu khác và bạn sẽ không buôn bán, đổi chác em bé của mình với một em bé nào khác trên khắp thế giới này. Bé là một kho báu đặc biệt!

Ðiều này đem đến cho chúng ta một số ý tưởng, ít nhất là về việc chúng ta là gì - những tài sản đặc biệt quý giá của Ðức Chúa Trời, đã được đánh dấu để biệt riêng ra cho Ngài.

Tít sau đó lại giải thích rõ ràng một điều sẽ luôn luôn đặc trưng hóa con cái của Ðức Chúa Trời - sự thật là họ sốt sắng trong việc lành.

Tít và mọi trước giả khác, những người nhận được một phần sự khải thị của Ðức Chúa Trời qua Kinh Thánh đồng ý với điểm này - Chúa chúng ta chẳng bao giờ để cho bất kỳ ai là những người theo Ngài trở thành những Cơ Ðốc nhân "xa rời thực tế". "Tháp ngà" Cơ Ðốc giáo, một niềm tin trừu tượng, đã hình thành đơn giản bởi những tư tưởng hay và đẹp đẽ, hoàn toàn không phải là điều Ðức Chúa Jêsus đã dạy.

Lời văn trong phân đoạn này rất đơn giản (dễ hiểu): Con cái của Ðức Chúa Trời trong Ðức Chúa Jêsus Christ, được cứu chuộc vì Ngài đã phó chính mình Ngài, được tẩy sạch và trở thành giống như những của cải quý giá đặc biệt của Ngài, một dân tộc thuộc riêng về Ngài, được đặc trưng hóa bởi một điều - lòng sốt sắng làm việc lành của họ.Bởi ân điển của Ðức Chúa Trời, chúng ta học biết rằng những môn đồ của Ðức Chúa Jêsus này rất sốt sắng trong việc lành và trong kinh nghiệm hàng ngày của họ, họ sống và "trông đợi". Cơ Ðốc nhân phải luôn luôn sống trong sự thúc giục tràn đầy niềm vui của hy vọng phước hạnh và sự trở lại vinh hiển của Ðức Chúa Trời vĩ đại và Cứu Chúa Jêsus Christ chúng ta!

Bây giờ có một điều trong thần học Cơ Ðốc mà tôi muốn chia sẻ với bạn. Một số người nói rằng họ không thể nghĩ đến thần học vì họ không biết tiếng Hy Lạp hay Hê-bơ-rơ. Tôi không tin rằng có Cơ Ðốc nhân nào lại quá khiêm nhường đến độ cứ khăng khăng là mình không biết tí gì về thần học.

Page 93: Tong hop

Thần học là môn học nghiên cứu Ðức Chúa Trời và chúng ta đã có một cuốn sách giáo khoa thật tuyệt vời - thực ra là 66 sách giáo khoa được gộp lại thành một. Chúng ta gọi đó là Kinh Thánh. Ðiểm mà tôi muốn nói đến là: Tôi đã lưu ý trong khi nghiên cứu và qua kinh nghiệm mà thấy rằng lẽ thật mang tính thần học hay giáo lý nào càng sinh động, càng quan trọng bao nhiêu, thì ma quỷ càng tranh đấu dữ dội và đem đến nhiều sự tranh cãi chống lại nó bấy nhiêu.

Hãy dùng thần tánh của Ðức Chúa Jêsus làm ví dụ.Ngày càng có nhiều người tranh cãi, bàn luận và tranh đấu trên lẽ thật nền tảng và có tính cách sống còn này.Ma quỷ đủ khôn ngoan để không lãng phí những đợt tấn công của chúng vào những khía cạnh nhỏ nhặt và không quan trọng của lẽ thật và sự dạy dỗ Cơ Ðốc.

Ma quỷ sẽ không gây nên một vấn đề nào cho diễn giả nếu người đó lo sợ trước sự khắc nghiệt của hội chúng mình và lo lắng về công việc của ông ta đến độ ông chỉ giảng trong 30 phút và tóm lại những điều ông nói là, "Hãy làm người tốt và bạn sẽ cảm thấy tốt hơn!"

Bạn có thể trở nên tốt lành đúng như điều bạn muốn, nhưng bạn vẫn cứ đang đi xuống địa ngục nếu bạn không đặt niềm tin của mình nơi Ðấng Christ! Ma quỷ sẽ không lãng phí thời gian để gây rắc rối cho diễn giả nào chỉ có sứ điệp là, "Hãy làm người tốt!"

Nhưng Cơ Ðốc nhân tin quyết sống trong hy vọng vui mừng về sự tái lâm của Ðấng Christ và một phần quan trọng của lẽ thật nằm ở chỗ ma quỷ luôn luôn "tăng tốc" để đấu tranh và nhạo báng điều này. Một trong những thành công lớn của hắn là việc hắn có thể làm cho người ta tranh cãi và trở nên điên dại về sự tái lâm - hơn là nhìn lên và chờ đợi Chúa đến.

Giả sử một người đi ra nước ngoài được hai, ba năm, xa cách gia đình mình. Thình lình ông ta gởi một bức điện về nhà, "Công việc của ba đã xong, ba sẽ về nhà hôm nay."

Sau vài giờ, ông trở về nhà, đứng trước cửa và thấy người nhà mình đang trong sự hỗn độn. Ðã có một cuộc tranh cãi về việc ông ta sẽ về nhà vào buổi trưa hay buổi tối. Ðã có những tranh cãi về loại phương tiện đi lại mà ông dùng. Và sau đó, người cha nhẹ nhàng đẩy cửa bước vào, chẳng có một ai sẵn sàng để đón nhận cái nhìn đầu tiên của ông.

Page 94: Tong hop

Bạn có thể nói, "Ðây chỉ là một ví dụ."Nhưng thực trạng của phần nhiều các cộng đồng Cơ Ðốc giáo ngày nay là gì?

Họ đang tranh đấu và liếc mắt nhìn nhau. Họ đang bàn cãi việc liệu Ngài có trở lại hay không và Ngài sẽ trở lại như thế nào, và họ bận rộn sử dụng cái mà họ cho là những chứng lý bằng văn tự về sự sụp đổ của Rô-ma và sự xuất hiện của anti-christ.Hỡi những người anh em của tôi, khiến cho Cơ Ðốc nhân tranh cãi về những chi tiết nhỏ nhặt của sự tái lâm của Ðấng Christ để họ quên đi điều quan trọng nhất là công việc của ma quỷ. Ðã có biết bao Cơ Ðốc nhân bị bối rối và hoang mang bởi những tranh cãi đó đến độ họ quên rằng Cứu Chúa đã dùng chính Ngài để thanh tẩy một dân tộc thuộc riêng về Ngài, mong muốn rằng chúng ta sống tỉnh táo, công chính và tin kính, trông đợi sự hiện ra vinh hiển của Chúa và Cứu Chúa vĩ đại của chúng ta.Ðó là Sự Hiện Ra, vốn là điều được diễn đạt trong Hội Thánh Cơ Ðốc, và nó được dùng khi đề cập đến sự hiện đến của Ðấng Christ trên trần gian.Nó được dùng với 2 ý nghĩa trong thư I Ti-mô-thê và II Ti-mô-thê.

Trước hết, Phao-lô nói trong II Ti-mô-thê 1:8-10 là: "Ấy chính Chúa đã cứu chúng ta, đã gọi chúng ta bởi sự kêu gọi thánh, chẳng phải theo việc làm chúng ta, bèn theo ý riêng Ngài chỉ định, theo ân điển đã ban cho chúng ta trong Ðức Chúa Jêsus Christ từ trước muôn đời vô cùng, mà bây giờ mới bày tỏ ra bởi sự hiện ra của Ðức Chúa Jêsus Christ, Cứu Chúa chúng ta, Ngài đã hủy phá sự chết, dùng Tin Lành phô bày sự sống và sự không hề chết ra cho rõ ràng."

Phân đoạn đó ghi lại lần xuất hiện sáng ngời đầu tiên của Ngài, lúc Ngài đến trần gian để hủy phá sự chết bằng chính sự chết và sống lại của Ngài.Rồi sứ đồ Phao-lô qua một trong những bài ca ngợi khen cảm động và tuyệt vời đó đã nói trong I Ti-mô-thê 6:13-16, "Trước mặt Ðức Chúa Trời là Ðấng ban sự sống cho mọi vật, và trước mặt Ðức Chúa Jêsus Christ là Ðấng làm chứng tốt nơi Bôn-xơ Phi-lát, ta khuyên con phải giữ điều răn, ở cho không vết tích và không chỗ trách được, cho đến kỳ sự hiện ra của Ðức Chúa Jêsus Christ chúng ta."

Phao-lô nói về sự hiện ra lần thứ hai, "là sự mà Ðấng Chủ tể hạnh phước và

Page 95: Tong hop

có một đến kỳ sẽ tỏ ra, là Vua của mọi vua, Chúa của mọi Chúa, một mình Ngài có sự sáng không thể gần được, chẳng người nào từng thấy Ngài và cũng không thấy được, danh vọng, quyền năng thuộc về Ngài đời đời! A-men."

Khi tôi đọc điều Phao-lô viết cho chúng ta, nó khiến tôi nghĩ đến một con chim chiền chiện hay một con họa mi trèo lên một nhánh cây và cất tiếng hót một bài ca không chuẩn bị từ trước, nhưng rất êm tai. Phao-lô thường hay ngắt ngang và chen vào những lời ca tụng tuyệt vời để ngợi khen Ðấng Christ trong các thư tín của mình, và đây là một trong số những lời ca tụng đó!

Phao-lô nhắc nhở những tín hữu Cơ Ðốc rằng khi Ðức Chúa Jêsus tái lâm, Ngài sẽ hiện ra và khiến cho không còn mối nghi ngờ nào về Thân Vị của Vua của các vua và Chúa các chúa.Phao-lô cũng đã cẩn thận an ủi những tín hữu trong Hội Thánh đầu tiên khi họ lo sợ rằng họ sẽ chết trước khi Ðấng Christ hiện ra lần thứ hai (tái lâm). Thực ra có những Cơ Ðốc nhân trong Hội Thánh Tê-sa-lô-ni-ca lo lắng về hai vấn đề, một là suy nghĩ của họ, cho rằng Chúa đã đến và họ đã bỏ lỡ rồi. Hai là suy nghĩ của họ cho rằng họ sẽ chết trước khi Ngài đến và bởi sự chết đó, họ sẽ bỏ lỡ những niềm vui do sự hiện ra của Ngài mang đến.Vì thế, Phao-lô viết hai thư tín cho Hội Thánh Tê-sa-lô-ni-ca để hướng họ trực diện với lẽ thật về sự hiện ra lần thứ hai của Ðấng Christ.

"Vì nếu chúng ta tin Ðức Chúa Jêsus đã chết và sống lại, thì cũng vậy, Ðức Chúa Trời sẽ đem những kẻ ngủ trong Ðức Chúa Jêsus cùng đến với Ngài" - tức là, nếu bạn qua đời và được ở với Chúa, Ðức Chúa Trời sẽ khiến bạn sống lại khi Ðức Chúa Jêsus hiện ra lần thứ hai - "Vả, này là điều chúng tôi nhờ Chúa mà rao bảo cho anh em chúng ta là kẻ sống, còn ở lại cho đến kỳ Chúa đến, thì không lên trước những người đã ngủ rồi. Vì sẽ có tiếng kêu lớn và tiếng của thiên sứ lớn cùng tiếng kèn của Ðức Chúa Trời, thì chính mình Chúa ở trên trời giáng xuống; bấy giờ những kẻ chết trong Ðấng Christ sẽ sống lại trước hết. Kế đến chúng ta là kẻ sống, mà còn ở lại, sẽ cùng nhau đều được cất lên với những người ấy giữa đám mây, tại nơi không trung mà gặp Chúa, như vậy chúng ta sẽ ở cùng Chúa luôn luôn. Thế thì, anh em hãy dùng lời đó mà yên ủi nhau."

Bạn thấy đấy, sự giải thích được linh cảm của Phao-lô dạy chúng ta rằng những ai chết trước sự tái lâm của Ðấng Christ sẽ không có gì thất

Page 96: Tong hop

lợi cả. Ngược lại, họ còn được ở một vị trí thuận lợi hơn, vì trước khi Cứu Chúa vinh hiển chờ đợi những thánh nhân ở khắp nơi trên thế giới, những tín hữu trung kiên đã qua đời từ hàng bao thế kỷ trước sẽ được sống lại trong quyền năng của Ðức Chúa Trời, mặt lấy một thân thể vinh hiển mà đến với Ngài.Hỡi những anh em yêu dấu của tôi, những gì Phao-lô nói với chúng ta trong lời dạy vốn trước tiên là ban phát cho những Cơ Ðốc nhân Tê-sa-lô-ni-ca là rất rõ ràng.

Chúng ta không có quyền suy nghĩ rằng việc phần lớn các tòa giảng Cơ Ðốc hoàn toàn câm lặng trước lẽ thật vinh hiển về sự tái lâm hầu đến của Ðấng Christ là một điều rất lạ lùng hay sao? Thật là nghịch lý khi có sự câm lặng đáng sợ này trong những Hội Thánh Cơ Ðốc ngay chính trong thời điểm mối đe dọa bị quét sạch khỏi bề mặt trái đất lại lớn hơn bao giờ hết.

Nga và Mỹ, hai cường quốc nguyên tử lớn, tiếp tục chạy đua để đạt đến những thứ vũ khí giết người hàng loạt. Ðây là một tính từ kép đáng sợ chưa từng bao giờ được sử dụng trong lịch sử tiếng Việt. Các khoa học gia đã phải gia tăng sức mạnh hủy diệt hầu như không tưởng của những quả bom nguyên tử trong kho dự trữ của chúng ta - như thế, từ giết người hàng loạt là một phát minh mới trong thời đại chúng ta.

Cả Mỹ và Nga đều khẳng định về sức mạnh giết người hàng loạt của các kho vũ khí hạt nhân, nó đủ mạnh để giết chết hết thảy mọi người trên địa cầu (nam, nữ, trẻ con...) - không phải chỉ một lần, mà đến hơn 20 lần. Ðó là sự giết người hàng loạt!Ðiều đó cũng giống với việc kẻ thù truyền kiếp là Sa-tan đang thuyết phục các thánh nhân trong Thân thể Ðấng Christ dính líu vào những vụ tranh cãi đầy cay đắng về sự cất lên sau kỳ đại nạn và sự cất lên trước kỳ đại nạn; thuyết hậu thiên niên hy, phi thiên niên hy và thuyết tiền thiên niên hy - ngay chính thời điểm mà sự giết người hàng loạt đang treo lơ lửng trên đầu chúng ta như một đám mây đen đầy đe dọa.

Hỡi những anh em yêu dấu của tôi, đây là thời điểm mà dân sự của Ðức Chúa Trời phải thức canh trước hy vọng và lời hứa tái lâm của Ngài để mỗi sáng khi họ thức dậy, thì giống như một đứa trẻ thức dậy vào buổi sáng Giáng Sinh - nóng lòng và tin quyết rằng ngày Cứu Chúa đến có thể là hôm nay!Thay vì có sự mong đợi đó, chúng ta lại tìm thấy gì giữa vòng Hội Thánh

Page 97: Tong hop

của Chúa ngày nay? Những tranh cãi thuận và chống về sự tái lâm của Ngài, về những chi tiết của sự cất lên - và một vài trong số những điều này đã đưa đến nỗi cay đắng. Mặt khác, chúng ta tìm thấy đa phần các Cơ Ðốc nhân dường như vô tình thờ ơ trước toàn bộ sự thật về sự tái lâm của Ðức Chúa Jêsus Christ.

Rất ít những mục sư chịu giảng về sách Khải huyền - và điều này đúng với cả giới Tin Lành cấp tiến lẫn Tin Lành thủ cựu! Chúng ta đang bị đe dọa bởi chủ nghĩa hoài nghi và thói ngụy biện trong thời đại ngày nay. Rõ ràng có nhiều thói dị thường và sự mâu thuẫn trong xã hội và trong hàng ngũ của những Cơ Ðốc nhân tự xưng đến độ chắc chắn sẽ có một ai đó viết về nó.

Một điều bất thường đó là sự cần thiết phải biết lẫn nhau tốt hơn dẫn đến yêu thương và hiểu nhau tốt hơn. Hàng triệu người đang đi lại và gặp gỡ hàng triệu những con người khác, rồi làm quen; vì thế nếu giả thuyết nêu ra là đúng, thì hết thảy chúng ta phải yêu mến lẫn nhau giống như một gia đình lớn tràn đầy phước hạnh (từ lâu rồi).Thay vào đó, chúng ta căm ghét lẫn nhau giống như ma quỷ. Trên khắp thế giới, việc các quốc gia căm thù lẫn nhau ở một mức độ đáng ngạc nhiên và vượt kỷ lục là điều hoàn toàn thật.

Tôi sẽ đề cập đến một sự mâu thuẫn khác vốn cũng rất rõ ràng. Những nhà giáo dục và xã hội học nói với chúng ta rằng tất cả những gì chúng ta cần làm là đưa giáo dục giới tính vào nhà trường và mọi vấn đề giới tính đáng bực mình sẽ biết mất khỏi xã hội.Thật không phải là khác thường khi mà cái thế hệ đã được dạy và hướng dẫn nhiều về những vấn đề giới tính, hơn là cả 25 thế hệ trước cộng lại, lại chính là thế hệ sa đọa và hư hỏng nhất trong hành vi tính dục sao?

Và không phải là dị thường khi cũng chính thế hệ đó, có thể đang chờ đợi một đợt giết người hàng loạt thình lình bằng bom nguyên tử, lại là một thế hệ rất sợ phải nói đến sự tái lâm của Cứu Chúa và không sẵn lòng bàn luận về những lời hứa đầy lòng nhân từ của sự giải cứu và vinh hiển sao?Có thể bạn không mong đợi tôi nói về nó, nhưng tôi sẽ nói: Chúng ta thật là một đám người lập dị làm sao! Thế hệ chúng ta dị thường quá đỗi!Ðức Chúa Trời phán rằng Ngài rất đặc biệt coi trọng sự nhất quán thuộc

Page 98: Tong hop

linh và thánh khiết của những thánh nhân Cơ Ðốc, nhưng chúng ta thật không nhất quán chút nào khi chúng ta để cho ma quỷ và xác thịt mình làm lẫn lộn và hòa trộn chúng ta đến nỗi chúng ta bị chệch hướng khỏi sự kiên nhẫn đợi chờ ngày Cứu Chúa hiện ra!

Thế đó, chúng ta sống giữa hai biến cố vĩ đại - sự thành nhục thể của Ðấng Christ, sự chết và phục sinh, và sự tái lâm của Ngài cùng đem lại sự vinh hiển cho những ai mà Ngài đã cứu chuộc qua sự chết của mình. Ðây là thời gian chuyển tiếp cho các thánh nhân - nhưng nó không phải là một khoảng trống không. Ngài đã ban cho chúng ta nhiều việc để làm, và Ngài đòi hỏi sự trung tín từ nơi chúng ta.Trong lúc đó, chúng ta sốt sắng về việc lành, sống vững vàng, công chính, tin kính ngay trong thế giới hiện tại, trông lên Ngài và lời hứa của Ngài. Giữa cuộc đời của chúng ta, và giữa hai đỉnh núi cao của những công việc Ðức Chúa Trời trên đất, chúng ta nhìn lại và nhớ, nhìn tới và hy vọng! Là những thành viên trong mối tương giao trìu mến của Ngài, chúng ta bẻ bánh và uống chén của Chúa. Chúng ta hát ngợi khen Ngài và chúng ta cầu nguyện trong danh Ngài, ghi nhớ và mong đợi!

Hỡi những anh em yêu dấu của tôi, điều đó cảm động lòng tôi hơn bất cứ thứ gì khác trên trần gian này. Ðó quả là một đặc quyền phước hạnh, còn đẹp đẽ và thỏa lòng hơn bất kỳ tình bạn nào, bức tranh nào, buổi hoàng hôn nào, hay bất kỳ vẻ đẹp nào của tự nhiên. Hãy nhìn lại ân điển của Ngài mà yêu thương nhau; hãy nhìn tới sự tái lâm và vinh hiển của Ngài; trong khi đó, hãy làm việc tích cực và vui mừng trong hy vọng - cho đến lúc Ngài đến!

Ra Đời Sau Nửa Đêm

Giữa vòng những Cơ Đốc nhân có tâm trí phấn hưng, tôi nghe nói một câu, “Các cơn phấn hưng ra đời sau nửa đêm.” Đây là một trong những câu cách ngôn, mặc dù theo nghĩa đen thì không đúng lắm, nhưng hình ảnh đó nói lên một điều rất trung thực

Nếu chúng ta hiểu câu nói “Các cơn phấn hưng ra đời sau nửa đêm” mang ý nghĩa là vào ban ngày Đức Chúa Trời không lắng nghe lời cầu xin phấn hưng của chúng ta, thì đương nhiên là không đúng. Và nếu chúng ta gượng gạo cho rằng lời cầu nguyện chúng ta trình dâng lên trong khi mệt mỏi và kiệt sức có quyền năng hơn lời cầu nguyện chúng ta

Page 99: Tong hop

dâng lên lúc đang nghỉ ngơi và khỏe khoắn, thì một lần nữa, nó lại không đúng.

Nếu Đức Chúa Trời chỉ nhậm lời cầu xin của con cái Ngài trong sự đau khổ, khốn cùng của họ mà thôi, thì chắc Ngài phải là một Đấng khắc khổ lắm mới đòi hỏi chúng ta biến lời cầu xin của mình thành sự hành xác, để Ngài vui thích khi xem thấy chúng ta tự trừng phạt bản thân bằng sự cầu nguyện. Những dấu ấn của quan điểm "khắc khổ trong sự cầu thay" đó vẫn tồn tại trong vòng một số Cơ Đốc Nhân Tin Lành. Tâm linh của họ bị ràng buộc tại vì vô tình họ đã gán cho Đức Chúa Trời một bản tính tàn bạo vô giá trị của những con người bị sa ngã.

Nhưng có một lẽ thật đáng lưu tâm ẩn chứa bên trong ý tưởng cho rằng "những cơn phấn hưng ra đời sau nửa đêm", vì các cơn phấn hưng (hay những ân tứ và các ân điển thuộc linh khác) chỉ đến với những người thật sự mong muốn nó. Chúng ta có thể nói một cách quả quyết rằng mọi người đều được nên thánh và đầy dẫy Thánh Linh nếu như người đó mong muốn như vậy. Một con cái Chúa có thể không được trọn vẹn như những gì người khác đòi hỏi, nhưng chắc chắn có thể được trọn vẹn theo như điều mình mong muốn.

Chúa chúng ta đã đề cập đến vấn đề không cần bàn cãi này khi Ngài phán, “Phước cho những kẻ đói khát sự công bình, vì sẽ được no đủ!” (Ma-thi-ơ 5:6). Đói và khát là các cảm giác thuộc thể, trong giai đoạn kịch liệt, chúng có thể trở thành nỗi đau thực sự. Kinh nghiệm của vô số những người tìm cầu Đức Chúa Trời chính là khi những khao khát của họ trở nên nỗi đau thực sự, thì thình lình họ được đầy dẫy cách rất diệu kỳ. Vấn đề không phải là thuyết phục Đức Chúa Trời đổ đầy trên chúng ta, nhưng là khao khát Đức Chúa Trời đủ để cho phép Ngài làm điều đó. Một Cơ Đốc nhân bình thường quá nguội lạnh và quá thỏa mãn với tình trạng tồi tệ của mình đến độ không có lấy một chút khoảng trống nào của sự khao khát, để Thánh Linh có thể đến và lấp đầy khoảng trống đó.

Thỉnh thoảng lại xuất hiện một người có những khao khát thuộc linh chưa được thỏa mãn, nỗi khao khát này ngày càng lớn hơn và trở nên quan trọng hơn trong cuộc đời, cho đến độ tống khứ tất cả những sở thích khác ra ngoài. Ðó là hình ảnh của một người không thỏa mãn thỏa lòng với những lời cầu nguyện đơn thuần và theo tập tục. Sự khao khát của người nầy thường tạo sự ngăn cách đối với người khác và trở nên

Page 100: Tong hop

một cái gì đó khó chịu cho những người chung quanh. Có thể những người bạn Cơ Đốc của người bạn nầy bối rối lắc đầu và nhìn nhau với những cái nhìn đầy ẩn ý, giống như người mù (Ba-ti-mê) kêu gào cho sự sáng của mình và bị các sứ đồ quở trách, và càng quở trách anh “kêu gào thật nhiều”. Và nếu anh ta chưa đạt được các điều kiện hay còn một cái gì đó ngăn trở sự đáp lời cầu xin của anh, anh sẽ tiếp tục cầu nguyện vào những thì giờ muộn hơn. Vì thến cho nên thì giờ của đêm tối không phải là điều quyết định thời điểm anh được thăm viếng, bèn là trạng thái của tấm lòng. Đối với anh, việc phấn hưng đến sau nửa đêm quả thật rất phù hợp.

Tuy nhiên, chúng ta nên hiểu rằng những lời cầu nguyện thâu đêm và những tiếng khóc nức nở và nước mắt trong sự cầu nguyện không phải là những hành động đáng tưởng thưởng. Ơn phước tuôn chảy ra từ sự nhơn từ của Đức Chúa Trời giống như từ một dòng suối mát. Tất cả mọi sự đều bởi và thuộc về sự nhơn từ và ân điển tối cao của Đức Chúa Trời.Cô Julian tóm tắt một cách hơi khác lạ như sau, “Công việc chúng ta trung tín cầu xin đến từ sự nhơn từ của Đức Chúa Trời. Khi đến gần ân điển với sự thông biết thật qua sự bền chặt của tình yêu thương thì những điều đó còn có ý nghĩa quan trọng hơn là dâng sự vinh quang lên cho Chúa, còn hơn cả niềm khoái cảm, còn hơn cả việc chúng ta dùng mọi phương tiện tấm lòng để nghĩ ra. Nếu chúng ta chỉ dùng mọi phương tiện để đến với Chúa thì là quá ít và không đủ để dâng vinh quang lên cho Đức Chúa Trời. Sự nhơn từ của Ngài là tất cả... "Nhận được sự Nhân Từ Của Ðức Chúa Trời Ban Cho" là lời cầu xin được nhậm cao nhất của chúng ta, vì Ngài ban sự nhơn từ đó đến con người vào nơi thầm kín nhất trong nhu cầu của thể xác và tâm linh."

Vì ý muốn Đức Chúa Trời luôn luôn là tốt lành cho loài người, nên Ngài không thể đáp ứng mọi khao khát của lòng chúng ta cho đến khi mọi khao khát đó rút gọn lại thành một khối. Khi con người đã giải quyết xong các tham vọng xác thịt, giày đạp bản tánh ích kỷ dưới chân và thực sự nhận biết mình đã chết về tội lỗi, thì khi đó Đức Chúa Trời mới đưa chúng ta vào đời sống mới và đầy dẫy Thánh Linh và ơn phước của Ngài.

Thật dễ khi học một giáo lý về sự phấn hưng cá nhân và sống đắc thắng; nhưng việc vác thập giá mình và lê bước hướng về ngọn đồi đen tối, cay đắng để tự bỏ mình đi là một việc hoàn toàn khác. Tại nơi đây,

Page 101: Tong hop

nhiều người đã được gọi, song ít người được chọn. Có rất nhiều người đã thực sự vượt qua để bước vào Đất Hứa, và cũng có rất nhiều người khác còn đứng đó chần chừ, họ nhìn qua con sông, lòng rất thiết tha, nhưng rồi lại quay đầu trở lại sự an toàn tạm bợ của vùng đất cát hoang vắng của đời sống cũ.

Ðúng vậy! việc cầu nguyện vào những thì giờ muộn hơn không có chút công trạng nào hết, nhưng nó đòi hỏi một tâm trí nghiêm túc, một tấm lòng kiên định để cầu nguyện, vượt qua cái bình thường để đến cái khác thường.

Sống Với Chúa Thật Dễ

Công tác đầu tiên Sa-tan tấn công loài người là nỗ lực quỷ quyệt của nó hòng phá hủy niềm tin của Ê-va đã đặt để nơi sự nhân từ của Ðức Chúa Trời. Thật không may cho bà và cho chúng ta là Ma quỷ đã thành công vượt bậc. Từ ngày đó, con người có một quan niệm sai trật về Ðức Chúa Trời, đây chính là điều đã tách loài người khỏi nền tảng của sự công chính và đưa đẩy họ vào lối sống liều lĩnh và tiêu cực.

Không có gì xuyên tạc và bóp méo linh hồn con người cho bằng quan niệm thấp kém và vô giá trị của con người về Ðức Chúa Trời. Quan niệm sai lầm của họ về Ðức Chúa Trời gây nên một hậu quả là ý tưởng sai lầm về sự thờ phượng. Ðối với người Pha-ri-si, sự thờ phượng Ðức Chúa Trời là một gánh nặng rất lớn. Chúa của người Pha-ri-si không phải là Ðấng mà việc tương giao với Ðấng đó là điều dễ dàng, vì thế cho nên tôn giáo của người Pha-ri-si trở nên khắc nghiệt, cứng nhắc, và không có tình yêu thương. Cho nên quan niệm của chúng ta về Ðức Chúa Trời như thế nào sẽ luôn luôn quyết định phẩm chất tôn giáo của chúng ta.

Phần lớn Cơ Ðốc giáo kể từ ngày Ðấng Christ còn tại thế cũng đã khắc nghiệt và gay gắt như thế. Và nguyên nhân cũng như vậy thôi - một quan điểm vô giá trị hay không thích hợp về Ðức Chúa Trời. Theo bản năng, chúng ta cố gắng trở nên giống như Ðức Chúa Trời của mình, và nếu Ngài được hiểu như là rất khắc nghiệt và hay đòi hỏi quá quắt, thì chính chúng ta cũng sẽ như vậy thôi.

Thất bại của việc hiểu Ðức Chúa Trời một cách đúng đắn dẫn đến một thế

Page 102: Tong hop

giới bất hạnh giữa vòng những Cơ Ðốc nhân tốt ngay cả trong ngày hôm nay. Khi một Cơ Ðốc Nhân nghĩ rằng đời sống Cơ Ðốc là việc mang thập giá thô nhám, không hề giảm bớt căng thẳng dưới con mắt của một người Cha nghiêm khắc đòi hỏi thì nhiều mà không tha thứ cho việc gì cả, thì những đời sống như vậy chắc chắn phải là một trò chế nhạo trên đời sống thật của Ðấng Christ.

Ðiều quan trọng nhất đối với sức khỏe thuộc linh tốt của chúng ta là chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ trong tâm trí mình một quan niệm đúng đắn về Ðức Chúa Trời. Nếu chúng ta nghĩ rằng Ngài là một Ðấng lạnh lùng và hay đòi hỏi quá quắt, chúng ta sẽ không thể nào yêu mến Ngài được, và đời sống chúng ta sẽ bị bao bọc bởi một tấm màn của nỗi sợ hãi dai dẳng như của một người nô lệ. Nếu, một lần nữa, chúng ta tin Ngài là Ðấng nhơn lành và toàn tri, đời sống bên trong của chúng ta sẽ phản ánh tư tưởng đó.

Sự thật nằm ở chỗ Ðức Chúa Trời là Ðấng tuyệt vời nhất trong tất cả các hữu thể và sự thờ phượng Ngài là một trong những niềm khoái lạc khôn tả.

Ngài là tình yêu thương đầy trọn, và những ai tin nơi Ngài không cần phải biết điều gì khác hơn là tình yêu thương. Ngài là Ðấng công bình, quả thật vậy, và Ngài sẽ không tha thứ cho tội lỗi; nhưng bởi huyết báu của giao ước đời đời, Ngài hướng về chúng ta như thể chúng ta là những người chưa bao giờ phạm tội. Ðối với những đứa con tin cậy nơi Ngài, sự nhơn từ Ngài sẽ luôn luôn chiến thắng luật pháp.

Mối tương giao với Ðức Chúa Trời là thú vị, vượt quá sự mô tả của mọi ngôn ngữ. Ngài tương giao với những người đã được cứu và thuộc về Ngài trong một mối tương giao dễ dàng và tự do vốn mang đến sự yên nghỉ và chữa lành cho linh hồn. Ngài không dễ bị tổn thương cũng không ích kỷ hoặc hay thay đổi thất thường. Hôm nay Ngài như thế nào, ngày mai, ngày mốt, năm sau, và cả cõi đời đời chúng ta cũng vẫn thấy Ngài như vậy. Ngài không phải là Ðấng khó làm vừa lòng, dầu rằng có thể khó làm cho Ngài thỏa lòng. Ngài chỉ mong muốn nơi chúng ta những điều mà trước đó Ngài đã ban cho. Ngài nhanh chóng ghi nhận mọi nỗ lực để làm vừa lòng Ngài, dù là chúng nhỏ bé, và Ngài cũng nhanh chóng bỏ qua những sự bất toàn khi Ngài biết rằng chúng ta muốn làm theo ý muốn Ngài. Ngài yêu thương chúng ta vì chính chúng ta và đánh giá tình yêu thương chúng ta dành cho Ngài còn lớn hơn cả những thiên hà của

Page 103: Tong hop

các thế giới đã được tạo dựng.

Thật không may, nhiều Cơ Ðốc nhân không thể tự do thoát khỏi những quan niệm sai lầm của họ về Ðức Chúa Trời, và những quan niệm đó đầu độc tấm lòng họ, đồng thời phá hủy sự tự do bên trong. Những người bạn này hầu việc Ðức Chúa Trời cách cứng nhắc, giống như như người anh cả trong câu chuyện người con trai hoang đàng, làm điều đúng mà không có sự nhiệt tình, không có niềm vui, và dường như hoàn toàn không thể hiểu buổi tiệc vui vẻ, phước hạnh mừng đứa em hoang đàng trở về nhà.

Tôi cảm tạ ơn Chúa vô cùng nếu chúng ta có thể học biết rằng sống với Ðức Chúa Trời thật dễ dàng đối với loài người chúng ta. Ngài nhớ rõ tình trạng của chúng ta và biết rằng chúng ta là bụi đất. Có thể đôi lúc Ngài uốn nắn chúng ta, quả thật vậy, nhưng ngay cả trong khi làm điều đó, Ngài mỉm cười khả ái, một nụ cười hãnh diện, mềm mỏng của người Cha đang chìm ngập trong niềm vui với đứa con dù bất toàn nhưng đầy hứa hẹn, một đứa con đang ngày càng trở nên giống Cha mình.

Một số người trong chúng ta hay giật mình và e dè vì chúng ta biết rằng Ðức Chúa Trời thấy mọi tư tưởng chúng ta và quen thuộc với mọi đường lối của chúng ta. Chúng ta không cần phải như thế. Ðức Chúa Trời là Ðấng gồm tóm mọi sự kiên nhẫn và bản chất của ý muốn nhơn từ tốt lành. Chúng ta làm Ngài vừa lòng nhất, không phải bởi việc chúng ta cố gắng làm cho mình trở nên tốt, bèn là bởi việc trao phó chính mình trong vòng tay của Ngài với hết thảy những bất toàn, và tin rằng Ngài hiểu mọi sự mà vẫn yêu thương chúng ta.

Sử Dụng và Lạm Dụng Tính Hài Hước

Có một vài điều hữu ích trong đời sống Cơ Ðốc nhân như là tính hài hước nhẹ nhàng nhưng cũng có một vài thứ tai hại chết người như tính hài hước nằm ngoài sự kiểm soát.

Nhiều người đã bỏ cuộc chạy của sự sống chỉ vì chuyện tầm phào. Phao-lô đã cẩn thận cảnh báo chúng ta. Ông nói rõ rằng tâm tính đặc trưng của Cơ Ðốc nhân không phải là việc pha trò, và nói những chuyện tầm phào, bèn là sự tạ ơn (Ê-phê-sô 5:1-5). Thật có ý nghĩa khi trong chương này vị sứ đồ

Page 104: Tong hop

của chúng ta đã xếp việc nói những chuyện tầm phào chung với sự không tinh sạch, gian dâm và thờ lạy hình tượng.

Ðiều này, hiển nhiên là một sự cảm kích về tính hài hước, tự bản thân nó không phải là điều xấu. Khi Ðức Chúa Trời tạo dựng chúng ta, Ngài có ban cho chúng ta tính hài hước như là một điểm đặc trưng bên trong, và một con người bình thường sẽ có món quà này ít nhất là ở một cấp độ nào đó. Nguồn gốc của sự hài hước là khả năng lĩnh hội những điều phi lý. Những thứ trông không rõ ràng thường có vẻ buồn cười đối với chúng ta và có thể kích thích bên trong chúng ta một cảm giác thích thú đến độ bật ra tiếng cười.

Những kẻ độc tài và những người cuồng tín không có tính hài hước. Hitler chẳng bao giờ biết ông ta trông buồn cười ra sao, Mussolini cũng chẳng bao giờ biết ông có vẻ lố bịch thế nào khi ông long trọng lớn tiếng phát ra những câu nói khoa trương. Người cuồng tín tôn giáo sẽ nhìn vào những tình huống rất tức cười, có thể khuấy động sự cười không kiểm soát được trong những con người bình thường, và chẳng thấy có gì đáng cười cả. Ðiểm mù này trong con người của anh ta đã ngăn anh thấy được đời sống cá nhân mình tệ hại ra sao và những niềm tin của mình thì mù mờ thế nào. Và vì bị mù đối với những điều phi lý như thế, anh là một người dị thường; anh không hoàn toàn giống như điều Chúa muốn anh trở thành.

Sự hài hước là một việc, nhưng tính phù phiếm lại là một việc hoàn toàn khác. Việc nuôi dưỡng một tinh thần vốn không thể xem bất cứ chuyện gì là nghiêm túc là một trong những tai họa lớn nhất của xã hội, và trong Hội Thánh; nó đã hành động để ngăn chặn nhiều ơn phước thuộc linh, mà nếu không có nó thì những ơn phước đó đã được tuôn đổ xuống trên chúng ta. Hết thảy chúng ta đều đã gặp những con người không nghiêm túc đó. Ðụng chuyện gì họ cũng cười cợt và cho ra những lời bình khôi hài. Trong thế gian nó đã đủ tệ rồi, nhưng hoàn toàn không thể chịu đựng nổi giữa vòng các Cơ Ðốc nhân.

Chúng ta đừng để một tính hài hước đồi trụy phá hỏng mình. Một số điều rất buồn cười, và đôi lúc chúng ta có thể cười thoải mái. Nhưng tội lỗi thì không có gì buồn cười cả; sự chết cũng không. Chẳng có gì đáng cười về một thế giới đang lung lay trên bờ vực của sự hủy diệt; chẳng có gì đáng cười về chiến tranh hay cảnh những đứa trẻ bị chết trên vũng máu giữa bãi chiến trường; chẳng có gì đáng cười về việc

Page 105: Tong hop

hàng triệu người chết đi hàng năm mà chưa từng một lần được nghe về Phúc Âm của tình yêu.

Ðã đến lúc chúng ta phải vạch một đường biên giới giữa cái giả dối và sự thật, giữa những thứ phụ thuộc và những thứ mang tính chất sống còn. Nhiều điều chúng ta có thể cho qua với nụ cười. Nhưng khi sự hài hước lấy tôn giáo làm đề tài, thì nó không còn tự nhiên nữa - nó là tội lỗi và nên bị tố giác ngay về bản chất thật của nó và mọi người nào muốn được đồng đi với Ðức Chúa Trời thì nên tránh xa nó.

Vô số những bài thuyết trình đã được thuyết giảng, những bài hát đã được hát và những cuốn sách được viết ra thúc đẩy chúng ta tiến đến một đời sống đầy nụ cười để thế giới có thể cười với chúng ta; nhưng xin hãy nhớ rằng bất luận Cơ Ðốc nhân chúng ta có trở nên vui nhộn thế nào đi nữa, thì ma quỷ cũng không dại khờ đâu. Chúng có gương mặt lạnh lùng và nghiêm túc, và đến cuối cùng chúng ta sẽ thấy chúng cứ mãi diễn xuất như thế. Nếu chúng ta là những người tuyên bố theo Chiên Con mà không nghiêm túc trong mọi việc, Sa-tan sẽ rất nghiêm túc, và hắn có đủ thông minh để sử dụng sự khinh suất của chúng ta mà tiêu diệt chúng ta.Tôi không phải đang bàn đến vấn đề nghiêm trọng khác thường; tôi thấy không có giá trị gì trong việc u sầu ảm đạm, và cũng không có sự nguy hại gì trong một nụ cười tốt lành. Nguyên cớ của tôi là kêu gọi một sự nghiêm túc thực sự vốn sẽ đặt để chúng ta vào tâm trạng của Con Người, của những nhà tiên tri và các sứ đồ trong Kinh Thánh. Niềm vui của Chúa có thể trở thành nhạc điệu trong lòng chúng ta và sự hoan hỉ của Thánh Linh sẽ lên dây cho những cây đàn trong đoàn chúng ta. Khi đó chúng ta có thể đạt được niềm hạnh phúc đứng đắn vốn là một trong những dấu hiện của tính thuộc linh thật, và chúng ta cũng thoát khỏi những ảnh hưởng tai hại của sự khôi hài không đứng đắn.

Sự Phân Rẽ Không Phải Lúc Nào Cũng Xấu

Khi nào thì hiệp nhất và khi nào thì phân rẽ, đó là vấn đề; và một câu trả lời đúng đòi hỏi sự khôn ngoan của một Sa-lô-môn.

Hầu hết mọi người đều giải quyết vấn đề theo quy luật tự nhiên, đó là Mọi sự hiệp nhất thì cho là tốt lành và mọi sự chia rẽ thì cho là xấu xa. Nếu

Page 106: Tong hop

quyết định như thế thì là thật là dễ dàng cho cuộc sống của chúng ta có phải không! Nhưng khi nhìn rõ ràng vào phương pháp đối diện với vấn đề này một cách quá đơn giản như thế thì chúng ta đã bỏ qua những bài học lịch sử và xem nhẹ những định luật thuộc linh sâu thẳm nhất mà con cái Chúa phải nhờ đó mà tồn tại.

Nếu hiệp một là bản tánh của những người tốt và chia rẽ là bản tánh của những người xấu thì điều đó sẽ đơn giản hóa vấn đề cho chúng ta. Nếu Đức Chúa Trời luôn luôn hiệp nhất còn ma quỷ thì luôn luôn chia rẽ, thì cuộc hành trình tâm linh của chúng ta thật là dễ dàng trong thế giới hỗn độn này.

Nhưng mọi sự đâu phải như thế.

Phân rẽ cái cần phải phân rẽ và hiệp nhất cái cần phải hiệp nhất mới là khôn ngoan.

Sự hiệp nhất của những yếu tố không giống nhau chẳng bao giờ là tốt cả, cho dù điều đó có thể làm được, và sự phân rẽ tùy tiện những yếu tố giống nhau cũng vậy. Ðiều này đúng trong mọi lãnh vực đạo đức, tôn giáo, chính trị hay khoa học.

Công việc phân rẽ đầu tiên mà Đức Chúa Trời thực hiện là Ngài đã phân rẽ sự sáng ra cùng bóng tối. Sự phân rẽ này đặt một hướng đi cho tất cả các mối liên hệ của Đức Chúa Trời trong tự nhiên và trong ân điển. Ánh sáng và bóng tối là hai thứ hoàn toàn xung khắc với nhau; Sự hòa hợp ánh sáng và bóng tối là một việc hoàn toàn không thể làm được và nếu có làm được thì kết quả cũng chẳng được điều gì, ngoại trừ sự mập mờ, và tối tăm.

Trong thế giới hiện đại rất khó cho người đứng ngoài cuộc có thể kết luận hay là phân ranh giới những công việc của người trong cuộc. Vì loài người đã sa ngã và tội lỗi đã mang đến sự hỗn độn hoàn toàn trong thế giới này, cho nên lúa mì mới mọc chung với cỏ lùng, đàn cừu mới đi chung với lũ dê, các trụ sở của những điều công chính và không công chính nằm cạnh nhau trong một ngôi nhà lầu, hội truyền giáo nằm ngay bên cạnh quán rượu...v.v..

Nhưng những điều như thế không thể tồn tại muôn đời tại vì ngày và giờ của Chúa đang đến gần khi bầy chiên sẽ được phân rẽ ra khỏi lũ

Page 107: Tong hop

dê, cỏ lùng sẽ bị loại ra khỏi ruộng lúa mì. Đức Chúa Trời một lần nữa sẽ phân rẽ ánh sáng và bóng tối, và rồi mọi sự sẽ được sáng tỏ. Cỏ lùng sẽ bị cho vào lửa với cỏ lùng và lúa mì sẽ được cho vào vựa với lúa mì. Sự mờ tối sẽ như lớp sương mờ tan mất dưới ánh nắng, và rồi mọi công việc sẽ được tỏ tường. Lúc đó người ta sẽ thấy được Địa ngục hiện ra nguyên hình mặc dù bề ngoài đã được tô lên một lớp phấn Thiên Ðàng. Thiên đàng cũng sẽ hiện ra như một mái ấm gia đình cho tất cả những ai có bản chất của Đức Chúa Trời có Một và Thật.

Hiện nay chúng ta đang kiên nhẫn để chờ đợi những giây phút đó. Trong khi chờ đợi, thì mỗi người trong chúng ta và Hội Thánh, mặc dù ở bất kỳ nơi đâu trong xã hội loài người, cũng phải liên tục đặt câu hỏi là:

Chúng ta sẽ hiệp nhất với cái gì và phân rẽ với cái gì?

Hãy nêu ra vài câu hỏi sau đây....Khi lúa mì mọc trong cánh đồng với cỏ lùng thì cả hai có giao phấn với nhau hay không? Bầy chiên gặm cỏ gần lũ dê, nhưng chúng có tìm cách giao phối với nhau hay không? Điều bất chính và điều công chính đều được hưởng mưa nắng như nhau, nhưng chúng có quên đi những sự khác biệt đạo đức bên trong và “kết thông gia” với nhau hay không?

Mục tiêu kêu gọi sự hiệp nhất là vì lợi ích của sự hiệp nhất, và con người sẽ làm mọi việc cho sự lợi ích đó. Vì thế cho nên sự hiệp nhất được thu hút một cách mãnh liệt đến nỗi không có điều gì là quá cao để thay đổi được nó và không có điều gì quan trọng đủ để tách rời nó ra. Lẽ thật bị giết chết vì sự hiệp một để chiêu đãi một buổi đại tiệc ăn mừng hôn phối của thiên đàng và địa ngục, và tất cả chỉ vì muốn sinh ra một quan niệm về sự hiệp nhất vốn không hề có trong Lời của Đức Chúa Trời.

Một Hội Thánh được Thánh Linh soi sáng sẽ không liên hệ vào chuyện này. Trong một thế giới sa ngã giống như của chúng ta, sự hiệp nhất không phải là một kho báu có thể mua được với cái giá thỏa hiệp. Lòng trung thành với Đức Chúa Trời, sự thành tín với lẽ thật và sự gìn giữ một lương tâm tốt là những món nữ trang còn quý giá hơn vàng của Ô-phia, hay đá quý từ trong mỏ. Vì những món trang sức này, con người đã phải chịu sự mất mát của cải, hình phạt tù đày và ngay cả cái chết. Ðối với họ, ngay cả trong những thời điểm hiện tại, đằng sau các bức màn, những người theo chân Đấng Christ đã trả xong cái giá của sự

Page 108: Tong hop

tận hiến và thầm lặng chết đi, cái thế giới to lớn này không hề biết đến, nhưng chính Đức Chúa Trời biết và họ trở nên gần gũi với tấm lòng của Cha mình. Vào một ngày mà mọi sự bí mật của tất cả những linh hồn sẽ được tiết lộ, những linh hồn này sẽ nhận lãnh những công việc đã làm trong thể xác. Ðây là những con cái Chúa đã từng bị ruồng bỏ, nhưng lúc ấy sẽ thông minh hơn những người theo đuổi sự hiệp nhất tôn giáo vô nghĩa, những người không có can đảm đứng lên chống lại xu hướng đang thuận hành, và những người kêu gọi tình anh em hoà hiệp chỉ vì đó là thời điểm để trở nên nổi tiếng.

“Một cây làm chẳng lên non..” là câu nói trên đầu môi của những nhà lãnh đạo chính trị nham hiểm, nhưng Sa-tan cũng biết cách làm thế nào để lừa bịp con dân Chúa bằng câu "Ba cây chụm lại thành hòn núi cao". Satan, nó muốn bắt đầu chinh phục thế giới này bằng sự kêu gọi hiệp một bằng những lời khơi gợi lòng tự hào dân tộc, hay những lời cổ võ báo thù một cái gì đó sai trái, kẻ mị dân thành công trong việc thống nhất quần chúng đằng sau mình. Sau đó, Satan sẽ điều khiển quân đội và đánh vào cơ quan lập pháp cho đến khi họ phải đầu hàng và thống nhất toàn diện mọi mặt chính trị, tôn giáo và xã hội, nhưng đó là sự thống nhất của cái chuồng nhốt gia súc vào một trại tập trung để chuẩn bị đưa đến sự hủy diệt. Chúng ta đã thấy điều này xảy ra vài lần trong thế kỷ 20, và thế giới sẽ thấy nó ít nhất một lần nữa khi các quốc gia trên thế giới hiệp lại với nhau dưới tay chỉ huy của Anti-christ.

Khi một đàn cừu đang bối rối đi đến bờ vực thẩm, thì một con cừu chỉ có thể bảo tồn sự sống của nó bằng cách tách ra khỏi bầy. Sự hiệp nhất hoàn hảo trong thời điểm đó đồng nghĩa với sự hủy diệt hoàn toàn.

Sức mạnh nằm bên trong sự hiệp nhất của những sự việc giống nhau, và cũng nằm bên trong sự phân rẽ của những sự việc khác nhau.

Có lẽ những gì chúng ta cần trong Hội Thánh ngày nay không phải là sự hiệp nhất bèn là một sự phân rẽ thông minh và can đảm. Mọi người đều mong ước sự hòa bình, nhưng phấn hưng chỉ có thể đến sau lưỡi gươm của Chúa Giê-xu Christ thấu đến hồn, linh, cốt, tủy.

Tại Sao Người Ta Thấy Kinh Thánh Khó Hiểu

Những người đã quen thuộc với các sự kiện (trong Kinh Thánh) sẽ không

Page 109: Tong hop

hề phủ nhận việc nhiều người thấy Kinh Thánh là khó hiểu. Những lời chứng về những khó khăn gặp phải lúc đọc Kinh Thánh có quá nhiều và rộng khắp để có thể bị bỏ qua cách khinh suất.

Trong kinh nghiệm con người thường có một sự phức tạp của nhiều nguyên nhân thay vì một nguyên nhân cho mọi sự việc, và nó cũng tương tự như thế khi chúng ta gặp khó khăn với Kinh Thánh. Ðối với vấn đề tại sao Kinh Thánh khó hiểu không thể trả lời đột xuất, bất cẩn được, câu trả lời nhanh nhảu chắc chắn là một câu trả lời sai. Vấn đề thì phức tạp, và vì lý do này, nỗ lực tìm kiếm một giải pháp đơn nhất sẽ làm cho chúng ta thất vọng.Bất chấp điều này, tôi mạo muội đề ra một câu trả lời ngắn gọn, và dù nó không phải là toàn bộ lời đáp, nhưng nó cũng là một phần chính yếu và có lẽ chứa đựng bên trong nó hầu hết mọi lời đáp cho vấn đề có liên quan và rất phức tạp này. Tôi tin rằng chúng ta thấy Kinh Thánh khó hiểu là vì chúng ta cố đọc nó như là chúng ta đọc những quyển sách khác, mà Kinh Thánh lại là một quyển sách không giống với bất kỳ quyển sách nào.

Kinh Thánh không gởi cho một ai đó bất kỳ. Sứ điệp của nó hướng về một số ít người được chọn. Bất luận việc những người ít ỏi này được Ðức Chúa Trời lựa chọn bằng một hành động chọn lựa tối cao hay được chọn vì họ đáp ứng được những điều kiện chuẩn nào đó, tôi để cho mỗi người tự quyết định, như là anh ta có thể làm điều đó, biết rõ rằng quyết định của anh ta sẽ được lựa chọn tùy vào những niềm tin căn bản của mình về những vấn đề đại loại như sự tiền định, ý chí tự do, những mạng lệnh đời đời và những giáo lý liên quan khác. Nhưng bất cứ điều gì có thể đã diễn ra trong cõi đời đời, rõ ràng nó là điều diễn ra trong thời gian: Một số người tin và một số thì không; một số dễ tiếp thu cách đạo đức và một số thì không; một số có năng lực thuộc linh, một số thì không. Chính những người làm, là, và có điều đó là những người Kinh Thánh hướng đến. Những người không làm, không là và không có sẽ đọc nó mà không thấy ý nghĩa gì.

Tại điểm này, tôi biết một số độc giả sẽ có sự phản đối gay gắt, và lý do thì cũng không khó để tìm ra. Cơ Ðốc giáo ngày nay lấy con người làm trung tâm, chứ không phải Ðức Chúa Trời. Ðức Chúa Trời bị buộc phải chờ đợi những ý tưởng bất chợt của con người cách kiên nhẫn. Hình ảnh phổ biến của Ðức Chúa Trời hiện nay là hình ảnh của một người Cha bị rối trí, đang tranh đấu trong nỗi tuyệt vọng của một cõi lòng tan vỡ để làm

Page 110: Tong hop

cho mọi người tiếp nhận một Cứu Chúa mà họ thấy không cần thiết và cũng chẳng mấy thích thú gì. Ðể thuyết phục những linh hồn tự mãn này đáp ứng lại những lời đề nghị rộng rãi của mình, Ðức Chúa Trời sẽ làm hầu như bất cứ điều gì, kể cả những phương pháp của nghệ thuật bán hàng và Ngài hạ cố mà nói với họ cách thân mật nhất có thể tưởng tượng ra được. Quan điểm này dĩ nhiên là một loại chủ nghĩa lãng mạn tôn giáo, trong khi nó thường dùng những khái niệm có tính chất tôn cao và đôi lúc dùng những khái niệm gây lúng túng trong việc ngợi khen Ðức Chúa Trời, nó thành công trong việc biến con người thành ngôi sao của buổi diễn.

Quan điểm cho rằng Kinh Thánh được dành cho mọi người đã gây nên sự nhầm lẫn cả trong và ngoài Hội Thánh. Nỗ lực áp dụng sự dạy dỗ của Bài Giảng Trên Núi cho thế giới chưa được tái sanh là một ví dụ cho điều này. Các phiên tòa của luật lệ và sức mạnh quân sự của trần gian được đề xuất để đi kèm với những sự dạy dỗ của Ðấng Christ là điều hoàn toàn không thể làm được. Trích dẫn Lời của Ðấng Christ như là kim chỉ nam cho các cảnh sát, các quan tòa, và các tướng lĩnh là hoàn toàn hiểu lầm những Lời đó và cho thấy toàn bộ sự thiếu hiểu biết những mục đích của sự khải thị thánh. Những Lời đầy ân sủng của Ðấng Christ là dành cho những con trai và con gái của ân điển, không phải cho các dân tộc ngoại bang, những người chọn biểu tượng cho mình là hình ảnh của sư tử, đại bàng, rồng hay gấu.

Ðức Chúa Trời không chỉ dành Lời của lẽ thật của Ngài cho những người có thể tiếp nhận nó, mà Ngài thật sự còn che đậy ý nghĩa của Lời ấy trước mắt những người không thể tiếp nhận nó. Diễn giả dùng các câu chuyện để làm sáng tỏ lẽ thật; còn Chúa chúng ta thường dùng chúng để làm cho lẽ thật trở nên hơi khó hiểu. Các ví dụ của Ðức Chúa Jêsus là cái hoàn toàn trái ngược với "thí dụ minh họa" hiện đại, vốn có nghĩa là soi sáng (làm sáng tỏ); các ví dụ là những câu nói "tối nghĩa" và Ðấng Christ đã khẳng định rằng Ngài đôi lúc dùng chúng để các môn đồ mình có thể hiểu còn kẻ thù mình thì không (xem trong Ma-thi-ơ 13:10-17). Giống như trụ lửa ban ánh sáng cho dân Y-sơ-ra-ên, nhưng là đám mây và bóng tối bao phủ dân Ai Cập, Lời của Chúa chúng ta chiếu sáng trong lòng của dân sự Ngài, nhưng vẫn để những kẻ vô tín kiêu ngạo trong sự tối tăm của bóng đêm đạo đức.

Quyền năng cứu chuộc của Lời Chúa được dành sẵn cho những ai đã được định trước. Bí mật của Ðức Chúa Trời thuộc về họ, là những người

Page 111: Tong hop

kính sợ Ngài. Một tấm lòng không ăn năn sẽ thấy Kinh Thánh chỉ là một bộ xương của những sự kiện mà không hề có da thịt, sự sống hay hơi thở. Shakepeare có thể được nhiều người yêu thích mà không hề có sự ăn năn; chúng ta có thể hiểu Plato mà không hề tin lời nào ông nói; nhưng sự ăn năn và khiêm nhường cùng với đức tin và sự vâng lời là rất cần thiết cho việc hiểu Kinh Thánh cách đúng đắn.

Trong những khía cạnh tự nhiên, đức tin theo sau bằng chứng, và hoàn toàn không thể có đức tin nếu không có bằng chứng; nhưng trong lĩnh vực tâm linh, đức tin đi trước sự thấu hiểu; nó không hề đi sau. Một con người tự nhiên phải biết thì mới tin được. Còn đức tin đưa đến sự cứu rỗi không phải là một kết luận rút ra từ bằng chứng; nó là điều thuộc về lĩnh vực đạo đức, một cái gì đó thuộc về tâm linh, một sự ban cho siêu nhiên từ Ðức Chúa Jêsus Christ, một món quà thực sự của Ðức Chúa Trời.

Ðức tin đưa đến sự cứu rỗi được xây dựng trên Thân Vị của Ðấng Christ, ngay lập tức nó dẫn đến sự gắn bó chặt chẽ của toàn bộ tạo vật với Ðấng Christ, một việc hoàn toàn không thể làm được đối với con người tự nhiên. Tin một cách đúng đắn cũng giống như một phép lạ về sự sống lại từ cõi chết của La-xa-rơ ngay khi Ðấng Christ truyền phán.Kinh Thánh là một cuốn sách siêu nhiên và chỉ có thể được hiểu bởi sự giúp đỡ siêu nhiên.

Tầm Quan Trọng Của Sự Xét Đoán

Hầu như không có gì khác phơi bày thật rõ ràng nỗi sợ hãi và tình trạng mơ hồ của con người như là quãng đường mà họ sẽ đi để che giấu cái tôi của mình khỏi người khác và ngay cả khỏi con mắt của chính mình.

Hầu hết tất cả mọi người, từ thời thơ ấu cho đến lúc qua đời, sống đằng sau một tấm màn mờ đục, chỉ bước ra khỏi đó một chút khi bị ép buộc bởi một cú sốc tình cảm nào đó và rồi lại rút lui vào chỗ ẩn nấp với tốc độ nhanh nhất. Kết quả của sự che đậy cả đời này nằm ở chỗ con người hiếm khi biết những hàng xóm của họ thực sự là ai, và còn tệ hơn nữa, sự ngụy trang đó hoàn hảo đến độ họ cũng không còn nhận biết chính mình.

Page 112: Tong hop

Tự Nhận biết mình là điều tối quan trọng đối với chúng ta trong sự tìm cầu Ðức Chúa Trời và sự công bình của Ngài,

tức là chúng ta nằm dưới một bổn phận nặng nề là phải thực hiện ngay bất cứ gì cần thiết để cất bỏ sự trá hình của mình và cho phép cái tôi thực sự của chúng ta được phơi bày. Ðó là một trong số những bi kịch lớn nhất trong tôn giáo đến độ quá nhiều người trong chúng ta nghĩ quá cao về chính mình; và sự tự hâm mộ chính bản thân đã đóng kín tấm lòng một cách hiệu quả và đẩy ra ngoài bất cứ nỗ lực khám phá nào của những phương thuốc cho tình trạng suy đồi tâm linh.Nhưng chỉ những người nào biết mình đau bệnh mới tìm đến bác sĩ.

Bây giờ, tình trạng đạo đức và thuộc linh thật của chúng ta chỉ có thể được vạch trần bởi Thánh Linh và bởi Lời Chúa. Lời phán xét cuối cùng dành cho tấm lòng thuộc về Ðức Chúa Trời. Lời Chúa dạy chúng ta không dám phán xét người khác (Ma-thi-ơ 7:1-5), và cũng bởi đó mà chúng ta không nên cố phán xét chính mình (I Cô-rinh-tô 4:3). Sự phán xét cuối cùng thuộc về Ðấng có đôi mắt như lửa và là Ðấng thấy mọi việc làm, mọi tư tưởng của con người. Tôi thật vui mừng để Lời cuối cùng cho Ngài.

Tuy nhiên, có một chỗ cho sự tự xét đoán mình và là một nhu cầu thực sự mà chúng ta cần tập luyện (I Cô-rinh-tô 11:31-32). Khi chúng ta không được trọn vẹn cho lắm và tự xét đoán thì hầu như là không toàn hảo, thì lý do tốt nhất là để Thánh Linh làm việc với chúng ta trong sự xét đoán chính mình, và trong sự nhơn từ của Ngài sẽ đưa chúng ta vào trật tự trên phương diện thuộc linh tức là chúng ta có thể thực hiện những sửa đổi như hoàn cảnh đòi hỏi. Việc Ðức Chúa Trời biết rõ chúng ta là một điều chắc chắn (Thi thiên 139:1-6). Cái còn lại cho chúng ta là chúng ta phải biết chính mình chính xác đến mức độ có thể được. Vì lý do này, tôi đưa ra vài quy luật cho sự tự khám phá; và nếu kết quả không nhận được theo những gì chúng ta mong ước, thì chúng ít nhất cũng tốt hơn là không có gì cả. Chúng ta có thể được nhận biết bởi những điều dưới đây:

1. Những điều chúng ta mong muốn nhất. Chúng ta phải yên lặng, nhớ lại những tư tưởng của mình, chờ đợi sự náo động trong lòng chúng ta lắng xuống, và khi đó lắng nghe thật kỹ tiếng nói yếu ớt của sự khao khát. Hãy hỏi lòng mình, "Ngươi muốn điều gì nhất trên thế giới này?" Hãy bỏ qua những câu trả lời thông thường. Hãy nhấn mạnh vào câu trả lời thật, và

Page 113: Tong hop

khi bạn đã nghe được nó, bạn sẽ biết bạn thuộc loại người gì.

2. Những điều chúng ta nghĩ đến nhiều nhất. Những nhu cầu của cuộc sống buộc chúng ta phải suy nghĩ về nhiều điều, nhưng vấn đề ở đây là những gì chúng ta nghĩ đến một cách tự nguyện. Những tư tưởng của chúng ta sẽ xoay quanh kho báu bí mật của lòng mình, và bất luận điều đó là gì thì cũng sẽ tiết lộ bản chất của chúng ta. "Của cải ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó."

3. Chúng ta sử dụng tiền của mình như thế nào. Một lần nữa chúng ta phải bỏ qua những vấn đề mà chúng ta không hoàn toàn tự do khỏi nó. Chúng ta phải đóng thuế và đáp ứng nhu cầu cuộc sống chính mình và gia đình. Ðiều đó rất thông thường và chỉ cho chúng ta biết chút đỉnh về chính mình. Nhưng bất cứ cái gì mà đồng tiền đã được bỏ ra để thực hiện theo như điều chúng ta muốn - điều đó thực sự sẽ nói với chúng ta rất nhiều.

4. Chúng ta làm gì trong lúc rảnh rỗi. Một khoảng lớn thời gian của chúng ta đã được nói đến là dùng để giải quyết những nhu cầu cấp bách của cuộc sống văn minh, nhưng chúng ta vẫn còn một số thời gian rảnh. Việc chúng ta làm gì với nó là điều rất quan trọng. Hầu hết mọi người lãng phí nó bằng cách dán mắt vào ti vi, nghe đài, đọc những tờ báo rẻ tiền hay ngồi đàm tếu sáo rỗng. Việc tôi làm gì với cái tôi của mình tiết lộ tôi thuộc loại người nào.

5. Người bạn mà chúng ta yêu thích. Có một định luật của sự thu hút mang tính chất đạo đức vốn lôi kéo mỗi người vào cái xã hội giống với bản thân anh ta nhất. "Khi chúng đã thả ra, hai người đến cùng anh em mình" (Công vụ 4:23). Chúng ta đi đâu khi chúng ta được tự do đi tới nơi mà chúng ta muốn là một bảng liệt kê tính cách gần như không thể sai lầm được.

6. Chúng ta thán phục ai và thán phục cái gì. Tôi đã nghi ngờ từ lâu rằng một số lớn những Cơ Ðốc nhân Tin Lành, xem ra thì ổn định dưới áp lực quan điểm của hệ phái họ, lại có sự thán phục vô hạn, nếu cần phải bí mật, đối với cái thế giới này. Chúng ta có thể biết được tình trạng thật của tâm trí mình bằng cách kiểm tra những điều làm chúng ta thán phục mà chưa được bộc lộ ra. Nước Y-sơ-ra-ên thường thán phục, ngay cả ghen tị với những quốc gia ngoại giáo quanh họ, và vì thế họ quên đi sự nhận làm con nuôi, sự vinh hiển, giao ước, luật pháp, lời hứa và các tổ tiên.

Page 114: Tong hop

Thay vì trách móc dân Y-sơ-ra-ên, chúng ta hãy nhìn lại mình.

7. Chúng ta cười cái gì. Không một ai có lòng quan tâm thỏa đáng đến sự khôn ngoan của Ðức Chúa Trời lại tranh luận rằng cười là sai, vì tính hài hước là một thành phần cố hữu trong bản chất phức tạp của chúng ta. Thiếu đi sự hài hước chúng ta rơi vào tình trạng thiếu nhân tính khỏe mạnh. Nhưng bài kiểm chúng ta đang thực hiện đây không phải ở chỗ chúng ta có cười hay không, nhưng là chúng ta cười cái gì. Có một số điều nằm ngoài lĩnh vực hài hước thuần túy. Không một Cơ Ðốc nhân kính sợ Chúa nào lại thấy sự chết, sự ra đời hay tình yêu là khôi hài, buồn cười. Không một người nào đầy dẫy Thánh Linh lại có thể đưa mình vào chỗ cười cợt Kinh Thánh, hay Hội Thánh mà Ðấng Christ đã mua bằng chính huyết của mình, hoặc lời cầu nguyện, sự công chính, nỗi đau buồn, khổ sở của con người. Và chắc chắn không một người nào đã từng ở trong sự hiện diện của Ðức Chúa Trời lại có thể cười cợt trước một câu chuyện liên quan đến Ðức Chúa Trời.

Ðây là một số ít những bài kiểm tra. Một Cơ Ðốc nhân khôn ngoan sẽ tìm thấy nhiều bài kiểm khác nữa.

Thẩm quyền Đấng Christ Bị Hạ Thấp Trong các Hội Thánh

Đây là một gánh nặng của lòng tôi; và khi nói rằng nó là của tôi, tôi cũng cảm thấy rằng đây là gánh nặng của Thánh Linh. Nếu tôi biết rõ lòng mình, thì chính bởi tình yêu thương đã thúc đẩy tôi viết nên điều này. Điều tôi viết ở đây không phải là hơi men chua chát của một tâm trí bị kích động bởi những sự cãi lẫy với các anh em Cơ Đốc của mình. Hoàn toàn không có một sự cãi lẫy nào cả. Tôi cũng không hề bị lạm dụng, đối xử tệ bạc, hay tấn công bởi bất cứ ai. Hay những khám phá này cũng không phải xuất phát từ những kinh nghiệm không mấy dễ chịu mà tôi đã trải qua trong giao tiếp với những người khác. Các mối quan hệ của tôi với Hội Thánh mình, cũng như với các Cơ Đốc nhân của các hệ phái khác đều rất tốt, nhã nhặn và thú vị. Nỗi khổ của tôi chỉ đơn giản là hậu quả của một tình trạng mà tôi tin là hầu như hoàn toàn phổ biến giữa các Hội Thánh.

Tôi cũng nghĩ rằng tôi nên nhìn nhận chính mình liên quan rất nhiều đến tình trạng mà tôi lấy làm tiếc ở đây. Như E-xơ-ra trong lời cầu thay đầy

Page 115: Tong hop

quyền năng của mình cũng đã gộp cả chính mình với những người làm sai, tôi cũng thế. “Ôi, Đức Chúa Trời tôi! Tôi hổ ngươi thẹn mặt, chẳng dám ngước mặt lên Ngài, là Đức Chúa Trời tôi; vì gian ác chúng tôi đã thêm nhiều quá đầu chúng tôi, và tội chúng tôi cao lớn tận trời” (9:6). Bất cứ lời lẽ mạnh mẽ nào nói ra ở đây chống lại những người khác thì cũng phải chân thật mà đổ lại trên đầu tôi. Tôi cũng đã phạm lỗi. Điều này được viết lên với hy vọng rằng tất cả chúng ta có thể quay trở lại với Đức Chúa Trời và không còn phạm tội chống lại Ngài nữa.

Hãy để tôi nói rõ nguyên nhân của gánh nặng lòng mình. Chính là thế này: Ngày nay, Đức Chúa Jêsus Christ không còn quyền hành gì giữa những nhóm tự gọi chính họ bằng danh Ngài. Nói điều này, tôi không có ý ám chỉ Công Giáo La Mã hay những người theo chủ nghĩa tự do, hay những giáo phái tưởng như là Cơ Đốc, nhưng tôi muốn nói đến các Hội Thánh Tin Lành nói chung. Một giáo lý nền tảng của Tân Ước là sau khi Đức Chúa Jêsus sống lại, Con Người Jêsus đã được Đức Chúa Trời tuyên bố vừa là Chúa, vừa là Christ, và Ngài đã được Đức Chúa Cha ban cho quyền tể trị tuyệt đối trên hết thảy Hội Thánh, vốn là Thân Thể Ngài. Tất cả bính quyền thuộc về Ngài cả trên trời và dưới đất. Trong thời điểm thích hợp của riêng Ngài, Ngài sẽ sử dụng nó hết mực, nhưng trong suốt thời kỳ này của lịch sử, Ngài cho phép thẩm quyền của Ngài bị phủ nhận hay làm ngơ. Và ngay bây giờ nó đang bị thách thức bởi thế giới này, đồng thời cũng bị Hội Thánh làm ngơ.

Vị trí hiện tại của Đấng Christ trong các Hội Thánh Tin Lành có thể ví như vị trí của một nhà vua trong một chế độ quân chủ lập hiến có giới hạn. Vị vua (đôi lúc bị biểu tượng hóa bởi khái niệm “Vương Miện”) ở trong một nước như thế chẳng khác nào một điểm tập hợp truyền thống, một biểu tượng thú vị của sự thống nhất và lòng trung thành, thật giống như lá cờ hay bài quốc ca. Ông vua ấy được người ta tán dương, ca ngợi và chu cấp mọi điều, nhưng thẩm quyền thực sự thì rất nhỏ bé. Trên danh nghĩa, ông đứng đầu tất cả, nhưng trong mỗi cơn khủng hoảng, một ai khác quyết định thay. Trong những dịp quan trọng, ông xuất hiện với bộ áo hoàng gia để đọc bài diễn văn vô vị, tẻ nhạt được đặt vào trong miệng ông bởi những người cầm quyền thực sự của đất nước. Tất cả điều này chính là sự giả vờ tốt bụng, nhưng nó đã bắt đầu từ đời xưa - nó thật có nhiều trò vui và không ai muốn bỏ sang bên.

Giữa vòng các Hội Thánh Tin Lành, Đấng Christ trên thực tế ngày nay còn nhỏ bé hơn cả một biểu tượng được yêu mến. “Ngợi danh Jêsus rất

Page 116: Tong hop

oai quyền” là bài quốc ca của Hội Thánh và thập tự giá là lá cờ chính thức của Hội Thánh, nhưng trong những buổi thờ phượng hàng tuần, và hành vi hàng ngày của các thành viên Hội Thánh, một ai khác, chứ không phải Đấng Christ, đưa ra các quyết định. Trong những hoàn cảnh thích hợp, Đấng Christ đã được phép lên tiếng, “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta” hay: “Lòng các ngươi chớ hề bối rối”, nhưng khi bài giảng chấm dứt, một người khác đến kiểm soát. Những người có thẩm quyền thực sự quyết định các tiêu chuẩn đạo đức của Hội Thánh, cũng như tất cả các mục tiêu và tất cả các phương pháp được sử dụng để đạt đến chúng. Vì cớ sự tổ chức lâu dài và quá tỉ mỉ, nên bây giờ việc một mục sư trẻ nhất vừa tốt nghiệp trường thần học thực chất có thẩm quyền trên Hội Thánh nhiều hơn Đức Chúa Jêsus có là điều hoàn toàn có thể.

Không chỉ Đấng Christ có ít hay không có thẩm quyền; mà ảnh hưởng của Ngài trên Hội Thánh cũng ngày càng giảm đi. Tôi không nói rằng Ngài không có chút ảnh hưởng nào, nhưng chỉ là có ít và đang giảm dần đi. Một so sánh khá thú vị đó là cũng giống như ảnh hưởng của Apraham Lincoln lên người Mỹ. Burrows Abe vẫn là thần tượng của đất nước. Những cái giống ông: gương mặt vất vả, giản dị đến độ được coi là đẹp, xuất hiện khắp nơi. Thật rất dễ mà trở nên ủy mị vì ông. Trẻ em được lớn lên trong những câu chuyện về tình yêu, sự thành thật và khiêm nhường của ông. Nhưng sau khi chúng ta đã nắm quyền điều khiển trên những cảm xúc tế nhị của mình, chúng ta đã rời bỏ cái gì? Chẳng có gì khác hơn là một gương tốt, như nó lùi xa về quá khứ, vốn đang ngày càng trở nên phi thực tế và ảnh hưởng ngày càng suy yếu đi. Mỗi tên côn đồ luôn sẵn sàng chộp lấy cái áo khoác đen và dài bên ngoài ông Lincoln. Trong ánh sáng lạnh lẽo của những sự kiện chính trị tại Mỹ, các chính trị gia thường đề cập đến Lincoln như một trò đùa cay độc.

Uy quyền của Đức Chúa Jêsus không hoàn toàn bị lãng quên giữa vòng các Cơ Đốc nhân, nhưng nó đã bị hạ xuống ngang bằng với bài thánh ca, nơi mà tất cả những trách nhiệm hướng về nó có thể bị hủy bỏ cách thoải mái trong luồng ánh sáng rực rỡ của cảm xúc tôn giáo dễ chịu. Hay nếu nó được dạy như là một lý thuyết trong phòng học, nó hiếm khi được áp dụng một cách thực tế trong cuộc sống. Ý tưởng Con Người Jêsus Christ có uy quyền tối hậu và tuyệt đối trên toàn Hội Thánh và trên tất cả những thành viên của Hội Thánh trong từng chi tiết của cuộc sống họ ngày nay đơn giản là không được chấp nhận là đúng

Page 117: Tong hop

bởi hàng ngũ các Cơ Đốc nhân Tin Lành.

Đây là điều mà chúng ta phải làm: Chúng ta chấp nhận Cơ Đốc giáo của hệ phái chúng ta như là cái giống hệt với Cơ Đốc giáo của Đấng Christ và các sứ đồ Ngài. Những niềm tin, những thông lệ, những lối xử thế đạo đức, các hoạt động của nhóm chúng ta được coi là ngang bằng với Cơ Đốc giáo của Tân Ước. Bất luận hệ phái suy nghĩ hay nói gì, hay liệu nó có phù hợp với Thánh Kinh hay không, không một ai nghi vấn cả. Ta cho rằng tất cả những mong muốn của Chúa nơi chúng ta là chúng ta bận rộn với các hoạt động của hệ phái mình. Làm như thế là chúng ta vâng giữ những mạng lệnh của Đấng Christ.

Để tránh đòi hỏi tất yếu của việc hoặc là vâng lời hoặc là chống lại những sự dạy dỗ rõ ràng của Chúa chúng ta trong Thánh Kinh Tân Ước, chúng ta tránh né bằng cách lý giải tùy tiện những điều đó. Lý lẽ ngụy biện không phải là cái chỉ thuộc về những nhà thần học Công Giáo La Mã mà thôi. Những người Tin Lành chúng ta cũng biết làm thế nào để tránh né mũi nhọn của sự vâng lời bằng các phương tiện của những lời giải thích tinh vi và phức tạp. Những điều này là hoàn toàn thích hợp với xác thịt. Chúng ngụy biện cho sự không vâng lời, thỏa mãn cái nhục dục và khiến cho Lời của Đấng Christ trở nên vô hiệu. Và cốt lõi của vấn đề là ở chỗ Đấng Christ đã không được hiểu theo đúng ý nghĩa của những gì Ngài đã phán. Những sự dạy dỗ của Ngài được chấp nhận ngay cả về mặt lý thuyết chỉ sau khi chúng bị làm cho suy yếu đi bởi sự giải thích theo ý riêng. Nhưng Đấng Christ được nghĩ đến bởi con số ngày càng nhiều những người “có vấn đề” và Ngài được tìm kiếm bởi những con người muốn có sự bình an trong tâm trí. Ngài được giới thiệu rộng rãi như một chuyên gia tâm lý thuộc linh với những quyền năng đáng kể để loại bỏ khó khăn ra khỏi con người. Ngài có thể giải phóng họ khỏi những phức tạp của tội lỗi và giúp họ tránh được nhiều tổn thương tâm lý bằng cách tạo nên một sự điều chỉnh êm ái và dễ dàng cho xã hội và cho những xung đột bản năng của họ. Dĩ nhiên, Christ lạ lùng này lại chẳng liên quan gì đến Đấng Christ của Thánh Kinh Tân Ước. Đấng Christ thật cũng chính là Đức Chúa Trời, còn Christ hay làm ơn kia thì thấp kém hơn cả một đầy tớ của dân sự.Nhưng tôi nghĩ tôi cần phải đưa ra một bằng chứng mạnh mẽ nào đó để bảo vệ ý kiến của mình về vấn đề Đấng Christ có ít hoặc không có chút thẩm quyền nào giữa vòng các Hội Thánh ngày nay. À, tôi sẽ đặt một vài câu hỏi, và câu trả lời sẽ là bằng chứng.

Page 118: Tong hop

Ban trị sự Hội Thánh có tra cứu đến Lời của Chúa chúng ta trong khi thảo luận để quyết định các vấn đề không? Những ai đã từng là thành viên của ban trị sự Hội Thánh khi đọc đến đây hãy cố nhớ lại xem đã bao nhiêu lần, hay đã từng có lần nào một thành viên nào đó trong ban trị sự đọc Lời Kinh Thánh lên rồi quyết định, hay có khi nào một người chủ tọa đề nghị những anh em của mình nên xem xét những Lời dạy dỗ của Chúa dành riêng cho họ trên một vấn đề đặc biệt nào đó. Các cuộc họp ban trị sự thường có một thói quen là mở đầu một cuộc họp bằng lời cầu nguyện hay cả một “mùa cầu nguyện”; sau đó thì chủ tọa Hội Thánh ngồi im lặng với vẻ tôn trọng trong khi những người cầm đầu thực sự khác lên tiếng. Những ai phủ nhận điều này sẽ đưa ra bằng chứng bác bỏ nó. Tôi sẽ rất vui được nghe!

Ban Trường Chúa Nhật có chạy đến với Lời Chúa để tìm kiếm sự dẫn dắt không? Có phải những thành viên lúc nào cũng giả định rằng họ đã biết hết tất cả những gì họ phải làm và rằng vấn đề duy nhất của họ là tìm kiếm một phương tiện hiệu quả để thực hiện nó không? Kế hoạch, phép tắc, “sự vận hành” và những kỹ thuật mang tính phương pháp chiếm hết thời gian và sự chú ý của họ. Lời cầu nguyện trước buổi họp là để xin sự giúp đỡ thánh để tiến hành những kế hoạch của họ. Rõ ràng là ý tưởng “Đức Chúa Trời sẽ bày tỏ cho họ” chẳng bao giờ tiến sâu vào đầu họ được.

Có ai nhớ lại một cuộc họp nào mà người chủ tọa cầm Kinh Thánh mình đặt lên bàn với mục đích là sẽ dùng nó không? Các biên bản, các quy tắc, quy luật của trật tự thì “phải”. Còn những mạng lệnh thánh của Đức Chúa Trời thì “không”! Một sự phân cách tuyệt đối tồn tại giữa thời gian cầu nguyện và cuộc họp bàn công việc. Cái đầu tiên chẳng có liên quan gì đến cái thứ hai.Ban Chứng Đạo đã thực sự tìm kiếm điều gì để làm theo sự dẫn dắt của Chúa từ nơi Lời Ngài và từ Thánh Linh? Tất cả họ nghĩ là họ làm như thế, nhưng điều mà họ thực sự làm là khoác cái vẻ ngoài thuộc về Kinh Thánh cho những mục đích của mình và rồi kêu gọi sự giúp đỡ tìm kiếm những phương cách để đạt được chúng. Họ có thể cầu nguyện suốt cả đêm với Chúa để Ngài mang thành công đến cho công việc của họ, nhưng Đấng Christ được trông mong như là một người giúp đỡ chứ không phải là Chúa của họ. Các phương tiện thuộc con người được nghĩ ra để đạt những mục đích được cho là thiêng liêng. Những điều này rắn lại thành các chính sách, kế hoạch, và sau đó chẳng còn có lấy một chỗ nào cho ý muốn của Đức Chúa Trời.

Page 119: Tong hop

Trong hành vi của sự thờ phượng chung của chúng ta, thẩm quyền của Đấng Christ được tìm thấy ở đâu? Sự thật là ngày nay Đức Chúa Trời hiếm khi điều khiển một buổi thờ phượng, và ảnh hưởng của Ngài rất là nhỏ bé. Chúng ta hát về Ngài, và giảng về Ngài, nhưng Ngài không được can dự vào; chúng ta thờ phượng theo cách của chúng ta, và nó ắt hẳn phải đúng vì lúc nào chúng ta cũng làm như thế, như là những Hội Thánh khác trong hệ phái chúng ta cũng làm! Cơ Đốc nhân nào khi đối diện với một vấn đề đạo đức liền chạy ngay đến Bài Giảng Trên Núi hay các phần Kinh Thánh Tân Ước khác để tìm lời đáp có thẩm quyền vững chắc? Ai căn cứ vào Lời của Đấng Christ để quyết định việc dâng hiến, kế hoạch hóa gia đình, việc nuôi sống một gia đình, các thói quen cá nhân, dâng phần mười, giải trí, mua sắm, bán buôn và những vấn đề quan trọng đại loại?

Trường thần học nào, từ Viện Kinh Thánh nhỏ bé trở lên, có thể tiếp tục duy trì nếu nó phải đặt để Chúa Jêsus lên trên mọi chính sách của mình? Có thể có một vài, và tôi hy vọng là có, nhưng tôi tin là tôi đúng khi nói rằng những trường như vậy mà còn hoạt động bị buộc phải chấp nhận những thủ tục vốn không có chỗ nào trong Kinh Thánh chứng minh là đúng. Vì thế chúng ta có sự dị thường kỳ cục này: Thẩm quyền của Đấng Christ bị lờ đi với mục đích là để duy trì được một trường học, nơi đó dạy về thẩm quyền của Đấng Christ bên cạnh những điều khác.

Những nguyên nhân đằng sau sự giảm sút thẩm quyền của Chúa chúng ta thì có rất nhiều. Tôi chỉ nêu ra hai điều mà thôi.

Một là sức mạnh của tập quán, tiền lệ và truyền thống trong vòng những nhóm tôn giáo già cỗi hơn. Những cái này giống như lực hút ảnh hưởng lên từng mảnh nhỏ của thói quen tôn giáo trong nhóm, sử dụng một áp lực ổn định và liên tục theo một hướng. Dĩ nhiên đó là hướng đi dẫn về những điều giống hệt tình trạng trước đó. Không phải Đấng Christ nhưng là tập quán là chủ trong hoàn cảnh này. Và điều đó đã chuyển sang (có thể với mức độ thấp hơn một ít) những nhóm khác giống như Hội Thánh Phúc Âm Toàn Vẹn, Hội Thánh Thánh Khiết, Hội Thánh Ngũ Tuần, những Hội Thánh chính thống cùng với nhiều Hội Thánh độc lập và phi hệ phái khác được tìm thấy khắp nơi ở lục địa Bắc Mỹ.

Nguyên nhân thứ hai là sự trở lại của thuyết duy lý trong vòng những người

Page 120: Tong hop

Tin Lành. Điều này, nếu tôi cảm nhận đúng tình trạng đó, không phải là một khao khát học hỏi nhưng là một mong ước được nổi tiếng bởi đã học cao. Vì cớ nó, những người tốt, vốn phải biết nhiều hơn, bị đặt vào vị trí phải cộng tác với kẻ địch.

Tôi sẽ giải thích.Ngày nay, niềm tin Phúc Âm của chúng ta (cái mà tôi tin là đức tin thật nơi Đấng Christ và các sứ đồ Ngài) đang bị tấn công từ nhiều hướng khác nhau. Trong thế giới phương Tây, kẻ thù đã từ bỏ bạo lực. Hắn không chống lại chúng ta bằng gươm và giáo nữa; bây giờ hắn đến bằng nụ cười, mang theo các món quà. Hắn ngước mắt lên trời và thề rằng hắn cũng tin nơi những điều ông cha ta đã tin, nhưng mục đích thực của hắn là thủ tiêu niềm tin đó, hay ít nhất là sửa đổi nó trong một chừng mực nào đó để nó không còn là một điều siêu nhiên như nó đã từng nữa. Hắn đến trong danh nghĩa của triết học, tâm lý học, hay nhân loại học và với sự hợp lý ngọt ngào, hắn thúc đẩy chúng ta suy nghĩ lại vị trí có tính chất lịch sử của chúng ta, trở nên ít cứng rắn hơn, chịu đựng nhiều hơn, hiểu biết rộng hơn.

Hắn nói bằng một biệt ngữ linh thiêng của các trường học, và nhiều trong số những Cơ Đốc nhân được giáo dục nửa chừng của chúng ta sẽ chạy đến và bợ đỡ hắn. Hắn tung các địa vị xã hội không thực tế ra cho những đứa con của các nhà tiên tri, vốn đang tranh giành với nhau như Rockfeller đã thường ném những đồng một hào cho mấy đứa trẻ con nhà tá điền. Những người Tin Lành, với một bằng chứng nào đó, đã bị buộc tội là thiếu sự uyên bác, bây giờ lại nắm bắt những biểu tượng địa vị này với con mắt sáng rỡ, và khi họ có được chúng, họ hiếm khi có thể tin nơi mắt của mình. Họ bước đi loanh quanh, đắm chìm trong sự vô tín, thật giống như người đơn ca của ban hợp ca trong Hội Thánh láng giềng khi cô ta được mời đi hát tại La Scala (3).Đối với Cơ Đốc nhân thật, bài kiểm tra quan trọng nhất cho chân giá trị đúng đắn và cơ bản của mọi điều mang tính chất tôn giáo phải được đặt vào nơi mà Chúa chúng ta ngự trị. Ngài là Chúa hay là một biểu tượng? Ngài đảm nhận dự án, hay Ngài chỉ là một ban nhóm? Ngài quyết định mọi sự hay chỉ giúp tiến hành các kế hoạch của người khác? Tất cả những hoạt động tôn giáo, từ hành động đơn giản nhất của một Cơ Đốc nhân đơn lẻ cho đến những hoạt động rộng lớn và tốn kém của cả một hệ phái có thể được chứng minh bằng cách trả lời câu hỏi này, “Đức Chúa Jêsus Christ có phải là Chủ trong hoạt động này không?” Liệu công việc của chúng ta sẽ là gỗ, cỏ khô hay rơm rạ

Page 121: Tong hop

mục nát hoặc vàng, bạc hay đá quý trong ngày vĩ đại đó sẽ tùy thuộc vào câu trả lời đúng cho câu hỏi này.

Thế thì, chúng ta phải làm gì? Mỗi người trong chúng ta phải quyết định, và có ít nhất ba lựa chọn. Một là đứng dậy trong cơn thịnh nộ, lòng đầy căm phẫn và buộc tội tôi về sự bố cáo vô trách nhiệm. Hai là gật đầu đồng ý chung chung với những điều đã được viết ra đây nhưng tự an ủi trong ý tưởng, cho rằng có những ngoại lệ và chúng ta đang ở trong những ngoại lệ đó. Ba là hạ mình xuống, khiêm cung mà xưng nhận rằng chúng ta đã làm buồn lòng Thánh Linh và làm ô danh Chúa vì chúng ta vì đã thất bại trong việc trao cho Đức Chúa Jêsus địa vị mà Cha Ngài đã ban cho, là Đầu và Chủ của Hội Thánh.

Thần Tiêu Khiển Vĩ Đại

Một triết gia người Ðức nhiều năm trước đây đã nói đôi lời về một khía cạnh tinh thần và cho rằng nếu một người có sự đòi hỏi càng nhiều trong lòng mình theo khía cạnh tâm linh thì người ấy sẽ đòi hỏi ít hơn trên vấn đề vật chất bên ngoài, hay nói khác hơn, là đòi hỏi ít hơn của nhu cầu xác thịt. Nhu cầu về sự cung cấp quá đáng cho thể xác là bằng chứng cho sự phá sản của con người bên trong.

Nếu đây là một sự thật, thì sự gắn bó quá mức với mọi hình thức giải trí ngày nay là bằng chứng cho thấy rằng đời sống bên trong của con người hiện đại đang ở trong tình trạng suy sụp trầm trọng. Một người bình thường không có tâm điểm của sự đảm bảo về mặt đạo đức, cũng không có mùa xuân trong lòng, cho nên cũng không đủ sức mạnh bên trong để đưa tinh thần họ lên cao hơn nhu cầu sống tạm bợ và rồi phải thường xuyên tìm đến các bác sĩ tâm lý hầu được sự khích lệ mà tiếp tục sống. Người ấy sẽ trở thành một kẻ ăn bám trên thế giới, lôi kéo cuộc đời mình ra khỏi môi trường của mình, không thể sống một ngày nào mà không có sự khuyến khích của người chung quanh và xã hội này dành cho họ.

Schleiermarcher tin tưởng rằng cảm giác của sự tin cậy bắt nguồn từ sự thờ phượng, tuy nhiên, đời sống thuộc linh cao sâu phải luôn bắt đầu với một ý thức về nhu cầu rất to lớn mà chỉ một mình Ðức Chúa Trời mới có thể thỏa mãn cho nhu cầu đó. Nếu chúng ta cho rằng ý thức của nhu

Page 122: Tong hop

cầu tâm linh đều có thể bắt nguồn từ bất cứ tôn giáo nào một cách tự nhiên thì quả thật không có gì khó khăn cho chúng ta thấy rằng trên đời nầy có một vị thần Tiêu khiển vĩ đại được tôn sùng cách hăng hái bởi rất nhiều người. Có hàng triệu người không thể sống mà không có trò tiêu khiển. Họ tìm kiếm sự giải khuây nào đó bởi những người làm trò vui chuyên nghiệp thực hiện và những dạng khác của thuốc mê tâm lý như một con nghiện đang mong đợi liều thuốc heroin hàng ngày của mình. Không có chúng thì họ không thể nào tập trung được can đảm để đối diện với sự tồn tại.

Không một con người bình thường nào mà lại phản đối những thú vui đơn sơ của cuộc sống, hay là phản đối những hình thức giải trí vô hại giúp nghỉ ngơi để giảm căng thẳng thần kinh và làm cho tươi mới tâm trí đã bị kiệt sức sau những giờ làm việc cực nhọc. Những điều đó nếu được sử dụng một cách thận trọng thì sẽ trở thành những phước hạnh dọc đường đời.

Nhưng

Nếu con người hết lòng phó thác chính mình cho sự tiêu khiển và xem nó như một hoạt động chủ yếu để tiếp tục sống thì là chuyện khác.

Sự lạm dụng những điều vô hại là bản chất của tội lỗi. Sự gia tăng khoảng thời gian vui chơi giải trí của đời sống con người đến mức dị thường là một tai ương, một mối đe dọa cho linh hồn của con người hiện đại. Nó đã được phát triển thành những khu vui chơi hàng triệu đô la vốn có một sức mạnh rất lớn ảnh hưởng tâm trí và nhân cách con người hơn bất cứ một nền giáo dục nào trên mặt đất. Và một điều đáng ngại là sức mạnh của nó hầu hết thuộc về điều ác, làm mục nát đời sống bên trong và đào thải những tư tưởng về cõi đời đời. Cơ sở tiêu khiển nầy đã phát triển thành một tôn giáo đích thực hầu nắm giữ những kẻ mộ đạo của nó bằng sự mê hoặc kỳ lạ, trong sự tình cờ, nó là một tôn giáo chống lại Hội Thánh của Ðức Chúa Trời.

Bao nhiêu thế kỷ đã qua Hội Thánh đứng vững vàng trên một vị trí đối nghịch lại với mọi hình thức tiêu khiển trần gian, nhận biết được bản chất thật của chúng - một phương cách để lãng phí thời giờ, một nơi trốn tránh khỏi tiếng nói phiền toái của lương tâm, một kế hoạch để hướng sự chú ý khỏi trách nhiệm giải trình về đạo đức. Vì lý do này, Hội Thánh đã để cho chính mình bị lạm dụng thẳng thừng bởi những người con của thế

Page 123: Tong hop

giới này. Nhưng sau đó Hội Thánh trở nên quá quen thuộc với sự lạm dụng ấy và đã thôi, không tranh chiến nữa.

Hội Thánh tỏ ra và đã quyết định rằng nếu không thể chiến thắng thần Tiêu khiển thì Hội Thánh có thể gia nhập lực lượng của hắn ta, và lợi dụng bất cứ điều gì có thể nhận được sức mạnh của vị thần này.

Vì thế ngày nay chúng ta có một quang cảnh dị thường của việc hàng triệu đô la được rót vào những công việc không thánh sạch: Cung cấp trò tiêu khiển trần tục cho những người được gọi là con của thiên đàng. Trò giải trí tôn giáo ở nhiều nơi đã nhanh chóng gạt bỏ mọi điều nghiêm túc về Ðức Chúa Trời. Nhiều Hội Thánh ngày nay đã trở nên tệ hơn cả một kịch trường không đủ tiêu chuẩn, nơi mà những "nhà đạo diễn" hạng bét đi bán hàng rong mang chất lượng kém cỏi cùng với sự tán thành hết mình của những nhà lãnh đạo Tin Lành, những người có thể làm ngay cả việc trích dẫn một câu trong Kinh Thánh để biện hộ cho tội lỗi của mình. Và hiếm có người nào dám cất cao giọng chống lại những điều đó.

"Hỡi Ðức Giê-hô-va, xin nhớ sự đã giáng trên chúng tôi; hãy đoái xem sự sỉ nhục chúng tôi! ... Mão triều thiên rơi khỏi đầu chúng tôi, khốn cho chúng tôi vì chúng tôi phạm tội! Vì vậy lòng chúng tôi mòn mỏi, mắt chúng tôi mờ tối." Amen.

Thánh Linh Dạy Hay Thánh Kinh Dạy

Nếu chúng ta nói rằng có sự khác biệt giữa việc được Thánh Kinh dạy và được Thánh Linh dạy thì có thể gây chấn động cho nhiều tín hữu phải không? Tuy nhiên, quả thật là có sự khác biệt như vậy.

Ðiều này hoàn toàn có thể: được dạy dỗ về những nguyên lý cơ bản của đức tin nhưng vẫn không thực sự hiểu toàn bộ sự việc. Và việc trở thành chuyên viên về các giáo lý Thánh Kinh mà không có sự khai sáng thuộc linh, với hậu quả là bức màn vẫn còn trên tâm trí, che đậy nó khỏi sự thấu hiểu lẽ thật trong bản chất thuộc linh cũng là điều hoàn toàn có thể.

Hầu hết trong chúng ta quen với việc các Hội Thánh dạy Kinh Thánh cho trẻ em từ khi chúng còn rất nhỏ, mang đến cho chúng những hướng dẫn dài

Page 124: Tong hop

dòng trong các sách giáo lý đại cương, kéo chúng đến những lớp học của mục sư, mà vẫn không tạo nên trong chúng một lối sống Cơ Ðốc hay một lòng tin kính mạnh mẽ. Những thành viên của họ không cho thấy chút nào bằng cớ của sự biến đổi tâm linh từ sự chết sang sự sống. Giữa vòng họ không thể tìm thấy một dấu hiệu riêng nào của sự cứu rỗi được trình bày rõ ràng trong Kinh Thánh. Ðời sống tôn giáo của họ xét về phương diện đạo đức thì đúng và hợp lý, nhưng hoàn toàn máy móc và thiếu đi ánh hào quang. Họ mặc lấy đức tin của mình như những người đau buồn một lần mặc áo tang màu đen để thể hiện lòng yêu mến và tôn trọng của mình đối với người đã khuất.

Những người đó không thể coi là những kẻ giả hình. Nhiều người trong số họ rất nghiêm túc về vấn đề này. Chỉ đơn giản là họ mù. Từ chỗ thiếu vắng Thánh Linh sự sống, họ bị buộc phải ở trong cái vỏ bọc của đức tin, trong khi lúc nào tấm lòng sâu thẳm của họ cũng đói khát thực thể thuộc linh, và họ không biết mình sai chuyện gì.

Sự khác biệt giữa tôn giáo của tín điều và tôn giáo của Thánh Linh được Thomas đề cập đến trong lời cầu nguyện ông dâng lên Chúa: "Con cháu Y-sơ-ra-ên trong quá khứ đã nói với Môi-se rằng, 'Chính mình người hãy nói cùng chúng tôi thì chúng tôi sẽ nghe; nhưng cầu xin Ðức Chúa Trời chớ phán cùng, e chúng tôi phải chết chăng.' Không phải như vậy, Chúa ôi, không phải vậy, con cầu xin Ngài; như tiên tri Sa-mu-ên, con hạ mình xuống mà khẩn nài, 'Hỡi Ðức Giê-hô-va, xin hãy phán, kẻ tôi tớ Ngài đương nghe!' Xin đừng để Môi-se hay bất cứ tiên tri nào khác nói với con, nhưng chính Ngài hãy phán, lạy Chúa, Ngài là Ðấng linh ứng, là Ðấng soi sáng của mọi tiên tri; vì chỉ mình Ngài thôi, không cần họ, cũng có thể dạy dỗ con, nhưng nếu họ không có Ngài, cũng chẳng làm được gì. Họ có thể thốt nên lời, nhưng họ không thể đem quyền năng đến cho lời đó. Dù họ có nói hay đến thế nào, nhưng nếu Ngài im lặng, lời đó chẳng chạm được cõi lòng nào. Họ dạy từng chữ, nhưng Ngài mở lòng ra; họ đem đến những bí mật, nhưng Ngài mở ra ý nghĩa của những điều đã được đóng ấn... Họ làm việc bên ngoài, nhưng Ngài dạy dỗ và soi sáng tấm lòng... Họ lớn tiếng kêu gào, nhưng Ngài truyền đạt sự thấu hiểu cho người nghe."

Thật khó mà tóm gọn tốt hơn như vậy. Nhiều người khác cũng nói như thế; tuy nhiên, câu nói quen thuộc nhất có lẽ là, "Muốn hiểu được Kinh Thánh thì phải đọc Kinh Thánh với sự linh ứng và soi sáng của Thánh Linh." Không ai phủ nhận điều này, nhưng ngay cả một lời khẳng định

Page 125: Tong hop

như thế cũng không thể đi vào đầu óc người nghe trừ phi Ðức Thánh Linh cảm động tấm lòng.

Lời buộc tội mà những người theo chủ nghĩa tự do thường dùng để chống lại chúng ta là: "Những người tôn sùng Kinh Thánh", có lẽ không đúng như ý của những người chống đối chúng ta; nhưng tính thật thà và sự tự phân tích sẽ buộc chúng ta thừa nhận rằng thường có quá nhiều cái đúng trong lời buộc tội của họ.

Giữa vòng những người theo tôn giáo chính thống có rất ít thắc mắc về việc thỉnh thoảng tìm thấy một lòng tin vô tri vô giác vào nghĩa đen trong Thánh Kinh mà không hề có một sự thấu hiểu nào trong ý nghĩa thật của nó. Sự thật đó xét về bản chất thuộc linh phải luôn được ghi nhớ trong tâm trí nếu chúng ta muốn biết lẽ thật thực sự. Chính Ðức Chúa Jêsus Christ là Lẽ Thật, và Ngài không thể bị hạn chế trong văn tự Thánh Kinh mặc dù chúng ta tin tuyệt đối đó là Lời Đức Chúa Trời. Thuộc tính của Thánh Linh không thể chỉ gói gọn trong mực in hay giấy. Ðiều tốt nhất một cuốn sách có thể làm là đem đến cho chúng ta lời của lẽ thật. Ngài bày tỏ chính mình Ngài qua các từ ngữ đó. Nếu chúng ta đã từng nhận lãnh sức sống và những sự ban cho thuộc linh khác ngoài những giờ đọc và nghiên cứu Thánh Kinh, thì chắc chắn là Ðức Thánh Linh là Ðấng đã ban những điều đó.

Giữa vòng những con người đói khát thuộc linh, thì nhu cầu lớn của thời đại này có hai mặt:

1. Một là biết Kinh Thánh, ngoài ra không có một lẽ thật cứu rỗi nào khác được ban bố ngoài Cứu Chúa của chúng ta.

2. Hai là được Thánh Linh soi sáng, Ðấng mà nếu không có Ngài thì không thể hiểu Kinh Thánh được.

Thánh Nhân Phải Đi Một Mình

Hầu hết những linh hồn vĩ đại của thế giới đều cô đơn. Sự cô đơn dường như là một cái giá mà các thánh nhân phải trả cho sự thánh thiện của mình.Vào buổi bình minh của thế giới (hay chúng ta nên nói là trong bóng đêm

Page 126: Tong hop

kỳ lạ đó xuất hiện ánh bình minh của sự tạo dựng con người), Hê-nóc, linh hồn trung kiên đó, đồng đi cùng Ðức Chúa Trời và biến mất, vì Ðức Chúa Trời đã cất người lên; việc này không được đề cập đến nhiều, ta có thể suy luận một cách hợp lý là Hê-nóc đã đi trên một con đường hoàn toàn khác với con đường của những người cùng thời.

Một con người cô đơn khác là Nô-ê, so với tất cả mọi người khác trong thời kỳ trước cơn Ðại Hồng Thủy, người đã tìm thấy ân điển trong tầm nhìn của Ðức Chúa Trời; và những bằng chứng nhỏ bé cũng đủ chỉ ra sự cô độc của ông ngay cả khi ông được nhiều người khác vây quanh.

Áp-ra-ham đã có Sa-ra và Lót cũng như những đầy tớ và những người chăn bầy khác, nhưng ai có thể đọc câu chuyện của ông và lời dẫn giải của các sứ đồ mà lại không cảm nhận được ngay tức thì việc ông là một người "có linh hồn giống một ngôi sao cô đơn và đứng riêng biệt"? Ðến mức là chúng ta không thấy Ðức Chúa Trời phán một lời nào về ông trong mối quan hệ bạn bè của mình. Cúi mặt xuống, ông gần gũi với Chúa, và chân giá trị bẩm sinh của ông đã ngăn cấm việc ông mang lấy dáng điệu này trước sự hiện diện của những người khác. Thật ngọt ngào và uy nghi làm sao cái khung cảnh vào đêm tế lễ khi ông thấy những đóm lửa di chuyển giữa các phần của sinh tế. Tại đó, một mình với nỗi lo sợ của bóng tối bao trùm trên mình, ông nghe tiếng Chúa phán và biết rằng ông là một người được chọn cho đặc ân thánh.

Môi-se cũng là một người cách biệt. Khi đến cung điện của Pha-ra-ôn, ông đi bộ một mình, và trong một trong số những chuyến đi bộ đó, ông thấy một người Ai Cập và một người Hê-bơ-rơ đang đánh nhau, ông liền đến giải cứu người đồng hương. Sau hậu quả đổ vỡ với Ai Cập lần đó, hầu như ông hoàn toàn sống một mình trong đồng vắng. Tại đó, ông chỉ chăm nom đàn chiên của mình, điều kỳ lạ của bụi gai cháy đã xuất hiện ra trước mắt ông, và sau đó trên đỉnh núi Si-nai, ông ẩn nấp một mình để được ngắm xem vinh quang đầy sức lôi cuốn của Sự Hiện Diện Thánh, một phần được che giấu, một phần được phát lộ trong đám mây và lửa.

Những tiên tri của thời đại tiền Cơ Ðốc rất khác nhau, nhưng họ có một điểm chung, sự cô độc đầy sức mạnh. Họ đã yêu thương dân tộc của mình và tôn vinh tôn giáo của các bậc cha ông, nhưng lòng trung thành của họ đối với Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, của Y-sác, của Gia-cốp, và lòng nhiệt huyết của họ vì phúc lợi cho cả quốc gia Y-sơ-ra-ên đã kéo họ khỏi

Page 127: Tong hop

đám đông và bước vào những khoảng thời gian dài của gánh nặng. "Tôi đã trở nên một kẻ lạ cho anh em tôi, một người ngoại bang cho các con trai mẹ tôi" (Thi thiên 69:8), một tác giả Thi thiên đã thốt lên như thế và vô tình đã nói thay cho những người còn lại.

Phần lớn sự khải thị cho hết thảy các tiên tri là cái nhìn nơi Ðấng mà Môi-se và các bậc tiên tri khác đã viết, một mình bước đi trên con đường đến chỗ thập giá. Sự cô đơn sâu thẳm của Ngài không hề giảm bớt bởi sự hiện diện của đám đông vây quanh.

Khuya nay trên đỉnh núi Ô-li-veSao thưa lu li cảnh trông đê mêGiữa lâm viên thâm u đêm hiu quạnhJêsus đau thương cầu nguyện một mình

Khuya nay Jêsus lánh xa nhân gianCô đơn giao tranh với bao nguy nanChính môn sinh thân yêu nay vô tìnhNào hay tâm thương, lụy sầu Thầy mình.William B. Tappan (Thánh Ca 89)

Ngài chết một mình trong bóng tối, được che giấu khỏi cái nhìn của con người hay chết và không ai thấy Ngài sống lại vinh quang và bước ra khỏi mồ mả, dầu rằng có nhiều người sau đó thấy Ngài và làm chứng lại điều mà họ đã thấy. Có những thứ hết sức thiêng liêng cho bất kỳ con mắt nào nhìn vào, ngoại trừ của Ðức Chúa Trời. Sự tò mò, tiếng la hét ầm ĩ, một nỗ lực có ý tốt nhưng ngớ ngẩn để giúp ích chỉ thêm gây trở ngại cho linh hồn đang chờ đợi và tạo nên một điều không bình thường, nếu không phải là không thể: Một sự giao tiếp giữa sứ điệp bí mật của Ðức Chúa Trời với tấm lòng thờ phượng.

Ðôi lúc chúng ta phản ứng theo một loại phản ứng tôn giáo nào đó, nghiêm túc lập lại những từ và câu chữ nào đó ngay cả khi chúng không thể diễn tả những cảm xúc thật của chúng ta và sự thiếu tính xác thực của kinh nghiệm cá nhân. Bây giờ là thời điểm như vậy đấy. Một lòng trung kiên theo quy ước nào đó có thể đưa một số người nghe lẽ thật khác lạ này đến chỗ thốt lên, "Ồ, tôi có bao giờ cô đơn đâu. Chúa phán, 'Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi,' rồi thì, 'Ta hằng ở cùng các ngươi luôn.' Làm sao tôi có thể cô đơn được khi Ðức Chúa Jêsus ở với tôi?"

Page 128: Tong hop

Bây giờ tôi không muốn chỉ trích sự thật thà của bất kỳ linh hồn Cơ Ðốc nào, nhưng lời chứng có sẵn này lại quá đơn giản để có thể cho là thật. Thật rõ ràng đó là điều mà người nói nghĩ là phải đúng hơn là điều mà anh ta đã chứng minh là thật bởi sự kiểm tra của kinh nghiệm. Phủ nhận cách vui vẻ sự cô đơn chỉ chứng tỏ rằng người nói chưa bao giờ đi với Chúa mà không có sự giúp đỡ hay khích lệ của xã hội anh đang sống. Cảm giác của tình bạn, cái mà anh ta lầm tưởng là sự hiện diện của Ðấng Christ, có thể và có lẽ thực sự đến từ sự hiện diện của những người khác. Xin hãy luôn nhớ rằng bạn không thể cùng mang vác thập giá với những người khác. Dầu một người được vây quanh bởi một đám đông khổng lồ đi nữa, thập giá của anh ta vẫn là của riêng anh và sự mang vác nó khiến anh trở thành một con người tách biệt. Xã hội đã quay sang chống lại anh; mà nếu ngược lại thì anh ta chẳng có mang vác thập giá gì hết. Không ai là bạn của một người vác thập giá. "Mọi người đều bỏ Ngài và trốn đi cả."

Nỗi đau của sự cô đơn xuất phát từ tính khí của chúng ta. Ðức Chúa Trời đã tạo dựng chúng ta cho nhau. Khao khát tình người là hoàn toàn tự nhiên và đúng đắn. Sự cô đơn của Cơ Ðốc nhân là kết quả việc anh ta đồng đi với Ðức Chúa Trời trong một thế giới không tin kính, một chuyến đi thường đưa anh xa khỏi sự thông công với những Cơ Ðốc nhân tốt cũng như khỏi thế gian chưa tái sanh. Những bản năng Chúa ban cho anh kêu gào tìm kiếm tình bạn với những người đồng loại của mình, những người có thể hiểu nỗi khao khát của anh, những nguyện vọng của anh, sự say mê của anh nơi tình yêu thương của Ðấng Christ; và vì trong vòng bạn bè có ít người chia sẻ những kinh nghiệm bên trong của mình, anh buộc phải bước đi một mình. Những khao khát chưa được thỏa mãn của các nhà tiên tri nơi sự thấu hiểu của con người khiến họ thốt lên những lời than thở và ngay cả Chúa chúng ta cũng phải chịu đựng cùng một cách đó.

Một người đã vượt qua và bước vào Sự Hiện Diện Thánh trong kinh nghiệm bên trong thật sự sẽ không tìm thấy nhiều người hiểu mình. Một số loại hình thông công xã hội nào đó dĩ nhiên sẽ xuất hiện khi anh ta lẫn vào giữa vòng những con người tôn giáo trong hoạt động thường lệ của Hội Thánh, nhưng mối thông công thuộc linh thật sự sẽ khó mà tìm được. Tuy nhiên anh không nên nghĩ mọi thứ theo hướng trái ngược. Sau hết, anh là một người lạ và là một kẻ hành hương; cuộc hành trình anh đang đi không phải trên đôi bàn chân mà là trong tấm

Page 129: Tong hop

lòng. Anh đồng đi với Ðức Chúa Trời trong khu vườn của chính linh hồn mình - và có ai ngoại trừ Ðức Chúa Trời có thể bước đi với anh ở đó? Anh thuộc về một tâm linh khác tách khỏi đám đông đang bước đến chỗ tòa án của nhà Ðức Chúa Trời. Anh đã thấy điều mà họ chỉ được nghe, và anh bước giữa vòng họ bằng cách nào đó giống như Xa-cha-ri rời khỏi bàn thờ và ra ngoài, lúc đó mọi người thì thầm, "Ông đã thấy một khải tượng."Con người thuộc linh thật thực sự là một cái gì đó thuộc về sự khác thường. Anh ta sống không phải cho chính mình, nhưng để khuyên giục sự chú ý đến một Ðấng Khác. Anh tìm cách thuyết phục mọi người trao phó mọi sự cho Chúa của mình và không đòi hỏi một phần chia nào cho chính mình. Anh vui thích không phải khi mình được tôn trọng, nhưng khi thấy Cứu Chúa của mình được vinh hiển trong con mắt của loài người. Niềm vui của anh là được thấy Chúa của mình được tôn cao và chính bản thân anh ta bị hạ xuống. Anh tìm thấy một số ít người quan tâm và nói với họ về mục đích tối thượng của sự quan tâm của anh, vì thế anh thường im lặng và lo lắng giữa những cuộc nói chuyện tôn giáo ồn ào. Vì điều này, anh nổi tiếng là ngu đần và quá nghiêm túc, vì thế anh bị xa lánh và vực sâu giữa anh và xã hội ngày càng rộng ra. Anh tìm kiếm những người bạn mà từ áo xống anh có thể ngửi được mùi một dược, trầm hương, nhục quế bên ngoài những cung điện bằng ngà, và chỉ tìm được một ít người, hoặc không có một người nào, anh ta, giống như Ma-ri, mẹ Chúa Jêsus của thời xưa, gìn giữ những thứ đó trong lòng mình.

Chính sự rất cô đơn này đã kéo anh trở lại với Ðức Chúa Trời. "Khi cha mẹ bỏ tôi đi, thì Ðức Giê-hô-va sẽ tiếp nhận tôi" (Thi thiên 27:10). Sự bất khả của anh trong việc tìm kiếm sự thông công với con người đã lôi kéo anh đến chỗ tìm kiếm trong Ðức Chúa Trời những điều mà anh không thể tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác. Anh học biết trong sự cô đơn bên trong những gì anh không thể học được nơi đám đông - tức là Ðấng Christ là Mọi sự trong Mọi sự, rằng chính Ngài làm nên sự khôn ngoan, sự công chính, sự thánh khiết và sự cứu chuộc trong chúng ta, rằng trong Ngài chúng ta có và sở hữu sự sung mãn của sự sống đắc thắng.

Còn hai điều để nói đến. Thứ nhất, con người cô đơn chúng ta nói đến không phải là một con người kiêu căng, cũng không phải là người-thánh-khiết-hơn-bạn, một thánh nhân khổ hạnh bị chế nhạo cách cay đắng trong văn chương phổ thông. Anh có khuynh hướng cảm thấy rằng mình là bậc thấp kém nhất so với tất cả mọi người khác và chắc

Page 130: Tong hop

chắn là tự khiển trách vì sự cô độc của mình. Anh muốn chia sẻ những cảm xúc của mình với người khác và mở lòng mình ra với những linh hồn có cùng một tâm trí giống như mình, người sẽ hiểu anh ta, nhưng hoàn cảnh thuộc linh quanh anh không khích lệ anh làm điều đó, vì thế anh vẫn im lặng và chỉ nói những nỗi thống khổ của mình với Chúa mà thôi.

Ðiều thứ hai, vị thánh cô đơn không phải là một con người lãnh đạm, làm cứng lòng mình, chống lại những đau khổ của con người và sống những ngày của mình trầm ngâm suy tưởng về các tầng trời. Sự thật hoàn toàn ngược lại. Sự cô đơn của anh khiến anh thông cảm với sự kêu cứu của một tấm lòng tan vỡ, sa ngã và thâm tím vì tội lỗi. Vì anh tách biệt khỏi thế gian, anh là người có nhiều khả năng giúp đỡ nó hơn. Meister Eckhart dạy những học trò của mình rằng nếu trong sự cầu nguyện của họ mà họ cảm thấy như được đưa lên đến tầng trời thứ ba và tình cờ nhớ lại một góa phụ nghèo cần thức ăn, thì họ nên ngắt ngang lời cầu nguyện ngay lập tức và đi đến chăm sóc góa phụ đó. "Ðức Chúa Trời sẽ không để các bạn mất bất cứ gì vì điều đó," ông nói, "Bạn có thể tiếp tục cầu nguyện trong chỗ mà bạn đã dừng lại và Ðức Chúa Trời sẽ tiếp tục vận hành tùy theo bạn." Ðây là một kiểu mẫu của những người thần bí và giáo sư vĩ đại của đời sống thuộc linh từ thời Phao-lô cho đến ngày nay.

Sự yếu đuối của quá nhiều Cơ Ðốc nhân ngày nay là ở chỗ họ cảm thấy quá quen thuộc như ở nhà ngay trong thế gian này. Trong nỗ lực của họ để đạt được sự "hòa giải" yên tĩnh với xã hội không tái sanh, họ đã đánh mất đặc tính người khách lữ hành của mình và trở nên một phần cần thiết của cái trật tự đạo đức mà họ vốn đã được sai đi để chống lại. Thế gian nhìn nhận và chấp nhận họ như là cái mà họ biểu hiện như vậy. Và đây là điều đáng buồn nhất có thể nói về họ: Họ không cô đơn, nhưng họ cũng không phải là những thánh nhân!

Thập Giá Là Một Điều Cơ Bản

Thập giá của Ðấng Christ là điều mang tính cách mạng nhất từng xuất hiện giữa vòng loài người.Thập giá của thời La Mã xa xưa không biết đến sự thỏa hiệp nào; nó chưa bao giờ nhượng bộ ai. Nó được biết đến bởi khả năng giết chết kẻ thù mình và khiến anh ta câm lặng mãi mãi. Nó không tha cho Ðấng Christ, mà còn giết chết Ngài như bao người khác. Ngài còn sống lúc họ

Page 131: Tong hop

treo Ngài lên trên thập giá, và hoàn toàn đã chết lúc họ đưa Ngài xuống sáu giờ sau đó. Ðó là cái thập giá đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Cơ Ðốc.

Sau khi Ðấng Christ sống lại từ cõi chết, các sứ đồ đi ra và rao giảng sứ điệp của Ngài, và điều mà họ rao giảng là thập giá. Bất cứ nơi nào họ đi ra trên thế giới rộng lớn này, họ mang theo thập giá, và cùng một quyền năng mang tính cách mạng đó (quyền năng phục sinh Ðấng Christ - ND) đi với họ. Sứ điệp cơ bản của thập giá đã biến đổi Sau-lơ ở Tạt-sơ, và biến ông từ một con người dữ tợn, chuyên bắt bớ Cơ Ðốc nhân trở thành một tín hữu mềm mại và một sứ đồ của đức tin. Quyền năng của thập giá biến đổi người xấu thành người tốt. Quyền năng đó tháo gỡ mọi sự trói buộc của ngoại giáo và thay đổi hoàn toàn cái nhìn của thế giới phương Tây về đạo đức và tinh thần. Thập giá đã làm tất cả những điều này và sẽ tiếp tục làm cho đến chừng nào nó vẫn còn được xem là thập giá theo ý nghĩa ban đầu của mình. Sức mạnh của nó mất đi khi nó bị biến đổi từ một vật của sự chết sang một vật của cái đẹp. Khi con người biến nó thành biểu tượng, đeo nó quanh cổ họ như một món đồ trang sức hay đưa nó ra trước mặt họ như là một thứ bùa chú giúp tránh khỏi ma quỷ; rồi thì nó trở thành một biểu tượng yếu ớt xét ở mức độ tốt nhất, và ở mức độ tệ nhất thì nó rõ ràng là một vật thờ cúng. Như thế, ngày nay thập giá được tôn sùng bởi hàng triệu người hoàn toàn không biết tí gì về quyền năng của nó.

Thập giá hoàn tất mục đích của nó bằng cách hủy diệt mẫu hình đã có sẵn, của nạn nhân, và tạo nên một mẫu hình khác, của chính nó. Vì thế nó luôn có phương cách của mình. Nó thắng bằng cách đánh bại đối thủ và áp đặt ý muốn mình lên anh ta. Nó luôn luôn chiếm ưu thế. Nó không bao giờ thỏa hiệp, không bao giờ đổi chác, hay hội ý, không bao giờ đầu hàng một điểm nào vì lợi ích của hòa bình. Nó không quan tâm đến hòa bình; nó chỉ quan tâm đến việc kết thúc kẻ thù mình nhanh hết mức có thể.

Vì biết rất rõ mọi điều này, Ðấng Christ đã phán, "Nếu ai muốn theo ta, thì phải liều mình, vác thập tự giá mình mà theo ta." Vì thế, thập giá không chỉ đưa sự sống Ðấng Christ trên trần gian này đến chỗ kết thúc, nó cũng chấm dứt đời sống đầu tiên, đời sống cũ, của mỗi người là người thực sự theo Ngài. Nó tiêu diệt mẫu hình cũ, mẫu hình A-đam, trong đời sống người tin, và chấm dứt nó. Rồi thì Ðức Chúa Trời, Ðấng đã khiến Ðấng Christ từ kẻ chết sống lại, làm cho người tin sống lại và đời sống mới bắt đầu.

Page 132: Tong hop

Ðiều này hoàn toàn là Cơ Ðốc giáo thật, dầu chúng ta không thể nhận ra sự bất đồng tinh vi của quan niệm này với quan niệm của những người Tin Lành ngày nay. Nhưng chúng ta không dám đề cao vị trí của mình. Thập giá vượt quá mọi sự đánh giá của con người và đối với thập giá đó, mọi tư tưởng cuối cùng phải chịu sự đoán xét. Sự lãnh đạo nông cạn và thế tục sẽ sửa đổi thập giá để làm vừa lòng hậu duệ của các thánh nhân, những con người tiêu khiển trong cuồng dại, những người sẵn sàng bày trò vui của họ ngay cả trong nơi rất thánh; nhưng làm như thế tức là chuốc lấy thảm họa thuộc linh và liều lĩnh trước cơn thịnh nộ của Chiên Con biến thành Sư Tử.

Chúng ta phải làm một điều gì đó về thập giá, và chúng ta chỉ có thể làm một trong hai điều mà thôi - chạy trốn nó hay chết trên nó. Và nếu chúng ta dại dột chạy trốn nó, bởi hành động đó, chúng ta sẽ quăng xa mọi niềm tin của cha ông và biến Cơ Ðốc giáo thành một thứ gì đó khác hơn bản chất thực của nó. Rồi thì chúng ta sẽ chỉ còn lại một ngôn ngữ sáo rỗng về sự cứu rỗi; quyền năng sẽ lìa bỏ cùng với sự lìa bỏ thập giá thật của chúng ta.

Nếu chúng ta khôn ngoan, chúng ta sẽ làm điều mà Ðức Chúa Jêsus đã làm: Vác thập giá và xem thường sự xấu hổ của nó vì niềm vui đang được đặt ở phía trước chúng ta. Làm việc này tức là trao phó trọn vẹn kiểu đời sống cũ cho thập giá để bị tiêu hủy đi và xây dựng lại đời sống mới trong quyền năng của sự sống đời đời. Và chúng ta sẽ thấy rằng điều đó còn tuyệt vời hơn cả thơ ca, hơn cả những bài thánh thi ngọt ngào và cảm xúc hân hoan. Thập giá sẽ cắt sâu vào đời sống chúng ta, nơi nó gây đau đớn nhiều nhất, nó không dung tha chúng ta cũng như những danh tiếng tốt mà chúng ta đã cẩn thận gây dựng. Nó sẽ đánh bại chúng ta và chấm dứt đời sống ích kỷ của chúng ta. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể sống lại trong sự đầy trọn của sự sống để hình thành một mẫu hình sống hoàn toàn mới và tự do, tràn đầy những công việc tốt lành.Thái độ sai lạc về thập giá mà chúng ta thấy trong giới chính thống hiện đại không chứng minh rằng Ðức Chúa Trời đã thay đổi, hay Ðấng Christ đã giảm nhẹ đòi hỏi của Ngài về việc chúng ta phải vác thập giá mình; nó có nghĩa là Cơ Ðốc giáo ngày nay đã đi khỏi những tiêu chuẩn của Thánh Kinh Tân Ước. Cho đến nay, quả thật chúng ta đã đi xa, xa đến độ không có gì khác ngoài một cuộc tân cải chánh mới có thể khôi phục và trả thập giá về đúng vị trí của nó trong thần học cũng như trong sự

Page 133: Tong hop

sống của Hội Thánh.

Thập Giá Cũ Và Mới

Mọi người đều không được báo trước và hầu hết là không nhận biết rằng trong thời đại ngày nay đã có một thập giá mới xuất hiện trong vòng các Hội Thánh Tin Lành phổ thông. Nó giống như thập giá cũ, nhưng khác hơn: những điểm giống nhau nằm ở bên ngoài; những cái khác nhau nằm trong bản chất.

Thập giá mới này đã cho ra một triết lý mới của đời sống Cơ Ðốc nhân, và từ triết lý mới đó lại xuất hiện một loại Phúc Âm mới - một loại nhóm họp mới và một loại rao giảng mới. Sự truyền giảng Phúc Âm mới này cũng dùng một ngôn ngữ cũ, nhưng nội dung của nó không còn như cũ nữa, và điểm nhấn mạnh của nó cũng khác xưa.

Thập giá cũ không hề nhượng bộ thế gian. Ðối với xác thịt kiêu ngạo của A-đam, nó có nghĩa là điểm kết của cuộc hành trình. Nó thi hành bản án đã tuyên của bộ luật ban hành tại Si-nai. Còn thập giá mới không chống đối lại chủng tộc loài người; mà ngược lại, nó là một người bạn thân thiện và, nếu được hiểu đúng, nó là cội nguồn của vô số trò vui "sạch sẽ" cũng như những sở thích "vô tội". Nó để cho A-đam sống mà không có chút trở ngại nào. Ðộng cơ của đời sống anh ta không hề thay đổi; anh vẫn sống vì sở thích riêng của mình, chỉ có điều giờ đây anh thấy vui trong việc hợp xướng và xem những phim tôn giáo thay vì hát những bài hát xấu xa và uống nước giải khát có nồng độ cồn cao. Cái xưa kia vẫn còn được thích thú, dầu rằng trò vui ngày nay nằm trên một mức độ đạo đức cao hơn nếu không là trí thức thông minh hơn.

Thập giá mới khuyến khích một sự tiếp xúc hoàn toàn mới và khác lạ của Phúc Âm. Người Tin Lành không đòi hỏi sự từ bỏ đời sống cũ trước khi một đời sống mới có thể được nhận lãnh. Anh ta rao giảng, không phải những điều tương phản mà là những điều tương tự. Anh kiếm cách để được nhiều người yêu mến bằng việc trình bày rằng Cơ Ðốc giáo không hề có những đòi hỏi khó chịu nào; mà ngược lại, nó ủng hộ cùng một thứ mà thế gian này làm, có điều là ở một cấp độ cao hơn thôi. Ngày nay, bất cứ thứ gì thế gian điên cuồng trong tội lỗi này hò reo ầm ĩ đều được khéo léo trình bày thành cái mà Phúc Âm cống hiến, chỉ có sản

Page 134: Tong hop

phẩm tôn giáo là tốt hơn.

Thập giá mới không giết chết tội nhân, nó tái định hướng anh ta. Nó thúc đẩy anh đi vào một con đường sống sạch sẽ hơn, vui vẻ hơn và giúp cứu vãn sự tự trọng của anh. Ðối với những người tự khẳng định, nó nói, "Hãy đến và khẳng định mình cho Ðấng Christ." Ðối với những người tự cao tự đại, nó nói, "Hãy đến và khoe mình trong Chúa." Ðối với những người tìm kiếm cảm giác, nó nói, "Hãy đến và vui hưởng tình cảm thông công Cơ Ðốc." Sứ điệp Cơ Ðốc bị trình bày lệch lạc theo hướng của những điều đang thịnh hành trong hiện tại để có thể được công chúng chấp nhận.Cái triết lý đằng sau điều này có thể chân thành, nhưng sự chân thành của nó không cứu nó khỏi bị sai trật. Nó sai vì nó mù quáng. Nó đánh mất toàn bộ ý nghĩa của thập giá.

Thập giá cũ là một biểu tượng của sự chết. Nó đứng đó dành cho sự kết thúc đột ngột và đau đớn của một con người. Trong thời kỳ La Mã Ðế Quốc cai trị, con người mang thập giá mình và lê bước trên đường đã nói lời vĩnh biệt với những người bạn của mình. Anh ta không trở lại. Anh đang bước ra để chấm dứt cuộc đời. Thập giá không hề thỏa hiệp, không hề sửa đổi điều gì, không hề dung thứ điều gì; nó giết chết cả con người, hoàn toàn và dứt khoát. Nó không cố gắng để giữ những quan hệ tốt đẹp với nạn nhân mình. Nó tra tấn rất tàn khốc và đau đớn, và khi nó hoàn tất công việc mình, con người chẳng còn gì cả.

Chủng tộc A-đam đang ở dưới bản án tử hình. Không hề có sự thay thế nào và cũng chẳng có lối thoát nào. Ðức Chúa Trời không thể chấp nhận bất cứ bông trái nào của tội lỗi, bất luận chúng có vẻ vô tội ra sao hay đẹp đẽ trước mắt con người như thế nào. Chúa cứu một cá nhân bằng cách thanh toán chính anh ta và rồi khiến anh sống lại trong đời mới.

Loại truyền bá Phúc Âm nào vẽ ra những đường song song giữa phương cách của Ðức Chúa Trời và đường lối con người là điều sai trái đối với Kinh Thánh và là một mối nguy hại cho linh hồn của những người lắng nghe nó. Ðức tin của Ðấng Christ không hề song song với thế giới, nó cắt ngang. Ðến với Ðấng Christ, chúng ta không đem đời sống cũ của chúng ta lên một tầm cao hơn; chúng ta quăng bỏ nó tại thập giá. Hột giống lúa mì phải rơi vào trong đất và chết đi.

Chúng ta, những người rao giảng Phúc Âm, không được nghĩ về chính

Page 135: Tong hop

mình như là những liên lạc viên công khai được sai đi để thiết lập ý muốn tốt lành giữa Ðấng Christ và thế giới. Chúng ta không được phép tưởng rằng mình đã được ủy nhiệm để làm cho Ðấng Christ có thể chấp nhận được đối với công việc làm ăn lớn, báo chí, thế giới thể thao hay nền giáo dục hiện đại. Chúng ta không phải là những nhà ngoại giao bèn là những tiên tri; và sứ điệp của chúng ta không phải là một sự thỏa hiệp, bèn là một tối hậu thư.

Ðức Chúa Trời ban sự sống, nhưng không phải là một sự sống cũ được cải thiện. Sự sống Ngài ban là một sự sống mới ra khỏi từ cái chết. Nó luôn đứng phía bên kia thập giá. Bất kỳ ai có nó phải trải qua ngọn roi. Anh ta phải từ bỏ chính mình và phải chịu bản án công bình của Ðức Chúa Trời chống lại anh.Ðiều này có ý nghĩa gì đối với mỗi cá nhân, là người được cứu muốn tìm thấy sự sống trong Ðức Chúa Jêsus? Làm thế nào chân lý thần học này có thể được biến thành sự sống? Chỉ đơn giản thôi, anh ta phải ăn năn và tin. Anh ta phải từ bỏ tội lỗi mình và rồi tiến đến từ bỏ chính mình. Anh ta không che đậy gì cả, không phòng giữ, và cũng không bào chữa gì cả. Anh cũng không thỏa thuận với Ðức Chúa Trời, nhưng cúi đầu xuống trước ngọn roi của Ngài và nhìn biết rằng mình đáng ra phải chết.

Làm xong điều này, hãy để anh nhìn lên với một niềm tin đơn sơ nơi Cứu Chúa đã sống lại, và từ nơi Ngài sẽ tuôn tràn ra sự sống, sự tái sanh, sự tẩy sạch và quyền năng. Thập giá chấm dứt đời sống trần tục của Ðức Chúa Jêsus bây giờ lại đặt dấu chấm hết cho tội nhân; và quyền năng đã khiến Ðấng Christ sống lại từ kẻ chết bây giờ lại vực anh dậy trong một đời sống mới đồng hành với Ðấng Christ.

Với những ai phản đối điều này, hay chỉ xem nó là một quan điểm hẹp hòi, cá nhân về lẽ thật, hãy để tôi nói rằng Ðức Chúa Trời đã đóng dấu ấn chấp thuận của Ngài lên sứ điệp này kể từ thời đại của Phao-lô cho đến tận ngày nay. Bất chấp có được thể hiện chính xác trong những lời này hay không, điều đó vẫn là nội dung của mọi sự rao giảng đã đưa đến sự sống và sức mạnh cho thế giới trong nhiều thế kỷ. Những người thần bí, những người cải chánh, những người phấn hưng đã đặt để sự nhấn mạnh của họ ở đây, và những dấu hiệu, những kỳ quan cũng như sự vận hành quyền năng của Thánh Linh chính là bằng chứng cho sự chấp thuận của Ðức Chúa Trời.

Liệu chúng ta, những người thừa kế của một gia sản đầy quyền năng,

Page 136: Tong hop

có dám giả mạo lẽ thật đó không? Liệu chúng ta có dám dùng những cục gôm bút chì nhỏ bé mà xóa đi những dòng chữ của bản thiết kế hay thay đổi các kiểu mẫu được bày ra cho chúng ta trên Núi (trong Bài Giảng Trên Núi)? Ðức Chúa Trời ngăn cấm điều đó. Chúng ta hãy rao giảng thập giá cũ và chúng ta sẽ được biết quyền năng của ngày xưa.

Thế Giới Ngày Nay Là Sân Chơi Hay Chiến Trường?

Vật chất dành cho chúng ta, không chỉ chúng là gì; chúng là gì tùy thuộc vào cái mà chúng ta muốn chúng trở thành. Điều này có ý nói rằng thái độ của chúng ta đối với vật chất, cũng giống như trong một cuộc chạy đường dài, quan trọng hơn chính bản thân vật chất. Đây là một đồng tiền phổ biến của tri thức, giống như một đồng xu cổ, bị mòn lẵng vì sử dụng. Nhưng nó chứa đựng bên trên mình một dấu ấn của sự thật và không được từ bỏ nó đi chỉ vì nó rất quen thuộc.

Thật lạ một điều là làm thế nào một thực tế vẫn còn thích hợp, trong khi cách lý giải của chúng ta về nó đã thay đổi theo các thế hệ và năm tháng!Một sự thật đại loại như vậy là thế giới mà chúng ta đang sống. Nó ở đây, và vẫn ở đây hàng thế kỷ rồi. Nó là một thực tế vững bền, hoàn toàn không thay đổi theo dòng chảy của thời gian, nhưng quan điểm của con người hiện đại về nó thật khác xa với cái của người xưa. Ở đây chúng ta thấy rõ sức mạnh của cách giải thích này. Thế giới là dành cho tất cả chúng ta, không chỉ nó là gì; mà nó là những gì chúng ta tin nó là như vậy. Và sự đau khổ cực độ hay niềm vui khôn tả sẽ đến tùy vào sự đúng đắn trong cách lý giải của chúng ta.Lùi trở lại một chút, những thời điểm hình thành và phát triển ban sơ của đất nước chúng ta (Mỹ - ND), chúng ta sẽ thấy một vực sâu rộng lớn giữa các quan điểm hiện đại của chúng ta và các quan điểm của ông cha ta thời đó.

Trong những ngày đầu tiên, khi Cơ Đốc giáo dùng ảnh hưởng lớn chi phối tư tưởng của nước Mỹ, con người ta suy nghĩ thế giới là một bãi chiến trường. Các cha ông chúng ta tin rằng tội lỗi, điều ác và địa ngục là cùng một thế lực; và họ tin rằng Đức Chúa Trời, sự công bình và thiên đàng là một sức mạnh khác. Hai thế lực này đối chọi với nhau trong bản chất đời đời của chúng, trong sự căm ghét sâu sắc, tối nghiêm trọng, và không thể hòa giải được. Con người, các ông cha ta cũng thế, phải lựa chọn một trong hai bên; anh ta không thể đứng

Page 137: Tong hop

giữa. Đối với anh ta, hoặc là sống hoặc chết, thiên đàng hay địa ngục, và nếu anh ta đã chọn để bước về phía Đức Chúa Trời, anh phải sẵn sàng cho cuộc chiến với những kẻ thù của Đức Chúa Trời. Trận chiến là thật và đầy chết chóc, nó sẽ tiếp tục kéo dài chừng nào sự sống còn tiếp tục trên cõi trần gian này. Con người nhìn về thiên đàng như là quê hương để trở về từ chiến trận, một nơi để bỏ gươm xuống mà vui mừng trong sự hòa bình, sự bình an trong căn nhà đã được sắm sẵn cho họ.

Các bài giảng và bài hát ngày nay thường có mùi chiến trận, hay có lẽ một dấu vết nào đó của sự nhớ nhà. Quân lính Cơ Đốc nghĩ về gia đình mình, sự yên nghỉ và sự sum họp, rồi giọng anh ta có vẻ buồn rầu khi hát về việc chiến trận kết thúc và thắng lợi đến. Nhưng cho dù anh ta bị đưa ra trước họng súng quân thù, hay đang mơ mộng về sự chấm dứt chiến tranh và sự chào đón của Cha mình ở nhà, anh chẳng bao giờ quên thế giới mà anh đang sống thuộc loại gì. Đó là một chiến trường, nhiều người đã bị thương và ngã chết.Quan điểm đó về vật chất, không nghi ngờ gì nữa, chính là quan điểm của Thánh Kinh. Kể cả những hình ảnh tượng trưng và các phép ẩn dụ mà Kinh Thánh có rất nhiều, những thế lực thuộc linh to lớn thực sự tồn tại trên thế giới, và con người, vì bản chất thuộc linh của mình, đang nằm ở giữa là một giáo lý Thánh Kinh vững chắc. Các thế lực của điều ác có khuynh hướng hủy diệt anh ta, trong khi Đấng Christ hiện hữu để cứu anh ta qua quyền năng của Phúc Âm. Để có được sự giải cứu, anh ta phải đứng về phía Đức Chúa Trời trong đức tin và sự vâng lời. Nói một cách ngắn gọn là những gì cha ông chúng ta nghĩ; và những gì chúng ta tin thực sự là những điều Kinh Thánh dạy.

Ngày nay thì khác biệt làm sao: thực tế vẫn còn đó, nhưng cách hiểu về nó đã hoàn toàn thay đổi. Suy nghĩ của con người về thế giới không còn là một bãi chiến trường nữa, mà là một sân chơi. Chúng ta có ở đây không phải là để chiến đấu, mà là để vui chơi. Chúng ta không ở trên đất ngoại quốc, chúng ta đang ở trên quê hương mình. Không phải là chúng ta đang sửa soạn để sống, chúng ta đã đang sống, và điều tốt nhất chúng ta có thể làm là giải thoát chính mình khỏi những hạn chế, những thất vọng và sống cuộc đời này cho được đầy đủ. Chúng ta tin điều này là một lời tóm tắt ngắn gọn của triết lý tôn giáo của con người hiện đại, được tuyên bố rộng rãi bởi hàng triệu con người và còn được hàng ngàn triệu người khác âm thầm nắm bắt, những con người sống theo cái triết lý đó mà không có một lời nào đả động đến nó. Thái độ hướng về

Page 138: Tong hop

thế giới này, khi bị thay đổi, đã và đang ảnh hưởng đến các Cơ Đốc nhân, ngay cả những Cơ Đốc nhân Tin Lành tuyên xưng đức tin của mình nơi Kinh Thánh. Bởi trò lừa bịp tỉ mỉ của các con số, họ cộng sai cả cột mà lại tuyên bố rằng mình có câu trả lời đúng. Nghe thì có vẻ quái dị, nhưng là thật đấy!

Ý tưởng cho rằng thế giới này là một sân chơi thay vì một chiến trường bây giờ đã được chấp nhận trên thực tế bởi một số lượng rất lớn các Cơ Đốc nhân Tin Lành. Họ có thể đã lẩn tránh khi bị đề nghị khẳng định vị trí của mình, nhưng hành vi của họ nói lên tất cả. Họ đang đối diện với cả hai con đường, yêu thích Đấng Christ và cũng ham muốn thế gian nữa, họ hân hoan nói với mọi người rằng tiếp nhận Đức Chúa Jêsus không đòi hỏi họ phải từ bỏ thú vui của mình, và vì thế Cơ Đốc giáo chỉ là điều vui vẻ nhất có thể tưởng tượng ra được. Sự “thờ phượng” xuất phát từ một quan niệm về cuộc sống như vậy đã đi xa khỏi trung tâm như chính bản thân quan niệm đó, một loại hộp đêm được “biệt riêng” mà không có rượu champagne và không có những kẻ say khướt ăn mặc bảnh bao. Tất cả điều này đã trở nên hết sức nghiêm trọng đến độ nó trở thành một nhiệm vụ bắt buộc của mỗi Cơ Đốc nhân, phải kiểm định lại triết lý thuộc linh của mình dưới ánh sáng của Thánh Kinh, và khám phá ra đường lối của Kinh Thánh để bước theo đó, cho dù khi làm như vậy, anh ta phải tách mình ra khỏi nhiều điều mà trước đây anh chấp nhận là đúng; song bây giờ, trong ánh sáng của lẽ thật, anh đã biết là nó sai.

Một quan điểm đúng đắn về Đức Chúa Trời và thế giới tương lai đòi hỏi chúng ta cũng phải có một quan điểm đúng đắn về thế giới mà chúng ta đang sống cùng với mối quan hệ của chúng ta đối với nó. Rất nhiều điều lệ thuộc vào điều này, do đó chúng ta không thể bất cẩn với nó được.

Thế Giới Của Kinh Thánh Và Thế Giới Thực

Khi đọc Kinh Thánh, một người nhạy cảm chắc chắn sẽ cảm nhận được sự khác biệt đáng kể giữa thế giới mà Kinh Thánh bày tỏ và thế giới được những con người có tôn giáo ngày nay nhận thức. Và sự tương phản không ở trong sự tán thành của chúng ta.

Page 139: Tong hop

Thế giới mà những người nam và người nữ của Kinh Thánh đã thấy là một thế giới riêng tư, ấm cúng, thân mật, đông đúc. Thế giới của họ bao gồm trước hết là Ðức Chúa Trời, Ðấng đã dựng nên nó, Ðấng vẫn ngự ở đó như trong một nơi thánh và Ðấng có thể được nhìn thấy đang bước đi bên dưới những tàng cây trong vườn, nếu cặp mắt của con người đủ sáng để thấy. Và ở đó cũng có nhiều người khác được Ðức Chúa Trời sai đến làm những mục sư của họ, những người thừa kế cơ nghiệp cứu rỗi. Họ cũng nhận thấy sự hiện diện của những lực lượng độc ác mà nhiệm vụ của họ là chống lại chúng, đó là những thế lực mà họ có thể dễ dàng chiến thắng bằng sự cầu khẩn Ðức Chúa Trời trong lời cầu nguyện.

Cơ Ðốc nhân ngày nay nghĩ về thế giới trong những khái niệm hoàn toàn khác. Khoa học, vốn đã đem lại cho chúng ta nhiều lợi ích, cũng đã đem đến cho chúng ta một thế giới hoàn toàn khác với cái mà chúng ta thấy trong Kinh Thánh. Thế giới ngày nay bao gồm những không gian rộng lớn và vô giới hạn, giữa ở đây và ở đó là một khoảng cách khổng lồ, những hình hài mù quáng và vô nghĩa bị điều khiển bởi những định luật tự nhiên mà chúng không bao giờ có thể thoát ra được. Thế giới đó là một thế giới lạnh giá, phi nhân tính và hoàn toàn không có những cư dân nào khác ngoại trừ con người, một động vật phù du run rẩy vốn bám chặt vào đất khi anh ta đi "vòng quanh trong vòng quay của quả đất với những ngọn núi, những hòn đá và các rặng cây."Thế giới mà những con người của Thánh Kinh nhìn biết thật vinh hiển làm sao! Gia-cốp thấy một cái thang từ dưới đất lên trời, có Ðức Chúa Trời đứng ở đầu phía trên và những thiên sứ đi lên đi xuống trên thang đó. Áp-ra-ham, Ba-la-am và Ma-nô-a cùng với biết bao nhiêu người khác đã gặp các thiên sứ của Ðức Chúa Trời và nói chuyện với họ. Môi-se gặp gỡ Ðức Chúa Trời trong bụi gai đang cháy; Ê-sai thấy Chúa ngồi trên ngôi cao sang và nghe hát tiếng ngợi khen đầy dẫy đền thờ.

Ê-xê-chi-ên thấy một đám mây lớn và lửa bao bọc chung quanh, từ giữa đám mây ông thấy giống như bốn sinh vật bước ra. Các thiên sứ đã đến để loan báo sự giáng sinh sẽ xảy ra của Ðức Chúa Jêsus và để chúc mừng sự giáng sinh đó khi nó xảy ra tại Bết-lê-hem; thiên sứ đã thêm sức cho Chúa chúng ta khi Ngài cầu nguyện tại vườn Ghết-sê-ma-nê; các thiên sứ được đề cập đến trong một số thư tín được hà hơi, và sách Khải huyền sáng chói với sự hiện diện của những tạo vật kỳ lạ và đẹp đẽ thực thi những công việc của trần gian và thiên đàng.Phải, thế giới thật là một thế giới đông đảo. Những con mắt mù quáng

Page 140: Tong hop

của các Cơ Ðốc nhân ngày nay không thể thấy được cõi vô hình nhưng điều đó không phá hủy sự thực hữu của một công trình sáng tạo thuộc linh. Sự vô tín đã cướp khỏi chúng ta niềm vui của một thế giới riêng tư. Chúng ta đã thừa nhận một thế giới trống rỗng và vô nghĩa của khoa học như là một thế giới thực, mà quên rằng khoa học chỉ đúng khi đề cập đến những gì thuộc về vật chất và nó không thể biết tí gì về Ðức Chúa Trời cũng như thế giới thuộc linh.

Chúng ta phải có đức tin; và chúng ta đừng biện giải, vì đức tin là một bộ phận của tri thức và nó có thể nói với chúng ta về sự thực hữu cơ bản nhiều hơn mọi khám phá khoa học. Chúng ta không chống lại khoa học, nhưng chúng ta nhận biết những giới hạn quá rõ ràng của nó, và từ chối dừng lại tại chỗ nó bị buộc phải dừng lại. Kinh Thánh nói cho chúng ta biết về một thế giới khác, quá tinh tế, mà những công cụ của nghiên cứu khoa học không thể khám phá được. Bởi đức tin chúng ta công nhận thế giới đó và biến nó trở nên của mình. Chúng ta có thể đến gần nó, và bước vào nhờ huyết của giao ước đời đời. Nếu chúng ta sẵn lòng tin, chúng ta sẽ có thể vui hưởng sự hiện diện của Ðức Chúa Trời và công việc của những sứ giả thiên thượng Ngài sai phái đến ngay bây giờ. Chỉ có sự vô tín mới có thể cướp mất của chúng ta đặc quyền vương giả này.

Thờ Phượng

Tại sao Ðấng Christ đã đến? Tại sao Ngài được thọ thai? Tại sao Ngài được sinh ra? Tại sao Ngài bị đóng đinh? Tại sao Ngài sống lại? Tại sao hiện nay Ngài lại ở bên hữu Ðức Chúa Cha?

Câu trả lời cho mọi câu hỏi trên là, "Ðể Ngài có thể đưa những người thờ phượng ra khỏi những người nổi loạn; để Ngài có thể khôi phục lại cho chúng ta địa vị thờ phượng chúng ta vốn đã biết ngay từ khi được tạo dựng."

Vì chúng ta được tạo dựng để thờ phượng, sự thờ phượng là một công việc bình thường của các hữu thể đạo đức. Nó là một công việc bình thường, không phải là một cái gì đó rất được yêu thích hay được cộng thêm vào, giống như lắng nghe một buổi hòa nhạc hay thưởng thức những bông hoa. Nó là một cái gì đó được tạo dựng gắn liền với bản chất con người. Mỗi cái nhìn thoáng lên thiên đàng đều cho thấy hình

Page 141: Tong hop

ảnh các tạo vật đang thờ phượng; trong Ê-xê-chi-ên 1:1-5, các tạo vật ra từ đám lửa đang thờ phượng Ðức Chúa Trời; trong Ê-sai 6:1-6, chúng ta thấy Ðức Chúa Trời trên ngôi cao sang và nghe các tạo vật nói, "Thánh thay, thánh thay, thánh thay là Ðức Giê-hô-va Vạn Quân"; trong Khải huyền 4:8-11, Ðức Chúa Trời mở thiên đàng ra và chúng ta thấy họ đang ở đó thờ phượng Ðức Chúa Cha; và trong đoạn 5 từ câu 6 đến câu 14, chúng ta thấy họ thờ phượng Ðức Chúa Con.

Thờ phượng là một mệnh lệnh đạo đức. Trong Lu-ca 19:37-40, cả đám đông các môn đồ đang thờ phượng Chúa khi Ngài đến và một vài người đã quở trách họ. Chúa phán, "Ta phán cùng các ngươi, nếu họ nín lặng thì đá sẽ kêu lên."

Bây giờ, sự thờ phượng là viên ngọc quý đang bị đánh mất trong giới Tin Lành hiện đại. Chúng ta được tổ chức; chúng ta làm việc; chúng ta có nhật ký công tác. Chúng ta có hầu như mọi thứ, nhưng có một điều mà các Hội Thánh, ngay cả các Hội Thánh Tin Lành, không có: Ðó là năng lực thờ phượng. Không phải chúng ta đang vun trồng nghệ thuật thờ phượng. Nó là một viên đá quý sáng chói đã bị các Hội Thánh ngày nay đánh mất, và tôi tin rằng chúng ta phải tìm, cho đến khi gặp lại nó.Tôi nghĩ rằng tôi phải nói thêm một chút về việc thờ phượng là gì và nó phải như thế nào nếu được thực hiện trong Hội Thánh. Ðó là một thái độ, một trạng thái tâm trí, một hành động được chấp nhận (duy trì), hướng về những mức độ của sự toàn hảo và xúc cảm mãnh liệt. Chẳng bao lâu Ngài ban Thánh Linh của Con Ngài vào lòng chúng ta, chúng ta nói "A-ba, Cha" và chúng ta đang thờ phượng. Ðó là một việc. Nhưng trở thành những người thờ phượng theo đúng ý nghĩa của Thánh Kinh Tân Ước là một việc hoàn toàn khác.

Bây giờ tôi nói rằng thờ phượng hướng đến những mức độ của sự toàn hảo và xúc cảm mãnh liệt. Ðã có những người thờ phượng Ðức Chúa Trời đến độ họ đã ở trong trạng thái ngây ngất của sự thờ phượng. Có một lần tôi thấy một người đàn ông quỳ gối tại bàn tiệc thánh, và đang dự thánh lễ này. Thình lình ông bật lên những tiếng cười thánh. Người đàn ông này cười cho đến khi ông ôm tay quanh mình giống như là ông sợ rằng mình sẽ nổ tung trong sự vui sướng trong sự hiện diện của Ðức Chúa Trời quyền năng. Có ít lần tôi đã thấy những người khác sung sướng vô ngần trong trạng thái ngây ngất của sự thờ phượng, nơi họ được mang đi khỏi cùng với sự thờ phượng, và tôi cũng đã nghe một số những tân tín hữu thật thà thưa rằng "A-ba, Cha". Vì thế, sự thờ phượng có thể

Page 142: Tong hop

đi từ chỗ rất đơn giản đến chỗ mãnh liệt và tuyệt vời nhất.

Thế thì những nhân tố bạn có thể tìm thấy trong sự thờ phượng là gì? Tôi sẽ liệt kê cho bạn một số. Trước hết là lòng tin vững vàng. Bạn không thể thờ phượng một Ðấng mà bạn không tin. Ðức tin rất cần thiết cho sự tôn kính, và sự tôn kính lại rất cần thiết cho sự thờ phượng. Sự thờ phượng lên cao hay xuống thấp trong bất kỳ Hội Thánh nào hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ chúng ta hướng về Ðức Chúa Trời, liệu chúng ta thấy Ðức Chúa Trời là lớn lao, hay thấy Ngài là nhỏ bé. Hầu hết trong chúng ta thấy Ðức Chúa Trời quá nhỏ bé; Chúa chúng ta quá nhỏ. Ða-vít nói, "Hãy cùng tôi tôn trọng Ðức Giê-hô-va" (Thi thiên 34:3), và "tôn trọng" không có nghĩa là làm cho Ðức Chúa Trời lớn. Bạn không thể làm cho Ðức Chúa Trời trở nên to lớn, nhưng bạn có thể thấy Ngài to lớn.

Tôi đã nói sự thờ phượng lên cao hoặc xuống thấp cùng với quan niệm của chúng ta về Ðức Chúa Trời; đó là lý do tại sao tôi không tin vào những tay cao bồi cải đạo nửa vời, những người gọi Ðức Chúa Trời là "Người ở tầng trên" (Man Upstairs). Tôi nghĩ họ chẳng thờ phượng gì cả vì quan niệm của họ về Ðức Chúa Trời chẳng có giá trị gì đối với Ngài và cũng chẳng có giá trị gì đối với họ. Và nếu có một bệnh tật kinh khủng nào trong Hội Thánh của Ðấng Christ, thì nó chính là việc chúng ta không thấy Ðức Chúa Trời vĩ đại như đích thực Ngài là như vậy. Chúng ta quá quen thuộc với Ðức Chúa Trời.Mối tương giao với Ðức Chúa Trời là một việc; sự quen thuộc với Ngài là một việc hoàn toàn khác. Tôi không thích ngay cả việc gọi Ðức Chúa Trời là "Bạn" (You) - điều này có thể làm cho một số người phiền lòng, nhưng rồi sẽ qua đi. "Bạn" là một từ thông tục. Tôi gọi một con người là "bạn", nhưng tôi phải gọi Ðức Chúa Trời là "Ngài" (Thou và Thee) ( ). Tôi biết rằng đây là những từ cổ từ thời Elizabeth xa xưa, nhưng tôi cũng biết rằng có một cái gì đó rất quý giá toát lên từ những con chữ đó và tôi nghĩ rằng khi chúng ta nói về Ðức Chúa Trời, chúng ta phải dùng những đại từ thuần khiết, trang trọng.

Tôi cũng nghĩ rằng chúng ta không được nói nhiều về Chúa Jêsus chỉ với tên Ngài là Jêsus mà thôi. Tôi nghĩ chúng ta phải nhớ Ngài là ai. "Ngài là Chúa của con, hãy tôn kính Ngài" (Thi thiên 45:11). Và dù Ngài đã xuống đến nơi thấp nhất vì nhu cầu của chúng ta, khiến chính mình Ngài trở nên gần gũi với chúng ta hơn, như người mẹ và đứa con, thì cũng đừng quên rằng khi Giăng thấy Ngài - chính ông Giăng đã từng nằm trên ngực Ngài - đã ngã xuống chân Ngài như chết.

Page 143: Tong hop

Tôi đã nghe đủ loại người thuyết giáo. Tôi đã nghe những kẻ khoe khoang ngu dốt; tôi đã nghe những con người buồn tẻ, khô khan; tôi đã nghe những người có tài hùng biện; nhưng những người giúp tôi nhiều nhất là những người kính sợ trong sự hiện diện của Ðức Chúa Trời, Ðấng mà họ nói đến. Có thể họ có một chút hài hước, có thể họ vui tính; nhưng khi họ nói về Ðức Chúa Trời, họ nói bằng một giọng hoàn toàn khác; giọng nói này là một cái gì đó hoàn toàn khác, một cái gì đó rất tuyệt vời. Tôi tin rằng chúng ta phải trở lại quan niệm Thánh Kinh xa xưa về Ðức Chúa Trời, vốn khiến cho Ðức Chúa Trời trở nên đáng kính sợ và khiến con người úp sát mặt xuống đất mà thốt lên, "Thánh thay, thánh thay, thánh thay là Ðức Giê-hô-va Vạn Quân." Ðiều đó sẽ đem lại nhiều điều tốt lành cho Hội Thánh hơn mọi sự khác.

Kế đó có sự ngưỡng mộ, tức là sự nhận thức sâu sắc sự kỳ diệu của Ðức Chúa Trời. Con người được đánh giá là tốt hơn trong việc nhận thức sâu sắc Ðức Chúa Trời, hơn bất cứ một tạo vật nào khác vì họ được tạo dựng theo hình ảnh Ngài, và là tạo vật duy nhất được như vậy. Sự ngưỡng mộ dành cho Ðức Chúa Trời gia tăng và gia tăng cho đến khi nó đầy dẫy tấm lòng với sự ngạc nhiên và vui sướng. "Trong sự kính sợ đầy ngạc nhiên của lòng, chúng con xưng nhận vẻ đẹp không hề được tạo dựng của Ngài," một tác giả thánh ca đã nói thế. "Trong sự kính sợ đầy ngạc nhiên của lòng!" Ðức Chúa Trời của Tin Lành hiện đại hiếm khi làm ai ngạc nhiên. Ngài ở trong sự tổ chức, chẳng bao giờ phá vỡ những quy luật của chúng ta. Ngài là một Ðức Chúa Trời cư xử rất tốt và phi hệ phái, rất giống một người trong chúng ta; chúng ta cầu xin Ngài giúp đỡ khi chúng ta gặp khó khăn, chúng ta xin Ngài quan phòng khi chúng ta ngủ. Ðức Chúa Trời của Tin Lành đương đại không phải là một Ðức Chúa Trời mà tôi có thể kính trọng nhiều. Nhưng khi Ðức Thánh Linh bày tỏ cho chúng ta Ðức Chúa Trời như chính Ngài là như vậy, chúng ta sẽ ngưỡng mộ Ngài đến mức độ ngạc nhiên và vui sướng.

Sự hấp dẫn là một yếu tố khác của sự thờ phượng thật: Ðược đầy dẫy sự sôi nổi thuộc linh; bị quyến rũ và bị mê hoặc, tràn đầy xúc cảm, không phải bởi việc bạn nhận được nhiều thể nào hay của dâng nhiều ra sao, không phải bởi việc bao nhiêu người đến nhà thờ; nhưng tràn ngập xúc cảm bởi nhận biết Ðức Chúa Trời là ai, lòng tràn ngập điều kỳ diệu đến kinh ngạc của sự cao quý không thể nào tin được và sự vĩ đại, sự tráng lệ của Ðức Chúa Trời Toàn Năng.

Page 144: Tong hop

Tôi còn nhớ khi mình là một Cơ Ðốc nhân trẻ, tôi đã có một khải tượng đáng kính sợ, tuyệt diệu và tràn đầy xúc cảm về Ðức Chúa Trời. Tôi đang ở Tây Virginia, trong rừng và ngồi trên một khúc gỗ đọc Kinh Thánh cùng với một tín hữu người Ái Nhĩ Lan, Robert J. Cunningham, bây giờ ông đang ở thiên đàng. Tôi đứng dậy và rảo bước loanh quanh để cầu nguyện một mình. Lúc đó tôi đang đọc một trong những phân đoạn Kinh Thánh khô khan nhất có thể tưởng tượng được - phân đoạn viết về lúc dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập và Ðức Chúa Trời sắp xếp họ vào một khu trại hình tháp. Ngài đặt chi phái Lê-vi ở giữa, Ru-bên ở phía trước và Bên-gia-min phía sau. Ðó là một thành phố hình thoi đang di động với trụ lửa ở giữa lan tỏa ánh sáng. Thình lình một ý tưởng xuất hiện trong tôi: Ðức Chúa Trời là một nhà hình học; Ngài là một nghệ sĩ! Khi Ngài sắp đặt thành phố đó, Ngài đã sắp đặt nó một cách hết sức thành thục: hình thoi với một chấm ở chính giữa; và thình lình tư tưởng đó quét qua tôi như con sóng giữa đại dương: Ðức Chúa Trời thật đẹp đẽ và Ngài vừa là một họa sĩ, một nhà thơ và là một nhạc sĩ nữa; tôi đã thờ phượng Ðức Chúa Trời ngay tại đó, bên dưới những tán cây. Bạn biết không, sau đó tôi bắt đầu yêu thích những bài thánh ca cổ, từ đó tôi trở thành người yêu thích những bài thánh ca vĩ đại.

Ðiều tiếp theo là lòng kính yêu, yêu Chúa với tất cả sức lực trong chúng ta. Yêu Chúa với lòng kính sợ và kinh ngạc, với lòng khao khát và đợi chờ; là khao khát Chúa với lòng khao khát lớn lao, và yêu Ngài đến độ vừa đau đớn, vừa vui sướng. Có nhiều lúc điều này đưa chúng ta đến sự tĩnh lặng đến nín thở. Tôi nghĩ rằng một trong những lời cầu nguyện vĩ đại nhất là lời cầu nguyện mà trong đó bạn không nói lời nào, hay cầu xin điều gì. Bây giờ Ðức Chúa Trời đã đáp lời và Ngài đã ban cho chúng ta điều mà chúng ta cầu xin. Ðây là sự thật; không một ai có thể phủ nhận nó chỉ trừ phi anh ta phủ nhận Thánh Kinh. Nhưng đó chỉ là một khía cạnh của sự cầu nguyện, và nó cũng không phải là một khía cạnh quan trọng. Ðôi lúc tôi đến với Chúa và nói, "Chúa ôi, nếu Ngài chẳng bao giờ đáp lại bất cứ một lời cầu xin nào khác của con dầu con còn sống trên cõi đời này, con vẫn thờ phượng Ngài chừng nào con còn sống, và trong những thời đại sắp đến vì những gì Ngài đã làm rồi." Ðức Chúa Trời đã đặt để tôi vào một món nợ vô cùng to lớn, lớn đến nỗi cho dù tôi có được sống đến một triệu thiên niên kỷ, tôi cũng không thể trả nổi cho Ngài những gì Ngài đã làm cho tôi.

Chúng ta đến với Ðức Chúa Trời giống như là chúng ta sai một đứa bé đến tiệm tạp hóa với một danh sách dài ngoằng các thứ, "Chúa ơi,

Page 145: Tong hop

cho con cái này, cho con cái kia, cho con cái nọ nữa," và Ðức Chúa Trời nhân từ của chúng ta thường ban cho chúng ta điều mà chúng ta muốn. Nhưng tôi nghĩ Ðức Chúa Trời thấy chán nản vì chúng ta biến Ngài thành cội nguồn cho mọi điều chúng ta muốn, không gì khác hơn nữa. Ngay cả Chúa Jêsus chúng ta cũng quá thường xuyên được giới thiệu như là: "Ðấng sẽ đáp ứng mọi nhu cầu của bạn." Ðó là trái tim đang đập mạnh của Tin Lành ngày nay. Bạn đang có nhu cầu và Ðức Chúa Jêsus sẽ đáp ứng cho bạn. Ngài là Ðấng "giải quyết nhu cầu". À, quả là Ngài như vậy thật; nhưng, rõ ràng Ngài còn hơn thế nữa kia.

Bây giờ, khi những yếu tố tinh thần, tình cảm và tâm linh mà tôi đã nói với các bạn thực sự tồn tại và ở trong một mức độ tình cảm mãnh liệt nào đó - như tôi đã thừa nhận, trong bài hát, trong sự ngợi khen, trong sự cầu nguyện và cầu nguyện trong tâm trí - bạn đang thờ phượng. Bạn có biết cầu nguyện trong tâm trí là gì không? Tôi muốn nói là bạn có biết cầu nguyện không thôi là gì không? Ông Brother Lawrence, người viết quyển The practice of the Presence of God (tạm dịch là Thực Hành Sự Hiện Diện của Ðức Chúa Trời), đã nói, "Nếu tôi đang rửa chén, tôi làm việc đó vì sự vinh hiển của Ðức Chúa Trời và nếu tôi nhặt một cọng rơm từ dưới đất lên, tôi làm điều đó vì sự vinh hiển của Ðức Chúa Trời. Lúc nào tôi cũng tương giao với Ðức Chúa Trời." Ông nói, "Các định luật nói với tôi rằng tôi phải dành thời gian đi ra một mình và cầu nguyện, và tôi làm thế, nhưng những lúc đó không khác mấy với sự tương giao thường lệ của tôi." Ông đã học hỏi được nghệ thuật của sự tương giao, thông công với Ðức Chúa Trời, liên tục, và không bị cắt đứt.

Tôi lo sợ cho vị mục sư (hay truyền đạo) nào mà khi bước lên tòa giảng, ông là một con người hoàn toàn khác với con người của chính ông trước đó. Hỡi các mục sư (truyền đạo), đừng bao giờ nghĩ đến một tư tưởng, thực hiện một hành vi hay để cho bị kẹt vào trong một hoàn cảnh nào đó mà các vị không thể đưa lên tòa giảng với chính mình mà không cảm thấy lúng túng. Các vị đừng bao giờ trở thành một con người hoàn toàn khác, có một giọng điệu mới hay một cảm giác của nghi thức mới khi bước lên tòa giảng. Các vị phải bước lên bục giảng với cùng một tinh thần, cùng một cảm giác kính sợ mà các vị đã có ngay trước khi các vị nói với ai đó về những vấn đề của đời sống. Môi-se xuống núi và nói với dân sự. Ðáng buồn thay cho Hội Thánh nào có mục sư (truyền đạo) luôn đi lên hay đi vào tòa giảng! Ông ta phải luôn luôn đi xuống bục giảng. Họ nói Wesley có thói quen sống với Ðức Chúa Trời, nhưng có nhiều lúc cũng đi xuống để nói với dân sự. Vì thế, mỗi

Page 146: Tong hop

chúng ta đều phải như vậy. A-men.

Thử Linh Hồn

Ðây là lúc để thử linh hồn con người. Ðức Thánh Linh đã phán cách quả quyết rằng trong những thời kỳ sau rốt, một số người sẽ rời bỏ đức tin, quay sang những linh cám dỗ và các giáo lý của quỷ dữ; nói những lời giả dối, sống lối sống đạo đức giả; lương tâm họ cháy bỏng với một thanh sắt rực nóng. Những ngày này đang đổ ập lên chúng ta và chúng ta không thể thoát khỏi chúng; chúng ta phải chiến thắng ngay trong lòng chúng, vì đó là ý muốn Ðức Chúa Trời cho chúng ta.

Dù nó có vẻ lạ lùng ra sao, mối hiểm họa ngày nay đối với Cơ Ðốc nhân nóng cháy còn lớn hơn với những kẻ hâm hẩm và những kẻ tự mãn. Người tìm kiếm những điều tốt nhất của Ðức Chúa Trời nôn nóng lắng nghe bất cứ ai vạch ra một con đường mà nhờ đó anh ta có thể đạt được chúng (những điều tốt lành đó). Anh mong chờ một kinh nghiệm mới mẻ nào đó, một quan điểm cao cả nào đó về lẽ thật, sự vận hành nào đó của Thánh Linh vốn sẽ vực anh ta dậy từ mức chết của "con người bình thường" của tôn giáo mà anh ta thấy ở khắp chung quanh mình, và vì lý do đó anh sẵn sàng lắng tai nghe những điều mới lạ và diệu kỳ trong tôn giáo, đặc biệt là khi nó được một ai đó có cá tính hấp dẫn, có một danh tiếng tốt vì sự tin kính vượt bậc, giới thiệu.

Ngày nay Chúa Jêsus của chúng ta, Ðấng Chăn Chiên vĩ đại, không hề để cho đàn chiên của mình rơi vào tay lũ sói. Ngài đã ban cho chúng ta Kinh Thánh, Thánh Linh và những năng lực quan sát tự nhiên, và Ngài mong đợi chúng ta dùng những điều đó để giúp chính mình luôn luôn. Phao-lô đã nói, "Hãy xem xét mọi việc, điều chi lành thì giữ lấy" (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:21). Giăng viết, "Chớ tin cậy mọi thần, nhưng hãy thử cho biết các thần có phải đến bởi Ðức Chúa Trời chăng; vì đã có nhiều tiên tri giả hiện ra trong thiên hạ" (I Giăng 4:1). "Hãy coi chừng tiên tri giả, là những kẻ mang lốt chiên đến cùng các ngươi, song bề trong thật là muông sói hay cắn xé" (Ma-thi-ơ 7:15). Rồi ông nói thêm cách có thể dùng để kiểm tra, "Các ngươi nhờ những trái nó mà biết được."

Từ điều này, thật rõ ràng là không chỉ có những thần linh giả mạo đi ra và đe dọa đời sống Cơ Ðốc nhân chúng ta, nhưng chúng cũng có thể được

Page 147: Tong hop

xác định, và nhìn biết chính chúng là gì. Dĩ nhiên là một khi chúng ta đã biết được những nét để nhận diện chúng, và biết các mánh khóe lừa gạt của chúng, sức mạnh chúng đe dọa hãm hại chúng ta sẽ mất đi. "Vì giăng lưới ra trước mặt các loài có cánh lấy làm luống công thay" (Châm ngôn 1:17).

Tôi định gợi ý ở đây một phương pháp mà chúng ta có thể dùng để thử các linh và chứng minh mọi điều thuộc về tôn giáo cũng như đạo đức đến với chúng ta, hay được ai đó trình bày, hoặc đề nghị với chúng ta. Và trong khi đối đầu với những vấn đề này, chúng ta nên nhớ rằng không phải mọi sự thay đổi bất thường đều là công việc của Sa-tan. Tâm trí con người có khả năng nảy sinh nhiều điều ác mà không cần một sự trợ giúp nào của ma quỷ. Rõ ràng một số người có thiên hướng hay bị lẫn lộn, và sẽ nhầm lẫn ảo ảnh với thực tại ngay trong ánh sáng ban ngày với quyển Kinh Thánh mở ra trước mắt họ. Phi-e-rơ đề cập đến điều đó khi ông viết, "Lại phải nhìn biết rằng sự nhịn nhục lâu dài của Chúa chúng ta cốt vì cứu chuộc anh em, cũng như Phao-lô, anh rất yêu dấu của chúng ta, đã đem sự khôn ngoan được ban cho mình mà viết thơ cho anh em vậy. Ấy là điều người đã viết trong mọi bức thơ, nói về những sự đó, ở trong có mấy khúc khó hiểu, mà những kẻ dốt nát và tin không quyết đem giải sai ý nghĩa, cũng như họ giải sai về các phần Kinh Thánh khác, chuốc lấy sự hư mất riêng về mình" (II Phi-e-rơ 3:15, 16).

Thật lạ kỳ là những sứ đồ chuyên nhầm lẫn sẽ đọc điều được viết ra ở đây hay họ sẽ được nhiều lợi ích từ nó nếu họ làm thế; song có nhiều Cơ Ðốc nhân nhạy cảm đã bị dẫn lạc đường nhưng đủ khiêm nhường để thừa nhận những sai lầm của mình và bây giờ đã sẵn sàng để trở lại với Ðấng Chăn Chiên và Giám Mục của linh hồn mình; những người này có thể được giải thoát khỏi các con đường lầm lạc. Và còn một điều quan trọng hơn, có một số rất lớn những người không lìa bỏ con đường đúng đắn nhưng muốn có một quy luật mà nhờ đó họ có thể kiểm tra mọi thứ và cũng nhờ đó mà họ chứng minh được chất lượng (nội dung) sự giảng dạy và kinh nghiệm Cơ Ðốc khi họ đối diện với chúng ngày này sang ngày khác trong cuộc sống bận rộn của mình. Ðối với những điều đó, tôi xin tiết lộ một bí mật nhỏ ở đây, điều mà tôi đã dùng để kiểm tra chính những kinh nghiệm thuộc linh và sự thúc giục mang tính chất tôn giáo của mình trong nhiều năm.Nói cách ngắn gọn, bài kiểm tra là như thế này: Giáo lý mới này, thói quen tôn giáo mới này, quan điểm mới về lẽ thật này, kinh nghiệm

Page 148: Tong hop

thuộc linh mới này - đã ảnh hưởng đến thái độ và mối tương giao của tôi hướng về Ðức Chúa Trời, Ðấng Christ, Kinh Thánh, cái tôi, những Cơ Ðốc nhân khác, thế giới và tội lỗi như thế nào. Nhờ bài kiểm có bảy khía cạnh này chúng ta có thể chứng thực mọi thứ thuộc về tôn giáo và biết trước mối nghi ngờ liệu nó thuộc về Ðức Chúa Trời hay không. Bởi trái của cây chúng ta biết đó là loại cây gì. Vì thế chúng ta chỉ cần hỏi về bất kỳ giáo lý hay kinh nghiệm nào rằng, "Ðiều này đang làm gì đối với tôi?" và ngay lập tức chúng ta biết được việc nó đến từ bên trên hay bên dưới (từ nơi Ðức Chúa Trời hay ma quỷ - ND).

1. Một bài kiểm tra sống còn cho mọi kinh nghiệm tôn giáo là nó ảnh hưởng đến mối tương giao với Ðức Chúa Trời, ảnh hưởng đến quan niệm, và thái độ của chúng ta về Ngài như thế nào.

Ðức Chúa Trời là Ðấng mà Ngài-là-như-vậy, phải luôn luôn là Ðấng tối cao đưa ra phán quyết về mọi thứ thuộc về tôn giáo. Vũ trụ hiện hữu như là một môi trường để qua đó Ðấng Tạo Hóa có thể bày tỏ sự toàn hảo của Ngài cho mọi hữu thể có đạo đức và lý trí: "Ta là Ðức Giê-hô-va, ấy là danh ta. Ta chẳng nhường sự vinh hiển ta cho một đấng nào khác" (Ê-sai 42:8). "Lạy Ðức Chúa Trời là Cha chúng tôi, Chúa đáng được vinh hiển, tôn quý và quyền lực, vì Chúa đã dựng nên muôn vật, và ấy là vì ý muốn Chúa mà muôn vật mới có và được dựng nên" (Khải huyền 4:11).

Sự khỏe khoắn và cân bằng của vũ trụ đòi hỏi Ðức Chúa Trời phải thể hiện trong mọi tạo vật. "Ðức Giê-hô-va rất lớn, và đáng ngợi khen thay; sự cao cả Ngài không thể dò xét được" (Thi thiên 145:3). Ðức Chúa Trời vận hành chỉ vì sự vinh hiển của Ngài và bất cứ gì đến từ Ngài đều phải tôn cao sự vinh hiển cho danh Ngài. Bất cứ giáo lý nào, bất cứ kinh nghiệm nào làm vinh hiển Ngài thì là cái được chính Ngài hà hơi (linh cảm). Ngược lại, bất cứ thứ gì che phủ sự vinh hiển Ngài hay làm cho Ngài giảm đi sự tuyệt mỹ của mình chắc chắn là điều thuộc về xác thịt hoặc ma quỷ.

Lòng của con người giống như một nhạc cụ và có thể được Ðức Thánh Linh sử dụng, hoặc bị ma quỷ sử dụng, hay chính linh của anh ta sử dụng. Những xúc cảm tôn giáo đều rất giống nhau, bất luận việc tác nhân tạo nên chúng là ai. Nhiều cảm giác thú vị có thể xuất hiện trong linh hồn bởi sự thờ phượng thấp kém hay ngay cả có tính chất hình tượng. Một nữ tu quỳ trước hình tượng Ðức Mẹ đồng trinh với "sự thán phục đến nín thở" thật sự đang trải qua một kinh nghiệm tôn giáo. Cô ta cảm

Page 149: Tong hop

thấy tình yêu, sự kính sợ và tôn sùng, mọi cảm giác thú vị, chắc chắn cũng giống như khi cô ta tôn thờ Ðức Chúa Trời. Những kinh nghiệm bí ẩn của người theo Ấn giáo và Hồi giáo không thể cho qua như là sự giả vờ. Chúng ta cũng không dám xem những "chuyến xuất hồn" mang tính chất tôn giáo (religious flights (xuất linh)) của những người thông linh và những nhà huyền bí khác chỉ là sự tưởng tượng. Những người này có thể và đôi lúc thật sự có sự gặp gỡ với một điều gì đó hoặc một ai đó ngoài bản thân họ. Trong cùng một cách như vậy, các Cơ Ðốc nhân đôi lúc được dẫn vào những kinh nghiệm mang tính cảm xúc vốn vượt quá năng lực hiểu biết của họ.

Tôi đã từng gặp những người như vậy và họ đã hăm hở hỏi tôi liệu kinh nghiệm của họ có thuộc về Ðức Chúa Trời hay không.

Bài kiểm tra lớn là, "Ðiều này đã làm gì với mối tương giao giữa tôi và Ðức Chúa Trời và là Cha của Ðức Chúa Jêsus Christ?" Nếu cái nhìn mới về lẽ thật này - sự gặp gỡ với những thứ thuộc linh - làm cho tôi yêu mến Ðức Chúa Trời hơn, nếu nó bày tỏ Ngài trong mắt của tôi, nếu nó làm thuần khiết quan niệm của tôi về bản thể của Ngài và khiến tôi thấy Ngài càng tuyệt vời hơn trước nhiều, thì tôi có thể kết luận rằng tôi đã không lang thang lạc lối vào trong những con đường sai lầm tuy có thú vị, nhưng nguy hiểm và bị cấm ngặt.

2. Bài kiểm tiếp theo là, "Kinh nghiệm mới này ảnh hưởng thái độ của tôi đối với Ðức Chúa Jêsus Christ như thế nào?" Bất luận việc tôn giáo ngày nay đặt để Ðấng Christ vào vị trí nào, thì Ðức Chúa Trời đã đưa Ngài lên đỉnh tột cùng của cả cõi trần gian lẫn thiên đàng. "Này là Con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đàng," từ trên trời, Ðức Chúa Trời đã phán như thế về Ðức Chúa Jêsus. Phi-e-rơ đầy dẫy Thánh Linh, đã tuyên bố: "Ðức Chúa Trời đã tôn Jêsus này, mà các ngươi đã đóng đinh trên thập tự giá, làm Chúa và Ðấng Christ" (Công vụ 2:36). Ðức Chúa Jêsus phán về chính mình: "Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống, chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha" (Giăng 14:6). Một lần nữa Phi-e-rơ lại nói về Ngài, "Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác, vì ở dưới trời chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu" (Công vụ 4:12). Cả sách Hê-bơ-rơ đều quy về một ý tưởng, Ðấng Christ là trên hết mọi người. Ngài được bài tỏ là cao hơn A-rôn và Môi-se, ngay cả các thiên sứ phải quỳ xuống mà tôn thờ Ngài. Phao-lô nói rằng Ngài là hình ảnh của Ðức Chúa Trời không nhìn thấy được, rằng Ngài ngự trị trong sự trọn vẹn của bản tánh Ðức Chúa Trời và rằng

Page 150: Tong hop

trong mọi sự, Ngài vượt trội hơn tất cả. Nhưng thời gian không cho phép tôi nói về sự vinh hiển hướng về Ngài bởi các nhà tiên tri, các tổ phụ, các sứ đồ, các thánh nhân, những trưởng lão, các tác giả Thi thiên, các vị vua và sê-ra-phin. Với chúng ta Ngài là sự thông sáng và công chính, sự thánh khiết và cứu chuộc. Ngài là hy vọng, là sự sống, là mọi sự trong mọi sự của chúng ta bây giờ và mãi mãi.

Mọi điều này là thật, và rõ ràng rằng Ngài phải đứng ở vị trí trung tâm của mọi giáo lý đúng, chân thật, mọi nghi lễ có thể chấp nhận được, mọi kinh nghiệm Cơ Ðốc thật. Bất cứ điều gì làm cho Ngài trở nên thấp kém hơn điều Ðức Chúa Trời đã tuyên bố về Ngài thì đó hoàn toàn là sự giả dối và phải bị loại trừ, bất luận một lúc nào đó nó có vẻ sáng chói hay có thể làm thỏa mãn tấm lòng như thế nào.

Cơ Ðốc giáo "không có Ðấng Christ" (Christ-less) có vẻ như mâu thuẫn nhưng nó tồn tại như một hiện tượng trong thời đại chúng ta. Phần lớn cái được thực hiện trong danh Ðức Chúa Jêsus là giả dối đối với Ngài vì nó xuất phát từ xác thịt, kết hợp chặt chẽ với những phương pháp xác thịt, và tìm kiếm những mục đích xác thịt. Hết lần này sang lần khác Ðấng Christ được đề cập đến theo cùng một cách và cùng một lý do mà một chính trị gia tự tư tự lợi đề cập đến Lincoln và lá cờ, để vẽ lên một bề ngoài thánh khiết cho những hoạt động xác thịt và để lừa dối những người nghe có tấm lòng thật thà. Ðiều tố cáo là Ðấng Christ không phải là trung tâm, Ngài không phải là mọi sự trong mọi sự.

Lại có những kinh nghiệm tâm linh làm cảm động người tìm kiếm và đưa anh ta đến chỗ tin rằng anh đã thực sự gặp Chúa, và được đưa lên đến tầng trời thứ ba; nhưng bản chất thật của hiện tượng chỉ được khám phá sau đó khi gương mặt của Ðấng Christ bắt đầu lu mờ khỏi ý thức của nạn nhân, và anh ta ngày càng trở nên lệ thuộc nhiều hơn vào những "ngất ngây" (jag) tình cảm như là một bằng chứng cho tình trạng thuộc linh của anh.

Nếu trái lại, kinh nghiệm mới có khuynh hướng đưa Ðấng Christ đến chỗ không thể thiếu được (trong đời sống), nếu nó lôi kéo sự chú ý của chúng ta ra khỏi cảm giác và đặt sự chú ý đó vào trong Ðấng Christ, chúng ta đang đi đúng con đường. Bất cứ điều gì khiến Ðấng Christ trở nên thân thuộc, gần gũi hơn với chúng ta hoàn toàn chắc chắn là điều đến từ Ðức Chúa Trời.

Page 151: Tong hop

3. Một bài kiểm tra có tính khám phá khác để xác định sự vững chắc của kinh nghiệm tôn giáo là, "Nó ảnh hưởng thái độ của tôi đối với Kinh Thánh như thế nào?"

Kinh nghiệm mới này, quan điểm mới về lẽ thật này xuất phát từ Lời của Ðức Chúa Trời hay nó là kết quả của một sự kích thích nào đó nằm ngoài Kinh Thánh? Những Cơ Ðốc nhân có tấm lòng mềm mại thường trở thành nạn nhân của một áp lực tâm lý được cố ý hay vô tình áp đặt bởi một lời chứng cá nhân của một người nào đó, hay bởi một câu chuyện đầy màu sắc do một giáo sư nóng cháy nào đó kể, người có thể nói những lời cuối cùng có tính cách tiên tri nhưng đã không kiểm tra lại câu chuyện của mình với những sự kiện thật hoặc sự đúng đắn của những kết luận ông ta đưa ra với Lời của Ðức Chúa Trời.

Vì lý do đó, mỗi người phải nghi ngờ bất cứ thứ gì có nguồn gốc từ bên ngoài Kinh Thánh cho đến khi nó chứng tỏ rằng nó phù hợp với Lời ấy. Nếu thấy nó trái ngược với Lời của lẽ thật được bày tỏ (Kinh Thánh), không một Cơ Ðốc nhân thật nào sẽ chấp nhận nó như là đến từ Ðức Chúa Trời. Cho dù mức độ thỏa lòng về phương diện tình cảm có lớn lao đến như thế nào đi nữa, không một kinh nghiệm nào có thể được chứng minh là thật trừ phi chúng ta tìm thấy có những đoạn, những câu trong Kinh Thánh nói về nó. "Lời và lời chứng" phải luôn luôn là bằng chứng cuối cùng.

Bất cứ điều gì mới và khác thường cần phải được xem xét một cách rất cẩn thận cho đến khi nó có thể cung cấp bằng chứng Thánh Kinh cho giá trị của mình. Trong hơn nữa thế kỷ qua, một số lượng lớn những tư tưởng, ý niệm không bắt nguồn từ Kinh Thánh đã được chấp nhận giữa vòng các Cơ Ðốc nhân bằng cách tự tuyên bố rằng chúng thuộc về những lẽ thật sẽ được bày tỏ vào những ngày sau rốt. Ðể chắc chắn, những người chủ trương lý thuyết Latter Daylight này nói: "Augustine đã không hề biết, Luther không biết, John Knox, Wesley, Finney và Spurgeon cũng không hề hiểu điều này; nhưng ánh sáng mạnh hơn ngày nay đã chiếu rọi lên dân sự của Ðức Chúa Trời và chúng ta, những người thuộc về thời đại sau rốt này, có một đặc ân của sự khải thị trọn vẹn hơn. Chúng ta không nên nghi ngờ giáo lý mới hay rút lui khỏi kinh nghiệm cấp cao này; Chúa đang chuẩn bị Cô Dâu của mình sẵn sàng cho tiệc cưới Chiên Con. Tất cả chúng ta phải thuận phục sự vận hành mới này của Thánh Linh." Họ nói với chúng ta thế đấy.Lẽ thật nằm ở chỗ Kinh Thánh không hề dạy rằng sẽ có sự sáng mới

Page 152: Tong hop

và kinh nghiệm thuộc linh cấp cao trong những ngày sau rốt; Kinh Thánh dạy điều hoàn toàn ngược lại. Chẳng có chỗ nào trong sách Ða-ni-ên hay trong các thư tín Tân Ước ủng hộ tư tưởng này, tư tưởng cho rằng chúng ta, những người thuộc về thời kỳ cuối cùng của kỷ nguyên Cơ Ðốc, sẽ được thụ hưởng một thứ ánh sáng mà ngay từ ban đầu không được biết đến. Hãy cảnh giác với bất cứ ai tuyên bố là họ thông minh hơn các sứ đồ, hay thánh khiết hơn những người tuận đạo của Hội Thánh đầu tiên. Cách tốt nhất để đối đầu với anh ta là đứng dậy và đi chỗ khác. Bạn không thể giúp anh ta và chắc chắn anh ta cũng chẳng giúp ích gì cho bạn.

Tuy nhiên, giả dụ là Kinh Thánh có thể không phải lúc nào cũng rõ ràng và có nhiều sự khác biệt về cách hiểu giữa vòng những con người thành thật như nhau, bài kiểm này sẽ cung cấp mọi bằng chứng cần thiết cho bất cứ thứ gì thuộc về tôn giáo, tức là, "Nó làm gì đối với sự yêu mến và sự đánh giá của tôi đối với Kinh Thánh?"

Dầu quyền năng thật không nằm trong những con chữ, nhưng trong Ðấng đã linh cảm nó (Thánh Linh), chúng ta không nên đánh giá thấp giá trị của những con chữ. Dòng chữ của lẽ thật có cùng một mối quan hệ với lẽ thật như tổ ong và mật ong. Cái này là chỗ chứa đựng cái kia. Nhưng tại đó sự giống nhau không còn nữa. Mật ong có thể bị dời khỏi tổ ong, nhưng Thần của lẽ thật không thể và không hề hành động tách khỏi những con chữ của Thánh Kinh. Vì lý do này, sự hiểu biết Thánh Linh càng gia tăng luôn luôn kéo theo sự gia tăng lòng yêu mến Lời Chúa. Ðiều Kinh Thánh viết là Ðấng Christ trong Thân Vị. Lời được linh cảm giống như một chân dung trung thực của Ðấng Christ. Nhưng một lần nữa hình ảnh đó lại không phù hợp. Ðấng Christ trong Kinh Thánh không thể chỉ là một con người trong bức chân dung, vì Kinh Thánh là quyển sách của những ý tưởng thánh và Lời đời đời của Ðức Chúa Cha có thể và thực sự ngự trị trong tư tưởng mà chính Ngài đã linh cảm. Những ý tưởng là các chất liệu và những ý tưởng của Thánh Kinh tạo nên một đền thờ cao ngất làm nơi ngự trị của Ðức Chúa Trời.

Tự nhiên việc này dẫn đến một điều: Người thật lòng yêu Ðức Chúa Trời cũng sẽ là người hết sức yêu mến Lời của Ngài. Bất cứ điều gì đến với chúng ta từ Chúa của Lời ấy sẽ làm sâu đậm hơn tình yêu của chúng ta đối với Lời Ngài. Ðiều này diễn ra một cách rất hợp lý, nhưng chúng ta có sự xác quyết bởi một nhân chứng còn có giá trị lớn hơn nhiều so với logic, đó là lời chứng phối hợp thanh điệu của một đạo quân

Page 153: Tong hop

lớn những chứng nhân đang sống hay đã chết. Những người này đồng thanh tuyên bố rằng lòng yêu mến của họ đối với Thánh Kinh càng mãnh liệt hơn khi đức tin lên cao và sự vâng phục của họ trở nên trước sau như một và đầy dẫy niềm vui.

Nếu một giáo lý mới, sự ảnh hưởng của giáo sư mới đó, kinh nghiệm tình cảm mới đầy dẫy lòng tôi với một khao khát, một sự đói khát suy gẫm Lời Chúa ngày và đêm, tôi có đủ mọi lý do để tin rằng Ðức Chúa Trời đã phán với lòng tôi và rằng kinh nghiệm của tôi là thật. Trái lại, nếu lòng yêu mến của tôi dành cho Lời Kinh Thánh trở nên nguội lạnh, dù chỉ một chút thôi, nếu sự sốt sắng trong việc ăn và uống Lời đã được linh ứng giảm đi chừng một tí thôi, thì tôi sẽ hạ mình xuống mà thừa nhận rằng tôi đã bỏ lỡ dấu hiệu của Ðức Chúa Trời ở đâu đó và sẽ thật sự quay về cho đến khi tôi tìm thấy con đường đúng một lần nữa.

4. Chúng ta có thể chứng thực chất lượng của kinh nghiệm tôn giáo bởi ảnh hưởng của nó đến cái tôi xác thịt.

Thánh Linh và bản ngã của con người sa ngã hoàn toàn trái ngược nhau. "Vì xác thịt có những điều ưa muốn trái với Thánh Linh, Thánh Linh có những điều ưa muốn trái với xác thịt, hai bên trái nhau dường ấy, nên anh em không thể làm được điều mình muốn làm" (Ga-la-ti 5:17). "Thật thế, kẻ sống theo xác thịt thì chăm những sự thuộc về xác thịt; còn kẻ sống theo Thánh Linh thì chăm những sự thuộc về Thánh Linh... vì sự chăm về xác thịt nghịch với Ðức Chúa Trời, bởi nó không phục dưới luật pháp Ðức Chúa Trời, lại cũng không thể phục được" (Rô-ma 8:5, 7).

Trước khi Thánh Linh Ðức Chúa Trời có thể vận hành cách sáng tạo trong lòng mỗi chúng ta, Ngài phải kết án và đóng đinh "xác thịt" bên trong chúng ta; tức là Ngài phải có được sự đồng lòng hoàn toàn của chúng ta để thay thế bản ngã tự nhiên với Thân Vị của Ðấng Christ. Sự thay thế này được giải thích rõ ràng trong Rô-ma 6, 7 và 8. Khi Cơ Ðốc nhân tìm kiếm đã trải qua kinh nghiệm đóng đinh được mô tả trong Rô-ma 6 và 7, anh ta bước vào một khu vực rộng rãi, tự do của đoạn 8. Tại nơi đó, bản ngã bị hạ bệ và Ðấng Christ được tôn cao mãi mãi.Dưới ánh sáng của điều này, chẳng khó khăn gì để mà thấy được lý do tại sao thái độ của Cơ Ðốc nhân hướng về bản ngã mình lại là một bài kiểm tuyệt vời cho giá trị của những kinh nghiệm tôn giáo anh ta trải qua. Hầu hết những bậc thầy của đời sống sâu nhiệm bên trong, như Fenelon, Molinos, John của thập giá (John of the Cross), Madame

Page 154: Tong hop

Guyon và số đông những người khác, đã cảnh báo chống lại những kinh nghiệm tôn giáo giả mạo đem đến nhiều sự thích thú xác thịt nhưng nuôi dưỡng nó là làm cho cõi lòng đầy dẫy tính ích kỷ.

Một nguyên tắc tốt ở đây là: nếu kinh nghiệm này làm cho tôi hạ mình xuống và khiến tôi trở nên nhỏ bé, hèn hạ trong mắt của chính mình, nó đến từ nơi Ðức Chúa Trời; nhưng nếu nó đem đến cho tôi cảm giác của sự tự mãn, nó là giả dối và phải bị đào thải ngay vì xuất phát từ xác thịt hay ma quỷ. Chẳng có gì đến từ nơi Ðức Chúa Trời lại nuôi dưỡng sự kiêu ngạo hay sự tự khen của tôi. Nếu tôi bị cám dỗ đi đến chỗ tự mãn và cảm thấy vượt trội hơn vì mình có một khải tượng đáng lưu ý hay một kinh nghiệm thuộc linh cấp cao, tôi sẽ quỳ xuống và ăn năn mọi sự. Tôi đã trở thành nạn nhân của kẻ thù.

5. Mối quan hệ và thái độ của chúng ta đối với những Cơ Ðốc nhân khác là một bài kiểm chính xác khác dùng kiểm định kinh nghiệm tôn giáo.Ðôi lúc một Cơ Ðốc nhân sốt sắng nhất, sau khi có sự tiếp xúc đầy ấn tượng nào đấy với thế giới thuộc linh, sẽ tự rút mình ra khỏi vòng những tín hữu là đồng bạn của mình và dấy lên một tinh thần chê trách. Anh ta có thể đã được thuyết phục rằng kinh nghiệm của mình là cao cấp hơn, rằng bây giờ anh ta đang ở trong một trạng thái cao vời của ân điển, và rằng những người khác trong Hội Thánh nơi anh sinh hoạt chỉ là một đám đông hỗn loạn, chỉ có mỗi mình anh là con cái thật của Y-sơ-ra-ên. Anh ta có thể tranh chiến để kiên nhẫn với những người trần tục tôn giáo này, nhưng thứ ngôn ngữ mềm mỏng và nụ cười hạ cố của anh cho thấy rõ quan điểm của anh về họ và về chính anh. Ðây là một tình trạng tâm trí rất nguy hiểm, và càng nguy hiểm hơn nữa, vì nó có thể bào chữa cho chính mình bằng những sự kiện. Người anh em có một kinh nghiệm đáng lưu ý; anh đã nhận lãnh một ánh sáng tuyệt vời nào đấy từ Thánh Kinh; anh đã bước vào một lãnh địa của niềm vui mà trước đó anh chưa từng biết đến. Và có thể những Cơ Ðốc nhân mà anh kể là trần tục, ngu dốt thật sự không có sự hăng hái thuộc linh. Vấn đề không phải ở chỗ anh sai sót gì trong những dữ kiện của mình, bèn là phản ứng của anh đối với những sự thật đó chính là phản ứng của xác thịt. Tình trạng thuộc linh mới của anh đã khiến anh trở nên ít khoan dung hơn.Cô Julian, trong lối văn cổ, đã nói với chúng ta việc ân điển Cơ Ðốc tác động đến thái độ của chúng ta đối với người khác như thế nào: "Trong mọi sự, sự quan phòng và yêu thương của Ðấng Tạo Hóa đã tạo nên một linh hồn tự xem mình là thấp kém hơn, và gần như đầy dẫy anh ta với lòng kính sợ cũng như sự nhu mì thật; cùng với nhiều sự khoan dung cho

Page 155: Tong hop

những Cơ Ðốc nhân lân cận mình." Bất cứ kinh nghiệm tôn giáo nào không thể làm đậm đà hơn tình yêu thương chúng ta dành cho những Cơ Ðốc nhân khác có thể quả quyết là sai trái.

Sứ đồ Giăng xem tình yêu thương dành cho những Cơ Ðốc nhân xung quanh chúng ta là một kiểm nghiệm của đức tin. "Hỡi các con cái bé mọn, chớ yêu mến bằng lời nói và lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẽ thật. Bởi đó, chúng ta biết mình thuộc về lẽ thật, và giục lòng vững chắc ở trước mặt Ngài" (I Giăng 3:18, 19). Một lần nữa ông lại nói, "Hỡi kẻ rất yêu dấu, chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau, vì sự yêu thương đến từ Ðức Chúa Trời, kẻ nào yêu thì sanh từ Ðức Chúa Trời và nhìn biết Ðức Chúa Trời. Ai chẳng yêu thương thì không biết Ðức Chúa Trời; vì Ðức Chúa Trời là sự yêu thương" (I Giăng 4:7, 8).Khi chúng ta tăng trưởng trong ân điển, chúng ta tăng trưởng trong tình yêu thương hướng về dân sự của Ðức Chúa Trời. "Ai yêu Ðức Chúa Trời là Ðấng đã sanh ra, thì cũng yêu kẻ đã sanh ra bởi Ngài" (I Giăng 5:1). Ðiều này chỉ đơn giản có nghĩa là nếu chúng ta yêu Chúa, chúng ta cũng sẽ yêu con cái Ngài. Mọi kinh nghiệm Cơ Ðốc thật sẽ làm sâu đậm thêm tình yêu thương chúng ta dành cho những Cơ Ðốc nhân khác.

Vì thế chúng ta kết luận rằng bất cứ gì có khuynh hướng chia cắt chúng ta với những Cơ Ðốc nhân xung quanh, trong con người hay tấm lòng, không phải là điều đến từ nơi Ðức Chúa Trời, nhưng từ xác thịt hoặc ma quỷ. Và ngược lại, bất cứ gì khiến chúng ta yêu thương con cái Ðức Chúa Trời đó là điều thuộc về Ngài. "Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà thiên hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn đồ ta" (Giăng 13:35).

6. Một bài kiểm tra khác về nguồn gốc của kinh nghiệm tôn giáo là: Hãy lưu ý việc nó ảnh hưởng mối quan hệ và thái độ của chúng ta đối với thế gian như thế nào.

Khi dùng từ "thế gian" dĩ nhiên tôi không ám chỉ trật tự đẹp đẽ của thiên nhiên mà Ðức Chúa Trời đã tạo dựng nên vì sự ích lợi và niềm vui thỏa của loài người. Tôi cũng không ám chỉ thế gian của những người hư mất như thể hiện trong ý nghĩa từ ngữ mà Chúa chúng ta đã dùng khi Ngài phán, "Vì Ðức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất, mà được sự sống đời đời. Vả, Ðức Chúa Trời đã sai Con Ngài xuống thế gian, chẳng phải để đoán xét thế gian đâu, nhưng hầu cho thế gian nhờ Con ấy mà được cứu" (Giăng 3:16, 17). Chắc chắn là bất cứ sự rờ chạm thật

Page 156: Tong hop

sự nào của Ðức Chúa Trời trong linh hồn cũng sẽ khiến cho nhận thức của chúng ta về những vẻ đẹp của tự nhiên ngày càng trở nên sâu sắc hơn, và làm gia tăng tình yêu thương của chúng ta dành cho những người hư mất. Ở đây tôi muốn nói đến một điều hoàn toàn khác.Hãy để một sứ đồ nói điều đó cho chúng ta: "Vì mọi sự trong thế gian, như sự mê tham của xác thịt, sự mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời, đều chẳng từ Cha mà đến, nhưng từ thế gian mà ra. Vả, thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý muốn Ðức Chúa Trời thì còn lại đời đời" (I Giăng 2:16, 17).

Ðây là thế gian mà từ đó chúng ta có thể kiểm tra các linh. Nó là thế giới của những vui thú xác thịt, của những niềm hoan lạc vô thần, của sự tìm kiếm sự giàu có trần tục, danh vọng và những niềm hạnh phúc trong tội lỗi. Nó cứ như vậy mà không có Ðấng Christ, đi theo lời khuyên của những kẻ không tin kính và được vua cầm quyền chốn không trung cổ vũ, một tà thần hành động giữa vòng con cái của sự không vâng phục (Ê-phê-sô 2:2). Tôn giáo của nó là một dạng của sự sùng đạo, không có chút quyền năng, có một cái tên để gọi, tồn tại nhưng thực chất đã chết. Nói cách ngắn gọn, nó là xã hội loài người không được cải tạo đang nô đùa trên con đường đi đến địa ngục, hoàn toàn trái ngược với Hội Thánh thật của Ðức Chúa Trời, vốn là một xã hội của những linh hồn được tái sanh đang tỉnh táo và vui mừng bước đi trên con đường dẫn đến thiên đàng.

Bất cứ công việc thật nào của Ðức Chúa Trời trong lòng chúng ta đều sẽ có khuynh hướng làm cho chúng ta không còn phù hợp với sự giao hảo của thế gian. "Chớ yêu thế gian, cũng đừng yêu các vật ở thế gian nữa; nếu ai yêu thế gian thì sự kính mến Ðức Chúa Trời chẳng ở trong người ấy" (I Giăng 2:15). "Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin. Bởi vì công bình với gian ác có hòa hiệp nhau được chăng? Sự sáng với sự tối có thông đồng nhau được không?" (II Cô-rinh-tô 6:14). Có thể khẳng định chắc chắn rằng bất kỳ thần nào cho phép thỏa hiệp với thế gian đều là tà thần. Bất cứ phong trào tôn giáo nào bắt chước thế gian trong bất cứ khía cạnh nào nó thể hiện đều là sai lầm đối với thập giá của Ðấng Christ và ở về phía ma quỷ - và điều này bất chấp việc những người lãnh đạo của nó hô hào: "Hãy tiếp nhận Ðấng Christ" hay, "Hãy để Chúa điều hành công việc làm ăn của bạn" như thế nào.

7. Bài kiểm cuối cùng để trắc nghiệm sự chân thật của kinh nghiệm Cơ

Page 157: Tong hop

Ðốc là nó làm gì với thái độ của chúng ta đối với tội lỗi.

Sự vận hành của ân điển trong lòng của một người tin sẽ xây tấm lòng đó khỏi tội lỗi và hướng về sự thánh khiết. "Vả, ân điển Ðức Chúa Trời hay cứu mọi người, đã được bày tỏ ra rồi. Ân ấy dạy chúng ta chừa bỏ sự không tin kính, và tình dục thế gian, phải sống ở đời này theo tiết độ, công bình, nhân đức, đương chờ đợi sự trông cậy hạnh phước của chúng ta, và sự hiện ra của sự vinh hiển Ðức Chúa Trời lớn và Cứu Chúa chúng ta, là Ðức Chúa Jêsus Christ" (Tít 2:11-13).

Tôi không thể thấy nó rõ hơn thế được nữa. Cùng một ân điển vốn cứu rỗi, đã dạy dỗ và sự dạy dỗ của nó vừa phủ nhận vừa khẳng định. Trên phương diện phủ nhận, ân điển dạy chúng ta phản đối, chống lại sự không tin kính và những tham muốn trần tục. Trên phương diện khẳng định, nó dạy chúng ta phải sống đứng đắn, công chính, và tin kính, trong thế giới hiện tại này.

Một người có lòng thành thật sẽ chẳng thấy khó khăn gì ở đây cả. Anh ta chỉ cần kiểm tra lại xu hướng của mình để khám phá ra liệu anh ta quan tâm đến tội lỗi trong đời sống mình nhiều hay ít hơn từ khi công việc được giả định là của ân điển đã hoàn tất. Bất cứ gì làm yếu đi lòng thù ghét của anh đối với tội lỗi có thể được xác định ngay tức thì là điều sai trật đối với Thánh Kinh, đối với Cứu Chúa và đối với linh hồn anh ta. Bất cứ điều gì khiến cho sự thánh khiết trở nên thu hút hơn, và tội lỗi ngày càng trở nên không thể chịu đựng nỗi có thể được chấp nhận là chân thật. "Vì Chúa chẳng phải là Ðức Chúa Trời bằng lòng sự dữ; kẻ ác sẽ không được ở cùng Chúa. Kẻ kiêu ngạo chẳng đứng nổi trước mặt Chúa; Chúa ghét hết thảy những kẻ làm ác" (Thi thiên 5:4, 5).

Ðức Chúa Jêsus đã cảnh báo: "Vì nhiều christ giả và tiên tri giả sẽ dấy lên, làm những dấu lớn, phép lạ, nếu có thể được thì họ cũng đến dỗ dành chính những người được chọn" (Ma-thi-ơ 24:24). Những lời này mô tả thời đại của chúng ta quả thật rất trùng khớp. Với hy vọng rằng "người được chọn" sẽ tìm thấy được lợi ích nào đó nên tôi đã đề ra những bài kiểm tra này. Kết quả nằm ở trong tay Chúa.

Tiếng Phán

Page 158: Tong hop

“Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời”(Giăng 1:1)

Một người thông minh, chất phát, chưa được học về những lẽ thật Cơ Đốc, khi đọc đến những lời này có lẽ sẽ kết luận: Giăng có ý muốn dạy rằng đây là bản chất của Đức Chúa Trời để nói chuyện, trao đổi ý tưởng của Ngài với người khác. Và anh ta đúng. Lời nói là công cụ trung gian để diễn tả suy nghĩ, và áp dụng khái niệm này cho Con đời đời khiến chúng ta tin rằng sự tự bày tỏ vốn cố hữu nơi Đức Chúa Trời, rằng Đức Chúa Trời luôn luôn tìm kiếm để bày tỏ chính Ngài cho tạo vật của mình. Cả Kinh Thánh cho chúng ta biết điều này. Đức Chúa Trời đang phán. Chẳng những Đức Chúa Trời đã phán, đã nói, nhưng Ngài cũng hiện đang phán, đang nói (với những ai biết nghe Ngài). Ngài, bởi bản chất của mình, liên tục tìm kiếm và bày tỏ về chính mình cách hết sức thuần thục. Ngài dẫy đầy thế giới này với tiếng phán của mình.

Một trong những thực hữu mà chúng ta phải gặp đó là giọng nói của Đức Chúa Trời trong thế giới của Ngài. Một thuyết về nguồn gốc vũ trụ ngắn nhất và thỏa đáng nhất là: “Ngài phán, thì việc liền có.” Lý do tại sao của những định luật tự nhiên chính là tiếng phán của Đức Chúa Trời ngay bên trong tạo vật của Ngài. Và Lời này của Đức Chúa Trời, vốn đã khiến cho mọi thế giới được dựng nên, không thể coi là Kinh Thánh được, vì Lời đó là Lời Sống, nó không được viết, hay in ra gì cả, nhưng sự thể hiện ý muốn của Đức Chúa Trời nằm bên trong cơ cấu tạo thành của tất cả mọi sự. Lời này của Đức Chúa Trời là hơi thở dẫy đầy thế giới chúng ta với một sức sống tiềm ẩn. Tiếng phán của Chúa là uy quyền mạnh nhất trong tự nhiên, quả thật là uy quyền duy nhất trong tự nhiên, vì mọi thứ chứa đựng năng lượng còn tồn tại đều do Lời đầy uy quyền ấy đang phán ra.

Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời được viết ra, và vì cớ nó được viết ra, nó bị giới hạn trong phạm vi cần thiết của giấy, mực và da (để viết lên). Tuy nhiên, Lời Đức Chúa Trời là Lời Sống và tự do như sự tự do của Đức Chúa Trời quyền uy. “Những lời ta phán cùng các ngươi đều là thần linh và sự sống” (Giăng 6:63). Sự sống nằm trong những Lời đang phán ra. Lời Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh có được sức mạnh là vì nó phù hợp với Lời Đức Chúa Trời trong cõi vũ trụ. Chính Tiếng Phán hiện tại làm cho Lời được viết ra có tất cả mọi sức mạnh. Nếu ngược lại, thì nó chỉ nằm đó ngủ mê bên trong bìa da của một cuốn

Page 159: Tong hop

sách.

Chúng ta có một cái nhìn thấp kém và thô sơ về mọi sự khi chúng ta nghĩ rằng Đức Chúa Trời, trong lúc sáng tạo, đã có một mối tương quan vật lý với mọi thứ: định hình, lắp ghép, xây dựng... giống như một thợ mộc vậy. Kinh Thánh lại dạy khác hơn: “Các từng trời được làm nên bởi lời Đức Giê-hô-va, cả cơ binh trời bởi hơi thở của miệng Ngài mà có... Vì Ngài phán, thì việc liền có; Ngài biểu, thì vật bèn đứng vững bền” (Thi thiên 33:6, 9). “Bởi đức tin chúng ta biết rằng thế gian đã làm nên bởi Lời của Đức Chúa Trời, đến nỗi những vật bày ra đó chẳng phải từ vật thấy được mà đến” (Hê-bơ-rơ 11:3). Một lần nữa, chúng ta phải nhớ rằng việc đề cập đến Lời Đức Chúa Trời ở đây không phải là những Lời đã được viết ra (Kinh Thánh), mà là những Lời từ Tiếng Phán Ngài đang phán. Lời phán Ngài phủ bao thế giới có nghĩa là Tiếng Phán đó đã có trước Kinh Thánh vô số thế kỷ; Tiếng Phán ấy không yên lặng từ buổi bình minh của sự sáng tạo, nhưng nó vẫn còn vang dội đến những nơi xa thẳm nhất của toàn cõi vũ trụ này.

Lời Đức Chúa Trời rất nhanh chóng và đầy uy quyền. Ban đầu, Ngài phán vào khoảng không (không có gì hết), và nó trở thành một cái gì đó. Sự hỗn mang khi nghe tiếng phán liền trở nên có trật tự; bóng tối nghe tiếng phán và trở nên ánh sáng. “Đức Chúa Trời lại phán... thì có như vậy” (Sáng-thế ký 1:9). Hai mệnh đề song sinh này, giống như nguyên nhân và kết quả, xuất hiện khắp cả câu chuyện Sáng Thế. Chữ phán giải thích cho chữ có như vậy. Và chữ có như vậy là chữ phán đặt trong hiện tại tiếp diễn.

Đức Chúa Trời đang ở đây và Ngài đang phán - những lẽ thật này là nền tảng của mọi lẽ thật Kinh Thánh khác; không có chúng thì không thể có sự bày tỏ nào cả. Đức Chúa Trời đã không viết một cuốn sách và sai một sứ giả gởi nó đến để được đọc ở một nơi nào đó bởi những tâm trí không được giúp đỡ. Ngài phán ra một cuốn sách và sống trong những Lời Ngài đã phán, liên tục phán ra và khiến cho sức mạnh của những Lời đó kéo dài hết năm rồi lại năm. Đức Chúa Trời thở vào bụi đất và nó trở nên một người đàn ông; Ngài thở lên con người và họ trở thành bụi đất. “Hỡi con cái loài người, hãy trở lại” (Thi thiên 90:3) là những Lời Đức Chúa Trời phán khi sự sa ngã xảy ra, mà bởi cớ nó Ngài đã kết án con người phải chết, và Ngài không cần nói thêm một từ nào nữa. Cuộc chạy đua của loài người trên khắp mặt đất này từ khi ra đời đến khi chết đi là một bằng chứng cho thấy một Lời đầu tiên của Ngài

Page 160: Tong hop

là đủ cả.

Chúng ta đã không quan tâm đủ đến sự bày tỏ đó trong sách Giăng, “Sự sáng này là sự sáng thật, khi đến thế gian soi sáng mọi người” (1:9). Dời dấu câu đi, chân lý vẫn còn ở đó: Lời Đức Chúa Trời tác động đến những tấm lòng của con người giống như ánh sáng soi trong tâm hồn. Trong tâm hồn của con người, ánh sáng lan tỏa, Lời thì vang dội và không một ai có thể trốn thoát được. Điều đó là cần thiết nếu Đức Chúa Trời là sống động và ở trong thế giới của Ngài. Và Giăng nói nó là như vậy. Ngay cả những người chưa bao giờ nghe về Kinh Thánh vẫn có thể được chạm đến bởi ánh sáng ấy, và nó vĩnh viễn cất khỏi lòng họ những lời bào chữa. “Họ tỏ ra rằng việc mà luật pháp dạy biểu đã ghi trong lòng họ: Chính lương tâm mình làm chứng cho luật pháp, còn ý tưởng mình khi thì cáo giác mình, khi thì binh vực mình” (Rô-ma 2:15). “Bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thể thấy được, tức là quyền phép đời đời và bổn tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được” (Rô-ma 1:20).

Tiếng Phán của Đức Chúa Trời trên toàn cõi vũ trụ này là cái mà người Hê-bơ-rơ cổ gọi là Sự Khôn Ngoan (Sự Thông Sáng), và nó vang dội khắp nơi, tìm kiếm, và lắng nghe một lời đáp từ phía con cái loài người. Đoạn 8 của Châm ngôn mở đầu như sau: “Sự khôn ngoan há chẳng kêu lên sao? Sự thông sáng há không vang tiếng mình ra ư?” Tác giả khi đó đã hình tượng hóa sự khôn ngoan như một phụ nữ đẹp, đang đứng “trên chót các nơi cao, ngoài đường, tại các ngã tư.” Nàng lớn tiếng, vang khắp các hướng để ai cũng nghe được tiếng nàng. “Hỡi loài người, ta kêu gọi các ngươi, và tiếng ta hướng về con cái loài người” (câu 4). Rồi nàng nài nỉ để những “kẻ ngu muội” lắng nghe lời mình. Chính lời hồi đáp thuộc linh là cái mà Sự Thông Sáng của Đức Chúa Trời đang kêu nài, là một lời đáp mà nàng vẫn luôn luôn tìm kiếm dẫu rằng hiếm khi tìm gặp. Quả là một bi kịch khi sự phước hạnh đời đời của chúng ta lại lệ thuộc vào sự lắng nghe của chúng ta, và chúng ta đã huấn luyện tai mình để không nghe.

Tiếng Phán trên toàn cõi vũ trụ này vẫn luôn vang dội, và nó thường làm cho con người bối rối khi họ không hiểu nguồn gốc nỗi lo sợ của mình là từ đâu. Có lẽ nào Tiếng Phán đó, nguồn sức sống cho tâm linh, lại là một căn nguyên chưa được phát hiện của những tấm lòng lo lắng và khao khát sự sống đời đời vốn đã được hàng triệu người xưng nhận kể từ

Page 161: Tong hop

khi lịch sử được bắt đầu? Chúng ta không cần phải lo sợ khi đối diện với điều này. Tiếng Phán là một chân lý. Con người đã phản ứng với nó như thế nào là điều đáng quan tâm hơn hết.

Khi Đức Chúa Trời phán từ thiên đàng xuống cho Chúa chúng ta, những con người tự cho mình là trung tâm thì giải thích điều đó bởi những nguyên nhân tự nhiên, họ nói, “Trời sấm sét” (Giăng 12:28). Thói quen giải thích Tiếng Phán của Đức Chúa Trời bằng những định luật tự nhiên là một nền tảng chủ yếu cho khoa học hiện đại. Trong một vũ trụ đang sống, đang thở, có một Điều Gì Đó rất huyền bí, quá tuyệt vời, thật đáng kính sợ để tâm trí con người có thể hiểu được. Những kẻ tin không tuyên bố rằng mình hiểu. Họ quỳ gối xuống và thì thầm, “Kính lạy Đức Chúa Trời.” Con người của trần tục này cũng quỳ gối xuống, nhưng không phải để thờ phượng. Họ quỳ gối xuống để thí nghiệm, để tìm tòi, để khám phá ra nguyên nhân và cách làm các thứ. Ngay bây giờ, chúng ta đang sống trong thời đại của thế giới trần tục. Những thói quen tư tưởng của chúng ta chính là những thói quen tư tưởng của các khoa học gia, không phải là những thói quen tư tưởng của một người thờ phượng. Chúng ta thích giải thích hơn là tôn thờ. “Trời sấm sét,” chúng ta thốt lên, và bước đi trên con đường trần tục của mình. Nhưng Tiếng Phán vẫn vang dội và tìm kiếm. Trật tự và sự sống của thế giới này lệ thuộc vào Tiếng Phán đó, nhưng con người hầu như quá bận rộn hay quá cứng đầu nên không để ý tới.

Mỗi người trong chúng ta đã trải qua những kinh nghiệm mà chúng ta không thể giải thích được - một cảm giác đột ngột của sự cô đơn, hay một cảm giác của sự kinh ngạc, kính sợ trước diện mạo vĩ đại của toàn cõi vũ trụ này. Hay chúng ta đã một lần được thăm viếng bởi Sự Sáng, giống như tia sáng đến từ một mặt trời nào khác, khiến cho chúng ta lóe lên một ý nghĩ về sự bảo đảm rằng mình đang sống trên một thế giới khác, rằng nguồn gốc của chúng ta là thiêng liêng. Điều chúng ta thấy, cảm nhận, hay nghe được đó, có thể lắm trái ngược hoàn toàn với những điều chúng ta đã được dạy trong trường học và khác xa với những niềm tin và quan điểm của chúng ta trong quá khứ. Chúng ta bị buộc phải hoãn lại những nghi ngờ trong khi các đám mây bị cuốn đi xa, và chúng ta thấy, cũng như nghe cho chính bản thân mình (hình ảnh giống như khi một đám mây đen bị gió cuốn trôi đi, từ phía sau nó, những tia sáng ấm áp của mặt trời lan tỏa, thế giới chung quanh chúng ta trở nên sáng hơn, rực rỡ và xinh đẹp vô cùng. Đây là một hình ảnh tượng trưng cho thứ ánh sáng thuộc linh mà có lẽ một số

Page 162: Tong hop

trong số chúng ta đã kinh nghiệm được). Giải thích những việc đó theo ý riêng, tôi nghĩ chúng ta đã không thành thật với sự kiện cho đến khi ít nhất là chúng ta thừa nhận khả năng có thể của những kinh nghiệm như thế đến từ Sự Hiện Diện của Đức Chúa Trời trên thế giới, và sự cố gắng liên tục, không ngừng nghỉ của Ngài để tương giao với con loài người. Chúng ta đừng quá khiếm nhã loại trừ một giả thiết như vậy.

Đây chính là niềm tin của riêng tôi (và về điểm này, tôi hoàn toàn chẳng buồn chi hết nếu có người không đồng ý), rằng, bất cứ điều gì tốt và đẹp mà con người đã tạo ra được trên trần gian này là hậu quả của sự hồi đáp sai lầm và bị tội lỗi che kín của con người với Tiếng Phán sáng tạo đang vang dội khắp trên địa cầu và toàn cõi vũ trụ. Các nhà luân lý mơ tưởng đến đức hạnh cao cả của họ, những nhà tư tưởng tôn giáo suy đoán về Đức Chúa Trời và sự đồi bại, các nhà thơ, và những nhà nghệ thuật cho ra các tác phẩm mà con người cho là kiệt tác và bất hủ: làm thế nào chúng ta giải thích họ đây? Nếu chỉ nói đơn giản, “Đó là những thiên tài,” thì không đủ.

Thế thì thiên tài là gì? Có lẽ nào một thiên tài là một người thường được thăm viếng bởi Tiếng Phán, làm việc và tranh đấu giống một người bị ám ảnh phải đạt được những mục đích mà anh ta mới hiểu mang máng? Việc con người vĩ đại đó đã lãng quên Đức Chúa Trời trong công việc, hay anh ta đã từng nói hay viết những điều chống lại Đức Chúa Trời cũng không làm hỏng ý tưởng mà tôi đang đề cập đến. Sự khải thị giải cứu của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh là cần thiết cho đức tin cứu rỗi và sự bình an với Đức Chúa Trời. Đức tin trong một Đấng Cứu Rỗi đã sống lại là cần thiết nếu những kích thích mập mờ hướng về sự trái luân lý đã đưa chúng ta đến mối quan hệ yên ổn và thỏa lòng với Đức Chúa Trời. Đối với tôi, đây là một lời giải thích hợp lý về tất cả những gì tốt nhất đến ngoài Đấng Christ. Nhưng bạn vẫn có thể là một Cơ Đốc nhân tốt mà không chấp nhận quan điểm của tôi.Tiếng Phán của Đức Chúa Trời là một Tiếng Phán thân thiện. Không ai cần phải lo sợ khi lắng nghe cả trừ phi người đó đã làm cho tâm trí mình chống lại nó. Huyết của Đức Chúa Jêsus đã bao phủ không chỉ con loài người, mà còn tất cả những tạo vật khác nữa. “Và bởi huyết Ngài trên thập tự giá, thì đã làm nên hòa bình, khiến muôn vật dưới đất trên trời đều nhờ Ngài mà hòa thuận cùng chính mình Đức Chúa Trời” (Cô-lô-se 1:20). Chúng ta có thể yên tâm rao giảng về một thiên đàng thân thiện. Các từng trời cũng như trái đất được dẫy đầy bởi ý muốn tốt lành của Đấng đã ngự trong bụi cây cháy. Huyết toàn hảo của sự cứu chuộc bảo

Page 163: Tong hop

đảm cho điều này.

Bất cứ ai lắng nghe, sẽ nghe được Tiếng Phán Thiên Thượng. Đây rõ ràng không phải là thời điểm con người quan tâm đến lời kêu gọi lắng nghe, vì cớ lắng nghe không phải là một phần phổ biến trong tôn giáo ngày hôm nay. Chúng ta đang ở một vị trí trái ngược với điều đó. Tôn giáo đã chấp nhận một dị giáo kỳ quái, tức là (thừa nhận rằng: nhờ) sự ồn ào, quy mô, phạm vi hoạt động và sự ầm ĩ làm cho một con người trở nên thân tình với Đức Chúa Trời. Nhưng chúng ta có thể tin vững vàng hơn: Với một dân sự có sự mâu thuẫn, náo loạn dữ dội, Chúa phán, “Hãy yên-lặng và biết rằng ta là Đức Chúa Trời” (Thi thiên 46:10), và Ngài vẫn phán như vậy, dường như Ngài muốn nói với chúng ta rằng sức mạnh và sự an ninh của chúng ta không nằm trong sự ồn ào, mà là trong sự yên lặng.

Chúng ta yên lặng và chờ đợi Đức Chúa Trời là một điều hết sức quan trọng. Tốt nhất là chúng ta đến một mình, với quyển Kinh Thánh mở rộng trước mắt. Rồi thì nếu chúng ta muốn, chúng ta sẽ đến gần Đức Chúa Trời và bắt đầu lắng nghe Ngài phán với lòng chúng ta. Tôi nghĩ, với một người bình thường, tiến trình đó sẽ là một cái gì giống như thế này: Trước tiên là một âm thanh giống như của Sự Hiện Diện đang đi bộ trong vườn. Kế đến là một giọng nói, dễ hiểu, nhưng vẫn còn xa để nghe rõ. Rồi thì giây phút phước hạnh đến khi Thánh Linh bắt đầu soi sáng Thánh Kinh, và từ chỗ chỉ có một âm thanh, hay một giọng nói, bấy giờ đã trở thành Lời, ấm áp, và thân mật, rõ ràng giống như lời nói của một người bạn thân. Kế đến, sẽ có sự sống và ánh sáng, và trên hết, khả năng nhìn thấy và ngơi nghỉ trong vòng tay của Đức Chúa Jêsus, Chúa Cứu Thế, là Chúa, là Chủ của tất cả mọi sự.

Kinh Thánh sẽ không bao giờ là một quyển sách sống đối với chúng ta cho đến khi chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời đang phán trong toàn cõi vũ trụ của Ngài. Nhảy từ một thế giới phi nhân cách và chết chóc sang giáo lý Thánh Kinh là quá nhiều cho hầu hết mọi người. Họ có thể thừa nhận rằng Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời, và họ có thể cố gắng để suy nghĩ nó như vậy, nhưng họ thấy hầu như không thể tin được rằng những Lời trên các trang giấy đó là thật sự dành cho riêng họ. Một người có thể nói, “Những lời này dành cho tôi,” nhưng trong lòng anh ta không cảm nhận và biết nó là như vậy. Anh là nạn nhân của tâm lý chia cắt. Anh ta nghĩ về Đức Chúa Trời rằng Ngài câm lặng ở mọi nơi trên thế giới này, và chỉ nói trong một cuốn sách mà thôi.

Page 164: Tong hop

Tôi tin rằng phần lớn sự thiếu niềm tin tôn giáo của chúng ta là do một quan niệm và một cảm nhận sai lầm về Kinh Thánh của Chân Lý. Một Đức Chúa Trời câm nín thình lình bắt đầu phán trong một cuốn sách, và khi cuốn sách được đọc đến trang cuối cùng và gấp lại, mọi thứ trở nên câm lặng mãi mãi. Bây giờ chúng ta đọc cuốn sách này giống như là một bản ghi lại những điều Đức Chúa Trời nói khi Ngài đang nói trong một thời gian ngắn. Với những quan niệm như thế trong lòng mình, làm sao chúng ta có thể tin được? Sự thật là Đức Chúa Trời không câm nín, Ngài cũng chưa từng và sẽ chẳng bao giờ câm nín cả. Bản chất của Đức Chúa Trời là Phán. Ngôi Hai của Ba Ngôi được gọi là Ngôi Lời. Kinh Thánh hiển nhiên là một kết quả của Tiếng Phán liên tục, không ngừng nghỉ của Đức Chúa Trời. Đó là một lời tuyên bố không thể sai lầm mà Ngài ban cho chúng ta đặt để vào trong những lời thuộc ngôn ngữ con người.

Tôi nghĩ rằng một thế giới mới sẽ xuất hiện, vượt lên trên những đám sương mù tôn giáo khi chúng ta rờ chạm đến Kinh Thánh với tư tưởng, niềm tin rằng nó không chỉ là một cuốn sách của những Lời đã một lần phán ra, mà cũng là một quyển sách của những Lời hiện đang phán nữa. Các tiên tri thường nói, “Đức Giê-hô-va phán vậy.” Họ có ý muốn những người nghe họ hiểu rằng Đức Chúa Trời đang phán, đây là thì hiện tại. Chúng ta có thể dùng thì quá khứ một cách hoàn hảo để xác định vào một thời điểm nào đó, Lời nào đó của Đức Chúa Trời đã được phán ra, nhưng một Lời của Đức Chúa Trời đã được phán ra, thì sẽ liên tục được phán ra, giống như một đứa trẻ, sinh ra rồi thì sẽ tiếp tục sống, hay giống như thế giới này một lần đã được tạo ra và vẫn tiếp tục tồn tại. Và những thứ đó cũng chỉ là những ví dụ bất toàn, vì đứa trẻ sẽ chết đi khi già, và thế giới này sẽ bị hủy diệt, nhưng Lời Đức Chúa Trời còn cho đến đời đời.

Nếu bạn muốn tiếp tục tiến bước để được biết Đức Chúa Trời, ngay bây giờ, hãy lập tức đến với Kinh Thánh và mong đợi Lời đó nói với chính mình. Đừng đến với Kinh Thánh mà trong tâm trí vẫn còn quan niệm rằng nó chỉ là một thứ tầm thường, bạn có thể vứt đâu đấy khi không cần đến. Nó là một cái gì còn hơn là một vật, đó là một giọng nói, một Lời, chính là Lời của Đức Chúa Trời Hằng Sống.

Lạy Chúa, hãy dạy con biết lắng nghe. Thời đại của con tràn ngập hàng ngàn, hàng vạn những âm thanh dơ bẩn, liên tục tấn công con. Hãy ban

Page 165: Tong hop

cho con tinh thần của cậu bé Sa-mu-ên xưa, khi cậu đáp rằng, “Xin hãy phán, kẻ tôi tớ Ngài đương nghe.” Hãy để con được nghe Ngài phán trong lòng mình. Hãy khiến con quen thuộc với thanh âm của Tiếng Phán của Ngài, để tiếng của Ngài luôn luôn dễ dàng cho con nhận ra trong mớ tạp âm trần thế, hãy khiến tai con chỉ nghe một mình tiếng Ngài thôi, điều duy nhất con nghe được, Chúa ôi, con mong ước đó là nhạc điệu trong Tiếng Phán của Ngài. A-men.

Tiếp Nhận Đấng Christ Nghĩa Là Gì

Một vài việc, thật may mắn là chỉ có một vài, là những vấn đề của sự sống và cái chết, chẳng hạn như cuộc hành trình vượt đại dương hay chuyến đi xuyên qua sa mạc. Trốn khỏi những thứ nguy hiểm đến tính mạng này không phải là đánh bạc hay nắm bắt cơ hội; nó là tự sát. Chính là ở điểm này: hoặc là lựa chọn đúng hoặc là sẽ chết.

Mối tương giao của chúng ta với Ðấng Christ là một vấn đề sống hay chết đại loại như vậy nhưng ở trên một bình diện cao hơn nhiều. Một con người được Thánh Kinh dẫn dắt biết rằng Ðức Chúa Jêsus Christ đã đến trần gian để cứu tội nhân và rằng con người chỉ được cứu bởi Ðấng Christ mà thôi, hoàn toàn không dính dáng gì đến những việc giá trị họ làm được.

Ðiều đó là thật và được biết đến nhiều, nhưng rõ ràng là sự chết và sống lại của Ðấng Christ không tự động cứu vớt mỗi con người. Làm thế nào một con người cá biệt có thể bước vào trong mối liên hệ cứu rỗi với Ðấng Christ? Chúng ta biết việc một số người làm được, nhưng những người khác thì không là điều quá rõ ràng. Làm thế nào chiếc cầu lại được bắt ngang qua vực thẳm giữa sự giải cứu được ban cho cách khách quan và sự cứu rỗi được nhận lãnh cách chủ quan? Làm thế nào mà những điều Ðấng Christ đã làm trong tôi lại trở nên có hiệu lực đối với tôi? Ðối với câu hỏi, "Tôi phải làm gì để được cứu rỗi?" chúng ta phải học câu trả lời đúng. Thất bại ở điểm này không phải là đánh bạc may rủi với linh hồn chúng ta; bèn là bảo đảm một sự trục xuất đời đời khỏi trước mặt Ðức Chúa Trời. Ở đây chúng ta phải đúng hoặc cuối cùng sẽ hư mất.

Ðối với câu hỏi đầy băn khoăn này, các Cơ Ðốc nhân Tin Lành đề nghị ba câu trả lời, "Hãy tin nơi Ðức Chúa Jêsus Christ," "Hãy nhận Ðấng Christ

Page 166: Tong hop

làm Cứu Chúa của riêng bạn," và "Hãy tiếp nhận Ðấng Christ." Hai trong số những câu trả lời gần như là nguyên văn Kinh Thánh (Công vụ 16:31; Giăng 1:12), trong khi đó cái thứ ba là một lời diễn giải bao trùm cả hai cái trên. Vì thế chúng không phải là ba bèn là một.

Trong sự lười biếng thuộc linh, chúng ta có khuynh hướng tự nhiên là hướng về phương cách dễ dàng nhất để giải quyết những câu hỏi tôn giáo cho chính chúng ta và cho những người khác; vì thế cái công thức "Tiếp nhận Ðấng Christ" đã trở thành một phương thuốc trị bệnh được sử dụng rộng khắp, và tôi tin rằng nó gây tai họa cho nhiều người. Dầu không có gì nghi ngờ khi một người ăn năn thỉnh thoảng lại có suy nghĩ nghiêm túc có thể tìm thấy trong công thức đó tất cả sự hướng dẫn anh ta cần để đưa chính mình vào sự sống liên hiệp với Ðấng Christ, tôi lo sợ rằng có quá nhiều những người tìm kiếm sử dụng nó như một con đường tắt để đi đến Ðất Hứa, nhưng rồi họ chỉ phát hiện ra rằng nó đã dẫn họ đến "xứ tối tăm và bóng sự chết, không hề trở lại; tức đất tối đen như mực..." (Gióp 10:21-22).

Vấn đề là ở chỗ thái độ: "Tiếp nhận Ðấng Christ" có khuynh hướng đi đến chỗ sai trật. Nó cho thấy rằng Ðấng Christ được áp đặt theo chúng ta hơn là chúng ta theo Ngài. Nó khiến Ngài đứng khúm núm chờ đợi sự quyết định của chúng ta trên Ngài, thay vì chúng ta phải quỳ xuống với lòng bối rối mà chờ đợi quyết định của Ngài trên đời sống chúng ta. Ngay cả nó có thể cho phép chúng ta tiếp nhận Ðấng Christ như một sự bốc đồng của tâm trí hay những cảm xúc, một cách không đau đớn, bản ngã chúng ta chẳng mất chi và đường lối thông thường của cuộc sống chúng ta cũng chẳng có gì bất tiện.

Vì tình trạng không hiệu quả của việc giải quyết vấn đề sống còn này mà chúng ta có thể tưởng tượng ra một số điều tương đương: chẳng hạn, dường như dân Y-sơ-ra-ên ở Ai Cập đã "tiếp nhận" huyết của Lễ Vượt Qua nhưng vẫn tiếp tục sống trong sự trói buộc, hay đứa con trai hoang đàng "tiếp nhận" sự tha thứ của người cha và vẫn tiếp tục ở chung với đàn heo trong một nơi xa xôi nào đó. Mọi sự không rõ ràng, nếu việc tiếp nhận Ðấng Christ có ý nghĩa nào đó thì tất phải có một hành động đạo đức đi kèm chứ?

Ðể cho điệp ngữ: "Tiếp nhận Ðấng Christ" đứng đó như một nỗ lực chân thành để nói ngắn gọn những điều không thể nói tốt hơn trong bất kỳ phương cách nào khác, chúng ta hãy xem điều chúng ta nói có ý nghĩa gì

Page 167: Tong hop

và nó nên có ý nghĩa gì khi chúng ta dùng nó.

Tiếp nhận Ðấng Christ tức là hình thành một kết nối với Thân Vị của Chúa Jêsus; chúng ta thảy cùng hiệp một trong kinh nghiệm con người. Sự kết nối đó có tính chất trí năng, ý chí và tình cảm. Người tin được thuyết phục về mặt trí năng rằng Ðức Chúa Jêsus vừa là Chúa và cũng là Ðấng Christ; anh ta đã đặt ý chí của mình theo sau Ngài bằng bất cứ giá nào và chẳng bao lâu sau lòng anh vui hưởng sự ngọt ngào tuyệt diệu của sự thông công với Ngài.

Sự kết nối này bao gồm toàn bộ trong một điều, vui mừng tiếp nhận Ðấng Christ vì tất cả những gì mà Ngài là như vậy. Không có sự chia cắt hèn nhát của những lễ nghi mà nhờ đó chúng ta có thể nhận biết Ngài là Cứu Chúa ngày hôm nay và Ngài nắm giữ quyết định của quyền làm Chủ của mình cho đến tương lai. Người tin thật sự thừa nhận Ðấng Christ là Tất cả trong Tất cả của đời sống anh, mà không có một sự dè dặt nào. Anh gồm tóm toàn bộ con người mình, không để cho phần nào của mình không được ảnh hưởng đến bởi sự biến đổi có tính chất cách mạng (của Ðấng Christ - ND).

Hơn nữa, sự kết nối của anh với Ðấng Christ bao gồm tất cả mọi sự. Ðối với anh ta, Ðức Chúa Trời trở nên không phải một trong những điều hấp dẫn sống còn, bèn là một sự thu hút độc nhất mãi mãi. Anh xoay quanh Ðấng Christ như trái đất xoay quanh mặt trời, được ở trong quỹ đạo bởi hấp lực của tình yêu Ngài, lôi kéo trọn đời anh với ánh sáng và sự ấm áp từ Ngài. Trong trạng thái hạnh phúc này, anh nhận được những quyền lợi khác; điều này là thật, nhưng tất cả được quyết định bởi mối tương giao của anh với Ðức Chúa Trời.

Việc chúng ta tiếp nhận Ðấng Christ theo phương cách bao-gồm-tất-cả, loại-trừ-tất-cả này là một mệnh lệnh thiêng liêng. Tại đây đức tin thực hiện cú nhảy đến Ðức Chúa Trời qua Thân Vị và công việc của Ðấng Christ, nhưng nó không bao giờ chia tách công việc ra khỏi Thân Vị. Nó tin nơi Ðấng Christ, hoàn toàn là Ðấng Christ mà không có một sự thay đổi nào hay dè dặt nào, và vì thế đức tin nhận lãnh cũng như vui hưởng tất cả những gì Ngài đã làm trong công việc giải cứu, tất cả những gì Ngài đang làm trên thiên đàng vì chính Ngài và vì tất cả những gì Ngài làm trong và qua đức tin.

Tiếp nhận Ðấng Christ là biết được ý nghĩa của những lời "Chúa thể nào thì

Page 168: Tong hop

chúng ta cũng thể ấy trong thế gian này" (I Giăng 4:17). Chúng ta chấp nhận những người bạn của Ngài là bạn của chúng ta, những kẻ thù của Ngài là kẻ thù của chúng ta, đường lối Ngài là đường lối chúng ta, điều Ngài khước từ là điều chúng ta khước từ, thập giá của Ngài là thập giá của chúng ta, sự sống của Ngài là sự sống của chúng ta và tương lai của Ngài là tương lai của chúng ta.

Nếu đây là điều chúng ta muốn nói khi chúng ta khuyên một người tiếp nhận Ðấng Christ, tốt hơn chúng ta nên giải thích cho anh ta. Nếu chúng ta không giải thích, anh ta sẽ rơi vào sự bối rối thuộc linh rất nguy hiểm.

Tiếp Nhận Lời Khuyên Răn

Một phân đoạn ngắn trong sách Truyền Ðạo có nói đến "một ông vua già cả mà dại, chẳng còn biết nghe lời khuyên can."

Cũng không khó để hiểu lý do tại sao vị vua già, đặc biệt nếu ông thực sự là một người dại, lại cảm thấy không cần đến lời khuyên răn. Sau khi ông đã truyền ra mệnh lệnh trong nhiều năm ròng, có thể ông đã tạo nên một tâm lý tự tin vốn không thể chấp nhận ý nghĩ là ông nên nhận lãnh sự khuyên dạy từ người khác. Lời của ông đã trở thành luật, và đối với ông, những điều đúng là đồng nghĩa với ý muốn của ông và những điều sai có nghĩa là những điều đi ngược lại những gì ông muốn. Chẳng bao lâu sau, tư tưởng cho rằng không có một ai đủ thông minh hay đủ tốt để khuyên can mình sẽ dễ dàng đi sâu vào tâm trí ông.

Không kể đến quá trình đạo đức đã đưa ông đến tình trạng cứng lòng của mình, hồi chuông đã được rung lên để cảnh báo ông. Xét về chi tiết, ông là một người hư mất. Thân xác héo hon, già cỗi của ông vẫn còn đó giống như một loại mồ mả có thể di chuyển được làm chỗ ở cho một linh hồn đã chết. Hy vọng đã mất từ lâu. Ðức Chúa Trời đã lìa bỏ ông trong tính tự phụ tai hại của mình. Và rồi chẳng bao lâu sau ông cũng sẽ chết về phần xác, và ông chết cái chết của một kẻ dại dột.

Tình trạng tấm lòng bác bỏ sự khuyên răn là đặc trưng của dân Y-sơ-ra-ên qua nhiều thời kỳ khác nhau trong lịch sử của họ, và những thời kỳ này luôn luôn kéo theo sự đoán phạt. Khi Ðấng Christ đến với người

Page 169: Tong hop

Do Thái, Ngài thấy họ đã chìm ngập trong sự tự tin ngạo mạn đến độ không thèm chấp nhận sự khiển trách. "Chúng tôi là dòng dõi Áp-ra-ham," họ đáp cách lạnh lùng khi Ngài phán với họ về tội lỗi và nhu cầu cần sự cứu rỗi của họ. Người dân bình thường đã nghe Ngài và ăn năn, nhưng những thầy tế lễ người Do Thái đã làm vương làm tướng quá lâu để có thể sẵn sàng từ bỏ địa vị đầy dẫy đặc quyền của họ. Giống vị vua già, họ đã quen với việc lúc nào cũng được coi là đúng. Quở trách họ tức là lăng mạ họ. Họ không chấp nhận sự khiển trách.

Các Hội Thánh và những tổ chức Cơ Ðốc đã cho thấy khuynh hướng rơi vào cùng một sai lầm vốn đã hủy diệt Y-sơ-ra-ên: đó là

Sự bất khả trong việc tiếp nhận lời khuyên.

Sau một thời gian phát triển và công việc thành công, tâm lý của sự tự khen giết chết người lộ diện. Sự thành công tự bản thân nó trở thành nguyên nhân của thất bại sau đó. Những nhà lãnh đạo đi đến chỗ xem mình như là người duy nhất thật được Ðức Chúa Trời lựa chọn. Họ là những đối tượng rất đặc biệt của đặc ân thiêng liêng; thành công của họ đủ làm bằng chứng cho thấy điều đó. Vì thế họ phải đúng, và bất cứ ai cố khuyên giải họ điều gì đều bị gạt phăng như một người lăng xăng quấy rầy, không có đủ thẩm quyền, là những người đáng lẽ ra phải xấu hổ vì dám chê bai những điều tốt hơn nơi họ.

Nếu có bạn nào tưởng rằng tôi đang chơi chữ thì hãy thử tìm đến một nhà lãnh đạo tôn giáo nào đó mà kêu gọi ông ta chú ý đến chỗ yếu đuối và tội lỗi trong tổ chức của mình xem sao. Bạn đó chắc chắn sẽ bị tống khứ đi ngay, bằng cách này hay cách khác, và nếu bạn vẫn kiên trì ở lại đó, bạn sẽ phải đối mặt với những bản báo cáo và thống kê chứng minh rằng bạn sai lầm nghiêm trọng và hoàn toàn ở ngoài vòng trật tự. "Chúng tôi là dòng dõi Áp-ra-ham" sẽ là chủ đề của lời biện hộ. Và ai mà lại cả gan phê phán gay gắt dòng dõi Áp-ra-ham?

Những người nào đã bước vào một trạng thái không còn có thể tiếp nhận lời khuyên răn thì những người đó hoàn toàn không có được lợi ích gì từ những lời cảnh báo này. Sau khi một người đã bước qua vách núi thẳng đứng, chúng ta chẳng còn có thể làm được gì nhiều cho người ấy; nhưng chúng ta có thể lắp đặt những bảng báo hiệu dọc đường đi để ngăn ngừa người tiếp theo sẽ sa xuống vực. Ðây là một vài báo hiệu:

Page 170: Tong hop

1. Ðừng bảo vệ Hội Thánh hay tổ chức của bạn bằng cách chống lại sự phê bình, chỉ trích. Nếu sự phê phán đó là điều sai trật, nó cũng chẳng có hại gì. Nếu nó đúng, bạn cần phải lắng nghe và làm một điều gì đó để khắc phục cái chưa tốt.

2. Ðừng quan tâm đến những gì bạn đã hoàn thành được, nhưng hãy lưu tâm đến những cái bạn đã có thể hoàn thành được nếu bạn vâng theo Ðức Chúa Trời một cách hoàn toàn. Thật tốt hơn khi nói (hay cảm thấy) rằng, "Chúng tôi là đầy tớ vô ích; điều chúng tôi đã làm là điều chắc phải làm."

3. Khi bị khiển trách, đừng chú ý đến người khiển trách. Ðừng hỏi liệu người khiển trách là bạn hay kẻ thù của bạn. Một kẻ thù thường có tác dụng lớn hơn trong việc khiển trách hay phê bình so với một người bạn vì họ không bị ảnh hưởng bởi sự thông cảm hay đồng cảm.

4. Hãy giữ lòng bạn rộng mở trước sự sửa trị của Ðức Chúa Trời và sẵn sàng tiếp nhận sự sửa phạt của Ngài bất luận ai là người cầm roi. Tất cả những thánh nhân vĩ đại đều đã học biết tiếp nhận sự sửa dạy trong ân điển - và đó có thể là một lý do tại sao họ lại là những thánh nhân vĩ đại.

Trách Nhiệm Của Cấp Lảnh Đạo

Lịch sử của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa chỉ ra một lẽ thật được thấy rõ ràng trong toàn bộ lịch sử, đó là: người dân đang là hoặc sẽ trở nên giống như những người lãnh đạo họ. Các vị vua dẫn đầu về đạo đức cho thần dân mình.Công chúng không bao giờ có thể tự hành động cách ồ ạt. Không có một người lãnh đạo thì giống như không có đầu, mà thân thể không đầu là một thân thể bất lực. Lúc nào cũng vậy, phải có ai đó dẫn đầu. Ngay cả bọn du thủ du thực tham gia vào vụ cướp hay mưu sát cũng không phải là một mớ vô tổ chức như vẻ ngoài của nó. Đâu đó đằng sau sự bạo lực là một người lãnh đạo mà ý tưởng của người đó chỉ đơn giản là được thi hành.Y-sơ-ra-ên đôi lúc nổi loạn và chống lại những người lãnh đạo mình, quả thật là thế, tuy nhiên các cuộc nổi loạn không phải là tự phát. Dân sự chỉ quay sang một người lãnh đạo mới và đi theo ông ta. Họ đi theo Đa-vít

Page 171: Tong hop

trong sự thờ phượng Đức Giê-hô-va, Sa-lô-môn trong việc xây đền thờ, Giê-rô-bô-am trong việc làm con bò vàng và Ê-xê-chia trong việc khôi phục lại sự thờ phượng trong đền thờ.

Thật chẳng có gì đáng khen khi đám đông lại quá dễ dẫn dắt như vậy, nhưng chúng ta không phải là đang đề cao hay khiển trách; chúng ta đang nói đến sự thật, và sự thật chính là dân sự đi theo nhà lãnh đạo, hoặc là tốt hơn, hoặc là tệ hơn. Một người tốt có thể thay đổi cục diện đạo đức của cả một quốc gia; hay một nhà lãnh đạo tham ô và tha hóa có thể dẫn cả quốc gia đến cảnh nô lệ. Câu tục ngữ: “Rau nào sâu nấy” tóm gọn trong 4 chữ một lẽ thật được dạy rất rõ ràng trong Kinh Thánh và hết lần này lại lần khác được lịch sử minh họa.

Cơ Đốc giáo ngày nay trong thế giới phương Tây là cái mà những nhà lãnh đạo nó là như vậy trong quá khứ đã qua, và đang trở nên giống như những nhà lãnh đạo của nó trong hiện tại. Hội Thánh địa phương sớm trở nên giống như mục sư của mình, và điều này là thật ngay cả trong những nhóm không tin tưởng nơi các mục sư. Người chăn thật của nhóm đó không mấy khó nhận ra; ông ta thường là người có thể đưa ra những lý luận mạnh mẽ chống lại bất cứ Hội Thánh nào có mục sư. Một nhà lãnh đạo có tâm trí mạnh mẽ của một nhóm địa phương, người thành công trong việc gây ảnh hưởng lên bầy chiên bằng việc dạy Kinh Thánh hay những buổi nói chuyện ứng khẩu trong các kỳ hội họp chính là người chăn, bất luận ông ta có chối cãi thế nào.Điều kiện tồi tệ của các Hội Thánh ngày nay có thể được truy nguyên trực tiếp từ những người lãnh đạo. Khi mà, như đôi lúc đã xảy ra, các thành viên của một Hội Thánh địa phương chổi dậy và đuổi mục sư đi vì giảng về lẽ thật, họ vẫn đang theo chân một người lãnh đạo. Đằng sau việc làm của họ chắc chắn sẽ tìm được một tay chấp sự xác thịt (và thường là giàu có) hay một trưởng lão chiếm quyền định đoạt ai sẽ là mục sư và ông ta sẽ phải nói gì hai lần vào mỗi Chúa Nhật. Trong những trường hợp đó, vị mục sư không thể hướng dẫn bầy chiên. Ông chỉ làm việc cho người lãnh đạo; một hoàn cảnh thật đáng thương.

Có một vài yếu tố góp phần vào tình trạng lãnh đạo thuộc linh tệ hại ngày nay. Dưới đây là một vài điều:

1. Sự sợ hãi. Ước muốn được yêu thích và ngưỡng mộ vốn rất mạnh mẽ, ngay cả giữa vòng các mục sư, cho nên, thay vì phải chịu sự phản đối của công chúng, vị mục sư chịu cám dỗ để rồi chỉ ngồi đó và mỉm

Page 172: Tong hop

cười duyên dáng với dân sự. “Sự sợ loài người gài bẫy,” Thánh Linh phán, và không có nơi nào hơn là ở trong chức vụ.

2. Cảnh túng quẫn tài chính. Các mục sư Tin Lành nổi tiếng là những người được trả lương thấp và gia đình của mục sư thường là có đông người. Ghép hai sự thật này lại với nhau thì bạn sẽ có một hoàn cảnh sẵn sàng để đưa đến nan đề và cám dỗ cho người của Đức Chúa Trời. Khả năng của giáo đoàn để chặn đứng dòng chảy của tiền vào trong Hội Thánh khi ông mục sư giảng một điều gì đó đụng chạm đến họ là rất phổ biến. Một mục sư bình thường sống từ năm này sang năm khác, phải đương đầu với nhiều vấn đề. Có được sự lãnh đạo thuộc linh mạnh mẽ cho Hội Thánh thường đồng nghĩa với việc mời gọi những thiếu thốn tài chánh đến, vì thế, những sự lãnh đạo đó bị giấu đi. Nhưng điều tội lỗi là ở chỗ sự lãnh đạo bị giữ lại trong thực tế lại là một sự lãnh đạo bị đảo ngược. Người lãnh đạo không dẫn bầy chiên của mình lên triền núi thì sẽ dẫn bầy mình xuống vực thẳm mà không hay.

3. Tham vọng. Khi Đấng Christ mới bắt đầu chức vụ, Ngài bị cám dỗ để tìm kiếm một chỗ cho riêng mình, và việc làm vừa lòng đám đông là một phương cách, mà thời gian đã chứng thực, để leo lên cao trong các quỹ đạo Hội Thánh. Thay vì dẫn dắt dân sự mình đến nơi mà họ phải đến, ông mục sư/truyền đạo khéo léo dẫn họ đến nơi mà ông biết họ muốn đến. Theo cách này ông tạo nên một vẻ bề ngoài của một nhà lãnh đạo mạnh mẽ, nhưng lại tránh đối đầu với bất kỳ ai, và vì thế bảo đảm một sự yêu thích của giáo hội khi Hội Thánh lớn hay một chức vụ cao hơn được mở ra.

4. Sự kiêu ngạo lý trí. Thật không may là trong các quỹ đạo tôn giáo lại có thần tượng của giới trí thức, vốn, trong quan điểm của tôi, chỉ là một trào lưu hippi được xoay mặt sai trái của nó ra ngoài. Một tay hippi, thay vì long trọng tuyên bố chủ nghĩa cá nhân, trong thực tế là một trong những người lệ thuộc nhiều nhất vào những con người tuân thủ giáo điều, vì thế người trí thức trẻ trên bục giảng run rẩy trong cái đại học Oxford bóng lộn mà anh ta đã lau chùi sạch sẽ vì sợ rằng mình sẽ bị luận tội khi nói một điều gì đó sáo rỗng hay quá quen thuộc. Dân sự trông chờ anh ta dẫn họ vào đồng cỏ xanh nhưng thay vào đó, anh dẫn họ vào sa mạc khô cằn.

5. Sự thiếu vắng của kinh nghiệm thuộc linh thật. Không ai có thể dẫn một người khác đi xa hơn chỗ mà chính anh ta đã đi. Đối với nhiều

Page 173: Tong hop

mục sư, điều này giải thích sự thất bại trong lãnh đạo của họ. Chỉ đơn giản là họ không biết mình đi đâu.

6. Sự chuẩn bị không đầy đủ. Các Hội Thánh bị cản trở nhiều bởi những tay nghiệp dư tôn giáo, về phương diện văn hóa, không thích hợp để phục sự tại bàn thờ, và dân sự phải gánh chịu hậu quả. Họ bị dẫn đi sai lối và không biết điều đó.

Phần thưởng của sự lãnh đạo tin kính là rất lớn và những trách nhiệm của người lãnh đạo cũng rất nặng nề đến độ không một ai dám khinh suất với chúng.

Vài Ý Tưởng Về Sách và Việc Đọc Sách

Một vấn đề lớn ở nhiều nơi trên thế giới ngày nay là học biết cách đọc, và ở nhiều nơi khác là tìm kiếm một cái gì đó để đọc sau khi đã học rồi. Trong thế giới phương Tây, chúng ta có đầy dẫy những ấn phẩm, vì thế vấn đề ở đây trở thành một lựa chọn. Chúng ta phải quyết định không đọc cái gì.

Gần một thế kỷ trước, Emerson đã chỉ ra rằng nếu một người có thể bắt đầu đọc ngay từ khi vừa mới chào đời và tiếp tục đọc không ngừng nghỉ trong vòng 70 năm, thì đến cuối thời điểm đó anh ta chỉ đọc được một số sách đủ lấp đầy một góc nhỏ xíu trong Thư Viện Anh Quốc. Cuộc sống quá ngắn ngủi và sách vở có sẵn cho chúng ta thì quá nhiều, đến độ không một người nào có thể đọc được nhiều hơn 1% những quyển sách đã được xuất bản.

Cũng chẳng cần phải nói đến việc hầu hết trong chúng ta không có đủ sự lựa chọn cho việc đọc. Tôi thường tự hỏi có bao nhiêu yard vuông những tờ báo đã lướt qua trước mắt một con người văn minh bình thường trong thời gian một năm. Chắc chắn nó phải lên đến vài mẫu Anh; và tôi lo ngại rằng những độc giả bình thường của chúng ta không nhận thấy một vụ mùa rất lớn trên diện tích báo anh ta đọc. Một lời khuyên tốt nhất mà tôi đã được nghe về đề tài này, do một mục sư hệ phái Giám Lý phát biểu, là: "Hãy luôn luôn đọc tờ báo của bạn khi đang đứng." Henry David Thoreau cũng có một đánh giá thấp về nhật báo. Ngay trước khi rời khỏi thành phố để đến nơi tạm trú bên bờ của dòng sông Walden Pond, một người bạn hỏi ông rằng liệu ông có muốn

Page 174: Tong hop

tờ nhật báo được giao đến tận mái nhà tranh của ông hay không. "Không," Thoreau đáp, "tôi đã xem báo rồi."

Trong vấn đề đọc nghiêm túc của chúng ta, chúng ta có khuynh hướng bị ảnh hưởng rất lớn bởi quan điểm cho rằng giá trị chính của một cuốn sách là để thông tin; và nếu chúng ta đang nói về sách giáo khoa, điều này dĩ nhiên là đúng, nhưng khi nói hay viết về các cuốn sách, chúng ta không ám chỉ đến sách giáo khoa.

Cuốn sách tốt nhất không chỉ cung cấp thông tin, nhưng là cuốn sách khuấy động độc giả đến chỗ nhìn biết chính mình. Tác giả tài nhất là người đã đi với chúng ta qua thế giới của tư tưởng giống như một hướng dẫn viên thân thiện luôn đi bên cạnh chúng ta băng qua khu rừng rậm, chỉ cho chúng ta hàng trăm kỳ quan thiên nhiên mà trước đó chúng ta chưa hề chú ý đến. Vì thế chúng ta học từ ông ấy để nhìn thấy chính mình và chẳng bao lâu sau chúng ta không cần người hướng dẫn của mình nữa. Nếu ông ta làm tốt công việc của mình, chúng ta có thể bước đi một mình và chỉ để lỡ mất một chút nào đó trên đường mà thôi.

Tác giả làm nhiều nhất cho chúng ta là tác giả mang đến cho chúng ta những tư tưởng nằm sát cạnh tâm trí mình và chờ đợi để được nhìn biết như là của chính chúng ta. Một người như vậy hành động giống như một bà mụ giúp đỡ khi sinh nở những tư tưởng đã đang thai nghén trong linh hồn chúng ta từ lâu, mà nếu không có sự giúp đỡ này thì có thể sẽ chẳng bao giờ ra đời cả.

Ít có tình cảm nào lại thỏa lòng như là niềm vui phát xuất từ việc nhận biết và xác định được những tư tưởng của riêng mình. Tất cả chúng ta đều có những giáo sư, những người tìm kiếm để dạy dỗ chúng ta bằng cách đưa những ý tưởng xa lạ vào trong tâm trí của chúng ta, những tư tưởng mà chúng ta không hề cảm thấy có chút thân thuộc nào cả về mặt thuộc linh lẫn lý trí. Chúng ta nghiêm túc thử những điều này để tích hợp vào toàn bộ triết lý thuộc linh của chúng ta, nhưng luôn luôn không thành công.

Trong một ý nghĩa rất thực tế thì không ai có thể dạy một người nào; anh ta chỉ có thể giúp mình để dạy chính mình mà thôi. Các sự kiện có thể được chuyển đổi từ tâm trí này sang một tâm trí khác giống như các bản sao được thực hiện từ một băng gốc trên một cái máy thu băng. Lịch sử, khoa học, ngay cả thần học có thể được dạy theo cách này, nhưng

Page 175: Tong hop

nó hình thành một loại học thức nhân tạo khá cao và hiếm khi có ảnh hưởng tốt lên đời sống bên trong của học viên. Việc người học đóng góp điều gì trong suốt quá trình học tập cũng hoàn toàn quan trọng như bất cứ gì người thầy cống hiến. Nếu người học không hợp tác gì hết, thì kết quả cũng chỉ là vô dụng mà thôi; ở mức tốt nhất thì nó cũng sẽ có nhưng là sự sáng tạo nhân tạo của một giáo viên khác, người có thể lập lại một công việc tồi tàn lên người khác, không hơn không kém.

Sự nhận biết những tư tưởng hơn là cất giữ chúng phải là mục đích của giáo dục. Tâm trí phải là một con mắt để thấy hơn là một thùng rác để đựng sự kiện bên trong. Một người đã từng được dạy về Thánh Linh sẽ là một nhà tiên kiến hơn là một học giả. Sự khác biệt là ở chỗ học giả thì thấy, còn nhà tiên kiến thì thấy xuyên qua; và đó thực sự là một khác biệt đầy quyền năng.

Trí năng của con người, ngay cả khi đang ở trong tình trạng sa ngã của nó, là một công việc đáng sợ và lạ lùng của Ðức Chúa Trời, nhưng nó vẫn nằm trong bóng tối cho đến khi nó được Thánh Linh khai sáng. Chúa chúng ta không nói điều gì tốt về một tâm trí chưa được khai sáng, nhưng Ngài thích thú tâm trí đã được làm mới lại và soi sáng bởi ân điển. Ngài luôn tạo lập một chỗ cho bàn chân vinh hiển của Ngài; hầu như không có gì trên trần gian này đẹp hơn một tâm trí được đầy dẫy Thánh Linh, chắc chắn không có gì tuyệt vời hơn một tâm trí tỉnh táo và sốt sắng được làm cho trở nên sáng chói bởi sự hiện diện của Ðấng Christ ngự trị bên trong.

Vì những gì chúng ta đọc trong ý nghĩa thực tế sẽ đi vào linh hồn, nên việc chúng ta đọc những điều tốt nhất, và không đọc bất cứ điều gì khác hơn những điều tốt nhất, là điều quan trọng mang tính chất sống còn. Tôi không cảm thấy các Cơ Ðốc nhân trước đây tốt hơn vì họ không có nhiều tư liệu đọc để mà lựa chọn. Ngày nay chúng ta phải luyện tập một tính kỷ luật sắc bén trong thói quen đọc sách của mình. Mỗi Cơ Ðốc nhân phải am tường Kinh Thánh, hay ít nhất là phải dành hàng giờ, hàng ngày, và hàng năm cố gắng. Và phải luôn luôn đọc Kinh Thánh của mình, như George Muller nói, "với sự suy gẫm."

Sau Kinh Thánh, cuối sách có giá trị đứng hàng thứ nhì cho Cơ Ðốc nhân là một quyển thánh ca tốt. Hãy để một Cơ Ðốc nhân trẻ dành một năm suy gẫm trong sự cầu nguyện những bài thánh ca của Watts và Wesley thôi, anh ta sẽ trở thành một nhà thần học giỏi. Rồi để anh ta

Page 176: Tong hop

đọc ở mức độ cân bằng các tác phẩm của những người Thanh giáo và những nhà thần bí Cơ Ðốc. Những kết quả sẽ còn tuyệt vời hơn là điều anh ta có thể mơ tưởng đến.

Vị Trí Sống Còn Của Hội Thánh

Sự thể hiện cao cả nhất của ý muốn Đức Chúa Trời trong thời đại này là Hội Thánh mà Ngài đã mua bằng chính huyết của mình. Để được phù hợp với Kinh Thánh, bất cứ hoạt động tôn giáo nào cũng phải là một phần của Hội Thánh. Nói rõ hơn là trong thời đại này không thể có một chức vụ nào được chấp nhận trước mặt Đức Chúa Trời nếu không có trung tâm là Hội Thánh và bắt nguồn từ Hội Thánh. Trường Kinh Thánh, truyền đạo đơn cho xã hội, các ủy ban của những thương gia Cơ Đốc, chủng viện thần học, và nhiều nhóm độc lập hoạt động trên phương diện này hay phương diện khác của tôn giáo cần phải xem xét lại chính mình một cách nghiêm túc và can đảm, vì chúng (những hoạt động đó) sẽ không có một ý nghĩa thuộc linh nào nếu nằm ngoài hay tách rời khỏi Hội Thánh.

Theo Lời Kinh Thánh, Hội Thánh là nơi ngự của Đức Chúa Trời qua Đức Thánh Linh, và vì thế là một tổ chức quan trọng nhất ở dưới mặt trời. Đó không phải là một thể chế đi theo gia đình, quốc gia và trường học; Hội Thánh là điều quan trọng nhất của mọi thể chế - cái duy nhất có thể tuyên bố một nguồn gốc thiên thượng. Những người hoài nghi có thể hỏi chúng ta nói đến Hội Thánh nào, và họ đã nhắc chúng ta nhớ rằng Hội Thánh Cơ Đốc bị chia cắt quá nhiều, đến độ không thể nói hội nào là thật, ngay cả khi hội đó thực sự tồn tại. Nhưng chúng ta không phải bận tâm quá nhiều đến nụ cười của những người hoài nghi. Ở trong Hội Thánh, có lẽ chúng ta biết rất rõ những thiếu sót của Hội đó như chính những người ngoài có thể biết. Và chúng ta vẫn tin tưởng nơi Hội Thánh ở bất cứ nơi nào Hội Thánh thể hiện chính mình trong thế giới của tối tăm và vô tín.

Hội Thánh được tìm thấy ở bất cứ nơi nào Thánh Linh đã nhóm họp một vài người lại với nhau, những người tin nơi Đấng Christ vì sự cứu rỗi của họ, thờ phượng Đức Chúa Trời bằng tâm linh và không có quan hệ gì với thế gian cũng như xác thịt. Các thành viên có thể, nếu cần thiết, bị rải rác khắp nơi trên bề mặt trái đất và bị chia cắt bởi không gian cũng

Page 177: Tong hop

như hoàn cảnh, nhưng trong mỗi thành viên thật của Hội Thánh có một bản năng quay về nhà cùng với niềm khao khát bầy chiên cho ràn và cho người chăn. Hãy cho một số Cơ Đốc nhân thật một nửa cơ hội thôi, thì họ sẽ tụ họp nhau lại và tổ chức, lập kế hoạch cho những buổi nhóm thường lệ để cầu nguyện và thờ phượng. Trong những buổi nhóm đó, họ sẽ nghe giảng giải Lời Chúa, cùng nhau bẻ bánh ra theo cách này hay cách khác, tùy theo quan niệm của họ, và cố gắng, càng xa càng tốt, trải rộng Phúc Âm cứu rỗi cho thế giới hư mất.

Những nhóm như thế là các tế bào trong thân thể Đấng Christ, và mỗi nhóm là một Hội Thánh thật, một phần thật sự của Hội Thánh lớn hơn. Chính bởi trong và qua những tế bào này Đức Thánh Linh làm công việc của Ngài trên đất. Ai khinh bỉ Hội Thánh địa phương là người khinh bỉ Thân Thể Đấng Christ.

Hội Thánh vẫn luôn được nhìn nhận như thế này: “Các cửa âm phủ chẳng thắng được hội đó.”

Yêu Chúa Và Yêu người

Một trong những vấn đề gây bối rối, có thể xuất hiện hoặc sớm hoặc muộn và quấy rầy Cơ Ðốc nhân đang tìm kiếm, là làm thế nào anh ta có thể hoàn thành mạng lệnh Thánh Kinh: Yêu Chúa với tất cả tấm lòng mình và yêu người lân cận như chính mình.

Một Cơ Ðốc nhân sốt sắng nhất, khi anh suy gẫm về nghĩa vụ thánh của mình là yêu mến Ðức Chúa Trời và con người, có thể kinh nghiệm một cảm giác thất bại được gieo từ sự nhận biết rằng anh ta dường như không thể có thêm một chút xúc cảm nào đối với Chúa của mình hay anh em chung quanh. Anh ta muốn thế, nhưng anh không thể làm được. Các nguồn cảm xúc say mê chỉ đơn giản là không còn nữa.

Phần nhiều những con người chân thật đã trở nên thất vọng bởi sự thiếu vắng xúc cảm mang tính chất tôn giáo (sự cảm động) và đã tự kết luận rằng họ không thực sự là Cơ Ðốc nhân gì cả. Họ kết luận rằng họ ắt hẳn đã đi nhầm đường từ một chỗ nào đó trong quá khứ và tôn giáo của họ chẳng là gì nhiều hơn một lời tuyên xưng rỗng tuếch. Vì thế, trong chốc lát họ tấn công chính mình bằng sự lạnh lùng của mình, và cuối cùng lâm vào một tâm trạng chán nản ảm đạm, khó mà biết điều gì để suy nghĩ.

Page 178: Tong hop

Họ tin nơi Ðức Chúa Trời; họ thực sự tin Ðấng Christ là Cứu Chúa của mình, nhưng tình yêu mà họ hy vọng cảm nhận được trước sau như một lại trốn tránh họ. Vấn đề là gì?

Vấn đề không phải là một việc nhẹ nhàng. Một khó khăn thực sự đã vào cuộc, điều này có thể được xác định bằng một câu hỏi: Làm thế nào tôi có thể yêu khi đó là mạng lệnh? Trong tất cả những tình cảm mà linh hồn có thể có, tình yêu là điều tự do nhất, điều mà lý trí ít can thiệp nhất, một điều ít nhất là cũng có thể xuất phát từ tiếng gọi của nghĩa vụ hay bổn phận, và chắc chắn là tình yêu không đến từ mệnh lệnh của một ai khác. Không một đạo luật nào đã từng được ban hành lại có thể ép buộc một hữu thể đạo đức này yêu một người khác, vì bởi bản chất sâu thẳm của nó, tình yêu phải có tính tự nguyện. Không một ai có thể yêu người khác khi bị ép buộc hay bị đe dọa. Tình yêu thương không đến theo cách đó. Thế thì chúng ta phải làm gì với mạng lệnh của Chúa chúng ta là yêu Ngài và yêu người lân cận?

Ðể tìm được con đường dẫn chúng ta ra khỏi bóng đêm và bước vào ánh sáng mặt trời đầy phấn khởi, chúng ta chỉ cần biết rằng có hai loại tình yêu: tình yêu của cảm giác và tình yêu của ý muốn. Một cái nằm ở chỗ những tình cảm, còn cái kia nằm ở chỗ ý muốn. Có một cái chúng ta khó mà kềm chế được. Nó đến và đi, lên và xuống, lóe sáng và biến mất như điều nó lựa chọn, và thay đổi từ chỗ nóng ấm, sang chỗ lạnh lẽo, rồi nóng ấm trở lại, cũng giống như thời tiết vậy. Loại tình yêu đó không phải là cái mà Ðấng Christ đã nói đến khi Ngài phán bảo với dân sự là phải yêu mến Ðức Chúa Trời và yêu mến lẫn nhau. Chúng ta không thể ra lệnh cho con bướm đậu lên vai mình thể nào thì cũng không thể cố gắng để ra lệnh cho loại ảnh hưởng thất thường này thăm viếng lòng chúng ta thể ấy.

Tình yêu thương mà Kinh Thánh nói đến không phải là loại tình yêu của cảm giác; nó là tình yêu của ý muốn, một khuynh hướng có ý chí của tấm lòng. (Hai cụm từ này tôi mượn của một người khác, một bậc thầy của đời sống bên trong, người có ngòi bút chỉ gát lại khi qua đời.)

Ðức Chúa Trời không bao giờ có ý định để cho một bản thể như con người lại trở thành món đồ chơi của những cảm giác của họ. Ðời sống tình cảm là một phần hoàn hảo và cao quý của toàn bộ nhân cách, nhưng vì bản chất rất cơ bản của nó, nó chỉ là điều quan trọng thứ hai. Tôn giáo nằm ở ý chí, và sự công chính cũng vậy. Ðiều tốt lành duy nhất mà Ðức

Page 179: Tong hop

Chúa Trời nhìn nhận là một điều tốt lành xuất phát từ ý chí; sự thánh khiết duy nhất phù hợp là sự thánh khiết có ý chí.

Ðiều này nên là một tư tưởng vui mừng: Trước mặt Ðức Chúa Trời, mỗi con người là cái mà anh ta muốn trở thành. Ðiều đòi hỏi đầu tiên trong sự cải đạo là một ý chí được sửa đổi lại cho đúng. "Nếu ai muốn," Chúa chúng ta phán vậy và để nó ở đó. Ðể đạt được những đòi hỏi của tình yêu hướng về Ðức Chúa Trời, linh hồn rất cần ý chí để yêu và phép lạ để bắt đầu nở rộ như bông hoa trên cây gậy của A-rôn.

Ý chí là hoa tiêu tự động gìn giữ linh hồn đi đúng hướng. "Việc bay lên thật dễ dàng," một người bạn đang lái chiếc máy bay của mình nói. "Chỉ cần đưa nó lên, định hướng đi và đặt hoa tiêu. Sau đó nó sẽ tự bay." Chúng ta không được quá nhấn mạnh hình ảnh tượng trưng, nhưng quả thật là một điều phước hạnh khi ý chí quyết định hướng đi đạo đức chứ không phải tình cảm.

Cội rễ của mọi điều ác trong bản chất con người là sự hư hoại của ý chí. Những tư tưởng và ý định của lòng sai trái thì hậu quả là cả đời sống đi đến chỗ sai trái. Sự ăn năn chủ yếu là một thay đổi của mục đích đạo đức, một sự đảo ngược đột ngột và thường là mãnh liệt của hướng đi của linh hồn. Ðứa con trai hoang đàng cất bước đầu tiên của mình từ chuồng heo và nói, "Ta sẽ đứng dậy trở về cùng cha." Trước đó anh ta đã một lần muốn rời bỏ nhà cha mình, bây giờ anh muốn quay về. Hành động kế tiếp của anh chứng tỏ mục đích của mình là chân thành. Anh đã quay về.

Một số người có thể kết luận từ những điều bên trên rằng chúng ta đang loại bỏ niềm vui của Chúa như là một phần có cơ sở vững chắc trong đời sống Cơ Ðốc nhân. Ðể tránh kết luận sai lầm đó, tôi xin giải thích thêm.

Ðể yêu Chúa với cả tấm lòng mình, trước hết chúng ta phải muốn làm như thế. Chúng ta phải ăn năn sự thiếu tình yêu của mình và quyết định từ giây phút này trở đi sẽ xem Chúa là trung tâm của sự tận hiến. Chúng ta phải đặt những tình cảm của mình vào những điều ở trên cao kia và hướng lòng mình về Ðấng Christ cũng như những gì thuộc về thiên thượng. Chúng ta phải đọc Kinh Thánh một cách trung tín mỗi ngày và cầu nguyện để vâng theo nó, luôn luôn có một ý chí vững chắc là yêu Chúa với trọn tấm lòng mình và yêu người lân cận như mình.

Page 180: Tong hop

Nếu chúng ta làm những điều đó, chúng ta có thể chắc chắn rằng mình sẽ được kinh nghiệm một sự thay đổi tuyệt vời trong đời sống bên trong. Chúng ta sẽ sớm tìm thấy niềm vui lớn của mình khi những tình cảm của chúng ta ngày càng trở nên ít thất thường hơn và đang bắt đầu di chuyển theo hướng của "khuynh hướng có ý chí của tấm lòng". Những tình cảm của chúng ta sẽ được kỷ luật và định hướng. Chúng ta sẽ bắt đầu nếm biết "sự ngọt ngào kỳ lạ" trong tình yêu của Ðấng Christ. Tình cảm tôn giáo của chúng ta sẽ bắt đầu dâng lên bằng những đôi cánh vững chãi thay vì đi vu vơ vô ích mà không có mục đích hay một định hướng khôn ngoan. Trọn vẹn đời sống, giống một nhạc cụ tinh xảo, sẽ hòa thanh và hát ngợi khen Ngài, Ðấng đã yêu thương chúng ta và rửa sạch chúng ta khỏi tội lỗi mình trong chính huyết của Ngài.

Nhưng trước hết chúng ta phải muốn, vì ý chí là chủ của tấm lòng.

Tác giả: A. W. Tozer