Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
MỤC LỤC
A. THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ ................................................................... 2
I. Thị trường tiền tệ - tín dụng ................................................... 2
II. Thị trường ngoại hối và vàng .................................................. 8
1. Thị trường ngoại hối ................................................................ 8
B. THỊ TRƯỜNG VỐN ........................................................................ 13
I. Thị trường chứng khoán ....................................................... 13
II. Thị trường BĐS ...................................................................... 20
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
2
A. THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
I. Thị trường tiền tệ - tín dụng
Thị trường tiền tệ - tín dụng thế giới
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã đưa ra dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm nay là
3,3% (giảm 0,1% so với dự báo hồi tháng 7) và năm 2015 là 3,8% (giảm 0,2% so với dự báo
trước) do tình hình kinh tế tăng trưởng kém tại EU, Nga, Trung Đông và Nhật Bản, đồng thời
cảnh báo về đà phục hồi còn yếu và không đồng đều.
Tuy nhiên, IMF đã nâng dự báo tăng trưởng của Mỹ từ 0,5% lên 2,2% trong năm nay và
cho rằng nền kinh tế lớn nhất thế giới suy giảm giai đoạn đầu năm chỉ vì các yếu tố tạm thời. Số
liệu mới được công bố trong tháng 10 cho thấy, kinh tế Mỹ đã tăng trưởng 3,5% trong quý III,
cao hơn nhiều so với dự báo 3% trước đó. Điều này cho thấy Mỹ vẫn đang trên đà phục hồi tích
cực. Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ trong tháng 10 cũng giảm xuống mức thấp nhất trong 6 năm trở lại
đây (5,8%) cùng số việc làm mới được tạo ra ở mức cao là những dấu hiệu cho thấy sự vững
vàng của nền kinh tế lớn nhất thế giới, bất chấp sự suy yếu của châu Âu hay các thị trường mới
nổi.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) quyết định tiếp tục giữ mức lãi suất thấp cho tới khi nền
kinh tế mạnh hơn vì lo ngại việc tăng lãi suất sớm sẽ gây tác hại kép lên nền kinh tế trong bối
cảnh kinh tế toàn cầu đang có dấu hiệu suy giảm. Tuy nhiên, FED đã tuyên bố chấm dứt gói hỗ
trợ QE3 vì cơ quan này tin tưởng vào triển vọng tăng trưởng của Mỹ cũng như sự khởi sắc trên
thị trường lao động. Gói QE3 bắt đầu được áp dụng từ 13/9/2012 đến nay, theo đó mỗi tháng
FED sẽ mua trái phiếu dài hạn trị giá 85 tỷ USD nhằm hỗ trợ tăng trưởng và giảm tỷ lệ thất
nghiệp. Cùng với gói QE3, mức lãi suất thấp kỉ lục (gần bằng 0%) cũng được duy trì nhưng
nhiều chuyên gia phân tích kinh tế đang kì vọng FED sẽ nâng lãi suất vào giữa năm 2015 trước
những dấu hiệu lạc quan của lạm phát và thị trường lao động của nước này.
Tại châu Âu, IMF đã đánh giá khu vực này đang trải qua quá trình phục hồi đa tốc độ, GDP
Anh sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh trong khi đó Pháp, Đức và Italy lại tăng trưởng chậm và không
ổn định. NHTW châu Âu (ECB) vẫn giữ nguyên chính sách kinh tế và không đưa ra biện pháp hay
chính sách mới nào cũng như không tăng thêm giá trị chương trình mua trái phiếu để giúp nền kinh
tế khu vực hồi phục trở lại cũng như ngăn chặn tỷ lệ lạm phát giảm sâu.
Trên thị trường liên ngân hàng London, lãi suất đồng USD cũng như đồng EUR của tất cả
các kì hạn chỉ biến động nhẹ (xem biểu đồ 1, 2). So sánh lãi suất đồng USD ngày cuối tháng
(31/10) với ngày đầu tháng (1/10), kì hạn qua đêm, 3 tháng và 12 tháng giảm nhẹ (0.00050% –
0.02380%), các kì hạn còn lại tăng nhẹ từ 0,00130 – 0,00390% trong đó kỳ hạn 1 tháng có mức
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
3
tăng mạnh nhất. Lãi suất đồng EUR của hầu hết các kì hạn tăng nhẹ ở phiên cuối tháng so với
đầu tháng. Riêng lãi suất kỳ hạn 1 tuần giảm 0,00214%, các kì hạn còn lại tăng nhẹ từ 0,00143%
- 0,01% trong đó kỳ hạn 12 tháng tiếp tục là kỳ hạn có mức giảm mạnh nhất. Lãi suất kỳ hạn qua
đêm mang giá trị âm suốt tháng và chỉ tăng lên giá trị dương vào ngày giao dịch cuối cùng của
tháng (0,04357%).
Biểu đồ 1: Lãi suất đồng USD và EUR trên Thị trường liên ngân hàng London tháng
10/2014
USD
EUR
Nguồn: homefinance.nl
Biểu đồ 2: Lãi suất đồng USD và EUR trên Thị trường liên ngân hàng London 10 tháng
đầu năm 2014
USD
EUR
Nguồn: homefinance.nl
IMF cũng hạ dự báo tăng trưởng của Nhật Bản xuống 0,9% cho năm 2014 do những ảnh
hưởng của việc nâng thuế tiêu dùng từ 5% - 8% hồi tháng 4. NHTW Nhật (BOJ) đã giữ nguyên
chính sách tiền tệ được trong suốt tháng cùng nhận định nền kinh tế nước này đang phục hồi dù
-
0.10000
0.20000
0.30000
0.40000
0.50000
0.60000
0.70000
1/10 11/10 21/10 31/10
KH 1 tháng KH 3 tháng
KH 6 tháng KH 12 tháng
-
0.05000
0.10000
0.15000
0.20000
0.25000
0.30000
0.35000
1/10 11/10 21/10 31/10
KH 1 tháng KH 3 tháng
KH 6 tháng KH 12 tháng
-
0.10000
0.20000
0.30000
0.40000
0.50000
0.60000
0.70000
1/1 1/2 1/3 1/4 1/5 1/6 1/7 1/8 1/9 1/10 1/11
KH 1 tháng KH 3 tháng
KH 6 tháng KH 12 tháng
-
0.10000
0.20000
0.30000
0.40000
0.50000
0.60000
1/1 1/2 1/3 1/4 1/5 1/6 1/7 1/8 1/9 1/10 1/11
KH 1 tháng KH 3 tháng
KH 6 tháng KH 12 tháng
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
4
vẫn chịu những ảnh hưởng tiêu cực từ việc tăng thuế tiêu dùng. Số liệu mới được công bố của
Nhật cho thấy tỷ lệ thất nghiệp của nước này trong tháng 9 đã tăng lên mức 3,6% (tăng 0,1% so
với tháng trước); giá tiêu dùng trong tháng 9 lại tăng 3% so với năm trước và là tháng tăng thứ
16 liên tiếp. Sau khi FED quyết định chấm dứt gói QE3, ngày 31/10 vừa qua, BOJ đã tuyên bố
nâng giá trị chương trình mua trái phiếu lên 80.000 tỷ JPY/năm, đồng thời tăng gấp 3 lần số tiền
đổ vào các quỹ giao dịch và ủy thác đầu tư bất động sản Nhật Bản. trong bối cảnh kinh tế đang
tăng trưởng chậm lại và động thái nới lỏng tiền tệ vào ngày cuối cùng của tháng này của BOJ
được các nhà phân tích đánh giá là nhằm đối phó với tình trạng lạm phát đang tăng chậm lại.
Tại Trung Quốc, nếu tính theo phương pháp tính GDP của IMF (ngang giá sức mua PPP)
thì nước này đã vượt qua Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới còn với phương pháp
thông thường không điều chỉnh theo PPP thì Trung Quốc vẫn chỉ đứng thứ 2 thế giới. Hiện nay
Trung Quốc vẫn theo đuổi chính sách tiền tệ nới lỏng. Nợ của nước này đã lên đến mức báo
động, bao gồm cả nợ của chính phủ, công ty và hộ gia đình, đã vượt quá GDP vào năm 2008 và
đến nay đã lên tới 250% tổng thu nhập quốc dân. Nền kinh tế phát triển quá nóng của Trung
Quốc đã tạo ra những khoản vay khổng lồ và tín dụng khi chảy vào các doanh nghiệp làm ăn
kém hiệu quả sẽ càng kéo tăng trưởng chậm lại.
Để hỗ trợ tăng trưởng cũng như cung cấp thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, NHTW
Trung Quốc (PBoC) đã không dùng biện pháp truyền thống là cắt giảm lãi suất cơ bản mà bơm
tiền vào hệ thống thông qua các công cụ có kỳ hạn 3 tháng với lãi suất 3,5%. Theo đó, PBoC đã
bơm vào thị trường 500 tỷ NDT trong tháng 9 và 269,5 tỷ NDT trong tháng 10. PBoC cũng cho
biết sẽ tiếp tục triển khai chính sách tiền tệ thận trọng và sẽ sử dụng nhiều công cụ khác nhau để
điều chỉnh thanh khoản. PBoC cũng giữ nguyên tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng như duy trì lãi suất cơ
bản trong 2 năm trở lại đây.
Nhận định: Kinh tế Mỹ đang trên đà phục hồi tích cực nhưng vẫn có thể chịu những ảnh
hưởng bất lợi từ sự suy yếu của các nền kinh tế ở nước ngoài. Khu vực EU cũng đang phải đối
mặt với nguy cơ tăng trưởng chậm, không đồng đều giữa các nước thành viên và tỷ lệ thất
nghiệp cao. Đà tăng trưởng chậm này của EU sẽ là gánh nặng đối với đà phục hồi của kinh tế
thế giới. Tại châu Á, việc BOJ công bố tăng chương trình kích thích kinh tế đã giúp chứng khoán
toàn cầu tăng vọt và thiết lập nhiều mức kỷ lục mới còn ở Trung Quốc, tăng trưởng giảm tốc và
nhiều vấn đề của nền kinh tế còn chưa được giải quyết dù có tăng kích thích tài khóa hay tiền tệ.
Thị trường tiền tệ - tín dụng trong nước
Một loạt các ngân hàng ở cả khối quốc doanh và TMCP đã giảm nhẹ lãi suất huy động ở
các kỳ hạn 3 – 12 tháng và đưa mặt bằng lãi suất xuống thấp hơn so với mức trần 6% nhằm cải
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
5
thiện lợi nhuận vào giai đoạn đầu tháng. Bên cạnh đó, Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia đã
đưa ra dự báo lạm phát cho cả năm 2014 chỉ ở mức 3 – 4% nên mức trần lãi suất huy động được
các nhà đầu tư cũng như giới chuyên môn đánh giá sẽ giảm trong thời gian từ nay tới cuối năm.
Và đúng như dự đoán, NHNN đã điều chỉnh giảm trần lãi suất huy động vào ngày 28/10. Theo
quyết định số 2173/QĐ-NHNN, trần lãi suất đối với tiền gửi bằng VND đối với tiền gửi không
kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng là 1%/năm, kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng là 5,5%/năm.
Các kỳ hạn từ 6 tháng trở lên không bị giới hạn bởi trần lãi suất mà do khách hàng và tổ chức tín
dụng tự thỏa thuận. Theo quyết định số 2172/QĐ-NHNN, trần lãi suất đối với tiền gửi bằng USD
đối với tổ chức là 0,25%/năm và đối với cá nhân là 0,75%/năm. Các mức lãi suất điều hành (gồm
lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên
ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân
hàng) được giữ nguyên. Cả 2 quyết định đều có hiệu lực thi hành kể từ ngày 29/10/2014.
Với mức lạm phát hiện nay, lãi suất huy động có thể giảm mà người gửi tiền vẫn được
hưởng mức lãi suất thực dương. So với mặt bằng lãi suất cho vay trong khu vực, lãi cho vay ở
Việt Nam còn cao gấp 2 lần, vì vậy việc giảm lãi suất huy động sẽ là cơ sở cũng như áp lực để
giảm lãi suất cho vay nhằm tăng sức cạnh tranh cũng như tăng khả năng sinh lời cho doanh
nghiệp. Lãi suất huy động giảm sẽ không ảnh hưởng nhiều tới lượng vốn huy động do gửi tiết
kiệm trong giai đoạn này vẫn được coi là một trong những kênh đầu tư an toàn và có hiệu quả.
Tính đến ngày 24/10, lượng vốn huy động đã tăng 11,88% so với cuối năm 2013, trong đó huy
động vốn bằng tiền đồng tăng 13,17% chủ yếu ở khu vực dân cư. Sự chênh lệch về lãi suất tiền
gửi của VND cao hơn 5-6 lần so với USD nên người dân cũng có xu hướng chuyển từ gửi USD
sang VND để tăng thêm lợi nhuận. Bên cạnh đó, sự tiện lợi trong tiêu dùng đối với đồng nội tệ
hay việc dễ dàng chuyển đổi sang ngoại tệ khi có nhu cầu với tỷ giá ổn định cũng là những yếu
tố tác động tới xu hướng này.
Trong khi vốn huy động tăng 11,88% thì tín dụng mới chỉ tăng 7,85% so với cuối năm
2013 (số liệu tính đến ngày 24/10). Cơ cấu tín dụng vẫn tiếp tục chuyển dịch theo hướng tập
trung vào các ngành, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ. So sánh với số liệu cùng
kỳ năm trước (7,3%) thì con số 7,85% của năm nay được xem là có nhỉnh hơn và như vậy, mục
tiêu tăng trưởng 12 – 14% cho cả năm 2014 cũng có nhiều khả năng hoàn thành khi quý IV
thường là thời gian tín dụng tăng trưởng mạnh nhất trong năm.
Lãi suất cho vay hiện cao gấp 5 – 6 lần lạm phát là một mức chênh lệch phi lý và dù lãi
suất huy động có giảm hay không thì NHNN cũng cần quyết liệt hơn trong việc chỉ đạo giảm
thêm lãi suất cho vay. Theo thống kê của NHNN, lãi suất cho vay VND ở khối NHTM Nhà nước
phổ biến ở 9% - 10%/năm trong ngắn hạn và 10,5% - 11,5%/năm trung dài hạn; ở khối
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
6
NHTMCP, lần lượt là 9,5% - 10%/năm và 11% - 12%/năm; đối với 5 lĩnh vực ưu tiên ở cả 2
khối chỉ còn 7% - 8%/năm. Các NHTM liên tục đưa ra những gói cho vay ưu đãi cho khách hàng
(cả doanh nghiệp và cá nhân) nhưng để tiếp cận được lãi suất ưu đãi vẫn không phải việc dễ. Do
lo ngại nợ xấu nên các ngân hàng chỉ muốn cho những doanh nghiệp tốt vay, nhưng những đối
tượng này lại chưa có nhu cầu vay, còn những doanh nghiệp chấp nhận vay với lãi suất cao thì
ngân hàng lại không dám giải ngân vì rủi ro lớn, kể cả đối với những doanh nghiệp vướng nợ xấu
và đã được xử lý sau khi bán nợ cho VAMC.
Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất của các kì hạn có xu hướng tăng mạnh giai đoạn
giữa tháng và giảm dần ở cuối tháng (xem biểu đồ 1).
Biểu đồ 1: Diễn biến lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tháng 10/2014
(Nguồn: sbv.gov.vn)
Lãi suất liên ngân hàng của tất cả các kì hạn đều có mức tăng mạnh vào giai đoạn giữa
tháng. Sự biến động mạnh này có thể xuất phát từ việc không đồng đều về thanh khoản giữa các
ngân hàng. Các ngân hàng nhỏ có nhu cầu vay vốn cao trong giai đoạn này đã đẩy lãi suất liên
ngân hàng ở tất cả các kì hạn lên cao. Bên cạnh đó, sự kiện liên quan tới ngân hàng Đại Dương
cũng có những ảnh hưởng nhất định tới thị trường liên ngân hàng, mặt bằng lãi suất liên tiếp ghi
nhận những biến động mạnh với lãi suất của các kì hạn đồng loạt tăng cao. Tuy nhiên, NHNN đã
điều tiết thanh khoản với việc bơm tiền qua kênh thị trường mở giúp ổn định lại thanh khoản của
hệ thống và giảm đà tăng của lãi suất liên ngân hàng. Với sự hỗ trợ kịp thời của NHNN, thanh
khoản của hệ thống sẽ tiếp tục ổn định và trong ngắn hạn, mặt bằng lãi suất liên ngân hàng sẽ
không có những biến động quá lớn.
Thống kê giao dịch trong tháng (từ ngày 01 – 31/10) tổng doanh số giao dịch bằng VND
trên thị trường liên ngân hàng đạt 462.601 tỷ đồng (bằng 126,81% so với tháng trước), tương
đương với doanh số giao dịch bình quân 1 ngày đạt 20.113,09 tỷ đồng. Giao dịch chủ yếu tập
trung ở các kì hạn ngắn như qua đêm, 1 tuần và 2 tuần. Cụ thể, doanh số giao dịch của kì hạn qua
-
0.50
1.00
1.50
2.00
2.50
3.00
3.50
4.00
1/10 6/10 11/10 16/10 21/10 26/10 31/10
KH qua đêm KH 1 tuần KH 2 tuần KH 1 tháng
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
7
đêm đạt tỷ trọng lớn nhất 193.458 tỷ đồng (chiếm 41,82%), tiếp theo là kì hạn 1 tuần với doanh
số đạt 157.228 tỷ đồng (chiếm 33,99%) và kì hạn 2 tuần với doanh số 66.221 tỷ đồng (chiếm
14,31%). Tỷ lệ doanh số giao dịch các kì hạn từ 1 tháng trở xuống đạt 437.873 tỷ đồng (chiếm
94,65%).
Trên thị trường mở, NHNN đã bơm ròng trong tháng 10 (xem biểu đồ 2).
Biểu đồ 2: Diễn biến thị trường mở tháng 10/2014
(Nguồn: tổng hợp)
Tính trong 5 tuần (từ ngày 29/9 đến ngày 31/10), NHNN đã bơm ròng 42.011 tỷ đồng
qua thị trường mở, trong đó NHNN hút ròng qua nghiệp vụ mua kỳ hạn (Reverse Repo) là 5 tỷ
đồng và bơm ròng qua nghiệp vụ bán tín phiếu (Sell Outright) là 42.016 tỷ đồng. Ở nghiệp vụ
mua kỳ hạn, do thanh khoản của hệ thống khá dồi dào trong thời gian qua nên NHNN đã không
bơm thêm vốn mới qua kênh OMO đồng thời cũng không có lượng vốn nào đáo hạn trong 2 tuần
đầu của tháng. Giao dịch trong giai đoạn này tiếp tục diễn biến ảm đạm của tháng trước. Tuy
nhiên, khi lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng mạnh phản ánh tình trạng thiếu thanh
khoản của một số ngân hàng nhỏ thì NHNN đã can thiệp bằng việc bơm thêm tiền để cân bằng
lại mặt bằng lãi suất. Trong bối cảnh nhu cầu vốn của các NHTM sẽ gia tăng cũng như tăng
trưởng tín dụng thường tăng tốc trong giai đoạn cuối năm, hoạt động trên thị trường mở được kì
vọng sẽ sôi động hơn.
Nghiệp vụ bán tín phiếu có diễn biến sôi động hơn hẳn nghiệp vụ mua kỳ hạn. Các kỳ
hạn 28 ngày, 56 ngày và 91 ngày cùng được đấu thầu trong tháng. Tổng số tín phiếu được phát
hành (tính trong 5 tuần từ 29/9 – 31/10) là 72.848 tỷ đồng, trong đó tín phiếu kỳ hạn 91 ngày
chiếm tỷ trọng lớn nhất 43,56%, tín phiếu kỳ hạn 28 ngày chiếm 31,13% và tín phiếu kỳ hạn 56
ngày chiếm 25,31%. Khối lượng trúng thầu giảm so với tháng trước và tập trung chủ yếu ở kì
-8,454
7,904
16,360 18,798
7,403
-10,000
-5,000
-
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
29/9 - 3/10 6/10-10/10 13/10 - 17/10 20/10 - 24/10 27/10 - 31/10
Nghiệp vụ mua kỳ hạn (tỷ đồng) Nghiệp vụ bán tín phiếu (tỷ đồng)
Khối lượng bơm/ hút ròng (tỷ đồng)
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
8
hạn 91 ngày cho thấy hệ thống NHTM đang ở trạng thái thận trọng với thanh khoản ngắn hạn,
đặc biệt ở các ngân hàng vừa và nhỏ.
Trong khi lãi suất của hai kì hạn 28 ngày và 56 ngày được giữ nguyên thì lãi suất kì hạn
91 ngày có biến động giảm nhẹ trong giai đoạn giữa tháng (giảm từ 3,4% xuống 3,24%), sau đó
phục hồi và tăng nhẹ ở cuối tháng (3,45%). Do trong giai đoạn vừa qua, thanh khoản của hệ
thống khá tốt nên lãi suất tín phiếu vẫn không có những biến động mạnh. Khối lượng giao dịch
tín phiếu vẫn ở mức cao cho thấy đây vẫn là kênh đầu tư được các ngân hàng lựa chọn bởi tính
thanh khoản cao và nguồn thu nhập cố định từ lãi suất trong bối cảnh tín dụng tăng trưởng chưa
cao. Trong thời gian tới, với kì vọng hoạt động trên thị trường mở sẽ sôi động hơn thì lãi suất
trúng thầu cũng được kì vọng sẽ tăng ở cả 3 kì hạn để thu hút thêm sự quan tâm đầu tư của các
ngân hàng.
II. Thị trường ngoại hối và vàng
1. Thị trường ngoại hối
Thị trường ngoại hối quốc tế
Chỉ số USD Index trong tháng 10/2014 diễn biến với xu hướng chung là tăng, đặc biệt tăng
mạnh giai đoạn cuối tháng. Chỉ số đạt mức cao nhất tại 86,17 ngày 30/10 và thấp nhất tại 84,86
ngày 15/10. Trong nhóm các đồng tiền mạnh, USD tăng 1,96% so với EUR, tăng 0,98% so với
CHF, tăng 2,35% so với GBP, tăng 5,03% so với JPY và tăng 2,05% so với AUD.
Biểu đồ 5 : Diễn biến chỉ số Dollar tháng 10/2014
Nguồn: www.marketwatch.com
Trong tháng, đồng USD biến động tăng giảm liên tục trước những thông tin kinh tế tốt
xấu đan xen. Theo báo cáo sơ bộ của Markit Economics, chỉ số PMI dịch vụ tháng 10 của Mỹ
giảm xuống 57,3 điểm từ 58,9 điểm của tháng trước đó. Tháng 10 cũng là tháng thứ 4 liên tiếp
chỉ số PMI dịch vụ giảm điểm. Nguyên nhân kéo giảm tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực dịch vụ là
do số đơn hàng mới trong tháng 10 đã xuống thấp nhất 3 tháng. Tuy nhiên, lĩnh vực dịch vụ tại
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
9
Mỹ cũng cho thấy mặt tích cực khi tốc độ tạo việc làm mới vẫn duy trì ở mức cao nhất 3 tháng.
Tháng 10, các doanh nghiệp tăng cường tuyển dụng nhờ nhu cầu nội địa tăng mạnh. Đồng USD
cũng được hỗ trợ phần nào khi niềm tin tiêu dùng của người dân Mỹ tăng cao trở lại nhờ giá
năng lượng giảm và thị trường việc làm tiếp tục cải thiện. Sự khác biệt về quan điểm chính sách
lãi suất hiện tại của Mỹ và châu Âu ngày càng hỗ trợ lớn cho USD. Trong khi Mỹ tiến tới tới
tăng lãi suất thì các khu vực khác, đặc biệt là châu Âu, lại chủ trương hạ thấp lãi suất hay nới
lỏng chính sách để thúc đẩy tăng trưởng. Cuối tháng, USD tăng giá mạnh trong khi kinh tế toàn
cầu tăng trưởng chậm chạp là 2 trở ngại chính đối với hoạt động xuất khẩu của Mỹ. Kinh tế Mỹ
đang chịu ảnh hưởng từ tình trạng tăng trưởng trì trệ của các nước lớn như Trung Quốc và khu
vực đồng EUR. Quyết định ngừng áp dụng chương trình nới lỏng định lượng thứ 3 (QE3) kể từ
ngày 01/11 của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) cũng ảnh hưởng đến sự tăng giảm của đồng
tiền này trong giai đoạn cuối tháng. Ngoài ra, việc tuyên bố nới lỏng tiền tệ hơn nữa của Ngân
hàng trung ương Nhật Bản đã khiến cho giới đầu tăng nhu cầu mua vào USD khi JPY xuống
thấp nhất 7 năm.
Tháng 10 tiếp tục là tháng đi xuống của đồng EUR so với đồng USD. Trong tháng, tỷ giá
đồng EUR/USD lên cao nhất tại mức 1,2822 ngày 16/10 và thấp nhất tại mức 1.2514 ngày 6/10.
Ngân hàng Trung ương châu Âu vẫn đang gặp khó với tình hình lạm phát thấp và tỷ lệ thất nghiệp
cao. Số liệu thống kê của châu Âu công bố cho thấy, lạm phát tháng 10 của khu vực đồng EUR
tăng nhẹ từ 0,3% lên 0,4%, khớp với dự báo của các nhà phân tích. Trong khi đó, tỷ lệ thất nghiệp
của eurozone vẫn duy trì ở ngưỡng 11,5%. Lạm phát thấp và tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở mức cao tạo
sức ép lên Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) trong việc nới lỏng hơn nữa chính sách tiền tệ
trong khu vực. Ngoài ra, theo ước tính nhanh của Markit Economics, chỉ số PMI tổng hợp của 18
nền kinh tế thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đã tăng vượt kỳ vọng lên 52,2
điểm trong tháng 10, so với 52 điểm trong tháng 9. Trong khi PMI của nền kinh tế Đức gây ấn
tượng thì tình hình tại Pháp không mấy tích cực khi PMI tổng hợp giảm xuống thấp nhất 2 tháng.
Đồng JPY đã giảm giá mạnh và xuống mức thấp nhất 7 năm so với USD sau quyết định
tăng cường kích thích kinh tế của BOJ. Ngày 31/10, Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ)
thông báo sẽ tăng cung tiền lên 80.000 tỷ (tương đương 724 tỷ USD) thông qua chương trình
mua trái phiếu nhằm kích thích kinh tế. Quỹ đầu tư hưu trí của chính phủ Nhật (GPIF) trước đó
cũng thông báo sẽ nâng mức đầu tư vào cổ phiếu Nhật cũng như cổ phiếu nước ngoài lên gấp đôi
so với mức trước đó. Có thể thấy, quyết sách của BOJ càng gây áp lực bán tháo lớn lên đồng
JPY. Tháng 10, Nhật Bản đã hạ mức đánh giá kinh tế của nước này trong tháng thứ hai liên tiếp,
một động thái làm tăng lo ngại về khả năng nước này sẽ tiến hành tăng thuế tiêu thụ lần thứ hai
vào năm 2015.Trong báo cáo kinh tế tháng 10, Nhật Bản cho biết nền kinh tế đang phục hồi vừa
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
10
phải với phần nào yếu kém thể hiện thời gian gần đây, và giá tiêu dùng đang tăng với tốc độ
chậm hơn.
Ngược lại, tỷ giá CNY/USD đã tăng 0,61% trong tháng 10. Trong tháng 10, Ngân hàng
trung ương Trung Quốc đã bơm thêm tiền vào thị trường, cho thấy chính sách của PBOC có
cùng hướng với ECB và BOJ trong khi Mỹ đã bắt đầu trở lại chính sách tiền tệ thông thường.
Thị trường ngoại hối trong nước
Trong tháng 10, tỷ giá VND/USD có diễn biến tăng giảm liên tục, trong đó giảm mạnh
giai đoạn giữa tháng, sau đó phục hồi vào giai đoạn cuối tháng. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng
do NHNN công bố ở mức 21.246 đồng/USD, mức giá sàn - trần tương ứng là 21.034-21.458
đồng/USD. Tháng 10, chỉ số giá USD tăng 0,18% so với tháng trước.
Biểu đồ 6: Diễn biến thay đổi tỷ giá USD/VND trong tháng 10/2014
Nguồn: Vietcombank.com
Giai đoạn đầu tháng, tỷ giá niêm yết tại các NHTM có nhiều biến động mạnh. Giá USD
tăng được cho là do kỳ vọng NHNN sẽ điều chỉnh tỷ giá và lãi suất tiền VND giảm trước phát
biểu của Thống đốc NHNN về khả năng điều chỉnh tỷ giá ở mức 1-1,43% trong năm nay. Từ đầu
năm đến nay NHNN đã điều chỉnh tỷ giá 1%, do vậy tỷ giá được kỳ vọng vẫn còn tăng 0,43%
trong những tháng cuối năm. Ngoài ra, việc xem xét điều chỉnh giảm lãi suất VND có thể khiến
khoảng cách lãi suất VND và USD tiếp tục thu hẹp, tác động tới cân bằng sức mua của VND so
với USD, từ đó tạo áp lực lên tỷ giá. Ngoài ra, tỷ giá tăng mạnh còn do một số ngân hàng trước
đây đã bán USD ra để kinh doanh trái phiếu, đã tiến hành chốt lời trái phiếu trong tuần qua, và
nhu cầu đóng lại trạng thái USD đã bán trước đó cũng phát sinh theo. Nhìn chung, diễn biến tăng
của tỷ giá phù hợp với diễn biến giá USD trên thế giới thời gian qua sau khi đồng USD đã tăng
tương đối mạnh so với các đồng tiền khác trước thông tin tích cực về nền kinh tế Mỹ.
21,200
21,220
21,240
21,260
21,280
21,300
21,320
21,340
1/10 5/10 9/10 13/10 17/10 21/10 25/10 29/10
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
11
Tuy nhiên, sau khi Ngân hàng Nhà nước lên tiếng trấn an thị trường, tiếp tục khẳng định
giữ ổn định tỷ giá, tỷ giá USD/VND giảm khá nhanh, tuy nhiên, cuối tháng, giá USD niêm yết
tại các ngân hàng thương mại lại liên tục có những bước tăng nhỏ. Như vậy, về cơ bản, thanh
khoản của thị trường ngoại hối vẫn tương đối ổn định và Ngân hàng Nhà nước cho biết luôn theo
sát diễn biến, chủ động và sẵn sàng áp dụng mọi biện pháp cần thiết để giữ vững ổn định thị
trường tiền tệ, ngoại hối và vàng.
2. Thị trường vàng
Thế giới
Thị trường vàng thế giới trong tháng 10/2014 diễn biến với xu hướng chung là tăng mạnh
hơn nửa đầu tháng, sau đó giảm mạnh vào giai đoạn cuối tháng. Trong tháng, giá vàng (giao ngay
tại thị trường NewYork) lên cao nhất tại mức 1.249,4 USD/oz vào ngày 21/10 và thấp nhất là
1.190,7 USD/oz ngày 2/10. Tính chung cả tháng, giá vàng thế giới đã giảm 1,53%.
Biểu đồ 7: Diễn biến giá vàng thế giới tháng 10/2014
Nguồn: kitco.com
Tháng 10, giá vàng thế giới vẫn đang chịu sức ép giảm giá từ diễn biến tăng mạnh của
đồng USD, những lo ngại về việc Cục dữ trữ Liên bang Mỹ (FED)nâng lãi suất sớm hơn dự kiến
và nhu cầu về vàng vật chất tại Trung Quốc và Ấn Độ trầm lắng. Có thể thấy, lực cầu vàng vật
chất không còn là nguồn hỗ trợ quan trọng cho giá vàng trong giai đoạn này.
Trong tháng, giá vàng và lượng vàng nắm giữ của các quỹ ETF đều giảm và điều này
khiến người tiêu dùng phải cân nhắc thêm trước khi mua vào. Tháng 10, lượng vàng bán ra của
Quỹ tín thác lớn nhất thế giới SPDR đạt trên 1 tỷ USD khi giới đầu tư giảm lượng vàng nắm giữ
trước dự đoàn giá vàng sẽ tiếp tục giảm sâu hơn nữa. Như vậy, lượng vàng nắm giữ của SPDR
còn 741,21 tấn, thấp nhất 6 năm qua sau khi đã bán ra 28,7 tấn trong tháng 10. Việc các quỹ tăng
cường bán ra làm tăng lượng vàng trên thị trường và càng thúc đẩy giá vàng tiếp tục giảm.
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
12
Đặc biệt, giai đoạn cuối tháng, thị trường vàng thế giới diễn biến với xu hướng sụt giảm
mạnh trước quyết định cắt giảm gói QE3 của FED. Giá vàng thế giới đã giảm 1,5% xuống mức
thấp nhất 3 tuần ngay khi Fed đưa ra quyết định của mình đồng thời cho biết thị trường lao động
đã được cải thiện mạnh và lạm phát sẽ sớm đạt ngưỡng mục tiêu.
Trong nước
Chịu ảnh hưởng lớn từ giá vàng thế giới, giá vàng trong nước tháng 10/2014 đặc biệt tăng
mạnh giai đoạn giữa tháng, sau đó giảm vào cuối tháng. Tính chung cả tháng, chỉ số giá vàng giảm
2,23% so với tháng trước, giảm 12,68% so với cùng kỳ năm trước. Chênh lệch giữa giá vàng
trong nước và giá vàng thế giới hiện khoảng 4,7 triệu đồng/lượng.
Biểu đồ 8: Diễn biến giá vàng trong nước tháng 10/2014
Nguồn: sjc.com.vn
Diễn biến giá vàng thế giới đang tiếp tục là nhân tố chi phối chính đối với giá vàng trong
nước trong tháng qua. Giá vàng trong tháng lên cao nhất tại mức 35,8 – 35,92 triệu đồng/lượng
(mua vào - bán ra) ngày 13/10 và thấp nhất tại 35,39 – 35,51 triệu đồng/lượng (mua vào - bán ra)
ngày 31/10. Ngoài ra, diễn biến trên thị trường ngoại hối và thị trường chứng khoán cũng ảnh
hưởng đến diễn biến của thị trường vàng trong nước.
Mặc dù cùng diễn biến tăng giảm như giá vàng thế giới nhưng mức tăng giảm của giá
vàng trong nước đều chậm hơn khiến mức chênh lệch giữa vàng trong nước và thế giới giãn
rộng, trong tháng, có thời điểm mức chênh lệch này tăng lên gần 5 triệu đồng/lượng.
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
13
B. THỊ TRƯỜNG VỐN
I. Thị trường chứng khoán
1. Thị trường chứng khoán thế giới
Thị trường chứng khoán thế giới trong tháng 10 biến động khá mạnh. Các chỉ số chứng
khoán chính của thị trường chứng khoán Mỹ giảm mạnh trong nửa đầu tháng và đảo chiều tăng
mạnh trong nửa cuối tháng 10. Tại thị trường châu Âu, diễn biến của các thị trường chứng khoán
lớn trong khu vực xảy ra tương tự chứng khoán Mỹ. Tại châu Á, thị trường chứng khoán Nhật
Bản và Hồng Kông tăng mạnh. Trong khi đó, chứng khoán Đài Loan và Hàn Quốc giảm điểm
nhẹ trong tháng 10.
Biểu đồ 9: Biến động các chỉ số Dow Jones công nghiệp (▬), Nasdaq tổng hợp (▬) và
S&P500 (▬) trong tháng 10/2014
Nguồn: Yahoofinance
Làn sóng bán tháo đã lan rộng trên toàn cầu trong nửa đầu tháng 10. Đồng thời, lợi suất
trái phiếu trên toàn thế giới cũng giảm xuống kỷ lục sau một số báo cáo kinh tế Mỹ kém khả
quan, lo ngại về tốc độ lây lan của dịch bệnh Ebola, tình trạng trượt giá dầu và sự suy yếu của
kinh tế khu vực đồng euro.
Chỉ số S&P 500 giảm liên tiếp do cổ phiếu năng lượng giảm mạnh khi giá dầu Brent
xuống thấp nhất gần 4 năm. Giá năng lượng giảm là yếu tố thúc đẩy giới đầu tư bán tháo cổ
phiếu của lĩnh vực này. Chứng khoán Mỹ cũng biến động mạnh do lo ngại về tăng trưởng toàn
cầu và triển vọng tăng lãi suất tại Mỹ. Trong giai đoạn này, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã hạ dự
báo tăng trưởng toàn cầu xuống 3,3% trong năm 2014 và 3,8% trong năm tiếp theo. Báo cáo này
đã dấy lên lo ngại về tình hình tăng trưởng kinh tế toàn cầu cũng như làn sóng bán tháo trên các
thị trường chứng khoán. Trong khi Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) gặp bế tắc với Đức
trong nỗ lực phục hồi tăng trưởng của khu vực thì Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) bày tỏ lo ngại
kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm có thể ảnh hưởng đến kinh tế Mỹ. Trong bối cảnh Fed tiến tới
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
14
kết thúc chương trình mua trái phiếu hàng tháng thì tình trạng tăng trưởng trì trệ của châu Âu sẽ
làm tổn thương kinh tế Mỹ. Kinh tế châu Âu tăng trưởng chậm chạp cùng với lạm phát thấp sẽ
đẩy USD tiếp tục tăng giá. Khi đó, xuất khẩu của Mỹ và giá cả hàng hóa đều sẽ bị hạn chế.
Ngoài ra, những rủi ro do căng thẳng địa chính trị gây ra và tình trạng “bong bóng” trên thị
trường chứng khoán cũng là những vấn đề đáng lo ngại trong thời điểm này. Việc duy trì chính
sách lãi suất thấp kỷ lục trong thời gian dài tại các nền kinh tế phát triển có thể khiến các thị
trường tài chính trở nên quá nóng.
Cũng trong giai đoạn này, chứng khoán Mỹ giảm thấp bất chấp những cải thiện trên thị
trường lao động. Giới đầu tư ngày càng thấy lo ngại về tình hình tăng trưởng không đồng đều tại
Mỹ. Mặc dù thị trường lao động có dấu hiệu tích cực, nhưng lĩnh vực sản xuất lại tăng trưởng
chậm trong tháng 9. Chỉ số PMI sản xuất chính thức của Mỹ giảm xuống 57,5 điểm trong tháng
9. Đầu tư vào xây dựng cũng giảm. Niềm tin tiêu dùng cũng sụt giảm trong tháng 9.
Trong giai đoạn nửa cuối tháng 10, chứng khoán Mỹ đảo chiều tăng điểm mạnh mẽ. Giá
dầu phục hồi, doanh thu của doanh nghiệp tăng vượt dự tính và niềm tin tiêu dùng lên cao nhất 7
năm là những yếu tố đẩy chứng khoán Mỹ tăng. Niềm tin tiêu dùng tại Mỹ cũng bất ngờ tăng
trong tháng 10 lên cao nhất 7 năm và giá dầu đang dần phục hồi sau khi liên tục trượt giá trước
đó. Tất cả những tín hiệu này đều khiến tâm lý đầu tư trên toàn cầu bớt căng thẳng hơn. Cổ phiếu
một số doanh nghiệp lớn đồng loạt tăng, đẩy chứng khoán Mỹ tăng điểm. Thị trường chứng
khoán Mỹ nhận được hỗ trợ lớn từ các báo cáo kinh doanh tích cực của khối doanh nghiệp Mỹ
trong quý III. Trong số những doanh nghiệp đã báo cáo kết quả kinh doanh, gần 80% có doanh
thu vượt dự báo trong khi 61% có doanh số bán hàng vượt ước tính. Doanh thu tăng mạnh củng
cố niềm tin của thị trường vào đà phục hồi mạnh mẽ của kinh tế Mỹ, thúc đẩy hoạt động chi tiêu
và tuyển dụng.
Biểu đồ 10: Biến động các chỉ số FTSE 100 (▬), DAX (▬),
và CAC 40 (▬) trong tháng 10/2014
Nguồn: Yahoofinance
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
15
Tại châu Âu, diễn biến của các thị trường chứng khoán lớn của khu cực khá tương đồng
với diễn biến chứng khoán Mỹ.
Trong giai đoạn đầu tháng, thị trường chứng khoán châu Âu đi xuống, đối diện với mạch
giảm dài nhất trong vòng hơn 1 năm qua, trong bối cảnh báo cáo tài chính các hãng kém khả
quan. Việc Fed dừng chương trình nới lỏng tiền tệ đã tác động đến thị trường tài chính toàn cầu,
và thị trường chứng khoán châu Âu cũng phải hứng chịu những phản ứng tiêu cực của giới đầu
tư cổ phiếu.
Trong nửa sau của tháng, thị trường chứng khoán châu Âu hào hứng đón nhận sắc xanh,
sau thông tin Ngân hàng châu Âu (ECB) cho biết hầu hết các ngân hàng cho vay tại khu vực đều
vượt qua bài kiểm tra “Stress test” - là một tín hiệu đáng vui mừng đối với sự hồi phục kinh tế
khu vực EU. Bảng điện tử khu vực hào hứng đón nhận đà tăng của 19 nhóm ngành theo dõi.
Trong đó, nhóm đơn vị cho vay tăng mạnh giá trị sau khi Ngân hàng châu Âu cho biết không
một ngân hàng lớn nào mắc phải lỗ hỗng trong bảng cân đối tài chính. Bên cạnh đó, thị trường
cũng bật tăng mạnh nhờ kì vọng chính sách hỗ trợ kinh tế của Nhật Bản sẽ bù vào khoảng trống
mà Fed vừa tạo ra khi rút chương trình QE3. Với việc Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) dừng bơm
tiền ra nền kinh tế, các nhà đầu tư hiện đang hướng vào chương trình kích thích kinh tế tại châu
Âu và Nhật Bản. Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) mở rộng chương trình kích thích kinh
tế, tăng lượng cung tiền lên tới 80 nghìn tỷ yên (tương đương 721 tỷ USD). Đây thực sự là một
động lực lớn cho thị trường chứng khoán, và có tác động tới tất cả thị trường toàn cầu.
Biểu đồ 11: Biến động các chỉ số Nikkei 225 (▬), Hang Seng (▬), và Kospi Composite (▬)
trong tháng 10/2014
Nguồn: Yahoofinance
Tại châu Á, dưới ảnh hướng tiêu cực từ thị trường chứng khoán Mỹ và châu Âu, các chỉ
số chứng khoán chủ chốt của khu vực cũng đồng loạt đi xuống trong nửa đầu tháng 10. Thêm
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
16
vào đó, tín hiệu tăng trưởng yếu ớt tại Trung Quốc và châu Âu dấy lên những lo ngại về tăng
trưởng kinh tế toàn cầu. Tại Nhật Bản, đồng Yen duy trì đà tăng đối với đồng USD – điều này
làm hạ triển vọng lợi nhuận đối với các hãng xuất khẩu.
Trong giai đoạn nửa sau tháng 10, thị trường chứng khoán châu Á đảo chiều tăng mạnh.
Nền kinh tế Mỹ tăng trưởng cao hơn so với kì vọng trong quý III ở ngưỡng 3,5% sau khi đã tăng
4,6% trong quý II, ghi nhận 6 tháng tăng trưởng mạnh nhất trong vòng 10 năm qua, đồng thời, số
đơn xin trợ cấp thất nghiệp trung bình tuần giảm xuống mức thấp trong vòng nhiều năm trở lại
đây cho thấy thị trường lao động được cải thiện đáng kể. Những tín hiệu tích cực trên đây tiếp
tục củng cố vững chắc niềm tin của thị trường vào đà phục hồi mạnh mẽ của Mỹ trong năm nay
bất chấp các nền kinh tế lớn khác, như Trung Quốc hay châu Âu, đang tăng trưởng chậm chạp.
Giới đầu tư kỳ vọng, đà phục hồi nhanh chóng của kinh tế Mỹ – nền kinh tế lớn nhất thế giới –
sẽ giúp kinh tế toàn cầu thoát khỏi tình trạng tăng trưởng trì trệ. Những tác động tích cực từ
chương trình nới lỏng tiền tệ của Nhật Bản và châu Âu cũng là yếu tố chính hỗ trợ thị trường
tăng điểm trong giai đoạn này.
Bảng 1: TTCK thế giới từ 1/10/2014 đến ngày 31/10/2014
Chỉ số
Ngày 1/10/2014 Ngày 31/10/2014 Tăng/
Giảm (điểm) (điểm)
Dow Jones 16.804,71 17.390,52 + 3,49%
S&P 500 1.946,16 2.018,05 + 3,69%
Nasdaq 4.422,09 4.630,74 + 4,72%
FTSE 100 6.557,52 6.546,47 - 0,17%
CAC 40 4.365,27 4.233,09 - 3,03%
DAX 9.382,03 9.326,87 - 0,59%
Nikkei 225 16.082,25 16.413,76 + 2,06%
Hang Seng 23.064,56 23.702,04 + 2,76%
Shanghai Composite 2.382,79 2.420,18 + 1,57%
Taiwan Weighted 8.990,26 8.974,76 - 0,17%
Kospi Composite 1.991,54 1.958,93 - 1,64%
Straits Times 3.264,09 3.274,25 + 0,31%
Nguồn: Bloomberg
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
17
2. TTCK trong nước
Thị trường chứng khoán niêm yết:
Biểu đồ 12: Diễn biến hai chỉ số VN-Index và HNX-Index trong tháng 10/2014
Nguồn số liệu: HOSE, HNX
Trong tháng 10/2014, thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục xu thế giảm điểm. Kèm
theo sự sụt giảm của hai chỉ số, tính thanh khoản trên hai sàn niêm yết đều giảm khá mạnh. Trên
sàn Hồ Chí Minh, chốt phiên giao dịch ngày 31/10, chỉ số VN-Index dừng tại mức 600,84 điểm,
tăng nhẹ 1,2 điểm (tương ứng +0,2%) so với thời điểm đóng cửa phiên giao dịch 30/9/2014.
Tổng KLGD trong tháng 9 đạt mức 3,121 tỷ cổ phiếu, tương ứng với GTGD đạt 55.723 tỷ đồng.
Tính bình quân, KLGD đạt 135,69 triệu cổ phiếu/phiên, GTGD đạt 2.423 tỷ đồng/phiên (-
19,25% KLGD, -23,6% GTGD so với tháng trước). Trên sàn Hà Nội, chốt phiên giao dịch ngày
cuối cùng của tháng 10, HNX-Index dừng ở mức 88,03 điểm, giảm nhẹ 0,6 điểm (tương ứng -
0,67%) so với thời điểm đóng cửa phiên giao dịch ngày 30/9/2014. Tổng KLGD trên sàn đạt
mức 1,575 tỷ cổ phiếu, tương ứng với GTGD đạt 21.835 tỷ đồng. Tính bình quân, KLGD đạt
68,48 triệu cổ phiếu/phiên, GTGD đạt 949,35 1.236,5 tỷ đồng/phiên (-22,46% KLGD, -23,19%
GTGD so với tháng trước).
Giai đoạn đầu tháng, thị trường chứng khoán Việt Nam có dấu hiệu khởi sắc khi mà cả
hai chỉ số chính của hai sàn đều có dấu hiệu đảo chiều tăng điểm sau một chuỗi dài sụt giảm
trước đó. Dòng tiền có dấu hiệu bắt đáy mạnh hơn khi mà thị trường đã kiểm tra thành công
ngưỡng hỗ trợ tại 595 điểm. Cũng trong giai đoạn này, hàng loạt các thông tin tích cực được
công bố về GDP, PMI, chỉ số sản xuất công nghiệp giúp tâm lý nhà đầu tư được cải thiện. Lực
mua của nhà đầu tư nội quay trở lại mạnh mẽ và là động lực của thị trường trong bối cảnh nhà
đầu tư ngoại đang chuyển sang trạng thái bán ròng. Nhóm cổ phiếu chứng khoán, bất động sản
và một số cổ phiếu trụ cột hồi phục mạnh đã kéo chỉ số tăng điểm.
0
50
100
150
200
250
550
560
570
580
590
600
610
620
630
1/10 8/10 15/10 22/10 29/10
KLGD ( triệu đơn vị) VN-Index (điểm)
0
20
40
60
80
100
120
80
82
84
86
88
90
92
1/10 8/10 15/10 22/10 29/10
KLGD (triệu đơn vị) HNX-Index (điểm)
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
18
Giai đoạn giữa tháng, thị trường điều chỉnh giảm mạnh khi mà cả hai chỉ số VN-Index và
HNX-Index giảm liên tiếp trong nhiều phiên. Trong đó phiên giao dịch ngày 16/10 ghi dấu ấn
sâu sắc với mức giảm 17,12 điểm (tương đương -2,83%) của VN-Index và 2,36 điểm (tương
đương -2,64%) của HNX-Index. Trong phiên này, cổ phiếu GAS đã giảm 5.000 đồng tương
đương 4,63% và là yếu tố chính tác động đến sự giảm sâu của sàn Hồ Chí Minh. Ngoài diễn biến
bất lợi từ cổ phiếu GAS, cổ phiếu OGC cũng trở thành tâm điểm của thị trường khi mà chỉ trong
phiên giao dịch ngày 23/10, cổ phiếu này đã giảm sàn với khối lượng giao dịch đột biến lên tới
22,4 triệu cổ phiếu, tương đương 255 tỷ đồng. Thông tin ông Hà Văn Thắm – nguyên chủ tịch
HĐQT của Tập đoàn OGC bị bắt giam được các cơ quan chức năng công bố chính thức vào ngày
24/10 cũng là một tin tức xấu và ảnh hưởng rất tiêu cực đến tâm lý các nhà đầu tư trong giai
đoạn này. Những thông tin khả quan về kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết hầu
như không có nhiều tác động đến thị trường, còn khối ngoại vẫn tiếp tục bán ròng trên cả hai sàn,
tập trung vào các mã vốn hóa lớn và là các mã dẫn dắt.
Giai đoạn cuối tháng, thị trường đảo chiều tăng điểm. Một số tin tức mới được công bố
và giới đầu tư đón nhận một cách khá tích cực. Đó là thông tin hạ trần lãi suất huy động VND từ
6% xuống 5,5%/năm, trần lãi suất tiền gửi USD của cá nhân tại các Ngân hàng thương mại giảm
từ 1% xuống 0,75%/năm. Ngay sau đó, tại cuộc họp thường kỳ của Ngân hàng nhà nước, lãnh
đạo tại các Ngân hàng lớn đã tuyên bố giảm lãi suất cho vay. Bên cạnh đó là sự thay đổi trong
động thái của khối ngoại. Trên sàn HOSE, khối ngoại đã bắt đầu mua ròng trở lại sau giai đoạn
bán ròng rất mạnh trước đó. Đây là một tín hiệu tích cực cho thị trường trong giai đoạn hiện nay.
Một số chính sách quản lý quan trọng trên TTCK
- Ngày 08/10/2014, Tiến sĩ Vũ Bằng, Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
(UBCKNN) có buổi tiếp và làm việc với ông Max Loh, Chủ tịch Ernst & Young khu vực
ASEAN. Tham dự buổi tiếp còn có đại diện lãnh đạo các đơn vị thuộc UBCKNN và các đại diện
cấp cao của Công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam. Nội dung buổi làm việc xoay quanh các
phương hướng hợp tác ưu tiên giữa hai bên trong thời gian tới.
- Sáng 9/10/2014, tại khách sạn Melia Hà Nội, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
(UBCKNN) phối hợp với Cục Tài chính doanh nghiệp (TCDN) và Sở GDCK Hà Nội (HNX) tổ
chức Hội nghị phổ biến một số chính sách mới về thoái vốn, bán cổ phần và đăng ký giao dịch,
niêm yết trên thị trường chứng khoán.
- Ngày 14/10/2014, Chủ tịch UBCKNN cấp Giấy chứng nhận đăng ký chào bán chứng
chỉ quỹ đầu tư chứng khoán ra công chúng số 84/GCN-UBCK cho quỹ ETF SSIAM HNX30 do
Công ty TNHH Quản lý quỹ SSI quản lý.
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
19
- Ngày 15/10/2014, Chủ tịch UBCKNN ban hành Quyết định số 778/QĐ-UBCK đưa
CTCP Quản lý quỹ Đầu tư Chứng khoán Liên Minh Việt Nam ra khỏi tình trạng kiểm soát đặc
biệt.
- Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đặt Công ty Cổ phần Chứng khoán Á Âu
vào tình trạng kiểm soát đặc biệt. Thời gian kiểm soát đặc biệt từ ngày 15/10/2014 đến ngày
15/2/2015.
Thị trường UPCoM và OTC:
Trong tháng 10 vừa qua, thị trường UPCoM diễn biến theo chiều hướng tích cực. Cùng
với sự tăng mạnh về điểm số, thanh khoản của thị trường cũng tăng ấn tượng. Chỉ số UPCoM-
Index đóng cửa phiên cuối tháng ở mức 124,36 điểm, tăng mạnh 84,4 % so với cuối tháng trước.
KLGD bình quân mỗi phiên trong tháng đạt 3,66 triệu cổ phiếu. GTGD bình quân ở mức 40,43
tỷ đồng.
Biểu đồ 13: Diễn biến chỉ số UPCoM-Index tháng 10/2014
Nguồn: HNX
Thị trường sơ cấp:
Đối với hoạt động huy động vốn thông qua đấu giá cổ phần, trong tháng 10, tổng lượng
vốn huy động được từ hai sàn đạt mức 491,55 tỷ đồng. Con số này giảm mạnh 74% so với lượng
vốn huy động được trong tháng trước.
Đối với thị trường trái phiếu, trong tháng 10 diễn ra 11 phiên đấu giá trái phiếu chính phủ
cho các kỳ hạn 5 năm, 10 năm và 15 năm. Tổng lượng tiền huy động được là 12,721 nghìn tỷ
đồng. Lượng vốn huy động được trong tháng 10 tăng nhẹ 6% so với tháng trước. Lãi suất trúng
thầu tiếp tục xu hướng giảm xuống so với tháng trước.
0
1,000,000
2,000,000
3,000,000
4,000,000
5,000,000
6,000,000
7,000,000
8,000,000
9,000,000
10,000,000
0
20
40
60
80
100
120
140
1/10 8/10 15/10 22/10 29/10
KLGD (đơn vị) UPCoM - Index (điểm)
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
20
II. Thị trường BĐS
Tin nổi bật
Ngày 15/10/2014, UBND tp. Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 33/2014/QĐ-UBND
quy định về diện tích tối thiều được tách hộ. Trong đó, trường hợp được tách thửa dưới diện tích
tối thiểu là trường hợp hộ gia đình, cá nhân thuộc chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo Thành phố hoặc
khi chia thừa kế thì UBND quận, huyện căn cứ quy hoạch, hạ tầng điều kiện cho phép tách thửa
dưới chuẩn nhưng diện tích tối thiểu không nhỏ hơn 25m2. Ngoài trường hợp trên thì thửa đất
tách ra để họp thửa với thửa liền kề được phép có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu được tách
thửa theo Quyết định số 33/2014/QĐ-UBND, nhưng diện tích thửa đất còn lại cũng phải lớn hơn
hoặc bằng diện tích tối thiểu được tách thửa.Quyết định có hiệu lực thi hành từ ngày 25/10/2014.
Bộ Xây dựng cho biết, từ đầu năm đến nay, tại Hà Nội, chỉ riêng phân khúc căn hộ đã
bán được trên 6.500 căn, trong đó quý III/2014 là khoảng 2.500 căn, tăng 2% so với quý trước
đó. Giá cũng đang có chiều hướng tăng nhẹ, ngay cả đối với phân khúc trung - cao cấp vốn kén
khách hàng. Phân khúc biệt thự, liền kề cũng có dấu hiệu tăng cả về giá bán và số lượng giao
dịch.
Tin thị trường
Giao dich trong thang 10 tương đôi ôn đinh, sưc mua không tăng nhiêu so vơi các thang
trước.
Thị trường căn hộ trong tháng qua khá bình lặng, không có nhiều dự án mở bán như
những tháng trước đây. Thanh khoản của phân khúc bình dân đang ổn định, tuy nhiên sức tiêu
thụ không mạnh như vài tháng trước do thị trường đang chờ đón động thái từ các dự án mới và
nguồn cung dồi dào.Tại thị trường Hà Nội, lượng giao dịch của phân khúc căn hộ cao cấp tại hầu
hết tại các dự án không khả quan như trong tháng 9. Không khác biệt nhiều so với Hà Nội, tại
Tp.HCM, lượng giao dịch căn hộ có dấu hiệu chậm so với tháng trước. Thanh khoản tại các dự
án còn chậm, khả năng tăng giá rất thấp.
Thị trường đất nền dự án và đất thổ cư tại Hà Nội đều có giao dịch yếu. Ít dự án mới mở
bán, sản phẩm của các dự án cũ với vị trí không tốt, giá chưa phù hợp, không đa dạng về diện
tích nên không thu hút được người mua. Thị trường đất nền hiện tại giá cao hơn so với chung cư,
bên cạnh đó, vì sở hữu độc lập nền đất nên người mua quan tâm trước tiên là vấn đề về pháp lý.
Vì vậy, những lô đất có sổ đỏ với diện tích từ khoảng 40-80m2 có mức giá dưới 2 tỷ được quan
tâm nhiều. Đất nền tại các quận gần trung tâm, giá không quá cao như Hà Đông, Long Biên, Gia
Lâm, Đông Anh, Nam An Khánh,…đang thu hút được sự quan tâm của người dân. Ngược lại, tại
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
21
thị trường Tp.HCM, giao dịch đất nền ven trung tâm tại quận 2, quận 7, Bình Chánh, Thủ
Đức…trong tháng qua đón nhận nhiều tín hiệu khả quan. Tuy lượng giao dịch chưa có sự đột
biến, nhưng các giao dịch diễn ra đều trong tháng cho thấy người mua đang chuyển hướng sang
phân khúc đất nền.
Nhận định: Về cơ bản thị trường BĐS khó có đột biến từ nay đến cuối năm mặc dù đang
có dấu hiệu hồi phục. Tuy thị trường đã có cải thiện về thanh khoản nhưng doanh nghiệp BĐS
vẫn chưa hết khó khăn. Ngoài ra, những dự án có giá hợp lý, vị trí tốt, nhiều tiện ích của các chủ
đầu tư uy tín vẫn là tâm điểm được thị trường quan tâm trong thời gian tới.
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 10/2014
22
Ghi chú
Xin vui lòng tham khảo thêm các “Báo cáo thị trường chứng khoán” định kỳ hàng quý và
các “Báo cáo chuyên đề” của phòng Phân tích dự báo thị trường để có thêm thông tin và phân
tích đầy đủ.
Liên hệ
Phòng Phân tích & Dự báo Thị trường,
Trung tâm NCKH-ĐTCK (UBCKNN)
Số 234 Lương Thế Vinh, Từ Liêm, Hà Nội
Điện thoại: 04-35430667; Fax: 04-35535869
Email: [email protected]
Nhóm nghiên cứu
Ông. Phạm Quang Huy (TP)
Ths. Tô Thị Thiên Nga
Cn. Phạm Thanh Phương
Cn. Lê Thị Trang