Upload
others
View
4
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Bộ, ngành
1. Thượng tướng Lê Quý Vương nói về cấp mã số định danh cá nhân
2. Sửa Luật Quản lý thuế theo hướng hiện đại và thống nhất hơn
3. Cơ chế một cửa đường hàng không quốc tế có những tiện ích gì?
4. Hợp nhất thu thuế và bảo hiểm xã hội?
5. Đề xuất tích hợp các loại giấy phép môi trường
6. Quản lý sản xuất, kinh doanh rượu thủ công: Cơ sở lúng túng, người dân loay hoay
7. Đổi mới để bắt kịp cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
8. Giảm phí thẩm định kinh doanh dịch vụ kiểm định an toàn lao động
Địa phương
9. Mọi nỗ lực cải cách đều hướng về người nộp thuế
1. Thượng tướng Lê Quý Vương nói về cấp mã số định danh cá nhân
Thượng tướng Lê Quý Vương sáng 14-11 cho rằng công tác quản
lý dân cư còn gây phiền hà, Bộ Công an đã cấp gần 8 triệu số định
danh cá nhân cho công dân tại 16 địa phương.
Sáng nay 14-11, tại Hội nghị triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia
về dân cư do Tổng Cục cảnh sát (Bộ Công an) tổ chức ở Hà Nội,
Thượng tướng Lê Quý Vương, Thứ trưởng Bộ Công an, cho biết sau
một thời gian triển khai thí điểm xây dựng dự án cơ sở dữ liệu quốc gia
về dân cư, Bộ Công an đã hoàn thiện khung pháp lý cho việc triển khai
dự án, xây dựng trung tâm dữ liệu quốc gia về dân cư ở Hà Nội và TP
HCM.
"Thông qua công tác cấp thẻ căn cước công dân (CCCD), đã cấp gần 8
triệu mã số định danh cá nhân cho công dân tại 16 địa phương và phối
hợp với Bộ Tư pháp cấp trên 700.000 số định danh cá nhân cho trẻ em
mới sinh tại 17 địa phương"- Thượng tướng Vương cho hay.
Thượng tướng Lê Quý Vương nhấn mạnh dự án cơ sở dữ liệu quốc gia
về dân cư đóng vai trò quan trọng trong việc đơn giản hóa thủ tục hành
chính cho công dân- Ảnh: Minh Chiến
Cũng theo Thứ trưởng Lê Quý Vương, Bộ Công an phối hợp với công
an các địa phương triển khai thí điểm thu thập thông tin dân cư tại TP
Phủ Lý (Hà Nam) và TP Hòa Bình (Hòa Bình), triển khai phần mềm quản
ly cư trú tại các đơn vị cho công an tỉnh Thừa Thiên Huế, triển khai thí
điểm hệ thống quản lý dân cư tại TP Hải Phòng.
Bên cạnh đó, Thượng tướng Lê Quý Vương cũng cho rằng công tác
quản lý dân cư vẫn còn một số tồn tại, như tình trạng di cư tự do, thiếu
sự quản lý trên nhiều phương diện. Tra cứu các thông tin về dân cư còn
chậm, gây phiền hà cho tổ chức, công dân. Phương pháp, trang thiết bị
phục vụ quản lý dân cư hiện nay còn lạc hậu, cơ bản là thủ công.
"Theo lộ trình, Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết đơn giản hóa thủ tục
hành chính. Để tổ chức thực hiện, cần thiết phải có sở sở dữ liệu quốc
gia về dân cư. Khi công dân đến độ tuổi quy định, phải được cấp CCCD.
Tiến tới cấp đổi chứng minh nhân dân sang CCCD, phù hợp với số định
danh cá nhân. Bởi số định danh cá nhân là cốt lõi thay đổi quản lý sổ hộ
khẩu như hiện nay"- Thứ trưởng Lê Quý Vương nói.
Theo Thứ trưởng, trên cơ sở số định danh, CCCD, Bộ Công an xây
dựng, hình thành 1 cơ sở dữ liệu quốc gia dân cư không chỉ nhằm mục
đích quan quản lý hộ khẩu mà dùng cho tất cả các nội dung thủ tục liên
quan đến công dân như thuế, bảo hiểm xã hội, y tế, giáo dục...
"Chỉ cần thẻ CCCD, công dân có thể thực hiện được các công việc liên
quan đến thủ tục hành chính. Việc này chống phiền hà, tiêu cực, quan
liêu trong việc giải quyết thủ tục cho công dân. Năm 2020 phải hoàn
thiện, đưa vào khai thác sử dụng trên cả nước"- Thượng tướng Lê Quý
Vương nhấn mạnh.
Đại diện Bộ Công an đánh giá dự án cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là
dự án có quy mô lớn, tính chất phức tạp, phạm vi triển khai rộng khắp từ
trung ương đến địa phương, trong khi đó nguồn vốn đầu tư cho dự án
rất lớn, ngân sách nhà nước hiện nay còn hạn chế.
Theo Nghị quyết 112 vừa ban hành, Chính phủ thông qua phương án
của Bộ Công an về việc bỏ các thủ tục về sổ hộ khẩu, CMND trong quản
lý dân cư để thống nhất việc quản lý bằng mã số định danh cá nhân.
Ở nhóm thủ tục đăng ký thường trú sẽ bãi bỏ hình thức quản lý dân cư
đăng ký thường trú bằng "sổ hộ khẩu" và thay thế bằng hình thức cập
nhật thông tin trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Đặc biệt, cùng với việc bãi bỏ sổ hộ khẩu, CMND, các thủ tục liên quan
đến lĩnh vực xuất nhập cảnh, đăng ký xe, đăng ký ngành nghề kinh
doanh có điều kiện… cũng sẽ bỏ việc yêu cầu người dân phải xuất trình
2 loại giấy tờ này.
Theo nld.com.vn
2. Sửa Luật Quản lý thuế theo hướng hiện đại và thống nhất hơn
Bộ Tài chính vừa công khai lấy ý kiến về đề nghị xây dựng Luật
Quản lý thuế sửa đổi, với mục tiêu quản lý thuế theo hướng đơn
giản, rõ ràng, công khai, thuận tiện, thống nhất, đảm bảo phù hợp
với chuẩn mực quốc tế và quản lý thuế điện tử.
Chi cục Thuế Mù Căng Chải (Yên Bái) công khai thủ tục hành chính
thuế. Ảnh: Đức Minh
Quản lý thuế đơn giản và hiện đại hơn
Theo đánh giá của Bộ Tài chính, 10 năm thực hiện Luật Quản lý thuế,
công tác quản lý thuế, thu thuế đã đạt được nhiều kết quả tích cực, đảm
bảo quản lý chặt chẽ nguồn thu. Nhận thức của người dân, doanh
nghiệp đối với việc thực hiện nghĩa vụ thuế với ngân sách nhà nước
(NSNN) được nâng cao. Bộ máy hành chính thuế không ngừng được
kiện toàn, đội ngũ cán bộ, công chức quản lý thuế từng bước chuyên
nghiệp, chuyên sâu.
Tuy nhiên, tình hình có những diễn biến mới: Quy định về quản lý thuế
cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa cho phù hợp với tình hình số lượng
người nộp thuế tăng nhanh. Mô hình hoạt động sản xuất kinh doanh của
người nộp thuế đã có sự thay đổi cả về quy mô và phương thức. Khoa
học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ. Các
tập đoàn, doanh nghiệp đa quốc gia đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam
ngày càng nhiều... Những nhân tố này dẫn đến những thay đổi căn bản
trong công tác quản lý người nộp thuế.
Hơn nữa, hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải tiếp tục bổ sung cơ sở
pháp lý, phải tăng cường hợp tác, quản lý thuế quốc tế. Thời gian qua,
Việt Nam đã ký kết nhiều điều ước quốc tế, hiệp định đa phương, song
phương, trong lĩnh vực thuế. Cụ thể đến nay, Việt Nam đã ký hiệp định
tránh đánh thuế hai lần với 76 nước và vùng lãnh thổ. Luật Quản lý thuế
đã có những điểm chưa được quy định hoặc quy định không còn phù
hợp với chuẩn mực quốc tế về quản lý thuế để tham gia, ký kết hiệp định
thuế đa phương...
Bộ Tài chính cũng cho rằng, Luật Quản lý thuế hiện hành chưa tạo điều
kiện pháp lý đầy đủ cho việc hiện đại hóa quản lý thuế, mà trước hết là
triển khai rộng rãi, phổ biến thủ tục quản lý thuế điện tử trong bối cảnh
phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử, cách mạng công nghiệp lần
thứ 4, thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế đã có sự chuyển
biến rõ rệt so với các năm trước.
Bộ Tài chính cũng cho biết, quan điểm xuyên suốt trong quá trình xây
dựng Luật Quản lý thuế (sửa đổi) là đổi mới toàn diện hoạt động quản lý
thuế nhằm xây dựng ngành Thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực, hiệu quả,
công tác quản lý thuế thống nhất, công khai, minh bạch, đơn giản, dễ
hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ bản: Thể chế chính sách
thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, khoa học
phù hợp với thông lệ quốc tế; nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính;
ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động
hóa cao.
Bên cạnh đó, đổi mới các nội dung và các điều luật theo hướng gia tăng
các quy định nhằm cải cách thủ tục hành chính; cải cách thủ tục quản lý
thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, công khai, thuận tiện, thống nhất,
đảm bảo phù hợp với chuẩn mực quốc tế, thực hiện quản lý thuế điện
tử, tạo môi trường thuận lợi cho người nộp thuế tuân thủ pháp luật về
thuế, tự giác nộp đúng, đủ, kịp thời tiền thuế vào ngân sách nhà nước.
Đồng thời, nâng cao năng lực và hiệu quả của hoạt động quản lý thuế
để phòng, chống trốn thuế, thất thu và nợ thuế; tăng cường sự phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước và các tổ chức, cá nhân có liên quan với cơ
quan thuế trong việc thực hiện pháp luật về thuế và quản lý thuế.
Google, Facebook, Apple phối hợp khai báo, nộp thuế
Trong dự thảo Tờ trình Chính phủ đề nghị xây dựng Luật Quản lý thuế
sửa đổi, Bộ Tài chính đề nghị nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài (như
Google, Facebook, Apple…) mở văn phòng đại diện chính thức tại Việt
Nam để phối hợp chặt chẽ hơn với cơ quan quản lý nhà nước của Việt
Nam trong việc khai báo, nộp thuế…
Dự thảo cũng nêu rõ, trước sự phát triển nhanh của nền kinh tế, hội
nhập quốc tế, hoạt động mua bán bằng phương thức điện tử phát triển
với tốc độ ngày càng nhanh… Việc sửa đổi Luật Quản lý thuế, hướng tới
mục tiêu tạo khung pháp lý để áp dụng phổ biến quản lý thuế điện tử
phục vụ có hiệu quả sự phát triển của hoạt động kinh tế trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của giai đoạn mới là thực sự cần thiết.
Trong đó, kinh doanh thương mại điện tử (TMĐT) là một loại hình kinh
doanh mới đang phát triển mạnh ở các nước trên thế giới nói chung và
ở Việt Nam nói riêng. Hoạt động kinh doanh TMĐT có ưu điểm nổi bật
hơn so với kinh doanh truyền thống là tính linh hoạt cao độ về mặt cung
ứng và giảm thiểu phí tổn cho các đối tác kinh doanh.
Bộ Tài chính cũng cho rằng, TMĐT góp phần thúc đẩy sự cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp để thu được nhiều lợi ích nhất. Điều này đặc biệt
quan trọng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, khi các doanh nghiệp
trong nước phải cạnh tranh một cách bình đẳng với các doanh nghiệp
nước ngoài.
Ở Việt Nam thời gian gần đây đã phát triển mạnh loại hình kinh doanh
này, việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, quảng cáo... thông qua
các phương tiện như phát sóng truyền hình, các website thương mại
điện tử, sàn giao dịch thương mại điện tử, các mạng xã hội của nước
ngoài. Mô hình kinh doanh này ngày một phát triển do sự thuận lợi từ
những đặc điểm của loại hình kinh doanh qua mạng.
Tuy nhiên, cách thức quản lý thuế hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu
quản lý một cách đầy đủ và chính xác đối với loại hình kinh doanh này.
Chẳng hạn như, các công ty vận hành mạng nước ngoài hầu hết không
đăng ký kinh doanh và không có văn phòng đại diện chính thức tại Việt
Nam. Đây là một khó khăn cho ngành Thuế trong việc quản lý thuế đối
với các mạng nước ngoài kinh doanh theo hình thức thông qua mạng
internet.
Bộ Tài chính cho biết, hiện Google và Facebook cung cấp dịch vụ quảng
cáo trực tuyến cho thị trường Việt Nam thông qua hai phương thức:
Phương thức thông qua các đại lý tại Việt Nam thì chính các doanh
nghiệp này sẽ phải thực hiện các nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp
luật Việt Nam khi phát sinh doanh thu.
Phương thức thứ hai là mua – bán trực tuyến và thanh toán trực tuyến
qua thẻ tài khoản tín dụng hoặc ví điện tử. Trường hợp này chưa được
quy định rõ, phía mua dịch vụ sẽ bị thiệt vì không có hóa đơn nên sẽ
không được tính vào chi phí hợp lý, hoặc bên mua dịch vụ sẽ tự hợp
thức hóa bằng cách mua hóa đơn của một dịch vụ khác.
Như vậy, khi thanh kiểm tra thuế cũng sẽ khó biết hết được giá trị thực
của chi phí trả cho dịch vụ qua mạng (nhiều trường hợp cần đối chiếu
thông tin từ nhiều nguồn và phải truy lần theo thông tin thanh toán thực
tế).
Mặt khác, với việc thanh toán dựa vào số lần click chuột trả tiền thì việc
xác định doanh thu quảng cáo của nhà mạng nước ngoài không dễ
dàng, vì phải đối chiếu thông tin giữa 2 ngân hàng (của người
mua/người bán) tham gia thanh toán trong điều kiện họ không phải là đối
tượng nộp thuế trực tiếp và ngân hàng của công ty mạng cũng ở nước
ngoài. Người mua dịch vụ của các tổ chức nước ngoài là cá nhân nên
khó có cơ sở đề nghị khấu trừ thuế nhà thầu của tổ chức nước ngoài khi
mua dịch vụ.
Từ đó, Bộ Tài chính đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế để quản
lý thu thuế đối với loại hình kinh doanh TMĐT tại Việt Nam đạt được hiệu
quả./.
Toàn văn dự thảo tờ trình Chính phủ.
Theo thoibaotaichinhvietnam.vn
3. Cơ chế một cửa đường hàng không quốc tế có những tiện ích gì?
Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng không là việc tiếp nhận
thông tin về lịch khai thác bay, danh sách tổ bay, hành khách, hành
lý, hàng hóa để thực hiện thủ tục điện tử đối với tàu bay nhập cảnh,
xuất cảnh, quá cảnh...
Tổng cục Hải quan vừa thông tin, sau một thời gian tích cực chuẩn bị
các điều kiện về hệ thống CNTT, đào tạo, tuyên truyền, thí điểm tại Nội
Bài, đến nay Tổng cục Hải quan đã sẵn sàng để triển khai Cơ chế một
cửa quốc gia đường hàng không tại tất cả các cảng hàng không quốc tế
trên cả nước vào ngày 15/11/2017 theo Quyết định 43/2017/QĐ-Ttg.
Mô hình Cơ chế một cửa đường hàng không.
Cơ chế một cửa đường hàng không là việc cho phép người làm thủ tục
gửi thông tin, chứng từ điện tử để thực hiện thủ tục của cơ quan quản lý
nhà nước liên quan đến tàu bay xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh thông
qua Cổng thông tin một cửa quốc gia. Các cơ quan quản lý nhà nước ra
quyết định thông quan qua Cổng thông tin một cửa quốc gia.
Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng không là việc tiếp nhận thông tin
về lịch khai thác bay, danh sách tổ bay, hành khách, hành lý, hàng hóa
để thực hiện thủ tục điện tử đối với tàu bay nhập cảnh, xuất cảnh, quá
cảnh thông qua Cổng thông tin một cửa quốc gia đường hàng không.
Thông tin gửi tới Cổng thông tin một cửa quốc gia được 5 cơ quan quản
lý nhà nước tại cảng hàng không tiếp nhận, khai thác chung. Người làm
thủ tục chỉ cần gửi thông tin điện tử cho cơ quan nhà nước một lần duy
nhất tại địa chỉ: https://www.vnsw.gov.vn.
Các cơ quan quản lý nhà nước tại cảng hàng không gồm: Hải quan cửa
khẩu, cảng vụ hàng không, công an cửa khẩu, cơ quan kiểm dịch động
vật, cơ quan kiểm dịch thực vật, tổ chức kiểm dịch y tế biên giới. Điểm
mới đầu tiên và quan trọng nhất là các hãng hàng không cung cấp thông
tin bằng phương thức điện tử cho cơ quan Chính phủ trong việc quản lý
phương tiện vận tải hàng không.
Hiện nay các văn bản quy định quản lý phương tiện vận tải hàng không
tại sân bay quốc tế đã có nhưng được quy định riêng rẽ bởi các cơ quan
khác nhau, thiếu đồng bộ. Ví như trong lĩnh vực Hải quan đã có Nghị
định yêu cầu, thông tư hướng dẫn các hãng hàng không cung cấp thông
tin về hành khách, hàng hóa và hành lý, về chuyến bay.
Cơ quan an ninh cửa khẩu và quản lý xuất nhập cảnh thì yêu cầu cung
cấp trước thông tin hành khách. Cơ quan cảng vụ hàng không cũng yêu
cầu cung cấp thông tin phục vụ quản lý chung… Tất cả các thông tin này
(trừ thông tin về hành khách) đều cung cấp bằng bản giấy. Do vậy, việc
chia sẻ và sử dụng thông tin là rất hạn chế.
Tới đây khi triển khai Cơ chế một cửa đường hàng không, toàn bộ các
thông tin liên quan sẽ được khai báo bằng phương thức điện tử và được
liên kết với tất cả hệ thống quản lý của các cơ quan nhà nước tại cảng
hàng không.
Điểm mới thứ hai là lần đầu tiên cơ quan quản lý nhà nước tại cảng
hàng không của Việt Nam yêu cầu cung cấp thông tin đặt chỗ hành
khách nhằm đảm bảo an ninh hàng không, an ninh quốc gia và ngăn
chặn khủng bố, buôn lậu ma túy qua đường không.
Điểm mới thứ ba là khi thông tin được gửi đến một cơ quan quản lý nhà
nước thì ngay lập tức được tự động chia sẻ cho tất cả cơ quan liên
quan, kết nối tất cả các khâu.
Bên cạnh đó, về phía cơ quan Hải quan còn thực hiện cung cấp thông
tin giữa các cơ quan quản lý kho, bãi hàng không phục vụ cho công tác
giám sát hải quan. Khi các cơ quan liên quan được chia sẻ những thông
tin này sớm thì sẽ rút ngắn thời gian thông quan và hỗ trợ tốt cho doanh
nghiệp logistic, doanh nghiệp vận tải và doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Các chứng từ khai báo điện tử qua Cơ chế một cửa đường hàng không.
Không phải nộp nhiều bộ chứng từ giấy tới các cơ quan quản lý nhà
nước mà chỉ phải gửi thông tin điện tử một lần duy nhất tới Cổng thông
tin một cửa quốc gia. Qua đó rút ngắn thời gian làm thủ tục, tiết kiệm các
chi phí liên quan.
Các cơ quan quản lý có thông tin trước về chuyến bay để phân tích và
kiểm tra, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực hàng
không, giảm thời gian và nhân lực liên quan đến việc tiếp nhận các hồ
sơ giấy thủ công.
Qua việc tiếp nhận thông tin trước chuyến bay, cơ quan quản lý nhà
nước áp dụng quản lý rủi ro, đảm bảo an ninh, an toàn hàng không,
ngăn chặn buôn lậu, khủng bố.
Việc trang bị cũng như quản lý, vận hành hệ thống CNTT giúp hiện đại
hóa cơ quan quản lý nhà nước, nâng cao năng lực cán bộ công chức.
Việc trao đổi thông tin, phối hợp quản lý giữa các cơ quan quản lý nhà
nước tại cảng hàng không góp phần triển khai Chính phủ điện tử tại Việt
Nam.
Thông qua triển khai Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng không,
Chính phủ Việt Nam thể hiện nỗ lực tạo thuận lợi thương mại, cải thiện
môi trường kinh doanh, đồng thời là nền tảng để triển khai Cơ chế một
cửa ASEAN theo đúng cam kết.
Sau một quá trình chuẩn bị, hệ thống một cửa hàng không được vận
hành thí điểm tại Cảng hàng không quốc tế Nội Bài từ ngày 01/01/2017.
Tính đến nay, 100% hãng hàng không có văn bản xác nhận đăng ký
tham gia thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng không.
Thực hiện Quyết định số 43/2017/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ, từ
ngày 15/11/2017, cơ quan hải quan sẽ đồng loạt triển khai Cơ chế một
cửa quốc gia đối với tàu bay xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh tại tất cả
các cảng hàng không quốc tế trên cả nước.
Tổng cục Hải quan - Cơ quan thường trực Ủy ban chỉ đạo quốc gia về
Cơ chế một cửa ASEAN, Cơ chế một cửa quốc gia và tạo thuận lợi
thương mại - đã cùng các bộ, ngành, cơ quan liên quan chuẩn bị mọi
điều kiện để sẵn sàng triển khai Cơ chế một cửa hàng không.
Bên cạnh việc phối hợp với các hãng hàng không đánh giá thực trạng,
nhu cầu để xây dựng hệ thống trao đổi thông tin, kết nối với hệ thống
một cửa quốc gia, Tổng cục Hải quan thường xuyên tổ chức đào tạo, tập
huấn cho cả cán bộ hải quan, các hãng hàng không, đại lý hàng không
và người khai hải quan về lĩnh vực này.
Đồng thời, bộ phận hỗ trợ (help-desk) của Tổng cục Hải quan túc trực hệ
thống 24/7 và các đường dây nóng để hỗ trợ nhanh nhất cho doanh
nghiệp. Tổng cục Hải quan cũng đang dự thảo một loạt quy trình xử lý
của cơ quan hải quan, kết nối với các cơ quan để đưa ra các biện pháp
ứng phó, xử lý sự cố, nếu có.
Qua thí điểm tại cảng hàng không quốc tế Nội Bài cho thấy hệ thống
được triển khai thuận lợi, ổn định. Đây là tiền đề để cơ quan hải quan
triển khai tại tất cả các cảng hàng không quốc tế trên cả nước vào ngày
15/11/2017.
Theo infonet.vn
4. Hợp nhất thu thuế và bảo hiểm xã hội?
Việc cơ quan thuế đồng thời thu thuế và bảo hiểm xã hội (BHXH)
bắt buộc đối với các đơn vị sử dụng lao động được kỳ vọng sẽ xóa
bỏ tình trạng doanh nghiệp trốn đóng bảo hiểm.
Bộ Tài chính đề xuất thu đồng thời thuế và bảo hiểm xã hội
Bộ Tài chính vừa đưa ra dự thảo Luật Quản lý Thuế (sửa đổi) để lấy ý
kiến góp ý. Trong đó, có nội dung đáng chú ý là cơ quan thuế sẽ thực
hiện thu thuế đồng thời thu cả tiền đóng BHXH bắt buộc của chủ sử
dụng lao động, doanh nghiệp.
Giảm chi phí quản lý
Theo số liệu thống kê của Bộ LĐ-TB&XH, hiện nay, tỷ lệ người tham gia
BHXH ở Việt Nam vẫn rất thấp. Cụ thể, chỉ hơn 13 triệu lao động trên
tổng số 54 triệu lao động tham gia đóng BHXH. Thực tế cho thấy, số
lượng đơn vị sử dụng lao động do cơ quan thuế quản lý cao hơn nhiều
so với số lượng đơn vị sử dụng lao động do cơ quan BHXH quản lý
(năm 2016, cơ quan thuế quản lý khoảng 600.000 đơn vị, trong khi
BHXH quản lý khoảng 300.000 đơn vị).
Hiện nay, cơ quan thuế và cơ quan BHXH đang phối hợp quản lý và thu
BHXH theo quy chế đã ký giữa Tổng cục Thuế và BHXH Việt Nam. Tuy
nhiên, theo đánh giá của Bộ Tài chính, việc phối hợp giữa cơ quan thuế
và cơ quan BHXH chưa đạt được kết quả như mong muốn. Nguyên
nhân do giữa thuế và BHXH hiện nay còn có nhiều sự khác biệt như thời
gian khai, nộp, căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân và căn cứ tính
BHXH… Điều này dẫn đến sự phối hợp không triệt để giữa các bên.
Việc cơ quan thuế thực hiện thu thuế và BHXH là phù hợp với xu thế
hiện nay trên thế giới, cũng như đáp ứng yêu cầu của xã hội là phải cải
cách thủ tục hành chính mạnh mẽ. Hiện nay, một số quốc gia ở châu Âu
đã và đang thực hiện mô hình này. Nếu hợp nhất việc thu thuế và BHXH
không những cải cách thủ tục hành chính, giảm số lượng tờ khai, thời
gian, chi phí… đối với doanh nghiệp mà còn giảm chi phí quản lý của cơ
quan chức năng.
Cụ thể, thay vì phải nộp 2 tờ khai thuế và BHXH cho 2 cơ quan khác
nhau, nay chỉ cần nộp 1 tờ khai cho 2 khoản phải nộp. Đồng thời, với
việc hợp nhất thu thuế và BHXH, mã số thuế của cá nhân có thể dùng
làm mã quản lý BHXH, số sổ BHXH, số thẻ bảo hiểm y tế. Điều này có
thể giúp đơn giản hóa trong công tác quản lý cũng như khai, nộp thuế và
BHXH. Cùng với đó, do chỉ còn một đầu mối thu cả 2 khoản tiền, nên
cũng chỉ cần một đơn vị thực hiện hoạt động thanh tra, kiểm tra đơn vị
sử dụng lao động về thực hiện chính sách thuế và BHXH.
Phải nghiên cứu, áp dụng thí điểm
Về vấn đề này, Phó Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Mai Đức Chính
cho biết: “Lâu nay, doanh nghiệp luôn có 2 sổ lương. Một sổ lương
doanh nghiệp kê khai đóng BHXH rất thấp, chủ yếu tương đương mức
lương tối thiểu vùng. Một sổ lương khác, doanh nghiệp thực trả cho
người lao động cao hơn, thông qua nhiều loại phụ cấp, hỗ trợ khác
nhau. Vì vậy, chúng ta phải tiến tới liên thông cơ quan thuế và BHXH, để
thu BHXH theo tiền lương doanh nghiệp kê khai thuế. Doanh nghiệp
quyết toán chi phí lao động để khấu trừ thuế bao nhiêu sẽ phải đóng
BHXH bấy nhiêu, như vậy sẽ không còn chuyện 2 sổ lương nữa”.
Cùng quan điểm, ông Tạ Văn Dưỡng, Trưởng ban Chính sách pháp luật
(Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội) chia sẻ: “Đúng là cơ quan thuế
có nhiều ưu thế trong việc thu BHXH. Tuy vậy, nếu chuyển đổi, sáp nhập
chức năng thu BHXH vào cơ quan thuế cần phải tổ chức, sắp xếp lại bộ
máy hai cơ quan”.
Hơn nữa, việc tận dụng nguồn lực sẵn có của cơ quan thuế có thể giảm
chi phí quản lý nhưng không đảm bảo rằng cán bộ cơ quan thuế nắm
vững nghiệp vụ thu BHXH. Do đó, các cơ quan quản lý cần có nghiên
cứu, đánh giá tác động cụ thể trước khi áp dụng. Để giải quyết cốt lõi
vấn đề nợ đọng, trốn đóng hay mở rộng đối tượng tham gia BHXH
không thể chỉ bằng cách chuyển việc từ cơ quan nọ sang cơ quan kia
mà phải làm sao để doanh nghiệp không “lách luật” trốn đóng BHXH.
Theo anninhthudo.vn
5. Đề xuất tích hợp các loại giấy phép môi trường
Đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo
vệ môi trường và các luật có liên quan đến bảo vệ môi trường, Bộ
Tài nguyên và Môi trường cho rằng cần sửa đổi, bổ sung quy định
về giấy phép môi trường theo hướng sử dụng hệ thống giấy phép
liên thông, tích hợp, thống nhất.
Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, theo các quy định của pháp luật
về bảo vệ môi trường hiện hành, sau đánh giá tác động môi trường, cơ
quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đang sử dụng các loại giấy
phép, công cụ để quản lý môi trường đối với các dự án, cơ sở như: Giấy
xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường, giấy phép xả thải
vào nguồn nước; giấy phép hành nghề quản lý chất thải nguy hại; sổ chủ
nguồn thải; phương án bảo vệ môi trường; kế hoạch quản lý môi trường.
Do vậy, thực tiễn công tác quản lý, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các
quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở trong giai
đoạn vận hành đang được thực hiện với sự chồng lấn giữa nhiều công
cụ, trong đó, các cơ quan quản lý nhà nước vẫn chủ yếu tiến hành kiểm
tra dựa trên báo cáo sau đánh giá tác động môi trường. Về mặt khoa
học, báo cáo sau đánh giá tác động môi trường chỉ là một công cụ dự
báo, phục vụ cho giai đoạn cấp phép cho dự án. Trên thực tiễn, trong
giai đoạn vận hành, các vấn đề môi trường của cơ sở hoàn toàn có thể
có khác biệt so với dự báo trong báo cáo sau đánh giá tác động môi
trường, do đó việc kiểm tra và tiến hành các biện pháp cưỡng chế, xử
phạt dựa trên báo cáo này là không hợp lý.
Tại Điều 67, 68, 70, Chương VII Luật Bảo vệ môi trường về bảo vệ môi
trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có quy định về việc
lập và thực hiện phương án bảo vệ môi trường; Điều 16 Nghị định
18/2015/NĐ-CP cũng đã quy định về kế hoạch quản lý môi trường,
nhưng còn chưa rõ ràng, cụ thể. Đây là các công cụ quản lý môi trường
trong giai đoạn hoạt động của cơ sở. Tuy nhiên, các công cụ này chưa
đủ mạnh về mặt pháp lý vì vẫn chủ yếu do các cơ sở tự lập, tự thực
hiện. Việc phải có một công cụ quản lý thống nhất, có tính pháp lý cao,
cụ thể là giấy phép môi trường, là hết sức cần thiết và phù hợp với thực
tiễn thế giới trong quá trình hội nhập.
Ảnh minh họa
Về mặt cấp phép môi trường, theo kinh nghiệm quốc tế, hiện có 2
phương thức chính: 1- Giấy phép môi trường hợp nhất (như đang áp
dụng tại các nước EU); 2-Nhiều giấy phép môi trường đơn lẻ, mỗi vấn
đề môi trường có một giấy phép riêng (như đang áp dụng tại Hoa Kỳ,
Australia, Trung Quốc, một số nhóm đối tượng đặc thù tại các nước
EU…). Thực tiễn áp dụng trên thế giới cho thấy không có ưu thế rõ rệt
giữa 2 phương thức nêu trên, việc áp dụng phương thức nào còn tùy
thuộc vào hệ thống pháp luật và tình hình thực tế của từng nước, tuy
nhiên, đều bảo đảm nguyên tắc không chồng chéo, một đối tượng cụ thể
không bị áp dụng cả 2 phương thức cấp phép.
Ở Việt Nam hiện nay đã tồn tại một số loại giấy phép môi trường theo cả
2 phương thức cấp phép nêu trên. Luật Tài nguyên nước quy định về
giấy phép xả thải vào nguồn nước (là hình thức giấy phép đơn lẻ), trong
khi đó Luật Bảo vệ môi trường quy định về giấy xác nhận hoàn thành
công trình bảo vệ môi trường (là hình thức giấy phép hợp nhất). Việc tồn
tại cả 2 phương thức cấp phép dẫn đến sự chồng lấn, mâu thuẫn trong
nội dung cấp phép, phát sinh thủ tục, gây phiền toái cho các doanh
nghiệp. Cụ thể: Việc xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường
tại Khoản 2 Điều 27 Luật Bảo vệ môi trường đã bao gồm kiểm tra, xác
nhận hiệu quả xử lý hệ thống xử lý nước thải. Trong khi đó, Điều 38 Luật
Tài nguyên nước cũng quy định về việc lập hồ sơ xin phép xả thải vào
nguồn nước của chủ dự án. Hai giấy phép này gần như cùng một nội
dung mà doanh nghiệp phải xin 2 giấy phép, gây tốn kém, lãng phí.
Ngoài ra, còn khá nhiều thủ tục hành chính khác trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường trùng lặp về mục tiêu, nội dung, thẩm quyền (thực chất là
một thủ tục) nhưng đang được quy định trong một luật hay bởi các luật
khác nhau và theo đó được thực hiện theo các thủ tục khác nhau, gây
lãng phí thời gian, chi phí xã hội. Do vậy, vấn đề cải cách hành chính và
hợp nhất, liên thông các thủ tục hành chính về môi trường là một trong
những nội dung ưu tiên để thực hiện chủ trương cải cách hành chính
của Chính phủ.
Trên cơ sở đòi hỏi của thực tiễn về một công cụ quản lý môi trường
thống nhất cũng như đẩy mạnh quá trình cải cách, giảm thủ tục hành
chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề xuất bổ sung các Điều 103a,
103b, 103c Mục 6. Quy định về giấy phép môi trường vào Chương IX.
Quản lý chất thải. Theo đó, bổ sung các nội dung về: Vai trò, vị trí của
giấy phép môi trường (là công cụ quản lý môi trường thống nhất đối với
cơ sở khi đã đi vào giai đoạn hoạt động; là căn cứ để các cơ sở thực
hiện các biện pháp bảo vệ môi trường và để các cơ quan có thẩm quyền
kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm - thay cho việc kiểm tra căn cứ vào báo
cáo sau đánh giá tác động môi trường như hiện nay); nội dung của giấy
phép môi trường (có thể quy định phù hợp với đặc thù đối với từng loại
ngành, nghề khác, nhóm đối tượng có rủi ro môi trường khác nhau); lập,
phê duyệt và thực hiện giấy phép môi trường. Các quy định này sẽ thay
thế toàn bộ các nội dung về giấy phép, thủ tục về môi trường đối với cơ
sở trong giai đoạn hoạt động đang được quy định tại nhiều Luật và văn
bản hướng dẫn khác nhau.
Nội dung bổ sung được đề xuất tại khoản 10 Điều 1 dự thảo Luật.
Mời bạn đọc xem toàn văn hồ sơ đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Bảo vệ môi trường và các luật có liên quan
đến bảo vệ môi trường và góp ý tại đây.
Theo baochinhphu.vn
6. Quản lý sản xuất, kinh doanh rượu thủ công: Cơ sở lúng túng, người dân loay hoay
Từ ngày 1-11-2017, Nghị định 105/NĐ-CP của Chính phủ về kinh
doanh rượu có hiệu lực, trong đó có những quy định về giấy phép
sản xuất kinh doanh, tem nhãn… Tuy nhiên, hiện các làng nghề nấu
rượu thủ công vẫn ít quan tâm tới vấn đề này, bởi quy mô sản xuất
nhỏ lẻ, trong khi đó cán bộ cơ sở thì lúng túng trong việc hướng
dẫn người dân làm thủ tục đăng ký sản xuất.
Người dân loay hoay
Khảo sát thực tế ở các làng nghề nấu rượu thủ công cho thấy, dường
như người dân vẫn chưa tiếp cận với những yêu cầu mới của pháp luật
để sản xuất rượu bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm và có tem, nhãn
mác. Bà Nguyễn Thị Tươi ở xã Thanh Mai (huyện Thanh Oai) cho biết:
Đầu năm 2017, do có nhiều vụ ngộ độc về rượu thủ công nên người tiêu
dùng hạn chế đặt hàng, khiến rượu sản xuất ở xã tiêu thụ chậm hơn so
với mọi năm. Các hộ nấu rượu ở xã đều bảo đảm chất lượng, chưa từng
xảy ra ngộ độc. Thời gian tới, nếu xã đăng ký thương hiệu làng nghề,
các hộ nấu rượu sẽ đăng ký nhãn mác. Mặc dù vậy, nhiều người vẫn
ngại đi đăng ký giấy phép sản xuất kinh doanh vì không biết thủ tục thế
nào, hơn nữa, khách hàng cũng không yêu cầu...
Trao đổi về vấn đề này, Phó Chủ tịch UBND xã Thanh Mai Lã Văn Dũng
lý giải: "Nghề nấu rượu ở xã Thanh Mai có từ lâu đời. Vào lúc cao điểm
có khoảng 300-400 hộ nấu rượu, nhưng hiện do thu nhập từ nghề bấp
bênh nên chỉ còn trên 20 hộ nấu thường xuyên. Do sản xuất nhỏ lẻ nên
các hộ chưa quan tâm tới việc bảo đảm an toàn thực phẩm. Thời gian
qua, mặc dù huyện Thanh Oai đã phối hợp với xã mở lớp tập huấn về
sản xuất an toàn cho các hộ nấu rượu trên địa bàn, nhưng do lãi suất từ
nấu rượu thủ công thấp nên đến nay, chưa có hộ nào đăng ký cấp giấy
phép sản xuất kinh doanh".
Tuyên truyền nâng cao ý thức cho người sản xuất, kinh doanh rượu
chấp hành các quy định của pháp luật là hết sức cần thiết.
Phó Chủ tịch UBND xã Hồng Hà (huyện Đan Phượng) Nguyễn Mạnh Hà
cho biết: Toàn xã có hơn 300 hộ nấu rượu. Từ khi xảy ra nhiều vụ ngộ
độc rượu trên địa bàn thành phố, xã đã mở các lớp tập huấn về kiến
thức an toàn thực phẩm cho các hộ dân. Đến nay, hầu hết các hộ đã
được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm. Tuy
nhiên, việc đăng ký sản xuất kinh doanh, nhãn mác, thương hiệu... các
hộ gặp khó khăn do thủ tục phức tạp. Theo quy định, để được cấp giấy
phép sản xuất rượu thủ công nhằm mục đích kinh doanh, các hộ phải có
bản sao giấy tiếp nhận công bố hợp quy hoặc giấy xác nhận công bố
phù hợp quy định an toàn thực phẩm (đối với rượu chưa có quy chuẩn
kỹ thuật); bản sao giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực
phẩm; bản liệt kê tên hàng hóa rượu kèm theo bản sao nhãn hàng hóa
rượu mà tổ chức, cá nhân sản xuất hoặc dự kiến sản xuất. Mặc dù yêu
cầu này là cần thiết để quản lý chất lượng, nhưng đối với các hộ sản
xuất thủ công với lượng sản phẩm nhỏ thì các thủ tục là vấn đề khó
khăn...
Cần có giải pháp cụ thể
Để Nghị định 105/NĐ-CP của Chính phủ về sản xuất, kinh doanh rượu đi
vào thực tiễn, cần có giải pháp cụ thể hơn. Trước hết, rất cần sự vào
cuộc mạnh mẽ của chính quyền địa phương và các ngành chức năng
trong việc tuyên truyền nâng cao ý thức cho người sản xuất, kinh doanh
rượu chấp hành các quy định của pháp luật. Cùng với đó là tăng cường
kiểm tra về chất lượng và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
Theo Trưởng phòng Kinh tế huyện Phú Xuyên Nguyễn Hữu Chi, trên địa
bàn huyện Phú Xuyên có hơn 600 hộ nấu rượu thủ công, nhưng mới chỉ
có 30 hộ có giấy đăng ký sản xuất kinh doanh. Vì vậy, thời gian tới,
huyện sẽ đẩy mạnh tuyên truyền, tổ chức tập huấn cho người dân về vệ
sinh an toàn thực phẩm, quy định trong sản xuất kinh doanh, tác hại của
việc sử dụng rượu không rõ nguồn gốc... Đồng thời, hướng dẫn các hộ
quy hoạch, xây dựng khu sản xuất rượu cách xa khu chăn nuôi, đăng ký
sản xuất, tem nhãn, xây dựng thương hiệu... Trong khi đó, Phó Chủ tịch
UBND xã Hồng Hà (huyện Đan Phượng) Nguyễn Mạnh Hà cho biết:
Hiện xã đang thống kê, rà soát quy hoạch các hộ sản xuất rượu để
thành lập Hiệp hội Sản xuất và Chế biến rượu Hồng Hà. Từ đó, sẽ hình
thành sản xuất tập trung, thuận lợi cho việc đăng ký thương hiệu làng
nghề và gắn nhãn mác sản phẩm nhằm bảo đảm rượu có nguồn gốc
xuất xứ...
Còn theo Phó Chi cục trưởng Chi cục Quản lý thị trường Hà Nội Nguyễn
Đắc Lộc, để thực hiện hiệu quả Nghị định 105/NĐ- CP của Chính phủ,
chính quyền địa phương cần thường xuyên tuyên truyền phổ biến quy
định của pháp luật về điều kiện sản xuất, lưu thông sản phẩm rượu thủ
công ở làng nghề. Bên cạnh đó, cần nghiêm túc yêu cầu các tổ chức, cá
nhân ký cam kết không sản xuất, kinh doanh, buôn bán rượu không rõ
nguồn gốc... Các xã, thị trấn cần chủ động phối hợp với lực lượng chức
năng trên địa bàn trong công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý đối với
những hành vi sản xuất kinh doanh rượu không có giấy phép, không tem
nhãn, không nguồn gốc xuất xứ, không công bố tiêu chuẩn chất lượng,
chứng nhận hợp quy... Có như vậy, việc sản xuất, kinh doanh rượu thủ
công ở các làng nghề mới được thực hiện nghiêm theo quy định.
Theo hanoimoi.com.vn
7. Đổi mới để bắt kịp cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Gần 100 cán bộ Công đoàn (CĐ) cấp trên và cơ sở đã tham dự hội
nghị tập huấn chuyên đề "Phương pháp tổ chức hoạt động đổi mới
sáng tạo trong hội nhập kinh tế cách mạng công nghiệp 4.0 cho
doanh nghiệp" do LĐLĐ TP HCM phối hợp với Saigon Innovation
Hub và Báo Người Lao Động tổ chức sáng 14-11.
Ông Trần Đoàn Trung, Phó Chủ tịch LĐLĐ TP HCM, trao đổi với cán bộ
Công đoàn tại buổi tập huấn
Tại hội nghị, các báo cáo viên gồm bà Nguyễn Phi Vân, Chủ tịch HĐQT
Công ty Retail & Franchise và ông Lý Trường Chiến, Chủ tịch HĐQT Trí
Tri Group, đã trao đổi với các cán bộ CĐ về vấn đề hội nhập cách mạng
công nghiệp 4.0 cho doanh nghiệp và việc đổi mới sáng tạo - công cụ hỗ
trợ cải cách hành chính và quản lý nhà nước. Báo cáo viên nhấn mạnh
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang ảnh hưởng lớn đến định hướng
phát triển của doanh nghiệp và thị trường lao động. Một mặt, cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 mang đến cơ hội lớn về việc làm ở một số lĩnh
vực áp dụng công nghệ hiện đại hay trí tuệ nhân tạo... Tuy nhiên, làn
sóng tự động hóa, công nghiệp hóa sẽ gây áp lực nặng nề cho một số
ngành thâm dụng lao động như may mặc, da giày... Theo dự đoán, lao
động làm việc trong các lĩnh vực này có nguy cơ mất việc rất cao. Do đó,
để tồn tại và thích ứng, các doanh nghiệp cần đón đầu cuộc cách mạng,
sớm đổi mới công nghệ, tạo ra những mô hình hoạt động hoặc sản
phẩm mới. Về phía người lao động cũng phải không ngừng học tập, rèn
luyện tay nghề để thích ứng.
Ông Trần Đoàn Trung, Phó Chủ tịch LĐLĐ TP HCM, cho biết người lao
động chịu ảnh hưởng lớn từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 nên với
vai trò là đại diện cho họ, tổ chức CĐ cũng phải nắm bắt và có giải pháp
ứng phó. "Khi doanh nghiệp đổi mới hoạt động, tính chất lao động và
nhu cầu việc làm đổi mới thì CĐ cũng không thể đứng ngoài cuộc, không
chỉ đột phá trong phương pháp quản lý và tổ chức phong trào mà phải
đổi mới phương pháp tiếp cận, tuyên truyền cho người lao động sao cho
phù hợp và hiệu quả nhất" - ông Trung nhấn mạnh.
Theo nld.com.vn
8. Giảm phí thẩm định kinh doanh dịch vụ kiểm định an toàn lao động
Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư 110/2017/TT-BTC sửa đổi, bổ
sung Biểu mức thu phí thẩm định điều kiện kinh doanh trong hoạt
động kiểm định kỹ thuật an toàn lao động; huấn luyện an toàn, vệ
sinh lao động ban hành kèm theo Thông tư số 245/2016/TT-BTC của
Bộ Tài chính.
Theo Thông tư 110/2017/TT-BTC, giảm mức phí cấp mới, cấp gia hạn
giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động kiểm định kỹ thuật an toàn lao
động từ 16 triệu đồng/lần xuống mức 15 triệu đồng/lần.
Mức phí cấp lại khi bổ sung lĩnh vực hoạt động giấy chứng nhận đủ điều
kiện hoạt động kiểm định kỹ thuật an toàn lao động được giảm từ 5,5
triệu đồng/lần xuống còn 5 triệu đồng lần…
Cụ thể, Biểu mức thu phí thẩm định điều kiện kinh doanh trong hoạt
động kiểm định kỹ thuật an toàn lao động; huấn luyện an toàn, vệ sinh
lao động được điều chỉnh giảm như sau:
Stt Nội dung Mức thu
(đồng/lần)
1 Thẩm định điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm
định kỹ thuật an toàn lao động
a
Đối với cấp mới, cấp gia hạn giấy chứng nhận đủ
điều kiện hoạt động kiểm định kỹ thuật an toàn lao
động
15.000.000
b
Đối với cấp lại khi bổ sung lĩnh vực hoạt động giấy
chứng nhận đủ điều kiện hoạt động kiểm định kỹ
thuật an toàn lao động
5.000.000
2 Thẩm định điều kiện kinh doanh dịch vụ huấn
luyện an toàn, vệ sinh lao động
2.1 Trường hợp do Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội thực hiện
a
Đối với cấp, cấp gia hạn giấy chứng nhận đủ điều
kiện hoạt động huấn luyện an toàn, vệ sinh lao
động
20.500.000
b
Đối với cấp lại khi bổ sung lĩnh vực hoạt động giấy
chứng nhận đủ điều kiện hoạt động huấn luyện an
toàn, vệ sinh lao động
6.500.000
2.2 Trường hợp do Sở Lao động, Thương binh và
Xã hội thực hiện
a
Đối với cấp, cấp gia hạn giấy chứng nhận đủ điều
kiện hoạt động huấn luyện an toàn, vệ sinh lao
động
1.200.000
b
Đối với cấp lại khi bổ sung lĩnh vực hoạt động giấy
chứng nhận đủ điều kiện hoạt động huấn luyện an
toàn, vệ sinh lao động
500.000
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 11/12/2017.
Theo baochinhphu.vn
9. Mọi nỗ lực cải cách đều hướng về người nộp thuế
Những năm qua, Cục Thuế TP. Hà Nội luôn nỗ lực cải cách, cắt
giảm thủ tục thuế; lắng nghe những phản ánh về chính sách thuế,
thủ tục hành chính thuế và về tinh thần và thái độ phục vụ của công
chức thuế khi tiếp xúc với NNT để điều chỉnh, chấn chỉnh kịp thời
các sai phạm, thiếu sót...
Đại diện lãnh đạo Cục Thuế TP. Hà Nội và đại diện Hiệp hội DN Nhật
Bản chụp ảnh lưu niệm tại một buổi tọa đàm chính sách thuế
Những nỗ lực cải cách thuế cũng chính là nhằm phục vụ, tạo thuận lợi
cho doanh nghiệp (DN), người nộp thuế (NNT). Đến nay, ngành Thuế
Thủ đô đã thiết lập được mối quan hệ gắn bó, hỗ trợ, tạo được sự đồng
thuận, đồng hành với NNT.
DN, NNT là mục tiêu cải cách
Theo ông Nguyễn Thế Mạnh – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế
kiêm Cục trưởng Cục Thuế TP. Hà Nội, những năm qua, ngành Thuế
Thủ đô đẩy mạnh cải cách hành chính thuế, đảm bảo công khai, minh
bạch, tạo thuận lợi cho DN, NNT. Cục Thuế TP. Hà Nội luôn đặt sự hài
lòng của DN, NNT làm mục tiêu chính để cải cách. Theo đó, cơ quan
thuế ứng dụng toàn diện công nghệ thông tin (CNTT) hiện đại vào quản
lý nhằm giảm chi phí tuân thủ pháp luật cho NNT và tăng cường hiệu
lực, hiệu quả công tác quản lý...
Hội nghị gặp mặt, tháo gỡ khó khăn cho các DN trên địa bàn
Sáng ngày 16/11/2017, Cục Thuế TP. Hà Nội tổ chức Hội nghị Giải đáp
vướng mắc về chính sách thuế, thủ tục hành chính thuế và tháo gỡ khó
khăn của DN trên địa bàn TP. Hà Nội. Hội nghị gồm có:
- Về phía Cục Thuế: Ban lãnh đạo gồm ông Nguyễn Thế Mạnh – Phó
Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế kiêm Cục trưởng Cục Thuế TP Hà Nội
(chủ trì); các phó cục trưởng; trưởng các phòng: Tuyên truyền - Hỗ trợ
NNT, Kê khai kế toán thuế, Quản lý đất, Quản lý nợ, Tin học, các phòng
Kiểm tra, phòng Thanh tra 1, phòng Thanh tra giá chuyển nhượng,
phòng TNCN. Đại diện Ban chấp hành Chi hội kế toán - Cục Thuế TP.
Hà Nội.
- Về phía hiệp hội, DN: Đại diện các hiệp hội DN và 323 DN
Cục Thuế TP. Hà Nội đã đưa ứng dụng CNTT vào các bước, các khâu
trong công tác quản lý thuế. Việc ứng dụng CNTT vào công tác quản lý
thuế góp phần công khai minh bạch, đơn giản hoá thủ tục hành chính
(TTHC) thuế. Cơ quan thuế đã mở rộng hình thức khai và nộp thuế điện
tử với những tiện ích vượt trội và được cộng đồng DN, NNT tham gia
tích cực. Đến nay, trên địa bàn đã có 98% DN kê khai thuế qua mạng và
trên 95,36% số tiền thuế của DN nộp theo phương thức điện tử. Tỷ lệ
này đã vượt chỉ tiêu Nghị quyết 19 đề ra, đã giảm thời gian, chi phí cho
NNT và cho cả cơ quan thuế trong kê khai, nộp thuế.
Ông Mạnh cho biết, tại Cục Thuế TP. Hà Nội, 100% cán bộ, công chức
thuế đã sử dụng thư điện tử trong giải quyết công việc, trao đổi thông tin
với NNT. Cục Thuế đã xây dựng ứng dụng gửi thư tự động - ASM để
chuyển thông tin đến toàn bộ DN trên địa bàn. Đây là kênh thông tin
quan trọng gắn kết cơ quan thuế với DN; qua đó cung cấp thông tin về
các chính sách thuế mới, tiếp nhận những vướng mắc, khó khăn của
NNT để có hướng dẫn, giải quyết kịp thời; cung cấp số nợ thuế để NNT
nắm, rà soát, đối chiếu, điều chỉnh kịp thời khi có sai lệch, đã góp phần
hỗ trợ tích cực cho NNT cũng như nâng cao hiệu quả công tác quản lý
thuế.
Đặc biệt, việc đăng ký kinh doanh thành lập DN, cấp mã số thuế tự động
trong thời gian không quá 30 phút, giảm 87,5% thời gian thực hiện so
với quy định là 4 tiếng đồng hồ trước đây, giúp DN, NNT tiết kiệm thời
gian, chi phí đi lại; có thể nộp hồ sơ mọi lúc, mọi nơi có máy tính kết nối
Internet. Cục Thuế TP. Hà Nội cũng phối hợp với các sở, ngành liên
quan trong việc giải quyết TTHC liên quan đến đất đai, đã rút ngắn thời
gian giải quyết hồ sơ từ 5 ngày xuống 3 ngày; đảm bảo tính công khai,
minh bạch, rõ người, rõ việc để người sử dụng đất nắm được thời gian
giải quyết hồ sơ ở từng bộ phận, từng cơ quan tạo được sự đồng thuận
của người nộp thuế.
Cũng theo ông Mạnh, lãnh đạo Cục Thuế đã chỉ đạo các đơn vị thuộc,
trực thuộc tiếp tục nghiên cứu, phát triển phần mềm hỗ trợ; sử dụng các
ứng dụng thông minh; chủ động triển khai tốt các đề án quản lý mang lại
lợi ích thiết thực cho NNT như: Hệ thống quản lý thuế tập trung (TMS);
hoàn thuế điện tử; biên lai điện tử; hóa đơn điện tử có xác thực của cơ
quan thuế; ủy nhiệm thu thuế hộ, cá nhân kinh doanh; nộp thuế điện tử
trước bạ ô tô xe máy; kê khai điện tử hộ cho thuê nhà; thanh tra, kiểm
tra điện tử... Mục tiêu cao nhất của ngành Thuế Thủ đô là tạo điều kiện
tốt nhất để NNT được thụ hưởng đầy đủ các cơ chế ưu đãi về thuế và
thực hiện đúng chính sách, pháp luật thuế.
Đồng hành cùng NNT
Để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho DN, với tư cách là thành
viên tích cực trong Ban chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy hoạt động
sản xuất kinh doanh (SXKD) cho DN, Cục Thuế Hà Nội luôn chủ động
nghiên cứu, phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc xây dựng các
kênh thông tin để nắm bắt các khó khăn, vướng mắc của NNT; từ đó
tham mưu, kiến nghị cơ chế chính sách thuế phù hợp thực tiễn giúp
cộng đồng DN, NNT tiếp tục duy trì, ổn định, phát triển SXKD, thu hút
đầu tư, tạo nguồn thu bền vững cho ngân sách nhà nước (NSNN).
Để hạn chế đến mức thấp nhất các vướng mắc phát sinh trong quá trình
thực hiện nghĩa vụ thuế, Cục Thuế Hà Nội đã hệ thống hóa, biên soạn
ngắn gọn, cô đọng để truyền tải những nội dung chính sách thuế mới
qua hệ thống thư điện tử cơ quan thuế tới hơn 140 nghìn DN, tổ chức
đăng ký kê khai qua mạng, đăng tải công khai trên website của Cục
Thuế tại địa chỉ http://hanoi.gdt.gov.vn giúp việc cập nhật chính sách
thuế mới của các DN trên địa bàn được nhanh chóng, kịp thời. Cơ quan
thuế thường xuyên tổ chức tập huấn miễn phí cho các DN, đặc biệt DN
mới thành lập về chính sách thuế, nhất là các chính sách thuế mới, để
NNT nắm bắt kịp thời, hiểu rõ và thực hiện đúng. Kết quả 10 tháng đầu
năm 2017, Cục Thuế đã tổ chức 54 lớp tập huấn miễn phí cho 8.233
NNT và cán bộ, công chức thuế.
Song song với việc tuyên truyền chính sách, pháp luật về thuế, Cục
Thuế TP. Hà Nội đã tập trung nhân lực, tài lực để hỗ trợ tối đa cho NNT
thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, nhất là tại bộ phận “một cửa” của cơ quan
thuế. Đồng thời, Cục Thuế cũng tổ chức nhiều hội nghị đối thoại, toạ
đàm với cộng đồng DN, hội tư vấn thuế, hiệp hội DN nhỏ và vừa, Hiệp
hội DN Nhật Bản trên địa bàn thành phố. Qua hội nghị đối thoại, tọa đàm
và các buổi làm việc trực tiếp với DN, Cục Thuế đã chủ động nắm bắt
tình hình SXKD, tiếp thu ý kiến, kiến nghị và giải quyết kịp thời những
khó khăn, vướng mắc của DN tạo điều kiện để DN hoạt động SXKD hiệu
quả, thực hiện đúng chính sách, pháp luật thuế và đóng góp ngày càng
nhiều cho NSNN.
Ngay cả với các DN, tổ chức thuộc diện chây ỳ nộp thuế, bên cạnh các
biện pháp cưỡng chế kiên quyết, Cục Thuế cũng đã tham mưu với lãnh
đạo UBND thành phố để tổ chức gặp gỡ, đối thoại, tháo gỡ khó khăn và
đôn đốc nộp thuế. Sau các cuộc gặp này, những DN, NNT này cũng đã
có các cam kết nộp số tiền thuế, tiền đất của các dự án còn nợ…
Theo thoibaotaichinhvietnam.vn