27
a VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ CỤC KIỂM SOÁT THỦ TỤC HÀNH CHÍNH ĐIỂM BÁO Ngày 15 tháng 11 năm 2017

a VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ CỤC KIỂM SOÁT THỦ TỤC HÀNH …thutuchanhchinh.vn/noidung/tintuc/Lists/DiemBao/Attachments/1330/DB...dự án có quy mô lớn, tính chất phức

  • Upload
    others

  • View
    4

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

a

VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ

CỤC KIỂM SOÁT THỦ TỤC HÀNH CHÍNH

ĐIỂM BÁO

Ngày 15 tháng 11 năm 2017

Bộ, ngành

1. Thượng tướng Lê Quý Vương nói về cấp mã số định danh cá nhân

2. Sửa Luật Quản lý thuế theo hướng hiện đại và thống nhất hơn

3. Cơ chế một cửa đường hàng không quốc tế có những tiện ích gì?

4. Hợp nhất thu thuế và bảo hiểm xã hội?

5. Đề xuất tích hợp các loại giấy phép môi trường

6. Quản lý sản xuất, kinh doanh rượu thủ công: Cơ sở lúng túng, người dân loay hoay

7. Đổi mới để bắt kịp cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

8. Giảm phí thẩm định kinh doanh dịch vụ kiểm định an toàn lao động

Địa phương

9. Mọi nỗ lực cải cách đều hướng về người nộp thuế

1. Thượng tướng Lê Quý Vương nói về cấp mã số định danh cá nhân

Thượng tướng Lê Quý Vương sáng 14-11 cho rằng công tác quản

lý dân cư còn gây phiền hà, Bộ Công an đã cấp gần 8 triệu số định

danh cá nhân cho công dân tại 16 địa phương.

Sáng nay 14-11, tại Hội nghị triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia

về dân cư do Tổng Cục cảnh sát (Bộ Công an) tổ chức ở Hà Nội,

Thượng tướng Lê Quý Vương, Thứ trưởng Bộ Công an, cho biết sau

một thời gian triển khai thí điểm xây dựng dự án cơ sở dữ liệu quốc gia

về dân cư, Bộ Công an đã hoàn thiện khung pháp lý cho việc triển khai

dự án, xây dựng trung tâm dữ liệu quốc gia về dân cư ở Hà Nội và TP

HCM.

"Thông qua công tác cấp thẻ căn cước công dân (CCCD), đã cấp gần 8

triệu mã số định danh cá nhân cho công dân tại 16 địa phương và phối

hợp với Bộ Tư pháp cấp trên 700.000 số định danh cá nhân cho trẻ em

mới sinh tại 17 địa phương"- Thượng tướng Vương cho hay.

Thượng tướng Lê Quý Vương nhấn mạnh dự án cơ sở dữ liệu quốc gia

về dân cư đóng vai trò quan trọng trong việc đơn giản hóa thủ tục hành

chính cho công dân- Ảnh: Minh Chiến

Cũng theo Thứ trưởng Lê Quý Vương, Bộ Công an phối hợp với công

an các địa phương triển khai thí điểm thu thập thông tin dân cư tại TP

Phủ Lý (Hà Nam) và TP Hòa Bình (Hòa Bình), triển khai phần mềm quản

ly cư trú tại các đơn vị cho công an tỉnh Thừa Thiên Huế, triển khai thí

điểm hệ thống quản lý dân cư tại TP Hải Phòng.

Bên cạnh đó, Thượng tướng Lê Quý Vương cũng cho rằng công tác

quản lý dân cư vẫn còn một số tồn tại, như tình trạng di cư tự do, thiếu

sự quản lý trên nhiều phương diện. Tra cứu các thông tin về dân cư còn

chậm, gây phiền hà cho tổ chức, công dân. Phương pháp, trang thiết bị

phục vụ quản lý dân cư hiện nay còn lạc hậu, cơ bản là thủ công.

"Theo lộ trình, Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết đơn giản hóa thủ tục

hành chính. Để tổ chức thực hiện, cần thiết phải có sở sở dữ liệu quốc

gia về dân cư. Khi công dân đến độ tuổi quy định, phải được cấp CCCD.

Tiến tới cấp đổi chứng minh nhân dân sang CCCD, phù hợp với số định

danh cá nhân. Bởi số định danh cá nhân là cốt lõi thay đổi quản lý sổ hộ

khẩu như hiện nay"- Thứ trưởng Lê Quý Vương nói.

Theo Thứ trưởng, trên cơ sở số định danh, CCCD, Bộ Công an xây

dựng, hình thành 1 cơ sở dữ liệu quốc gia dân cư không chỉ nhằm mục

đích quan quản lý hộ khẩu mà dùng cho tất cả các nội dung thủ tục liên

quan đến công dân như thuế, bảo hiểm xã hội, y tế, giáo dục...

"Chỉ cần thẻ CCCD, công dân có thể thực hiện được các công việc liên

quan đến thủ tục hành chính. Việc này chống phiền hà, tiêu cực, quan

liêu trong việc giải quyết thủ tục cho công dân. Năm 2020 phải hoàn

thiện, đưa vào khai thác sử dụng trên cả nước"- Thượng tướng Lê Quý

Vương nhấn mạnh.

Đại diện Bộ Công an đánh giá dự án cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là

dự án có quy mô lớn, tính chất phức tạp, phạm vi triển khai rộng khắp từ

trung ương đến địa phương, trong khi đó nguồn vốn đầu tư cho dự án

rất lớn, ngân sách nhà nước hiện nay còn hạn chế.

Theo Nghị quyết 112 vừa ban hành, Chính phủ thông qua phương án

của Bộ Công an về việc bỏ các thủ tục về sổ hộ khẩu, CMND trong quản

lý dân cư để thống nhất việc quản lý bằng mã số định danh cá nhân.

Ở nhóm thủ tục đăng ký thường trú sẽ bãi bỏ hình thức quản lý dân cư

đăng ký thường trú bằng "sổ hộ khẩu" và thay thế bằng hình thức cập

nhật thông tin trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

Đặc biệt, cùng với việc bãi bỏ sổ hộ khẩu, CMND, các thủ tục liên quan

đến lĩnh vực xuất nhập cảnh, đăng ký xe, đăng ký ngành nghề kinh

doanh có điều kiện… cũng sẽ bỏ việc yêu cầu người dân phải xuất trình

2 loại giấy tờ này.

Theo nld.com.vn

2. Sửa Luật Quản lý thuế theo hướng hiện đại và thống nhất hơn

Bộ Tài chính vừa công khai lấy ý kiến về đề nghị xây dựng Luật

Quản lý thuế sửa đổi, với mục tiêu quản lý thuế theo hướng đơn

giản, rõ ràng, công khai, thuận tiện, thống nhất, đảm bảo phù hợp

với chuẩn mực quốc tế và quản lý thuế điện tử.

Chi cục Thuế Mù Căng Chải (Yên Bái) công khai thủ tục hành chính

thuế. Ảnh: Đức Minh

Quản lý thuế đơn giản và hiện đại hơn

Theo đánh giá của Bộ Tài chính, 10 năm thực hiện Luật Quản lý thuế,

công tác quản lý thuế, thu thuế đã đạt được nhiều kết quả tích cực, đảm

bảo quản lý chặt chẽ nguồn thu. Nhận thức của người dân, doanh

nghiệp đối với việc thực hiện nghĩa vụ thuế với ngân sách nhà nước

(NSNN) được nâng cao. Bộ máy hành chính thuế không ngừng được

kiện toàn, đội ngũ cán bộ, công chức quản lý thuế từng bước chuyên

nghiệp, chuyên sâu.

Tuy nhiên, tình hình có những diễn biến mới: Quy định về quản lý thuế

cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa cho phù hợp với tình hình số lượng

người nộp thuế tăng nhanh. Mô hình hoạt động sản xuất kinh doanh của

người nộp thuế đã có sự thay đổi cả về quy mô và phương thức. Khoa

học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ. Các

tập đoàn, doanh nghiệp đa quốc gia đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam

ngày càng nhiều... Những nhân tố này dẫn đến những thay đổi căn bản

trong công tác quản lý người nộp thuế.

Hơn nữa, hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải tiếp tục bổ sung cơ sở

pháp lý, phải tăng cường hợp tác, quản lý thuế quốc tế. Thời gian qua,

Việt Nam đã ký kết nhiều điều ước quốc tế, hiệp định đa phương, song

phương, trong lĩnh vực thuế. Cụ thể đến nay, Việt Nam đã ký hiệp định

tránh đánh thuế hai lần với 76 nước và vùng lãnh thổ. Luật Quản lý thuế

đã có những điểm chưa được quy định hoặc quy định không còn phù

hợp với chuẩn mực quốc tế về quản lý thuế để tham gia, ký kết hiệp định

thuế đa phương...

Bộ Tài chính cũng cho rằng, Luật Quản lý thuế hiện hành chưa tạo điều

kiện pháp lý đầy đủ cho việc hiện đại hóa quản lý thuế, mà trước hết là

triển khai rộng rãi, phổ biến thủ tục quản lý thuế điện tử trong bối cảnh

phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử, cách mạng công nghiệp lần

thứ 4, thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế đã có sự chuyển

biến rõ rệt so với các năm trước.

Bộ Tài chính cũng cho biết, quan điểm xuyên suốt trong quá trình xây

dựng Luật Quản lý thuế (sửa đổi) là đổi mới toàn diện hoạt động quản lý

thuế nhằm xây dựng ngành Thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực, hiệu quả,

công tác quản lý thuế thống nhất, công khai, minh bạch, đơn giản, dễ

hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ bản: Thể chế chính sách

thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, khoa học

phù hợp với thông lệ quốc tế; nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính;

ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động

hóa cao.

Bên cạnh đó, đổi mới các nội dung và các điều luật theo hướng gia tăng

các quy định nhằm cải cách thủ tục hành chính; cải cách thủ tục quản lý

thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, công khai, thuận tiện, thống nhất,

đảm bảo phù hợp với chuẩn mực quốc tế, thực hiện quản lý thuế điện

tử, tạo môi trường thuận lợi cho người nộp thuế tuân thủ pháp luật về

thuế, tự giác nộp đúng, đủ, kịp thời tiền thuế vào ngân sách nhà nước.

Đồng thời, nâng cao năng lực và hiệu quả của hoạt động quản lý thuế

để phòng, chống trốn thuế, thất thu và nợ thuế; tăng cường sự phối hợp

giữa các cơ quan nhà nước và các tổ chức, cá nhân có liên quan với cơ

quan thuế trong việc thực hiện pháp luật về thuế và quản lý thuế.

Google, Facebook, Apple phối hợp khai báo, nộp thuế

Trong dự thảo Tờ trình Chính phủ đề nghị xây dựng Luật Quản lý thuế

sửa đổi, Bộ Tài chính đề nghị nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài (như

Google, Facebook, Apple…) mở văn phòng đại diện chính thức tại Việt

Nam để phối hợp chặt chẽ hơn với cơ quan quản lý nhà nước của Việt

Nam trong việc khai báo, nộp thuế…

Dự thảo cũng nêu rõ, trước sự phát triển nhanh của nền kinh tế, hội

nhập quốc tế, hoạt động mua bán bằng phương thức điện tử phát triển

với tốc độ ngày càng nhanh… Việc sửa đổi Luật Quản lý thuế, hướng tới

mục tiêu tạo khung pháp lý để áp dụng phổ biến quản lý thuế điện tử

phục vụ có hiệu quả sự phát triển của hoạt động kinh tế trong chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội của giai đoạn mới là thực sự cần thiết.

Trong đó, kinh doanh thương mại điện tử (TMĐT) là một loại hình kinh

doanh mới đang phát triển mạnh ở các nước trên thế giới nói chung và

ở Việt Nam nói riêng. Hoạt động kinh doanh TMĐT có ưu điểm nổi bật

hơn so với kinh doanh truyền thống là tính linh hoạt cao độ về mặt cung

ứng và giảm thiểu phí tổn cho các đối tác kinh doanh.

Bộ Tài chính cũng cho rằng, TMĐT góp phần thúc đẩy sự cạnh tranh

giữa các doanh nghiệp để thu được nhiều lợi ích nhất. Điều này đặc biệt

quan trọng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, khi các doanh nghiệp

trong nước phải cạnh tranh một cách bình đẳng với các doanh nghiệp

nước ngoài.

Ở Việt Nam thời gian gần đây đã phát triển mạnh loại hình kinh doanh

này, việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, quảng cáo... thông qua

các phương tiện như phát sóng truyền hình, các website thương mại

điện tử, sàn giao dịch thương mại điện tử, các mạng xã hội của nước

ngoài. Mô hình kinh doanh này ngày một phát triển do sự thuận lợi từ

những đặc điểm của loại hình kinh doanh qua mạng.

Tuy nhiên, cách thức quản lý thuế hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu

quản lý một cách đầy đủ và chính xác đối với loại hình kinh doanh này.

Chẳng hạn như, các công ty vận hành mạng nước ngoài hầu hết không

đăng ký kinh doanh và không có văn phòng đại diện chính thức tại Việt

Nam. Đây là một khó khăn cho ngành Thuế trong việc quản lý thuế đối

với các mạng nước ngoài kinh doanh theo hình thức thông qua mạng

internet.

Bộ Tài chính cho biết, hiện Google và Facebook cung cấp dịch vụ quảng

cáo trực tuyến cho thị trường Việt Nam thông qua hai phương thức:

Phương thức thông qua các đại lý tại Việt Nam thì chính các doanh

nghiệp này sẽ phải thực hiện các nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp

luật Việt Nam khi phát sinh doanh thu.

Phương thức thứ hai là mua – bán trực tuyến và thanh toán trực tuyến

qua thẻ tài khoản tín dụng hoặc ví điện tử. Trường hợp này chưa được

quy định rõ, phía mua dịch vụ sẽ bị thiệt vì không có hóa đơn nên sẽ

không được tính vào chi phí hợp lý, hoặc bên mua dịch vụ sẽ tự hợp

thức hóa bằng cách mua hóa đơn của một dịch vụ khác.

Như vậy, khi thanh kiểm tra thuế cũng sẽ khó biết hết được giá trị thực

của chi phí trả cho dịch vụ qua mạng (nhiều trường hợp cần đối chiếu

thông tin từ nhiều nguồn và phải truy lần theo thông tin thanh toán thực

tế).

Mặt khác, với việc thanh toán dựa vào số lần click chuột trả tiền thì việc

xác định doanh thu quảng cáo của nhà mạng nước ngoài không dễ

dàng, vì phải đối chiếu thông tin giữa 2 ngân hàng (của người

mua/người bán) tham gia thanh toán trong điều kiện họ không phải là đối

tượng nộp thuế trực tiếp và ngân hàng của công ty mạng cũng ở nước

ngoài. Người mua dịch vụ của các tổ chức nước ngoài là cá nhân nên

khó có cơ sở đề nghị khấu trừ thuế nhà thầu của tổ chức nước ngoài khi

mua dịch vụ.

Từ đó, Bộ Tài chính đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế để quản

lý thu thuế đối với loại hình kinh doanh TMĐT tại Việt Nam đạt được hiệu

quả./.

Toàn văn dự thảo tờ trình Chính phủ.

Theo thoibaotaichinhvietnam.vn

3. Cơ chế một cửa đường hàng không quốc tế có những tiện ích gì?

Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng không là việc tiếp nhận

thông tin về lịch khai thác bay, danh sách tổ bay, hành khách, hành

lý, hàng hóa để thực hiện thủ tục điện tử đối với tàu bay nhập cảnh,

xuất cảnh, quá cảnh...

Tổng cục Hải quan vừa thông tin, sau một thời gian tích cực chuẩn bị

các điều kiện về hệ thống CNTT, đào tạo, tuyên truyền, thí điểm tại Nội

Bài, đến nay Tổng cục Hải quan đã sẵn sàng để triển khai Cơ chế một

cửa quốc gia đường hàng không tại tất cả các cảng hàng không quốc tế

trên cả nước vào ngày 15/11/2017 theo Quyết định 43/2017/QĐ-Ttg.

Mô hình Cơ chế một cửa đường hàng không.

Cơ chế một cửa đường hàng không là việc cho phép người làm thủ tục

gửi thông tin, chứng từ điện tử để thực hiện thủ tục của cơ quan quản lý

nhà nước liên quan đến tàu bay xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh thông

qua Cổng thông tin một cửa quốc gia. Các cơ quan quản lý nhà nước ra

quyết định thông quan qua Cổng thông tin một cửa quốc gia.

Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng không là việc tiếp nhận thông tin

về lịch khai thác bay, danh sách tổ bay, hành khách, hành lý, hàng hóa

để thực hiện thủ tục điện tử đối với tàu bay nhập cảnh, xuất cảnh, quá

cảnh thông qua Cổng thông tin một cửa quốc gia đường hàng không.

Thông tin gửi tới Cổng thông tin một cửa quốc gia được 5 cơ quan quản

lý nhà nước tại cảng hàng không tiếp nhận, khai thác chung. Người làm

thủ tục chỉ cần gửi thông tin điện tử cho cơ quan nhà nước một lần duy

nhất tại địa chỉ: https://www.vnsw.gov.vn.

Các cơ quan quản lý nhà nước tại cảng hàng không gồm: Hải quan cửa

khẩu, cảng vụ hàng không, công an cửa khẩu, cơ quan kiểm dịch động

vật, cơ quan kiểm dịch thực vật, tổ chức kiểm dịch y tế biên giới. Điểm

mới đầu tiên và quan trọng nhất là các hãng hàng không cung cấp thông

tin bằng phương thức điện tử cho cơ quan Chính phủ trong việc quản lý

phương tiện vận tải hàng không.

Hiện nay các văn bản quy định quản lý phương tiện vận tải hàng không

tại sân bay quốc tế đã có nhưng được quy định riêng rẽ bởi các cơ quan

khác nhau, thiếu đồng bộ. Ví như trong lĩnh vực Hải quan đã có Nghị

định yêu cầu, thông tư hướng dẫn các hãng hàng không cung cấp thông

tin về hành khách, hàng hóa và hành lý, về chuyến bay.

Cơ quan an ninh cửa khẩu và quản lý xuất nhập cảnh thì yêu cầu cung

cấp trước thông tin hành khách. Cơ quan cảng vụ hàng không cũng yêu

cầu cung cấp thông tin phục vụ quản lý chung… Tất cả các thông tin này

(trừ thông tin về hành khách) đều cung cấp bằng bản giấy. Do vậy, việc

chia sẻ và sử dụng thông tin là rất hạn chế.

Tới đây khi triển khai Cơ chế một cửa đường hàng không, toàn bộ các

thông tin liên quan sẽ được khai báo bằng phương thức điện tử và được

liên kết với tất cả hệ thống quản lý của các cơ quan nhà nước tại cảng

hàng không.

Điểm mới thứ hai là lần đầu tiên cơ quan quản lý nhà nước tại cảng

hàng không của Việt Nam yêu cầu cung cấp thông tin đặt chỗ hành

khách nhằm đảm bảo an ninh hàng không, an ninh quốc gia và ngăn

chặn khủng bố, buôn lậu ma túy qua đường không.

Điểm mới thứ ba là khi thông tin được gửi đến một cơ quan quản lý nhà

nước thì ngay lập tức được tự động chia sẻ cho tất cả cơ quan liên

quan, kết nối tất cả các khâu.

Bên cạnh đó, về phía cơ quan Hải quan còn thực hiện cung cấp thông

tin giữa các cơ quan quản lý kho, bãi hàng không phục vụ cho công tác

giám sát hải quan. Khi các cơ quan liên quan được chia sẻ những thông

tin này sớm thì sẽ rút ngắn thời gian thông quan và hỗ trợ tốt cho doanh

nghiệp logistic, doanh nghiệp vận tải và doanh nghiệp hoạt động trong

lĩnh vực xuất nhập khẩu.

Các chứng từ khai báo điện tử qua Cơ chế một cửa đường hàng không.

Không phải nộp nhiều bộ chứng từ giấy tới các cơ quan quản lý nhà

nước mà chỉ phải gửi thông tin điện tử một lần duy nhất tới Cổng thông

tin một cửa quốc gia. Qua đó rút ngắn thời gian làm thủ tục, tiết kiệm các

chi phí liên quan.

Các cơ quan quản lý có thông tin trước về chuyến bay để phân tích và

kiểm tra, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực hàng

không, giảm thời gian và nhân lực liên quan đến việc tiếp nhận các hồ

sơ giấy thủ công.

Qua việc tiếp nhận thông tin trước chuyến bay, cơ quan quản lý nhà

nước áp dụng quản lý rủi ro, đảm bảo an ninh, an toàn hàng không,

ngăn chặn buôn lậu, khủng bố.

Việc trang bị cũng như quản lý, vận hành hệ thống CNTT giúp hiện đại

hóa cơ quan quản lý nhà nước, nâng cao năng lực cán bộ công chức.

Việc trao đổi thông tin, phối hợp quản lý giữa các cơ quan quản lý nhà

nước tại cảng hàng không góp phần triển khai Chính phủ điện tử tại Việt

Nam.

Thông qua triển khai Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng không,

Chính phủ Việt Nam thể hiện nỗ lực tạo thuận lợi thương mại, cải thiện

môi trường kinh doanh, đồng thời là nền tảng để triển khai Cơ chế một

cửa ASEAN theo đúng cam kết.

Sau một quá trình chuẩn bị, hệ thống một cửa hàng không được vận

hành thí điểm tại Cảng hàng không quốc tế Nội Bài từ ngày 01/01/2017.

Tính đến nay, 100% hãng hàng không có văn bản xác nhận đăng ký

tham gia thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng không.

Thực hiện Quyết định số 43/2017/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ, từ

ngày 15/11/2017, cơ quan hải quan sẽ đồng loạt triển khai Cơ chế một

cửa quốc gia đối với tàu bay xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh tại tất cả

các cảng hàng không quốc tế trên cả nước.

Tổng cục Hải quan - Cơ quan thường trực Ủy ban chỉ đạo quốc gia về

Cơ chế một cửa ASEAN, Cơ chế một cửa quốc gia và tạo thuận lợi

thương mại - đã cùng các bộ, ngành, cơ quan liên quan chuẩn bị mọi

điều kiện để sẵn sàng triển khai Cơ chế một cửa hàng không.

Bên cạnh việc phối hợp với các hãng hàng không đánh giá thực trạng,

nhu cầu để xây dựng hệ thống trao đổi thông tin, kết nối với hệ thống

một cửa quốc gia, Tổng cục Hải quan thường xuyên tổ chức đào tạo, tập

huấn cho cả cán bộ hải quan, các hãng hàng không, đại lý hàng không

và người khai hải quan về lĩnh vực này.

Đồng thời, bộ phận hỗ trợ (help-desk) của Tổng cục Hải quan túc trực hệ

thống 24/7 và các đường dây nóng để hỗ trợ nhanh nhất cho doanh

nghiệp. Tổng cục Hải quan cũng đang dự thảo một loạt quy trình xử lý

của cơ quan hải quan, kết nối với các cơ quan để đưa ra các biện pháp

ứng phó, xử lý sự cố, nếu có.

Qua thí điểm tại cảng hàng không quốc tế Nội Bài cho thấy hệ thống

được triển khai thuận lợi, ổn định. Đây là tiền đề để cơ quan hải quan

triển khai tại tất cả các cảng hàng không quốc tế trên cả nước vào ngày

15/11/2017.

Theo infonet.vn

4. Hợp nhất thu thuế và bảo hiểm xã hội?

Việc cơ quan thuế đồng thời thu thuế và bảo hiểm xã hội (BHXH)

bắt buộc đối với các đơn vị sử dụng lao động được kỳ vọng sẽ xóa

bỏ tình trạng doanh nghiệp trốn đóng bảo hiểm.

Bộ Tài chính đề xuất thu đồng thời thuế và bảo hiểm xã hội

Bộ Tài chính vừa đưa ra dự thảo Luật Quản lý Thuế (sửa đổi) để lấy ý

kiến góp ý. Trong đó, có nội dung đáng chú ý là cơ quan thuế sẽ thực

hiện thu thuế đồng thời thu cả tiền đóng BHXH bắt buộc của chủ sử

dụng lao động, doanh nghiệp.

Giảm chi phí quản lý

Theo số liệu thống kê của Bộ LĐ-TB&XH, hiện nay, tỷ lệ người tham gia

BHXH ở Việt Nam vẫn rất thấp. Cụ thể, chỉ hơn 13 triệu lao động trên

tổng số 54 triệu lao động tham gia đóng BHXH. Thực tế cho thấy, số

lượng đơn vị sử dụng lao động do cơ quan thuế quản lý cao hơn nhiều

so với số lượng đơn vị sử dụng lao động do cơ quan BHXH quản lý

(năm 2016, cơ quan thuế quản lý khoảng 600.000 đơn vị, trong khi

BHXH quản lý khoảng 300.000 đơn vị).

Hiện nay, cơ quan thuế và cơ quan BHXH đang phối hợp quản lý và thu

BHXH theo quy chế đã ký giữa Tổng cục Thuế và BHXH Việt Nam. Tuy

nhiên, theo đánh giá của Bộ Tài chính, việc phối hợp giữa cơ quan thuế

và cơ quan BHXH chưa đạt được kết quả như mong muốn. Nguyên

nhân do giữa thuế và BHXH hiện nay còn có nhiều sự khác biệt như thời

gian khai, nộp, căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân và căn cứ tính

BHXH… Điều này dẫn đến sự phối hợp không triệt để giữa các bên.

Việc cơ quan thuế thực hiện thu thuế và BHXH là phù hợp với xu thế

hiện nay trên thế giới, cũng như đáp ứng yêu cầu của xã hội là phải cải

cách thủ tục hành chính mạnh mẽ. Hiện nay, một số quốc gia ở châu Âu

đã và đang thực hiện mô hình này. Nếu hợp nhất việc thu thuế và BHXH

không những cải cách thủ tục hành chính, giảm số lượng tờ khai, thời

gian, chi phí… đối với doanh nghiệp mà còn giảm chi phí quản lý của cơ

quan chức năng.

Cụ thể, thay vì phải nộp 2 tờ khai thuế và BHXH cho 2 cơ quan khác

nhau, nay chỉ cần nộp 1 tờ khai cho 2 khoản phải nộp. Đồng thời, với

việc hợp nhất thu thuế và BHXH, mã số thuế của cá nhân có thể dùng

làm mã quản lý BHXH, số sổ BHXH, số thẻ bảo hiểm y tế. Điều này có

thể giúp đơn giản hóa trong công tác quản lý cũng như khai, nộp thuế và

BHXH. Cùng với đó, do chỉ còn một đầu mối thu cả 2 khoản tiền, nên

cũng chỉ cần một đơn vị thực hiện hoạt động thanh tra, kiểm tra đơn vị

sử dụng lao động về thực hiện chính sách thuế và BHXH.

Phải nghiên cứu, áp dụng thí điểm

Về vấn đề này, Phó Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Mai Đức Chính

cho biết: “Lâu nay, doanh nghiệp luôn có 2 sổ lương. Một sổ lương

doanh nghiệp kê khai đóng BHXH rất thấp, chủ yếu tương đương mức

lương tối thiểu vùng. Một sổ lương khác, doanh nghiệp thực trả cho

người lao động cao hơn, thông qua nhiều loại phụ cấp, hỗ trợ khác

nhau. Vì vậy, chúng ta phải tiến tới liên thông cơ quan thuế và BHXH, để

thu BHXH theo tiền lương doanh nghiệp kê khai thuế. Doanh nghiệp

quyết toán chi phí lao động để khấu trừ thuế bao nhiêu sẽ phải đóng

BHXH bấy nhiêu, như vậy sẽ không còn chuyện 2 sổ lương nữa”.

Cùng quan điểm, ông Tạ Văn Dưỡng, Trưởng ban Chính sách pháp luật

(Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội) chia sẻ: “Đúng là cơ quan thuế

có nhiều ưu thế trong việc thu BHXH. Tuy vậy, nếu chuyển đổi, sáp nhập

chức năng thu BHXH vào cơ quan thuế cần phải tổ chức, sắp xếp lại bộ

máy hai cơ quan”.

Hơn nữa, việc tận dụng nguồn lực sẵn có của cơ quan thuế có thể giảm

chi phí quản lý nhưng không đảm bảo rằng cán bộ cơ quan thuế nắm

vững nghiệp vụ thu BHXH. Do đó, các cơ quan quản lý cần có nghiên

cứu, đánh giá tác động cụ thể trước khi áp dụng. Để giải quyết cốt lõi

vấn đề nợ đọng, trốn đóng hay mở rộng đối tượng tham gia BHXH

không thể chỉ bằng cách chuyển việc từ cơ quan nọ sang cơ quan kia

mà phải làm sao để doanh nghiệp không “lách luật” trốn đóng BHXH.

Theo anninhthudo.vn

5. Đề xuất tích hợp các loại giấy phép môi trường

Đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo

vệ môi trường và các luật có liên quan đến bảo vệ môi trường, Bộ

Tài nguyên và Môi trường cho rằng cần sửa đổi, bổ sung quy định

về giấy phép môi trường theo hướng sử dụng hệ thống giấy phép

liên thông, tích hợp, thống nhất.

Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, theo các quy định của pháp luật

về bảo vệ môi trường hiện hành, sau đánh giá tác động môi trường, cơ

quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đang sử dụng các loại giấy

phép, công cụ để quản lý môi trường đối với các dự án, cơ sở như: Giấy

xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường, giấy phép xả thải

vào nguồn nước; giấy phép hành nghề quản lý chất thải nguy hại; sổ chủ

nguồn thải; phương án bảo vệ môi trường; kế hoạch quản lý môi trường.

Do vậy, thực tiễn công tác quản lý, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các

quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở trong giai

đoạn vận hành đang được thực hiện với sự chồng lấn giữa nhiều công

cụ, trong đó, các cơ quan quản lý nhà nước vẫn chủ yếu tiến hành kiểm

tra dựa trên báo cáo sau đánh giá tác động môi trường. Về mặt khoa

học, báo cáo sau đánh giá tác động môi trường chỉ là một công cụ dự

báo, phục vụ cho giai đoạn cấp phép cho dự án. Trên thực tiễn, trong

giai đoạn vận hành, các vấn đề môi trường của cơ sở hoàn toàn có thể

có khác biệt so với dự báo trong báo cáo sau đánh giá tác động môi

trường, do đó việc kiểm tra và tiến hành các biện pháp cưỡng chế, xử

phạt dựa trên báo cáo này là không hợp lý.

Tại Điều 67, 68, 70, Chương VII Luật Bảo vệ môi trường về bảo vệ môi

trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có quy định về việc

lập và thực hiện phương án bảo vệ môi trường; Điều 16 Nghị định

18/2015/NĐ-CP cũng đã quy định về kế hoạch quản lý môi trường,

nhưng còn chưa rõ ràng, cụ thể. Đây là các công cụ quản lý môi trường

trong giai đoạn hoạt động của cơ sở. Tuy nhiên, các công cụ này chưa

đủ mạnh về mặt pháp lý vì vẫn chủ yếu do các cơ sở tự lập, tự thực

hiện. Việc phải có một công cụ quản lý thống nhất, có tính pháp lý cao,

cụ thể là giấy phép môi trường, là hết sức cần thiết và phù hợp với thực

tiễn thế giới trong quá trình hội nhập.

Ảnh minh họa

Về mặt cấp phép môi trường, theo kinh nghiệm quốc tế, hiện có 2

phương thức chính: 1- Giấy phép môi trường hợp nhất (như đang áp

dụng tại các nước EU); 2-Nhiều giấy phép môi trường đơn lẻ, mỗi vấn

đề môi trường có một giấy phép riêng (như đang áp dụng tại Hoa Kỳ,

Australia, Trung Quốc, một số nhóm đối tượng đặc thù tại các nước

EU…). Thực tiễn áp dụng trên thế giới cho thấy không có ưu thế rõ rệt

giữa 2 phương thức nêu trên, việc áp dụng phương thức nào còn tùy

thuộc vào hệ thống pháp luật và tình hình thực tế của từng nước, tuy

nhiên, đều bảo đảm nguyên tắc không chồng chéo, một đối tượng cụ thể

không bị áp dụng cả 2 phương thức cấp phép.

Ở Việt Nam hiện nay đã tồn tại một số loại giấy phép môi trường theo cả

2 phương thức cấp phép nêu trên. Luật Tài nguyên nước quy định về

giấy phép xả thải vào nguồn nước (là hình thức giấy phép đơn lẻ), trong

khi đó Luật Bảo vệ môi trường quy định về giấy xác nhận hoàn thành

công trình bảo vệ môi trường (là hình thức giấy phép hợp nhất). Việc tồn

tại cả 2 phương thức cấp phép dẫn đến sự chồng lấn, mâu thuẫn trong

nội dung cấp phép, phát sinh thủ tục, gây phiền toái cho các doanh

nghiệp. Cụ thể: Việc xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường

tại Khoản 2 Điều 27 Luật Bảo vệ môi trường đã bao gồm kiểm tra, xác

nhận hiệu quả xử lý hệ thống xử lý nước thải. Trong khi đó, Điều 38 Luật

Tài nguyên nước cũng quy định về việc lập hồ sơ xin phép xả thải vào

nguồn nước của chủ dự án. Hai giấy phép này gần như cùng một nội

dung mà doanh nghiệp phải xin 2 giấy phép, gây tốn kém, lãng phí.

Ngoài ra, còn khá nhiều thủ tục hành chính khác trong lĩnh vực bảo vệ

môi trường trùng lặp về mục tiêu, nội dung, thẩm quyền (thực chất là

một thủ tục) nhưng đang được quy định trong một luật hay bởi các luật

khác nhau và theo đó được thực hiện theo các thủ tục khác nhau, gây

lãng phí thời gian, chi phí xã hội. Do vậy, vấn đề cải cách hành chính và

hợp nhất, liên thông các thủ tục hành chính về môi trường là một trong

những nội dung ưu tiên để thực hiện chủ trương cải cách hành chính

của Chính phủ.

Trên cơ sở đòi hỏi của thực tiễn về một công cụ quản lý môi trường

thống nhất cũng như đẩy mạnh quá trình cải cách, giảm thủ tục hành

chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề xuất bổ sung các Điều 103a,

103b, 103c Mục 6. Quy định về giấy phép môi trường vào Chương IX.

Quản lý chất thải. Theo đó, bổ sung các nội dung về: Vai trò, vị trí của

giấy phép môi trường (là công cụ quản lý môi trường thống nhất đối với

cơ sở khi đã đi vào giai đoạn hoạt động; là căn cứ để các cơ sở thực

hiện các biện pháp bảo vệ môi trường và để các cơ quan có thẩm quyền

kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm - thay cho việc kiểm tra căn cứ vào báo

cáo sau đánh giá tác động môi trường như hiện nay); nội dung của giấy

phép môi trường (có thể quy định phù hợp với đặc thù đối với từng loại

ngành, nghề khác, nhóm đối tượng có rủi ro môi trường khác nhau); lập,

phê duyệt và thực hiện giấy phép môi trường. Các quy định này sẽ thay

thế toàn bộ các nội dung về giấy phép, thủ tục về môi trường đối với cơ

sở trong giai đoạn hoạt động đang được quy định tại nhiều Luật và văn

bản hướng dẫn khác nhau.

Nội dung bổ sung được đề xuất tại khoản 10 Điều 1 dự thảo Luật.

Mời bạn đọc xem toàn văn hồ sơ đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật Bảo vệ môi trường và các luật có liên quan

đến bảo vệ môi trường và góp ý tại đây.

Theo baochinhphu.vn

6. Quản lý sản xuất, kinh doanh rượu thủ công: Cơ sở lúng túng, người dân loay hoay

Từ ngày 1-11-2017, Nghị định 105/NĐ-CP của Chính phủ về kinh

doanh rượu có hiệu lực, trong đó có những quy định về giấy phép

sản xuất kinh doanh, tem nhãn… Tuy nhiên, hiện các làng nghề nấu

rượu thủ công vẫn ít quan tâm tới vấn đề này, bởi quy mô sản xuất

nhỏ lẻ, trong khi đó cán bộ cơ sở thì lúng túng trong việc hướng

dẫn người dân làm thủ tục đăng ký sản xuất.

Người dân loay hoay

Khảo sát thực tế ở các làng nghề nấu rượu thủ công cho thấy, dường

như người dân vẫn chưa tiếp cận với những yêu cầu mới của pháp luật

để sản xuất rượu bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm và có tem, nhãn

mác. Bà Nguyễn Thị Tươi ở xã Thanh Mai (huyện Thanh Oai) cho biết:

Đầu năm 2017, do có nhiều vụ ngộ độc về rượu thủ công nên người tiêu

dùng hạn chế đặt hàng, khiến rượu sản xuất ở xã tiêu thụ chậm hơn so

với mọi năm. Các hộ nấu rượu ở xã đều bảo đảm chất lượng, chưa từng

xảy ra ngộ độc. Thời gian tới, nếu xã đăng ký thương hiệu làng nghề,

các hộ nấu rượu sẽ đăng ký nhãn mác. Mặc dù vậy, nhiều người vẫn

ngại đi đăng ký giấy phép sản xuất kinh doanh vì không biết thủ tục thế

nào, hơn nữa, khách hàng cũng không yêu cầu...

Trao đổi về vấn đề này, Phó Chủ tịch UBND xã Thanh Mai Lã Văn Dũng

lý giải: "Nghề nấu rượu ở xã Thanh Mai có từ lâu đời. Vào lúc cao điểm

có khoảng 300-400 hộ nấu rượu, nhưng hiện do thu nhập từ nghề bấp

bênh nên chỉ còn trên 20 hộ nấu thường xuyên. Do sản xuất nhỏ lẻ nên

các hộ chưa quan tâm tới việc bảo đảm an toàn thực phẩm. Thời gian

qua, mặc dù huyện Thanh Oai đã phối hợp với xã mở lớp tập huấn về

sản xuất an toàn cho các hộ nấu rượu trên địa bàn, nhưng do lãi suất từ

nấu rượu thủ công thấp nên đến nay, chưa có hộ nào đăng ký cấp giấy

phép sản xuất kinh doanh".

Tuyên truyền nâng cao ý thức cho người sản xuất, kinh doanh rượu

chấp hành các quy định của pháp luật là hết sức cần thiết.

Phó Chủ tịch UBND xã Hồng Hà (huyện Đan Phượng) Nguyễn Mạnh Hà

cho biết: Toàn xã có hơn 300 hộ nấu rượu. Từ khi xảy ra nhiều vụ ngộ

độc rượu trên địa bàn thành phố, xã đã mở các lớp tập huấn về kiến

thức an toàn thực phẩm cho các hộ dân. Đến nay, hầu hết các hộ đã

được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm. Tuy

nhiên, việc đăng ký sản xuất kinh doanh, nhãn mác, thương hiệu... các

hộ gặp khó khăn do thủ tục phức tạp. Theo quy định, để được cấp giấy

phép sản xuất rượu thủ công nhằm mục đích kinh doanh, các hộ phải có

bản sao giấy tiếp nhận công bố hợp quy hoặc giấy xác nhận công bố

phù hợp quy định an toàn thực phẩm (đối với rượu chưa có quy chuẩn

kỹ thuật); bản sao giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực

phẩm; bản liệt kê tên hàng hóa rượu kèm theo bản sao nhãn hàng hóa

rượu mà tổ chức, cá nhân sản xuất hoặc dự kiến sản xuất. Mặc dù yêu

cầu này là cần thiết để quản lý chất lượng, nhưng đối với các hộ sản

xuất thủ công với lượng sản phẩm nhỏ thì các thủ tục là vấn đề khó

khăn...

Cần có giải pháp cụ thể

Để Nghị định 105/NĐ-CP của Chính phủ về sản xuất, kinh doanh rượu đi

vào thực tiễn, cần có giải pháp cụ thể hơn. Trước hết, rất cần sự vào

cuộc mạnh mẽ của chính quyền địa phương và các ngành chức năng

trong việc tuyên truyền nâng cao ý thức cho người sản xuất, kinh doanh

rượu chấp hành các quy định của pháp luật. Cùng với đó là tăng cường

kiểm tra về chất lượng và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

Theo Trưởng phòng Kinh tế huyện Phú Xuyên Nguyễn Hữu Chi, trên địa

bàn huyện Phú Xuyên có hơn 600 hộ nấu rượu thủ công, nhưng mới chỉ

có 30 hộ có giấy đăng ký sản xuất kinh doanh. Vì vậy, thời gian tới,

huyện sẽ đẩy mạnh tuyên truyền, tổ chức tập huấn cho người dân về vệ

sinh an toàn thực phẩm, quy định trong sản xuất kinh doanh, tác hại của

việc sử dụng rượu không rõ nguồn gốc... Đồng thời, hướng dẫn các hộ

quy hoạch, xây dựng khu sản xuất rượu cách xa khu chăn nuôi, đăng ký

sản xuất, tem nhãn, xây dựng thương hiệu... Trong khi đó, Phó Chủ tịch

UBND xã Hồng Hà (huyện Đan Phượng) Nguyễn Mạnh Hà cho biết:

Hiện xã đang thống kê, rà soát quy hoạch các hộ sản xuất rượu để

thành lập Hiệp hội Sản xuất và Chế biến rượu Hồng Hà. Từ đó, sẽ hình

thành sản xuất tập trung, thuận lợi cho việc đăng ký thương hiệu làng

nghề và gắn nhãn mác sản phẩm nhằm bảo đảm rượu có nguồn gốc

xuất xứ...

Còn theo Phó Chi cục trưởng Chi cục Quản lý thị trường Hà Nội Nguyễn

Đắc Lộc, để thực hiện hiệu quả Nghị định 105/NĐ- CP của Chính phủ,

chính quyền địa phương cần thường xuyên tuyên truyền phổ biến quy

định của pháp luật về điều kiện sản xuất, lưu thông sản phẩm rượu thủ

công ở làng nghề. Bên cạnh đó, cần nghiêm túc yêu cầu các tổ chức, cá

nhân ký cam kết không sản xuất, kinh doanh, buôn bán rượu không rõ

nguồn gốc... Các xã, thị trấn cần chủ động phối hợp với lực lượng chức

năng trên địa bàn trong công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý đối với

những hành vi sản xuất kinh doanh rượu không có giấy phép, không tem

nhãn, không nguồn gốc xuất xứ, không công bố tiêu chuẩn chất lượng,

chứng nhận hợp quy... Có như vậy, việc sản xuất, kinh doanh rượu thủ

công ở các làng nghề mới được thực hiện nghiêm theo quy định.

Theo hanoimoi.com.vn

7. Đổi mới để bắt kịp cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Gần 100 cán bộ Công đoàn (CĐ) cấp trên và cơ sở đã tham dự hội

nghị tập huấn chuyên đề "Phương pháp tổ chức hoạt động đổi mới

sáng tạo trong hội nhập kinh tế cách mạng công nghiệp 4.0 cho

doanh nghiệp" do LĐLĐ TP HCM phối hợp với Saigon Innovation

Hub và Báo Người Lao Động tổ chức sáng 14-11.

Ông Trần Đoàn Trung, Phó Chủ tịch LĐLĐ TP HCM, trao đổi với cán bộ

Công đoàn tại buổi tập huấn

Tại hội nghị, các báo cáo viên gồm bà Nguyễn Phi Vân, Chủ tịch HĐQT

Công ty Retail & Franchise và ông Lý Trường Chiến, Chủ tịch HĐQT Trí

Tri Group, đã trao đổi với các cán bộ CĐ về vấn đề hội nhập cách mạng

công nghiệp 4.0 cho doanh nghiệp và việc đổi mới sáng tạo - công cụ hỗ

trợ cải cách hành chính và quản lý nhà nước. Báo cáo viên nhấn mạnh

cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang ảnh hưởng lớn đến định hướng

phát triển của doanh nghiệp và thị trường lao động. Một mặt, cuộc cách

mạng công nghiệp 4.0 mang đến cơ hội lớn về việc làm ở một số lĩnh

vực áp dụng công nghệ hiện đại hay trí tuệ nhân tạo... Tuy nhiên, làn

sóng tự động hóa, công nghiệp hóa sẽ gây áp lực nặng nề cho một số

ngành thâm dụng lao động như may mặc, da giày... Theo dự đoán, lao

động làm việc trong các lĩnh vực này có nguy cơ mất việc rất cao. Do đó,

để tồn tại và thích ứng, các doanh nghiệp cần đón đầu cuộc cách mạng,

sớm đổi mới công nghệ, tạo ra những mô hình hoạt động hoặc sản

phẩm mới. Về phía người lao động cũng phải không ngừng học tập, rèn

luyện tay nghề để thích ứng.

Ông Trần Đoàn Trung, Phó Chủ tịch LĐLĐ TP HCM, cho biết người lao

động chịu ảnh hưởng lớn từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 nên với

vai trò là đại diện cho họ, tổ chức CĐ cũng phải nắm bắt và có giải pháp

ứng phó. "Khi doanh nghiệp đổi mới hoạt động, tính chất lao động và

nhu cầu việc làm đổi mới thì CĐ cũng không thể đứng ngoài cuộc, không

chỉ đột phá trong phương pháp quản lý và tổ chức phong trào mà phải

đổi mới phương pháp tiếp cận, tuyên truyền cho người lao động sao cho

phù hợp và hiệu quả nhất" - ông Trung nhấn mạnh.

Theo nld.com.vn

8. Giảm phí thẩm định kinh doanh dịch vụ kiểm định an toàn lao động

Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư 110/2017/TT-BTC sửa đổi, bổ

sung Biểu mức thu phí thẩm định điều kiện kinh doanh trong hoạt

động kiểm định kỹ thuật an toàn lao động; huấn luyện an toàn, vệ

sinh lao động ban hành kèm theo Thông tư số 245/2016/TT-BTC của

Bộ Tài chính.

Theo Thông tư 110/2017/TT-BTC, giảm mức phí cấp mới, cấp gia hạn

giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động kiểm định kỹ thuật an toàn lao

động từ 16 triệu đồng/lần xuống mức 15 triệu đồng/lần.

Mức phí cấp lại khi bổ sung lĩnh vực hoạt động giấy chứng nhận đủ điều

kiện hoạt động kiểm định kỹ thuật an toàn lao động được giảm từ 5,5

triệu đồng/lần xuống còn 5 triệu đồng lần…

Cụ thể, Biểu mức thu phí thẩm định điều kiện kinh doanh trong hoạt

động kiểm định kỹ thuật an toàn lao động; huấn luyện an toàn, vệ sinh

lao động được điều chỉnh giảm như sau:

Stt Nội dung Mức thu

(đồng/lần)

1 Thẩm định điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm

định kỹ thuật an toàn lao động

a

Đối với cấp mới, cấp gia hạn giấy chứng nhận đủ

điều kiện hoạt động kiểm định kỹ thuật an toàn lao

động

15.000.000

b

Đối với cấp lại khi bổ sung lĩnh vực hoạt động giấy

chứng nhận đủ điều kiện hoạt động kiểm định kỹ

thuật an toàn lao động

5.000.000

2 Thẩm định điều kiện kinh doanh dịch vụ huấn

luyện an toàn, vệ sinh lao động

2.1 Trường hợp do Bộ Lao động, Thương binh và

Xã hội thực hiện

a

Đối với cấp, cấp gia hạn giấy chứng nhận đủ điều

kiện hoạt động huấn luyện an toàn, vệ sinh lao

động

20.500.000

b

Đối với cấp lại khi bổ sung lĩnh vực hoạt động giấy

chứng nhận đủ điều kiện hoạt động huấn luyện an

toàn, vệ sinh lao động

6.500.000

2.2 Trường hợp do Sở Lao động, Thương binh và

Xã hội thực hiện

a

Đối với cấp, cấp gia hạn giấy chứng nhận đủ điều

kiện hoạt động huấn luyện an toàn, vệ sinh lao

động

1.200.000

b

Đối với cấp lại khi bổ sung lĩnh vực hoạt động giấy

chứng nhận đủ điều kiện hoạt động huấn luyện an

toàn, vệ sinh lao động

500.000

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 11/12/2017.

Theo baochinhphu.vn

9. Mọi nỗ lực cải cách đều hướng về người nộp thuế

Những năm qua, Cục Thuế TP. Hà Nội luôn nỗ lực cải cách, cắt

giảm thủ tục thuế; lắng nghe những phản ánh về chính sách thuế,

thủ tục hành chính thuế và về tinh thần và thái độ phục vụ của công

chức thuế khi tiếp xúc với NNT để điều chỉnh, chấn chỉnh kịp thời

các sai phạm, thiếu sót...

Đại diện lãnh đạo Cục Thuế TP. Hà Nội và đại diện Hiệp hội DN Nhật

Bản chụp ảnh lưu niệm tại một buổi tọa đàm chính sách thuế

Những nỗ lực cải cách thuế cũng chính là nhằm phục vụ, tạo thuận lợi

cho doanh nghiệp (DN), người nộp thuế (NNT). Đến nay, ngành Thuế

Thủ đô đã thiết lập được mối quan hệ gắn bó, hỗ trợ, tạo được sự đồng

thuận, đồng hành với NNT.

DN, NNT là mục tiêu cải cách

Theo ông Nguyễn Thế Mạnh – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế

kiêm Cục trưởng Cục Thuế TP. Hà Nội, những năm qua, ngành Thuế

Thủ đô đẩy mạnh cải cách hành chính thuế, đảm bảo công khai, minh

bạch, tạo thuận lợi cho DN, NNT. Cục Thuế TP. Hà Nội luôn đặt sự hài

lòng của DN, NNT làm mục tiêu chính để cải cách. Theo đó, cơ quan

thuế ứng dụng toàn diện công nghệ thông tin (CNTT) hiện đại vào quản

lý nhằm giảm chi phí tuân thủ pháp luật cho NNT và tăng cường hiệu

lực, hiệu quả công tác quản lý...

Hội nghị gặp mặt, tháo gỡ khó khăn cho các DN trên địa bàn

Sáng ngày 16/11/2017, Cục Thuế TP. Hà Nội tổ chức Hội nghị Giải đáp

vướng mắc về chính sách thuế, thủ tục hành chính thuế và tháo gỡ khó

khăn của DN trên địa bàn TP. Hà Nội. Hội nghị gồm có:

- Về phía Cục Thuế: Ban lãnh đạo gồm ông Nguyễn Thế Mạnh – Phó

Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế kiêm Cục trưởng Cục Thuế TP Hà Nội

(chủ trì); các phó cục trưởng; trưởng các phòng: Tuyên truyền - Hỗ trợ

NNT, Kê khai kế toán thuế, Quản lý đất, Quản lý nợ, Tin học, các phòng

Kiểm tra, phòng Thanh tra 1, phòng Thanh tra giá chuyển nhượng,

phòng TNCN. Đại diện Ban chấp hành Chi hội kế toán - Cục Thuế TP.

Hà Nội.

- Về phía hiệp hội, DN: Đại diện các hiệp hội DN và 323 DN

Cục Thuế TP. Hà Nội đã đưa ứng dụng CNTT vào các bước, các khâu

trong công tác quản lý thuế. Việc ứng dụng CNTT vào công tác quản lý

thuế góp phần công khai minh bạch, đơn giản hoá thủ tục hành chính

(TTHC) thuế. Cơ quan thuế đã mở rộng hình thức khai và nộp thuế điện

tử với những tiện ích vượt trội và được cộng đồng DN, NNT tham gia

tích cực. Đến nay, trên địa bàn đã có 98% DN kê khai thuế qua mạng và

trên 95,36% số tiền thuế của DN nộp theo phương thức điện tử. Tỷ lệ

này đã vượt chỉ tiêu Nghị quyết 19 đề ra, đã giảm thời gian, chi phí cho

NNT và cho cả cơ quan thuế trong kê khai, nộp thuế.

Ông Mạnh cho biết, tại Cục Thuế TP. Hà Nội, 100% cán bộ, công chức

thuế đã sử dụng thư điện tử trong giải quyết công việc, trao đổi thông tin

với NNT. Cục Thuế đã xây dựng ứng dụng gửi thư tự động - ASM để

chuyển thông tin đến toàn bộ DN trên địa bàn. Đây là kênh thông tin

quan trọng gắn kết cơ quan thuế với DN; qua đó cung cấp thông tin về

các chính sách thuế mới, tiếp nhận những vướng mắc, khó khăn của

NNT để có hướng dẫn, giải quyết kịp thời; cung cấp số nợ thuế để NNT

nắm, rà soát, đối chiếu, điều chỉnh kịp thời khi có sai lệch, đã góp phần

hỗ trợ tích cực cho NNT cũng như nâng cao hiệu quả công tác quản lý

thuế.

Đặc biệt, việc đăng ký kinh doanh thành lập DN, cấp mã số thuế tự động

trong thời gian không quá 30 phút, giảm 87,5% thời gian thực hiện so

với quy định là 4 tiếng đồng hồ trước đây, giúp DN, NNT tiết kiệm thời

gian, chi phí đi lại; có thể nộp hồ sơ mọi lúc, mọi nơi có máy tính kết nối

Internet. Cục Thuế TP. Hà Nội cũng phối hợp với các sở, ngành liên

quan trong việc giải quyết TTHC liên quan đến đất đai, đã rút ngắn thời

gian giải quyết hồ sơ từ 5 ngày xuống 3 ngày; đảm bảo tính công khai,

minh bạch, rõ người, rõ việc để người sử dụng đất nắm được thời gian

giải quyết hồ sơ ở từng bộ phận, từng cơ quan tạo được sự đồng thuận

của người nộp thuế.

Cũng theo ông Mạnh, lãnh đạo Cục Thuế đã chỉ đạo các đơn vị thuộc,

trực thuộc tiếp tục nghiên cứu, phát triển phần mềm hỗ trợ; sử dụng các

ứng dụng thông minh; chủ động triển khai tốt các đề án quản lý mang lại

lợi ích thiết thực cho NNT như: Hệ thống quản lý thuế tập trung (TMS);

hoàn thuế điện tử; biên lai điện tử; hóa đơn điện tử có xác thực của cơ

quan thuế; ủy nhiệm thu thuế hộ, cá nhân kinh doanh; nộp thuế điện tử

trước bạ ô tô xe máy; kê khai điện tử hộ cho thuê nhà; thanh tra, kiểm

tra điện tử... Mục tiêu cao nhất của ngành Thuế Thủ đô là tạo điều kiện

tốt nhất để NNT được thụ hưởng đầy đủ các cơ chế ưu đãi về thuế và

thực hiện đúng chính sách, pháp luật thuế.

Đồng hành cùng NNT

Để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho DN, với tư cách là thành

viên tích cực trong Ban chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy hoạt động

sản xuất kinh doanh (SXKD) cho DN, Cục Thuế Hà Nội luôn chủ động

nghiên cứu, phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc xây dựng các

kênh thông tin để nắm bắt các khó khăn, vướng mắc của NNT; từ đó

tham mưu, kiến nghị cơ chế chính sách thuế phù hợp thực tiễn giúp

cộng đồng DN, NNT tiếp tục duy trì, ổn định, phát triển SXKD, thu hút

đầu tư, tạo nguồn thu bền vững cho ngân sách nhà nước (NSNN).

Để hạn chế đến mức thấp nhất các vướng mắc phát sinh trong quá trình

thực hiện nghĩa vụ thuế, Cục Thuế Hà Nội đã hệ thống hóa, biên soạn

ngắn gọn, cô đọng để truyền tải những nội dung chính sách thuế mới

qua hệ thống thư điện tử cơ quan thuế tới hơn 140 nghìn DN, tổ chức

đăng ký kê khai qua mạng, đăng tải công khai trên website của Cục

Thuế tại địa chỉ http://hanoi.gdt.gov.vn giúp việc cập nhật chính sách

thuế mới của các DN trên địa bàn được nhanh chóng, kịp thời. Cơ quan

thuế thường xuyên tổ chức tập huấn miễn phí cho các DN, đặc biệt DN

mới thành lập về chính sách thuế, nhất là các chính sách thuế mới, để

NNT nắm bắt kịp thời, hiểu rõ và thực hiện đúng. Kết quả 10 tháng đầu

năm 2017, Cục Thuế đã tổ chức 54 lớp tập huấn miễn phí cho 8.233

NNT và cán bộ, công chức thuế.

Song song với việc tuyên truyền chính sách, pháp luật về thuế, Cục

Thuế TP. Hà Nội đã tập trung nhân lực, tài lực để hỗ trợ tối đa cho NNT

thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, nhất là tại bộ phận “một cửa” của cơ quan

thuế. Đồng thời, Cục Thuế cũng tổ chức nhiều hội nghị đối thoại, toạ

đàm với cộng đồng DN, hội tư vấn thuế, hiệp hội DN nhỏ và vừa, Hiệp

hội DN Nhật Bản trên địa bàn thành phố. Qua hội nghị đối thoại, tọa đàm

và các buổi làm việc trực tiếp với DN, Cục Thuế đã chủ động nắm bắt

tình hình SXKD, tiếp thu ý kiến, kiến nghị và giải quyết kịp thời những

khó khăn, vướng mắc của DN tạo điều kiện để DN hoạt động SXKD hiệu

quả, thực hiện đúng chính sách, pháp luật thuế và đóng góp ngày càng

nhiều cho NSNN.

Ngay cả với các DN, tổ chức thuộc diện chây ỳ nộp thuế, bên cạnh các

biện pháp cưỡng chế kiên quyết, Cục Thuế cũng đã tham mưu với lãnh

đạo UBND thành phố để tổ chức gặp gỡ, đối thoại, tháo gỡ khó khăn và

đôn đốc nộp thuế. Sau các cuộc gặp này, những DN, NNT này cũng đã

có các cam kết nộp số tiền thuế, tiền đất của các dự án còn nợ…

Theo thoibaotaichinhvietnam.vn