Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Bộ, ngành
1. BHXH cải cách thủ tục hành chính đồng bộ, hiệu quả
2. Doanh nghiệp vẫn phải "vượt rào"
3. Cắt giảm mạnh mẽ thủ tục rườm rà, chi phí không cần thiết cho doanh nghiệp
4. "Luật cứ 5 - 7 năm lại thay đổi, doanh nghiệp chịu không nổi"
5. Chớ "buông" kẻo hối không kịp
6. Nhập khẩu ô tô: Còn 1 tháng để kịp "chuyển hướng"
7. Có tình trạng sử dụng hộ chiếu công vụ đi nước ngoài vì việc riêng
8. Sản xuất rượu thủ công - quản được không?
9. Công khai, minh bạch quản lý quỹ bảo hiểm
10. Cải cách để bứt phá trong cách mạng công nghiệp 4.0
11. Chủ tịch VFOSSA: "Phần lớn tổ chức, doanh nghiệp Việt chưa nắm được chuyển đổi số là gì"
Địa phương
12. Phú Xuyên cải thiện chất lượng dịch vụ hành chính công
13. Hải quan Lạng Sơn: Vượt thách thức để tăng thu
14. Cải cách vẫn còn “hành là chính” - Lỗi do đâu?
1. BHXH cải cách thủ tục hành chính đồng bộ, hiệu quả
Hôm qua (6/12), tại Vĩnh Phúc, Bộ Thông tin và Truyền thông phối
hợp với BHXH Việt Nam và UBND tỉnh Vĩnh Phúc tổ chức hội nghị
tập huấn truyên truyền chính sách, pháp luật BHXH, BHYT cho lãnh
đạo, các bộ Sở Thông tin và Truyền thông, lãnh đạo, phóng viên
các cơ quan báo chí khu vực các tỉnh phía Bắc từ Thừa Thiên - Huế
trở ra.
Bà Nguyễn Thị Hường, Phó Trưởng phòng, phụ trách Phòng Tổng hợp
và Kiểm soát thủ tục hành chính, Ban Pháp chế BHXH Việt Nam trình
bày tại Hội nghị
Hội nghị được tổ chức nhằm mục đích tuyên truyền phổ biến các chủ
trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước và
BHXH, BHYT; tuyên truyền phổ biến những điểm thay đổi của chính
sách về BHXH theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014; chính sách BHYT
của Việt Nam hiện nay; trang bị những kiến thức cơ bản về công tác
thông tin, truyền thông về chương trình BHXH, BHYT tiến tới BHYT toàn
dân; nêu cao vai trò, trách nhiệm định hướng của báo chí trong công tác
tuyên truyên về BHXH, BHYT; giới thiệu những cải cách thủ tục hành
chính của BHXH Việt Nam nhằm giảm thời gian thực hiện và chi phí tuân
thủ cho người dân và doanh nghiệp trong thời gian qua.
BHXH cải cách thủ tục hành chính đồng bộ
11 tháng đầu năm 2017, BHXH Việt Nam đã bám sát chỉ đạo của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam; phối hợp
chặt chẽ với các Bộ, ngành và cấp ủy, chính quyền địa phương triển
khai nhiều giải pháp để thực hiện nhiệm vụ được giao, đạt được nhiều
kết quả quan trọng.
Bà Nguyễn Thị Hường, Phó Trưởng phòng, phụ trách Phòng Tổng hợp
và Kiểm soát thủ tục hành chính, Ban Pháp chế BHXH Việt Nam, cho
biết: Công tác cải cách thủ tục hành chính BHXH Việt Nam tiếp tục được
triển khai quyết liệt, đồng bộ theo đúng yêu cầu của Chính phủ. BHXH
Việt Nam đã chỉ đạo các đơn vị có liên quan xây dựng Chương trình, Kế
hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP ngày
6/2/2017 của Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải
pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020 và Nghị định số
166/2016/NĐ-CP ngày 24/12/2016 quy định về giao dịch điện tử trong
lĩnh vực BHXH, BHYT, Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN).
Đồng thời tiếp tục tập trung chỉ đạo BHXH các tỉnh, thành phố phục vụ
tốt người dân, doanh nghiệp; thực hiện cải cách hồ sơ, quy trình, giảm
bớt thủ tục kê khai thu nộp, giải quyết, chi trả chế độ BHXH, BHYT cho
đơn vị, cá nhân có giao dịch với cơ quan BHXH; hạn chế tình trạng
chậm, muộn, tồn đọng hồ sơ.
Tiếp tục đẩy mạnh các dự án về công nghệ thông tin, cung cấp môi
trường vận hành hiện đại, an toàn, ổn định cho các hoạt động ứng dụng
công nghệ thông tin, phục vụ công tác quản lý, hiện đại hóa hoạt động
của Ngành, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và chỉ đạo của Chính phủ tại
Nghị quyết số 36a/NQ-CP về Chính phủ điện tử.
Tháng 8 vừa qua, BHXH đã thành lập trung tâm chăm sóc khách hàng
với đầu số 1900969688 là đầu mối thông tin, các cán bộ ở trung tâm sẽ
trực tiếp giải đáp mọi thắc mắc về chính sách về BHXH, BHYT, Bảo
hiểm tiết kiệm cho người dân và đơn vị sử dụng lao động.
Ngày 30/11 vừa qua, cổng Thông tin điện tử BHXH Việt Nam phiên bản
tiếng Anh ra đời nhằm cung cấp thông tin, tin tức, cập nhật chính về
chính sách, chế độ BHXH, BHYT và hoạt động của BHXH Việt Nam cho
người nước ngoài đang sinh sống tại Việt Nam, các đơn vị có yếu tố
nước ngoài, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các nhà đầu
tư nước ngoài có nhu cầu tìm hiểu về chính sách BHXH, BHYT ở Việt
Nam.
Hiện nay, BHXH đang thực hiện cấp mã số BHXH cho người tham gia
và là mã số duy nhất của mỗi người. Từ đó sẽ hạn chế được việc cấp
trùng hoặc một người có rất nhiều sổ. Khi triển khai trên toàn hệ thống
đã chấm dứt được vấn đề mượn hồ sơ tư pháp của nhau để làm việc.
“Một điểm được quan tâm trong vấn đề cải cách thủ tục hành chính là
đổi mới tác phong phục vụ. Nội dung này được các lãnh đạo BHXH Việt
Nam quán triệt đến toàn thể công chức, viên chức trên toàn hệ thống.
Và chúng tôi đã có những buổi tập huấn, những văn bản chỉ đạo để làm
sao đảm bảo đạo đức công vụ nghề nghiệp, chuyển đổi tác phong từ
hành chính sang phục vụ để hạn chế thấp nhất về vấn đề khiếu nại của
doanh nghiệp với cơ quan quản lý xã hội. Và chúng tôi đã thực hiện
công khai, minh bạch các thủ tục hành chính từ các trụ sở BHXH, cũng
như niêm yết trên những trang web của địa phương và cổng Thông
tin điện tử của BHXH Việt Nam”, bà Hường cho biết.
Hoàn thành cấp sổ BHXH cho 13,4 triệu người
Theo thống kê của BHXH Việt Nam, tính đến 31/10/2017, tổng số người
tham gia BHXH, BHYT, BHTN là gần 80 triệu người, trong đó số người
tham gia BHXH bắt buộc là hơn 13,2 triệu người, BHTN là 11,4 triệu
người, BHXH tự nguyện là hơn 220 nghìn người, BHYT là gần 80 triệu
người, đạt tỷ lệ bao phủ BHYT hơn 85% dân số.
Lũy kế đến hết tháng 10, tổng thu ước đạt 227.119 tỷ đồng (BHXH bắt
buộc là 155.435 tỷ đồng, BHTN là 10.695 tỷ đồng, BHXH tự nguyện là
981 tỷ đồng, BHYT là 59.501 tỷ đồng), đạt 80,2% so với kế hoạch cả
năm, tăng 14,9% so với cùng kỳ năm 2016.
Toàn ngành đã giải quyết cho 111.731 người hưởng BHXH hàng tháng
(tăng 18,7% so với cùng kỳ năm 2016); 603.076 lượt người hưởng trợ
cấp BHXH 1 lần (tăng 18,5 % so với cùng kỳ năm 2016). BHXH Việt
Nam đã giải quyết chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức
khỏe cho 7.358.462 lượt người, tăng 52% so với cùng kỳ năm
2016. BHXH cũng đã thanh toán chi phí khám chữa
bệnh BHYT 138.9 triệu lượt người.
Toàn ngành đã cấp sổ BHXH cho 13,4 triệu người, đạt 99,2% số người
tham gia BHXH. Trong đó, đã bàn giao 6,55 triệu sổ (theo mã số BHXH),
đạt 50,3%, tăng 1,62 triệu sổ (bằng 23,8%) so với thời điểm 30/9/2017;
đồng thời, đã cấp 79,5 triệu thẻ BHYT.
Theo nongnghiep.vn
2. Doanh nghiệp vẫn phải "vượt rào"
Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân thuộc Hội đồng Tư vấn
cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ vừa có báo
cáo tổng hợp phản ánh kiến nghị về khó khăn, vướng mắc của
doanh nghiệp (DN) trong thực hiện cơ chế, chính sách, thủ tục
hành chính một số lĩnh vực như nông nghiệp, du lịch, tài chính và
kinh tế số - khởi nghiệp sáng tạo.
Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tiêu tốn thêm 15.000 tỷ đồng mỗi năm
vì chi phí kiểm tra chuyên ngành. Ảnh: Lê Thu
Theo đó, quy trình thủ tục hành chính còn rườm rà vẫn hạn chế khả
năng tiếp cận các cơ hội ưu đãi của DN.
Vẫn còn nhiều rào cản
Kết quả khảo sát mới nhất của Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư
nhân với 100 doanh nghiệp (DN) ghi nhận vẫn còn nhiều rào cản về thủ
tục hành chính đang gây khó khăn cho hoạt động của DN. Cụ thể, thủ
tục hành chính còn rườm rà, gây mất thời gian cho DN (chiếm 73%); thái
độ hành vi ứng xử của cán bộ cơ quan nhà nước chưa tốt (chiếm 64%);
sự chồng chéo của các cơ quan nhà nước (chiếm 46%)...
Chi tiết hơn, các quan ngại của DN thể hiện ở các vấn đề liên quan đến
khó khăn trong thủ tục tiếp cận thông tin thông qua khối cơ quan nhà
nước; vấn đề hình sự hóa kinh tế; cách làm việc quan liêu, hành chính
và việc cán bộ có biểu hiện lợi ích cục bộ, nhũng nhiễu.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính
phủ Mai Tiến Dũng, nhìn chung, các DN đã tích cực tham gia và đánh
giá cao trọng tâm cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ,
trong đó việc hội nhập quốc tế là một điều kiện nền tảng đã thực hiện
khá hiệu quả. Điều này được thể hiện qua số DN thành lập mới và dòng
vốn đầu tư đổ vào nền kinh tế. Trong 11 tháng của năm 2017, đã có
116.000 DN thành lập mới, dự kiến cả năm 2017, số lượng DN thành lập
mới sẽ đạt con số 120.000 DN.
Báo cáo Môi trường kinh doanh năm 2017 của Ngân hàng Thế giới cho
thấy, xếp hạng cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam đã tăng 16
bậc, đứng thứ 68 trong tổng số 190 nền kinh tế. Kết quả này ghi nhận
những cải cách hành chính của Việt Nam đã và đang đạt được nhiều
tiến bộ đáng kể.
Doanh nghiệp cần tiếp cận được chính sách ưu đãi
Thời gian qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ
thị để cải cách thủ tục hành chính, nhưng sự chuyển biến về tư duy,
hành động của các cấp quản lý, đặc biệt ở cấp chính quyền địa phương
vẫn khá chậm chạp.
Bộ trưởng Mai Tiến Dũng nêu ví dụ, vừa qua, Tổ công tác của Thủ
tướng làm việc với các cơ quan liên bộ và nhận thấy riêng trong lĩnh vực
nhập khẩu, các DN phải tiêu tốn thêm 15.000 tỷ đồng mỗi năm vì chi phí
kiểm tra chuyên ngành. Điều này khiến các DN Việt khó lòng cạnh tranh
được với DN các nước chỉ vì "sự chồng lấn về chức năng, nhiệm vụ và
thiếu cơ chế liên thông, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan hành chính nhà
nước".
Với lĩnh vực nông nghiệp, nhiều DN phản ánh, các chính sách thu hút
đầu tư vào nông nghiệp còn chưa thiết thực, thiếu tính ổn định, độ hấp
dẫn cũng như độ an toàn, bền vững của chính sách không cao. Bên
cạnh đó, quy trình thủ tục rườm rà, phức tạp, tốn nhiều thời gian cũng
làm hạn chế khả năng tiếp cận các cơ hội ưu đãi của DN.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Hà
Công Tuấn cũng thừa nhận, thủ tục ưu đãi đầu tư vào nông nghiệp vẫn
rất nhiêu khê với 40 thủ tục, gồm 16 bước nặng tính xin - cho. Hiện
nhiều ý kiến của các bộ, ngành cho rằng nên phân cấp thủ tục xác nhận
DN nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao về cấp tỉnh, thành phố, tạo
điều kiện thuận lợi để DN đầu tư vào nông nghiệp có thể dễ dàng tiếp
cận được các chính sách ưu đãi.
Theo baodauthau.vn
3. Cắt giảm mạnh mẽ thủ tục rườm rà, chi phí không cần thiết cho doanh nghiệp
Đây là đề xuất được ông Đỗ Văn Vẻ - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn
Hương Sen, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Thái Bình đưa ra
tại Diễn đàn Doanh nghiệp 2018 “Thích ứng trong môi trường kinh
tế đang biến đối” diễn ra mới đây tại Hà Nội.
Tại hội thảo, ông Đỗ Văn Vẻ tỏ ra lạc quan cho rằng xu hướng kinh
doanh năm 2018 có chiều hướng tích cực bởi xu hướng niềm tin vào
môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng tăng.
Ông Đỗ Văn Vẻ - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Hương Sen, Phó Chủ
tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Thái Bình
Tín hiệu tích cực cho năm 2018
Ông Vẻ dẫn chứng, trong năm 2017 hàng chục hiệp định thương mại tự
do ký kết với các nước được thực hiện và những cam kết của các nhà
đầu tư sau hội nghị APEC Đà Nẵng với nhiều dự án giá trị nhiều tỷ đô la
Mỹ được ký kết. Bên cạnh đó là sự nóng dần lên với những ý tưởng
khởi nghiệp ở nông thôn do các sinh viên khi ra trường lựa chọn khởi
nghiệp kinh doanh với nhiều mô hình kinh tế khác nhau từ trồng cây ăn
quả, chăn nuôi sản xuất đến mở xưởng cơ khí, cho đến dịch vụ ăn uống,
thương mại, điện tử, y tế, giáo dục.
Theo ông Vẻ, có rất nhiều mô hình khởi nghiệp trong nông nghiệp,
thương mại dịch vụ thành công và rất nhiều mô hình kinh tế tuy quy mô
còn nhỏ nhưng ý nghĩa xã hội lớn và thành công nhân ra diện rộng như
mô hình trồng rau, nuôi cá, trang trại, vườn, ao, chuồng, nuôi gà, ấp
trứng đến máy cày, máy bơm thành công và hiệu quả cao, góp phần
chuyển dịch kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng văn minh, hiện
đại và hiệu quả kinh tế cao.
Nhiều ý tưởng kinh doanh khởi nghiệp khác trong lĩnh vực thương mại
điện tử, tin học, phần mềm sáng tạo, dệt, may nhà hàng khách sạn, dịch
vụ du lịch, nhiều mô hình khởi nghiệp đã vươn ra thế giới như xuất khẩu
phần mềm sáng tạo có thể nói chưa bao giờ lại xuất hiện nhiều ý tưởng
khởi nghiệp kinh doanh đa dạng như hiện nay và tương lai phát triển
mạnh hơn rất nhiều.
Đặc biệt nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã phục hồi sau khủng hoảng
đang có tín hiệu tích cực cho năm 2018 như xuất khẩu dầu khí tăng giá,
dệt, may thương mại dịch vụ, nông sản thực phẩm… tạo sự bứt phá
phát triển năm 2018.
Cũng theo ông Vẻ, Chính phủ năm 2017 đã ban hành rất nhiều Nghị
quyết về tháo gỡ khó khăn phát triển kinh tế. Chỉ riêng về thủ tục hành
chính, Chính phủ đã ban hành gần 20 nghị quyết về đơn giản hóa các
thủ tục hành chính. Đó là những chỉ đạo rất quyết liệt, đồng thời thường
xuyên tổng hợp cập nhật các thông tin và đánh giá quá trình thực hiện,
điều này đã tạo áp lực lớn lên các Bộ, Ngành, đặc biệt là người đứng
đầu.
Từ đó một số Bộ ngành đã có những biện pháp rất tích cực và hữu hiệu
để giải quyết những khó khăn cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó thì nhiều
địa phương cũng đổi mới tạo thuận lợi và niềm tin cho doanh nghiệp
trong môi trường kinh doanh, tạo ra các mô hình phát triển kinh tế khác
biệt và làn sóng khởi nghiệp.
“Từ các yếu tố trên góp phần đưa Việt Nam tăng bậc xếp hạng với các
nước. Năm 2018 nhiều cải cách trong quá trình thực hiện nếu hoàn thiện
thì môi trường và xu thế kinh doanh ở Việt Nam sẽ thuận lợi hơn rất
nhiều cho các doanh nghiệp” – ông Vẻ khẳng định.
Và 3 đề xuất
Để môi trường kinh doanh đạt được như mong đợi, ông Vẻ cho rằng rất
cần sự quan tâm tháo gỡ từ Quốc hội, Chính phủ như sửa đổi bổ sung
bộ Luật Đất đai thuận lợi trong việc sở hữu và đền bù giải tỏa mặt bằng,
luật doanh nghiệp, luật đầu tư, các luật thuế có liên quan đến doanh
nghiệp tạo hành lang pháp lý thông thoáng nhất cho doanh nghiệp hoạt
động.
Đồng thời tiếp tục ban hành các nghị quyết về tháo gỡ khó khăn cho
doanh nghiệp, nghị quyết về giải pháp khuyến khích các doanh nghiệp
nhỏ và vừa phát triển kinh tế tư nhân… tạo mạnh mẽ để phát triển kinh
tế trở thành một quốc gia khởi nghiệp.
Bên cạnh đó, rất cần những cơ chế phù hợp để định hướng kinh doanh
của doanh nghiệp và tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước quan
tâm khuyến khích động viên và tôn vinh khen thưởng những doanh
nghiệp, doanh nhân có thành tích phát triển kinh tế làm giàu cho đất
nước. “Đồng thời cắt giảm mạnh mẽ thủ tục rườm rà và chi phí không
cần thiết tạo niềm tin tưởng cho doanh nghiệp phát triển bền vững bước
tiếp những bước tiếp theo” – ông Vẻ nhấn mạnh.
Theo enternews.vn
4. "Luật cứ 5 - 7 năm lại thay đổi, doanh nghiệp chịu không nổi"
Tại Hội thảo Thách thức thay đổi chính sách với nhà đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam tổ chức sáng nay (7/12) ở Hà Nội, chuyên gia
kinh tế Phạm Chi Lan nhấn mạnh: Môi trường kinh doanh tốt là
không phục vụ riêng cho mỗi loại hinh doanh nghiệp (DN) riêng,
không hình thành 2 đến 3 khu vực trong nền kinh tế. Cứ 5 - 7 năm
Việt Nam thay đổi luật thì họ chịu không nổi, nhiều DN nói "chịu
chết".
Bà Lan cho rằng: "Hiện nhiều chính sách của Việt Nam đang thay đổi,
trong đó rất nhiều chính sách liên quan đến đầu tư và trực tiếp đến DN.
Một môi trường kinh doanh tốt không phải là chỉ phục vụ cho mỗi một
loại hình doanh nghiệp như FDI, trong khi đó môi trường kinh doanh cho
các DN nhỏ và vừa đứng trước vô cùng khó khăn, gay gắt. Họ phải
đứng dưới nhiều thách thức từ cả rủi ro chính sách đến rủi ro thị trường,
cạnh tranh xấu".
Do đó, theo bà Lan, các DN cả trong và ngoài nước hiện lo ngại nhiều
nhất là thay đổi chính sách. "Luật cứ 5 - 7 năm lại thay đổi, doanh nghiệp
chịu không nổi, chịu chết. Các chính sách hồi tố DN khiến từ chỗ họ thực
hiện đúng đến thực hiện sai, thiếu dẫn đến truy thu, hồi tố. Điều cần làm
của chúng ta hiện nay là đưa ra chính sách, luật chắn chắc, có tính dài
hạn, bổ sung sửa đổi hạn chế thôi", bà Lan nói.
Bà Lan đánh giá, hiện việc ban hành các khung chính sách ngày càng
tốt hơn, nếu trước đây, chỉ có các Thông tư, Nghị định, Luật điều chỉnh
chính sách phát triển kinh tế, cải cách kinh tế thì hiện nay chúng ta có
thêm các Nghị quyết của Trung ương Đảng như về phát triển kinh tế tư
nhân, tinh giảm biên chế; cải cách thủ tục hành chính địa phương, bộ
ngành...
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan
"Các chính sách này hiện nay thống nhất, đi cùng một "tông", thống nhất
về suy nghĩ, ý tưởng, chứ không vênh nhau như trước kia, điều này
khiến cho điều hành chính sách tốt hơn, cụ thể và có đánh giá kết quả
tốt hơn", bà Lan nói.
Theo bà Lan, hiện Chính phủ Việt Nam ngoài các Chỉ thị, Quyết định còn
tiếp tục duy trì Nghị quyết 19 và Nghị quyết 35 về cải cách bộ máy, cải
cách khu vực tư nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa từ nay đến năm 2030.
Điều đó có nghĩa là Chính phủ đang đi bước đi dài hơn về cải cách, rút
bớt các điều kiện, rào cản kinh doanh chứ không giật cục, chạy theo giải
quyết vấn đề trong hàng năm.
Vị chuyên gia nhấn mạnh: "Nghị quyết 19, năm 2014 là 50 giải pháp
nhưng chưa thực hiện được, có cái báo cáo lên trên cũng không địa
phương nào làm nổi. Năm 2015, tiếp tục đưa ra 73 giải pháp để cải
cách, thực hiện có vẻ tốt hơn với 67% số cải cách được thực hiện. Tuy
nhiên, đo đếm bằng gì thì còn nghi ngờ, làm được tận cùng hay không".
Năm 2016 Nghị quyết 19 tiếp tục được ban hành với 83 nhóm giải pháp,
tỷ lệ thực hiện vượt 30% so với năm trước nhưng đo lường tính xác
thực rất khó. Ngành thuế thuế nói giảm, nhưng phía DN kêu khó khăn,
thuế vẫn là gian nan nhất cho DN. Ngành thuế bảo họ làm nhiều nhưng
số biên chế ngành thuế vẫn vậy.
Năm 2017, Nghị quyết 19 tiếp tục đưa ra 250 nhóm giải pháp cải cách
môi trường kinh doanh, giao từng bộ ngành và địa phương. Tuy nhiên,
hiện lực cản chính là bộ máy trong thực thi chính sách. Chinh phủ kiến
tạo, Thủ tướng hiện nhấn mạnh về hành động, xác định năm 2017 là
năm cải cách, giảm thiểu thủ tục cho DN.
Trên thực tế, chi phí kinh doanh đang tăng cao và có xu hướng tăng: chi
phí tuân thủ, dịch vụ hành chính, dịch vụ công, hạ tầng; quá nhiều loại
thuế, phí, quỹ và các đóng góp khác nhau; chi phí thời gian lớn; tham
nhũng… Nhiều chi phí tăng liên tục, khó dự liệu.
Trong khi đó, chúng ta chưa tạo ra sân chơi bình đẳng, DNNN, một số
DN FDI và DN tư nhân thân hữu được biệt đãi (tiếp cận các nguồn lực,
quyền kinh doanh, đầu tư công/mua sắm của chính phủ, bảo hộ để né
cạnh tranh…). Đa số DNNVV ở vị thế bất lợi, không lớn lên được và dễ
bị đào thải.
"Cạnh tranh thị trường công bằng là động lực chính thúc đẩy gia tăng
hiệu quả sử dụng nguồn lực, gia tăng năng suất lao động. Vì vậy, tất cả
các giải pháp cải cách thế chế, cải thiện môi trường kinh doanh phải
hướng đến phát triển các loại thị trường, đảm bảo cạnh tranh công bằng
nhằm tăng hiệu quả kỷ thuật, hiệu quả phân bố và là động lực chủ yếu
của tăng trưởng kinh tế", bà Lan khuyến nghị.
Theo dantri.com.vn
5. Chớ "buông" kẻo hối không kịp
Đi đâu cũng nghe bà con nói về nạn thực phẩm bẩn làm tôi lúc nào
cũng lo ông ạ.
- Bác cứ hay lăn tăn vớ vẩn. Vấn đề này đã có nhiều cơ quan Nhà nước
lo. Cục An toàn thực phẩm (Bộ Y tế) lâu nay vẫn hoạt động khá tích cực
mà!
- Vấn đề là hiệu quả đến đâu. Số người tử vong vì ung thư ngày càng
tăng mạnh khiến người dân lo quá. Vậy mà gần đây, Cục này còn kiến
nghị giao cho doanh nghiệp tự công bố an toàn thực phẩm nhằm giảm
thiểu thủ tục hành chính.
- Hiện giờ có hàng chục cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát mà vấn
đề an toàn thực phẩm còn không kiểm soát được, giờ trông cả vào sự tự
giác của doanh nghiệp liệu có chủ quan quá không?
- Bộ Y tế sẽ phải đưa ra một bộ tiêu chí để các doanh nghiệp soi vào. Hễ
phát hiện vi phạm một trong các tiêu chí đó là xử lý nghiêm.
- Lâu nay chúng ta vẫn có bộ tiêu chí về an toàn thực phẩm. Pháp luật
cũng có những chế tài khá mạnh tay với hành vi sản xuất và lưu hành
thực phẩm bẩn nhưng có quản được đâu. Điều đó cho thấy cung cách tổ
chức quản lý và việc thực thi pháp luật của chúng ta đang có vấn đề.
Cục An toàn thực phẩm vừa là nơi cấp giấy chứng nhận, đồng thời cũng
là cơ quan kiểm tra.
- Đúng thế. Chức năng của cơ quan quản lý Nhà nước là kiểm tra, giám
sát, chứ không phải cấp phép, nhưng đối với một số sản phẩm nhạy
cảm, có tầm ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tính mạng toàn dân thì không
thể “buông” ngay cho doanh nghiệp được, kẻo hối không kịp.
Theo anninhthudo.vn
6. Nhập khẩu ô tô: Còn 1 tháng để kịp "chuyển hướng"
Chỉ còn chưa đầy 1 tháng nữa để các doanh nghiệp nhập khẩu ô tô
kịp đưa ra kế hoạch mới trong việc nhập khẩu ô tô tại Việt Nam.
Cục Xuất nhập cảnh (Bộ Công thương) vừa ra thông báo khuyến cáo
các doanh nghiệp lưu ý quy định về thời gian chuyển tiếp để chủ động
trong xây dựng kế hoạch kinh doanh, nhập khẩu ô tô và đảm bảo thực
hiện theo đúng quy định tại Nghị định số 116/2017/NĐ-CP.
Cụ thể, theo thông báo của Bộ Công thương, Nghị định 116/2017/NĐ-
CP (Nghị định 116) quy định về điều kiện sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu
và kinh doanh dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng ô tô.
Nghị định 116 có hiệu lực kể từ ngày ký (17/10) và quy định chuyển tiếp
đối với điều kiện kinh doanh nhập khẩu ô tô. Theo đó, hoạt động kinh
doanh nhập khẩu ô tô được thực hiện theo quy định hiện hành đến hết
ngày 31/12/2017. Các doanh nghiệp đã đáp ứng đủ điều kiện theo quy
định tại Nghị định 116 và được Bộ Công Thương cấp Giấy phép kinh
doanh nhập khẩu ô tô trước ngày 31/12/2017 được quyền nhập khẩu ô
tô kể từ ngày Giấy phép kinh doanh nhập khẩu ô tô có hiệu lực.
Kể từ ngày 1/1/2018, doanh nghiệp chỉ được phép nhập khẩu ô tô sau
khi được cấp Giấy phép kinh doanh nhập khẩu ô tô theo quy định tại
Nghị định 116.
Nhập khẩu ô tô: Còn 1 tháng để kịp "chuyển hướng"
Điều kiện để được kinh doanh ô tô nhập khẩu của Nghị định mới ban
hành đó là doanh nghiệp phải đáp ứng hai điều kiện là có cơ sở bảo
hành, bảo dưỡng đúng chuẩn thuộc sở hữu, của đại lý trong hệ thống
hoặc đi thuê và có văn bản xác nhận doanh nghiệp được quyền thay
mặt hãng ở nước ngoài thực hiện việc triệu hồi xe tại Việt Nam.
Với quy định này, hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh ô tô nhập khẩu
không chính hãng hiện nay đều sẽ “không đạt yêu cầu”.
Nghị định 116 cũng quy định hàng loạt giấy tờ khác mà doanh nghiệp
phải có như: Bản sao giấy chứng nhận chất lượng kiểu loại ô tô nhập
khẩu được cấp bởi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài;
Bản chính phiếu kiểm tra chất lượng xuất xưởng của doanh nghiệp sản
xuất, lắp ráp ô tô nước ngoài cấp cho từng xe; Tài liệu về kết quả đánh
giá điều kiện đảm bảo chất lượng của doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô
tô nước ngoài đối với nhà máy sản xuất ra kiểu loại ô tô nhập khẩu còn
hiệu lực được cấp bởi cơ quan có thẩm quyền nước ngoài.
Ngoài ra, Nghị định này cũng quy định mỗi một lô hàng nhập khẩu phải
mang một xe đi thử nghiệm.
Do đó, Bộ Công Thương khuyến cáo các doanh nghiệp lưu ý quy định
về thời gian chuyển tiếp để chủ động trong xây dựng kế hoạch kinh
doanh, nhập khẩu ô tô và đảm bảo thực hiện theo đúng quy định tại Nghị
định số 116/2017/NĐ-CP.
Tuy vậy, theo đánh giá, các quy định mới này không chỉ khó đối với các
doanh nghiệp ô tô nhập khẩu không chính hãng mà còn khó cả với
doanh nghiệp nhập khẩu ô tô chính hãng đang kinh doanh tại thị trường
trong nước.
Cũng trong các tháng cuối năm, lượng xe nhập khẩu về thị trường Việt
sẽ tăng lên để “chạy” quy định mới bởi dù có hiệu lực ngay từ ngày ký
nhưng hoạt động kinh doanh nhập khẩu ô tô được thực hiện theo quy
định hiện hành đến hết năm nay. Kể từ đầu năm sau, doanh nghiệp chỉ
được phép nhập khẩu ô tô sau khi được cấp Giấy phép kinh doanh nhập
khẩu ô tô theo quy định tại Nghị định này.
Ngoài ra, một vài thông tin trên thị trường cho thấy một vài dòng xe mới
dự kiến được đưa về thị trường trong nước cũng bị "tạm hoãn". Trong
đó cho thấy chủ yếu là các dòng xe được nhập khẩu từ thị trường
ASEAN.
Theo ictnews.vn
7. Có tình trạng sử dụng hộ chiếu công vụ đi nước ngoài vì việc riêng
Bộ Công an cho biết công tác quản lý hộ chiếu công vụ còn thiếu
chặt chẽ, việc thu hồi, quản lý hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công
vụ khi hết nhiệm vụ chưa được cơ quan chức năng thực hiện được
triệt để.
Bộ Công an vừa công bố dự thảo đánh giá về tình hình liên quan đến
công tac quản lý xuất nhập cảnh trong 10 năm từ 2007 - 2017, nhằm
chuẩn bị cho dự án luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam.
Theo Bộ Công an, xu hướng công dân Việt Nam ra nước ngoài học tập,
công tác ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước (năm 2007 có 1,9
triệu lượt; năm 2008 có 2,6 triệu lượt; năm 2010 có 3,2 triệu lượt; năm
2013 có 6,1 triệu lượt; năm 2016 có 7,7 triệu lượt công dân Việt Nam
xuất cảnh).
Lợi dụng sự thông thoáng trong việc giải quyết thủ tục xuất nhập cảnh,
thời gian qua, một số đối tượng đã hợp thức hóa hồ sơ, sử dụng giấy tờ
giả để làm thủ tục cấp hộ chiếu. Đáng chú ý đã có những đường dây
làm giả giấy tờ; hành vi vi phạm ngày càng tinh vi và thể hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau, như: sửa chữa, tẩy xóa giấy tờ; sử dụng hộ khẩu
giả để cấp giấy chứng minh nhân dân với thông tin nhân thân khác; thay
ảnh của mình vào giấy chứng minh nhân dân của người khác, sau đó
làm thủ tục cấp hộ chiếu...
Một đường dây làm giả giấy tờ xuất cảnh đi Mỹ được Công an TP.HCM
triệt phá năm 2014
Các đường dây, tổ chức đưa người xuất nhập cảnh, di cư trái phép có
sự móc nối của các đối tượng trong và ngoài nước thời gian qua diễn
biến rất phức tạp, với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi nhằm trốn
tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng.
Mặc dù Bộ Công an là đơn vị chủ trì giúp Chính phủ thống nhất quản lý
nhà nước về công tác quản lý xuất nhập cảnh, nhưng việc kiểm soát
xuất nhập cảnh tại các cửa khẩu đường bộ, đường biển đều do Bộ Quốc
phòng quản lý. Việc cấp, đổi, bổ sung các loại giấy tờ có giá trị xuất nhập
cảnh giữa Bộ Ngoại giao, Bộ Công an còn bất cập, gây khó khăn cho
công tác kiểm soát xuất nhập cảnh, việc trao đổi thông tin chưa thông
suốt.
“Công tác quản lý hộ chiếu công vụ còn thiếu chặt chẽ, việc thu hồi,
quản lý hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công vụ khi hết nhiệm vụ chưa
thực hiện được triệt để. Vẫn còn tình trạng không nộp lại hộ chiếu ngoại
giao, hộ chiếu công vụ hoặc sử dụng hộ chiếu ngoại giao, hộ chiếu công
vụ đi nước ngoài vì việc riêng”, Bộ Công an đánh giá.
Theo Bộ Công an trong 10 năm qua đã hiện xử lý 2.671 vụ với 3.237
đối tượng vi phạm pháp luật về xuất nhập cảnh, phạt tiền là 7,3 tỉ
đồng; chuyển cơ quan điều tra, xử lý 161 vụ/557 người. Trong đó, có
512 vụ/525 đối tượng giả mạo hồ sơ để xin cấp hộ chiếu; 230 vụ/244
đối tượng sử dụng hộ chiếu giả, thị thực giả; 140/146 đối tượng sử
dụng hộ chiếu người khác; 68 vụ/141 đối tượng khai không đúng sự
thật để cấp hộ chiếu; 383 vụ/469 đối tượng vi phạm khác;….
Theo thanhnien.vn
8. Sản xuất rượu thủ công - quản được không?
Đã hơn một tháng (1/11/2017) kể từ ngày Nghị định 105/NĐ-CP của
Chính phủ về kinh doanh rượu có hiệu lực, trong đó có những quy
định về giấy phép sản xuất kinh doanh, tem nhãn…
Tuy nhiên, hiện những người nấu hoặc kinh doanh buôn bán rượu thủ
công vẫn không mấy quan tâm tới vấn đề này, bởi quy mô sản xuất nhỏ
lẻ, trong khi đó cán bộ cơ sở thì lại lúng túng, bất cập trong việc hướng
dẫn người dân làm thủ tục đăng ký sản xuất, kinh doanh mặt hàng này.
Hộ sản xuất vẫn thờ ơ
Khảo sát tại một số địa phương được coi là có thâm niên trong nghề nấu
rượu thủ công cho thấy, nhiều người vẫn chưa hề biết đến những yêu
cầu mới của pháp luật để sản xuất rượu bảo đảm vệ sinh an toàn thực
phẩm và có tem, nhãn mác theo quy định.
Ông Nguyễn Danh Huấn ở xã Xuân Huy (Lâm Thao, Phú Thọ), người có
vài chục năm thâm niên nấu rượu cho biết: “Thời gian gần đây do có
nhiều vụ ngộ độc về rượu thủ công nên người tiêu dùng hạn chế đặt
hàng, khiến rượu sản xuất của gia đình tôi tiêu thụ chậm hơn rất nhiều
so với trước đây. Rượu nhà tôi bán ra từ vài chục năm nay đều bảo đảm
chất lượng, chưa từng xảy ra vụ ngộ độc nào.
Thời gian tới, nếu xã bắt buộc phải đăng ký tôi sẽ đăng ký nhãn mác.
Mặc dù vậy, nhưng tôi vẫn ngại đi đăng ký giấy phép sản xuất kinh
doanh vì không biết thủ tục thế nào, hơn nữa, khách hàng cũng không
yêu cầu phải có…”.
Cũng giống như gia đình anh Huấn, hiện nhiều hộ sản xuất rượu thủ
công vẫn khá thờ ơ với quy định sản xuất, kinh doanh rượu theo Nghị
định 105. Đa số cho rằng do sản xuất quy mô nhỏ và không thường
xuyên nên không cần thiết phải có giấy phép sản xuất, kinh doanh.
Trao đổi về vấn đề này, một số chính quyền địa phương cho rằng, thời
gian qua, mặc dù địa phương đã tổ chức lớp tập huấn về sản xuất an
toàn cho các hộ nấu rượu, nhưng do lãi suất từ nấu rượu thủ công thấp
nên đến nay vẫn không có hộ nào đăng ký xin cấp giấy phép sản xuất,
kinh doanh, nhãn mác, thương hiệu... các hộ gặp khó khăn do thủ tục
phức tạp.
Bởi theo quy định, để được cấp giấy phép sản xuất rượu thủ công nhằm
mục đích kinh doanh, các hộ phải có bản sao giấy tiếp nhận công bố
hợp quy hoặc giấy xác nhận công bố phù hợp quy định an toàn thực
phẩm (đối với rượu chưa có quy chuẩn kỹ thuật); bản sao giấy chứng
nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm; bản liệt kê tên hàng hoá
rượu kèm theo bản sao nhãn hàng hoá rượu mà tổ chức, cá nhân sản
xuất hoặc dự kiến sản xuất.
Mặc dù yêu cầu này là cần thiết để quản lý chất lượng, nhưng đối với
các hộ sản xuất thủ công với lượng sản phẩm nhỏ thì các thủ tục nêu
trên thực sự là một vấn đề hết sức khó khăn...
Cần sự quyết liệt của các cấp, ngành
Các chuyên gia cho rằng, để thực hiện hiệu quả Nghị định 105/NĐ-CP
của Chính phủ, chính quyền địa phương cần thường xuyên tuyên truyền
phổ biến quy định của pháp luật về điều kiện sản xuất, lưu thông sản
phẩm rượu thủ công. Bên cạnh đó, cần nghiêm túc yêu cầu các tổ chức,
cá nhân ký cam kết không sản xuất, kinh doanh, buôn bán rượu không
rõ nguồn gốc...
Ngoài ra, cần chủ động phối hợp với lực lượng chức năng trên địa bàn
trong công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý đối với những hành vi sản
xuất kinh doanh rượu không có giấy phép, không tem nhãn, không
nguồn gốc xuất xứ, không công bố tiêu chuẩn chất lượng, chứng nhận
hợp quy...
Đi đôi với đó là cần phải giải quyết những bất cập, tạo thuận lợi cho các
hộ trong việc đăng ký cấp giấy phép sản xuất, cần nâng cao vai trò của
cơ quan quản lý và chính quyền địa phương các cấp (đặc biệt là cấp xã).
Kịp thời giải đáp các thắc mắc cho người dân, minh bạch thủ tục hành
chính từng khâu để người dân hiểu và thực hiện nội dung quy định.
Có chế tài xử lý vi phạm thích đáng, bởi vì dù có tuyên truyền, hướng
dẫn đến mấy song nếu không có cơ quan hậu kiểm thì tâm lý “mặc kệ”
của nhiều hộ nấu rượu thủ công sẽ còn tiếp diễn. Cùng với sự vào cuộc
mạnh mẽ của ngành chức năng, chính quyền địa phương, các cơ sở
sản xuất rượu thủ công cũng cần nâng cao nhận thức, thay đổi thói quen
sản xuất cũ, thể hiện thái độ cầu thị và có trách nhiệm với cộng đồng.
Để Nghị định 105/NĐ-CP của Chính phủ về sản xuất, kinh doanh rượu đi
vào thực tiễn, cần có giải pháp cụ thể hơn. Trước hết, rất cần sự vào
cuộc mạnh mẽ của chính quyền địa phương và các ngành chức năng
trong việc tuyên truyền nâng cao ý thức cho người sản xuất, kinh doanh
rượu chấp hành các quy định của pháp luật. Cùng với đó là tăng cường
kiểm tra về chất lượng và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
Theo giaoducthoidai.vn
9. Công khai, minh bạch quản lý quỹ bảo hiểm
Hệ thống giao dịch điện tử đã giúp BHXH Việt Nam quản lý, theo dõi
trực tuyến việc tiếp nhận hồ sơ, giải quyết thủ tục hành chính về
lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN công khai, minh bạch và chuyên
nghiệp
Hệ thống thông tin giám định BHYT đã kết nối với 99,6% các cơ sở khám
chữa bệnh BHYT trên toàn quốc - Ảnh: Khánh Linh
Hạn chế trục lợi quỹ bảo hiểm y tế
Theo ông Nguyễn Đức Toàn, Phó giám đốc Trung tâm Giám định và
thanh toán đa tuyến khu vực phía Bắc, đến thời điểm này, hệ thống
thông tin giám định BHYT đã kết nối với 99,6% cơ sở khám chữa bệnh
BHYT trên toàn quốc. Ngành BHXH cũng phối hợp với ngành Y tế chuẩn
hóa danh mục sử dụng tại hơn 12 nghìn cơ sở y tế.
Hệ thống thông tin giám định BHYT đã giúp công tác quản lý khám chữa
bệnh, giám định và thanh toán được minh bạch, chặt chẽ. Hệ thống có
Cổng tiếp nhận, là nơi trao đổi thông tin giữa cơ sở khám chữa bệnh và
cơ quan BHXH, cung cấp công cụ tra cứu, quản lý thông tuyến, chuyển
tuyến, kiểm tra thẻ BHYT, thông báo kết quả giám định. Đặc biệt, các cơ
sở y tế có thể liên thông các kết quả xét nghiệm, khai thác tiền sử bệnh
tật, kết quả điều trị của người bệnh BHYT, tránh trùng lặp chỉ định, tiết
kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả điều trị.
Tính đến ngày 31/10/2017, tổng số người tham gia BHXH,
BHYT, BHTN là đạt gần 80 triệu. Trong đó, số người tham gia
BHXH bắt buộc là hơn 13,2 triệu người, BHTN là 11,4 triệu
người, BHXH tự nguyện là hơn 220 nghìn người, BHYT là gần
80 triệu người, đạt tỷ lệ bao phủ BHYT hơn 85% dân số.
Bên cạnh đó, phần mềm giám định được xây dựng để thực hiện giám
định điện tử 100% hồ sơ đề nghị thanh toán, tích hợp trên 200 quy tắc
phát hiện hồ sơ trùng lặp, sai mức hưởng, sai danh mục, sai giá, sai các
quy định về khám chữa bệnh.
Phần mềm giám sát cũng cung cấp các bản đồ trực quan giúp phân tích,
đánh giá và phát hiện nhanh chóng các biến động bất thường, gia tăng
lượt khám chữa bệnh. Đặc biệt, bản đồ dịch tễ giúp theo dõi, đánh giá
tình hình bệnh tật, tỷ lệ hiện đang mắc, mới mắc của các bệnh mạn tính,
cấp tính. Đây là nguồn thông tin quan trọng để giám sát dịch bệnh và
chủ động dự phòng bệnh.
Qua ghi nhận từ hệ thống giám định điện tử, tính từ đầu năm đến hết
tháng 11/2017, có gần 150 triệu lượt khám chữa bệnh; Số đề nghị chi trả
từ cơ sở y tế khoảng 77.500 tỷ đồng, giảm xuống rất nhiều so với dự
kiến lúc đầu là 91 nghìn tỷ đồng. Ông Phạm Lương Sơn, Phó tổng giám
đốc BHXH Việt Nam chia sẻ, việc vận hành hệ thống thông tin giám định
BHYT đảm bảo sự công khai, minh bạch trong thực hiện khám chữa
bệnh BHYT. Hệ thống thông tin giám định BHYT là công cụ cho cả
ngành Y tế cũng như BHXH và phải sử dụng công cụ đó để phục vụ
người bệnh, đảm bảo quyền lợi của người bệnh.
Tăng cường dịch vụ công trực tuyến
Về ứng dụng CNTT phục vụ người dân, doanh nghiệp, tính đến nay,
BHXH Việt Nam đã cung cấp 14 thủ tục hành chính mức độ 3 và 4 với
lượng hồ sơ trực tuyến phát sinh rất lớn, trong đó nhiều nhất là hơn 18,5
triệu hồ sơ của thủ tục hành chính cho đơn vị tham gia lần đầu, điều
chỉnh đóng BHXH, BHYT, BHTN. Kết quả của việc cung cấp dịch vụ
công trực tuyến của BHXH có những kết quả khả quan, số lượng thủ tục
hành chính (TTHC) từ 115 TTHC năm 2015 đến nay giảm xuống còn 28
TTHC với nhiều hình thức tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả để doanh
nghiệp lựa chọn như: Giao dịch điện tử, giao dịch qua dịch vụ bưu
chính…
Các dịch vụ công trực tuyến của BHXH Việt Nam đã giúp các đơn vị
tham gia BHXH chủ động thời gian nộp hồ sơ. Theo đó, có thể nộp hồ
sơ 24/24h kể cả ngày lễ, ngày nghỉ, điều này giúp các cá nhân, doanh
nghiệp tiết kiệm hàng trăm tỷ đồng chi phí đi lại, chuyển phát, in ấn. Dịch
vụ trực tuyến còn giúp giảm thời gian thực hiện TTHC của các doanh
nghiệp, đơn vị tham gia BHXH, BHYT từ 335 giờ/năm xuống còn 45
giờ/năm.
Quy trình, thủ tục cấp, quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT tiếp tục được nghiên
cứu, điều chỉnh theo hướng cải cách TTHC. Bên cạnh đó, BHXH Việt
Nam đã đơn giản hóa nhiều thủ tục, giảm thời gian chờ đợi liên quan tới
cấp sổ BHXH, thẻ BHYT. Theo BHXH Việt Nam, quy trình mới tiếp tục
cải cách TTHC và ứng dụng công nghệ thông tin, nhất là việc lấy dữ liệu
hộ gia đình làm trung tâm trong việc quản lý đóng, hưởng BHXH, BHYT,
BHTN, bảo hiểm tai nạn lao động... tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị,
doanh nghiệp và người dân tham gia. Thời gian cấp mới sổ BHXH, thẻ
BHYT, xác nhận sổ BHXH được điều chỉnh từ 7 ngày xuống 5 ngày.
Thời gian cấp lại sổ BHXH do thay đổi các nội dung trên sổ (họ, tên,
ngày, tháng, năm sinh...) không quá 10 ngày, quy định trước đây là 15
ngày. Việc cấp lại thẻ BHYT, cấp đổi giảm còn 3 ngày kể từ ngày nhận
hồ sơ và nhận ngay trong ngày với trường hợp không thay đổi thông tin.
BHXH Việt Nam hiện cũng đang triển khai việc cấp thẻ an sinh xã hội
điện tử nhằm hướng tới mục tiêu điện tử hóa toàn bộ quá trình phục vụ
người dân.
Theo ông Phạm Lương Sơn, BHXH Việt Nam đang nỗ lực triển khai
đồng bộ các ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động nghiệp
vụ của ngành, tăng cường cải cách TTHC nhằm tạo thuận lợi nhất cho
người dân và doanh nghiệp.
Theo baogiaothong.vn
10. Cải cách để bứt phá trong cách mạng công nghiệp 4.0
Đối với cuộc CMCN 4.0 lần này, Việt Nam phải nhanh chóng nắm
bắt cơ hội vàng, kiên trì vượt qua các thách thức để phát triển
nhanh và bền vững trong tương lai.
Cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 là cơ hội thực hiện khát vọng phồn
vinh của dân tộc, chúng ta không thể bỏ lỡ và cần chủ động nắm bắt.
Đây là quan điểm được người đứng đầu Chính phủ - Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc đưa ra trong phát biểu khai mạc Hội thảo - Triển lãm quốc tế
“Phát triển công nghiệp thông minh - Smart Industry World 2017” ngày
5/12/2017, một hội thảo thu hút sự tham gia của hơn 1.500 đại biểu
trong nước và quốc tế.
Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Cơ hội mở ra là không thể bỏ lỡ
Với quan điểm chỉ đạo của Chính phủ là tập trung xây dựng, phát triển
nền kinh tế số và công nghiệp thông minh, coi đây là nhiệm vụ trọng
tâm, cốt lõi của tái cấu trúc nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng
trưởng theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh, vào ngày 4/5/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ
thị 16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN lần thứ
4 với nhiều giải pháp quan trọng.
Các bộ, ngành và địa phương đã vào cuộc thông qua tập trung xây dựng
và triển khai kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin. Đến nay, đa số
(88%) các dịch vụ công đã chuyển sang trực tuyến, trong đó hơn 10%
đã ở mức độ 3 và 4. Việt Nam đã cơ bản phủ sóng 4G với trên 4 nghìn
trạm phát sóng; khoảng 52 triệu người (chiếm 54% dân số) đã dùng
internet, đứng thứ 5 ở châu Á - Thái Bình Dương và khoảng 55% người
Việt sử dụng điện thoại thông minh. Đây là những nền tảng quan trọng
giúp Việt Nam nắm bắt nhanh chóng những thành tựu công nghệ mới.
Cùng với đó, số DN khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đã tăng gần gấp đôi,
từ 1.800 DN năm 2016 lên trên 3.000 DN năm 2017. Hiện có khoảng 40
Quỹ đầu tư mạo hiểm quốc tế đã hoạt động tại Việt Nam trong khi các
tập đoàn, ngân hàng và nhà đầu tư đang tích cực tham gia huy động, sử
dụng nguồn lực tài chính lớn cho lĩnh vực này.
Tuy nhiên, những con số ấn tượng đó dường như vẫn quá nhỏ bé và
khiêm nhường để nói Việt Nam chắc chắn sẽ tận dụng thành công ở
cuộc CMCN 4.0. Bởi đang và sẽ còn nhiều thách thức rất lớn cần vượt
qua trong thời gian tới. Do hoàn cảnh lịch sử và điều kiện chiến tranh
nên với 3 cuộc CMCN trước đây, Việt Nam đã bỏ lỡ sự tham gia một
cách chủ động và dường như chỉ tận dụng được các tiến bộ của công
nghiệp, công nghệ của thế giới trong vai trò “người tiêu dùng vĩ đại”.
Còn với CMCN 4.0, mục tiêu đặt ra là Việt Nam cần phải đóng vai trò
một nhà cung ứng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. “Đối với cuộc CMCN
4.0 lần này, Việt Nam phải nhanh chóng nắm bắt cơ hội vàng, kiên trì
vượt qua các thách thức để phát triển nhanh và bền vững trong tương
lai. Tuy vậy, chúng ta cũng cần lưu ý rằng, nếu chỉ quá kỳ vọng mà
không phân tích kỹ lưỡng thời cơ và thách thức sẽ rất nguy hiểm và phải
trả giá đắt”, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban
Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình cho biết.
Theo đó, song hành cùng với tìm kiếm và không bỏ lỡ các cơ hội thì Việt
Nam cũng cần giải quyết được những thách thức mà CMCN 4.0 đặt ra.
Trong bối cảnh trình độ công nghệ của nền kinh tế có xuất phát điểm
khiêm tốn, chưa đồng đều, Việt Nam phải đối mặt với nguy cơ tụt hậu
ngày càng xa, dư thừa lao động trình độ thấp… Mặt khác, DN Việt Nam
phần lớn là nhỏ và vừa, chưa đủ năng lực cạnh tranh, chưa sẵn sàng
tiếp cận công nghệ mới, nhiều DN còn bị động với các xu thế phát triển
mới trong khi áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Mục tiêu 1 triệu nhân lực công nghệ số trình độ cao
Tại hội thảo lần này, Thủ tướng nhấn mạnh: Quan điểm chỉ đạo của
Chính phủ là tập trung xây dựng, phát triển nền kinh tế số và công
nghiệp thông minh, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, cốt lõi của tái cấu trúc
nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Ứng dụng, phát
triển công nghệ thông tin phải trở thành yêu cầu bắt buộc trong các
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của cả nước cũng như từng
bộ, ngành và địa phương.
Về giải pháp, bên cạnh việc tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính
sách, pháp luật cho phát triển nền kinh tế số, công nghiệp thông minh thì
việc phát triển nhanh nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu xây dựng nền
kinh tế số, biến lợi thế dân số vàng thành lợi thế về năng lực số trong hội
nhập và phân công lao động quốc tế cũng là một ưu tiên. Thủ tướng
Nguyễn Xuân Phúc cho biết, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam sẽ có
đội ngũ trên 1 triệu nhân lực công nghệ số trình độ cao.
Bên cạnh đó, việc phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia cũng
được Chính phủ đặc biệt quan tâm, trong đó các DN vừa là trung tâm,
vừa là động lực phát triển của công nghệ mới, công nghiệp thông minh
cũng như trong thương mại hóa, ứng dụng thành công các thành tựu
khoa học - công nghệ vào thực tiễn đời sống. Các DN cần có tầm nhìn,
mơ ước lớn vượt ra biên giới quốc gia, đưa sản phẩm và dịch vụ sản
xuất tại Việt Nam chinh phục thị trường trong nước, thế giới qua đó góp
phần làm thay đổi, nâng tầm thị hiếu của người tiêu dùng và đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước, quốc tế.
“Chúng ta hãy cùng nỗ lực, biến khát vọng thịnh vượng của quốc gia,
dân tộc thành những việc làm và hành động cụ thể; chuyển hóa được
công nghệ và ý tưởng sáng tạo thành giá trị gia tăng, giải quyết được
vấn đề của thực tiễn đặt ra, tạo được việc làm và sản phẩm, dịch vụ
mới. Tập trung nắm bắt xu hướng công nghệ mới, trang bị đủ năng lực,
sẵn sàng tiếp nhận các mô hình kinh doanh mới, dũng cảm từ bỏ, cải
cách mô hình cũ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường,
người tiêu dùng”, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh.
Hệ thống NH sẵn sàng cho kinh tế số
Trong vài năm trở lại đây, các tiến bộ nhanh chóng của công nghệ cũng
làm thay đổi diện mạo ngành NH trên toàn cầu bằng cách thay đổi để
phù hợp với hành vi và kỳ vọng của khách hàng. Tại Việt Nam, để thích
ứng với bối cảnh kỷ nguyên số, nhiều NH truyền thống đã bắt đầu hành
trình chuyển đổi số để hướng tới xây dựng NH số bền vững trong tương
lai. Theo ông Trần Phương, Phó Tổng giám đốc BIDV, kỳ vọng của
khách hàng với dịch vụ số của NH ngày càng cao. Không chỉ dừng ở
chất lượng, tốc độ và sự an toàn tin cậy, khách hàng còn mong muốn có
sự trải nghiệm một cách thú vị và hài lòng nhất, dịch vụ mang tính cá
nhân hóa cao.
Kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đến nay, bức
tranh lĩnh vực thanh toán, đặc biệt là thanh toán số đã có sự thay đổi
mạnh mẽ. Theo đó, bên cạnh xu hướng công nghệ ngày càng đóng vai
trò quan trọng thì sự gia nhập thị trường của các tổ chức phi NH, nhất là
các công ty công nghệ tài chính (Fintech) tại thị trường Việt Nam cũng
ngày càng đông đảo. Tuy chưa thể cạnh tranh trực diện trên diện rộng
với các NH nhưng một số hãng công nghệ/công ty Fintech đã có được
sự thành công đáng nể ở một số phân khúc thanh toán đặc thù như
thanh toán tầm gần, thanh toán qua ứng dụng di động, chuyển tiền
ngang hàng P2P...
Tại phiên chuyên đề 2 về thúc đẩy phát triển thương mại và dịch vụ
trong kỷ nguyên số của hội thảo này, PGS.TS. Nguyễn Kim Anh, Phó
Thống đốc NHNN, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Công nghệ ngành NH
cho biết: "Quan điểm của NHNN muốn các NHTM không coi các Fintech
là đối thủ mà coi Fintech như là các đối tác và hợp tác giữa NH với
Fintech, làm sao để Fintech trở thành những đơn vị, những cánh tay nối
dài cung ứng sản phẩm dịch vụ, đặc biệt là để đáp ứng các nhu cầu của
các khách hàng chưa có điều kiện tiếp cận với sản phẩm dịch vụ NH".
Trong thời gian qua, thực tế các NH cũng đã rất nỗ lực theo quan điểm
đó. Theo ông Nguyễn Đức Huy, Phó giám đốc Khối NH số của MB, mặc
dù các NH đối diện với thách thức mới đến từ các công ty Fintech trên
hầu hết các sản phẩm dịch vụ vốn thuộc về lĩnh vực ngân hàng - tài
chính, nhưng thách thức này vừa có tính cạnh tranh thúc đẩy cùng phát
triển, vừa có tính gợi ý cho sự cộng tác “đôi bên cùng thắng” để mang lại
trải nghiệm mới mẻ, độc đáo và hài lòng hơn cho khách hàng.
Theo Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Kim Anh, mặc dù lĩnh vực thanh
toán trong kỷ nguyên số đặt ra không ít thách thức về mặt quản lý như
vấn đề an ninh mạng, đảm bảo tính riêng tư dữ liệu; việc cân bằng giữa
quản lý phát triển với thúc đẩy đổi mới nhưng khi nhận diện đầy đủ các
xu hướng, những thách thức và triển khai đồng bộ các giải pháp, NH số
nói chung và thanh toán số nói riêng sẽ có sự phát triển vượt bậc trong
thời gian tới trên cơ sở đảm bảo sự cân đối giữa quản lý hiệu lực, hiệu
quả với thúc đẩy đổi mới, sáng tạo gắn với bảo vệ người tiêu dùng, đảm
bảo giao dịch thanh toán an toàn, bảo vệ quyền riêng tư của khách
hàng.
Theo thoibaonganhang.vn
11. Chủ tịch VFOSSA: "Phần lớn tổ chức, doanh nghiệp Việt chưa nắm được chuyển đổi số là gì"
Theo Chủ tịch CLB phần mềm tự do nguồn mở Việt Nam (VFOSSA)
Nguyễn Hồng Quang, phần lớn tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam
dường như còn chưa nắm được chuyển đổi số là gì và cũng chưa ý
thức được tầm quan trọng của nó để có chiến lược thích ứng phù
hợp.
Chủ tịch VFOSSA Nguyễn Hồng Quang cho rằng, phần mềm nguồn mở
đóng vai trò động lực và dẫn dắt quá trình chuyển đổi số.
Trong tham luận “Xu hướng ứng dụng phần mềm nguồn mở trong
chuyển đổi số trên thế giới và tại Việt Nam” tại hội thảo phát triển phần
mềm nguồn mở năm 2017 với chủ đề “Chuyển đổi số và phần mềm
nguồn mở đối với các tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam” diễn ra ngày
5/12 tại Hà Nội, Chủ tịch VFOSSA Nguyễn Hồng Quang nhấn mạnh,
chuyển đổi số là việc tất yếu phải làm với mọi tổ chức và doanh nghiệp
nếu muốn tiếp tục tồn tại và phát triển bền vững. Quá trình chuyển đổi
số đang diễn mạnh mẽ trên thế giới, với mọi ngành nghề và lĩnh vực của
nền kinh tế.
Khẳng định phần mềm nguồn mở đóng vai trò động lực và dẫn dắt quá
trình chuyển đổi số, Chủ tịch VFOSSA Nguyễn Hồng Quảng cho rằng,
các tổ chức và doanh nghiệp cần tận dụng tối đa những ưu thế của
PMNM cho quá trình chuyển đổi số của mình.
Nhận định về phần mềm nguồn mở và chuyển đổi số tại Việt Nam, ông
Nguyễn Hồng Quang chia sẻ: “Ở Việt Nam, theo quan sát của chúng tôi,
quá trình chuyển đổi số đã và đang âm thầm diễn ra. Sự phát triển và
phổ biến của các mạng xã hội, sự phát triển của thương mại điện tử, các
mạng 3G, 4G, Chính phủ/ chính quyền điện tử, dịch vụ công trực tuyến,
thanh toán trực tuyến, nộp thuế trực tuyến, thông quan trực tuyến, Uber,
Grab... là những dấu hiệu cho thấy chúng ta đã và đang bị cuốn theo xu
thế chuyển đổi số không thể cưỡng lại của thế giới”.
Tuy nhiên, Chủ tịch VFOSSA cũng nhận xét, có thể thấy phần lớn tổ
chức và doanh nghiệp Việt Nam dường như còn chưa nắm được
chuyển đổi số là gì và ý thức được tầm quan trọng của nó để có chiến
lược thích ứng phù hợp.
“Chỉ có một số doanh nghiệp lớn về CNTT như CMC, FPT, VNG theo
chúng tôi được biết đã có nhận thức và đề xuất chiến lược về chuyển
đổi số. Các tổ chức và doanh nghiệp không phải CNTT hình như vẫn
quan niệm việc này không liên quan hoặc chưa liên quan đến mình. Rõ
ràng, vấn đề “nâng cao nhận thức” cần được đẩy mạnh trong các tổ
chức, các trường Đại học và các doanh nghiệp của tất cả các ngành
nghề”, ông Quang nói.
Ông Quang cũng cho hay, cộng đồng nguồn mở Việt Nam, đặc biệt là
các thành viên của VFOSSA đã bắt đầu tìm hiểu và có ý thức về tầm
quan trọng của chuyển đổi số cũng như vai trò quan trọng của phần
mềm nguồn mở cho quá trình này từ hơn 1 năm trước đây. Và việc
VFOSSA phối hợp cùng Vụ CNTT (Bộ TT&TT) đề xuất “chuyển đổi số”
là chủ đề trọng tâm cho hộ thảo quốc gia phần mềm nguồn mở năm nay
là một minh chứng cho sự quan tâm của Câu lạc bộ với chủ đề “nóng”
này.
Một trong những đóng góp của cộng đồng phần mềm nguồn mở Việt
Nam cho quá trình chuyển đổi số đã được giới thiệu tại hội thảo quốc gia
phần mềm nguồn mở năm 2016, đó là phần mềm nguồn mở OpenCPS -
phần mềm lõi dịch vụ công trực tuyến “Made in Vietnam” phục vụ trực
tiếp cho việc xây dựng Chính phủ điện tử theo Nghị quyết 36a.
Năm 2017, theo chia sẻ của ông Quang, cũng đã chứng kiến sự ra đời
của một Cộng đồng mở về Internet kết nối vạn vật (IOCV) do Viện Tin
học doanh nghiệp thuộc Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam
(VCCI) chủ trì. IOCV đã nhanh chóng có trên 40 thành viên doanh
nghiệp. Cuối tháng 11 vừa qua, hội nghị IOCV lần thứ hai đã chứng
nhận 3 giải pháp sử dụng công nghệ IoT dành cho trang trại nông
nghiệp thông minh được ứng dụng thực tiễn ở mức sản xuất và 1 giải
pháp ở mức chứng minh khả thi. Các giải pháp này đều là sự hợp tác
giữa các thành viên IOCV và dựa theo mô hình nguồn mở, công khai,
chia sẻ.
VFOSSA hiện đang có gần 60 thành viên doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực CNTT. Tất cả các DN thành viên VFOSSA đều có sản
phẩm/dịch vụ là phần mềm nguồn mở hoặc sử dụng/dựa trên phần mềm
nguồn mở. Các sản phẩm/dịch vụ tương đối đa dạng: email, CMS/web,
Tổng đài số, dịch vụ tin nhắn, CRM, ERP, viễn thông/Internet, GIS, phần
mềm kế toán chuyên dụng, điện toán đám mây, chính phủ điện tử, số
hóa... “Tất cả những sản phẩm/dịch vụ này đều là những ứng viên tiềm
năng phục vụ cho quá trình chuyển đổi số tùy theo nhu cầu của tổ chức
và doanh nghiệp”, ông Quang nhấn mạnh.
Cũng trong tham luận tại hội thảo quốc gia phần mềm nguồn mở 2017,
Chủ tịch VFOSSA Nguyễn Hồng Quang đã một lần nữa khẳng định cộng
đồng phần mềm nguồn mở Việt Nam và VFOSSA đã ý thức được tầm
quan trọng của chuyển đổi số, vai trò động lực của phần mềm nguồn mở
trong quá trình này, đồng thời đã và đang có những chuẩn bị bước đầu.
“Các tổ chức và doanh nghiệp Việt Nam cần sớm nâng cao nhận thức
về tầm quan trọng của chuyển đổi số trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội
nhập, sớm đề ra chiến lược và lộ trình chuyển đổi số cho mình. Hãy tìm
hiểu và tận dụng các đối tác cung cấp sản phẩm/giải pháp phần mêm
nguồn mở trong nước để phục vụ cho quá trình chuyển đổi số diễn ra
hiệu quả và tiết kiệm”, Chủ tịch VFOSSA đề xuất.
Theo ictnews.vn
12. Phú Xuyên cải thiện chất lượng dịch vụ hành chính công
Từ vị trí đứng cuối bảng xếp hạng về chỉ số cải cách hành chính
(CCHC) năm 2016 của thành phố Hà Nội, năm 2017, huyện Phú
Xuyên đã có nhiều giải pháp nhằm cải thiện chất lượng dịch vụ
hành chính công, tỷ lệ hồ sơ hành chính được giải quyết đúng hạn
đạt 99,77%.
Ngay sau khi thành phố Hà Nội công bố kết quả chỉ số CCHC năm 2016,
trong đó, huyện Phú Xuyên bị xếp đứng cuối bảng, Huyện ủy đã tổ chức
giao ban với lãnh đạo UBND huyện, thủ trưởng các cơ quan, bí thư, chủ
tịch, trưởng bộ phận một cửa của 28 xã, thị trấn để rút kinh nghiệm, chỉ
rõ nguyên nhân và bàn các giải pháp khắc phục. Trên cơ sở kết luận của
Thường trực Huyện ủy, UBND huyện đã ban hành Kế hoạch số 194/KH-
UBND ngày 30-8-2017 về nâng cao chỉ số CCHC năm 2017 và những
năm tiếp theo, trong đó phân công cụ thể trách nhiệm cho từng cơ quan,
đơn vị có liên quan đến từng chỉ số.
Cán bộ bộ phận một cửa huyện Phú Xuyên hướng dẫn người dân làm
thủ tục hành chính.
Trên tinh thần cầu thị và quyết tâm cao, huyện đã tổ chức hai đoàn tham quan học tập kinh nghiệm tại hai đơn vị có chỉ số CCHC đứng đầu thành phố là quận Long Biên và quận Nam Từ Liêm. Sau các buổi tham quan, học tập kinh nghiệm, các xã, thị trấn đã kiện toàn, sắp xếp lại bộ phận một cửa cho phù hợp hơn, kiện toàn cán bộ đầu mối kiểm soát thủ tục hành chính (TTHC) của huyện và xã. Huyện đã tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong điều hành bằng việc gửi giấy mời, tài liệu phục vụ các cuộc họp qua hòm thư điện tử. Tuyên truyền sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 cho học sinh khối lớp 8, 9 trên địa bàn làm kênh hỗ trợ người thân khi cần thiết. Hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008 ứng dụng tại 12 cơ quan và 28 xã, thị trấn. Cùng với đó, huyện còn gấp rút lắp đặt, đưa vào vận hành hệ thống ca-mê-ra kết nối màn hình đặt tại huyện, nhằm kiểm tra,
giám sát hoạt động của bộ phận một cửa. Nhờ vậy, đã cải thiện được các giao dịch, dịch vụ hành chính công trên địa bàn, tạo sự hài lòng cho người dân và doanh nghiệp.
Để kịp thời trao đổi, chia sẻ thông tin chỉ đạo, điều hành hoạt động của bộ phận một cửa, huyện Phú Xuyên đã tạo một nhóm “Một cửa Phú Xuyên” trên mạng xã hội zalo. Mô hình được triển khai vào cuối tháng 9, xuất phát từ ý tưởng của cán bộ Phòng Nội vụ UBND huyện trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Các thành viên trong nhóm là công chức phụ trách công tác CCHC của 12 cơ quan chuyên môn; cán bộ, công chức bộ phận một cửa của huyện, các xã, thị trấn dưới sự điều hành của Phòng Nội vụ UBND huyện. Trưởng phòng Nội vụ huyện Phú Xuyên Lê Thanh Hải cho biết: “Ngoài việc gửi các văn bản qua thư điện tử, việc triển khai công việc qua nhóm zalo giúp thực hiện nhanh hơn, kịp thời hơn. Qua đây, nhiều kinh nghiệm, cách làm hay, mô hình mới được các xã chia sẻ với nhau đã góp phần nâng cao đáng kể chất lượng giải quyết TTHC của huyện”.
Bên cạnh việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong CCHC, huyện Phú Xuyên cũng yêu cầu bộ phận một cửa huyện và các xã, thị trấn thực hiện nghiêm việc gửi “thư xin lỗi” đối với tổ chức, cá nhân khi giải quyết hồ sơ TTHC không đúng hẹn. Thực hiện gửi “Thư cảm ơn”, “Thư chúc mừng”, “Điện chia buồn” nhằm thể hiện sự quan tâm của chính quyền, cơ quan đối với tổ chức, cá nhân khi giải quyết các công việc có liênquan đến chính quyền.
UBND huyện đã chỉ đạo các đơn vị rà soát, thống kê TTHC và đề xuất phương án đơn giản hóa. Từ đó rút ngắn thời gian giải quyết đối với 52 TTHC thuộc các lĩnh vực: Đăng ký kinh doanh, Tư pháp, tài nguyên và môi trường… Trong đó, nhiều TTHC giảm thời gian giải quyết tới hai, ba ngày. “Nếu như năm 2016, huyện chỉ có hơn mười xã, thị trấn tiếp nhận, giải quyết hồ sơ hành chính vào sáng thứ bảy hằng tuần, thì năm 2017, 100% số xã, thị trấn thực hiện việc này. Nhờ đó, thời gian qua, bộ phậnmột cửa cấp huyện và xã đều đạt tỷ lệ hồ sơ hành chính được giải quyết đúng hạn đạt 99,77%", đồng chí Lê Thanh Hải cho biết như vậy.
Theo nhandan.com.vn
13. Hải quan Lạng Sơn: Vượt thách thức để tăng thu
Cơ cấu ngành hàng thay đổi, kim ngạch nhập khẩu lớn giảm, thuế
điều chỉnh theo Hiệp định thương mại ASEAN-Trung Quốc… là
những yếu tố khiến số thu NSNN tại tỉnh Lạng Sơn có những biến
động theo chiều hướng giảm. Dù vậy, với nhiều biện pháp mang
tính tổng thể, Cục Hải quan Lạng Sơn cho biết sẽ hoàn thành chỉ
tiêu tối thiểu và quyết tâm thu càng cao càng tốt.
Trao đổi với báo Lao Động, ông Vy Công Tường, Cục phó Cục HQ Lạng
Sơn cho biết sau khi nhận chỉ tiêu thu NSNN, Cục đã tiến hành rà soát
khả năng XNK của các DN qua địa bản tỉnh và giao chỉ tiêu cho từng chi
cục. Lạng Sơn có 5 cửa khẩu trong đó lớn nhất là 2 cửa khẩu Hữu Nghị
và Tân Thanh.
Ngay từ đầu năm, Cục đã kết hợp cơ quan địa bàn tỉnh tổ chức gặp mặt
DN để lắng nghe ý kiến, tìm hướng tháo gỡ khó khăn của DN.
Cục đã đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, triển khai các
tiện ích công như Dịch vụ công trực tuyến; Dịch vụ Bưu chính công ích;
Thủ tục thu nộp thuế điện tử và thông quan 24/7, niêm yết công khai bộ
thủ tục hành chính tại trụ sở làm việc, duy trì tổ giải quyết vướng mắc tại
cấp Cục và cấp Chi cục.
Cục chú trọng nâng cao kỹ năng kiểm tra phân loại áp mã số, thuế suất,
xác định xuất xứ; kiểm tra xác định trị giá khai báo đối với các mặt hàng
nhập khẩu, đảm bảo thu đúng, thu đủ cho Ngân sách Nhà nước. Bên
cạnh đó, Cục cũng xây dựng và tổ chức triển khai có hiệu quả kế hoạch
đấu tranh phòng, chống buôn lậu, chống gian lận thương mại và vận
chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; chống buôn bán hàng cấm,
hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, ma túy và tăng cường
tuyên truyền vận động nhân dân cư trú ở các khu vực biên giới không
tham gia tiếp tay buôn bán, vận chuyển hàng cho buôn lậu, tạo áp lực
cho hàng hoá đi qua các cửa khẩu chính; quản lý tốt hoạt động buôn
bán, trao đổi của cư dân biên giới, phòng ngừa các đối tượng buôn lậu
lợi dụng vận chuyển hàng trái phép vào nội địa tiêu thụ.
Tuy nhiên, việc thu NSNN gặp nhiều khó khăn do nhiều yếu tố khách
quan như từ năm 2017 nhiều mặt hàng nhập khẩu thường xuyên qua
các cửa khẩu được hưởng mức thuế suất ưu đãi đặc biệt, cơ cấu mặt
hàng nhập khẩu qua địa bàn thay đổi theo hướng tỷ trọng các mặt hàng
có thuế suất cao, kim ngạch nhập khẩu lớn giảm rõ rệt nhất là mặt hàng
ôtô tải và linh kiện, xe tải đầu kéo, xe bơm bê tông của Trung Quốc.
Trong năm 2015 và 2016 số thu phát sinh từ nhóm hàng hóa này
thường chiếm 60% tổng số thu toàn Cục, tương đương với từ 2.500 đến
3.000 tỉ đồng/năm) song trong năm 2017 các mặt hàng này giảm trên
28,8% tương đương với số thuế giảm trên 1000 tỉ đồng.
Tính tới nay, tổng số thu thuế đạt 3.333,2 tỉ đồng (giảm 7,5% so với cùng
kỳ 2016, đạt 83,3% chỉ tiêu năm 2017). Ước thu đến hết 31.12.2017,
tổng số thu thuế đạt 4.100 tỉ đồng, hoàn thành chỉ tiêu tối thiểu và Cục
quyết tâm thu càng cao càng tốt thông qua nhiều biện pháp.
Theo laodong.vn
14. Cải cách vẫn còn “hành là chính” - Lỗi do đâu?
Trong quá trình cải cách hành chính tại TP.HCM, không phải nỗ lực
nào cũng đạt được kết quả như mong muốn, nhiều người vẫn phải
thốt lên “hành là chính”.
Lô mực in trị giá hơn 3.000 USD của anh Nguyễn Xuân Phẩm (Giám đốc
Công ty Dịch vụ Nguyễn Xuân Phẩm, TP.HCM) bị mắc kẹt tại Hải quan
cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1. Nguyên nhân là do vướng Nghị định
113 của Bộ Công Thương về quản lý hóa chất có hiệu lực vào cuối
tháng 11/2017, cụ thể là quy định kiểm tra thành phần hóa học của tiền
chất. Việc này hoặc phải có kiểm định từ nước ngoài hoặc đưa đi kiểm
tra và phải chờ kết quả.
Theo Chi cục Hải quan TP.HCM, những sự việc như trên xuất phát từ hệ
thống văn bản pháp luật chuyên ngành. Dù đã có sự liên kết quản lý và
kiểm tra chuyên ngành ở của khẩu, nhiều doanh nghiệp đã phải chờ đợi
rất lâu mới được thông quan. Điều này khiến những nỗ lực cải cách
hành chính của đơn vị như một cửa quốc gia, dịch vụ công trực tuyến
còn bị hạn chế.
Khi một nghị định, thông tư đi vào thực tế, việc phổ biến thông tin đến
người dân là rất quan trọng. Theo đó, khi đã có sự chuẩn bị, sẽ không
có việc bị động, tránh lãng phí về thời gian, tiền bạc. Tuy nhiên, nhiều
người dân cho rằng họ không được cơ quan chuyên ngành thực hiện
điều này. Hiện chỉ có ngành thuế và tài chính là đơn vị thường xuyên đối
thoại với các doanh nghiệp.
Theo vtv.vn