Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
T R Ư Ờ N G K I N H D O A N H H A V A R D
9-102-030
Hiệu chỉnh: Ngày 9 tháng 3 năm 2004
ROBERT S. KAPLAN
CHRISTINA DARWALL
Anagene, Inc.
Làm sao chúng ta có thể biết khả năng kiếm được lợi nhuận của công ty nếu như chi phí sản xuất và lãi gộp cứ thay đổi không thể dự đoán nổi từ tháng này qua tháng khác?
— Thành viên Hội đồng quản trị tập đoàn Anagen
Gerald Kelly – Chủ tịch và Giám đốc Tài chính của công ty thiết bị hệ gen, tập đoàn Anagene
(Anagene) – đang trên đường về văn phòng sau khi kết thúc cuộc họp hội đồng quản trị tháng 1 năm
2001. Trong cuộc họp này anh đã trình bày về ngân sách sửa đổi cho năm 2001. Hội đồng quản trị đã
chất vấn anh rất gay gắt về khoản tăng 40% các chi phí tiêu chuẩn cho dòng sản phẩm chính của công
ty, ống chip Anagene. Anagene đã giới thiệu các phiên bản thương mại của dòng sản phẩm này vào
năm ngoái, và lãi gộp hàng tháng trong năm 2000 luôn thay đổi – đôi khi rất nhiều - theo từng tháng.
Hội đồng quản trị hiện tại đã nhìn thấy rằng vấn đề sẽ còn tiếp diễn trong năm tiếp theo và đã yêu cầu
Kelly tìm ra các biện pháp thay thế để tính toán chi phí sản phẩm và lãi gộp phản ánh đúng hơn kết
quả hoạt động dài hạn của công ty. Ngoài vấn đề Hội đồng quản trị đưa ra, Kelly còn quan ngại về tác động của tình hình chi phí tăng
và lãi gộp giảm lên các nhà đầu tư của công ty. Các nhà phân tích công nghiệp sẽ theo dõi sát sao lãi gộp hàng quý của tập đoàn Anagene trong lúc họ xây dựng các mô hình kinh doanh nhằm dự đoán lợi nhuận tương lai. Các nhà phân tích muốn có khả năng dự báo trong khi lãi gộp của tập đoàn Anagene thì lại không thể nào dự đoán được. Kelly không tin rằng số liệu kinh doanh của Anagene có nhiều thay đổi qua các tháng vì thế anh quyết định gặp cán bộ kiểm soát tài chính của tập đoàn để tìm tại sao lại có sự dao động mức lãi và tại sao lại không thể tiên đoán được mức lãi.
Thị trường Phân tích Gen
Năm 2000 chứng kiến sự hoàn tất việc giải mã hệ gen người, một thành tựu khoa học quan trọng.
Tuy nhiên, các nhà khoa học biết rằng họ vẫn còn nhiều việc phải làm. Dự án đó đã tạo ra hàng ngàn tỉ
bite dữ liệu tổng quát về ADN, nhưng lại chẳng cho biết được gì về từng con người.1 Giai đoạn tiếp
theo của cuộc cách mạng gen là việc xác định sự biến đổi gen trong hệ gen của từng cá nhân con
người. Các nhà nghiên cứu ước tính có khoảng 3 triệu điểm khác biệt (SNP) trong mỗi con người;2 việc
1 Eric Lander, Viện trưởng viện MIT’s Whitehead, đưa ra so sánh rằng các nhà khoa học bây giờ đã tạo ra một danh sách tương tự danh sách các bộ phận phụ tùng của máy bay Boeing 777. Và cách thức ghép chúng lại với nhau để chúng có thể hoạt động vẫn còn đáng để chúng ta học hỏi.
2 SNPs (single nucleotide polymorphisms), loại biến dị DNA phổ biến nhất, được tin là đóng vai trò chủ chốt trong việc quyết định sự khác nhau
giữa con người với nhau. Hệ gen của con người có 3 tỷ cặp gốc, có một điểm khác biệt trên 1.000 cặp gốc. Vì vậy, các nhà khoa học ước
tính rằng có khoảng 3 triệu điểm khác biệt (SNP) tồn tại. (Carole Foy và Helen)
Christina Darwall của Trung tâm nghiên cứu California chuẩn bị nghiên cứu này dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Robert S. Kaplan. Các trường
hợp điển hình HBS được xây dựng chỉ dành cho các bài thảo luận trên lớp. Các trường hợp này không nhằm mục đích ủng hộ, cung cấp nguồn dữ
liệu sơ cấp, hay minh hoạ về sự quản lí hiệu quả hay kém hiệu quả. Tên của công ty, tên của những người liên quan hay bất kỳ thông tin tài chính
nào cũng được giữ bí mật.
Copyright © 2004 Hiệu trưởng và Sinh viên Trường Harvard. Để mua hoặc yêu cầu được in lại tài liệu, vui lòng gọi 1-800-545-7685, gửi thư cho Nhà xuất bản Harvard Business School, Boston, MA 02163, hoặc vào trang web http://www.hbsp.harvard.edu. Không được tái bản, lưu giữ trong hệ thống máy tính, sử dụng trong bảng tính, hay gửi đi dưới bất kỳ hình thức nào - điện tử, cơ học, sao chụp, thu băng, hoặc các hình thức khác- bất kỳ phần nào của tài liệu này nếu không có sự cho phép của Trường Kinh doanh Harvard.
102-030 Anagene, Inc.
2
nhận diện được các điểm khác biệt này rất quan trọng để có thể tìm ra phương pháp tốt nhất chống lại
một căn bệnh cụ thể trong một cá nhân.3 Rất nhiều các nỗ lực xác định SNP nhắm đến việc khám phá
xem làm thế nào những khác biệt giữa các hệ gen cá nhân có thể tiên đoán khả năng thuốc có tác dụng
hay gây độc tính. Các thử nghiệm lâm sàng cho các loại thuốc mới là cực kỳ đắt đỏ. Việc sử dụng SNP
hứa hẹn sẽ tạo thuận lợi cho việc tạo ra các loại thuốc có hiệu quả hơn và giảm chi phí cũng như thời
gian đưa các loại thuốc đó ra thị trường. Đến lúc nào đó, các xét nghiệm SNP sẽ được sử dụng trong
văn phòng của bác sỹ để xác định xem liệu một cá nhân nào đó có thể có phản ứng xấu đối với một
loại thuốc – hoặc không có bất kỳ phản ứng nào. Một trong các xét nghiệm như thế, dùng cho bệnh
bạch cầu ở trẻ em, đã được sử dụng bởi các bác sỹ và bệnh viện tại Mỹ.4 Không giống như các xét
nghiệm ở quy mô lớn được thực hiện để xác định các SNP và mối liên hệ giữa chúng với một số bệnh
nhất định, các xét nghiệm SNP chẩn đoán này được thực hiện để xác nhận sự tồn tại của một SNP đã
được xác định trước đó. Các ứng dụng khác đòi hỏi sự tập trung xem xét chỉ một hay hai gen đã nảy
sinh sau khi các nhà khoa học điều tra nghiên cứu một số các rối loạn do gen cụ thể. Thời gian đầu, khi
tiến hành nghiên cứu hệ gen – lúc đó việc lập bản đồ hệ gen loài người là mục tiêu – các công nghệ giải
mã gen là những công nghệ chi phối; với sự chuyển đổi sự tập trung sang các dạng nghiên cứu gen
khác, người ta cho rằng các công nghệ mới sẽ bắt đầu chi phối.
Trong năm 2001, rất nhiều nhà khoa học cho rằng kỹ thuật DNA microarrays là công cụ tốt nhất đối với việc phân tích hệ gen. Với kỹ thuật arrays, các nhà khoa học có thể thực hiện rất nhiều các thí nghiệm song song thu nhỏ. Thiết bị Arrays bao gồm các đầu dò axit nucleic được gắn bằng chất hóa học lên một màng mỏng. Màng này có thể là một con chip – trong trường hợp này thiết bị microarray sẽ được gọi là DNA chip – hoặc một hạt có kích thước siêu nhỏ. Nhờ việc thu nhỏ một số quy trình phiền hà, microarrays cho phép các nhà nghiên cứu theo dõi số lượng lớn các gen trong một thí nghiệm, nhờ đó làm tăng mạnh mẽ lượng thông tin có thể có được và nhờ đó tiết kiệm thời gian và tiền bạc.
Thị trường DNA microarrays khá lớn và ngày càng tăng trưởng, có giá trị 600 triệu USD vào năm
2000 và dự tính sẽ tăng lên đến 4.5 tỉ USD vào năm 2004.5 Các công ty tham gia vào thị trường này
kiếm được doanh thu từ hai nguồn quan trọng ngoài các khoản tài trợ nghiên cứu và phát triển sản
phẩm. Bán thiết bị mang lại nguồn doanh thu thứ nhất và việc bán chip và cartridge ăn theo – cần thiết
cho việc tiến hành các thí nghiệm – mang lại nguồn doanh thu thứ hai.
Vì tiềm năng hoàn vốn là khổng lồ, rất nhiều công ty đã gia nhập thị trường DNA microarrays.
Hầu hết các công ty này được thành lập vào giữa những năm 1990 và nhiều công ty đã niêm yết trên
thị trường chứng khoán cho dù phần lớn nguồn thu của họ đến từ các khoản tài trợ nghiên cứu và
phát triển sản phẩm và các chương trình nghiên cứu được tài trợ. Cuối năm 2000, xấp xỉ 30 công nghệ
đã ra đời hay sắp ra đời đều đã có mặt trên thị trường DNA microarrays;6 đầu năm 2001, hầu hết các
công ty này vẫn còn ở các giai đoạn đầu thương mại hoá sản phẩm.7 Mặc dù thị trường rất đông đúc,
các nhà phân tích tin tưởng rằng phương pháp tiếp cận về mặt kỹ thuật của Anagene đối với việc thiết
Parkes, “Emerging Technologies for High-Throughput SNP Genotyping,” VAM Bulletin, Tái bản lần thứ 23, Mùa thu năm 2000 tr. 1.); STRs (short tandem repeats) were tandemly repeated DNA sequences that were important in several fields such as genetic imaging and human identity testing. (Mark Wortman, “Medicine Gets Personal,” MIT Enterprise Technology Review, January/February 2001, http://www.techreview.com/magazine/jan01/wortman.asp.)
3 Susan Briggs, “The Flowering of Mankind,” The Princeton Packet Online, 16 Tháng 8, 2000, http://www.packpub.com/new/business/8-16-00/orchid.html.
4 Ibid.
5 Todd R. Nelson, “Chip, Chip, Array: An Analysis of DNA Chip Technology,” Dain Rauscher Wessels, December 7, 2000: p. 16.
6 Ibid., p. 29.
7 Vivien Marx, “Inside Tech: Biotech Scopes out Micro-Machinery,” Red Herring, December 20, 2000.
8 Ibid, p. 31.
3
102-030 Anagene, Inc.
kế và sử dụng microarrays vừa tân tiến lại vừa hiệu quả.8 Không giống như hầu hết các công ty đối
thủ, Anagene sử dụng mạnh mẽ kỹ thuật vi điện tử trong thiết kế microarrays, nhờ đó cho phép người
dùng có thể khoanh vùng đầu dò và mẫu tại các vùng xác định trước. Sản phẩm của công ty được cho
là cực kỳ chính xác, sau khi một số phòng thử nghiệm – bao gồm Phòng mạch Mayo nổi tiếng – báo
cáo về độ chính xác 100% đối với các xét nghiệm thử nghiệm. Một khách hàng xét nghiệm phân tích
được hơn 200 mẫu đối với 12 SNP phù hợp về mặt lâm sàng; hệ thống của Anagene thực hiện toàn bộ
2.400 lần gọi chuẩn xác. Các xét nghiệm khác tập trung vào các gen phức tạp, chẳng hạn như một gen
phù hợp về mặt lâm sàng có 4 biến thể hoàn toàn khác nhau, chỉ khác nhau ở một SNP duy nhất. Độ
chính xác cực lớn của hệ thống Anagene lần nào cũng được xác nhận bởi nhiều lần chạy (thẩm định
nội bộ) và các kỹ thuật giải mã DNA tiêu chuẩn (thẩm định bên ngoài).
Giống như bất kỳ ngành mới nào, nhiều nhà phân tích đã chia phân khúc thị trường theo đặc tính công nghệ, chẳng hạn như mật dộ microarrays. Tuy nhiên, sau khi thị trường cất cánh, một số nhà phân tích bắt đầu phân chia thị trường theo ứng dụng. Tại một đầu của thị trường là “gen học công nghiệp,” công nghệ phát hiện gen và giải mã gen cỡ lớn hoạt động dựa trên dân số lớn. Phân khúc này đòi hỏi việc xử lí khối lượng dữ liệu cực lớn. Độ chính xác là quan trọng nhưng không mang tính then chốt. Ở phía kia của thị trường, các nghiên cứu lâm sàng và gen học tập trung vào bệnh nhân tập trung nghiên cứu các gen riêng biệt. Hàng chục ngàn bệnh nhân có thể được phân tích, chứ không phải hàng tỉ đơn vị dữ liệu, và mỗi bệnh nhân cần được khám riêng biệt và toàn diện. Trong phân khúc này, tính chính xác chứ không phải sản lượng cao mới có tầm quan trọng đặc biệt bởi vì mục tiêu là xác định hiệu lực và độ an toàn của thuốc cho một cá nhân bệnh nhân. Đối với các nghiên cứu lâm sàng, các nhà nghiên cứu sử dụng một số mẫu nhỏ khi thực hiện các ứng dụng như xét nghiệm độc tính của các thuốc tiềm năng mới.
Thông tin về Anagene
Năm 1993 Mark Hansen, tiến sĩ sinh hóa, thành lập Anagene cùng với Harold Bergman, một nhà
doanh nghiệp nổi tiếng trong lĩnh vực công nghệ sinh học. Tại thời điểm đó, các thiết bị giải mã DNA
tự động còn chưa phổ biến và chưa nhiều người biết đến khái niệm gen học. Hansen và Bergman dự
định kết hợp hai công nghệ mang tính cách mạng là vi điện tử và sinh học phân tử để phát triển các
sản phẩm có ứng dụng thương mại rộng rãi về gen học và các lĩnh vực khác. Sứ mệnh của Anagene là
tạo điều kiện mang lại các đột phá trong phân tích gen. Các mẫu nguyên liệu gen sẽ được đặt vào
trong một ống chip Anagene và được phân tích bằng máy tính do Anagene thiết kế.9 Sử dụng chiến
lược dao cạo/lưỡi dao cạo, ban lãnh đạo công ty dự đoán sẽ bán được rất nhiều ống chip ăn theo việc
bán mỗi máy tính Anagene.
Anagene thu hút đầu tư mạo hiểm từ các công ty lớn như Kleiner Perkins Caufield & Byers và
Sprout Group. Với Bergman ở vị trí chủ tịch hội đồng quản trị và Tổng giám đốc, Hansen là Giám đốc
kỹ thuật, Anagene niêm yết năm 1998, thu được khoản tiền trị giá 42,9 triệu USD.
Gerald Kelly gia nhập Anagene năm 1998 ngay trước khi công ty bán cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO). Anh có bằng cử nhân về kế toán và kinh tế và sau khi tốt nghiệp đã làm việc trong chương trình quản lí tài chính trong bộ phận kinh doanh công nghiệp nặng của General Electric. Sau khi có bằng MBA tại trường Harvard, anh giữ một vị trí trong một công ty chẩn đoán nội khoa gần đây đã chuyển thành công ty tư nhân sau khi bị mua đứt. Công ty này cuối cùng lại tăng trưởng đến 1.400 người và lại niêm yết lần nữa. Kelly rời bỏ công ty và gia nhập Anagene với vị trí phó chủ tịch phụ trách marketing chiến lược để học hỏi về gen học và dược phẩm – và để xem kinh nghiệm của anh về chẩn đoán nội khoa có thể sử dụng được không. Kelly được thăng chức lên Giám đốc Tài chính vào giữa năm 1999; anh được bổ nhiệm là chủ tịch tháng 9 năm 2000 kiêm Giám đốc Tài chính cho đến khi tìm được người kế nhiệm.
9 The Anagene technology analyzed both SNP and STR forms of DNA.
102-030 Anagene, Inc.
4
Anagene sử dụng số tiền có được từ đợt IPO để chuẩn bị cho việc giới thiệu sản phẩm năm 1999.
Vào mùa thu, Anagene bắt đầu xét nghiệm beta. Ban lãnh đạo được khích lệ rất lớn nhờ “các kết quả
cực kỳ tốt”; hệ thống Anagene đã cho kết quả trên cả chính xác tại 3 khu vực xét nghiệm. Năm 2000,
công ty thu thêm được 82 triệu USD nhờ bán cổ phần và lần đầu tiên bán sản phẩm ra thị trường. Tới
năm 2001, Anagene đã có số nhân viên lên tới 170, 40 người trong số này làm việc liên quan đến việc
bán sản phẩm. (Xem Hình 1 và 2 để biết báo cáo lãi lỗ và bảng cân đối kế toán trong quá khứ của
Anagene.)
Sản phẩm quan trọng đầu tiên của Anagene là một công nghệ nền tảng độc quyền mà ban lãnh đạo
dự định đưa thành tiêu chuẩn trong lĩnh vực nhận diện và phân tích phân tử. Máy tính Sinh học Phân
tử AnageneTM gồm có bộ phận nạp (có thể nạp 4 ống chip một lúc), một đầu đọc (đọc và phân tích
từng ống chip một) và một ống chip dùng rồi bỏ có chứa microchip độc quyền của công ty. Mặc dù có
thể mua bộ phận nạp và đầu đọc riêng rẽ, khách hàng hầu như luôn luôn mua mỗi thứ một chiếc ở
mức giá chung cho cả hai thiết bị là xấp xỉ 160.000 USD; mỗi chiếc máy tính sẽ được kèm theo 4 ống
chip. Máy tính ban đầu được sử dụng cho các ứng dụng như chức năng gen học – nghiên cứu cách
thức vận hành của gen – và nhận diện con người, các ứng dụng quan trọng trong lĩnh vực pháp lý
(một ứng dụng trở nên nổi tiếng nhờ Barry Schreck trong vụ xét xử O.J.Simpson và nhờ sự phân tích
một vết ố trên chiếc váy màu xanh của Monica Lewinsky). Hầu hết các phân tử đều được nạp điện.
Con chip cho phép nhanh chóng nhận diện và phân tích các phân tử sinh học như DNA và RNA, bằng
cách kích hoạt sự chuyển động và tập trung chủ động của các phân tử tích điện đến và từ các vị trí siêu
nhỏ định trước, gọi là vùng xét nghiệm, trên microchip bán dẫn. Đầu năm 2001, hai ứng dụng quan
trọng là phân tích SNP và STR sử dụng trong nghiên cứu và chẩn đoán lâm sàng. Anagene cũng bán các ống chip sử dụng rồi bỏ – bán với giá 150USD/ống – cho khách hàng để sử
dụng cho các máy tính. Mỗi ống chip có chứa một con chip điện tử. Con chip này lại chứa các khu vực xét nghiệm có dạng lưới hình học được gọi là array. Bằng cách kiểm soát điện tử mỗi khu vực xét nghiệm thông qua máy tính của hệ thống, các ống chip có thể được sử dụng để thực hiện đến 99 xét nghiệm trên một mẫu duy nhất bất kỳ. (Xem Hình 3 Ảnh kích thước thật của một ống chip Anagene và thông số kỹ thuật.) Ống chíp này đã được thiết kế cho các ứng dụng số lượng nhỏ (các hệ thống khác có thể thực hiện hàng ngàn xét nghiệm trên 1 mẫu) và cho ra các kết quả rất chính xác, tốt hơn so với các kỹ thuật giải mã DNA truyền thống để xác nhận và thẩm định SNPs. Anagene giao các ống chip này mà không kèm theo bất kỳ một DNA nào, cho phép các khách hàng quyết định bất cứ những gì mà họ muốn nghiên cứu. Ngược lại, hầu hết các đối thủ cạnh tranh lại bán các con chip “gắn sẵn” “nhiều chuỗi DNA khổng lồ”. Vì Anagene bán nhiều máy trạm hơn nên họ hy vọng rằng nhu cầu mua ống chíp sẽ tăng nhanh chóng.
Năm 2001, ban lãnh đạo công ty đã bắt đầu chuyển từ nghiên cứu và phát triển sang phát triển các ứng dụng thương mại và quảng bá công nghệ của Anagene như là công nghệ tiêu chuẩn cho việc nhận dạng và phân tích phân tử. Anagene tập trung hoạt động bán hàng ở thị trường nghiên cứu lâm sàng, nhấn mạnh vào tính chính xác trong công nghệ của họ. Những nhân viên bán hàng của Anagene thường nói với các khách hàng tiềm năng là “hãy đưa cho chúng tôi những chuỗi khó phân tích nhất và chúng tôi sẽ tìm ra giải pháp.” Các nhân viên kỹ thuật của Anagene đã giúp các công ty xây dựng các chuỗi phân tử khó khăn – thường là những chuỗi đòi hỏi sự chính xác cao nhất – hy vọng các công ty này sau đó sẽ sử dụng các chuỗi này trong môi trường sản xuất. Công ty này cũng bắt đầu thiết lập hàng loạt các mối quan hệ và hợp tác chiến lược, chủ yếu là để tiếp cận với các thị trường toàn cầu mà không phải chuyển các nguồn lực hạn chế từ lĩnh vực phát triển sang bán hàng.
Việc lắp đặt máy trạm và bán chíp Trong năm 2000, Anagene đã lắp đặt 23 máy trạm trong các công ty, trường học, và các tổ chức phi
lợi nhuận. 7 máy trạm đã được bán ngay lập tức với khoản tiền trả trước và phí sang tên, trong khi đó 14 máy trạm đã được lắp đặt mà không được sang tên, dù là thông qua các thỏa thuận phát triển, cho thuê, hay đại lý cho thuê lại. Hai máy trạm đã được tài trợ bởi các liên minh nghiên cứu. Cuối năm 2000, ban lãnh đạo Anagene đã tăng cường sử dụng các giao dịch bán không sang tên để công nghệ của công ty này có thể được sử dụng nhanh chóng tại các thị trường khác nhau làm cơ sở chắc chắn
5
Anagene, Inc. 102-030
cho việc bán các ống chíp trong tương lai. Trong quá trình lập ngân sách vào mùa thu, công ty đã ước tính sẽ có khoảng 50.000 ống chip được
bán ra trong năm 2001; con số này bao gồm cả số lượng ống chíp sử dụng trong công ty và ống chip bán ra bên ngoài. Trong công ty ống chip được sử dụng cho các dự án nghiên cứu và các thử nghiệm kiểm soát chất lượng máy trạm. Tuy nhiên, ngay trước cuộc họp Hội đồng quản trị vào tháng 1 năm 2001, Kelly đã phải điều chỉnh tổng doanh số ống chip năm 2001 xuống còn 26.000 đơn vị. Thời gian bán hàng kéo dài hơn so với ước tính ban đầu do thời gian cần để thực hiện các chuỗi khó kéo dài. Thêm vào đó, do việc đẩy mạnh doanh số bán máy trạm đã bị chậm hơn so với mong đợi trong năm 2000, nên số lượng lắp đặt nhỏ hơn dự kiến ban đầu. Vấn đề cuối cùng là một số khách hàng đã sử dụng lại các ống chip dùng rồi bỏ thay vì mua mới cho mỗi thí nghiệm. Các ống chip chỉ có thể sử dụng được từ 3 đến 5 lần, nếu không kết quả sẽ không thể chấp nhận được. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu chỉ kiểm tra tính khả thi của hệ thống Anagene và vì thế không quan tâm lắm đến tính chính xác. Khi sử dụng trong sản xuất, rất ít có khả năng khách hàng sẽ sử dụng nhiều lần ống chip vì tỉ lệ tín hiệu trên độ ồn sẽ giảm xuống sau mỗi lần tái sử dụng. Tổng doanh số ống chip được dự báo là sẽ tăng lên 95.000 đơn vị vào năm 2002.
Sản xuất tại Anagene Sau khi chứng thực được công nghệ của mình tại 3 khu vực beta thành công, ban lãnh đạo Anagene
đã bắt đầu nghi ngờ chiến lược sản xuất. Sản xuất hai bộ phận cấu thành của máy trạm có sản lượng thấp và chi phí cao – bộ phận nạp và đầu đọc – cần đến chuyên môn và các nguồn lực lớn hơn rất nhiều so với việc sản xuất ống chip. Vì thế công ty đã quyết định thuê ngoài sản xuất các bộ phận cấu thành này. Anagene đã ký một thoả thuận sản xuất và phân phối với công ty TNHH Hitachi (Hitachi), một trong những nhà sản xuất thiết bị khoa học lớn nhất thế giới. Anagene sẽ trả cho Hitachi mức giá theo thoả thuận cho mỗi lô từ 20 đến 30 bộ nạp và đầu đọc. Hai công ty sẽ hợp tác với nhau để giảm chi phí bằng công nghệ tăng giá trị, cho phép liên tục giảm giá chuyển giao nội bộ. Ít nhất trong thời gian đầu, để đảm bảo việc kiểm soát chất lượng, Anagene sẽ tiến hành thực hiện thử nghiệm và kiểm tra cuối cùng tại nhà máy của họ. Về lâu dài, họ mong là Hitachi sẽ có thể đảm nhận công đoạn kiểm soát chất lượng cuối cùng và vận chuyển thẳng đến khách hàng.
Anagene đã xây dựng cơ sở sản xuất ống chip của riêng họ để có thể nắm bắt lợi nhuận to lớn từ mức dự báo bán hàng cao đối với sản phẩm này. (Hình 4 là biểu đồ dòng thể hiện quy trình sản xuất ống chip của công ty.) Kinh nghiệm trước đây của Kelly trong thị trường chẩn đoán nội khoa giúp anh hiểu được các mô hình kinh doanh khác nhau đối với vật tư tiêu hao và thiết bị:
Trong một thị trường bão hoà, bạn thường thấy sự phân chia doanh số 70/30 và sự phân chia
lợi nhuận lên đến 90/10 đối với vật tư tiêu hao/thiết bị. Bạn nghĩ mức lãi gộp sẽ từ 60-80% cho
vật tư tiêu hao và 40-60% cho thiết bị. Nhưng chúng ta đang đối mặt với một thị trường mới với
một công nghệ mới và chưa biết chính xác lợi nhuận sẽ như thế nào.
Sản lượng ban đầu từ cơ sở sản xuất ống chip mới được dùng cho mục đích nghiên cứu và phát triển; đến đầu năm 2001, doanh số bán ống chip cho thấy tỉ lệ ngày càng tăng so với sản lượng, tăng đáng kể từ mức 3% trong năm 2000. Tổng doanh số năm 2000 gấp hơn 2 lần năm 1999, nhưng sản lượng lại biến thiên hơn 100% – tăng hoặc giảm – qua từng tháng (Hình 5 cho biết sản lượng ống chip trong quá khứ).
Hệ thống Chi phí Tiêu chuẩn của Anagene
Vào cuối năm 1998, Anna Puleski - Kiểm soát viên tài chính và Giám đốc tài chính của Anagene- thuê Daniel Yeltin, một kế toán có chứng chỉ CPA, làm quản lí bộ phận phân tích tài chính của công ty. Nhiệm vụ đầu tiên của Yeltin là thiết lập các vùng beta của công ty vào năm 1999. Trong 6 tháng đầu năm 2000, anh chỉ đạo việc lắp đặt hệ thống ERP, và vào cuối tháng 6 năm 2000 – khi công ty bắt đầu sản xuất ống chip để bán ra ngoài – Yeltin đã phát triển hệ thống xác định chi phí của công ty.
102-030 Anagene, Inc.
6
Hệ thống này tính toán các chi phí tiêu chuẩn của công ty một lần trong một năm. Quá trình này
bắt đầu bằng việc ước tính ngân sách chi phí biến đổi đơn vị – nguyên vật liệu, nhân công trực tiếp, gia
công bên ngoài (một số công đoạn như cắt chip đã được thuê ngoài), và phế liệu. Đối với chi phí sản
xuất chung, Yeltin gán mỗi máy móc và thiết bị cho một trong các công đoạn sản xuất để có thể tính
toán khấu hao cho từng bước (xem Hình 6). Tất cả các thiết bị đều đang được sử dụng ngoại trừ máy
phủ quay tự động, được một người nào đó, đã rời khỏi công ty, yêu cầu mua từ năm 1997. Máy phủ tự
động đã được chuyển đến công ty vào cuối năm 2000 và đã được kiểm tra và thẩm định để dùng cho
các loại nguyên vật liệu khác nhau, nhưng vào đầu năm 2001 chiếc máy này vẫn không được sử dụng
cho sản xuất. Các phòng ban không liên quan đến sản xuất – như mua sắm và vận chuyển – có chi phí
khấu hao thấp và thường được ước tính chứ không tính toán chi tiết.
Phòng sản xuất đã xác định cách phân bổ chi phí sản xuất chung toàn nhà máy cho các công đoạn chế tạo ống chip, thiết bị, và nghiên cứu & phát triển sản phẩm (xem Hình 7). Yeltin tiến hành chia các chi phí sản xuất chung đã được phân bổ đó cho sản lượng dự toán để tính chi phí đơn vị cho chi phí sản xuất chung. Sau đó anh tiến hành tính toán chi phí tiêu chuẩn cho mỗi ống chip bằng cách cộng thêm chi phí đơn vị vật liệu, phế liệu và nhân công. Các chi phí bán ống chip khác gồm có chi phí bản quyền đơn vị10 và ước tính chi phí hàng trả lại.
Các chi phí tiêu chuẩn được sử dụng cho mục đích báo cáo, và đánh giá chi phí sản phẩm và khả năng sinh lời. Tuy nhiên, các thông tin tổng hợp và không thường xuyên được cập nhật như vậy không có ích đối với việc kiểm soát chi phí sản xuất. Yeltin đã xây dựng các bản báo cáo riêng cho việc sử dụng nguyên vật liệu, phế liệu và năng suất phục vụ cho mục đích quản lí sản xuất.
Anagene 2001 Tháng 10 năm 2000, hội đồng quản trị Anagene phê duyệt ngân sách 2001 của công ty. Ngân sách
này gồm có các dự toán về chi phí sản xuất ống chip, giá bán và lãi gộp (xem Bảng A bên dưới).
Bảng A Tóm tắt Tài chính, Anagene, Inc. (bằng $, ngoại trừ sản lượng và lãi gộp, %) Thực tế năm 2000 Ngân sách năm 2001
Sản lượng ống chip (ống) 15,552 50,000
Chi phí nguyên vật liệu và phế liệu $ 40 $ 15
Chi phí nhân công 4 2 Chi phí sản xuất chung 68 26 Chi phí tiêu chuẩn ống chip $112 $ 43 Chi phí bản quyền và hàng trả lại 13 10 Chi phí tiêu chuẩn và chi phí bán hàng khác $125 $ 53
Giá bán ống chip $150 $150
Lãi gộp 25 97 Lãi gộp (%) 17% 65%
10 Anagene trả phí cho 2 công ty để sử dụng sáng chế của họ trong nền phát hiện điện tử của họ.
7
Anagene, Inc. 102-030
Trong cuộc họp hội đồng quản trị tháng 1 năm 2001, Kelly đã trình bày dự toán sửa đổi cho năm 2001 cho thấy chi phí tiêu chuẩn tăng 40% và lãi gộp giảm từ 65% xuống 45%. Một trong các yếu tố khiến chi phí sản xuất chung cho mỗi ống chip tăng lên là do sản lượng ống chipdự tính thấp hơn chỉ ở mức 26.000 ống (xem Bảng B bên dưới).
Bảng B Tóm tắt Tài chính, Anagene, Inc. (bằng $, ngoại trừ sản lượng và lãi gộp, %)
Dự toán 2001 sửa đổi
Sản lượng ống chip 26,000đơn vị
Chi phí nguyên vật liệu và phế liệu $ 20 Chi phí nhân công 2 Chi phí sản xuất chung 50 Chi phí tiêu chuẩn ống chip $ 72
Chi phí bản quyền và hàng trả lại 10 Chi phí tiêu chuẩn và chi phí bán hàng khác $ 82 Giá bán ống chip $150 Lãi gộp 68 Lãi gộp (%) 45%
Hội đồng quản trị thảo luận về sự sụt giảm lãi gộp và sự biến động lợi nhuận do kết quả của những biến động sản lượng hàng tháng trong quá khứ. Kelly cũng dự đoán các chuyên viên phân tích chứng khoán sẽ lo ngại và sẽ hạch hỏi ông về sự sụt giảm lãi gộp từ dự toán vào tháng 10 năm 2000 đến dự toán 2001 hiện tại. Kelly biết rằng các chuyên viên phân tích mong muốn “có sẵn con số” cho lãi gộp và họ thất vọng vì số liệu của công ty liên tục thay đổi. Ông giải thích:
Chúng tôi không chỉ muốn tăng doanh số; chúng tôi còn cần cung cấp các công nghệ mới
cho các thị trường mới. Chúng tôi vẫn mò mẫm tìm phương hướng trong bóng tối.
Các chuyên viên phân tích được đánh giá một phần về khả năng phân tích tình hình của các doanh nghiệp cho khách hàng, các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức. Thông thường các nhà đầu tư muốn có được các dự toán cụ thể cho từng quý. Vì thế các chuyên gia này cố gắng xây dựng các mô hình dự báo tình hình tài chính của các công ty hàng quý, kể cả khi các yếu tố bất định về thị trường và kỹ thuật có thể tác động tới thời điểm và độ lớn của kết quả. Các vị cần phải cẩn thận về mức độ thông tin mà các vị cung cấp. Một khi các vị cung cấp cho các chuyên viên phân tích và các nhà đầu tư khác thông tin, họ sẽ xây dựng các mô hình xung quanh các thông tin đó và họ mong rằng các vị sẽ không thay đổi các tham số đó. Các vị càng cung cấp thông tin cụ thể thì càng gặp nhiều rủi ro vì trong một thị trường mới như của công ty chúng ta, điều duy nhất chắc chắn là các điều kiện sẽ thay đổi.
Sau cuộc họp hội đồng quản trị, Kelly gọi Puleski và Yeltin để sắp xếp thời gian thảo luận vấn đề xác định chi phí. Một thành viên hội đồng quản trị, vốn là một giáo sư tại Trường Kinh doanh Harvard, đã yêu cầu một trong các đồng nghiệp của bà tại trường trợ giúp giải quyết vấn đề. Người đồng nghiệp đã gửi một chương sách có tiêu đề “Đo lường Chi phí Công suất Nguồn lực” cho Kelly. Kelly đã đưa cho Puleski và Yeltin, yêu cầu họ đọc tài liệu này trước cuộc họp.
Chương này có các đoạn như sau đề cập cách sử dụng “công suất thực tiễn” của các nguồn lực
thay vì sử dụng sản lượng dự toán khi tính toán chi phí tiêu chuẩn.
Nếu các nhà quản trị sử dụng dự báo mức độ hoạt động để tính toán tỉ lệ nguồn phát sinh chi
phí, họ có nguy cơ gây ra vòng xoáy chết chóc trong tổ chức của họ. Giả dụ các nguồn lực dành cho
102-030 Anagene, Inc.
8
việc thực hiện hầu hết các hoạt động hỗ trợ và gián tiếp là cố định trong ngắn hạn. Nếu mức độ
hoạt động giảm xuống – có thể do sự giảm tốc độ nói chung về hoạt động kinh tế hay do mất một
khách hàng lớn – thì tỉ lệ nguồn phát sinh chi phí sẽ tăng lên (đây là một tính toán số học đơn giản
vì các chi phí, tức tử số của phép tính giữ nguyên, trong khi khối lượng nguồn phát sinh chi phí,
mẫu số, giảm xuống). Nếu tỉ lệ nguồn phát sinh chi phí, lúc này đã cao hơn, được dùng để đưa ra
các quyết định về giá, chiết khấu, và chấp nhận đơn hàng, thì công ty có thể đưa ra giá tham chiếu
cao hơn khi chấp nhận đơn hàng để bù lại tỉ lệ nguồn phát sinh chi phí cao hơn. Nhưng một hành
động như thế có thể dẫn đến mức độ hoạt động thấp hơn nữa nếu như khách hàng không chấp
nhận nỗ lực bù đắp công suất thừa của công ty với phần thiệt dành cho họ. Nếu mức độ hoạt động
thấp hơn này lại được đưa vào tính toán tỉ lệ nguồn phát sinh chi phí, thì tỉ lệ nguồn phát sinh chi
phí còn cao hơn nữa này lại tiếp tục được đưa vào tính toán trong niên độ kế tiếp, từ đó càng tăng
cường cái vòng luẩn quẩn là mất mối kinh doanh và lại tiếp tục tính toán tỉ lệ nguồn phát sinh chi
phí cao hơn<
Vì các hợp đồng và cam kết (quy định rõ hoặc ngầm hiểu) đã được đưa ra để mua các nguồn lực,
người ta không thể giảm mức độ cung cấp các nguồn lực này xuống trong ngắn hạn cho phù hợp với
mức độ hoạt động thấp hơn (đây chính là ý nghĩa của chi phí “cố định”). Đồng thời, các nhà quản trị
có thể muốn duy trì mức độ cung cấp nguồn lực hiện tại nhằm xử lý số lượng đơn đặt hàng cao hơn,
theo dự đoán, trong tương lai.
Tỉ lệ nguồn phát sinh chi phí cần phản ánh đúng mức độ hiệu quả cơ bản của quy trình. Mức độ
hiệu quả này sẽ được đo lường tốt hơn nhờ việc công nhận công suất các nguồn lực đang được cung
cấp. Tử thức trong phép tính tỉ lệ nguồn phát sinh chi phí chính là chi phí của việc cung cấp công suất
nguồn lực để thực hiện công việc. Mẫu thức cần phù hợp với tử thức bằng cách thể hiện khối lượng
công việc mà các nguồn lực đó có thể thực hiện.
Chương này chỉ ra rằng có thể ước tính công suất thực tiễn bằng cách lấy công suất lý tưởng hay công suất lý thuyết trừ đi thời gian ước tính cần thiết để thực hiện việc bảo dưỡng, sửa chữa, khởi động và tắt máy thông thường. Một số tổ chức sử dụng các số liệu áp đặt, ví dụ 80 đến 85% công suất lý thuyết, để ước tính công suất thực tiễn.
Cuộc họp
Kelly bắt đầu cuộc họp với Puleski và Yeltin bằng việc giải thích 2 vấn đề phát sinh từ phương pháp tính toán chi phí tiêu chuẩn của công ty: lãi suất từ ống chip giảm xuống đã gây ra nghi ngờ về khả năng lợi nhuận về lâu dài của công ty và sự biến động lãi suất từ tháng này sang tháng khác khiến cho các thành viên hội đồng quản trị và các chuyên viên phân tích gặp khó khăn trong việc tìm hiểu khả năng lợi nhuận trong ngắn hạn của công ty. Kelly cho biết: “Lãi gộp của chúng ta trong năm 2000 liên tục biến động làm các chuyên gia phân tích bối rối và chúng ta phải liên tục giải thích với họ.”
Yeltin nói với họ quan điểm của anh ta về vấn đề:
Trong năm 2000, sự biến thiên về lợi nhuận chủ yếu là do doanh số bán máy trạm vì doanh thu từ ống chip vẫn còn rất nhỏ. Chúng ta đã bán một số máy trạm mà chúng ta đã sản xuất làm mẫu; các máy này có mức lãi gộp cao hơn trung bình rất nhiều vì đã được khấu hao hoàn toàn. Cuối năm đó chúng ta bán các đầu đọc/bộ phận nạp từ Nhật Bản. Chúng ta đã tiến hành rất nhiều hoạt động kiểm soát chất lượng tại nhà máy làm cho chi phí sản xuất chúng tăng lên, từ đó gây ra mức lợi nhuận thấp hơn trung bình. Trong năm 2001, doanh số bán ống chip sẽ có vai trò ngày càng lớn hơn vì thế chúng ta cần tìm ra phương thức báo cáo lợi nhuận từ ống chip tốt hơn.
Ba người hiểu rằng các quy định GAAP không cho họ thay đổi phương pháp tính lợi nhuận trong các báo cáo tài chính được kiểm toán. Nhưng họ muốn xem liệu có thể tìm ra phương thức tốt hơn để tính toán chi phí sản phẩm và lãi gộp phục vụ cho mục đích ra quyết định của ban lãnh đạo.
9
102-030 Anagene, Inc.
Kelly yêu cầu Yeltin tiến hành kiểm tra khái niệm công suất thực tiễn được giới thiệu trong tài liệu mà họ đã đọc. Yeltin – người luôn hứng thú với việc áp dụng các ý tưởng mới – đã hẹn gặp đội sản xuất với hy vọng anh có thể xác định được công suất thực tiễn cho mỗi công đoạn sản xuất của Anagene. Anh đã tóm tắt các phát hiện từ các cuộc họp đó trong Hình 8.
Phương pháp mới
Kelly vội vã rời cuộc họp với Puleski và Yeltin để tham gia cuộc họp với các khách hàng tiềm năng. Khi anh bắt đầu thảo luận về chiến lược của Anagene với các nhà nghiên cứu đang đến thăm công ty, anh nhận thấy rằng, như mọi khi, thật khó mà có thể kiềm chế lòng nhiệt tình của mình khi nhắc đến về công nghệ đột phá của Anagene. Khi một quản trị viên khác của Anagene bắt đầu bài trình bày về các ứng dụng lâm sàng, đầu óc Kelly trong khoảnh khắc lại quay trở lại với vấn đề kế toán. Anh rất tò mò muốn biết Yeltin sẽ khám phá ra điều gì khi áp dụng phương pháp mới nhằm giảm chi phí ống chip, anh mong rằng phân tích của Yeltin sẽ có thể giúp anh khi thảo luận với hội đồng quản trị vào cuộc họp tới.
Câu hỏi:
1. Những nguyên nhân nào làm cho lợi nhuận gộp của ống chip Anagene thay đổi?
2. Kelly có nên quan tâm đến việc phân bổ chi phí chung cho các ống chíp và quan tâm
đến lợi nhuận gộp đã có sự phân bổ chi phí chung? Tại sao không sử dụng lợi nhuận
góp để ra quyết định quản lí và lập báo cáo quản lí?
3. Bạn khuyến cáo Daniel Yelsin nên áp dụng phương pháp nào? Theo phương pháp bạn
đề xuất, chi phí vào lợi nhuận của ống chíp như thế nào?
4. Giả sử mức tiêu thụ năm 2001 là 26.000 ống chíp như đã dự kiến vào tháng Giêng, chi
phí sản xuất thực tế bằng chi phí sản xuất dự toán. Hãy lập BCKQKD giúp Hội đồng
quản trị công ty hiểu được hiệu quả kinh tế của việc sản xuất ống chíp năm 2001.
102-030 Anagene, Inc.
10
Hình 1 Báo cáo Lãi và Lỗ của Anagene (đơn vị tính: nghìn USD, ngoại trừ dữ liệu trên mỗi
cổ phần) 2000 1999 1998
Doanh thu Doanh số bán hàng $ 919 $0 $0
0
Nghiên cứu được tài trợ 8.457 5.688 5.461 Hợp đồng và Tài trợ 1.856 2.431 2.172 Tổng Doanh thu 11.232 8.119 7.633 Chi phí Vận hành
Chi phí Bán hàng 599 0 0 Nghiên cứu & Phát triển Sản phẩm 18.905 25.284 23.002 Chi phí quản lí doanh nghiệp 15.267 9.097 6.420 Mua Công nghệ 0 0 1.193 Tổng Chi phí Vận hành 34.771 34.381 30.615 Lỗ từ Vận hành -23.539 -26.262 -22.982
Thu nhập từ lãi, Thuần 5.257 2.059 2.650
Cổ phần từ thu nhập/lỗ từ
Liên doanh 0 -996 -610
Lỗ ròng -18.282 -25.199 -20.942
Lỗ ròng trên cổ phần – cơ bản và điều chỉnh (-0.92) (-1.39) (-1.60)
Số cổ phần dùng để
Tính tỷ lệ lỗ trên cổ phần 19.944 18.069 13.097
Nguồn: Anagene, Inc. báo cáo thường niên và báo cáo tài chính.
Anagene, Inc. 102-030
11
Hình 2 Anagene, Inc. Bảng cân đối kế toán quá khứ (đơn vị tính: nghìn USD)
2000 1999 1998
TÀI SẢN
Tài sản ngắn hạn
Tiền và các khoản tương đương tiền $ 55.330 $41.021 $62.245 Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn 39.759 0 0
Các khoản phải thu 2.376 1.641 2.201 Hàng tồn kho 2.289 0 0 Tài sản ngắn hạn khác 635 679 732
Tổng tài sản ngắn hạn 100.389 43.341 65.178
Tài sản & Thiết bị, Thuần 5.373 6.154 6.980
Mua bản quyền công nghệ 5.179 1.005 0 Tiền mặt hạn chế 164 219 270 Tài sản khác 63 66 276
Tổng tài sản $111.168 $50.785 $72.704
CÔNG NỢ VÀ VỐN CHỦ SỞ HỮU
Nợ ngắn hạn Phải trả người bán $ 1.223 $ 598 $ 1.066 Nợ dồn tích 4.595 3.726 1.433
Doanh thu còn nợ 360 3.373 3.065 Tỉ lệ thuê vốn hiện tại 2.011 2.136 1.913
Tổng nợ ngắn hạn $ 8.189 $ 9.833 $ 7.477
Thuê vốn, trừ tỉ lệ hiện tại 1.565 2.831 4.176
Vốn chủ sở hữu
Cổ phiếu thường 21 19 19
Thặng dư vốn cổ phần 193.459 113.574 111.489
Thu nhập tích luỹ khác 270 0 0
Tiền lương chưa thanh toán -325 -1.473 -1.512
Kỳ phiếu phải thu từ cán bộ -1.099 -1.369 -1.514
Thâm hụt lũy kế -90.912 -72.630 -47.431
Tổng vốn chủ sở hữu 101.414 38.121 61.051
Tổng công nợ và vốn chủ sở hữu $111.168 $50.785 $72.704
Nguồn: Anagene, Inc. báo cáo thường niên và báo cáo tài chính.
102-030 Anagene, Inc.
12
Hình 3 Ống chip và thông số
Kích thước con Chip 0.7 cm2
Kích thước Array 2mm2
Kích thước vùng Array 80 micromet
Khoảng các giữa các trung tâm vùng 200 micromet
Số vùng kiểm tra 99
Màng thẩm thấu Màng hydrogel mỏng có streptavidin
Hóa kết để điều chỉnh Arrays Liên kết điện tử streptavidin/biotin
Mật độ nạp tối đa Khoảng 109 mảnh trên vùng
Số mẫu tối thiểu 60 t
Điều kiện bảo quản 2-8°C
102-030 Anagene, Inc.
13
Kiểm tra FCOS và làm sạch bằng
Plasma
Chuẩn bị dung dịch màng thẩm
thấu
Gắn màng thẩm thấu vào FCOS
Kiểm tra độ dày
Gắn FCOS đã bọc vào phần phụ ống chip
Đóng hộp, nhãn, đóng gói, 4 ống
chip/hộp
Gắn cửa sổ và keo dính vào phần phụ
của ống chip
Kiểm tra rò rỉ
ống chip
Lắp và hàn các bộ phận phụ cho ống chip
Gia công phần phụ của ống chip (nhà
cung cấp)
Kiểm tra
Chip
Hình 4: Biểu đồ dòng: Quá trình sản xuất Anagene Cartridge
Lắp Chip vào Nền
(Nhà cung cấp)
102-030 Anagene, Inc.
14
Hình 5 Sản lượng ống chip trong quá khứ của Anagene
(sử dụng nội bộ và ngoài công ty)
Tháng Sản lượng 1999 Sản lượng 2000
Tháng 1 0 1.298
Tháng 2 0 784
Tháng 3 782 804
Tháng 4 606 852
Tháng 5 402 1.144
Tháng 6 802 858
Tháng 7 1.066 866
Tháng 8 960 764
Tháng 9 452 1.684
Tháng 10 856 1.502
Tháng 11 688 1.476
Tháng 12 608 3.520
Tổng sản lượng hàng năm 7.222 15.522
Nguồn: Anagene, Inc., năm 2001.
102-030 -15-
Hình 6 Thiết bị, Tài sản cố định và Khấu hao liên quan tới sản xuất
Hoạt động Tài sản Số lượng
Giá đơn vị
ước tính ($)
Tổng chi phí ($)
Niên hạn
Số năm khấu hao
Khấu hao
Ước tính ($)
Chú thích
QC: Kiểm tra chip Kính hiển vi SM 5 5,000 25,000 5 3 5.000
Kính hiển vi Normanski 1 50,000 50,000 5 3 0 Ghi nhận toàn bộ chi phí cho dự án Flow Hoods 4 5,500 22,000 5 2 4.400
Máy tính 3 2,500 7,500 3 2 1.250 Một nửa các máy tính đã khấu hao hoàn toanaf Phun mực 3 2,500 6,000 5 1 1.200
11.850
QC: Kiểm tra FCOS Trạm CV 1 20,000 20,000 5 3 4.000
Nắp máy 3 5,500 16,500 5 2 3.300 Máy tính 1 2,500 2,500 3 2 833 Thiết bị dẫn xuất 1 10,000 10,000 5 2 2.000
10.133
QC: Kiểm soát CL chung Tủ lạnh 1 5,000 5,000 5 2 1.000
Máy tính 3 2,250 6,750 3 2 2.250
3.250 Ống chip: Lắng đọng Máy làm sạch bằng plasma 1 68,000 68,000 5 3 9.520 Điều chỉnh cho 30$ R&D
Thẩm thấu và Kiểm tra ckness
Máy gắn tự động 1 25,000 25,000 5 3 5.000 Độ dày Máy gắn ATI 1 300,000 300,000 5 1 60.000 Trạm kiểm tra 1 20,000 20,000 5 1 4.000 Trạm kiểm tra 1 60,000 60,000 5 4 12.000 Kính hiển vi SM 1 5,000 5,000 5 4 1.000 Máy tính 6 2,500 15,000 3 2 2.500 Một nửa các máy tính đã khấu hao hoàn Máy đo độ nhớt 1 10,000 10,000 5 3 2.000 Lò Reflow 1 15,000 15,000 5 2 3.000
99.020
Ống chip: Phần chính Máy hàn Dukane 1 26,000 26,000 5 2 5.200
Máy kiểm tra Uson 1 12,000 12,000 5 1 2.400 Máy tính 1 2,500 2,500 3 2 417 Một nửa các máy tính đã khấu hao hoàn Nắp máy 2 5,500 11,000 5 2 2.200
10.217 Ống chip: Phần phụ Máy tính 1 2,500 2,500 3 2 417 Một nửa các máy tính đã khấu hao hoàn Thiết bị phân bổ băng dính 4 500 2,000 5 2 400 Trạm UV 1 5,000 5,000 5 3 1.000 Trạm UV 1 7,000 7,000 5 2 1.400 Nắp máy 2 5,500 11,000 5 2 2.200 5.417
Ống chip: Kiểm tra lần cuối Kính hiển vi SM 6 5,000 30,000 5 3 6.000
Nắp máy 2 5,500 11,000 5 2 2.200 Thiết bị dán nhãn nhiệt 1 5,000 5,000 5 1 1.000
9.200
Sản xuất thiết bị Máy tính 6 2,500 15,000 3 2 2.500 Một nửa các máy tính đã khấu hao hoàn
Nguồn: Anagene, 2001
102-030 -16-
Hình 7 Phân bổ Chi phí sản xuất chung (đơn vị tính là $, trừ khi quy định rõ)
Kiểm soát
chât lượng
Hoạt động
thẩm thấu
ống chip
Hoạt động lắp
ráp ống chip Chế tạo thiết bị Vận chuyển
Đảm bảo
Chất lượng Mua sắm Nhận
Hỗ trợ kỹ
thuật TỔNG
Chi phí sản xuất chung (không có khấu hao):
Nhân công gián tiếp và tất cả phụ cấp
163,309 93,593 55,957 25,469 72,593 332,514 150,587 42,752 308,580 1,287,354
Tất cả các chi phí gián tiếp khác 243,226 65,272 33,293 156,907 31,147 227,136 57,103 115,483 72,475 960,042 Phân bổ thiết bị 71,820 51,300 41,040 41,040 20,520 41,040 30,780 10,260 41,040 348,840
Tổng chi phí sản xuất chung (không có khấu hao)
478,355 210,165 130,290 223,416 124,260 600,690 238,470 168,495 422,095 2,596,236
% phân bổ:
Ống chip 45% 70% 90% 0% 0% 40% 30% 10% 80% Thiết bị 45% 0% 0% 90% 0% 40% 20% 10% 0% Hành chính/R&D 10% 30% 10% 10% 100% 20% 50% 80% 20%
Chi phí sản xuất chung (không có khấu hao)
Phân bổ cho: Ống chip 215,260 147,116 117,261 0 0 240,276 71,541 16,850 337,676 1,145,979 Thiết bị 215,260 0 0 201,074 0 240,276 47,694 16,850 0 721,154 Hành chính/R&D 47,836 63,050 13,029 22,342 124,260 120,138 119,235 134,796 84,419 729,104
Khấu hao 25,233 99,020 24,833 2,500 2,000 2,500 2,500 1,000 3,333 162,919 % phân bổ:
Ống chip 100% 100% 100% 0% 0% 40% 30% 10% 80% Thiết bị 0% 0% 0% 100% 0% 40% 20% 10% 0% Hành chính/R&D 0% 0% 0% 0% 100% 20% 50% 80% 20%
Tổng chi phí sản xuất chung phân bổ cho:
Ống chip 240,493 246,136 142,094 0 0 241,276 72,291 16,950 340,342 1,299,581 Thiết bị 215,260 0 0 203,574 0 241,276 48,194 16,950 0 725,254 Hành chính/R&D 47,836 63,050 13,029 22,342 126,260 120,638 120,485 135,596 85,086 734,320
Tổng chi phí sản xuất chung đã phân bổ
503,588 309,185 155,123 225,916 126,260 603,190 240,970 169,495 425,428 2,759,155
Nguồn: Anagene, Inc., 2001.
Hình 8 Ước tính công suất thực tế cho các công đoạn sản xuất chính
Công suất
Chú thích
Công suất Thực tế
Hoạt động Nguồn phát sinh chi phí
Thực tếa
Năng suất
Điều chỉnh
1 Kiểm tra chip Chip
175,000 90% 157,500
2 Cắt chip Chip NA NA NA Nguồn lực bên ngoài linh hoạt
3 Kiểm tra FCOS
FCOS 185,000 85 157,250
4 Lắng đọng thẩm thấu/kiểm tra độ dày
FCOS 54,000 95 51,300 Công suất thực tế của thiết bị gắn màng bán
tự động
(48,000) 95 (45,600) Công suất bổ sung nếu dùng thiết bị gắn màng tự động và thêm 2 nhân
viên 5 Lắp phần chính Ống chip
Thân 135,000 95 128,250 Cho 4 van vào ống chip và hàn lại
6 Gia công ống chip Thân
180,000 99 178,200
Nguồn lực bên ngoài linh hoạt
7 Phần phụ Thân 75,000 99 74,250 Lắp lần cuối phần thân
ống chip đã hàn sau khi gia công
(25,000)
99
(24,750)
Công suất bổ sung nếu thêm 1 nhân viên
8 Kiểm tra lần cuối
Ống chip 70,000 100 70,000
(24,000) 100 (24,000) Công suất bổ sung nếu thêm 1/2 nhân viên
9 Đóng gói Ống chip
65,000 100 65,000
(22,000) 100 (22,000)
Công suất bổ sung nếu thêm 1/2 nhân viên
Anagene, Inc. 102-030
Nguồn: Anagene, Inc., 2001.
aCông suất thực tế được ước tính bằng cách trừ dung sai cho bảo dưỡng, sửa chữa và lắp đặt thông thường khỏi công suất máy theo lý thuyết.
17