Upload
doannhan
View
217
Download
3
Embed Size (px)
Citation preview
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
----------
CÔNG TRÌNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
NĂM HỌC 2011-2012
TÊN ĐỀ TÀI: NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM
XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA
VIỆT NAM VINAMILK
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Ngọc Thắng
Sinh viên thực hiện : Đỗ Đình Nam
Nguyễn Như Ngọc
Nguyễn Thành Tư
-HÀ NỘI, 5/2012-
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
----------
CÔNG TRÌNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
NĂM HỌC 2011-2012
TÊN ĐỀ TÀI: NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM
XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA
VIỆT NAM VINAMILK
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Nguyễn Ngọc Thắng
GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN:
-HÀ NỘI, 5/2012-
“Trách nhiệm xã hội trong công việc kinh doanh không nên là một
sự ép buộc; đó là một quyết định tự nguyện mà các nhà lãnh đạo
của mỗi công ty đều phải làm cho chính doanh nghiệp của mình”
John Mackey, doanh nhân người Mỹ, đồng sáng lập và CEO
Tập đoàn Whole Foods Market
1
LỜI CẢM ƠN
Nhóm nghiên cứu chúng tôi muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc tới tất cả những người
đã tạo điều kiện cho chúng tôi hoàn thành bài nghiên cứu này. Trong mỗi bước thực
hiện bài nghiên cứu, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình, những góp ý và sự
khích lệ của các thầy cô giáo và bạn bè.
Đầu tiên, nhóm nghiên cứu muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc tới tiến sỹ Nguyễn
Ngọc Thắng, chủ nhiệm bộ môn Quản trị chiến lược, khoa Quản trị Kinh doanh vì đã
hết lòng giúp đỡ cũng như đưa ra những nhận xét và góp ý giá trị cho bài nghiên cứu.
Chính sự tận tụy này của thầy đã giúp chúng tôi có thể hoàn thành bài nghiên cứu này
một cách tốt nhất.
Bên cạnh đó, trong suốt quá trình làm việc, nhóm nghiên cứu cũng nhận được
những chia sẻ, góp ý từ những người bạn thân thiết. Nếu không có họ, chúng tôi đã
không thể hoàn thành bài nghiên cứu này theo đúng tiến độ.
Cuối cùng, chúng tôi muốn tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới trường Đại Học Kinh Tế,
ĐH Quốc Gia Hà Nội, và đặc biệt là khoa Quản trị Kinh doanh vì đã hết sức tạo điều
kiện cho nhóm thực hiện bài nghiên cứu này.
Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2012
Nhóm thực hiện đề tài
2
MỤC LỤC
Danh mục bảng biểu ...................................................................................................... 5
Mở đầu ............................................................................................................................ 6
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực hiện CSR ......................... 17
1.1. Một số khái niệm liên quan tới trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR). 17
1.1.1. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. ....................................................... 17
1.1.2. Những thành tố của CSR. ........................................................................... 18
1.2. Lợi ích của CSR với doanh nghiệp. .................................................................. 21
1.2.1. Lợi ích về tài chính. .................................................................................... 21
1.2.2. Lợi ích phi tài chính.................................................................................... 26
1.3. Tính cấp thiết của việc thực hiện CSR tại Việt Nam. ...................................... 30
1.3.1. Yếu tố môi trường kinh doanh. .................................................................. 30
1.3.2. Yếu tố bên trong doanh nghiệp. ................................................................. 32
1.4. Nguồn lực để thực hiện CSR của doanh nghiệp Việt Nam. ............................. 33
1.4.1. Nguồn lực bên trong. .................................................................................. 33
1.4.2. Nguồn lực bên ngoài. ................................................................................. 35
1.5. Kinh nghiệm thực hiện CSR của một số doanh nghiệp nước ngoài................. 36
3
Chƣơng 2: Thực trạng vấn đề thực hiện CSR của Vinamilk ................................... 41
2.1. Sơ lược về công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk. ...................................... 41
2.2. Thực trạng vấn đề thực hiện CSR tại công ty Vinamilk. ................................. 44
2.2.1. Sự cần thiết của việc thực hiện CSR tại Vinamilk. .................................... 44
2.2.2. Quan điểm thực hiện CSR của Vinamilk. .................................................. 45
2.2.3. Tình hình thực hiện CSR của Vinamilk. .................................................... 46
2.2.4. Ngân sách thực hiện CSR của Vinamilk. ................................................... 63
2.2.5. Đánh giá việc thực hiện CSR của Vinamilk. .............................................. 64
Chƣơng 3: Giải pháp thúc đẩy và nâng cao hiệu quả CSR đối với Vinamilk ........ 76
3.1. Nguyên tắc hình thành các nhóm giải pháp. ..................................................... 77
3.1.1. Khung khổ lý thuyết. .................................................................................. 77
3.1.2. Mục đích hình thành. .................................................................................. 77
3.2. Nhóm giải pháp mang tính kỹ thuật. ................................................................ 78
3.2. Nhóm giải pháp về con người. ......................................................................... 79
3.3. Nhóm giải pháp về tài chính. ............................................................................ 80
3.4. Tăng cường vai trò của lãnh đạo với CSR tại Vinamilk. ................................. 82
Kết luận ......................................................................................................................... 83
Danh mục tài liệu tham khảo ...................................................................................... 89
4
DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nguyên nghĩa
CBNV Cán Bộ Nhân Viên
CNH-HĐH Công Nghiệp Hóa – Hiện Đại Hóa
CDM Clean Development Mechanism
CoCs Code of Conducts
CSR Corporate Social Responsibility
ĐHQGHN Đại Học Quốc Gia Hà Nội
DN Doanh Nghiệp
FDI Foreign Direct Investment
IR Investors Relations
ISO International Organization of Standardization
KLD Kinder, Lydenberg, Domini Research & Analytics
KPI Key Performance Indicators
MBA Master of Business Administration
NPP Nhà Phân Phối
PRI Principles of Responsible Investment
ROA Return on Assets
ROE Return on Equity
TMC Toyota Motor Corporation
WTO World Trade Organization
5
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu đồ 1: Mô hình kim tự tháp CSR ............................................................................ 19
Biểu đồ 2: Động lượng CSR .......................................................................................... 22
Biểu đồ 3: Đường giá trị CSR ........................................................................................ 23
Biểu đồ 4: Cảm nhận về hình ảnh của công ty trong cộng đồng ................................... 28
Biểu đồ 5: Đánh giá mức độ quan trọng của CSR ......................................................... 29
Biểu đồ 6: Mối quan hệ giữa các yếu tố CSR cốt lõi của TMC ..................................... 37
Biểu đồ 7: Sơ đồ “Phương thức Toyota” ....................................................................... 37
Biểu đồ 8: Sơ đồ các cơ quan thực thi chính sách CSR của TMC ................................ 38
Biểu đồ 9: Sơ đồ so sánh lượng tiêu thụ năng lượng giữa năm 2007 và 2010 .............. 40
Biểu đồ 10: Sơ đồ tổ chức và cơ cấu quản lý công ty Vinamilk .................................... 42
Biểu đồ 11: Mô hình quan điểm CSR của Vinamilk với các bên liên quan .................. 46
Biểu đồ 12: Mối quan hệ giữa nguồn tài nguyên sử dụng và nước thải của Vinamilk.. 61
Biểu đồ 13: Ngân sách giành cho hoạt động CSR của Vinamilk .................................. 64
Biểu đồ 14: Sơ đồ tăng trưởng doanh thu của Vinamilk qua các năm ......................... 66
Biểu đồ 15: Sơ đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng ROA của Vinamilk qua các năm ........ 66
Biểu đồ 16: Sơ đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng ROE của Vinamilk qua các năm ......... 67
Biểu đồ 17: Mô hình các nhóm giải pháp thúc đẩy CSR cho doanh nghiệp ................. 76
Biểu đồ 18: Mô hình khung giải pháp thúc đẩy CSR tại Việt Nam ............................... 84
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trách nhiệm xã hội (CSR) là một yêu cầu đối với doanh nghiệp. Nếu doanh
nghiệp không thực hiện được CSR thì rất khó để tiếp cận được với thị trường thế
giới. Kinh nghiệm cho thấy, những công ty đa quốc gia hàng đầu thế giới, những
người khổng lồ rất thành công trong việc kinh doanh cũng đồng thời là những công
ty thực hiện trách nhiệm xã hội cực kỳ tốt. Bên cạnh đó, cũng có không ít bài học
cay đắng xuất phát từ việc thực hiện CSR không tốt như trường hợp của Coca Cola,
Nike hay Mac Donald’s những năm trước đây.
Trên thế giới, khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) không
hề mới; đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về CSR cũng như các công ty nước
ngoài từ lâu đã thực hiện CSR một cách nghiêm túc và bài bản. Tuy nhiên, ở Việt
Nam, CSR vẫn còn là một vấn đề khá mới mẻ đối với các doanh nghiệp, các nhà
đầu tư, với người tiêu dùng và toàn xã hội nói chung.
Đặc biệt, sau khi Việt nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO vào năm
2007, việc thực hiện CSR đối với các doanh nghiệp Việt Nam trở nên đặc biệt quan
trọng. Mặc dù vậy, việc thực hiện CSR ở Việt Nam còn tương đối khó khăn. Điều
này có nguyên nhân bởi chính bản thân doanh nghiệp cũng chưa có hiểu biết đúng
đắn về CSR. Phần lớn doanh nghiệp Việt Nam cho rằng CSR đơn thuần là làm từ
thiện trong khi thực hiện CSR cũng gồm các yếu tố ngay bên trong doanh nghiệp.
Một trở ngại nữa với doanh nghiệp Việt Nam là thiếu nguồn nhân lực, tài chính
cũng như kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực CSR. Điều này lại là đặc biệt khó
khăn đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khi nếu xét theo quy định của
Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ thì khoảng 95%
doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
7
Quan trọng và cấp thiết như vậy nhưng tại Việt Nam, CSR vẫn chưa nhận
được sự quan tâm đúng mức từ phía nhà nước, xã hội và giới doanh nghiệp; đồng
thời, hiện chưa có nhiều công trình nghiên cứu về CSR tại Việt Nam. Đó chính là lý
do nhóm nghiên cứu lựa chọn CSR làm đối tượng nghiên cứu cho đề tài này. Với
việc lấy công ty cổ phần sữa Việt Nam làm khách thể nghiên cứu chính, đề tài dĩ
nhiên chưa thể thể hiện hết bức tranh toàn cảnh về CSR tại Việt Nam nhưng nhóm
tác giả hy vọng có thể đóng góp một góc nhìn mới và cụ thể hơn về CSR tại Việt
Nam, đặc biệt là CSR trong một công ty lớn và có uy tín như Vinamilk.
2. Tình hình nghiên cứu về CSR trên thế giới.
Lịch sử phát triển của CSR
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) đã trở thành một chủ đề gây
nhiều tranh luận cho tất cả các học giả, các nhà nghiên cứu, các nhà kinh tế học, và
cả các chính trị gia trên toàn thế giới trong nhiều năm qua.
Trong cuốn sách Kinh Doanh có trách nhiêm: Làm thế nào để quản trị thành
công một chiến lược CSR, tác giả Manfred Pohl và Nick Tolhurst đã dẫn ra nghiên
cứu của Weyne Visser về cuộc cách mạng của CSR. Ông chỉ ra rằng khái niệm về
CSR đã được tranh luận và thực hành từ dạng này sang dạng khác khoảng 4,000
năm trước. Trong đạo Hinđu và đạo Phật đã có những lời răn dạy đạo đức xoay
quanh việc cho vay nặng lãi, và đạo Hồi thì ủng hộ cho chính sách “Zakat” (Zakat là
khoản tiền mà mỗi người khỏe mạnh đóng góp để giúp đỡ cho một số đối tượng nhất
định).
Quan điểm hiện đại về “Trách nhiệm xã hội” của doanh nghiệp – CSR có thể
nói được đánh dấu từ giữa những năm 1800s với tên tuổi của John H. Patterson1 khi
1 Thượng nghĩ sỹ bang Nam Carolina, Hoa Kỳ
8
ông làm dấy lên làn sóng về phúc lợi xã hội trong ngành công nghiệp và John D.
Rockefeller2 lập nên một quỹ từ thiện, là hình mẫu của quỹ từ thiện Bill Gates hơn
một trăm năm sau (Carroll, 2008). Mặc dù vậy, thuật ngữ “CSR” chỉ được dùng phổ
biến từ những năm 1950, với sự đánh dấu cuốn sách “Trách nhiệm xã hội của người
làm kinh doanh” (Bowen 1953). Học thuyết càng được củng cố mạnh mẽ bởi làn
sóng về vấn đề môi trường những năm 1962 và làn sóng quyền lợi người tiêu dùng
những năm 1965.
Thập niên 70 của thế kỷ XX đã chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ của các định
nghĩa và học thuyết xoay quanh thuật ngữ “CSR”. Archie Carroll đã lồng ghép vào
đó bốn khái niệm là Kinh tế, Đạo đức, Luật pháp và Từ thiện. Sau đó ông phát triển
thành mô hình Kim tự tháp về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR Pyramid)
(Carroll, 1979), cũng như đưa ra những điều luật về CSR đầu tiên trên thế giới
(Sullivan Code). Năm 1980, điều luật về đảm bảo sức khỏe và an toàn lao động
được giới thiệu tới công chúng (Responsible Care).
Vào những năm 1990, CSR đã được tổ chức hóa thành các tiêu chuẩn như ISO
14001 và SA 8000, những bản hướng dẫn như Hướng dẫn chủ động báo cáo toàn
cầu (Global Reporting Initiative – GRI), hay những điều lệ quản trị công ty như
Cadbury và King.
Sang thế kỷ XXI, một loạt các hướng dẫn, quy định, điều lệ, tiêu chuẩn về
CSR được ban hành, hơn 100 trong số đó có thể tìm thấy trong cuốn: “Từ A đến Z
những điều cần biết về CSR” (The A to Z of corporate social responsibilities).
Thậm chí hiện nay trên thế giới đã bắt đầu xuất hiện khái niệm CSR mới - CSR
2.0 (Corporate Sustainability Responsibility) trên cơ sở kế thừa và phát triển khái
niệm CSR 1.0.
2 John D. Rockefeller: sáng lập tập đoàn dầu lửa Standard Oil, sáng lập trường ĐH Chicago và Rockefeller, sáng
lập quỹ từ thiện Rockefeller
9
Như vậy có thể xem CSR như một làn sóng mạnh mẽ đang trỗi dậy trên thế
giới trong suốt nhiều thập kỷ qua. Nó đã trở thành một trong những đề tài nghiên
cứu gây nhiều chú ý và tranh luận nhất cho các học giả. Chúng ta hãy thử nhìn nhận
những hướng nghiên cứu chính về CSR của các học giả nước ngoài và trong nước
sau đây..
Những hướng nghiên cứu chính .
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
được công bố trên thế giới. Các đề tài liên quan trực tiếp đến các học giả nước ngoài
có thể được chia thành 4 nhóm như sau:
Nhóm 1: Nhóm chủ yếu nghiên cứu, đưa ra những lý luận cơ bản về trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp. Tuy nhiên những lý luận này là khác nhau, tùy thuộc vào
từng góc độ đánh giá của các học giả. Nhưng nhìn chung, các bài lý luận thuộc
nhóm này có sự kế thừa và phát triển từ những bài nghiên cứu trước đó. Nhóm này
là một trong hai nhóm có số lượng bài nghiên cứu nhiều nhất. Một số bài tiêu biểu
của nhóm này gồm có:
- “The social responsibility of business is to increase its profit”, Fredman Milton
(1970), đăng trên tạp chí the New York Times, ngày 13 tháng 9, năm 1970. Bài báo
cho rằng doanh nghiệp chỉ có một trách nhiệm xã hội là làm sao để tối đa hóa lợi
nhuận, tăng giá trị cổ đông trong khuôn khổ luật chơi của thị trường là cạnh tranh
trung thực và công bằng. Ông cho rằng trách nhiệm xã hội là của nhà nước, nên
người chủ doanh nghiệp, đại diện cho các cổ đông, chỉ thực hiện các trách nhiệm xã
hội mà anh ta mong muốn, đã có sự thông qua của cổ đông.
- “Corporate Social Responsibility – Evolution of a definitional construct”, của tác
giả Carroll Archie (1999), đăng trên Business Society. Ông cho rằng CSR có một
phạm vi lớn hơn, “là tất cả các vấn đề kinh tế, pháp lý, đạo đức và những lĩnh vực
khác mà xã hội trông đợi ở doanh nghiệp trong mỗi thời điểm nhất định”.
10
- “Corporate Social Responsibility: Three Key Approaches”, Duane Windsor
(2006) đăng trên Journal of Management Studies. Ông đã kế thừa và phát triển
những lý luận của các học giả trước đó để đúc kết ra ba phương pháp chính tiếp cận
với trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Ông định nghĩa khái niệm “công dân
doanh nghiệp” là sự giao thoa của 2 lợi ích: sự giàu có của cá nhân và lợi ích cộng
đồng. Từ đó ông cho rằng một “công dân doanh nghiệp” cần có một quyền lực linh
hoạt, danh tiếng của công ty, ảnh hưởng của chính trị và làm từ thiện một cách
chiến lược.
Nói tóm lại tuy các bài nghiên cứu thuộc nhóm này có sự khác nhau qua từng
thời kỳ, nhưng hầu hết là sự kế thừa và phát triển ra các lý luận mới mẻ. Tất cả đều
cho thấy rõ mức độ gắn kết của CSR với doanh nghiệp.
Nhóm 2: Nhóm chủ yếu nghiên cứu về tác động của CSR đối với doanh nghiệp và
các bên liên quan.
Những bài nghiên cứu thuộc nhóm này tập trung làm sự rõ tác động của một
yếu tố hoặc một vài yếu tố trong 6 yếu tố chính của CSR đến doanh nghiệp và các
bên liên quan. 6 yếu tố đó là thực hành kinh doanh trung thực, môi trường, lao động,
người tiêu dùng, hòa hợp và phát triển cộng đồng, điều hành doanh nghiệp và quyền
con người.
Trong nhóm này nổi bật lên một số bài nghiên cứu sau:
- “Innovative CSR: From Risk Management to Value Creation” của các tác giả
Celine Louche, Samuel O. Idogu, Walter Leal Filho . Cuốn sách là tập hợp những
bài nghiên cứu hay có những điểm tương đồng. Nội dung chủ yếu nêu ra những
quan điểm của các tác giả về mối quan hệ giữa CSR và sự đổi mới giá trị và sáng tạo
trong doanh nghiệp.
Sau đó tác giả áp dụng lý luận vào phân tích các trường hợp cụ thể như ngành
y dược, giáo dục hay thậm chí là một doanh nghiệp cụ thể ở Ireland. Qua đó, thấy rõ
được vai trò của CSR đối với hoạt động đổi mới và sáng tạo của doanh nghiệp.
11
- Corporate Social Responsibility: CSR Communication as an Instrument to
Consumer-Relationship Marketing, của tác giả Elena Bueble (2009). Cuốn sách nêu
lên mối quan hệ giữa CSR và sự thể hiện của công ty, và đặc biệt là coi giao tiếp
CSR như một kênh quản trị quan hệ khách hàng. Tác giả còn có những đóng góp
quan trọng trong việc định hình phương pháp tính toán mức độ giao tiếp CSR với
khách hàng. Thông qua đó, tác giả cũng đưa ra những chiến lược để các doanh
nghiệp có thể áp dụng việc thực hiện CSR vào quản trị quan hệ khách hàng.
- “Corporate Social Responsibility: The key role of human resource management”,
của các tác giả Surpan Sarma, Joity Sarma, và Arti Devi (2009). Nhóm các tác giả
đã chỉ ra mối quan hệ hai chiều giữa CSR và hoạt động quản trị nhân sự trong công
ty. CSR có thể làm nền tảng cho việc quản trị nhân sự được hiệu quả, và quản trị
nhân sự được gợi ý mang ý nghĩa quan trọng nhất trong việc thúc đẩy các hoạt động
CSR ở mọi cấp độ trong công ty.
Nhìn chung nhóm này là nhóm có số lượng bài nghiên cứu đông đảo nhất và
cũng đa dạng nhất. Mỗi bài nghiên cứu lại bao gồm một chủ đề nhỏ trong bức tranh
toàn cảnh CSR. Vì vậy muốn hiểu được hầu hết các quan điểm, cần phải có một hệ
thống kết nối cũng như phân loại cụ thể, rõ ràng
Nhóm 3: Nhóm chủ yếu đi tìm các phương pháp để đánh giá vai trò, ý nghĩa, mức
độ hiệu quả của các chương trình CSR đối với doanh nghiệp.
Một số đại diện của nhóm này gồm có:
- “The business case for corporate social responsibility: A company-level
measurement approach for CSR”, Manuela Weber (2008). Ông cho rằng, mặc dù có
nhiều lý thuyết và nghiên cứu thực tiễn đã chỉ ra mối quan hệ đồng biến giữa CSR
và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, những cách tiếp cận để tính toán sự ảnh
hưởng của CSR vẫn còn thiếu trong các tài liệu hiện thời. Bài nghiên cứu tập trung
vào câu hỏi làm thế nào để tính toán được ảnh hưởng của các hoạt động CSR đến
12
doanh nghiệp. Sử dụng mô hình các bước đánh giá có thể giúp các nhà quản trị
trong công việc này.
- "An empirical Examination of the Relationship between Corporate Social
Responsibility Disclosure and Financial Performance in an Emerging Market",
Mustaruddin Saleh, Norhayah Zulkifli, Rusnah Muhamad. (2008). Nhóm tác giả đã
dùng phương pháp khảo sát và lượng hóa các số liệu thu thập tại các doanh nghiệp
nhỏ và vừa ở Malaysia. Kết quả đã chỉ ra mối quan hệ đồng biến giữa CSR và các
lợi ích tài chính.
Nhóm 4: Nhóm những gợi ý, chính sách liên quan đến việc phát triển hoạt động
CSR cho từng khu vực, từng quốc gia, hay từng ngành cụ thể.
Các công trình nghiên cứu tiêu biểu thuộc nhóm này đó là:
- “Priorities for Corporate Social Responsibility: a Survey of Businesses and their
stakeholders”, của nhóm tác giả Richard Welford, Clifford Chan, và Michelle Man.
Bài báo đã phát phiếu điều tra tới 491 tổ chức ở Hồng Kong với bảng hỏi và các
thang điểm đánh giá để so sánh. Sau khi xử lý số liệu, các tác giả này đã tìm ra các
nhóm nhân tố của CSR mà các doanh nghiệp Hồng Kong cho là quan trọng và đặt
ưu tiên lên hàng đầu. Tuy nhiên sự đánh giá này là khác nhau dưới các góc nhìn của
chính phủ, nhà đầu tư, cổ đông, ban giám đốc và nhân viên trong công ty.
- “Corporate Social Responsibility: Strategic Implications”, McWilliams, Abagail;
Siegel Donald S; Wright Patrick, M (2005), đăng trên tạp chí Journal Management
Studies. Nhóm các tác giả đã phát triển một khuôn mẫu cho việc nhận định các hàm
ý chiến lược về CSR trong doanh nghiệp. Sau đó các tác giả nghiệm thu những kết
quả nghiên cứu trước đó, phân loại và đưa vào áp dụng cho phù hợp với những
khuôn mẫu sẵn có. Nhờ vậy mà, nhóm các tác giả đã đưa ra được một bộ các chiến
lược về việc thực hiện CSR dựa trên kế thừa quan điểm của khá nhiều học giả khác.
13
Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam.
Tại Việt Nam, nhắc đến CSR là nhắc đến một khái niệm còn rất mới mẻ và mơ
hồ đối với một số không ít các doanh nghiệp. CSR được giới thiệu tới Việt Nam bởi
các công ty đa quốc gia có nhà máy tại Việt Nam, thông qua các quy tắc ứng xử.
Các công ty may mặc và da giầy, điển hình là May 10 là những công ty đầu tiên ở
Việt Nam thực hiện chính sách về CSR. Chính vì lẽ đó mà số lượng các bài nghiên
cứu về CSR ở Việt Nam là chưa nhiều. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu có
thể kể đến:
- Báo cáo về CSR ở Việt Nam”, Nigel Twose và Tara Rao (2003) tổng kết tình
hình thực hiện CSR trong ngành dệt may và da giầy của Việt Nam, đã chỉ ra
những động lực thúc đẩy thực hiện CSR trong 2 ngành và này nhấn mạnh vai trò
của chính phủ trong việc thúc đẩy thực hiện CSR trong cộng đồng doanh nghiệp.
Theo các tác giả, chính phủ Việt Nam nên quan niệm rằng thực hiện CSR chính
là cơ chế quan trọng để đạt được lợi thế cạnh tranh quốc gia trên thị trường thế
giới.
- “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp – CSR: một vấn đề lý luận và yêu cầu đổi
mới trong quản lý nhà nước đối với CSR ở Việt Nam” của nhóm tác giả Nguyễn
Đình Cung và Lưu Minh Đức, đăng trên viện khoa học xã hội Việt Nam. Bài viết
đã tóm tắt một số vấn đề lý luận về CSR, các vấn đề tranh cãi xoay quanh chủ đề
này, cũng như đã nêu ra được thực trạng hoạt động CSR ở Việt Nam. Nhóm tác
giả đồng thời cũng nêu ra khuyến nghị sự cần thiết của việc đổi mới chính sách
quản lý của nhà nước, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam trong việc thực
hiện CSR.
- Phạm Văn Đức (2010) đã chỉ ra rằng việc các doanh nghiệp thực hiện tốt trách
nhiệm xã hội không chỉ giúp bản thân doanh nghiệp phát triển bền vững, mà còn
14
góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội. Tác giả cũng đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại Việt Nam.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên đây chưa làm rõ được việc thực hiện CSR tại
công ty cụ thể tại Việt Nam. Chính điều này đã cho chúng tôi thấy được khoảng
trống trong nghiên cứu tình huống việc thực hiện CSR trong một doanh nghiệp cụ
thể.
3. Mục tiêu nghiên cứu.
Mục tiêu của nghiên cứu là tìm ra những vấn đề cơ bản trong thực trạng và giải
pháp cho vấn đề thực hiện CSR tại công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk. Qua
đó, đưa ra một một số khuyến nghị về giải pháp cho vấn đề thúc đẩy việc thực hiện
và nâng cao chất lượng CSR tại doanh nghiệp Việt Nam.
Để đạt được mục tiêu đó, đề tài phải giải quyết hai câu hỏi nghiên cứu trọng
tâm sau:
- Thực trạng của việc thực hiện CSR tại Vinamilk có những đặc điểm cụ thể, chi
tiết như thế nào?
- Giải pháp nào cho việc thúc đẩy và nâng cao hiệu quả thực hiện CSR của
Vinamilk?
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng: Vấn đề thực hiện CSR tại công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk.
- Phạm vi:
Không gian: Công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk.
Thời gian: từ năm 2000 trở lại đây.
15
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Trên cơ sở các tài liệu thứ cấp, đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp – phân
tích, phương pháp toán để phân tích, nhận định để đưa có được những đánh giá về
vấn đề và đưa ra các gói giải pháp.
Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu để có
được nguồn tài liệu sơ cấp phục vụ cho bài nghiên cứu và tăng tính khách quan cho
công trình.
6. Đóng góp mới của đề tài.
- Làm rõ toàn diện tính cấp thiết, nguồn lực cũng như lợi ích của việc thực hiện
CSR đối với doanh nghiệp Việt Nam.
- Cung cấp những luận chứng khoa học về thực trạng và một khung giải pháp toàn
diện cho việc thực hiện CSR tại Vinamilk.
- Khuyến nghị một khung giải pháp toàn diện từ phía “Nhà nước – Xã hội –
Doanh nghiệp”, phục vụ cho việc thúc đẩy sự phát triển của CSR tại các doanh
nghiệp Việt Nam.
7. Kết cấu của đề tài.
Nội dung của đề tài được chia làm 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực hiện trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp.
Chương 1 đưa ra những lý luận cơ bản liên quan tới CSR, những yếu tố cơ bản cấu
thành CSR và lợi ích của CSR đối với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chương 1 cung
cấp thông tin về tính cấp thiết và nguồn lực để thực hiện CSR tại doanh nghiệp Việt
16
Nam. Đồng thời, chương này cũng phân tích kinh nghiệm thực hiện CSR của một số
doanh nghiệp nước ngoài như tập đoàn Toyota và công ty KPMG Trung Quốc.
Chƣơng 2: Thực trạng vấn đề thực hiện CSR của công ty cổ phần sữa Việt
Nam Vinamilk.
Chương 2 đưa ra cái nhìn cụ thể, rõ ràng về thực trạng của vấn đề thực hiện CSR
của công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk. Những vấn đề được phân tích trong
chương này là hệ thống quan điểm, chính sách, chương trình và ngân sách dành cho
CSR. Thêm vào đó các đánh giá về việc thực hiện CSR (thành quả, hạn chế, thuận
lợi, khó khăn) sẽ làm rõ hơn bức tranh về CSR tại Vinamilk.
Chƣơng 3: Giải pháp thúc đẩy và nâng cao hiệu quả CSR đối với công ty cổ
phần sữa Việt Nam Vinamilk.
Chương 3 dựa trên phân tích ở chương 2 để đưa ra các nhóm giải pháp cho việc mở
rộng quy mô, nâng cao chất lượng thực hiện CSR trong trường hợp Vinamilk. Các
nhóm giải pháp bao gồm: nhóm giải pháp mang tính kỹ thuật (1), nhóm giải pháp về
con người (2), nhóm giải pháp về tài chính (3) và nâng cao vai trò của lãnh đạo (4).
17
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC HIỆN
TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được biết đến như một trong những yếu
tố làm nên rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp như tăng doanh số, lợi nhuận, giảm tỉ lệ
thôi việc hay mở rộng cơ hội phát triển thị trường. Trên thực tế kinh doanh, trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp là một khái niệm không mới và ở trên bình diện thế
giới thì từ những năm của thập niên 1980, CSR đã trở thành một chiến lược quan
trọng trong quá trình phát triển của mỗi công ty. Từ đó tới nay, CSR đã dần chứng tỏ
được vai trò lớn lao của mình đối với sự phát triển chung của doanh nghiệp cũng như
sự hài hòa với lợi ích của xã hội. Chính vì thế, khái niệm CSR đang ngày một được sự
quan tâm, cũng như được đầu tư nhiều hơn từ phía các doanh nghiệp.
1.1. Một số khái niệm liên quan tới trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
(CSR).
1.1.1. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Thời gian gần đây, có một số vụ việc gây xôn xao dư luận như công ty Vedan
Việt Nam bức tử sông Thị Vải, nước tương nhiễm 3-MCPD hay sữa nhiễm độc chất
melamine. Kể từ đó, dư luận ngày một quan tâm và bàn bạc nhiều hơn về cụm từ
trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc kinh doanh đối với môi trường cũng như
người tiêu dùng. Để nói tới vấn đề liên quan tới trách nhiệm trong kinh doanh của
doanh nghiệp, cộng đồng thế giới cùng thống nhất một cụm từ chung, đó là
“Corporate Social Responsibility – trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”.
18
Trên thực tế, có rất nhiều khái nhiệm về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
(CSR). Điều này phụ thuộc vào cách nhìn nhận của mỗi công ty, chính phủ dựa trên
điều kiện, đặc điểm và trình độ phát triển của mỗi đối tượng. Keith Davies (1973)
đưa ra một khái niệm khá rộng: ”CSR là sự quan tâm và phản ứng của doanh nghiệp
với các vấn đề vượt ra ngoài việc thỏa mãn những yêu cầu, pháp lý, công nghệ”.
Còn A. Carroll (1999) cho rằng CSR còn có phạm vi lớn hơn “là tất cả những vấn đề
pháp lý, kinh tế, đạo đức và những lĩnh vực khác mà xã hội trông đợi ở doanh
nghiệp trong những thời điểm nhất định”. Trong khi đó, theo Matten và Moon
(2004): “CSR là một khái niệm bao trùm các khái niệm khác như đạo đức kinh
doanh, doanh nghiệp làm từ thiện, công dân doanh nghiệp, tính bền vững và trách
nhiệm môi trường. Đó là một khái niệm động và luôn được thử thách trong từng
hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù”.
Như vậy, chúng ta phần nào thấy được bản chất của CSR và trong bài nghiên
cứu, nhóm tác giả quyết định lấy quan điểm chính thức của Hội đồng doanh nghiệp
vì sự phát triển bền vững – World Business Council for Sustainable Development
(WBCSD) làm để làm bật lên bản chất của CSR, đó là: “CSR là cam kết liên tục
của doanh nghiệp đối với đạo đức kinh doanh và đóng góp vào tăng trưởng kinh
tế, trong khi đó cải thiện chất lượng cuộc sống của người lao động và gia đình họ
cũng như của cộng đồng và xã hội”. Lý do nhóm nghiên cứu chọn quan điểm này
để minh họa cho khái niệm CSR vì WBCSD là một tổ chức nghiêm túc trong thúc
đẩy CSR trong các doanh nghiệp thành viên và quan điểm này cũng được giới khoa
học đánh giá cao.
1.1.2. Những thành tố của CSR.
Mặc dù CSR đã trở nên phổ biến, hiện vẫn có nhiều quan điểm khác nhau về
khái niệm, nội dung, và phạm vi của CSR. Trong số những lý thuyết liên quan tới
vấn đề này, mô hình “kim tự tháp” của A. Carroll có tính toàn diện và được sử dụng
rộng rãi nhất.
19
Biểu đồ 1: Mô hình kim tự tháp CSR
(Nguồn: Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức (2008, p8))
Dựa theo mô hình này, CSR bao gồm trách nhiệm kinh tế, pháp lý, đạo đức
và từ thiện. Cụ thể như sau:
- Trách nhiệm kinh tế: tối đa hóa lợi nhuận, nâng cao tính cạnh tranh, hiệu quả
kinh doanh và tăng trưởng là những điều kiện tiên quyết. Điều này là đương nhiên
bởi doanh nghiệp được thành lập trước hết vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận của doanh
nhân. Bên cạnh đó, doanh nghiệp là một thành tố cấu tạo nên xã hội, do vậy chức
năng kinh doanh cần được ưu tiên và đặt lên hàng đầu. Cũng có thể nói rằng trách
nhiệm kinh tế là yếu tố nền tảng và các trách nhiệm còn lại đều phải dựa trên trách
nhiệm kinh tế của doanh nghiệp.
- Trách nhiệm pháp lý: hay còn được gọi là trách nhiệm tuân thủ pháp luật chính
là một phần của bản cam kết giữa doanh nghiệp và xã hội. Nhà nước có trách nhiệm
mã hóa những quy tắc, chuẩn mực đạo đức, xã hội vào các văn bản pháp luật. Doanh
nghiệp, dựa trên cơ sở đó, sẽ theo đuổi các mục tiêu về kinh tế của mình dựa trên
những chuẩn mực, quy tắc trong các bộ luật được ban hành. Cùng với trách nhiệm
kinh tế, trách nhiệm pháp lý là hai bộ phận nền tảng, cơ bản nhất và không thể thiếu
đối với CSR.
20
- Trách nhiệm đạo đức: đây là những chuẩn mực, quy tắc được xã hội thừa nhận
nhưng chưa có mặt trong các văn bản luật. Trên thực tế, những chuẩn mực xã hội
luôn biến đổi và vì thế những chính sách pháp luật chỉ có thể theo sau trong quá
trình biến đổi này. Do đó, pháp luật không thể phản ánh hết những đòi hỏi về những
quy tắc ứng xử của xã hôi. Vì vậy, trách nhiệm thực hiện đúng luật pháp là đòi hỏi
tối thiểu với doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp còn cần phải thực hiện những
nghĩa vụ, quy tắc ngoài luật hay chính là trách nhiệm đạo đức. Việc thực hiện trách
nhiệm đạo đức là tự nguyện đối với mọi doanh nghiệp nhưng lại có vai trò trung tâm
đối với CSR (ví dụ như việc thực hiện ngày nghỉ cuối tuần, tiền cho nhân công làm
thêm ca, uy tín đối với đối tác, quan hệ tốt với khách hàng…).
- Trách nhiệm từ thiện: là những hoạt động của doanh nghiệp đã vượt qua sự kỳ
vọng của xã hội. Một số ví dụ như trao quà cho trẻ mồ côi, tài trợ học bổng cho học
sinh sinh viên,… Trách nhiệm từ thiện khác trách nhiệm đạo đức ở chỗ, doanh
nghiệp thực hiện trách nhiệm này “hoàn toàn tự nguyện”. Nếu doanh nghiệp không
thực hiện CSR tới mức độ này thì họ vẫn được coi là đã hoàn thiện đầy đủ trách
nhiệm với xã hội.
Bên cạnh những phân tích về nội dung của mô hình trên, nó cũng được đông
đảo học giả đưa ra rất nhiều đánh giá tích cực:
- Có tính toàn diện và khả thi cao. Mô hình này có thể được áp dụng trong việc
xây dựng khuôn khổ chính sách về CSR của nhà nước.
- Việc đặt trách nhiệm kinh tế làm nền tảng đã làm thỏa mãn nhu cầu về lý thuyết
đại diện trong quản trị doanh nghiệp. Đồng thời, việc làm này còn giúp xóa đi những
hoài nghi về tính trung thực trong những chương trình CSR của doanh nghiệp. Cũng
vì vậy, nó xóa đi ranh giới của việc thực hiện CSR là “vì mình” hay “vì người”,
khiến hai mục đích này là không thể tách rời.
21
- Ranh giới giữa các tầng của kim tự tháp luôn chồng lấn lên nhau, không thể tách
rời và tác động lần nhau.
- Làm rõ mối quan hệ giữa công việc từ thiện và trách nhiệm xã hội. Một cách
hình tượng, có thể nói rằng từ thiện chỉ là bề nổi của tảng bang chìm CSR mà thôi.
- Việc cân bằng lợi ích giữa các bên tham gia trong việc thực hiện các chuẩn mực
CSR được đề cập tới như một nội dụng then chốt của quản trị doanh nghiệp.
1.2. Lợi ích của CSR với doanh nghiệp.
Theo thống kê của Trung tâm nghiên cứu về quản lý Ashridge, cứ 10 nhà quản
lý điều hành cấp cao thì có đến 9 người tin rằng CSR là rất quan trọng với các hoạt
động kinh doanh của công ty. Hơn 3/4 các nhà quản lý cho rằng công ty cần hoạt
động theo những phương thức có trách nhiệm với xã hội và cộng đồng 3 .
Nhóm tác giả chia lợi ích của CSR với doanh nghiệp theo hai tiêu chí chính. Đó
là lợi ích tài chính và lợi ích phi tài chính. Sau đây là những phân tích kỹ hơn về lợi
ích của CSR đối với doanh nghiệp.
1.2.1. Lợi ích về tài chính.
Giảm chi phí sản xuất
Với việc áp dụng CSR, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng các công ty có thể tiết
kiệm đáng kể chi phí. Thông thường những công nghệ hiện đại hơn, sạch hơn luôn
đi kèm với đó là giá thành đầu vào cũng rất thấp. Công ty sản xuất gốm sứ Giang
tây, Trung quốc, khi lắp đặt công nghệ mới thân thiện với môi trường đã tiết kiệm
gần 10 triệu USD mỗi năm, với kết quả giảm 6% lượng nước sử dụng, 65% lượng
chất thải nước và 74% chất thải khí 4.
3 http://www.bwportal.com.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=31%3A&Itemid=25
4 http://www.bwportal.com.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=31%3A&Itemid=25
22
Một ví dụ khác đến từ tập đoàn PepsiCo với dự án hỗ trợ và thu mua ngô ở San
Gabriel, Mexico. Khoảng hơn 300 hộ nông dân nghèo ở đây không còn phải bán ngô
thông qua trung gian nữa mà bán trực tiếp sản phẩm cho tập đoàn Pepsi. Pepsi đảm
bảo thu mua với cùng một giá mà họ chi trả cho nông dân ở vụ mùa trước. Ngoài ra
họ còn hỗ trợ nông dân về tài chính để mua hạt giống, phân bón, thuốc trừ sâu và
các thiết bị phục vụ mùa màng. Dự án ngô này đã giúp Pepsi tiết kiệm được chi phí
vận chuyển vì các trang trại gần 2 nhà máy của họ. Hơn nữa việc sử dụng các trang
trại địa phương là sự đảm bảo tốt nhất cho chất lượng sản phẩm của Pepsi. “Điều
này đã mang đến cho chúng tôi tác động đòn bẩy tuyệt vời bởi vì giá ngô không biến
động nhiều nhưng giá vận chuyển thì tăng lên liên tục”, Ông Pedro Padierna, Chủ
tịch của PepsiCo ở Mexico, Trung Mỹ và vùng Caribbean cho biết. Rõ ràng khi
thực hiện các chiến lược CSR, PepsiCo không chỉ giúp nâng cao chất lượng cuộc
sống của người nông dân ở San Gabriel mà đã giúp chính mình cắt giảm chi phí sản
xuất.
Biểu đồ 2: Động lƣợng CSR
(Nguồn: IBM Institute for Business Valuve)
23
Biểu đồ trên được lấy từ khảo sát của viện IBM về giá trị doanh nghiệp. Chúng
ta có thể thấy số liệu ở cột thứ 4 từ trái sang chỉ ra rằng các công ty tập trung vào
hoạt động CSR mang lại hiệu quả cắt giảm chi phí (Cost savings), với 38% số công
ty được khảo sát đang hoạt động rất tốt trong lĩnh vực này, và 47% đang bắt đầu
thực hiện các chiến lược CSR nhằm cắt giảm chi phí. Điều này góp phần chứng
minh hiệu quả trong việc cắt giảm chi phí khi thực hiện các hoạt động CSR là hoàn
toàn đúng đắn.
Tăng doanh số bán hàng:
Biểu đồ 3: Đƣờng giá trị CSR
(Nguồn: IBM Institute for Business Value)
24
Nhìn vào biểu đồ trên, ta có thể thấy ở phía bên phải của đường giá trị CSR là
khả năng có được những thị trường mới, những đối tác mới, sự đổi mới sản phẩm và
dịch vụ. Nhờ vậy mà doanh số bán hàng tăng lên, dẫn đến lợi nhuận tăng.
Một loạt các công ty đang áp dụng các chiến lược tương tự nhằm nâng cao lợi
ích xã hội cho người nghèo, mà vẫn mang lại hiệu quả kinh tế cao. Một trong những
ví dụ đi đầu là sự phát triển một sản phẩm sữa chua vi-ta-min tăng cường của
Danone, bán với giá là 11 cents ở Bangladesh. Tuy sản phẩm không này không đem
về lợi nhuận ngay lập tức nhưng nó đã giúp công ty có một sự hiểu biết vô giá về 2.5
triệu khách hàng tiềm năng với mức sống dưới $2.5 một ngày 5.
Tập đoàn Philips cũng là một ví dụ tuyệt vời trong trường hợp này. Philips bắt
đầu bán các thiết bị thắp sáng bằng năng lượng mặt trời với chi phí thấp ở châu Phi,
nơi mà người dân không có cơ hội được tiếp cận với hệ thống mạng lưới điện. Ông
Harry Verhaar, giám đốc bộ phận phát triển bền vững nói: “Đây là thị trường của
chúng tôi. Chúng tôi muốn chỉ cho khách hàng thấy rằng sản phẩm của chúng tôi
không những mang lại lợi ích kinh tế cho công ty mà còn tốt cho khách hàng và hệ
sinh thái”.
Tăng tỉ lệ các hợp đồng quốc tế
Trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, các công ty Việt Nam
muốn tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, thì CSR thực sự chính là một giải pháp.
Các tập đoàn đa quốc gia thường yêu cầu rất khắt khe về trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp, vì họ đứng trước sức ép rất lớn từ phía khách hàng ở các nước phát
triển, hoặc do chính điều luật của công ty họ quy định như vậy. Vì vậy các doanh
nghiệp Việt Nam cần phải thực sự lao vào cuộc cách mạng CSR thì mới có thể tham
gia cuộc chơi toàn cầu này. Hơn nữa, năm 2014, Việt Nam sẽ xóa bỏ toàn bộ rào cản
5 http://www.nytimes.com/2011/02/22/business/global/22pepsi.html?pagewanted=all
25
thuế quan thương mại theo hiệp định của WTO. Liệu doanh nghiệp của chúng ta có
thể cạnh tranh được hay không? Hay có thể dành được những hợp đồng quốc tế
được hay không? CSR chính là một phần của câu trả lời! Việc thực hiện tốt CSR sẽ
giúp các doanh nghiệp Việt Nam có được lợi thế hay ít nhất là không bị đánh bật ra
vì không đủ tiêu chuẩn khi tham gia ký kết các hợp đồng quốc tế.
Tăng tỉ lệ các nhà đầu tư quốc tế
Phương pháp đánh giá CSR phổ biến nhất hiện nay là dựa vào các chỉ số KLD
- Kinder, Lydenberg, Domini Research & Analytics. Chỉ số này được đưa ra vào
năm 1990, để bao hàm các chỉ số CSR vào các quyết định đầu tư. Các nhà đầu tư sẽ
thường đưa ra các quyết định đầu tư vào những công ty được KLD đánh giá có chỉ
số về CSR dương, tức là thực hiện tốt và có hiệu quả các chiến lược CSR.
Theo bản báo cáo hàng năm của PRI – Principles of Responsible Investment
cho năm 2011, có trên 900 chữ ký phê chuẩn từ 48 quốc gia đồng ý với quy định của
Liên hợp quốc về đầu tư có trách nhiệm, với tổng giá trị tài sản đầu tư là 30 nghìn tỉ
đô-la. Năm 2011, 545 nhà đầu tư bắt đầu hoàn thành cuộc khảo sát đánh giá báo cáo
PRI hàng năm để chỉ ra cách họ thực hành sáu quy tắc đầu tư có trách nhiệm như
thế nào. Trong số đó, 94% chủ tài sản và 93% giám đốc đầu tư ngày nay có luật đầu
tư có trách nhiệm một cách nghiêm túc. Báo cáo cũng chỉ ra rằng trên 50% các nhà
đầu tư bên ngoài gắn kết chặt chẽ với các chỉ số CSR của KLD. 71% các công ty
đầu tư yêu cầu các công ty công khai các hoạt động CSR vào báo cáo tài chính của
mình 6. Có thể nói CSR đang là xu hướng của các nhà đầu tư quốc tế. Rõ ràng, thực
hiện tốt trách nhiệm CSR sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam dễ dàng hơn trong
việc thu hút được các nguồn vốn FDI từ nhà đầu tư quốc tế.
6 Kld.com/research
26
1.2.2. Lợi ích phi tài chính
Mặc dù các lợi ích phi tài chính suy cho cùng vẫn có thể quy về lợi ích tài chính,
song nhóm nghiên cứu vẫn chia thành hai loại nói trên để thuận lợi cho việc phân tích
chuyên sâu.
Nâng cao giá trị thương hiệu của công ty.
Khi một công ty thực hiện các hoạt động CSR, dù là đối nội hay đối ngoại thì
đều được cộng đồng đánh giá rất cao. Điều này được thể hiện qua các bảng xếp hạng
những công ty có trách nhiệm nhất thế giới của tạp chí Forbes. Danh sách này cũng
chính là những công ty được yêu thích nhất thế giới. Như vậy chính CSR đã góp phần
làm nên hình ảnh của công ty trong lòng xã hội.
Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới cuối năm 2008 - đầu năm 2009 đã kéo cổ
phiếu của Intel sụt giảm 42%, thu nhập ròng giảm 90% so với năm trước đó 7. Trong
hoàn cảnh kinh tế khó khăn như vậy, Intel vẫn quyết tâm theo đuổi chương trình CSR
của mình trên toàn thế giới qua những đóng góp vào giáo dục ở Afghanistan, Cam-
pu-chia, Haiti, và Uganda,… cùng với những chương trình nỗ lực bảo vệ nguồn năng
lượng. Chủ tịch của Intel, ông Craig Barrett Fortune nói: “Bạn không thể tiết kiệm
theo cách của bạn để thoát khỏi suy thoái, mà bạn phải đầu tư theo cách của bạn”. Rõ
ràng Craig Barrett Fortune đã coi CSR như một sự đầu tư hiệu quả và lâu dài. “Chúng
tôi nhìn vào các hoạt động CSR trong những thời khắc khác nhau với cùng một đôi
mắt. Bạn đừng bao giờ hy vọng có thể gặt hái được kết quả nếu bạn chỉ làm CSR
những khi bạn kinh doanh tốt còn quên mất chúng khi bạn gặp khó khăn” Cùng
chung quan điểm đó, những người khổng lồ như General Electric, Starbuck hay
Toyota cắt giảm tài chính của họ cho các dự án thay vì cắt giảm các hoạt động CSR
khi phải cắt giảm chi phí. Đây chính là những tấm gương sáng cho việc cam kết thực
7 http://money.cnn.com/2009/01/19/magazines/fortune/do_gooder.fortune/index.htm
27
hiện CSR trên toàn thế giới. Và chắc chắn rằng, chính những điều này đã góp phần
nâng cao giá trị thương hiệu và uy tín cho các doanh nghiệp.
Thu hút nhân tài.
Nhân viên là yếu tố quyết định năng suất và chất lượng sản phẩm. Việc thu hút
nhân tài luôn được các công ty quan tâm hàng đầu. Có được những nhân viên tốt đã
khó nhưng việc níu chân các nhân viên này còn khó khăn hơn nhiều. Điều này là cả
một thách thức đối với các công ty. Những công ty trả lương thỏa đáng và công bằng,
tạo cho nhân viên cơ hội đào tạo, bảo hiểm y tế và môi trường làm việc sạch sẽ có khả
năng thu hút và giữ được nhân viên tốt hơn.
Cuộc khảo sát của Mont- gomery và Ramus (2003) chỉ ra rằng các MBAs tốt
nghiệp các trường châu Âu và Mỹ rất quan tâm đến các khía cạnh của CSR như quan
hệ lao động, môi trường làm việc bền vững, hay đạo đức, văn hóa doanh nghiệp. Hơn
90% sinh viên được phỏng vấn trả lời họ sẵn sàng từ bỏ yếu tố tài chính để làm việc
cho những công ty có danh tiếng về CSR.
Turban và Greening (1997) cung cấp bằng chứng rằng một công ty thực hiện tốt
CSR có thể có lợi thế hơn trong việc thu hút các nhà quản lý cấp cao.
28
Nhóm tác giả cũng đã có một cuộc điều tra nhỏ trong cộng đồng
sinh viên nhiệm vụ chiến lược và chất lượng cao trường đại học Kinh
tế, ĐHQGHN. Kết quả cũng chỉ ra rằng sinh viên sẽ cảm thấy rất tự
hào khi làm việc cho các doanh nghiệp có hình ảnh tốt trong xã hội.
Biểu đồ 4: Cảm nhận về hình ảnh của công ty trong cộng đồng
Cũng giống như những người Nhật Bản rất tự hào khi họ nói rằng họ
làm việc cho Toyota hay Sony hay Honda, thì 97% tức 54 trong số 55
sinh viên được hỏi cũng tự hào (và rất tự hào) khi họ là một phần trong
công ty có hình ảnh tốt trong mắt cộng đồng.
29
Còn sau đây là kết quả khảo sát lấy ý kiến của sinh viên (được coi
là nguồn nhân lực chất lượng cao) khi đánh giá mức độ quan trọng
của CSR đối với một công ty.
Biểu đồ 5: Đánh giá mức độ quan trọng của CSR
Kết quả khảo sát ở trên cho thấy 97% tức 54/55 số sinh viên được
hỏi cho rằng CSR quan trọng và rất quan trọng đối với một công ty.
Như vậy có thể thấy rằng, những doanh nghiệp thực hiện tốt CSR sẽ có khả
năng tuyển dụng được nhiều nhân tài hơn. Từ đó hiệu quả công việc và sự sáng tạo
kéo theo lợi nhuận của công ty sẽ cao hơn.
30
Ngoài ra, doanh nghiệp thực hiện tốt CSR còn có được những lợi ích phi tài
chính sau:
Nâng cao uy tín với xã hội:
Việc thực hiện tốt CSR giúp cho các doanh nghiệp tạo được niềm tin đối với các
thành phần trong xã hội:
- Nhân viên công ty.
- Nhà đầu tư.
- Đối tác
- Khách hàng.
- Cộng đồng
- Chính phủ
Giảm mối quan tâm của các nhà hoạt động, tổ chức hoạt động xã hội
Góp phần vào công tác bảo vệ Trái Đất.
1.3. Tính cấp thiết của việc thực hiện CSR tại Việt Nam.
Nói về tính cấp thiết của việc thực hiện CSR, nhóm nghiên cứu đưa ra quan
điểm về tác động từ bên ngoài (các yếu tố trong môi trường kinh doanh) và tác động từ
bên trong (nội tại của doanh nghiệp) sẽ là hai nhân tố chính tạo cho doanh nghiệp Việt
Nam thấy việc thực hiện CSR đối với họ là quan trọng như thế nào.
1.3.1. Yếu tố môi trƣờng kinh doanh.
Môi trường kinh doanh những năm gần đây có sự thay đổi mạnh mẽ do
những nguyên nhân chính sau:
Việt Nam gia nhập WTO năm 2007
Làn sóng tự do hóa thương mại.
Dòng vốn FDI chảy mạnh vào Việt Nam.
31
Việc gia nhập WTO và làn sóng tự do hóa thương mại giúp cho doanh nghiệp
Việt Nam có một môi trường kinh doanh rộng mở và thông thoáng hơn rất nhiều so
với trước kia. Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội thì cũng luôn có những thách thức không
nhỏ. Khi tham gia sân chơi toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam mà hầu hết chưa
có nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh quốc tế sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn khi phải đáp ứng nhiều văn bản luật, các quy định, đòi hỏi khắt khe từ phía các
đối tác nước ngoài và xã hội các nước đó. Thậm chí các đối tác thương mại, người
tiêu dùng sẽ tẩy chay sản phẩm hàng hoá của nước thành viên nào mà DN sản xuất
ra sản phẩm đó không thực hiện đúng chuẩn mực về các trách nhiệm xã hội.
Thêm vào đó, nhờ vào sự có mặt của các công ty FDI mà doanh nghiệp Việt
Nam được tiếp xúc nhiều hơn với các công ty đa quốc gia của nước ngoài và được
học hỏi rất nhiều từ bài học thành công của họ. Có thể lấy một ví dụ trường hợp này
đó là công ty gang thép Thái Nguyên (TISCO) và công ty thép của Hàn Quốc –
POSCO. Công ty gang thép Thái Nguyên được thành lập năm 1959 8 tức là sớm hơn
9 năm so với công ty thép POSCO (1968)9, cả hai công ty ở thời điểm thanh lập đều
có xuất phát điểm thấp nhưng nhìn chung là nhận được sự quan tâm của nhà nước.
Ấy vậy mà giờ đây khi POSCO đã là một công ty đa quốc gia hùng mạnh thì TISCO
mới chỉ có sản phẩm xuất đi nước ngoài vài năm trở lại đây. Tạm bỏ qua những yếu
tố khách quan liên quan tới tình hình mỗi đất nước thì có thể thấy một trong số
những điểm làm nên sự khác biệt cho TISCO là sự thành công các chương trình
CSR của họ.
Nói như vậy để thấy được CSR cần thiết với doanh nghiệp Việt Nam trong bối
cảnh môi trường kinh doanh hiện nay như thế nào. CSR giờ đây không phải là thứ
“nên làm” mà còn là thứ “cần làm” để tồn tại và “phải làm” nếu muốn thành công
8 http://www.tisco.com.vn/?f=About&op=2&p=2
9 http://www.posco.co.kr/homepage/docs/eng2/html/company/posco/s91a1010010m.jsp
32
vượt trội. Đó chính là tính cấp thiết mà môi trường kinh doanh tạo ra cho việc thực
hiện CSR của doanh nghiệp Việt Nam.
1.3.2. Yếu tố bên trong doanh nghiệp.
Không dễ nhận ra như tác động của môi trường kinh doanh tới yêu cầu phải
thực hiện CSR của doanh nghiệp nhưng những yếu tố bên trong mỗi doanh nghiệp
cũng đóng vai trò không nhỏ trong vấn đề này.
Xét về nội bộ doanh nghiệp, CSR xuất hiện khi doanh nghiệp đang có nhu cầu
về chiến lược kinh doanh trung thực lành mạnh, đang có kế hoạch cho một số dự án
liên quan tới cải tạo môi trường làm việc hay cũng có thể là khi doanh nghiệp muốn
cải thiện, nâng cao quan hệ lao động của mình. Đó là những ví dụ đơn giản chứng
minh cho việc CSR cũng chịu tác động từ những yêu cầu xuất phát từ bên trong
doanh nghiệp.
Ở mức độ tổng thể, có thể nói CSR hiện nay được cân nhắc tới khi bản thân
doanh nghiệp cần thực hiện một bước phát triển mới hay thậm chí là vượt bậc trong
chu kỳ hoạt động của mình. Và để đáp ứng cho nhu cầu từ bên trong của doanh
nghiệp, CSR chính là một phương án rất hữu hiệu và ngày càng thể hiện được vai
trò cấp thiết của nó trong các quyết định kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam.
Từ các phân tích trên, có thể thấy rõ ràng sự cần thiết phải thực hiện CSR trong
doanh nghiệp Việt Nam là không thể bàn cãi. Cũng cần khẳng định luôn, nhu cầu
cho việc thực hiện CSR được hình thành từ cả nguyên nhân khách quan (môi trường
kinh doanh) và nguyên nhân chủ quan (bên trong doanh nghiệp). Dù vậy, không
phải ngẫu nhiên mà CSR lại chưa phát triển ở Việt Nam, vậy nguyên nhân của thực
trạng đó là gì?
Và để hiểu hơn về sự hạn chế đó, nhóm nghiên cứu tiến hành phân tích nguồn
lực để thực hiện CSR của doanh nghiệp Việt Nam.
33
1.4. Nguồn lực để thực hiện CSR của doanh nghiệp Việt Nam.
Tính cấp thiết của CSR đối với các doanh nghiệp Việt Nam đã được phân tích
và chứng minh là không phải bàn cãi. Nhưng để thực hiện CSR thì bất kể doanh
nghiệp nào cũng cần có một nguồn lực nhất định. Một số nghiên cứu trước đây chỉ
ra những nguồn lực về vật chất và con người; tuy nhiên, nhóm nghiên cứu tiếp cận
theo một hướng mở hơn, bao quát hơn về nguồn lực để thực hiện CSR của doanh
nghiệp Việt Nam.
Nhóm nghiên cứu chia các dạng nguồn lực ở đây thành 2 dạng: nguồn lực bên
trong (1) và nguồn lực bên ngoài doanh nghiệp (2).
1.4.1. Nguồn lực bên trong.
Phần lớn doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa (chiếm khoảng
95%). Thế nên, có thể thấy ngay rằng nguồn lực xuất phát từ nội tại doanh nghiệp là
không lớn. Nhưng cơ bản vẫn có thể chia các dạng nguồn lực này như sau:
- Nguồn lực mang tính kỹ thuật:
Nguồn lực này cơ bản gồm có 2 loại chính đó là hệ thống văn bản, quy định có
liên quan tới CSR đã có trong doanh nghiệp (1) và hệ thống hạ tầng kỹ thuật phục
vụ cho CSR (2).
Hệ thống văn bản, quy định liên quan tới CSR: còn thiếu và yếu.
Người ta dễ thấy được nổi bật nhất số này là “Bộ quy tắc ứng xử - Code of
Conduct” của doanh nghiệp. Theo ý kiến của tiến sĩ Cao Thu Hằng10
, hiện Việt Nam
chưa có bộ quy tắc ửng xử riêng cho cả tầm quốc gia lẫn doanh nghiệp. Hiện nay,
việc thực hiện các bộ quy tắc ứng xử của các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các
bộ quy tắc ứng xử của các doanh nghiệp hay các tổ chức nước ngoài khi các doanh
nghiệp Việt Nam tham gia vào thị trường xuất khẩu. Với khoảng 1000 bộ quy tắc
10
http://www.vietnamplus.vn/Home/Xay-dung-bo-quy-tac-ung-xu-cho-doanh-nghiep-Viet/20123/130328.vnplus
34
ứng xử trên thế giới11
, doanh nghiệp Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn trong việc
thực thi và hay gặp phải kiện tụng từ đối thủ cạnh tranh về vấn đề này. Hiện có rất ít
doanh nghiệp Việt Nam xây dựng được cho mình bộ quy tắc ứng xử như Vinamilk.
Hạ tầng kỹ thuật cho CSR: còn yếu và chưa được quan tâm.
Tuy nhiên, mỗi loại hình doanh nghiệp, khả năng về hạ tầng kỹ thuật là khác
nhau và đòi hỏi về CSR cũng không giống nhau. Do đó, mỗi doanh nghiệp sẽ tùy
biến theo khả năng về hạ tầng kỹ thuật cũng như chiến lược của mình để xây dựng
chiến lược CSR phù hợp.
- Nguồn lực về con người: không được đánh giá cao.
Nhìn chung, nhận thức về CSR đối với doanh nghiệp và xã hội Việt Nam là
chưa cao. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể đào tạo được những
đội ngũ dẫn dắt CSR như của Toyota, sau đó là nâng cao nhận thức của người lao
động về CSR. Từ đó, có thể tin rằng doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có đủ nguồn
lực về con người để hiện thực hóa những chính sách CSR.
Một điểm đáng chú ý trong nguồn lực con người và CSR đó là “Người lãnh
đạo” của doanh nghiệp. Thật thú vị khi thấy rằng, các doanh nghiệp Việt Nam khá
thành công với CSR như Vinamilk, Mai Linh, FPT đều có những người lãnh đạo có
uy tín và tầm ảnh hưởng sâu rộng trong tổ chức. Dĩ nhiên, các vị lãnh đạo này đều là
những con người có quan điểm nhất quán và quyết tâm thực hiện CSR. Nhưng
những vị lãnh đạo như thế này trong giới doanh nghiệp Việt Nam là chưa nhiều, cho
nên đây sẽ là một khó khăn cho việc thực hiện CSR tại Việt Nam.
11
http://www.vietnamplus.vn/Home/Xay-dung-bo-quy-tac-ung-xu-cho-doanh-nghiep-Viet/20123/130328.vnplus
35
- Nguồn lực về tài chính: Hạn chế
Như đã nói, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam ở quy mô nhỏ và vừa. Vì
thế tài chính không phải là điểm mạnh của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình
thực hiện CSR. Vẫn biết không phải chỉ thực hiện CSR khi doanh nghiệp đã “giàu”
nhưng một doanh nghiệp “nghèo” sẽ gặp vô vàn khó khăn nếu thực hiện CSR đúng
nghĩa. Và trên thực tế, khó khăn về nguồn tài chính vẫn là rào cản lớn nhất ngăn cản
doanh nghiệp Việt Nam đến với CSR một cách rầm rộ.
1.4.2. Nguồn lực bên ngoài.
Bên cạnh nguồn lực chính từ bên trong doanh nghiệp, các công ty Việt Nam
cũng cần nhận ra và tận dụng được các lực đẩy từ bên ngoài để phục vụ cho các
chính sách CSR của mình.
- Sự quan tâm của chính phủ và các bộ ngành liên quan:
Dù không phải là những người trực tiếp thực hiện CSR, tuy nhiên những người
làm chính sách hay các tổ chức chính trị đang có sự quan tâm ngày một lớn tới CSR.
Một ví dụ là Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã thông qua giải
thưởng “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” nhằm tôn vinh những doanh nghiệp
làm tốt công tác này. Đồng thời, chính phủ và các bộ ngành cũng đang có rất nhiều
hoạt động thúc đẩy việc nghiên cứu, xây dựng và thực hiện CSR trong cộng đồng
các doanh nghiệp Việt Nam.
- Sự quan tâm, kỳ vọng của cộng đồng xã hội:
Sau rất nhiều những sự cố liên quan tới môi trường (công ty Vedan Việt Nam)
hay vệ sinh an toàn thực phẩm (nước tương có 3-MCPD, sữa nhiễm melamine), ắt
hẳn xã hội hơn lúc nào hết đang rất mong chờ vào một sự đổi mới trong hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Người dân đang mong chờ những doanh nghiệp
“thật” hơn, “sạch” hơn, “bền vững” hơn.
36
- Kinh nghiệm của các doanh nghiệp nước ngoài:
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH – HĐH), Việt Nam có
“lợi thế” rằng có thể phát triển nhanh hơn vì là nước đi sau, hay còn gọi là nước
công nghiệp mới (dù trên thực tế thì Việt Nam chưa được ông nhận là nước công
nghiệp). Đó là vì chúng ta được thừa hưởng những thành tựu mà các nước công
nghiệp cũ phải mất hàng trăm năm để sáng tạo ra.
Điều tương tự cũng xảy ra với việc thực hiện CSR, đó là các doanh nghiệp
Việt Nam có thể học hỏi và áp dụng những kinh nghiệm từ các doanh nghiệp nước
ngoài. Đồng thời, làm cho những thứ đó phù hợp hơn với hoàn cảnh của riêng
mình, như vậy doanh nghiệp Việt Nam không cần quá nhiều công sức nghiên cứu và
phát triển mà đã có thể có ngay các chuẩn mực hay thành tựu CSR để làm của riêng
mình. Rõ ràng đây là một nguồn lực rất quý báu nhưng nếu doanh nghiệp Việt Nam
không biết cách tận dụng thì họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Qua những phân tích trên, có thể thấy dù có nhiều khó khăn nhưng doanh
nghiệp Việt Nam có một nguồn lực đáng để tin rằng chúng ta có thể xây dựng và
thực hiện tốt các hoạt động về CSR. Từ đó nâng cao hình ảnh cũng như tính cạnh
tranh của doanh nghiệp Việt Nam cả trong nước và trên thế giới.
1.5. Kinh nghiệm thực hiện CSR của một số doanh nghiệp nƣớc
ngoài.
Kinh nghiệm thực hiện CSR của tập đoàn Toyota:
Tập đoàn Toyota có quan điểm cốt lõi về CSR là: “Đóng góp hướng tới sự
phát triển bền vững”. Đó chính là quan điểm chủ đạo của Toyota. Và đề hiện thực
hóa quan điểm này Toyota có một số phương tiện thực hiện CSR tiêu biểu là: “The
Toyota Code of Conduct – Bộ quy tắc ứng xử Toyota” , “The Toyota Way 2011 –
37
Phương thức Toyota 2011” và “Nguyên tắc hướng dẫn – Guiding Principles at
Toyota”.
Biểu đồ 6: Mối quan hệ giữa các yếu tố CSR cốt lõi của TMC
(Nguồn: http://www.toyota-global.com)
Biểu đồ 7: Sơ đồ “Phƣơng thức Toyota”
(Nguồn: http://www.toyota-global.com)
38
Toyota cũng thành lập một hệ thống các cơ quan chuyên trách về CSR gồm:
Ủy ban CSR của Toyota (CSR Committee)
Ban thúc đẩy sáng kiến CSR (CSR Department to Promote Toyota's CSR
Initiatives)
Biểu đồ 8: Sơ đồ các cơ quan thực thi chính sách CSR của TMC
(Nguồn: http://www.toyota-global.com)
Toyota tiếp cận tới các bên liên quan: khách hàng (1), người lao động (2), đối
tác (3), cộng đồng và môi trường (4) và cổ đông (5)12
.Trong số này Toyota đặc biệt
chú ý tới lợi ích của khách hàng và bảo vệ môi trường.
Các hoạt động CSR của tập đoàn Toyota được thực hiện trên rất nhiều khía
cạnh13
: môi trường (1), giáo dục (2), an toàn giao thông (3) và văn hóa – xã hội (4).
Các hoạt động này trải rộng trên toàn thế giới, từ châu Á, châu Âu, Bắc Mỹ và Nam
Mỹ .
12
http://www.toyota-global.com/sustainability/stakeholders/ 13
http://www.toyota-global.com/sustainability/corporate_citizenship/
39
1.5.1. Kinh nghiệm thực hiện CSR của công ty KPMG Trung Quốc.
Quan điểm của KPMG Trung Quốc về việc thực hiện CSR là KPMG cam
kết lâu dài rằng những hành động tập thể của công ty sẽ có những tác động tích cực
tới nhân viên từ đó ảnh hưởng tới sự phát triển có hệ thống, có tổ chức và bền vững
của công ty; mang tới cộng đồng những chuyên gia có chuyên môn cao và vô cùng
sáng tạo nhằm xây dựng cộng đồng vững mạnh và bảo vệ tốt môi trường xung
quanh; nỗ lực hết mình để thực hiện tốt việc trao quyền cho các đối tượng cần giúp
đỡ nhằm giúp họ có thể tự giúp chính bản thân họ; thực hiện những hành động có
trách nhiệm nhằm giảm thiểu áp lực môi trường lên trái đất
KPMG coi việc đáp ứng nguyện vọng nghề nghiệp và sự hài lòng cho nhân
viên là trách nhiệm đầu tiên khi thực hiện chuẩn mực CSR. Tiếp đó, KPMG thể
hiện sự quan tâm đối với vấn đề môi trường, KPMG cam kết thực hiện giảm lượng
khí thải Cacbon - đioxit như là 1 phần trong chiến lược phát triển bền vững của công
ty.
Một số chương trình tiêu biểu về CSR của KPMG Trung Quốc là Quỹ
KPMG (1), hoạt động cứu trợ cho người dân trong thảm họa động đất tại Tứ Xuyên
(2), quyên góp cho quỹ hỗ trợ động đất ở Nhật Bản (3), Sáng kiến Trung Quốc Xanh
(4). Thông qua các hoạt động CSR của mình KPMG Trung Quốc đã đóng góp tích
cực đáng kể vào sự phát triển cộng đồng và bảo vệ môi trường: Quyên góp ủng hộ
được hơn 8 triệu NDT cho nhân dân vùng Tứ Xuyên, 4 triệu NDT cho Quỹ xóa đói
giảm nghèo (CFPA). Nhân viên KPMG Trung Quốc đã đóng góp hơn 7000 giờ tình
nguyện nhằm cứu trợ và khôi phục lại thị trấn sau động đất; tài trợ 500,000 NDT cho
80 sinh viên sống trong vùng thiên tai; xây dựng 1 trung tâm cộng đồng tại Tứ
Xuyên cho trẻ; xây dựng 2 trường học ở Cam túc (2). Trong đợt động đất ở Nhật
Bản, Quỹ KPMG Trung Quốc cũng đã quyên góp ủng hộ 1,4 triệu NDT (3). Với
sáng kiến Trung Quốc Xanh, bằng việc sử dụng các trang thiết bị xanh và các sản
40
phẩm xanh khác cùng với việc hưởng ứng chương trình tắt điện trong Giờ Trái Đất
KPMG đã thành công trong việc giảm thiểu lượng khí thải cacbon-đioxit ra ngoài
môi trường:
Biểu đồ 9: Sơ đồ so sánh lƣợng tiêu thụ năng lƣợng giữa năm 2007 và 2010
(Nguồn: http://www.kpmg.com/cn/en/)
41
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ THỰC HIỆN CSR TẠI CÔNG TY CỔ
PHẦN SỮA VIỆT NAM VINAMILK.
2.1. Sơ lƣợc về công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk.
Công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk có tên giao dịch quốc tế là: Vietnam
dairy Products Joint – Stock Company. Công ty được thành lập năm 1976 trên cơ sở
tiếp quản 3 nhà máy Sữa của chế độ cũ để lại bao gồm: nhà máy sữa Thống Nhất
(tiền thân là nhà máy Foremost); nhà máy sữa Trường Thọ (tiền thân là nhà máy
Cosuvina); và nhà máy sữa Bột Dielac (Nestle ).
Công ty có trụ sở chính tại Số 10 phố Tân Trào, Phường Tân Phú, Quận 7, thành
phố Hồ Chí Minh. Cơ cấu tổ chức gồm 17 đơn vị trực thuộc và 1 Văn phòng. Tổng số
CBCNV là 4.500 người. Vinamilk hoạt động chính trong lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh sữa và các sản phẩm từ sữa bao gồm: Sữa nước, sữa bột, sữa đặc, sữa chua,
kem, phomat. Sản phẩm của Vinamilk chủ yếu được tiêu thụ tại thị trường Việt Nam
(chiếm lĩnh 75% thị trường sữa trong nước) và cũng xuất khẩu sang các thị trường
nước ngoài như Úc, Campuchia, Irắc, Philipines và Mỹ.
Với những nỗ lực của mình Vinamilk đã trở thành nhà sản xuất sữa hàng đầu
Việt Nam tính cả về doanh số, lẫn sản lượng. Vinamilk được bình chọn top 5 doanh
nghiệp lớn nhất việt nam, top 200 doanh nghiệp lớn nhất châu Á. Vinamilk có được
những thành quả đó cũng là do có tầm nhìn và triết lý kinh doanh đúng đắn:
TẦM NHÌN: “Trở thành biểu tượng niềm tin số một Việt Nam về sản phẩm
dinh dưỡng và sức khỏe phục vụ cuộc sống con người”.
SỨ MỆNH: “Vinamilk cam kết mang đến cho cộng đồng nguồn dinh dưỡng tốt
nhất, chất lượng nhất bằng chính sự trân trọng, tình yêu và trách nhiệm cao của
mình với cuộc sống con người và xã hội”.
42
GIÁ TRỊ CỐT LÕI: Chính trực: Liêm chính, Trung thực trong ứng xử và trong
tất cả các giao dịch; Tôn trọng: Tôn trọng bản thân, tôn trọng đồng nghiệp, tôn
trọng công ty, tôn trọng đối tác, hợp tác trong sự tôn trọng; Công bằng: Công
bằng với nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp và các bên liên quan khác; Tuân
thủ: Tuân thủ Luật pháp, Bộ Quy Tắc Ứng Xử và các quy chế, chính sách, quy
định của Công ty; Đạo đức: Tôn trọng các tiêu chuẩn đã được thiết lập và hành
động một cách đạo đức.
TRIẾT LÝ KINH DOANH: Vinamilk mong muốn trở thành sản phẩm được
yêu thích nhất ở mọi khu vực, lãnh thổ. Vì thế công ty luôn tâm niệm rằng chất
lượng và sáng tạo là người bạn đồng hành của Vinamilk. Vinamilk xem khách
hàng là trung tâm và cam kết đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng.
Sơ đồ tổ chức của công ty:
Biểu đồ 10: Sơ đồ tổ chức và cơ cấu quản lý công ty Vinamilk
(Nguồn: http://vinamilk.com.vn/)
43
Một số dấu mốc đáng nhớ của Vinamilk14
:
1976: Thành lập công ty Vinamilk trên cơ sở tiếp quản 3 nhà máy Sữa do chế độ
cũ để lại sau năm 1975 : nhà máy sữa Thống Nhất ( tiền thân là nhà máy Foremost
); nhà máy sữa Trường Thọ ( tiền thân là nhà máy Cosuvina); và nhà máy sữa Bột
Dielac ( Nestle ).
1986: Khắc phục được khó khăn, phát triển sản xuất và được Nhà nước tặng Huân
chương lao động hạng Ba.
Tháng 8/1993: Chi nhánh Hà Nội được thành lập để triển khai mạng lưới kinh
doanh tại Hà Nội và các tỉnh phía Bắc
Tháng 6/1995: Chi nhánh sữa Đà Nẵng ra đời phục vụ người tiêu dùng ở các tỉnh
Miền trung – Tây Nguyên
1998: Bắt đầu xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài
2003: Tiến hành Cổ phần hóa công ty
2007-2011: xây dựng 5 trang trại nuôi bò sữa hiện đại nhằm tăng cường nguồn
nguyên liệu cho sản xuất. Đầu tư 4.500 tỷ đồng hiện đại hoá máy móc thiết bị,
công nghệ cho sản xuất và xây dựng thêm 2 nhà máy chế biến mới và 2 chi nhánh,
xí nghiệp.
2010-2011: Top 10 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam theo VNR500 bình chọn; top
200 doanh nghiệp tốt nhất châu Á do tạp chí Forbes bình chọn.
14
http://vinamilk.com.vn/?vnm=about&id=1
44
2.2. Thực trạng vấn đề thực hiện CSR tại công ty Vinamilk.
2.2.1. Sự cần thiết của việc thực hiện CSR tại Vinamilk.
Như đã trình bày ở phần mở đầu về sự cấp thiết của việc thực hiện CSR tại
doanh nghiệp Việt Nam, nhóm nghiên cứu cũng đã phân tích trường hợp của
Vinamilk và nhận thấy doanh nghiệp này không nằm ngoài guồng quay của bối
cảnh chung đó.
Xét về yếu tố môi trường kinh doanh, việc Việt Nam ngày càng hội nhập sâu
vào nền kinh tế thế giới đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam như Vinamilk phải có
chiến lược phát triển phù hợp. Với sản phẩm sữa của Vinamilk, chất lượng là yếu tố
hàng đầu để đưa doanh nghiệp đạt tới thành công. Đó là bởi vì khách hàng không
ngừng đòi hỏi những sản phẩm sữa sạch, tốt cho sức khỏe và các đối tác (đặc biệt là
các đối tác nước ngoài) lại càng đòi hỏi cao hơn với những quy chuẩn riêng của
mình. Trong tình hình đó, nếu Vinamilk không đảm bảo được các tiêu chuẩn, kỳ
vọng của thị trường nói chung thì họ sẽ gặp vô vàn khó khăn trong công việc kinh
doanh của mình. Bên cạnh chất lượng, hàng loạt các yếu tố khác liên quan tới CSR
như lao động, môi trường, tuân thủ luật pháp, môi trường… cũng là những nhân tố
ảnh hưởng tới công việc kinh doanh của Vinamilk. Nói cách khác, doanh nghiệp
này cần CSR để đáp ứng những nhu đòi hỏi từ phía xã hội và cũng có thể là một
kênh quảng cáo hữu hiệu cho hình ảnh của doanh nghiệp.
Ở góc độ nội tại doanh nghiệp, nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng Vinamilk
hoàn toàn nghiêm túc và chủ động CSR, đồng thời coi đây là một phần trong chiến
lược phát triển dài hạn của mình. Nói một cách đơn giản, Vinamilk nhận thấy chính
bản thân họ cần CSR (chứ không chỉ là môi trường kinh doanh cần) để đạt được hai
mục tiêu chính là: thực hiện chiến lược kinh doanh lành mạnh, bền vững (1) và tạo
bước đột phá, nâng cao hiệu quả kinh doanh (2). Đây được coi là các mục tiêu CSR
hoàn toàn nghiêm túc bởi nó tác động trực tiếp vào yếu tố nền tảng nhất của CSR –
45
trách nhiệm kinh tế. CSR ở đây không phải là một khoản chi phí tốn kém mà là một
khoản mục đầu tư khôn ngoan, hay nói cách khác là Vinamilk thực hiện CSR trước
hết vì đòi hỏi từ việc thúc đẩy công việc kinh doanh của mình.
Chính những nguyên nhân trê đã tạo ra một tác động tổng hợp để thúc đẩy
Vinamilk đi tiên phong trong việc thực hiện CSR ở Việt Nam để giờ đây nhóm
nghiên cứu có điều kiện được tiếp cận và phân tích tình hình thực hiẹn CSR của
doanh nghiệp này.
2.2.2. Quan điểm thực hiện CSR của Vinamilk.
Các doanh nghiệp khi thực hiện CSR đều nhằm mục đích tăng hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp, tăng doanh thu, tăng cường lợi ích của các cổ đông, tăng
giá trị thương hiệu, tiếp cận được thị trường mới, giảm chi phí, giảm tỉ lệ nhân viên
thôi việc và còn vì nhiều lợi ích khác nữa mà CSR mang lại. Vinamilk là một cá
thể doanh nghiệp nên cũng không nằm ngoài mục đích đó khi họ chủ động thực
hiện CSR như là một chiến lược kinh doanh của công ty. Một lí do quan trọng đã
thúc đẩy Vinalmilk làm điều đó chính là thực hiện CSR cũng là cách để công ty
thực hiện sứ mệnh của mình: “Vinamilk cam kết mang đến cho cộng đồng nguồn
dinh dưỡng tốt nhất, chất lượng nhất bằng chính sự trân trọng, tình yêu và
trách nhiệm cao của mình với cuộc sống con người và xã hội”.
Vinamilk luôn ý thức được rằng để hoàn thành được sứ mệnh của công ty thì
phải phát triển công ty theo hướng bền vững. Chính vì thế mà Vinamilk luôn lấy
thông điệp: “Vinamilk phát triển bền vững, thân thiện với môi trường và có
trách nhiệm đối với xã hội" làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động sản xuất, kinh
doanh của công ty. Do sớm nhận thức được được tầm quan trọng và ích lợi của
việc thực hiện trách nhiệm xã hội trong việc phát triển bền vững, nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập
46
quốc tế, Vinamilk đã nhanh chóng tiếp thu, học hỏi những kinh nghiệm trên thế
giới và áp dụng vào phù hợp với tình hình thực tiễn của công ty tại Việt Nam.
Biểu đồ 11: Mô hình thể hiện quan điểm CSR của Vinamilk với các bên liên quan
2.2.3. Tình hình thực hiện CSR của Vinamilk.
Như đã đề cập ở trên, Vinamilk đã sớm đưa các chương trình hành động vào
trong việc thực hiện CSR thông qua việc thực hành Bộ Quy Tắc Ứng Xử (Code of
Conduct) riêng của Vinamilk. Mặc dù phải đến tháng 1năm 2010 Bộ Quy Tắc Ứng
Xử của Vinamilk mới chính thức được áp dụng trong toàn thể công ty. Nhưng trên
thực tế từ nhiều năm trước công ty Vinamilk đã tích cực thực hiện các chính sách
liên quan đến CSR và sau này được đưa vào Bộ Quy Tắc Ứng Xử của công ty. Các
chính sách đó bao gồm các chính sách của công ty đối với các cổ đông, nhà đầu tư
và cán bộ công nhân viên trong công ty; các chính sách đối với các nhà cung cấp,
khách hàng, người tiêu dùng; các chính sách đối với môi trường và cộng đồng.
47
2.2.3.1. Vinamilk thực hiện CSR đối với đối tác, cổ đông, nhà đầu tư.
Quan điểm, chính sách của Vinamilk
Vinamilk luôn tâm niệm “Tôn trọng lợi ích lẫn nhau là phương châm quan
trọng và thiết yếu trong mối quan hệ của Vinamilk với đối tác, nhà đầu tư và cổ
đông”. Theo đó:
Đối tác: Vinamilk Vinamilk cam kết tôn trọng lợi ích của đối tác và nỗ lực trong
việc bảo vệ tài sản, nhân lực tham gia hợp tác, liên doanh liên kết.
Nhà đầu tư: Vinamilk cam kết tạo cơ hội đầu tư ngang bằng cho mọi nhà đầu tư
trong việc trao đổi, tiết lộ thông tin và tạo dựng môi trường kinh doanh minh bạch
bằng việc công khai quy trình lựa chọn nhà đầu tư.
Cổ đông: Tôn chỉ của Vinamilk là xem lợi ích của các cổ đông như chính lợi ích
của mình.
Vinamilk cam kết đối xử sòng phẳng và trung thực với đối tác, nhà đầu tư
và cổ đông. Tất cả đối tác, nhà đầu tư và cổ đông đều được cung cấp thông tin
từ phía Công ty một cách trung thực nhất. Đồng thời, Vinamilk cam kết đảm bảo
giữ bí mật thông tin riêng của các đối tác, nhà đầu tư, cổ đông trừ những trường
hợp có yêu cầu của cơ quan Luật pháp.
Chương trình hành động của Vinamilk
Vinamilk đảm bảo thực hiện cam kết của mình thông qua việc cung cấp
bản báo cáo tài chính, báo cáo thường niên một cách minh bạch, trung thực nhất
đến các đối tác, nhà đầu tư và cổ đông. Vinamilk đã và đang duy trì kênh thông
tin đến các nhà đầu tư, đối tác, cổ đông thông qua các cuộc họp đại hội đồng cổ
đông thường niên; đăng tải thông tin cho họ qua website
http://vinamilk.com.vn/; thường xuyên gửi news-letters cho họ và công ty phát
huy tối đa vai trò của bộ phận Quan Hệ Nhà Đầu Tư (Investors Relations - IR)
với cổ đông và với các nhà đầu tư tiềm năng.
48
Bộ phận IR có vai trò cung cấp thông tin về Vinamilk một cách dễ hiểu và
minh bạch nhất đến nhà đầu tư bao gồm: các thông số về vị thế của Vinamilk
trên thị trường, chiến lược và sáng kiến của Vinamilk trong việc tạo dựng và
duy trì giá trị. IR của Vinamilk cũng luôn luôn lắng nghe và tiếp thu những phản
hồi từ nhà đầu tư nhằm mục đích nắm bắt tâm lý của các nhà đầu tư để đảm bảo
quyền lợi song hành giữa Vinamilk và nhà đầu tư cũng như các cổ đông của
công ty.
Vinamilk cũng chính là doanh nghiệp tiên phong trong việc thực hiện IR
tại Việt Nam. Ngoài ra công ty luôn cố gắng đảm bảo lợi ích của cổ đông qua
việc duy trì cổ tức đều đặn và phù hợp (40% năm 2009, 30% năm 2010 và
2011). Ngoài ra Vinamilk luôn tránh việc vi phạm vào lợi ích của cổ đông. Ví
dụ như trong việc tăng vốn điều lệ năm 2010, Vinamilk tăng vốn từ cổ phiếu
thưởng do có thặng dư chứ không bắt các cổ đông phải đóng góp thêm bất cứ
khoản nào.
2.2.3.2. Vinamilk thực hiện CSR đối với cán bộ công nhân viên.
Quan điểm chính sách của Vinamilk
Theo bộ quy tắc ứng xử, Vinamilk thực hiện các chuẩn mực CSR đối với
nhân viên bằng việc đảm bảo ba nguyên tắc cơ bản: tôn trọng, công bằng, môi
trường làm việc. Cụ thể:
Tôn trọng: Vinamilk tôn trọng nhân quyền và phẩm giá của tất cả nhân viên
cũng như tin rằng tính Chính trực luôn sẵn có trong mỗi cá nhân.Tôn trọng có
nghĩa là chúng ta coi trọng sự khác biệt của nhau, tôn trọng các quan điểm xuất
phát từ chính những khác biệt đó.
Trao đổi thông tin: Vinamilk sẽ luôn tạo một môi trường trao đổi thông tin nội
bộ cởi mở nhằm cung cấp cho nhân viên những thông tin kịp thời về công
việc, các mối quan hệ và thành tích của nhân viên. Quan trọng hơn, Vinamilk
49
luôn tôn trọng những ý kiến có tính chất đóng góp, xây dựng trên nhiều phương
diện từ nhấn viên, không phân biệt cấp bậc. Đặc biệt là những đóng góp cho việc
cải thiện môi trường làm việc hoặc những vấn đề liên quan đến công việc cụ thể.
Thông tin cá nhân: Vinamilk tôn trọng sự riêng tư cá nhân.Việc thu thập, xử lý,
lưu giữ và sử dụng thông tin cá nhân của nhân viên chỉ được thực hiện trong những
trường hợp thật cần thiết và được cho phép bởi luật pháp.
Công bằng: Vinamilk cam kết đối xử công bằng với nhân viên, điều đó có
nghĩa là:
Công bằng trong việc đánh giá năng lực của nhân viên cho dù tồn tại những
quan điểm, ý kiến khác nhau trong công việc.
Việc tuyển dụng, sắp xếp công việc và xác định mức lương, lợi ích khác cho tất
cả nhân viên của Vinamilk được dựa trên cơ sở phù hợp về trách nhiệm, khả năng
và thể hiện bản thân, kinh nghiệm cũng như kết quả đánh giá của từng nhân viên.
Vinamilk cung cấp cơ hội bình đẳng cho nhân viên về khía cạnh lao động khác
nhau:
Thứ nhất, cam kết xác lập mục tiêu công việc phù hợp, luôn mang lại sự thỏa
đáng và thách thức với khả năng của từng nhân viên.
Thứ hai, cam kết cung cấp những cơ hội đào tạo, huấn luyện và thăng tiến
nhằm tạo điều kiện để nhân viên khẳng định và phát triển.
Thứ ba, thực hiện đánh giá kết quả công việc để thu được những ý kiến phản
hồi thẳng thắn và chính xác trên cơ sở có sự trao đổi.
50
Môi trƣờng làm việc:
Vinamilk sẽ luôn cung cấp và duy trì một môi trường làm việc an ninh, an
toàn, lành mạnh và thân thiện. Một môi trường luôn thu hút và giữ chân những con
người tài năng dù họ có xuất phát điểm khác nhau. Đó là một môi trường mà:
Tất cả nhân viên đều có cơ hội khám phá và thể hiện các tiềm năng bản thân ở
mức cao nhất cũng như đạt được đích đến của riêng mình để phát triển và đóng góp
cho sự thành công của Vinamilk.
Tất cả nhân viên đều có điều kiện làm việc tốt nhất trên cả khía cạnh vật chất
lẫn tinh thần. Nhân viên được cung cấp không gian làm việc thuận lợi, các
trang thiết bị phục vụ công việc cũng như luôn cảm thấy thoải mái để phát huy khả
năng và đóng góp ý kiến cá nhân. Một môi trường đảm bảo khía cạnh tinh thần cũng
có nghĩa là, trong đó, mỗi nhân viên đều cảm thấy được tôn trọng, mọi người có cơ
hội giao lưu, giải trí bất kể những khác biệt cá nhân về tài năng hay cá tính.
Tất cả nhân viên đều được bảo đảm an toàn và sức khỏe. Vinamilk luôn tuân
thủ nghiêm chỉnh các chế định về an toàn và sức khỏe nhằm đảm bảo sức khỏe tốt
nhất cho mỗi người để sẵn sang phát huy năng lực của mình.
Chương trình hành động
Vinamilk đã từng bước sử dụng hệ thống quản lý nhân sự tổng thể nhằm hiện
thực hóa những quy tắc trong bộ quy tắc ứng xử của công ty. Hệ thống quản lý
nguồn nhân lực tổng thể được Vinamilk phối hợp với công ty Cổ Phần Tư Vấn Quản
Trị Doanh Nghiệp Tinh Vân (Tinh Vân Consulting) - một công ty giàu kinh nghiệm
và là đối tác của nhiều doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực tư vấn quản lý nhân sự dựa
trên nền tảng công nghệ thông tin (CNTT).
Với việc áp dụng hệ thống quản lý tổng thể nguồn nhân lực Histaff (từ ngày
13/06/2011) đồng bộ với hệ thống quản lý doanh nghiệp ERP (Enterprise Resource
Planing), Vinamilk đã có thể quản lý dữ liệu được một cách tập trung và đồng bộ.
Hệ thống giúp công ty có thể theo dõi được biến động về thay đổi nhân sự thường
51
xuyên của các đơn vị thành viên, các chi nhánh trải rộng trên toàn quốc; Áp dụng hệ
thống máy chấm công linh hoạt như: Phân ca làm việc, theo dõi giờ vào, giờ ra, đi
muộn về sớm, làm thêm giờ, tăng ca, làm bù…; Hỗ trợ các chính sách về tính thu
nhập của các đối tượng công nhân như: Khoán sản phẩm, Năng suất theo dây
chuyền, hiệu suất hàng ngày, tính lương theo doanh thu (KPI), Phân bổ quỹ lương
hàng tháng, lương hiệu quả công việc hàng tháng...
Hệ thống cũng tạo thành sợi dây liên kết giữa Vinamilk với nhân viên, giúp
cho nhân viên có thể trao đổi, đưa ra các thắc mắc, phản ánh tình hình sản xuất, môi
trường làm việc, hay đưa ra các đề xuất đóng góp cho sự phát triển của công ty tới
lãnh đạo các cấp của công ty thông qua Kênh tiếp nhận thông báo 24/24h do Bộ
Phận Tuân Thủ đảm trách. Ngược lại, hệ thống giúp cho các chính sách, quy định,
văn bản hướng dẫn của lãnh đạo được phổ biến tới từng cán bộ nhân viên (CBNV)
trong công ty. Tất cả các chức năng trên đều nhằm đảm bảo được sự tôn trọng và
công bằng tới toàn thể CBNV.
Vinamilk cũng luôn hướng tới việc xây dựng được môi trường làm việc lành
mạnh, an toàn và tràn đầy cảm hứng cho toàn thể nhân viên trong công ty. Bằng việc
xây dựng các nhà máy với khuôn viên rộng rãi thoáng mát, đảm bảo tiêu chuẩn,
đồng thời thường xuyên trang bị, bảo dưỡng và cải tiến các trang thiết bị nhằm đảm
bảo máy móc vận hành hiệu quả và an toàn nhất.
Đặc biệt, Vinamilk chú trọng triển khai các chính sách, chương trình phúc lợi
cho người lao động: An toàn lao động, bảo hiểm tai nạn lao động, cấp phát trang
thiết bị bảo hộ lao động, khám sức khỏe định kỳ, chăm lo tới đời sống tinh thần của
người lao động: tổ chức các chuyến du lịch tham quan dã ngoại, tổ chức các giải thi
đấu thể thao, văn nghệ… Và công ty cũng áp dụng nhiều chính sách đãi ngộ đối với
người lao động như chế độ lương thưởng xứng đáng, thực hiện các chương trình đào
tạo giúp nhân viên phát triển và đạt được mục tiêu nghề nghiệp. Ví dụ như khóa học
trung cấp công nghiệp thực phẩm dành cho công nhân Vinamilk được công ty phối
52
hợp với trường ĐH Công Nghiệp Thực Phẩm TP.HCM thực hiện; hay như các
chương trình ưu đãi cho CBNV cũng như con em họ có cơ hội đào tạo nâng cao
năng lực chuyên môn tại Nga.
2.2.3.3. Vinamilk thực hiện CSR đối với người tiêu dùng
Quan điểm, chính sách của Vinamilk
Người tiêu dùng chính là các nhân tố quyết định tới sự thành bại của một
doanh nghiệp. Do đó Vinamilk luôn ý thức thực thi các chính sách nhằm đáp ứng
kịp thời nhu cầu và mang tới sự hài lòng nhất cho người tiêu dùng. Điều đó được thể
hiện rõ trong bộ quy tắc ứng xử của công ty: Chiếm được lòng tin từ người tiêu dùng
luôn là cái đích mà các doanh nghiệp hướng tới. Với Vinamilk cũng vậy, họ coi
niềm tin yêu của khách hàng đối với sản phẩm của Vinamilk chính là thước đo thành
công và là động lức quý giá cho công ty tiếp tục hoạt động và phát triển. Chính vì
thế Vinamilk cam kết đặt lợi ích người tiêu dùng lên hàng đầu; đảm bảo chất lượng
và sự an toàn của sản phầm; duy trì các giá trị đạo đức, văn hóa của dân tộc:
Đặt ra tiêu chuẩn cao nhất cho sản phẩm:
Vinamilk cam kết sẽ luôn làm ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn về chất lượng, an
toàn, vệ sinh; luôn đa dạng hóa sản phẩm và cung cấp sản phẩm với giá cả cạnh
tranh. Công ty đã tuân thủ và áp dụng những quy định/chuẩn mực liên quan đến chất
lượng, trang thiết bị, người lao động, nguyên liệu trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Vinamilk luôn tuân thủ chặt chẽ quy trình sản xuất chuẩn bao gồm các khâu từ tiếp
nhận nguyên liệu, chọn lọc, xử lý ban đầu đến chế biến, chiết rót, đóng gói và bảo
quản. Để làm được như vậy Vinamilk đã chủ động tất cả các khâu từ nguồn nguyên
liệu sạch đảm bảo cho đến quy trình sản xuất khép kín đạt tiêu chuẩn quốc tế..
Trung thực trong Quảng cáo:
Một trong những hình thức để đưa hình ảnh của VINAMILK đến người tiêu
dùng chính là quảng cáo. VINAMILK kỳ vọng ở quảng cáo không chỉ ở tính sáng
53
tạo, hấp dẫn và hữu ích mà còn chú trọng sự trung thực và chính xác. VINAMILK
cam kết luôn quảng cáo trung thực tức là luôn nói đúng sự thật về sản phẩm
của mình. VINAMILK nói đúng, làm đúng và bán đúng sản phẩm có chất lượng
cho Người tiêu dùng như đã công bố.
Đáp ứng người tiêu dùng:
Vinamilk luôn hướng tới người tiêu dùng để đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu và
thị hiếu khi tạo ra sản phẩm. Nhu cầu của người tiêu dùng luôn thay đổi, cách tốt
nhất để làm được điều đó là luôn tôn trọng ý kiến người tiêu dùng, cũng như tạo một
môi trường thoải mái, thân thiện, kịp thời để trao đổi thông tin với người tiêu dùng.
Vinamilk cam kết luôn đón nhận thông tin từ phía người tiêu dùng như những đóng
góp về sản phẩm, mối quan tâm, thắc mắc hay cả những khiếu nại với thái độ trân
trọng nhất, lịch sự nhất, kịp thời nhất cũng như cam kết sẽ điều tra và giải quyết
thích đáng ngay lập tức đối với những vấn đề liên quan đến an toàn về sản phẩm,
dịch vụ.
Giữ gìn thông tin Người tiêu dùng: Vinamilk luôn tôn trọng và giữ gìn thông
tin riêng tư của người tiêu dùng.
Chương trình hành động.
Vinamilk có các chương trình để thực hiện quan điểm CSR với người tiêu dùng
như sau:
Tiêu chuẩn hóa theo cho sản phẩm:
Nhằm thực hiện đúng cam kết sản xuất các sản phẩm đạt tiêu chuẩn, an toàn và
đảm bảo Vinamilk đã đầu tư hơn 500 tỷ đồng (Từ đầu năm 2007) cho 5 trang
trại bò sữa đạt tiêu chuẩn quốc tế tại Tuyên Quang, Lâm Đồng, Bình Định,
Nghệ An, Thanh Hoá và đang tiếp tục triển khai xây dựng thêm các trại bò sữa
công nghiệp tại Tây Ninh, Đắk Nông, Hòa Bình, đồng thời công ty đã nhập
khẩu bò giống cao sản thuần chủng HF từ Úc, New Zealand.
54
Tiếp đó, quy trình chăn nuôi bò cũng được đảm bảo đúng tiêu chuẩn chất
lượng: Những chú bò đều được cho ăn theo phương pháp TMR (Total mixing
ration), với khẩu phần trộn tổng hợp gồm: cỏ, ngô tươi hoặc ủ, rỉ mật, cám,
hèm… đảm bảo giàu dinh dưỡng, nhằm cho nhiều sữa và chất lượng
cao. Những chú bò sữa được ngủ giường nệm, với hệ thống làm mát và có sân
để “thể dục thể thao”, tắm nắng. Mỗi con được gắn hai con chíp điện tử để có
thể phát hiện thời kỳ động dục, lúc ốm đau hoặc tự động ngắt van khi vắt sữa
nhưng chất lượng không đạt chuẩn vi sinh…
Các trang trại của Vinamilk nằm trải dài trên toàn quốc, gần các nhà máy chế
biến, có trang thiết bị tiên tiến hiện đại nên nguồn sữa tươi luôn đảm bảo chất
lượng cao nhất, tươi ngon nhất. Ngoài ra nhằm đảm bảo nguồn nguyên liệu dồi
dào cho các nhà máy sản xuất chế biến Vinamilk cũng tiến hành thu mua từ
các hộ dân. Để đảm bảo chất lượng nguồn sữa tươi nguyên liệu thu mua
Vinamilk có đội ngũ chuyên viên luôn sẵn sàng hỗ trợ bà con nông dân về kỹ
thuật chăn nuôi bò, chế độ dinh dưỡng, vệ sinh chuồng trại, cách vắt sữa và
bảo quản sữa. Sữa tươi nguyên liệu sau khi qua kiểm tra tại các trạm trung
chuyển được trữ lạnh và vận chuyển ngay về nhà máy chế biến.
Cũng giống như ở các trang trại chăn nuôi, các nhà máy chế biến sữa của
Vinamilk luôn được trang bị dây chuyền thiết bị và công nghệ sản xuất tiên
tiến nhất từ các nước có công nghệ sản xuất sữa phát triển như: Thụy Điển,
Mỹ, Đan Mạch, Hà Lan, Pháp, Đức, Thụy Sĩ. Hiện Vinamilk có 1 nhà máy sản
xuất sữa ở New Zealand và 11 nhà máy sản xuất sữa tại Việt Nam với dây
chuyền sản xuất, hệ thống tiệt trùng được coi là hiện đại nhất Đông Nam Á.
Ngoài ra chất lượng sữa của Vinamilk đã được kiểm nghiệm bởi Trung tâm
dịch vụ phân tích thí nghiệm TP.HCM (thuộc Bộ Khoa Học và Công Nghệ).
Những điều kể trên đã cho thấy các sản phẩm sữa của Vinamilk luôn đạt được
chất lượng cao nhất, tươi ngon nhất và an toàn nhất.
55
Trung thực trong quảng cáo: Thực hiện đúng theo cam kết trong bộ quy tắc ứng
xử các quảng cáo (Clip, thông tin đăng tải trên các phương tiện thông tin đại
chúng, chiến dịch thử nghiệm sữa…) của Vinamilk luôn nhấn mạnh về chất lượng
của sản phẩm như: sữa thật, sữa sạch, sữa tươi nguyên chất 100% …Bao bì sản
phẩm của công ty cũng ghi rõ nguồn gốc, thành phần dinh dưỡng hay các khuyến
cáo liên quan đến sản phẩm. Bên cạnh việc Vinamilk tôn trọng tính trung thực
trong quảng cáo thì Vinamilk còn đảm bảo bán đúng sản phẩm có chất lượng cho
Người tiêu dùng như đã công bố như là một cách để chứng minh tính trung thực
trong quảng cáo của công ty.
Đáp ứng người tiêu dùng:
Vinamilk luôn cố gắng đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng một
cách tốt nhất có thể. Nắm bắt được thị hiếu của người tiêu dùng luôn thay đổi,
với mỗi đối tượng khách hàng lại có những sở thích và thị hiếu khác nhau
chính vì vậy Vinamilk đã không ngừng nghiên cứu, thử nghiệm và đã đưa ra
ngoài thị trường trên 200 mặt hàng sữa bao gồm: Sữa đặc, sữa bột, bột dinh
dưỡng, sữa tươi, kem, sữa chua, phô – mai.Và các sản phẩm khác như: sữa
đậu nành, nước ép trái cây, bánh, cà phê hòa tan, nước uống đóng chai, trà,
chocolate hòa tan... Sự đa dạng sản phẩm sữa của Vinamilk đã phần nào đáp
ứng được thị hiếu của các nhóm khách hàng ở mọi lứa tuổi từ trẻ em đến
người già.
Bên cạnh đó, Vinamilk cũng cam kết luôn đón nhận thông tin từ phía người
tiêu dùng như những đóng góp về sản phẩm, mối quan tâm, thắc mắc hay cả
những khiếu nại với thái độ trân trọng nhất, lịch sự nhất, kịp thời nhất cũng
như cam kết sẽ điều tra và giải quyết thích đáng ngay lập tức đối với những
vấn đề liên quan đến an toàn về sản phẩm, dịch vụ. Trên thực tế đã thực hiện
khá tốt cam kết này.
56
Công ty luôn kịp thời có những giải đáp phản hồi kịp thời tới những thắc
mắc, mối quan tâm từ phía người tiêu dùng thông qua các đại lý phân phối;
qua thư từ hay đăng tải trực tiếp trên website của công ty. Ví dụ như trong vụ
việc “3 sản phẩm sữa của Vinamilk không đạt hàm lượng chất béo như đã
công bố trên nhãn” (năm 2009) và “Sữa Vinamilk kém chất lượng” (năm
2011). Vinamilk đã nhanh chóng gửi lời xin lỗi, lời cám ơn tới những ý kiến
đóng góp và có phản hồi trực tiếp tới người tiêu dùng và thông qua các
phương tiện đại chúng. Điều này đã cho thấy được Vinamilk luôn cố gắng đáp
ứng người tiêu dùng một cách tốt nhất nhằm đem lại sự hài lòng cho người
tiêu dùng.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện thì Vinamilk vẫn còn tồn tại một số hạn
chế đáng tiếc. Cũng trong vụ scandal sữa kém chất lượng năm 2011 vừa qua
Vinamilk cũng gây bức xúc không nhỏ đến người tiêu dùng với các phản hồi
từ phía công ty cụ thể là đại diện của các nhà phân phối của Vinamilk. Họ thể
hiện một sự vô trách nhiệm khi không trả lời người tiêu dùng một cách thỏa
đáng mà còn gần như đổ lỗi cho phía người tiêu dùng
Giữ gìn thông tin người tiêu dùng:
Vinamilk thường không tiến hành thu thập thông tin các nhân của người tiêu
dùng nhằm đảm bảo đời tư cho họ. Tuy nhiên trong một số hoạt động của công ty
như các chương trình khuyến mãi, bốc thăm trúng thưởng: “Vinamilk đầu tư cho
tương lai”, “Sưu tập và đổi Southern Kit”… người tiêu dùng được yêu cầu tiết lộ
một số thông tin cá nhân nhất định (như tên, địa chỉ nhà, email, số điện thoại) thì
các thông tin đó được Vinamilk đồng bộ, lữu trữ giữ gìn cẩn trọng và chỉ sử dụng
thông tin đó đúng mục đích đã thỏa thuận/công bố.
57
2.2.3.4. Vinamilk thực hiện CSR đối với khách hàng và nhà cung cấp
Quan điểm, chính sách thực hiện của Vinamilk
Đối với khách hàng: Vinamilk luôn nhìn nhận khách hàng như là một đối tác
kinh doanh dựa trên cơ sở đôi bên cùng có l Vinamilk không có hành vi hay hàm ý
ban ơn cho khách hàng, dù là nhà phối hay điểm bán lẻ, về giá cả, chiết khấu,
khuyến mại, hỗ trợ. Tất cả các hành động của Vinamilk với khách hàng đều nhất
quán dựa trên nền tảng là kinh doanh.
Đối với nhà cung cấp: Vinamilk luôn mong muốn đảm bảo được một nguồn
cung cấp ổn định và tin cậy trên nền tảng quan hệ bền vững và hài hòa lợi ích với
các nhà cung cấp nguyên liệu cũng như dịch vụ ở mức tiêu chuẩn cao. Do đó,
Vinamilk cam kết tạo dựng hình ảnh một công ty uy tín, tôn trọng và trung thực
với các nhà cung cấp.
Chương trình hành động
Đối với khách hàng:
Giữ được mối quan hệ tốt đẹp, bền vững lâu dài với khách hàng sẽ giúp cho
công ty tăng cường được năng lực cạnh tranh trên thị trường. Chính vì thế
Vinamilk đã có những hành động thiết thực như hoạch định, điều khoản hợp
tác, hỗ trợ về hệ thống khách hàng nhằm chiếm được sự trung thành của khách
hàng. Khách hàng của Vinamilk ở đây chính là những nhà phân phối sản phẩm
của công ty.
Hiện nay Vinamilk có hệ thống phân phối sản phẩm rộng khắp cả nước với hơn
240 nhà phân phối (NPP) trên hệ thống phân phối sản phẩm Vinamilk và có
trên 140.000 điểm bán hàng trên hệ thống toàn quốc. Công ty cũng bán hàng
qua tất cả các hệ thống Siêu thị trong toàn quốc. Với hệ thống phân phối khổng
lồ như vậy thì Vinamilk đã làm gì để duy trì và phát triển hệ thống một cách
bền vững? Câu trả lời chính là việc thực hiện tốt và rõ ràng các chính sách ưu
58
đãi tới các nhà phân phối như chính sách giá linh hoạt nhưng ổn định, chính
sách chiết khấu, khuyến mãi hay hỗ trợ bán hàng cho NPP. Đồng thời công ty
cũng áp dụng chính sách răn đe công bằng tới các NPP nếu như NPP nào vi
phạm hợp đồng với Vinamilk, công ty sẽ chấm dứt cắt bỏ để làm gương cho
những NPP khác. Bên cạnh đó, việc áp dụng hệ thống quản lí ERP quốc tế của
Oracle, SAP và Microsoft đã giúp cho luồng thông tin hai chiều từ phía
vinamilk tới NPP và ngược lại được thông suốt, hệ thống, tập trung và nhanh
chóng nhất. Những điều đó đã giúp Vinamilk và các NPP trở thành những
người bạn thân thiết và chung thủy với các sản phẩm của công ty.
Đối với nhà cung cấp:
Vinamilk luôn duy trì được mối quan hệ bền vững lâu dài thông qua chính sách
đánh giá của công ty và các chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho phía nhà cung cấp. Ví dụ
như Vinamilk đã hỗ trợ tài chính, công nghệ kĩ thuật cho nông dân để họ phát triển
chăn nuôi một cách có chất lượng; đồng thời công ty cũng tiến hành thu mua sữa
chất lượng cao với giá cáo qua đó khích lệ được người nông dân tiếp tục gắn bó với
đàn bò sữa. Chính nhờ những chính sách phù hợp thích đáng mà Vinamilk đã duy
trì mối quan hệ lâu bền (trên 10 năm) với các nhà cung cấp lớn uy tín trong ngành
sữa trên thế giới cũng như ở Việt Nam như: Fonterra (SEA) Pte Ltd, Hoogwegt
International BV, Perstima Bình Dương, Tetra Pak Indochina…
2.2.3.5. Vinamilk thực hiện CSR đối với Môi trường và Cộng đồng.
Quan điểm chính sách của Vinamilk
Vinamilk có một quan điểm rất rõ ràng và nhất quán đối với vấn đề bảo vệ
môi trường và phát triển cộng đồng: “Vinamilk phát triển bền vững thân thiện với
môi trường và có trách nhiệm với xã hội”. Điều đó có nghĩa là Vinamilk luôn hướng
tới việc hoạt động sản xuất an toàn nhất có thể đối với môi trường xung quanh bao
gồm bảo vệ nguồn nước, không khí, môi trường xung quanh khu sản xuất, chế biến;
59
đồng thời Vinamilk cũng luôn cố gắng hết sức đảm bảo lợi ích của toàn thể cộng
đồng chia sẻ một phần gánh nặng trách nhiệm xã hội cho nhà nước và chính phủ.
Chương trình hành động
Đối với môi trƣờng:
Vinamilk đã và đang không ngừng thực hiện các chương trình hành động vì
môi trường. Từ khi bắt đầu tiến hành sản xuất công ty Vinamilk đã chú trọng tới
việc giảm thiểu và xử lí chất thải phát sinh trong quá trình hoạt động của công ty.
Vinamilk đã chủ trương xây dựng các nhà máy, trang trại theo hướng hiện đại, tiêu
chuẩn với hệ thống xử lí chất thải tiên tiến đảm bảo tiêu chuẩn ISO 14000. Hiện
nay, toàn bộ các nhà máy trang trại của Vinamilk đều đạt tiêu chuẩn HACCP
(Hazard Analysis Critical Control Point) - “Hệ thống phân tích mối nguy hiểm và
xác định kiểm soát trọng yếu” dùng để xác định và tổ chức kiểm soát các mối nguy
trọng yếu trong quá trình sản xuất và chế biến thực phẩm, tạo ra môi trường làm
việc thông thoáng sạch sẽ, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động cho CBNV và không
ảnh hưởng tới đến khu vực dân cư xung quanh nhà máy. Bởi vì do quy trình sản
xuất của Vinamilk hầu như là khép kín từ khâu nguyên liệu đầu vào cho tới khi sản
phẩm được tạo ra. Với cơ sở hạ tầng nhà máy, trang trại hiện đại, cùng với trang
thiết bị tiên tiến tiết kiệm, và hệ thống xử lí chất thải thông minh được sở Tài
Nguyên và Môi Trường công nhận đã làm giảm đáng kể lượng chất thải trong quá
trình sản xuất của công ty ra môi trường bên ngoài. Lượng chất thải giảm qua từng
năm cho thấy được những nỗ lực của Vinamilk đã có hiệu quả. Theo đó, lượng
nước đã qua xử lí và thải ra ngoài môi trường năm 2010 đã giảm 17.1% trên 1 tấn
sản phẩm so với năm 2009.15
Bên cạnh đó, Vinamilk cũng thực hiện các biện pháp nhằm giảm thiểu ô
nhiễm cho môi trường xung quanh cũng như là khu dân cư quanh nhà máy, trang
15
Theo báo cáo thường niên của Vinamilk năm 2011
60
trại của công ty. Mọi nguồn phát sinh tiếng ồn đều nằm xa khu dân cư và được
cách ly hoàn toàn. Công ty còn trồng cây xanh xung quanh nhà máy tạo cảnh quan
xanh - sạch - đẹp, đồng thời hạn chế tiếng ồn, bụi khói ảnh hưởng đến môi trường
không khí khu dân cư nhằm giảm hiện tượng ô nhiễm tiếng ồn vốn đang là vấn nạn
ở các thành phố lớn.
Vinamilk cũng luôn nỗ lực tìm kiếm thêm các giải pháp để phòng ngừa ô
nhiễm, giảm lượng chất thải, tiết kiệm và tăng cường hiệu quả sử dụng tài nguyên,
nhiên liệu theo hướng thân thiện với môi trường. Bên cạnh hệ thống trang trại,
nhà máy, máy móc thiết bị hiện đại đạt tiêu chuẩn Vinamilk đã không ngừng cải
thiện hệ thống vận hành hay thiết bị theo hướng tiết kiệm năng lượng thân thiện
với môi trường. Như việc sử dụng công nghệ đèn LED (giúp tiết kiệm 5-25 lần tiêu
thụ điện năng) thay thế cho đèn cao áp chiếu sáng thông thường trong công ty tại
nhà máy Sữa Sài Gòn. Vinamilk thực hành tiết kiệm theo chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà Nươc cũng như của chính công ty Vinamilk. Vinamilk cũng đã
gây dựng những phong trào tiết kiệm năng lượng trong nội bộ công ty qua đó công
ty đã giảm thiểu được nhu cầu về năng lượng (điện, nước, dầu). Kết quả này được
thể hiện qua bảng số liệu dưới đây:
61
Biểu đồ 12: Mối quan hệ giữa nguồn tài nguyên sử dụng và nƣớc thải của
Vinamilk
(Nguồn: Báo cáo thường niên Vinamilk 2011)
Qua sơ đồ này chúng ta thấy được việc tiêu thụ điện, dầu FO, nước giảm
đáng kể từ năm 2009-2011). Điều đó chứng tỏ phong trào tiết kiệm năng lượng của
Vinamilk đề ra tương đối thành công. Ngoài ra, Vinamilk cũng luôn không ngừng
cải tiến chất lượng bao bì của sản phẩm sao cho an toàn, đẹp mắt và thân thiện với
môi trường. Ví dụ như việc giảm trọng lượng bao bì sữa đặc có đường: sử dụng
thiếc mỏng hơn để giảm trọng lượng bao bì của các sản phẩm sữa đặc có đường,
giảm lượng nhựa bao bì tiêu hao trên 1 đơn vị hộp sữa chua.
Ngoài ra, Vinamilk luôn tích cực tham gia các hoạt động phong trào vì môi
trường tại địa phương thể hiện qua việc phối hợp cùng với địa phương, người dân
xung quanh nhà máy tiến hành dọn vệ sinh tạo cảnh quan sanh xạch đẹp cho khu
vực dân cư cũng như xung quanh nhà máy. Thường xuyên, tích cực với chính
quyền địa phương triển khai giáo dục nâng cao ý thức của người dân về bảo vệ
môi trường, hưởng ứng nhiệt tình những ngày lễ vì môi trường. Và Công ty luôn
62
hoàn thành công tác đóng phí bảo vệ môi trường và phí khai thác tài nguyên
nước, phí cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường đầy đủ và đúng hạn cũng là
cho thấy Vinamilk luôn cố gắng thực hiện tốt chuẩn mực CSR đối với môi trường
Đối với cộng đồng xã hội:
Vinamilk đã không ngừng nỗ lực hết mình chia sẻ trách nhiệm đối với cộng
đồng xã hội với nhà nước và chính phủ thông qua các chương trình từ thiện xã hội
và phong trào phát triển cộng đồng. Những chương trình tiêu biểu của Vinamilk
phải kể đến Quỹ sữa cho trẻ em nghèo_ “Vì một Việt Nam luôn vươn cao”, Quỹ
học bổng thường niên Vinamilk_ “Vinamilk - ươm mầm tài năng trẻ Việt Nam” và
“Vừ A Dính”. Những chương trình từ thiện vì cộng đồng của Vinamilk luôn hướng
trọng tâm đến đối tượng của các em nhỏ là vì thế hệ trẻ chính là tương lai của quốc
gia dân tộc. Qua nhiều năm thực hiện các chương trình kể trên Vinamilk đã đóng
góp không nhỏ vào sự phát triển bền vững của cộng đồng và của đất nước. Quỹ
sữa Vươn cao Việt Nam được khởi nguồn từ “Quỹ một triệu ly sữa vì trẻ em nghèo
Việt Nam” được triển khai từ năm 2008 nhằm mục đích chia sẻ những khó khăn
của trẻ em nghèo, có hoàn cảnh đặc biệt, bị suy dinh dưỡng, khuyết tật… Hoạt
động xã hội này của Vinamilk còn vì mục đích cao cả là giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng,
tăng cường chiều cao cho trẻ em, mong muốn thay đổi một thế hệ người Việt. Từ
khi triển khai trương chình này đến nay Quỹ sữa đã trao khoảng 19 triệu ly sữa tới
tận tay trẻ em trên cả nước với tổng trị giá khoảng hơn 69 tỷ đồng. Không chỉ
mong muốn cải thiện được thể chất của người Việt trẻ, Vinamilk còn mong muốn
đóng góp sức mình cho việc phát triển tri thức, tài năng của trẻ em Việt Nam và sự
nghiệp xã hội hóa giáo dục của nhà nước. Do đó, Quỹ học bổng “Ươm mầm tài
năng trẻ Việt Nam” đã được thành lập đồng hành cùng với các em học sinh tiểu
học trên khắp cả nước có thành tích xuất sắc trong học tập, học sinh nghèo vượt
khó. Được thành lập từ năm học 2003-2004 đến nay, tổng số tiền Vinamilk tài trợ
cho Quỹ học bổng đã lên đến gần 16 tỷ đồng. Quỹ cũng đã xây dựng thư viện đạt
63
chuẩn của Bộ Giáo dục tại một số trường tiểu học, trao học bổng tài năng cho các
em đoạt giải trong cuộc thi “Vinamilk tìm kiếm tài năng Việt”.
Bên cạnh đó, Vinamilk đã thực hiện hàng loạt các chương trình từ thiện có
chiều sâu đặc biệt hướng tới chia sẻ những đau thương mất mát của đồng bào trên
cả nước: Năm 2011, Công ty Vinamilk đã ủng hộ 500 triệu đồng cho Quỹ Bảo trợ
bệnh nhân nghèo (Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo TP. Hồ Chí Minh) để thực hiện
các ca mổ tim bẩm sinh cho trẻ em. Đây là hoạt động đầy ý nghĩa mang tính nhân
văn được Vinamilk luôn quan tâm và duy trì thực hiện suốt 10 năm qua. Đối với
công tác đền ơn đáp nghĩa, Vinamilk hiện đang phụng dưỡng 11 Mẹ Việt Nam
anh hùng suốt đời tại 2 tỉnh Bến Tre & Quảng Nam. Trong đợt lũ lụt lịch sử ở
Miền Trung năm 2010 CBNV công ty đã đóng góp, ủng hộ mỗi người ít nhất 1
ngày lương, tổng tiền hơn 1,7 tỷ đồng để ủng hộ bà con vùng lũ ở Nghệ
An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Huế. Vinamilk đã vận động hơn 4.000
cán bộ công nhân viên quyên góp trên 1 tỷ đồng thực hiện chương trình “Góp đá
xây Trường Sa”. Vinamilk cũng chia sẻ với nhau mất mát của cộng đồng trên thế
giới qua chương trình quyên góp ủng hộ 2.1 tỷ đồng nhằm chia sẻ những mất mát,
đau thương của người dân Nhật Bản trong trận động đất, sóng thần vào tháng 3-
2011.
2.2.4. Ngân sách thực hiện CSR của Vinamilk.
Để thực hiện được hàng loạt các hoạt động CSR như nhóm nghiên cứu đã
trình bày ở trên, Vinamilk luôn dành riêng một khoảng ngân quỹ không nhỏ cho
các hoạt động của mình (chiếm khoảng 2% - 3% nguồn vốn của công ty). Hằng
năm, Vinamilk đều tăng nguồn ngân sách nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện CSR
giành cho các hoạt động, chương trình có liên quan:
64
Biểu đồ 13: Ngân sách giành cho hoạt động CSR của Vinamilk
qua các năm (2008-2011)
(Nguồn: Báo cáo thường niên Vinamilk từ 2008-2011)
Với việc tăng nguồn ngân sách giành cho CSR càng cho thấy Vinamilk ngày
càng chú trọng hơn tới việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Coi
đó là một trong những giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty
cũng như thể hiện trách nhiệm cao nhất của Công ty với cộng đồng, xã hội.
2.2.5. Đánh giá việc thực hiện CSR của Vinamilk.
2.2.5.1. Mức độ thành công của Vinamilk trong việc thực hiện CSR
Hiện nay trên thế giới, mức độ thành công của doanh nghiệp trong việc thực
hiện CSR thường được đánh giá qua phương pháp đánh giá chỉ số xã hội KLD
thông qua việc đánh giá: đạo đức kinh doanh của công ty, mức độ hài lòng của
nhân viên, sự hài lòng của khách hàng, ảnh hưởng tới cộng đồng, tác động tích cực
tới môi trường. Ngoài ra, các chuyên gia cũng thường sử dụng phương pháp đánh
giá theo KPI (Key Performance Indicators) - “Chỉ số đánh giá thực hiện công việc”
bao gồm: giá trị thương hiệu, mức độ thu hút và giữ được lòng tin của khách hàng,
65
danh tiếng của công ty, mức độ hấp dẫn của giới chủ, mức độ hấp dẫn nguồn nhân
lực và giữ chân được nhân viên. Tuy nhiên trong khuôn khổ nghiên cứu này, chúng
tôi đánh giá mức độ thành công của Vinamilk thông qua những thành quả mà công
ty đã đạt được cũng như những hạn chế mắc phải trong quá trình thực hiện CSR
dựa trên việc đáp ứng các nhân tố CSR trong mô hình kim tự tháp của A. Caroll.
Thành quả:
Nhóm nghiên cứu đánh giá thành quả mà Vinamilk đạt được trên cơ sở áp dụng mô
hình kim tự tháp của A. Carroll như đã trình bày ở phần mở đầu.
Nhân tố kinh tế:
Nhờ những nỗ lực thực hiện CSR mà tình hình kinh doanh của Vinamilk ngày
càng phát triển. Những tác động của CSR được thể hiện qua lợi ích kinh tế mà nó
mang lại cho Vinamilk thông qua lợi ích tài chính và phi tài chính.
Lợi ích tài chính:
Tình hình kinh doanh của Vinamilk ngày càng phát triển ổn định:
Điều đó được thể hiện qua các chỉ số tài chính như tốc độ tăng trưởng của
công ty luôn ở mức cao trên 30%, doanh thu năm sau đều tăng so với năm
trước đó; tỷ số lợi nhuận ròng trên tài sản ROA và tỷ số lợi nhuận ròng trên
vốn chủ sở hữu ROE cũng tăng tương đối ổn định:
66
Biểu đồ 14: Sơ đồ tăng trƣởng doanh thu của Vinamilk
qua các năm (2008-2011)
(Nguồn: Báo cáo thường niên Vinamilk từ 2008-2011)
Biểu đồ 15: Sơ đồ thể hiện tốc độ tăng trƣởng ROA của Vinamilk
qua các năm (2008-2011)
(Nguồn: Báo cáo thường niên Vinamilk từ 2008-2011)
67
Biểu đồ 16: Sơ đồ thể hiện tốc độ tăng trƣởng ROE của Vinamilk
qua các năm (2008-2011)
(Nguồn: Báo cáo thường niên Vinamilk từ 2008-2011)
Giảm chi phí sản xuất:
Với việc sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại trong quá trình sản xuất cùng
với việc chủ động nguồn nguyên liệu sữa đã giúp cho Vinamilk tiết kiệm được
đáng kể chi phí sản xuất sữa nhất là giảm thiểu được chi phí cho các sản phẩm
bị lỗi kém chất lượng. Các trang trại của Vinamilk hay của các hộ nông dân
gần với lại các nhà máy chế biến sữa của công ty điều này giúp tiết kiệm được
thời gian và giảm thiểu được chi phí vận chuyển nguyên liệu. Cùng với đó các
biện pháp tiết kiệm chi phí tối đa và các biện pháp tiết kiệm tiêu thụ năng
lượng cho sản xuất, đã giúp cho Vinamilk giảm thiểu được chi phí đáng kể:
chi phí nhân công trực tiếp năm 2011 là 5,6% giảm so với năm 2010 là 6,1%;
tỷ lệ chi phí bán hàng/doanh thu thuần và chi phí quản lý doanh nghiệp/doanh
thu thuần của Vinamilk cũng giảm xuống chỉ còn 8,4% và 2,1% năm 2011 từ
68
mức 9,1% và 2,5% trong năm 2010; điện năng tiêu thụ giảm 5,5%, dầu FO
giảm 6,91 %, nước nguồn giảm 9,69; nước thải đã qua xử lí giảm 3,41 %, …
Lợi ích phi tài chính:
Nâng cao vị thế và danh tiếng của Vinamilk:
Điều đó được ghi nhận qua hàng loạt các danh hiệu giải thưởng danh giá trong
nước và quốc tế: “Hàng Việt Nam chất lượng cao” do báo Sài gòn tiếp thị
bình chọn, “Doanh nghiệp Xanh” do UBND Tp.HCM cấp, “ Thương hiệu
hàng đầu Việt Nam”, “Thương hiệu uy tín”, là 1 trong 5 doanh nghiệp lớn
nhất Việt Nam do VNR bình chọn; và được vinh danh trong top 200 doanh
nghiệp tốt nhất ở châu Á – Thái Bình Dương năm 2010 do tạp chí uy tín
Forbes bình chọn. Cùng với đó Vinamilk được đánh giá là một trong những
thương hiệu dẫn đầu về sự nhận biết của người tiêu dùng theo khảo sát của
AC Nelson. Bà Mai Kiều Liên chủ tịch hội đồng quản trị Vinamilk cũng vinh
dự được lọt vào top 50 doanh nhân nữ quyền lực nhất châu Á cũng do tạp chí
Forbes bình chọn.
Vinamilk đã chiếm được lòng tin và tạo được cảm giác tin tưởng đối với nhà
đầu tư, đối tác và các cổ đông:
Điều đó được thể hiện qua việc hợp tác lâu dài và bền vững của Vinamilk với
các bên liên quan đặc biệt là các đối tác nước ngoài. Ngoài ra các chương
trình hành động vì cộng đồng của Vinamilk đã nhận được sự ủng hộ đồng tình
của cộng đồng từ đó mà hình ảnh Vinamilk trong cộng đồng ngày càng được
nâng cao.
Vinamilk luôn duy trì được lực lượng nhân sự ổn định và có trình độ cao:
Điều này có được từ việc xây dựng môi trường làm việc lành mạnh, an toàn,
hiệu quả cùng với chính sách nhân sự phù hợp: chế độ lương thưởng, các ưu
đãi, các chương trình đào tạo…. Vinamilk cũng thu hút được nhiều cán bộ cấp
69
cao giỏi, giàu kinh nghiệm từng làm cho các tập đoàn đa quốc gia lớn như
Pepsico, F&N Foods Pte ltd...
Nhân tố pháp lý.
Vinamilk luôn chấp hành tuân thủ các quy định của pháp luật một cách
nghiêm túc. Vinamilk chưa hề có dấu hiệu vi phạm các cam kết của công ty đối với
luật pháp. Công ty luôn cố gắng thực hiện và tuân thủ các điều luật như: Luật Cạnh
tranh, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Lao động, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Chứng
Khoán,… một cách tốt nhất. Những cố gắng và nỗ lực của công ty đã được ghi
nhận qua một số danh hiệu giải thưởng khích lệ động viên do nhà nước và các tổ
chức uy tín trao tặng như: Huân chương lao động I, II, III; Được tôn vinh và đoạt
giải thưởng của Tổ chức sở hữu trí tuệ Thế giới WIPO; Doanh nghiệp xanh do báo
Sài Gòn Tiếp Thị (SGTT) trao Tặng; Top 200 doanh nghiệp (DN) tư nhân nộp thuế
thu nhập doanh nghiệp lớn nhất VN năm 2011 do Công ty Cổ phần Báo cáo đánh
giá Việt Nam công nhận; Cúp vàng “Thương hiệu chứng khoán Uy tín 2009” và
giải thưởng “Doanh nghiệp tiêu biểu trên thị trường chứng khoán Việt Nam năm
2009” do Hiệp hội kinh doanh chứng khoán, Trung tâm Thông tin tín dụng,Tạp chí
chứng khoán VIệt Nam trao tặng, và nhiều danh hiệu giải thưởng khác.
Nhân tố đạo đức.
Vinamilk được đánh giá thực hiện những giá trị, chuẩn mực đạo đức tương
đối tốt. Những quy tắc ứng xử xã hội hay những hành động tự nguyện tuân theo
những chuẩn mực đạo đức của xã hội như phúc lợi cho CBNV công ty hay phúc
lợi xã hội theo thuần phong mỹ tục, truyền thống của dân tộc ta luôn được
Vinamilk duy trì và thực hiện nghiêm túc. Điều đó cũng phần nào được ghi nhận
qua các giải thưởng, danh hiệu mà Vinamilk đã nhận được: danh hiệu Vì sự nghiệp
lao động thương binh – Xã hội do Chủ tịch Quỹ bảo trợ trẻ em Việt Nam trao tặng;
Giải vàng thương hiệu an toàn vệ sinh an toàn thực phẩm do Cục An toàn thực
phẩm trao tặng; Top 10 “Hàng Việt Nam chất lượng cao” do báo SGTT công nhận.
70
Nhân tố từ thiện.
Vinamilk luôn thực hiện rất tốt và duy trì đều đặn các hoạt động từ thiện. Các
chương trình từ thiện và các hoạt động vì sự phát triển của cộng đồng như Quỹ sữa
cho trẻ em nghèo, quỹ học bổng “Ươm mầm tài năng”; ủng hộ miền trung lũ lụt,
quyên góp ủng hộ nhân dân Nhật Bản, chăm sóc những bà mẹ Việt Nam anh hùng
và nhiều hoạt động phong trào từ thiện khác nữa luôn nhận được sự ủng hộ và
hưởng ứng nhiệt tình của cộng đồng và xã hội. Việc Vinamilk thực hiện các
chương trình từ thiện có chiều sâu và mang tính cộng đồng cao đã thể hiện được rõ
quyết tâm thực hiện đúng chuẩn mực CSR một cách nghiêm túc thực sự của công
ty.
Hạn chế:
Mặc dù đạt được những thành quả không hề nhỏ trong quá trình hoàn thiện các
chuẩn mực CSR nhưng Vinamilk vẫn mắc phải một số sai lầm và hạn chế nhất
định trong quá trình thực hiện CSR.
- Một số xì-căng-đan liên quan đến chất lượng của sản phẩm:
Vinamilk đã khá thành công khi luôn thực hiện tốt những cam kết về chất
lượng của sản phẩm tuy nhiên vẫn để xảy ra một số xì-căng-đan liên quan đến
chất lượng của sản phẩm như bao bì in sai lệch hàm lượng dinh dưỡng, sản
phẩm không đảm bảo chất lượng. Kéo theo đó là một loạt các sai lầm khác như
thái độ không tích cực chân thành giải quyết sự vụ của đại diện NPP của
Vinamilk. Điều đấy cho thấy hệ thống trao đổi thông tin, giáo dục kiểm soát
hành vi của toàn bộ CBNV công ty và các bên liên quan vẫn còn nhiều hạn chế
- Hạn chế trong việc thực hiện các tiêu chuẩn SA8000:
Vinamilk vẫn còn hạn chế trong việc thực hiện các tiêu chuẩn SA8000 đối với
người lao động. Việc thực hành lao động theo hướng dẫn tiêu chuẩn SA8000
của công ty vẫn còn bị sai lệch đi ít nhiều. Mặc dù công ty cũng đã có những
hành động cụ thể liên quan đến việc đảm bảo những lợi ích của CBNV trong
71
toàn công ty. Nhưng đời sống của CBCNV công ty vẫn chưa đạt được mức tốt
nhất có thể. Công đoàn chưa có những hành động cụ thể để phát huy được
đúng vai trò nổi bật của mình nên lợi ích của người lao động vẫn còn chưa
được đảm bảo một cách tốt nhất
- Các chính sách, văn bản thực thi cũng chưa thực sự rõ ràng chặt chẽ.
Dù cho Vinamilk đã áp dụng Bộ Quy Tắc Ứng Xử nhưng những văn bản
hướng dẫn đi kèm nó thì cũng chưa được rõ ràng, dễ hiểu; cùng với đó các văn
bản hướng dẫn thực thi những chính sách của pháp luật hay những quy định,
những chính sách của công ty tới toàn bộ CBCNV cũng chưa được đồng bộ,
chi tiết nên việc thực hiện bị sai lệch đi rất nhiều. Điều đó dẫn đến hiệu quả
thực hiện công việc là chưa cao.
- Cơ sở hạ tầng CNTT.
Cơ sở hạ tầng CNTT của Vinamlik mới đang trong giai đoạn xây dựng và
phát triển do đó việc vận hành hệ thống quản trị doanh nghiệp tổng hợp ERP
hay các hệ thống quản lí chất lượng, quản lí nguồn nhân lực Histaff còn gặp
khá nhiều hạn chế và không tránh khỏi việc xảy ra một số sai sót nhất định.
Do đó việc thực hiện các chuẩn mực CSR nhất là với người lao động còn có
nhiều hạn chế.
- Nguồn ngân sách chưa được quy hoạch cụ thể:
Nguồn ngân quỹ để thực hiện CSR của công ty cũng chưa rõ ràng. Hiện nay
các hoạt động CSR của Vinamilk được trích ra từ quỹ phúc lợi, khen thưởng
và quỹ hỗ trợ thất nghiệp thôi việc theo quy định của nhà nước do đó rất dễ để
xảy ra tình trạng sử dụng các quỹ với các mục đích chồng chéo nhau. Năm
2007 Vinamilk đã vướng vào sự vụ gây xôn xao dư luận về việc công ty sử
dụng quỹ tiền lương, phúc lợi, khen thưởng sai mục đích để mua cổ phần cho
người lao động.
Mặc dù, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế trong việc thực hiện CSR của Vinamilk
nhưng nhìn chung lại Vinamilk đã thực hiện tương đối tốt các chuẩn mực về CSR.
72
Công ty cũng đang nỗ lực không ngừng nhằm hoàn thiện và thực hiện CSR được
hiệu quả hơn nữa.
2.2.5.2. Thuận lợi và khó khăn của Vinamilk khi thực hiện CSR
Qua phân tích về Vinamilk, nhóm nghiên cứu nhận thấy dù có được không ít
thuận lợi thì doanh nghiệp này cũng gặp phải những khó khăn nhất định khi thực
hiện CSR. Những thuận lợi và khó khăn này dù không hoàn toàn giống nhưng có
rất nhiều điểm tương đồng với những phân tích về nguồn lực thực hiện CSR của
doanh nghiệp Việt Nam mà nhóm nghiên cứu đã trình bày.
Thật vậy, tuy khá phức tạp nhưng có thể chia những khó khăn và thuận lợi
của Vinamilk khi thực hiện CSR tới từ hai yếu tố cơ bản: yếu tố bên ngoài (1) và
yếu tố bên trong doanh nghiệp (2), điều này tương tự như phân tích về nguồn lực
của doanh nghiệp Việt Nam. Yếu tố bên ngoài tới từ phía nhà nước, xã hội, doanh
nghiệp nước ngoài… còn yếu tố bên trong doanh nghiệp tới từ cơ sở vật chất, tài
chính, nguồn nhân lực, lãnh đạo doanh nghiệp.
Từ đó, nhóm nghiên cứu quyết định phân tích những yếu tố này để làm rõ câu
hỏi rằng liệu trong quá trình thực hiện CSR của mình, Vinamilk có được những
thuận lợi và đã vấp phải những trở ngại nào.
Thuận lợi:
- Chủ trương, chính sách của nhà nước:
Một trong những thuận lợi giúp cho Vinamilk thêm vững bước trên con
đường hoàn thiện việc thực hiện các chuẩn mực CSR đó chính là chủ chương của
Đảng và Nhà nước ta rất khuyến khích các hoạt động CSR vì một xã hội: “DÂN
GIÀU NƯỚC MẠNH – XÃ HỘI CÔNG BẰNG DÂN CHỦ VĂN MINH”. Do
đó, chính phủ đã ban hành các văn bản pháp luật có tính chất định hướng và
hướng dẫn cho các doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm đối với xã hội. Thuận
73
lợi thứ hai giúp cho các chương trình từ thiện, vì cộng đồng hay các chiến dịch
bảo vệ môi trường của Vinamilk được cộng đồng hưởng ứng nhiệt tình đó chính
là do nhu cầu của con người luôn luôn mong muốn được đáp ứng những cái đó.
Nhất là trong điều kiện cuộc sống ngày càng được cải thiện nâng cao thì các nhu
cầu được sống trong một môi trường trong lành, được tham gia vào các chương
trình có quy mô toàn cộng đồng ngày càng tăng. Không những thế những hoạt
động của Vinamilk cũng rất phù hợp với thuần phong mỹ tục, truyền thống đạo
đức của dân tộc ta nên việc triển khai thực hiện CSR của công ty được sự tán
đồng ủng hộ mạnh mẽ từ phía cộng đồng.
- Sự quan tâm và đòi hỏi của xã hội.
Ngày nay cộng đồng xã hội ngày càng quan tâm hơn đến hoạt động của các
doanh nghiệp từ những hoạt động trong nội bộ công ty đến những việc làm của
doanh nghiệp ảnh hưởng tới môi trường, cộng đồng xã hội. Cộng đồng chính là
một nhân tố đánh giá cho thành công của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào được
sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng xã hội sẽ có cơ hội rất lớn trong việc chiếm
được lòng tin của người tiêu dùng và các bên liên quan khác từ đó mà hoạt động
kinh doanh của công ty sẽ hiệu quả hơn.
Ngược lại doanh nghiệp nào tạo doanh nghiệp nào tạo ra các xì-căng-đan
xấu chắc chắn sẽ bị xã hội “tẩy chay” dẫn đến gặp khó khăn trong sản xuất và
kinh doanh. Chính vì thế nếu doanh nghiệp tận dụng được sự ủng hộ của cộng
đồng xã hội thì các hoạt động CSR của doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều thuận lợi để
phát triển.
- Vinamilk là một công ty có quy mô lớn với tốc độ tăng trưởng tốt.
Do đó cũng là một điều kiện thuận lợi giúp công ty chủ động được nguồn
ngân quỹ dồi dào giành cho các hoạt động CSR. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của
ban lãnh đạo công ty, Vinamilk đã không ngừng phát triển lớn mạnh, danh tiếng
74
ngày càng vang xa trong những năm qua. Không những thế đội ngũ lãnh đạo
Vinamilk nhận thức rất sâu sắc về tầm quan trọng của việc thực hiện trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp (CSR). Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho Vinamilk
tiến hành đàm phán hợp tác với các đơn vị khác trong các hoạt động CSR của
công ty. Với cơ sở vật chất hiện đại ,tiêu chuẩn cùng với đội ngũ nhân viên chất
lượng cao, có trách nhiệm. đoàn kết, gắn bó và có tâm đã tạo điều kiện thuận lợi
cho Vinamilk thực hiện thành công các chương trình CSR trong và ngoài công ty
ví dụ như các chương trình quyên góp ủng hộ tiền cứu trợ lũ lụt hay các hoạt
động tổng vệ sinh môi trường xung quanh nơi làm việc.
- Trên thế giới đã có rất nhiều công ty thực hiện tốt CSR:
Nhóm nghiên cứu lấy ví dụ của tập đoàn Toyota và công ty KPMG Trung
Quốc để phân tích và rút ra kinh nghiệm thực hiện CSR cho Vinamilk. Những
kinh nghiệm đó là cơ sở thuận lợi cho Vinamilk có thể tự tin hơn với việc thực
hiện các chuẩn mực của CSR, dĩ nhiên Vinamilk cũng cần có sự tùy biến để giúp
chúng trở nên phù hợp với hoàn cảnh, môi trường tại Việt Nam. Ngoài ra,
Vinamilk còn nhận được rất nhiều sự ủng hộ cả vật chất lẫn tinh thần từ các đối
tác trong và ngoài nước. Qua đó công ty thêm vững tin thực hiện tốt trách nhiệm
xã hội của mình.
Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi vô cùng to lớn kể trên Vinamilk cũng
phải đối mặt với không ít những khó khăn đến từ bên ngoài cũng như trong bản
thân nội tại công ty trong quá trình thực hiện CSR.
- Nhận thức của xã hội về CSR còn thấp:
Do CSR cũng đang còn mới ở Việt Nam cho nên nhận thức của người dân
còn nhiều hạn chế. Chính vì thế Vinamilk cũng gặp một số khó khăn nhất định từ
một số người dân trong các hoạt động vì cộng đồng của Vinamilk như là không
hợp tác hay còn phản đối. Nhà nước cũng góp phần tạo ra khó khăn cho Vinamilk
75
thực hiện CSR đó chính là hệ thống văn bản pháp luật quy định về CSR còn nhiều
điểm sai sót và hạn chế. Chính những quy định không rõ ràng, văn bản hướng dẫn
thực hiện luật chưa thật sự dễ hiểu và còn mù mờ.
- Khó khăn trong bản thân doanh nghiệp:
Bản thân nội tại Vinamilk cũng nảy sinh nhiều vấn đề khó khăn cho việc
thực hiện CSR. Đầu tiên chính là Vinamilk với Quy mô lớn nhưng hệ thống thông
tin, hệ thống quản lí của công ty vẫn còn mới do đó việc vận hành vẫn chưa thực
sự trơn tru, đồng bộ, tập trung và linh hoạt cho nên một số hoạt động CSR trong
nội bộ công ty triển khai khó khăn hay thậm chí là triển khai bị sai lệch. Tiếp đó
chính là do hạn chế nhận thức về CSR của một số CBNV trong công ty. Do đó việc
thực hiện CSR của công ty gặp không ít khó khăn và trở ngại với lại đội ngũ nhân
viên trong công ty. Thêm vào đó, ngân quỹ giành cho các hoạt động CSR tương
đối lớn. Do đó nếu có biến động bất ngờ xảy ra ảnh hưởng tới tình hình kinh doanh
của công ty thì chắc chắn quỹ giành cho CSR sẽ bị giảm sút đáng kể. Kéo theo đó
chất lượng thực hiện CSR của doanh nghiệp sẽ giảm sút.
76
CHƢƠNG 3
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CSR ĐỐI
VỚI CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA VIỆT NAM VINAMILK
Trên cơ sở những phân tích, đánh giá về thực trạng CSR của Vinamilk, cộng
với tham khảo kinh nghiệm của các doanh nghiệp nước ngoài như Toyota, nhóm
nghiên cứu đưa ra gói giải pháp để tăng cường thực hiện và nâng cao hiệu quả của
CSR đối với Vinamilk.
Gói giải pháp này được chia làm 4 nhóm giải pháp:
- Nhóm giải pháp mang tính kỹ thuật.
- Nhóm giải pháp về con người.
- Nhóm giải pháp về tài chính.
- Thúc đẩy vai trò của lãnh đạo doanh nghiệp với CSR
Biểu đồ 17: Mô hình các nhóm giải pháp thúc đẩy CSR cho doanh nghiệp
77
3.1. Nguyên tắc hình thành các nhóm giải pháp.
Nhóm giải pháp mà nhóm nghiên cứu đưa ra dưa trên một số nguyên tắc sau:
3.1.1. Khung khổ lý thuyết.
Đầu tiên và quan trong nhất là những phân tích, đánh giá về thực trạng CSR của
Vinamilk, gồm có: thành quả (sự thành công và lợi ích từ CSR), hạn chế trong
việc thực hiện CSR, yếu tố thuận lợi, khó khăn trong quá trình thực hiện
CSR.
Tham chiếu những phân tích về cơ sở lý luận của việc thực hiện CSR của doanh
nghiệp Việt Nam nói chung, bao gồm: lợi ích từ CSR, tính cấp thiết, nguồn lực
để doanh nghiệp Việt Nam thực hiện CSR.
Tham khảo kinh nghiệm thực hiện CSR của các doanh nghiệp nước ngoài như
Toyota và KPMG Trung Quốc.
3.1.2. Mục đích hình thành.
Phát huy hơn nữa việc thực hiện và tính hiệu quả của các hoạt động đã có trong
công ty, đồng thời thực hiện những hoạt động CSR cần thiết mà Vinamilk chưa
làm được.
Tận dụng những điều kiện thuận lợi và hạn chế những điểm khó khăn mà
Vinamilk gặp phải trong giai đoạn hiện nay để đưa CSR trong doanh nghiệp
Vinamilk vươn tới một tầm cao mới, đồng thời hỗ trợ đắc lực cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
78
3.2. Nhóm giải pháp mang tính kỹ thuật.
Về cơ bản nhóm giải pháp này 3 giải pháp chính: Hoàn thiện các văn bản quy
định, hướng dẫn thực hiện CSR (1), Tăng cường áp dụng các chuẩn mực liên quan
tới CSR (2) và cải thiện hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc thực hiện CSR (3).
Hoàn thiện hệ thống văn bản quy định, hướng dẫn thực hiện CSR.
Bộ quy tắc ứng xử riêng của Vinamilk cần được bổ sung, hoàn thiện chặt chẽ
hơn nữa về các điều khoản, các quy tắc trong đó. Có như vậy bộ quy tắc ứng xử
mới phát huy được vai trò to lớn định hướng đúng đắn cho các hoạt động CSR của
công ty. Song song với việc hoàn thiện Bộ quy tắc ứng xử Vinamilk cũng cần phải
xây dựng và phát triển văn bản hướng dẫn thực hiện chi tiết nó xuyên suốt toàn thể
công ty sao cho chi tiết, rõ ràng dễ hiểu nhất. Có như thế những quan điểm, chính
sách và phương thức thực hiện CSR mới được thực hiện chuẩn xác và hiệu quả
nhất. Ngoài ra, Vinamilk cũng nên hoàn thiện hơn nữa hệ thống các văn bản Pháp
quy bao gồm: các văn bản quy định chung của Pháp luật; các quy chế áp dụng
trong công ty…
Tăng cường áp dụng các chuẩn mực liên quan tới CSR.
Vinamilk cần đẩy mạnh thực hiện tốt hơn nữa các chuẩn mực CSR mà công ty
đã đạt được như “tiêu chuẩn SA 8000” về xây dựng môi trường lao động lành
mạnh, an toàn, hiệu quả; “tiêu chuẩn ISO 14000” là tiêu chuẩn quốc tế về quản lý
môi trường. Để thực hiện tốt hơn các chuẩn mực CSR, Vinamilk cần chú trọng hơn
nữa áp dụng các tiêu chuẩn CSR khác như tiêu chuẩn ISO 9000 là tiêu chuẩn hệ
thống quản lý chất lượng, ISO 26000 là tiêu chuẩn hướng dẫn về trách nhiệm xã
hội. Tăng cường áp dụng các chuẩn mực liên quan tới CSR sẽ giúp cho Vinamilk
nhận được tín nhiệm hơn nữa từ phía cộng đồng và xã hội.
79
Phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc thực hiện CSR.
Phát triển và hoàn thiện hạ tầng cơ sở kỹ thuật hơn nữa sẽ giúp cho Vinamilk
thực hiện các chuẩn mực CSR được nhanh chóng và hiệu quả hơn. Việc ứng dụng
những thành tựu về CNTT đã đem lại những thành quả nhất định cho Vinamilk. Vì
thế Vinamilk cần đẩy mạnh phát huy vai trò của hệ thống quản trị doanh nghiệp
tổng thể ERP cũng như giải pháp quản lý nguồn nhân lực tổng thể Histaff hơn nữa
sao cho bài bản và có quy mô bằng cách hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu, các
chương trình phần mềm… Bên cạnh việc phát huy tối đa hạ tầng cơ sở CNTT kỹ
thuật cao thì Vinamilk cũng cần xem xét tăng cường hoạt động của hạ tầng cơ sở
kỹ thuật truyền thống như hệ thống thông tin liên lạc truyền thống qua hòm thư,
bảng tin, điện thoại, văn bản bằng giấy… Việc tăng cường, phát triển song song
hai hệ thống sẽ hỗ trợ nhau tích cực giúp cho Vinamilk thực hiện CSR được dễ
dàng và hiệu quả hơn.
Ngoài ra, Vinamilk nên tiến hành việc duy trì bảo dưỡng trang thiết bị máy
móc dây chuyền sản xuất thường xuyên, định kì. Có như thế Vinamilk mới có thể
duy trì các tiêu chuẩn chất lượng cũng như vệ sinh môi trường, an toàn một cách
tốt nhất.
3.2. Nhóm giải pháp về con ngƣời.
Thành lập, tổ chức cơ quan chuyên trách CSR trong doanh nghiệp.
Thành lập tổ chức cơ quan chuyên trách CSR sẽ giúp cho Vinamilk có thể
thực hiện các hoạt động CSR một cách tập trung và đúng đắn nhất. Mặc dù hiện
nay Vinamilk cũng đã có 1 số bộ phận phụ trách thực hiện 1 phần các hoạt động
CSR ví dụ như bộ phận Tuân Thủ Đảm Trách hay bộ phận tiếp nhận thông tin
24/24. Tuy nhiên các bộ phận này còn hoạt động đơn lẻ, chưa tập trung và thống
nhất do đó chưa phát huy được vai trò của mình. Vinamilk có thể áp dụng mô hình
80
của Toyota về việc xây dựng bộ máy chuyên nghiệp thực hiện CSR với đội ngũ
giỏi về chuyên môn CSR. Đội ngũ này sẽ dẫn dắt tập thể công ty thực hiện các
chuẩn mực CSR một cách đúng đắn nhất.
Phát huy vai trò của Công đoàn Vinamilk
Công đoàn là đại diện của người lao động là cơ quan đảm bảo quyền lợi cho
người lao động, là cầu nối giữa giới chủ với người lao động. Do đó Vinamilk cần
phải hoàn thiện cơ cấu cũng như cách hoạt động của Công Đoàn công ty thông qua
các khóa, đào tạo nghiệp vụ và nâng cao nhận thức của cán bộ công đoàn về CSR
…nhằm phát huy được tốt hơn nữa vai trò của Công đoàn. Có như thế thì các hoạt
động CSR đối với người lao động mới được đảm bảo một cách tốt nhất cũng như
các tư tưởng CSR sẽ được truyền bá tốt nhất cho CBCNV công ty.
Đào tạo, nâng cao nhận thức và khả năng của người lao động về CSR và CSR
trong chính bản thân doanh nghiệp.
- Nhìn chung nhận thức về CSR của đội ngũ nhân viên ở Vinamilk vẫn còn
nhiều hạn chế và chưa đồng bộ ở các cấp. Do đó, nhóm nghiên cứu đề xuất
Vinamilk nên thực hiện 2 giải pháp song song: Hướng dẫn, nâng cao nhận thức
của người lao động về CSR; Đào tạo, nâng cao khả năng thực thi CSR cho người
lao động. Để tiến hành các giải pháp đó thì Vinamilk nên đẩy mạnh phối hợp, hợp
tác với các trung tâm viện nghiên cứu về CSR có uy tín ở Việt Nam cũng như trên
thế giới như UNIDO, ILO, UNEP… nhằm đưa ra các giải pháp, các chương trình
đào tạo về CSR phù hợp cho nhân viên của công ty.
3.3. Nhóm giải pháp về tài chính.
Tài chính là một yếu tố quan trọng, quyết đinh tới sự thành công của CSR của
doanh nghiệp. Vì thế có được một nguồn tài chính dồi dào và sử dụng hiệu quả
nguồn tài chính đó sẽ giúp Vinamilk có thể thực hiện được tốt hơn nữa các chuẩn
mực CSR. Nhóm nghiên cứu đã đưa ra 3 giải pháp cho vấn đề này:
81
Thành lập quỹ phục vụ cho các chương trình CSR:
Mặc dù Vinamilk đã có những nguồn ngân quỹ riêng để thực hiện một số
hoạt động có liên quan đến CSR như Quỹ phúc lợi xã hội, Quỹ hỗ trợ thất nghiệp,
thôi việc … Tuy nhiên công ty nên thành lập 1 quỹ chuyên trách phục vụ cho các
chương trình CSR của công ty. Quỹ này sẽ giúp cho công ty có được một nguồn
ngân quỹ dồi dào, ổn định, tập trung và dễ quản lý sử dụng nguồn ngân sách có
hiệu quả hơn nữa. Hiệu quả hoạt động của Quỹ chuyên trách này chúng ta có thể
nhìn thấy từ trường hợp của KPMG ta thấy được Quỹ KPMG đã giúp cho các hoạt
động CSR của công ty được thực hiện một cách dễ dàng và hiệu quả hơn rất nhiều
Có hình thức phù hợp trong việc huy động nguồn ngân sách:
Ngoài việc huy động ngân quỹ cho các hoạt động CSR từ nội tại công ty như
hiện nay thì Vinamilk nên đẩy mạnh các hoạt động huy động vốn ngay từ bên
ngoài. Phát huy, tăng cường thực hiện các chương trình quyên góp ủng hộ từ cộng
đồng xã hội hơn nữa như chương trình: “1 triệu ly sữa cho trẻ em nghèo”.
Vinamilk cũng nên xem xét việc phối hợp với các tổ chức, doanh nghiệp khác
trong các hoạt động CSR của công ty nhằm có thể huy động thêm nguồn tài chính
cho công ty.
Nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách dành cho các hoạt động CSR của
Vinamilk:
Để nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách Vinamilk cần thiết phải minh
bạch nhất có thể các hoạt động sử dụng ngân quỹ cho các hoạt động CSR bao
gồm: giải ngân, cơ cấu nguồn tiền phân bổ cho các hoạt động CSR, quy trình sử
dụng tiền,… Cần rà soát và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân quỹ của các đơn vị
chuyên trách đảm nhận. Giáo dục tăng cường trách nhiệm cho bộ phận quản lý
sử dụng nguồn vốn tránh tình trạng gian lận, ăn chặn bỏ túi riêng.
82
3.4. Tăng cƣờng vai trò của lãnh đạo với CSR tại Vinamilk.
Mai Kiều Liên, một trong 50 doanh nhân nữ quyền lực nhất châu Á theo xếp
hạng của tạp chí danh tiếng Mỹ - Forbes năm 201116
. Bà chính là chủ tịch hội đồng
quản trị và giám đốc điều hành của Vinamilk trong hàng chục năm qua. Và hơn ai
hết, chính bà là người khởi xướng và cùng đạt được những thành tựu trong CSR
với Vinamilk như ngày hôm nay. Mọi hoạt động của công ty suy cho cùng cũng là
do sự chỉ đạo của ban lãnh đạo công ty. Chính vì thế việc nâng cao nhận thức, quan
điểm , cách nhìn nhận CSR cho lãnh đạo các cấp của Vinamilk là vô cùng cần
thiết. Vinamilk cần truyền bá sâu rộng hơn nữa tư tưởng, tinh thần tiến bộ về CSR
của bà Mai Kiều Liên trong toàn thể công ty. Để tạo ra một cái gọi là văn hóa
doanh nghiệp và tinh thần xã hội cho toàn thể CBCNV công ty. Đi đôi với việc
nâng cao tinh thần, tư tưởng và trách nhiệm cho công ty thì Vinamilk cũng cần chú
ý các hoạt động nhằm nâng cao năng lực quản lý, quản trị doanh nghiệp theo các
chuẩn mực CSR cho các ban lãnh đạo công ty cũng như quản lí các cấp. Quan
điểm và tư tưởng nhất quán vủa nhà lãnh đạo cao nhất không thể thực hiện được
thành công nếu như những lãnh đạo cấp dưới không thông suốt và thực hành
nghiêm chỉnh có đạo đức tinh thần đó.
16
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/business/2012/03/120301_mai_kieu_lien_vn_forbes.shtml
83
KẾT LUẬN
1. Kết quả thu đƣợc.
Nghiên cứu đã làm rõ được cơ sở lý luận về CSR bao gồm một số phạm trù, khái
niệm, các thành tố về nêu bật được lợi ích của CSR đối với doanh nghiệp và phương
pháp đánh giá. Đồng thời, nghiên cứu đã đưa ra phân tích mang tính khoa học về
nguồn lực để doanh nghiệp Việt Nam thực hiện CSR tới từ 2 hướng chính: nguồn lực
bên trong (1) và nguồn lực bên ngoài của doanh nghiệp (2). Bên cạnh đó, nghiên cứu
cũng nhấn mạnh doanh nghiệp cần chủ trương phát triển nguồn lực bên trong vì nó có
ý nghĩa quan trọng hơn nhưng mặt khác cũng cần tận dụng cơ hội do các nguồn lực bên
ngoài mang lại.
Nghiên cứu thực trạng về việc thực hiện CSR tại Vinamilk đã chỉ ra kết quả khả
quan về tình hình thực hiện CSR ở công ty này. CSR mà Vinamilk thực hiện cơ bản
đều mang lại lợi ích cho doanh nghiệp và cả xã hội. Qua những phân tích sâu hơn,
nghiên cứu đã đưa ra được gói giải pháp cho Vinamilk nhằm nâng cao hoạt động CSR
của mình gồm 4 nhóm: nhóm giải pháp mang tính kỹ thuật (1), nhóm giải pháp về
con người (2), nhóm giải pháp về tài chính (3) và nâng cao vai trò của lãnh đạo
trong việc thực hiện CSR (4).
Cuối cùng, qua những phân tích, nhóm nghiên cứu đã tổng hợp được một nhóm
giải pháp từ khung khổ toàn diện gồm “Nhà nước – Xã hội – Doanh nghiệp”. Qua đó,
giới doanh nghiệp là thành phần quan trọng nhất trong việc xây dựng và thực hiện các
giải pháp phát triển CSR ở Việt Nam. Bên cạnh đó, nhà nước và xã hội sẽ tham gia
cộng cuộc này với những giải pháp vô cùng thiết thực.
84
2. Khuyến nghị chính sách.
Đứng trước thực trạng như vậy, Việt Nam cần phải có về một hệ thống các giải
pháp hoàn thiện, có tính triệt để nhằm cải thiện tình hình thực hiện CSR. Hơn nữa, qua
phân tích ở trường hợp của Vinamilk, nhóm nghiên cứu nhận ra rằng doanh nghiệp
dường như đang quá đơn độc trong việc triển khai CSR. Hơn nữa, như đã trình bày
trong trường hợp của Vinamilk, khá nhiều những thuận lợi hay khó khăn mà doanh
nghiệp gặp phải trong quá trình thực hiện CSR tới từ phía quản lý nhà nước và cộng
đồng xã hội. Chính vì thế, để thực hiện được mục tiêu này, cần có sự tham gia chung
sức của tất cả các bộ phận trong xã hội như nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng. Vì
thế, nhóm nghiên cứu tiến hành phân tích và đưa ra khuyến nghị cho việc giải quyết
thực trạng này bằng một khung giải pháp gồm 3 nhóm: giải pháp từ phía nhà nƣớc
(1), giải pháp từ phía xã hội (2) và giải pháp từ phía doanh nghiệp (3).
Biểu đồ 18: Mô hình khung giải pháp thúc đẩy CSR tại Việt Nam
85
Khuyến nghị cho các nhà hoạch định chính sách.
Tăng cường nghiên cứu, ban hành chính sách về CSR và các hoạt động điều tiết.
Cụ thể là, xây dựng và thúc đẩy việc nghiên cứu sâu hơn về CSR (1); xây dựng
những bộ luật, quy định về CSR (2); nâng cao chất lượng của các quy định mang
tính pháp lý bằng RIA (công cụ đánh giá tác động của văn bản luật) (3); thực
hiện nhiều hơn nữa các hoạt động điều tiết (4).
Xây dựng và thúc đẩy các dự án, chương trình vể trách nhiệm xã hội (Social
Responsibility).
Tăng cường mối liên hệ, hỗ trợ tới các đối tượng liên quan của CSR.
Ngoài những hoạt động trên, để thực hiện tốt cho việc hỗ trợ sự phát triển của
CSR, có một điều mà chính phủ nước ta nên làm đó là các hoạt động tiếp xúc,
hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng có mối quan hệ hữu cơ với CSR:
Người tiêu dùng: Chính phủ ban hành những chính sách hỗ trợ, đảm bảo quyền
lợi người tiêu dùng. Hỗ trợ việc hoạt động của các hiệp hội đại diện cho quyền
lợi của người tiêu dùng
Người lao động: Thường xuyên điều chỉnh, sửa đổi bộ luật Lao động sao cho
bám sát với tình hình và sự thay đổi của môi trường kinh doanh cũng như sự phát
triển của đất nước. Đồng thời có những can thiệp kịp thời, đúng mực để đảm bảo
quyền lợi lao động và có chính sách thúc đẩy, hỗ trợ hoạt động của Công đoàn.
Môi trường: Điều chỉnh những bộ luật và chính sách liên quan tới môi trường.
Đồng thời, tăng cường chất lượng các dự án về môi trường.
Doanh nghiệp: Các chính sách cần làm để hỗ trợ doanh nghiệp như: sửa đổi Luật
Doanh nghiệp trên cơ sở tiếp thu tiến bộ từ những nghiên cứu về CSR (1); chủ trì
việc đánh giá và xây dựng bảng xếp hạng (hoặc danh sách) các doanh nghiệp
thực hiện tốt CSR (2); thực hiện chính sách ưu đãi thuế (miễn, giảm) đối với các
doanh nghiệp trong bảng xếp hạng trên (3); thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư
đối với những khoản mục đầu tư vì môi trường, xã hội (4).
86
Khuyến nghị cho cộng đồng xã hội.
Một cản trở đối với CSR ở Việt Nam đó là nhận thức về nó của người dân
còn thấp. Vì thế, giải pháp để phát triển CSR ở phía cộng đồng xã hội tựu chung lại
ở một điểm, đó là nâng cao nhận thức, cải thiện thái độ của xã hội đối với CSR.
Nhóm nghiên cứu đưa ra các chương trình, kế hoạch trong cộng đồng cần được
thực hiện để góp phần vào sự phát triển của CSR ở Việt Nam: cung cấp cái nhìn
đúng đắn, đầy đủ về CSR cho người dân (1); nâng cao ý thức cộng đồng về việc
bảo vệ quyền lợi của chính mình (2); lập mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của
tổ chức, hiệp hội đại diện quyền lợi cho cộng đồng (3).
Khuyến nghị cho cộng đồng doanh nghiệp:
Mô hình 4 nhóm giải pháp được áp dụng cho Vinamilk cũng là mô hình mà
các doanh nghiệp Việt Nam có thể áp dụng cho mình. Tuy nghiên, có một điều
đáng lưu tâm ở đây là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần có sự cân nhắc cho phù hợp
với điều kiện của mình và cần có những quan điểm đầu tư trọng điểm cho CSR.
Nhóm nghiên cứu đã phân tích để đưa ra những khuyến nghị riêng cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam:
Chú trọng vào CSR trong khía cạnh quan hệ lao động: đây là chính sách CSR
nội bộ, có lợi ích trực tiếp tới doanh nghiệp. Nguồn lực của doanh nghiệp hạn
chế cho nên các doanh nghiệp không nên dàn trải các khoản mục ngân sách cho
chính sách CSR của mình. CSR trên khía cạnh người lao động sẽ giúp doanh
nghiệp có được lực lượng lao động trung đáng tin cậy, trung thành và sẽ có tác
động tích cực tới năng suất lao động.
Hỗ trợ nhằm nâng cao vai trò của công đoàn trong doanh nghiệp: Công đoàn
cần được thực hiện đúng và đủ vai trò của mình trong doanh nghiệp. Điều đó sẽ
87
giúp ích rất nhiều cho quan hệ lao động, môi trường lao động, từ đó hiệu quả
kinh doanh sẽ được nâng cao.
Chú trọng vào vai trò của người lãnh đạo: Lãnh đạo của các doanh nghiệp này
đều là những người trực tiếp gây dựng, gắn bó với công ty trong nhiều năm (còn
với các doanh nghiệp lớn thì hiện nay chủ yếu là thuê CEO). Sẽ là không quá lời
nếu nói doanh nghiệp chính là máu thịt của những nhà lãnh đạo này, và họ cũng
là những người có quyền quyết định chủ yếu trong doanh nghiệp (CEO ở các
doanh nghiệp lớn chịu sự chi phối rất lớn từ HĐQT). Do đó, lãnh đạo các doanh
nghiệp này có tác động lớn tới CSR của doanh nghiệp này; nếu họ trang bị được
nhận thức đúng đắn về CSR thì sẽ có lợi rất nhiều cho sự phát triển CSR ở Việt
Nam.
3. Hạn chế của bài nghiên cứu.
Phát triển các hoạt động CSR thực sự vẫn còn khá mới đối với phần lớn các
doanh nghiệp cũng như xã hội nước ta. Bài nghiên cứu được thực hiện trong bối cảnh
các tài liệu, dữ liệu liên quan tới CSR ở Việt Nam còn quá ít, do đó bài nghiên cứu chỉ
có thể sử dụng phương pháp phân tích dựa trên nguồn số liệu thứ cấp hạn chế để đưa ra
những kết quả định tính.
Những giải pháp được nhóm nghiên cứu đưa ra tuy bao quát và giải quyết được
phần lớn vấn đề về khung lý luận nhưng lại chưa có phân tích chi tiết, sâu xa về những
nhóm giải pháp cụ thể.
4. Gợi ý cho các nghiên cứu trong tƣơng lai.
Thời gian vừa qua, trong khi thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu thực sự hiểu được
thực trạng của CSR tại Việt Nam, đặc biệt là trong giới doanh nghiệp vừa và nhỏ còn
rất kém phát triển. Hơn nữa, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam lại là doanh nghiệp vừa
và nhỏ (như đã trình bày là khoảng 95%). Vì thế, thời gian tới, đi sâu hơn vào việc
88
nghiên cứu CSR trong doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam sẽ là một hướng đi mới, hứa
hẹn mang lại nhiều thành quả có ý nghĩa.
Hơn nữa, có một thực tế là doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ta gặp vô vàn khó khăn
để thích nghi, cạnh tranh và phát triển trong môi trường kinh doanh khắc nghiệt hiện
nay. Trong khi đó, môi quan hệ biện chứng giữa CSR và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp ở Việt Nam còn chưa được làm rõ. Vì thế nghiên cứu làm rõ, đưa ra mô
hình của mối quan hệ này và đưa ra giải pháp sử dụng CSR trong viêc nâng cao năng
lực cạnh tranh cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam sẽ giúp ích rất nhiều cho quá
trình hội nhập và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức (2008), "Trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp-CSR: Một số vấn đề lý luận và yêu cầu đổi mới nhà nước với CSR ở Việt
Nam", Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Hà Nội.
2. Chính phủ (2009), “Nghị định về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa”,
Hà Nội.
3. Phạm Văn Đức (2010), Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam: Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách, Tạp chí Triết học, số 2.
4. Nguyễn Ngọc Thắng (2010), “Gắn quản trị nhân sự với trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp”, Tạp chí ĐH QGHN, Kinh tế và Kinh doanh số [26], pp. 232-
238.
5. Nguyễn Quang Vinh (2009), Thực trạng trách nhiệm xã hội doanh nghiệp tại
Việt Nam, Báo cáo tại hội thảo “Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp và Chiến
lược truyền thông, kinh nghiệm quốc gia và quốc tế” do VCCI hợp tác với
Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tổ chức.
6. Vinamilk, (2010), "Bộ quy tắc ứng xử", vinamilk.com.vn.
90
Tiếng Anh
1. Agrawal Kalpana (2007). Corporate Excellence as an Outcome of Corporate
Governance: Rethinking the Role and Responsibility of HRM, the ICFAI
Journal of Corporate Governance, Vol.VI (1): 6-16.
2. Bueble, E. (2009), Corporate Social Responsibility: CSR Communication as an
Instrument to Consumer-Relationship Marketing, Grin Verlag Publisher.
3. Celine Louche, Samuel O. Idogu, Walter Leal Filho. (2010), Innovative CSR:
From Risk Management to Value Creation, Greenleaf Publishing Limited.
4. Chong, M. (2009), "Employee Participation in CSR and Corporate Identity:
Insights from a Disaster-Response Program in Asia-Pacific", Corporate
Reputation Review 12, pp 106-119.
5. Dai, Y. (2010), Local Governments' CSR Policies in China, Internal Exchange
Meeting.
6. European Comission (2008), "Overview of links between Corporate Social
Responsibility and Competitiveness", European Competitiveness Report.
7. Fukada, S. (2010), "Corporate Social Responsibility in Vietnam: Current
Practices, Outlook, and Challenges for Japanese Corporations. Observations
from Leader of the CBCC Dialogue Mission on CSR to Vietnam".
8. Krishnnan K, Sandeep & Balachandran Rakesh (2004). Corporate Social
Responsibility as a determinant of Market Success: An Exploratory Analysis
with Special Reference to MNCs in Emerging Markets, paper presented at
NASMEI International Conference.
9. Manfred Pohl, Nick Tolhurst. (2010), "Responsible Business: How to manage
CSR strategy successful", ICCA Publication.
91
10. Mustaruddin Saleh, Norhayah Zulkifli, Rusnah Muhamad. (2008), "An
empirical Examination of the Relationship between Corporate Social
Responsibility Disclosure and Financial Performance in an Emerging Market".
11. Nigel Twose và Tara Rao (2003), Strengthening Developing Government’s
Engagement with Corporate Social Responsibility: Conclusion and
Recommendation from Technical Assistance in Vietnam, World Bank Report.
12. Redington Ian (2005). Making CSR Happen: The Contribution of People
Management, Chartered Institute of Personnel and Development, April 15,
2008.
13. Riess, B. (2006), "Government as partner? CSR policy in Europe". Bertelsmann
Stiftung Gutersloh.
14. S., T. (2004), "Corporate Social Responsibility-A Government update", London,
UK: Department of Trade and Insustry.
15. Tamara. (2006), "Vietnam: Lessons in building linkages for competitive and
responsible entrepreneuship". UNIDO and Kennedy School of Government,
Harvard University.
16. Toyota. (2008, 2009, 2010, 2011), Environmental Report.
17. Toyota. (2008, 2009, 2010, 2011), Substanability Report .
18. Vinamilk, (2008,2009,2010,2011). Annual Report. Hanoi.
19. Weber, M. (2008), "The business case for corporate social responsibility: A
company - level measurement approach for CSR", European Management
Journal.
92
Các trang web tham khảo chính:
1. http://www.bwportal.com.vn/
2. http://www.dddn.com.vn/
3. http://www.ibm.com/
4. http://www.kpmg.com/cn/en/
5. http://www.mallenbaker.net/
6. http://www.massogroup.com/
7. http://www.money.cnn.com/
8. http://www.nytimes.com/
9. http://www.sri-vietnam.com/
10. http://www.toyota-global.com/
11. http://www.vneconomy.vn/
12. http://www.vietnamforumcsr.net/
13. http://www.vinamilk.com.vn/
14. http://www.vietnamplus.vn/