33
Chương 4: học thuyết giá trị 1. Hai điều kiện ra đời của nền sản xuất hàng hóa Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để bán, trao đổi trên thị trường. Sản xuất hàng hoá ra đời, tồn tại và phát triển dựa trên hai điều kiện: phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. a. Phân công lao động xã hội Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành, nghề khác nhau của nền sản xuất xã hội. Phân công lao động xã hội sẽ kéo theo chuyên môn hoá sản xuất: mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một vài loại sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau, do đó họ cần đến sản phẩm của nhau, buộc phải trao đổi với nhau để thoả mãn nhu cầu của mỗi người. Phân công lao động xã hội là cơ sở và tiền đề của sản xuất hàng hoá. Phân công lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hoá càng mở rộng và đa dạng hơn. Tuy nhiên, phân công lao động xã hội chỉ mới là điều kiện cần nhưng chưa đủ. C.Mác đã chứng minh rằng, trong công xã thị tộc Ấn Độ cổ đại, đã có sự phân công lao động xã hội khá chi tiết, nhưng sản xuất chưa trở thành hàng hoá. Bởi tư liệu sản xuất là của chung nên sản phẩm cũng là của chung, công xã phân phối trực tiếp cho từng thành viên để thoả mãn nhu cầu. “Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hoá”. Để sản xuất hàng hoá ra đời cần phải có thêm điều kiện nữa. b. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất hay tính chất tư nhân của quá trình lao động Chế độ tư hữu đã làm cho tư liệu sản xuất là của riêng mỗi người nên họ có quyền tự quyết định quá trình sản xuất của mình; chế độ tư hữu tạo nên sự độc lập về kinh tế giữa những người sản

đề Cương thi tốt nghiệp triết

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: đề Cương thi tốt nghiệp triết

Chương 4: học thuyết giá trị

1. Hai điều kiện ra đời của nền sản xuất hàng hóa

Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để bán, trao đổi trên thị trường. Sản xuất hàng hoá ra đời, tồn tại và phát triển dựa trên hai điều kiện: phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.

a. Phân công lao động xã hội

Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành, nghề khác nhau của nền sản xuất xã hội. Phân công lao động xã hội sẽ kéo theo chuyên môn hoá sản xuất: mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một vài loại sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau, do đó họ cần đến sản phẩm của nhau, buộc phải trao đổi với nhau để thoả mãn nhu cầu của mỗi người. Phân công lao động xã hội là cơ sở và tiền đề của sản xuất hàng hoá. Phân công lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hoá càng mở rộng và đa dạng hơn.

Tuy nhiên, phân công lao động xã hội chỉ mới là điều kiện cần nhưng chưa đủ. C.Mác đã chứng minh rằng, trong công xã thị tộc Ấn Độ cổ đại, đã có sự phân công lao động xã hội khá chi tiết, nhưng sản xuất chưa trở thành hàng hoá. Bởi tư liệu sản xuất là của chung nên sản phẩm cũng là của chung, công xã phân phối trực tiếp cho từng thành viên để thoả mãn nhu cầu. “Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hoá”. Để sản xuất hàng hoá ra đời cần phải có thêm điều kiện nữa.

b. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất hay tính chất tư nhân của quá trình lao động

Chế độ tư hữu đã làm cho tư liệu sản xuất là của riêng mỗi người nên họ có quyền tự quyết định quá trình sản xuất của mình; chế độ tư hữu tạo nên sự độc lập về kinh tế giữa những người sản xuất, chia cắt họ thành từng đơn vị riêng lẻ, trong quá trình sản xuất những người sản xuất có quyền quyết định về việc sản xuất loại hàng hoá nào, số lượng bao nhiêu, bằng cách nào và trao đổi với ai. Như vậy, chế độ tư hữu làm cho những người sản xuất hàng hoá độc lập với nhau nhưng phân chia lao động lại làm cho họ phụ thuộc vào nhau. Đây là một mâu thuẫn. Để giải quyết mâu thuẫn này phải thông qua trao đổi, mua-bán sản phẩm của nhau. Theo V.I. Lênin “Sản xuất hàng hoá chính là cách tổ chức kinh tế-xã hội, trong đó sản phẩm đều do những người sản xuất cá thể riêng lẻ sản xuất ra, mỗi người chuyên làm ra một thứ sản phẩm nhất định, thành thử muốn thoả mãn các nhu cầu xã hội thì phải có mua bán sản phẩm (vì vậy sản phẩm trở thành hàng hoá trên thị trường)”.

Trên đây là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hoá. Thiếu một trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hoá và sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hoá. Sản xuất hàng hoá ra đời là bước ngoặc căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đưa

Page 2: đề Cương thi tốt nghiệp triết

loài người thoát khỏi tình trạng “mông muội”, xóa bỏ dần nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội.

2. Phạm trù giá trị

Giá trị hàng hóa được xét cả về mặt chất và mặt lượng. Chất giá trị hàng hóa là do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Lượng giá trị hàng hóa được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó.

Trên thực tế có nhiều người cùng sản xuất một loại hàng hoá, nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động khác nhau nên thời gian lao động để sản xuất ra hàng hoá là không giống nhau, tức là hao phí lao động cá biệt khác nhau. Vì vậy, lượng giá trị hàng hoá không phải tính bằng thời gian lao động cá biệt, mà tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.

Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với một trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định. Chỉ có thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá mới quyết định đại lượng giá trị của hàng hoá ấy.

Cấu thành lượng giá trị hàng hóa (W) bao gồm: giá trị cũ tái hiện (c) và giá trị mới (v+m). Ký hiệu W = c + v + m. Bộ phận giá trị cũ trong sản phẩm bao gồm lao động quá khứ tồn tại trong yếu tố tư liệu sản xuất như máy móc, công cụ, nguyên vật liệu, … Giá trị mới là sự hao phí lao động sống trong qua trình sản xuất ra sản phẩm.

3. Các yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa

Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hóa cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi lượng giá trị của hàng hóa tùy thuộc vào 2 nhân tố :

- Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, nó được tính bằng số lựơng sản phẩm trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Có hai lọai năng suất lao động : năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội. Trên thị trừơng, hàng hóa đựơc trao đổi không theo giá trị cá biệt mà là giá trị xã hội. Vì vậy, năng suất lao động xã hội có ảnh hửơng đến giá trị xã hội của hàng hóa chính là năng suất lao động xã hội. Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh (thời gian lao động xã hội cần thiết) và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa xúông (giảm thời gian lao động xã hội cần thiết) thì ta phải tăng năng suất lao động xã hội. Tăng năng suất lao động xã hội sẽ giúp tăng hiệu quả lao động ( có thể tăng số lựơng sản phẩm trong một đơn vị thời gian hay giảm thời gian sản xuất cần thiết để tạo ra một sản phẩm).Cường độ lao động là khái niệm nói lên mức độ mức độ khẩn trương, sự căng thẳng mệt nhọc của ngừơi lao động. Tăng cừơng độ lao động thì lượng lao động hao phí trong một đơn vị thời gian cũng tăng lên và lượng sản phẩm đựơc tạo ra cũng tăng lên tương ứng

Page 3: đề Cương thi tốt nghiệp triết

còn lựơng giá trị của một đơn vị sản phẩm thì không đổi. Xét về bản chất, tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.

- Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của hàng hoá. Theo mức độ phức tạp của lao động, có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một cách giản đơn mà bất kỳ một ngừơi bình thừơng nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện đựơc. Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải đựơc đào tạo, huấn luyện thành lao động lành nghề. Ví dụ : Lao động của ngừơi rửa bát là lao động giản đơn, còn lao động của ngừơi thợ sửa chữa đồng hồ là lao động phức tạp vì ngừơi sửa đồng hồ đòi hỏi họ phải qua đào tạo, phải có thời gian huấn luyện tay nghề hơn ngừơi rửa bát. Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Tuy nhiên để tiến hành trao đổi hàng hoá, mọi lao động phức tạp đều được quy thành lao động giản đơn trung bình trên cơ sở lao động phức tạp bằng bội số của lao động giản đơn.

4. Quy luật giá trịa. Nội dung, yêu cầu của quy luật giá trị

Quy luật giá trị hàng hoá là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.

Nội dung, yêu cầu của qui luật giá trị:

- Theo yêu cầu của qui luật giá trị, việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình, nhưng giá trị của hàn hóa không phải được quyết định bơi hao phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hóa, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm sao cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được.

- Trao đổi hàng hóa cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa là trao đổi theo nguyên tác ngang giá.

- Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại.

- Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vân động giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.

b. Tác động của quy luật giá trị- Thứ nhất: điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.

Page 4: đề Cương thi tốt nghiệp triết

Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung cầu. Nếu ở ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên. Ngược lại, khi cung ở ngành đó vượt quá cầu, giá cả hàng hoá giảm xuống, hàng hoá bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao.

Điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả thị trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt.

Như vậy, sự biến động của giá cả thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.

- Thứ hai: kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.

Các hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó có mức hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hoá đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy người sản xuất hàng hoá nào mà có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi. Điều đó kích thích những người sản xuất hàng hoá cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tổ chức quản lý tốt, thực hiện tiết kiệm v.v nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất. Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Nếu người sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống

- Thứ ba: thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá thành người giàu, người nghèo.

Những người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hoá theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao động và trở thành ông chủ. Ngược lại, những người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao đông xã hội cần thiết, khi bán hàng hoá sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.

Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, nhà nước cần có những biện pháp để phát

Page 5: đề Cương thi tốt nghiệp triết

huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta hiện nay.

a. Vận dụng quy luật tại việt nam Sự cần thiết của quy luật giá trị trong việc phát triển kinh tế thị trường.

Trong một nền kinh tế, mọi hệ thống kinh tế đều được tổ chức bằng cách này hay các khác để huy động tối đa các nguồn lực của xã hội và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá. Việc sản xuất phải được tiến hành theo những phương pháp tốt nhất, phân phối hàng hóa sản xuất được sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu của xã hội. Đó là vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế - xã hội. Trong nền kinh tế chỉ huy thì những vấn đề cơ bản đều do các cơ quan Nhà nước quyết định, còn một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường.

Phát triển kinh tế thị trường là xu hướng tất yếu của quá trình đổi mới kinh tế xã hội. Thực tế cho thấy, không có quốc gia nào trên thế giới có nền kinh tế thị trường phát triển lại không có sự điều hành của Nhà nước. Mỗi quốc gia có một chính sách quản lý và phát triển kinh tế đặc thù của quốc gia đó, nhưng xét cho đến cùng thì cũng không thoát khỏi quy luật chung là áp dụng các quy luật kinh tế và vận hành chúng một cách có hiệu quả vào sự phát triển kinh tế. Nó có vai trò điều tiét nền sản xuất hàng hoá một cách hợp lý rồi từ đó gây ảnh hưởng tới nền kinh tế của đất nước.

Chính vì vậy quy luật giá trị có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế thị trường của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam nó cũng có vai trò không nhỏ, nó gây ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế quốc dân thông qua sự điều tiết của nó đối với nền sản xuất hàng hoá, thông qua sự điều tiết của nó đối với nền sản xuất hàng hoá.

Th c tr ng n n kinh t Vi t Nam. ự ạ ề ế ệ

Không một nền kinh tế nào có thể coi là hoàn thiện, là phát triển tốt tuyệt đối cho dù đó có là nền kinh tế của một quốc gia phát triển nhất thế giơí đi nữa. Lúc nào nó cũng chứa những mặt trái, những mặt còn chưa tốt, những hạn chế cần được tiếp tục khắc phục. Việc áp dụng các quy luật kinh tế vào việc vận hành và quản lý nền kinh tế của một quốc gia luôn luôn tiềm ẩn những nguy cơ đổ vỡ nền kinh tế do vận dụng không đúng cách, không đúng yêu cầu thực tế. Đó vẫn là một trong những vấn đề nan giải của rất nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có cả nước Việt Nam của chúng ta.

Vậy hiện nay, chúng ta cần phải làm gì và làm như thế nào để phát triển nền kinh tế yếu kém, lạc hậu đi lên một nền kinh tế mới phát triển hơn, hoàn chỉnh hơn. Trước khi xét điều đó ta sẽ đi phân tích nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây để thấy được thực trạng nền kinh tế của đất nước.

Nền kinh tế của một quốc gia luôn luôn biến động cùng với nền kinh tế thế giới. Để phát triển nền kinh tế thì vấn đề trước hết là ta phải biết bắt đầu từ đâu, đã có những cái gì và chưa có được những gì, cái gì phải làm trước, cái gì nên làm sau mới thực hiện. ở phần này

Page 6: đề Cương thi tốt nghiệp triết

chúng ta sẽ được rà soát một lượt những vấn đề tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam để có thể lưu tâm vạch ra kế hoạch cho sự khắc phục và phát triển những yếu tố đó.

Thứ nhất, để phát triển nền kinh tế thì chúng ta cần phải có vốn, đó là vấn đề đáng quan tâm hàng đầu của nước ta hiện nay. Vậy mà trên thực tế những năm gần đây nước ta luôn trong tình trạng thiếu hụt nguồn vốn vì tổng thu ngân sách luôn nhỏ hơn tổng chi ngân sách.

Thứ hai, là cơ sở vật chất của đất nước. Điều không thể không thừa nhận là nước ta là cơ sở vật chất kém phát triển, chậm phát triển. Các khu công 10 nghiệp ít, hệ thống máy nước trang thiết bị lạc hậu. Cơ sở vật chất không đáp ứng đủ cho việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Hệ thống giao thông không thuộn lợi, kém phát triển, lại thêm sự ảnh hưởng của thiên nhiên và môi trường càng làm cho hệ thống cơ sở vật chất của nước ta ngày càng bị sa sút nghiêm trọng. Chính sách đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng còn chưa được quan tâm thích đáng. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị lãng phí hoặc bị bỏ quên còn nhiều. Những điều đó đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế quốc dân.

Thứ ba, là con người. Trình độ văn hoá của con người thấp kém, khả năng ứng dụng máy nước, trang thiết bị hiện đại trong phát triển sản xuất không đạt yêu cầu thực tế. Hơn nữa những người có tay nghề, kỹ thuật cao chiếm số ít trong lực lượng lao động của đất nước. Thái độ lao động của nhiều người còn không nghiêm túc. Những người có trình độ, có tri thức vận dụng tài năng của mình để tham ô tài sản nhà nước. Tất cả các yếu tố trên đã góp một phần không nhỏ vào việc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế đất nước.

Thứ tư, là vấn đề kỹ thuật và công nghệ. Trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ còn yếu. Không có thành tựu nào là đáng kể trong nghiên cứu khoa học mà chỉ thừa hưởng những công nghệ đã lạc hậu ở nước tiên tiến trên thế giới chuyển giao lạ. Điều đáng nói là ngay cả việc giám định các công nghệ chuyển giao cũng không có. Nó đã gây lãng phí ngân sách Nhà nước rất nhiều vì chúng ta phải nhận những máy móc, công nghệ đã qua sử dụng với giá cả ngàng bằng giá của máy móc, công nghệ mới. Nguyên nhân cơ bản là do Nhà nước không có chính sách đầu tư thích đáng cho nghiên cứu, ứng dụng triển khai các thành tựu khoa học kỹ thuật mới.

Thứ năm, là cơ cấu kinh tế. Tuy nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường nhưng cơ cấu kinh tế của nước ta vẫn chưa chặt chẽ, hợp lý, vẫn còn nhiều kẽ hở lớn, cơ cấu ngành nghề còn nhiều điều bất cập. Các vùng 11 kinh tế chưa được chú ý phát triển đồng đều về các mặt. Do đó sự phát triển của nền kinh tế quốc dân vẫn vị kìm hãm.

Thứ sáu là mức tăng dân số quá nhanh. Tuy những năm gần đây tỷ lệ tăng dân số có giảm hơn trước những vấn đề còn cao. Nó đồng nghĩa với việc số lao động ngày càng gia tăng trong khi việc làm thì ngày càng ít do sự phát triển của khoa học công nghệ. Chính những người thất nghiệp này là nguy cơ dẫn đến sự gia tăng của tệ nạn xã hội, anh minh không được bảo đảm.

Cuối cùng là thế chế chính trị và quản lý của Nhà nước. Đây cũng là nhân tố quan trọng nhất có vai trò quyết định trong phát triển kinh tế của đất nước. Tuy rằng nước ta có một thể chế chính trị ổn định và tiến bộ nhưng khả năng định hướng cho sự phát triển kinh tế còn nhiêù

Page 7: đề Cương thi tốt nghiệp triết

khuyết tật, mà lý do chính là sự điều tiết hướng phát triển của nền kinh tế còn chưa phù hợp, gây ô nhiễm môi trường, làm phân hoá giầu nghèo, nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng…

Vai trò của quy luật giá trị trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.

Nhận thức và vận dụng quy luạt giá trị thể hiện chủ yếu trong việc hình thành giá cả. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá cả phải lấy giá trị làm cơ sở thì mới có căn cứ kinh tế, mới có tác dụng kích thích tăng năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật, hạ tầng thành sản phẩm. Nhà nước phải chủ động lợi dụng cơ chế hoạt hoạt động của quy luật giá trị nghĩa là khả năng giá cả tách rời giá trị, và xu hướng đưa giá cả trở về giá trị. Thông qua chính sách giá cả, Nhà nước vận dụng quy luật giá trị nhằm:

Thứ nhất là kích thích sản xuất phát triển. Đối với xí nghiệp quốc doanh, chủ yếu là xây dựng một hệ thống giá bán buôn để đưa chế độ hạch toán kinh tế đi vào nền nếp và có căn cứ vững chắc.

Thứ hai là điều hoà lưu thông hàng tiêu dùng. Trong chế độ kinh tế thị trường, tổng khối lượng va cơ cấu hàng tiêu dùng do kế hoạch lưu chuyển hàng hoá quyết định căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức tăng thu nhập quốc dân, và thu nhập bằng tiền của nhân dân, nhu cầu về hàng tiêu dùng trong điều kiện sức mua khong đổi, nếu giá cả một loại hàng nào đó giảm xuống thì lượng hàng tiêu thụ sẽ tăng lên và ngược lại. Nhà nước có thể quy định giá cả cao hay thấp để ảnh hưởng đến khối lượng tiêu thụ một số loại hàng nào đó nhằm làm cho nhu cầu và mức tăng của sản xuất về một số hàng tiêu dùng ăn khớp với kế hoạch lưu chuyển hàng hoá của Nhà nước.

Thứ ba là phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân thông qua chính sách giá cả, việc quy định hợp lý các tỷ giá, Nhà nước phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các ngành nhằm phục vụ cho yêu cầu năng cao đồi sống của nhân dân lao động.

Cuối cùng, nhận thức và vận dụng quy luật giá trị nói rộng ra là biết sử dụng các đòn bẩy của kinh tế hàng hoá như tiền lương, giá cả, lợi nhuận … dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết để tổ chức và thực hiện chế đọ hạch toán kinh tế.

Tóm lại, những điều trình bày trên đây nói lên trong kinh tế thị trường có sự cần thiết khách quan phải kết hợp kế hoạch với thị trường, lấy cái sau bổ xung cho cái trước. Quá trình kết hợp đó cũng là một quá trình phát huy tác dụng tích cực của quy luật giá trị, là một quá trình tự giác vận dụng quy luật giá trị và quan hệ thị trường như là một công cụ để xây dựng các mặt kinh tế, kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, làm cho giá trị hàng hoá ngày càng hạ, đảm bảo tốt hơn cho nhu cầu đời sống, đồng thời tăng thêm khối lượng tích luỹ. Đi đôi với việc phát huy tác dụng tích cực của quy luật giá trị phải đồng thời ngăn chặn những ảnh hưởng những tiêu cực của nó đối với việc quản lý kinh tế.

Quy luật giá trị tồn tại một cách khách quan trong nền kinh tế. Nhờ nắm vững tác dụng chủ đạo của các quy luật kinh tế, tự giác sử dụng tác dụng tích cực và hạn chế các tác dụng tiêu cực của quy luật giá trị. Nhà nước đã năng cao dần trình độ công tác, kế hoạch hoá kinh tế.

Page 8: đề Cương thi tốt nghiệp triết

Trung ương Đảng đã nhấn mạnh: Về cơ bản chúng ta đã nắm được nội dung, tích chất và tác dụng của quy luật giá trị đối với các thành phần kinh tế khác nhau trong hai lĩnh vực sản xuất và phân phối khác nhau về tự liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng và đã vận dụng nó phục vụ các nhiệm vụ chính trị và kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ; Công tác kế hoạch hoá giá cả cũng đã có tiến bộ, phạm vi ngày càng mở rộng, trình độ nghiệp vụ cũng được nâng lên một bước.

b. Ví dụ về sự vi phạm quy luật giá trị? Phân tích

Chính sách tiền lương ở nước ta hiện nay chỉ bằng sấp xỉ 40% giá trị sức lao động. Có nghĩa, mức giá trị này theo học thuyết Mác về kinh tế thì Nhà nước còn nợ của người lao động trên 50% giá trị sức lao động. Từ chính sách này chiến sĩ bậc 1 công an giao thông được hưởng mức lương là 1.15 trđ (không đủ nuôi bản thân mình) việc mãi lộ là điều khó tránh. Như vậy nếu tính trong cả nước số người có mức lương thuộc diện nghèo có thể chiếm từ 40% trở lên mà không được hưởng chính sách xoá đói giảm nghèo, buộc người lao động thuộc diện nghèo này bằng mọi cách, để cứu lấy mình. Họ tổ chức cuộc sống và sinh hoạt gia đình không phải chủ yếu bằng nguồn thu nhập từ lương mà bằng nhiều nguồn thu khác (gọi là phần mềm). Trong bối cảnh hiện nay ngoài một số người có điều kiện thu nhập thêm bằng sức lao độngvà trí tuệ của mình, còn lại một tỷ lệ không nhỏ, gần như là phổ biến chấp nhận bằng các giải pháp tiêu cực mà tạo ra, hành vi thấp nhất là tham ô giờ chế độ của nhà nước để làm việc riêng, kinh tế phụ gia đình hoặc thiếu nhiệt tình và chểnh mảng trong công tác, làm cho năng hiệu suất và chất lượng công việc cũng như sản phẩm làm ra đạt thấp. Hành vi cao hơn là tham ô, hối lộ đã hiện diện trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Đầu tiên là lĩnh vực kinh tế. Kế đến là các lĩnh vực có liên quan đến kinh tế như: hải quan, thuế v.v, rồi nhiễm sang các lĩnh vực: y tế, giáo dục, bảo hiểm xã hội, xoá đói giảm nghèo, đến các cơ quan công quyền, pháp luật và tổ chức v.v

Chế độ tiền lương hiện nay để kéo dài sẽ từ chỗ tham ô, hối lộ vì sự bức bách của cuộc sống đã dần dần làm tha hoá một số bộ phận cán bộ có chức quyền dẫn đến tham nhũng làm giàu bất chính, trở thành quốc nạn lây lan khó trị. Công bằng mà nói những hành vi tham ô, mãi lộ ngoài trách nhiệm của người trực tiếp gây ra còn có trách nhiệm của những người và tổ chức giúp Đảng và Nhà nước hoạch định chính sách tiền lương để kéo dài việc vi phạm quy luật giá trị sức lao động gây ra.

Chương 5: học thuyết giá trị thặng dư

1. Tư tưởng cốt lõi của học thuyết giá trị thặng dư

Chủ nghĩa tư bản ra đời gắn với sự phát triển ngày càng cao của sản xuất hàng hóa. Nhưng sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa khác với sản xuất hàng hóa giản đơn không chỉ về trình độ mà còn khác cả về chất nữa. Trên vũ đài kinh tế, bây giờ xuất hiện một loại hàng hóa đó là hàng hóa sức lao động. Khi sức lao động trở thành hàng hóa thì tiền tệ mang hình thái là tư bản và gắn liền với nó là một quan hệ sản xuất mới xuất hiện: quan hệ giữa nhà tư bản và lao động làm thuê. Thực chất của mối quan hệ này là nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư của công nhân làm thuê. Giá trị thặng dư là nguồn gốc hình thành nên thu nhập của các nhà tư bản và

Page 9: đề Cương thi tốt nghiệp triết

các giai cấp bóc lột trong chủ nghĩa tư bản. Nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác cũng có nghĩa là chúng ta nghiên cứu học thuyết giữ vị trí ”hòn đá tảng” trong toàn bộ lý thuyết kinh tế của C.Mác.

2. Bản chất, quy luật vận động của CNTB

Ở đâu có sản xuất giá trị thặng dư thì ở đó có chủ nghĩa tư bản, ngược lại, ở đâu có chủ nghĩa tư bản thì ở đó có sản xuất giá trị thặng dư. Chính vị vậy. Lê Nin gọi quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.

Nội dung của quy luật này là sản xuất nhiều và ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư bằng cách tăng cường bóc lột công nhân làm thuê.

Sản xuất nhiều và ngày càng nhiều giá trị thặng dự là mục đích, là động lực thường xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là nhân tố đảm bảo sự tồn tại, thúc đẩy sự vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản; đồng thời nó làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng xã hội cao hơn.

Quy luật giá trị thặng dư là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản: mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân.

Quy luật giá trị thặng dư đứng đằng sau cạnh tranh tư bản chủ nghĩa. Với mục đích là thu được ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư, các nhà tư bản cạnh tranh với nha, tiêu diệt lẫn nhau để có được quy mô giá trị thặng dư lớn hơn, tỉ suất giá trị thặng dư cao hơn.

Để sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản ra sức áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, cải tiến sản xuất. Từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phất triển mạnh mẽ, nền sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt.

→Tất cả những yếu tố đó đưa xã hội tư bản đến chỗ phủ định chính mình.

3. Nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư

Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. Thông qua nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, có thể rút ra: phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra, chúng ta thấy có hai phần: giá trị tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của công nhân mà được bảo toàn và di chuyển vào sản phẩm mới gọi là giá trị cũ. Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình sản xuaatts gọi là giá trị mới. Phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư. Vậy giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng một vật chất ngang giá.

4. Phân tích khả năng tạo ra giá trị thặng dư

Page 10: đề Cương thi tốt nghiệp triết

Mục đích của các nhà tư bản là thu được giá trị thặng dư tối đa; do vậy họ dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối là hai phương pháp phổ biến nhất.

Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.

Ví dụ, ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 10 đơn vị, thì giá trị thặng dư tuyệt đối là 40 và tỷ suất giá trị thặng dư là m’=(40/40)*100% = 100%. Nếu kéo dài lao động thêm 2 giờ nữa, mọi điều kiện khác vẫn như cũ, thì giá trị thặng dư tuyệt đối tăng lên 60 và m’cũng tăng lên thành m’= (60/40)*100%= 150 % .

Việc kéo dài ngày lao động không thể vượt quá giới hạn sinh lý của công nhân (vì họ còn cần thời gian ăn ngủ, nghỉ ngơi v.v để phục hồi sức khoẻ) nên gặp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân đòi giảm giờ làm. Nhưng vì lợi nhuận, khi độ dài ngày lao động không thể kéo thêm, nhà tư bản tìm cách tăng cường độ lao động của công nhân. Tăng cường độ lao động về thực chất cũng tương tự như kéo dài ngày lao động. Vì vậy, kéo dài thời gian lao động và tăng cường độ lao động là để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.

Sản xuất giá trị thặng dư tương đối

Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động trong ngành sản suất ra tư liệu sinh hoạt để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động vẫn như cũ.

Ví dụ, ngày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là lao động tất yếu, 5 giờ là lao động thặng dư. Nếu giá trị sức lao động giảm đi 1giờ thì thời gian lao động tất yếu xuống còn 4 giờ. Do đó, thời gian lao động thặng dư tăng từ 5 giờ lên 6 giờ và m’ tăng từ 100% lên 150 %.

Để hạ thấp giá trị sức lao động, nhà tư bản phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người công nhân. Muốn vậy phải tăng năng suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.

5. Phạm trù hàng hóa sức lao động

Hàng hoá là sản phẩm của lao động, thoả mãn được nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hoá có thể ở dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm... hoặc ở dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên, bác sĩ và nghệ sĩ....

Page 11: đề Cương thi tốt nghiệp triết

Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đòi hỏi sự hiện diện của một loại hàng hoá đặc biệt mà việc sử dụng nó có thể tạo ra được giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Hàng hoá đó là sức lao động.

Sức lao động là toàn bộ những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong con người và được người đó sử dụng vào sản xuất. Sức lao động là cái có trước, là yếu tố tiềm năng, còn lao động là quá trình sử dụng sức lao động.

Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá.

a) Người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao động của mình và chỉ bán sức lao động ấy trong một thời gian nhất định.

b) Người lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình đứng ra tổ chức sản xuất nên muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động cho người khác sử dụng.

Việc sức lao động trở thành hàng hoá đánh dấu một bước ngoặt trong phương thức kết hợp người lao động với tư liệu sản xuất, là một bước tiến lịch sử so với chế độ nô lệ và phong kiến. Sự bình đẳng về hình thức giữa người sở hữu sức lao động với người sở hữu tư bản che đậy bản chất của chủ nghĩa tư bản- chế độ được xây dựng trên sự đối kháng lợi ích kinh tế giữa tư bản và lao động.

Giống như mọi hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng:

- Giá trị của hàng hoá sức lao động cũng do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó quyết định. Giá trị sức lao động được quy về giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động và để duy trì đời sống của công nhân làm thuê và gia đình họ. Giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở chỗ nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử, phụ thuộc hoàn cảnh lịch sử của từng nước, từng thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đó đạt được, vào điều kiện lịch sử hình thành giai cấp công nhân và cả điều kiện địa lý, khí hậu.

- Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động thể hiện ở quá trình tiêu dùng (sử dụng) sức lao động, tức là quá trình lao động để sản xuất ra một hàng hoá, một dịch vụ nào đó. Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó; phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động gọi là giá trị thặng dư. Đó chính là đặc điểm riêng của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động và đặc điểm này sẽ giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản.

Chương 7: sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và cách mạng xã hội chủ nghĩa

1. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhâna. Khái niệm giai cấp công nhân

là GC của những ng` LĐ trong lĩnh vực SX vật chất có trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện đại; không ngừng vận động, biến đổi cùng với sự biến đổi và pt của nền công

Page 12: đề Cương thi tốt nghiệp triết

nghiệp TBCN, là ng` trực tiếp hoặc gián tiếp vận hành máy móc tạo ra của cải vất chất. LĐ thặng dư của họ là nguồn gốc chủ yếu cho sự giàu có của XH.

*2 thuộc tính của GCCN.

1) Về phương thức LĐ và phương thức SX, GCCN là những ng` LĐ trực tiếp hay gián tiếp vận hành công cụ SX có tính chất công nghiệp, ngày càng hiện đại và XH hoá cao.

2) Về vị trí của GCCN trong quan hệ SX TBCN, GCCN là ng` không có tư liệu SX, phải bán SLĐ cho nhà TB và bị nhà TB bóc lột gtrị thặng dư. Chính thuộc tính này đã biến GCCN trở thành GCđối kháng với GCTS và dựa vào đây mà C.Mác và Ph.Ănghen còn gọi GCCN là GCvô sản trong XH TB. 

b. Nội dung

Sứ mệnh lịch sử của một giai cấp là toàn bộ những nhiệm vụ lịch sử giao phó cho một giai cấp để nó thực hiện bước chuyển cách mạng từ một hình thái kinh tế-xã hội đã lỗi thời sang một hình thái kinh tế-xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn.

Phân tích một cách khách quan địa vị kinh tế, xã hội của giai cấp công nhân, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đã nêu một cách khái quát nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là: xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, không có người bó lột người trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất, giải phóng giai cấp mình và giải phóng toàn xã hội khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công.

Cụ thể có 3 nội dung cơ bản sau đây:

- Thông qua Đảng tiên phong của mình, giai cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức để nhân dân lao động giành chính quyền về tay mình, xoá bỏ chính quyền của cá chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, xoá bỏ giai cấp tư sản( và mọi giai cấp áp bức bóc lột khác); giải tán chính quyền Nhà nước của các chế độ cũ, xây dựng chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nội dung này có thể thực hiện bằng biện pháp bạo lực là chủ yếu, tuy nhiên tranh thủ tối đa biện pháp hoà bình khi có điều kiện để tránh đổ máu không cần thiết.

- Thông qua Đảng tiên phong của mình, giai cấp công nhân lãnh đạo, tổ chức nhân dân lao động xây dựng và bảo vệ chính quyền, bảo vệ đất nước và đồng thời tổ chức xây dựng đaats nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, con người..., để từng bước hình thành xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa trên thực tế ở mỗi nước và trên toàn thế giới.

Đây là nội dung cơ bản quyết định cuối cùng của sứ mệnh lịch sử của giai cấo công nhân và cũng là nội dung rất khó khăn, phức tạp vì nó rất mới mẻ và là quá trình cải biến cách mạng căn bản, toàn diện, triệt để trên phạm vi quốc gia, quốc tế. Do đócần phải trải qua từng bước, lâu dài với yêu cầu ngày càng cao đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động, nhất là

Page 13: đề Cương thi tốt nghiệp triết

đối với Đảng cộng snr, với giai cấp công nhân cả về trí tuệ lẫn bản lĩnh và lập trường chính trị. Không thể nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí... mà hoàn thành được nội dung này.

- trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm công nghiệp ngày càng hiện đại-cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở kinh tế cho tất cả các nước theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển ngày càng cao. Không có giai cấp công nhân lớn mạnh, không một nước nào(kể cả các nước phát triển nhất hiện nay) có thể tồn tại và phát triển trong thời đại hiện nay. Nội dung này là nội dung thường xuyên và thực hiện suốt trong các giai đoạn cách mạng của giai cấp công nhân ở tất cả các nước.

c. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân- Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa

Giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhất trong các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất tiên tiến có trình độ xã hội hoá ngày càng cao, họ tạo ra phần lớn của cải cho xã hội, lao động thặng dư của họ là nguồn gố chủ yếu đem lại sự giàu có cho xã hội.

Do bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất trong xã hội tư bản, họ phải bán sức lao động để kiếm sống, họ bị bóc lột nặng nề và bị lệ thuộc hoàn toàn vào sản phẩm của họ làm ra, họ có lợi ích cơ bản đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản. Do đó, giai cấp công nhân là giai cấp có vai trò đi đầu trong cải tạo các quan hệ xã hội, muốn xoá bỏ giai cấp tư sản và mọi giai cấp bóc lột khác.

- Những đặc điểm chính trị-xã hội của giai cấp công nhân: Giai cấp công nhần là giai cấp tiên tiến nhất: do yêu cầu khách quan của việc không

ngừng đổi mới công nghệ, giai cấp công nhân ngày càng được bổ sung thêm những công nhân có trình độ chuyên môn và học vấn ngày càng cao; môi trường lao động côngn ghiệp với kỹ thật ngày càng hiện đại mở mang trí tuệ cho giai câp công nhân; cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ đã cung cấp những tri thức chính trị-xã hội cần thiết để trở thành một giai cấp tiên tiến.

Giai cấp công nhận có hệ tư tưởng độc lập, được vũ trang bởi lý luận tiền phong và có chính đảng của mình là Đảng cộng sản, do đó, có khả năng tổ chức, lãnh đạo các giai cấp tư sản vì lợi ích của giai cấp công nhân phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động.

Giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để do bị áp bức bóc lột nặng nề dưới chủ nghĩa tư bản và các chế độ áp bức bóc lột khác; đồng thời sứ mệnh lịch sử của họ chỉ giành được thắng lợi hoàn toàn khi xã hội thoát khỏi tình trạng áp bức, bất công. Do vậy, muốn tự giải phóng mình, giai cấp công nhân phải đồng thời tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng toàn xã hội.

Giai cấp cồng nhân là giai cấp có tổ chức kỷ luật cao, do được tôi luyện trong môi trường lao động công nghiệp ngày càng hiện đại trong cuộc đấu tranh chống giai cấp phong kiến trước đây cũng như chống giai cấp tư sản ngày nay.

Giai cấp công nhân có bản chất quốc tế do địa vị kinh tê-xã hội của họ trên toàn thế giới giống nhau, họ có khả năng đoàn kết để thực hiện được mục tiêu chung: xoá bỏ áp bức, bóc lột, bất công để xâu dựng chủ nghĩa xã hội.

Page 14: đề Cương thi tốt nghiệp triết

- Trong chủ nghĩa tư bản đã có mâu thuẫn cơ bản hình thành một cách khách quan gồm 2 mặt:

Mặt kinh tế: là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hoá cao với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.

Mặt chính trị-xã hội: là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản.- Cả 2 mặt mâu thuẫn cơ bản này không thể triệt để trong khuôn khổ chủ nghĩa tư bản.

Tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức. Đó là sự quy định khách quan cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trí thức, nông dân... sẽ là lực lượng tham gia vào cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chứ không thể là lực lượng lãnh đạo và tổ chức cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì trí thức, nông dân không đại biểu cho một phương thức sản xuất riêng trong lịch sử; không có một hệ tư tưởng riêng. Vả lại, trong chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn trực tiếp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, do đó cách mạng xã hội chủ nghĩa phải là cách mạng của giai cấp công nhân lãnh đạo để lật đổ giai cấp tư sản, để giải phóng giai cấp công nhân, đồng thời giải phóng cho cả nông dân, trí thức và nhân dân bị áp bức bóc lột...

d. Điều kiện chủ wan Vai trò của Đảng trong việc thực hiện sức mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Đàng cộng sản là nhân tố đảm bảo cho giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử:

- Đảng cộng sản là đội tiên phong, là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân. Đảng cộng sản bao gồm những phần tử ưu tú nhất, tiên tiến nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng cộng sản mang bản chất của giai cấp công nhân.

- Đảng cộng sản ra đời đáp ứng đòi hỏi của phong trào công nhân và làm cho phong trào công nhân chuyển từ tự phát sang tự giác.

- Đảng cộng sản là tổ chức bao gồm những người ưu tú tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác-LêNin, nắm được quy luật vận động phát triển khách quan của lịch sử, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ họ” hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”

- Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhờ có lý luận tiên phong, Đảng cộng sản đã vận dụng vào điều kiện cụ thể đề cương lĩnh, đường lối chiến lược, sách lược, nhiệm vụ của qua trình cách mạng cũng như từng giai đoạn. Tập hợp, giáo dục, thuyết phục, tổ chức, động viên giai cấp công nhân và nhân dân lao động thực hiện, nhằm biến chủ trương đường lối của Đảng thành hiện thực

- Đảng cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động: là người tổ chức, chỉ huy, bố trí cán bộ lãnh đạo quá trình cách mạng.

=> Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động có sự thống nhất về tư tưởng và hành động, tập trung được sức mạnh của giai cấp và dân tộc. Để thực hiện được vai trò của mình theo Lê Nin: không có lý luận cách mạng thì không có phong trào

Page 15: đề Cương thi tốt nghiệp triết

cách mạng, chỉ có đảng nào có lí luận tiên phong hướng dẫ mới làm tròn nhiệm vụ của người chiến sĩ tiên phong.

Đảng cộng sản Việt Nam:

- Đảng cộng sản Việt Nam ra đời (2-1930) là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lê Nin với phong trào yêu nước và phong trào công nhân. Đảng cộng sản Việt nam ra đời đã tạo ra bước ngoặt trong phong trào cách mạng Việt Nam, chấm dứt giai đoạn khủng hoảng đường lối cách mạng.

- Đảng cộng sản Việt nam đã đề ra cương lĩnh, đường lối đúng đắn và lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động nước ta thực hiện, đưa tới thắng lợi trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ.

- Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo quá trình đi lên ch nghĩa xã hội đã đạt được những thành tựu to lớn. Xây dựng cơ sở vật chất ban đầu của chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ chế độ người bó lột người, từng bước nâng cap đơi sống nhân dân...

- Đảng cộng sản Việt Nam đẫ đề xướng và lãnh đạo nhan dân ta thực hiện công cuộc đổi mới nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và bước vào thời kì phát triển mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp đổi mới đã và đang thu được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, tình hình kinh tế-xã hội ổn định, đời sống nhân dân từng bước được nâng lên.

→Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ mà đại hội VIII đã nêu ra.” Đảng ta phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình, khắc phục cho được các khuyết điểm, các biểu hiện tiêu cực và yếu kém. Đảng phải mạnh từ Trung ương đến cơ sở, ở cả các cấp các ngành”(Văn kiện Đại hội VIII).

Liên minh giai cấp công nông Tính tất yếu và cơ sở khách quan

Sự liên minh công-nông-trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan. Đó là một khối liên minh tự nhiên bắt nguồn từ trong xã hội tư bản. Khi các giai cấp và tầng lớp xã hội đó cùng bị áp bức bóc lột nặng nề, tất yếu phải liên minh với nhau để có sức mạnh chống lại và lật đổ giai cấp thống trị, xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột của giai cấp tư sản.

Sau khi giai cấp công nhân giành được chính quyền về tay công nhân và nhân dân lao động thì nhu cầu liên minh công-nông-tri thức do tính tất yếu khách quan mới. Đó là yêu cầu xây dựng một xã hội mới – vì lợi ích cơ bản, lâu dài và thiết thân của những lao động buộc họ phải liên minh với nhau.

- Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp giữ vai trò lãnh đạo, sẽ không thể làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình nếu không liên kết được với các giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động khác. Bởi vì sự nghiệp đó không chỉ cần đến sự ủng hộ của số đông mà còn cần đến sức mạnh của trí tuệ. Chỉ khi nào giai cấp công nhân giành được sự ủng hộ, sự đồng tâm hiệp lực với quyết tâm cao của nông

Page 16: đề Cương thi tốt nghiệp triết

dân và trí thức thì mới có thể hoàn thành được cuộc cách mạng toàn diện và triệt để nhất trong lịch sử.

- Thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng chứng minh rằng giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức của mình và bản thân công nông không dần dần nâng cao dân trí thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

- Liên minh công – nông – tri thức còn là tất yếu khách quan và ích lợi của nông dân và tri thức. Bản thân giai cấp nông dân và tâng lớp tri thức cũng tìm thấy ở giai cấp công nhân điều kiện quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định cho việc thực hiện các nhu cầu giải phóng, dân chủ và phát triể của họ. Nông dân và trí thức là những lực lượng xã hội quan trọng, nhưng địa vị kinh tế - xã hội của họ không cho phép họ trở thành lực lượng lãnh đạo xã hội và tự giải phóng mình, mà phải dựa vào sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.

Ở Việt Nam, ngay từ khi Đảng cộng sản ra đời, Hồ Chí Minh đã khẳng định: lực lượng cách mạng chủ chốt là công nông, nhưng cách mạng cũng cần có lực lượng tri thức... Công – nông – trí thức cần phải đoàn kết thành một khối.

Về phương diện kinh tế - kỹ thuật: trong xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu thì bắt buộc phải “công nghiệp hoá, hiện đại hoá” để dùng công nghiệp, khoa học công nghệ hiện đại mà giúp đỡ, cải tạo công nghiệp, nông dân và nông thôn; do đó bắt buộc phải ắn công nghiệp với nông nghiệp và với khoa học công nghệ hiện đại trong cơ cấu kinh tế - kỹ thuật thống nhất của cả nước. Đây chính là sự liên kết của 3 chủ thể.

Đây là 3 lực lượng chính trị - xã hội cơ bản nhất đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ nông nghiệp. Nếu tách rời nhau thì không thể ổn định và phát triển. Củng cố khối liên minh này được coi là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và giai cấp công nhân, nó là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân và của hệ thống chính trị.

Nội dung liên minh giai cấp công nông

Có 3 nội dung cơ bản của liên minh. Đó là:

- Liên minh trên lĩnh vực chính trị

Mục tiêu của liên minh trên lĩnh vực này là giải quyết lợi ích chính trị lao động – nông trí, đó là, tiếp tục giải phóng công – nông – trí thức khỏi mọi áp bức, bất công, xác lập quyền làm chủ xã hội, làm chủ nhà nước cho 3 chủ thể nhằm thực hiện thành công mục tiêu: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Để thực hiện mục tiêu nêu trên cần:

Thống nhất mục tiêu, lợi ích chính trị chung của công – nông – trí thức và toàn xã hội là: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Tạo điều kiện để công – nông – trí thức tham gia một cách tích cực vào quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân thông

Page 17: đề Cương thi tốt nghiệp triết

qua việc ứng cử, bầu cử, góp ý kiến vào việc xây dựng các chính sách, luật pháp của Đảng, Nhà nước.

Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền cho công – nông – trí thức hiểu rõ về mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội để có niềm tin, trách nhiệm với mục tiêu và con đường đó.

Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị, nhất là ở cấp cơ sở nhằm đảm bảo quyền dân chủ cho nhân dân.

Động viên công – nông – trí thức tham gia vào việc giữ gìn và bảo vệ chế độ, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, thông qua đó thực hiện lợi ích chính trị cho công – nông – trí thức.

Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng cộng sản trong khối liên minh.- Liên minh trên lĩnh vực kinh tế:

Đây là nội dung cơ bản và quan trọng nhất trong khối liên minh. Mục tiêu của liên minh trên lĩnh vực này là:”Kết hợp đúng đắn các lợi ích kinh tế” của: công nhân, nông dân, trí thức và toàn bộ xã hội ( Nhà nước đại diện). Thông qua các nội dung cơ bản sau đây:

Xác định đúng những tiềm lực kinh tế và những nhu cầu kinh tế của công nhân( gắn với công nghiệp), của nông dân( gắn với nông nghiệp và nông thôn), của trí thức( gắn với khoa học và công nghệ) và của toàn xã hội( Nhà nước đại diện) trong điều kiện cụ thể. Thực hiện có hiệu quả việc liên kết” 4 nhà” trong phát triển các lĩnh vực kinh tế. Đặc biệt chú trọng quan hệ Nhà nước với nông dân ở một số nước đi lên từ nông nghiệp. Qua đó, gắn công nghiệp – công nhân với nông nghiệp - nống dâ; gắn trí thức đem khoa học công nghệ phục vụ công nghiệp, nông thôn, nông dân....

Xác định đúng cơ cấu kinh tế trên phạm vi cả nước và phạm vi của nhành, địa phương, cơ sở sản xuất... nhằm tập trung( chú trọng) phát triển kinh tế trên cơ sở thế mạnh, lợi thế của từng vùng, miền, ngành, qua đó tạo điều kiện cho liên kết, hợp tác của 3 chủ thể.

Tổ chức các hình thức giao lưu, hợp tác, liên kết kinh tế giữa công nghiệp – nông nghiệp – khoa học công nghệ; giữa quốc gia và quốc tế... nhằm phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống công, nông, trí thức và toàn bộ xã hội như: hội chợ, triển lãm,....

Đa dạng hoá sở hữu, quản lí sử dụng các tư liệu sản xuất trong công nghiệp, nông nghiệp, khoa học và công nghệ, trong toàn xã hội; từng bước hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa bằng những hình thức, bước đi phù hợp nhằm phát triển sản xuất nhanh và bền vững;( nhất la trong nông dân, nông nghiệp nông thôn; trong công nghiệp và dịch vụ.... liên quan nhiều hất đêns công – nông – trí thức).

- Liên minh trên lĩnh vực văn hoá – xã hội:

Mục tiêu của liên minh trên lĩnh vực này là nhằm xâu dựng một xã hội không chỉ dân giàu, nước mạnh mà còn công bằng, dân chủ, văn minh, có điều kiện đáp ứng tối đa nhu cầu văn hoá, tinh thần cho công – nông – trí thức và được phát triển toàn diện.

Do đó, cần phải:

Page 18: đề Cương thi tốt nghiệp triết

Vừa khuyến khích công, nông, trí thức... làm giàu chính đáng, vừa tích cực xoá đói giảm nghèo - nhất là cho đại đa số dân cư là nông dân, nông thôn, miền núi, các dân tộc thiểu số.

Đẩy mạnh việc nâng cao dân trí, văn hoá... cho nông dân, công nhân và nhân dân lao động, xoá mù chữ, phổ cập văn hoá phổ thông. Chăm sóc sức khoẻ nhân dân - đặc biệt là nông dân và công nhân. Chống các biểu hiện tiêu cực và tệ nạn xã hội.

Thực hiện tốt các chính sách xã hội, nhất là trong nông dân( sau những tổn thất của chiến tranh vệ quốc và những khó khăn...).

Việc quy hoạch phát triển đô thị gắn với công nghiệp, khoa học công nghệ phải gắn với quy hoạch xây dựng nông thôn, miền núi, hải đảo,... Đây vừa là nội dung văn hoá – xã hội, vừa mang ý nghĩa kinh tế - chính trị sâu sắc và toàn diện của liên minh công – nông – trí thức trong xy dựng chủ nghĩa xã hội.

2. Cách mạng XHCNa. Khái niệm

Cách mạng xã hội được hiểu theo 2 nghĩa:

- Nghĩa rộng: là một quá trình cải tiến cách mạng toàn diện, triệt để lâu dài, bao gồm hai giai đoạn:

Giai đoạn 1: bắt đầu từ khi giai cấp công nhân thông qua chính đảng của mình lãnh đạo nhân dân lao động dùng bạo lực đập tan nhà nước của giai cấp bóc lột, giành chính quyền, thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Giai đoạn 2: giai cấp công nhân sử dụng nhà nước của mình để làm công cụ cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới: xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Quá trình cải biến xã hội này chỉ kết thúc khi xã hội mới được tạo lập một cách vững chắc.

- Nghĩa hẹp: cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc đấu tranh chính trị, kết thúc bằng việc giai cấp công nhân giành được chính quền, thiết lập chuyên chính vô sản hoặc còn được hiểu là sự chuyển biến từ cách mạngdân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước thuộc địa sau khi giành độc lập.

b. Tính tất yếu của CM XHCN

Cũng như các cuộc cách mạng xã hội đã từng diễn ra trong lịch sử, cách mạng xã hội chủ nghĩa là kết quả tất yếu của sự phát triển các mâu thuẫn và là con đường giải quyết mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản.

- Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đã đạt tới trình độ xã hội hoá cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.

- Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động bị áp bức với giai cấp tư sản.- Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa xuất hiện thêm những mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa các

dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc. Mâu thuẫn giữa đế quốc với đế quốc.

Page 19: đề Cương thi tốt nghiệp triết

Những mâu thuẫn này phát triển đến mức gay gắt đòi hỏi phải được giải quyết. Cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra là tất yếu nhằm giải quyết những mâu thuẫn đó.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể diễn ra một cách tự phát mà là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chủ động, tạo ra tình thế chớp lấy thời cơ cho cách mạng nổ ra và giành thắng lợi.

Hiện nay, nhờ có cách mạng khoa học, công nghệ, chủ nghĩa tư bản ứng dụng những thành tựu mới của khoa học công nghệ trong sản xuất đã tạo ra bước nhảy vọt trong phát triển kinh tế, nó đã góp phần giúp chủ nghĩa tư bản có điều kiện điều chỉnh một số vấn đề xã hội, giúp chủ nghĩa tư bản tồn tại trong giới hạn của nó, cũng chính sự phát triển ở mức độ cao đó, chủ nghĩa tư bản cũng đồng thời đang tạo ra những tiền đề vật chất quan trọng, ngày càng chín muồi cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nó bộc lộ những mâu thuẫn vốn có của nó, nội tại của nó ngày càng sâu sắc hơn( Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển làm cho giai cấp công nhân tăng cả về số lượng, chất lượng-yếu tố quyết định đến sự tồn tại hay không tồn tại của chủ nghĩa tư bản; tệ nạn phân biệt chủng tộc, phân biệt giàu nghèo...). Đây chính là những yếu tố khách quan phủ nhận chủ nghĩa tư bản thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

c. Nội dung

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng có nội dung toàn diện, nó diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hoá và tư tưởng.

Trên lĩnh vực chính trị:

Giai cấp công nhân phải tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ thống trị của giai cấp bóc lột, giành chính quyền, thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đây là tiền đề có ý nghĩa quyết định cho việc thực hiện dân chủ cho đại đa số nhân dân lao động, mở đầu cho một quá trình cải biến cách mạng sâu sắc và triệt để nhất trong lịch sử.

- Dân chủ hoá đời sống chính trị của xã hội nhằm khẳng định và tiếp tục mở rộng hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân lao động tào tiền đề chính trị để đưa xã hội tới trạng thái mới.

- Nâng cao ý thức dân chủ và khả năng thực hiện dân chủ của nhân dân lao động, thúc đẩy họ tham gia đông đảo và có hiệu quả vào quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một qua trình cải biến toàn diện xã hội cũ thành xã hội mới, trong đó công cuộc cải tạo kết hợp chặt chẽ với công cuộc xây dựng mà xây dựng là chủ yếu. Cải tạo đóng vai trò như một phương tiện phục vụ cho mục tiêu xây dựng xã hội mới. Ngược lại, công cuộc xây dựng xã hội mới tạo điều kiện có ý nghĩa quyết định để triển khai công cuộc cải tạo.

Trên lĩnh vực kinh tế:

Đây là nội dung chủ yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Page 20: đề Cương thi tốt nghiệp triết

- Tiến hành xoá bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, xác lập sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu, phát triển lực lượng sản xuất trên cơ sở khoa học và công nghệ hiện đại. Từng bước nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân lao động thực hiện công bằng xã hội.

- Xây dựng chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất là một qua trình phát triển kinh tế-xã hội lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao. Phải từ thực tiễn mà tìm tòi, thử nghiệm để xây dựng chế độ sở hữu công cộng nói riêng và quan hệ sản xuất nói chung với những bước đi vững chắc.

Trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng:

Giai cấp công nhân tiến hành cuộc cách mạng trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng, thực hiện sự cải biến căn bản trong đời sống tinh thần của xã hội theo xu hướng triệt để giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi xiềng xích nô lệ về mặt tinh thần. Làm cho thế giới quan Mác-LêNin và nhân sinh quan cộng sản chếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Tạo điều kiện để nhân dân lao động hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn hoá hướng tới xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bẳn sắc dân tộc.

3. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩaa. Những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

1) Với tư cách là 1 chế độ nhà nước được sáng tạo bởi quần chúng NDLĐ dưới sự lãnh đạo của ĐCS, DC XH CN đảm bảo mọi quyền lực thuộc về GCCN và NDLĐ. Vì vậy, DC XH CN vừa mang bản chất GCCN, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.

2) Nền DC XH CN có cơ sở KT là chế độ công hữu về những tư liệu SX chủ yếu của toàn XH. Chế độ sở hữu đó phù hợp với quá trình XH hoá ngày càng cao của SX nhằm thoả mãn nhu cầu không ngừng tăng lên về vật chất và tinh thần của quần chúng NDLĐ. Đây chính là đặc trưng KT của nền DC XH CN. Đặc trưng này được hình thành và bộc lộ ngày càng đầy đủ cùng với quá trình hình thành và hoàn thiện nền KT XH CN.

3) Trên cơ sở sự kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn XH (do nhà nước của GCCN đại diện), nền DC XH CN có sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực XH của nhân dân trong sự nghiệp xd XH mới. Trong nền DC XH CN, tất cả các tổ chức chính trị-XH, các đoàn thể và mọi công dân đều được tham gia vào các công việc của nhà nước (bằng thảo luận, góp ý kiến xd chính sách, hiến pháp, pháp luật v.v). Mọi công dân đều được bầu cử, ứng cử và đề cử vào cơ quan các cấp.

4) DC XH CN là nền DC rộng rãi nhất trong lịch sử nhưng vẫn là nền DC mang tính GCcủa GCCN - DC đi đôi với kỷ cương, kỷ luật, với trách nhiệm của công dân trước pháp luật. Trong nền DC đó, chuyên chính và DC là 2 mặt, 2 yếu tố quy định lẫn nhau, tác động, bổ sung cho nhau. DC cho nhân dân và chuyên chính với kẻ thù của nhân dân là 2 mặt thống nhất trong KN nền DC XH CN.

b. Tính tất yếu của việc xd nền DC XH CN

Page 21: đề Cương thi tốt nghiệp triết

Theo các nhà kinh điển của CN Mác-Lênin, mục tiêu và động lực của quá trình pt XH, của quá trình xd CN XH là DC. Việc xd nền DC XH CN nhằm mở rộng DC, tạo đk để liên tục pt nhân cách, pt ý thức XH, nâng cao tính tích cực chính trị-XH của quần chúng, làm bộc lộ và huy động các năng lực tổ chức, trí tuệ của nhân dân. DC làm cho các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực vào việc quản lý nhà nước, quản lý XH. DC là phương thức tốt nhất để đặt các đại biểu của nhân dân có phẩm chất chính trị, đạo đức, chuyên môn xứng đáng nhất vào địa vị lãnh đạo nhà nước, vào cơ quan lãnh đạo của các tổ chức chính trị-XH. “Với việc pt DC 1 cách đầy đủ, nghĩa là việc làm cho toàn thể quần chúng nhân dân tham gia thực sự bình đẳng và thực sự rộng rãi vào mọi việc quản lý nhà nước”.

Xd nền DC XH CN là quy luật của sự hình thành và tự hoàn thiện của hệ thống chính trị XH CN. Khi DC 3o trùm đại bộ phận các quan hệ, các thiết chế XH và thu hút được các tầng lớp nhân dân vào đời sống chính trị-XH của đất nước, DC góp phần mở rộng cơ sở XH của hệ thống chính trị, giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của ĐCS, chính quyền, đoàn thể. Mở rộng DC có tác dụng vô cùng to lớn trong chống tiêu cực, suy thoái, chống tham nhũng, củng cố Đảng, làm trong sạch bộ máy nhà nước, lành mạnh hoá các quan hệ XH, từ đó góp phần làm tăng tính ổn định XH.

Xd nền DC XH CN là quá trình tất yếu diễn ra nhằm xd, pt, hoàn thiện DC, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Trước hết nó trở thành đk, tiền đề thực hiện quyền lực, quyền làm chủ của nhân dân, là đk cần thiết và tất yếu để mỗi công dân được sống trong bầu không khí thực sự DC.

Xd nền DC XH CN cũng chính là quá trình vận động và thực hành DC, biến DC từ khả năng thành hiện thực trong mọi lĩnh vực của đời sống XH, là quá trình đưa các gtrị, chuẩn mực, nguyên tắc của DC vào thực tiễn xd cs mới, chống các biểu hiện của DC cực đoan, vô chính phủ, ngăn ngừa mọi hành vi coi thường kỷ cương, pháp luật.