Upload
truongtruc
View
220
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM ĐẠI HỌCGIÁO TRÌNH
TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM ĐẠI HỌC
TS. HUỲNH VĂN SƠN (Chủ biên)
TS. TRẦN THỊ THU MAI – TS. NGUYỄN THỊ TỨ
LỜI NÓI ĐẦU
Tâm lý học Sư phạm Đại học là một chuyên ngành khá mới của Tâm lý
học. Tuy nhiên, những thành tựu và những ứng dụng thực tiễn đã minh
chứng cho sự hữu dụng đích thực của nó trong hoạt động giảng dạy tại nhà
trường Cao đẳng - Đại học. Dựa trên cơ sở của Tâm lý học Sư phạm Đại học,
việc giảng dạy những kiến thức cũng như hình thành những kỹ năng và
chuẩn bị những kỹ xảo cho sinh viên - một đối tượng học tập đặc thù sẽ thực
sự có đường hướng và mang tính kỹ thuật đích thực
Không thể phủ nhận rằng việc giảng dạy ở bậc Cao đẳng - Đại học vốn
dĩ là một hoạt động phức tạp. Cái phức tạp ấy thể hiện trong cái nhìn tương
tác giữa hai chủ thể khi mà cái tôi đã "trưởng thành" và “tỏa sáng”. Việc thể
hiện đúng nghĩa tính tổ chức trong hoạt động giảng dạy và chủ động trong
hoạt động học tập - hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên sẽ là sự lựa
chọn hoàn hảo. Những luận điểm chính này là đối tượng và cũng đồng thời là
đích đến của Tâm lý học Sư phạm Đại học.
Thực tế luôn yêu cầu cao và chất lượng giảng dạy tại các trường Đại
học - Cao đẳng cũng không ngừng được yêu cầu cao. Song song với việc cải
tiến về cơ sở vất chất, chương trình đào tạo, nội dung đào tạo thì việc đầu tư
về "con người" trong giảng dạy là điều hết sức cần thiết. Góp phần cùng với
nhiệm vụ chung là hỗ trợ các giảng viên nâng cao kỹ năng nghiệp vụ sư
phạm giảng dạy ở Cao đẳng - Đại học thì Tâm lý học Sư phạm dưới góc độ
của mình đã đem đến những hành trang về các kiến thức tâm lý tuổi thanh
niên sinh viên và tuổi trưởng thành, chỉ rõ các cơ sở tâm lý của việc tiến hành
hoạt động dạy và hoạt động cũng như phân tích đặc điểm nghề nghiệp của
người cán bộ giảng dạy và phác thảo mô hình nhân cách của người giảng
viên. Đó chính là những cơ sở quan trọng của một nghề nghiệp mang tính
khoa học và ứng dụng.
Giáo trình được biên soạn trên tinh thần kế thừa những tài liệu trước đó
và những công trình khoa học được cập nhật. Tuy nhiên, vì hạn chế bởi
những điều kiện khách quan nên thiếu sót là không thể tránh khỏi. Quyển giáo
trình cũng ra đời dựa trên các cơ hội Dự án của Phát triển Giáo dục Đại học
giai đoạn hai mà các tác giả được tham gia. Kính mong được sự quan tâm và
chia sẻ kinh nghiệm của quý đồng nghiệp về sản phẩm tinh thần mang tính
tập thể này.
TS. Huỳnh Văn Sơn
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM ĐẠI HỌC
Tâm lý học Sư phạm Đại học là khoa học được quan tâm trong giai
đoạn gần đây dù rằng những thành tựu của nó đã xuất hiện từ khá lâu. Nhằm
thực hiện trọn vẹn nhiệm vụ của mình, Tâm lý học Sư phạm Đại học đã vận
dụng những thành tựu đặc biệt của Tâm lý học cũng như những khoa học có
liên quan. Với những định hướng cụ thể và những yêu cầu đặc trưng, việc tìm
hiểu Tâm lý học Sư phạm cần phải mang tính hệ thống. Tuy vậy, điều căn
bản là cần xác định đối tượng nghiên cứu - nhiệm vụ nghiên cứu cũng như
vai trò - ý nghĩa của Tâm lý học Sư phạm Đại học.
1.1. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu và vai trò của Tâm lý học Sư phạm Đại học
1.1.1. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học Sư phạm Đại học
Đối với bất kỳ một khoa học hay một môn học, việc xác định đối tượng
nghiên cứu trở nên hết sức quan trọng vì chính nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
định hướng nghiên cứu khoa học ấy hay môn học ấy. Tâm lý học Sư phạm
Đại học cũng có một đối tượng nghiên cứu hết sức đặc biệt và độc đáo. Sự
đặc biệt và độc đáo ấy bị chi phối bởi khách thể rất đặc thù của Tâm lý học
Sư phạm Đại học cũng như bản chất của quá trình sư phạm đại học gắn chặt
với Tâm lý học Sư phạm Đại học.
Có thể nói một cách khái quát nhất thì đối tượng nghiên cứu của Tâm lý
học Sư phạm Đại học là những quy luật nảy sinh, biến đổi và phát triển tâm lý
của cá nhân, của nhóm dưới tác động của hoạt động sư phạm (thực chất đó
là những tác động về dạy học và giáo dục của quá trình sư phạm đại học),
những quy luật lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và những kinh nghiệm
- giá trị sinh viên cần trong quá trình sống và làm nghề trong tương lai.
Ở một góc nhìn khác, Tâm lý học Sư phạm Đại học nghiên cứu những
quy luật cơ bản trong quá trình Sư phạm Đại học mà cụ thể là nghiên cứu
những quy luật nảy sinh, biến đổi, phát triển của các hiện tượng tâm lý trong
quá trình Sư phạm Đại học (bao gồm cả quá trình dạy học và giáo dục) cũng
như mối liên hệ giữa sự phát triển tâm lý của sinh viên trong các điều kiện
khác nhau của dạy học và giáo dục. Ở đây, đối tượng nghiên cứu hướng đến
là những quy luật cơ bản hay những quy luật mang tính khái quát trong hoạt
động Sư phạm Đại học phản ánh những mặt cơ bản hay những diễn tiến cơ
bản của hoạt động ấy.
Bên cạnh đó, Tâm lý học Sư phạm Đại học còn tập trung nghiên cứu
sự tương tác giữa hoạt động dạy và hoạt động học của sinh viên diễn ra trong
mối quan hệ mật thiết cùng với những quy luật nhất định của nó. Những quy
luật này chi phối hiệu quả của từng dạng hoạt động cũng như ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lượng dạy và học ở bậc Đại học.
1.1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học Sư phạm Đại học
Tâm lý học Sư phạm Đại học sẽ góp phần giải quyết nhiệm vụ đặc biệt
quan trọng là nâng cao hiệu quả của hoạt động dạy, hoạt động học và hướng
đến hiệu quả dạy học ở bậc Đại học đạt ở mức cao nhất.
Có thể phân tích chi tiết về nhiệm vụ của Tâm lý học Sư phạm Đại học
theo từng chiều kích như sau:
Thứ nhất, Tâm lý học Sư phạm Đại học phân tích về phương diện tâm
lý của hoạt động học của sinh viên đặc biệt là cơ chế tâm lý của quá trình sinh
viên lĩnh hội nền văn hóa xã hội cũng như các tri thức khoa học và các kỹ
năng nghề nghiệp. Trên cơ sở đó, vạch ra những cơ sở tâm lý cho việc nâng
cao hiệu quả quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên. Ngoài ra, Tâm lý
học Sư phạm Đại học nghiên cứu tâm lý tập thể sinh viên và những biểu hiện
của nó trong hoạt động xã hội, học tập và nghiên cứu khoa học...
Thứ hai, Tâm lý học Sư phạm Đại học phân tích về phương diện tâm lý
của hoạt động dạy của giảng viên đặc biệt là cơ chế tâm lý của quá trình hình
thành khái niệm, trang bị và rèn luyện những kỹ năng cho sinh viên cũng như
tìm ra những cơ sở điều khiển về mặt Tâm lý học của quá trình giảng dạy.
Trên cơ sở đó, vạch ra những cơ sở tâm lý cho việc nâng cao hiệu quả quá
trình dạy học và giáo dục của giảng viên.
Thứ ba, Tâm lý học Sư phạm Đại học còn vạch ra các quy luật hình
thành nhân cách của sinh viên và những phẩm chất - năng lực quan trọng của
một trí thức có những phẩm chất và năng lực tương ứng với trình độ cử nhân.
Thứ tư, Tâm lý học Sư phạm Đại học nghiên cứu nhân cách và hoạt
động của người cán bộ giảng dạy, nghiên cứu những cơ sở tâm lý nhằm tổ
chức hoạt động giảng dạy một cách hiệu quả. Đặc biệt là những biện pháp
nhằm định hướng hoạt động giảng dạy của giảng viên đạt ở trình độ kỹ thuật
hoặc thậm chí là nghệ thuật.
Thứ năm, Tâm lý học Sư phạm Đại học tìm mối quan hệ giữa sự tiếp
thu tri thức và sự phát triển các chức năng tâm lý của cá nhân sinh viên.
Ngoài ra, Tâm lý học Sư phạm Đại học còn phân tích và đề xuất những cơ sở
để giúp cho giảng viên, giúp sinh viên thích ứng với những yêu cầu đặc trưng
của hoạt động học ở Đại học - một môi trường mới với những yêu cầu mới.
Mặt khác, Tâm lý học Sư phạm Đại học phân tích mối quan hệ về mặt nhân
cách, đặc trưng trong hoạt động giao tiếp giữa giảng viên và sinh viên nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả dạy học và giáo dục.
Thứ sáu, Tâm lý học Sư phạm Đại học đưa ra các luận chứng về mặt
Tâm lý học cho quan điểm hệ thống với việc đào tạo trí thức trẻ có trình độ cử
nhân. Đặc biệt, điều căn bản nhất là việc phân tích được những biểu hiện, cơ
chế và quy luật hoạt động học của sinh viên cũng như những cơ sở quan
trọng của việc tổ chức hoạt động học ở yêu cầu: nội dung, cách tổ chức, nhịp
điệu, những áp lực, những khó khăn và căng thẳng thường gặp...
Tóm lại, nhiệm vụ của Tâm lý học Sư phạm Đại học nhằm tìm ra những
cơ sở tâm lý của việc tổ chức hoạt động dạy của giảng viên và hoạt động học
của sinh viên cũng như những quy luật cơ bản, những cơ chế tâm lý xảy ra
trong mối quan hệ tương tác giữa hoạt động dạy và hoạt động học ở môi
trường Sư phạm Đại học.
1.1.3. Vai trò của Tâm lý học Sư phạm Đại học
Tâm lý học Sư phạm Đại học đóng một vai trò đặc biệt quan trọng xét
về mặt lý luận và thực tiễn. Trên bình diện lý luận, Tâm lý học Sư phạm Đại
học làm cho lý luận về Tâm lý học mang tính hệ thống và đặc trưng trong
những lát cắt khác nhau của các chuyên ngành Tâm lý học. Mặt khác, Tâm lý
học Sư phạm Đại học làm cho việc nghiên cứu Tâm lý học mang tính ứng
dụng cụ thể trong hoạt động giảng dạy ở bậc Đại học với các cơ sở khoa học
và thành tựu của nó.
Trên bình diện thực tiễn, Tâm lý học Sư phạm Đại học chỉ rõ các quy
luật hình thành và phát triển tâm lý cũng như các cơ sở khoa học của việc
giảng dạy đại học làm cho hoạt động giảng dạy đại học có cơ sở khoa học
vững chãi cũng như dễ dàng triển khai bằng các kỹ thuật hiện đại mang tính
thích ứng cao hướng đến hiệu quả tích cực. Mặt khác, Tâm lý học Sư phạm
đóng góp đáng kể vào việc thực hiện những chức năng cơ bản cho hoạt động
ở Trường Cao đẳng, Đại học là đào tạo đội ngũ trí thức cũng như định hướng
giáo dục con người toàn diện thích ứng với cuộc sống thực tiễn và nghề
nghiệp.
Có thể phân tích vai trò của Tâm lý học Sư phạm Đại học với nhà
trường Cao đẳng - Đại học như sau:
1.1.3.1. Đối với lãnh đạo trường Đại học
Tâm lý học Sư phạm Đại học, đầu tiên giúp cho cán bộ lãnh đạo các
trường Đại học xây dựng hệ thống để định hướng cho công tác giảng dạy và
giáo dục sinh viên theo những cơ sở khoa học của công tác đào tạo một nhân
cách.
Tâm lý học Sư phạm Đại học cũng góp phần giúp các nhà lãnh đạo
định hướng xây dựng yêu cầu chuẩn trong việc đánh giá người giảng viên,
tuyển dụng giảng viên cũng như đưa ra những cơ sở nhằm nâng cao chất
lượng giảng viên của Trường Cao đẳng, Đại học.
Bên cạnh đó, Tâm lý học Sư phạm Đại học cung cấp những cơ sở cần
thiết để các nhà quản lý trường Đại học thực hiện chức năng quản lý của
mình một cách tốt nhất dành cho hai khách thể chính: giảng viên và sinh viên
trong mối quan hệ tương tác để hướng đến việc nâng cao chất lượng đào
tạo. Đặc biệt, những cơ sở tâm lý về đặc điểm của sinh viên trưởng thành sẽ
trở thành những yêu cầu quan trọng để các nhà quản lý có những định hướng
sâu sát đáp ứng yêu cầu của sinh viên trong quá trình đào tạo.
Ngoài ra, Tâm lý học Sư phạm Đại học cũng trở thành một thanh công
cụ quan trọng để các nhà quản lý trường Đại học sẽ nhìn nhận về lao động
đặc thù của người giảng viên Đại học với các yêu cầu nhất định để giải quyết
tốt vấn đề nguồn nhân lực trong môi trường giáo dục Đại học.
1 1 3.2. Đối với giảng viên và các cán bộ khác
Thứ nhất, việc lĩnh hội và nắm chắc các cơ sở về mặt lý thuyết trong
Tâm lý học Sư phạm Đại học giúp cho giảng viên sẽ tổ chức hoạt động sư
phạm đại học một cách khoa học và hiệu quả.
Mặt khác, những yêu cầu cơ bản về việc dạy học tích cực và thích ứng
sẽ dựa vào nền tảng những tri thức mà giảng viên đã tích lũy khi tìm hiểu một
cách chi tiết và thấu đáo về đặc điểm tâm lý của sinh viên. Trên cơ sở đó,
việc tổ chức các hoạt động mang tính đặc trưng, việc đáp ứng các yêu cầu về
tâm lý lứa tuổi sinh viên được khai thác triệt để sẽ trở thành một chiến lược
đáp ứng yêu cầu dạy học và giáo dục ở bậc Đại học.
Thứ ba, việc nắm vững mô hình triển khai quá trình hình thành khái
niệm, rèn luyện kỹ năng từ Tâm lý học Sư phạm Đại học sẽ là cơ sở quan
trọng để giảng viên rèn luyện tay nghề của mình, nâng cao kỹ năng nghề
nghiệp bằng những giải pháp cụ thể: xây dựng kế hoạch dạy học tích cực, sử
dụng hiệu quả các phương tiện và kỹ thuật dạy học, cải tiến các biện pháp
đánh giá kết quả học tập...
Thứ tư, Tâm lý học Sư phạm Đại học góp phần trang bị lý thuyết hệ
thống về giảng dạy Đại học, trang bị những cơ sở về lý luận và sự thích ứng
để giảng viên Đại học sẽ dễ dàng tiếp cận những lý thuyết khác nhau về
giảng dạy và giáo dục Đại học. Bên cạnh đó, giảng viên cũng sẽ thích ứng với
sự thay đổi theo những đòi hỏi thực tiễn nhưng vẫn vững vàng chọn lọc bằng
cái nhìn khoa học để giảng dạy hiệu quả cũng như không ngừng cải tiến
nhằm thích ứng cao và đạt hiệu quả cao trong công việc của chính mình.
Thứ năm, đối với các cán bộ khác trong Trường Đại học, việc nắm
vững Tâm lý học Sư phạm Đại học sẽ làm cho quan điểm hệ thống và khoa
học về quá trình Sư phạm Đại học sẽ hình thành một cách sâu sắc. Mặt khác
việc hỗ trợ, đáp ứng những yêu cầu về giảng dạy đại học sẽ hiệu quả hơn
cũng như việc tổ chức các hoạt động giáo dục cho sinh viên sẽ có điểm tựa
cũng như đúng định hướng phát triển toàn diện nhân cách và chú trọng kỹ
năng nghề.
1.1.3.3. Đối với sinh viên các trường Cao đẳng - Đại học
- Tâm lý học Sư phạm Đại học góp phần làm cho sinh viên hiểu hơn về
những đặc trưng tâm lý của mình, những đặc trưng về kiểu nhân cách và
những đặc trưng về hoạt động học tập - nghiên cứu của lứa tuổi để điều chỉnh
những hoạt động cá nhân mang tính thích nghi.
- Thứ nữa, Tâm lý học Sư phạm Đại học cung cấp cơ sở để sinh viên
hình thành những kỹ năng học tập - nghiên cứu hướng dẫn đến việc tự học -
tự giáo dục và tự rèn luyện để phát triển nhân cách một cách toàn diện theo
định hướng tích cực.
- Tâm lý học Sư phạm Đại học còn góp phần tạo điều kiện kích thích
những sinh viên ưu tú phấn đấu và rèn luyện cũng như hoàn thiện chính mình
nhằm chuẩn bị hành trình cần thiết để trở thành những ứng viên - giảng viên
cung cấp vào đội ngũ giảng viên Đại học trong tương lai không xa...
1.2. Những điều kiện làm nảy sinh và hình thành Tâm lý học Sư phạm Đại học
Như đã nói Tâm lý học Sư phạm Đại học không phải là khoa học được
hình thành từ rất sớm với tên gọi chính thống và độc lập của nó. Tuy nhiên,
nếu xét những tư tưởng sớm của Tâm lý học phát triển và Tâm lý học Sư
phạm thì Tâm lý học Sư phạm Đại học cũng có những tư tưởng nền tảng khá
lâu đời dưới góc nhìn ứng dụng.
Ngay từ rất lâu, những tư tưởng về việc tìm hiểu đặc điểm tâm lý của
người học đặc biệt là người học trưởng thành cũng như việc tìm hiểu các
cách thức tương tác với người học trưởng thành đã bắt đầu được quan tâm.
Từ thế kỉ XIX, Tâm lý học chính thức tách khỏi Triết học và trở thành một
khoa học độc lập thì những tư tưởng nghiên cứu về Tâm lý học ở nhiều phân
nhánh cũng bắt đầu được nảy sinh và thực hiện. Có thể đề cập đến những tư
tưởng này từ thời điểm năm 1890 với các tác giả nổi tiếng như: Juan Vives,
Johann Pestalozzi, Friedrich Froebel, Johann Herbart... [55]. Từ những tư
tưởng ban đầu về dạy học tích cực đến các điều kiện vật chất đảm bảo dạy
học hiệu quả cũng như dạy học tương tác dựa vào người học đều được đề
cập một cách khái quát.
Kế đến là thời điểm từ năm 1890 đến 1920 với những thành tựu nổi bật
của Tâm lý học Giáo dục và Tâm lý học Sư phạm cũng có nhiều khởi sắc từ
những nghiên cứu này. Nhiều nhà Tâm lý học và Giáo dục học đã minh
chứng cho sự xuất hiện rất hữu dụng của Tâm lý học Sư phạm nói chung.
Các nhà khoa học khác và những chuyên gia về giảng dạy cũng đã thừa nhận
sự tồn tại của Tâm lý học Sư phạm với những đóng góp của nó. Những cơ sở
tâm lý của việc dạy học lý thuyết hay dạy học nhóm hoặc dạy học thực hành
đều được đề cập và phân tích một cách sâu sắc. Những khẳng định cho việc
dạy học không chỉ là việc hình thành tri thức mà phải rèn luyện cả kỹ năng
cũng như hình thành thái độ và tình cảm được phân tích chi tiết và khoa học.
Các tác giả có thể đề cập như: James, Alfred Binet, Lewis Terman, Edward
Thorndike, John Dewey... [55].
Không thể tách riêng Tâm lý học Sư phạm Đại học ra khỏi những
chuyên ngành gần và rộng có bao hàm Tâm lý học Sư phạm Đại học như:
Tâm lý học lứa tuổi hay Tâm lý học phát triển, Tâm lý học Sư phạm (bao gồm
Tâm lý học dạy học và Tâm lý học giáo dục) thì những tư tưởng cơ bản về
Tâm lý học Sư phạm Dại học xuất hiện nở rộ vào những năm 1920 về sau với
các nghiên cứu như: dạy học cho người trưởng thành ra sao, con đường tiếp
nhận tri thức của người học trưởng thành, dạy học bám sát vào khả năng
nhận thức hay cấu trúc nhận thức của người học, dạy học và các kỹ thuật
biến cho người lớn từ học tập trở thành tự học. Những tác giả có thể đề cập
như: Jerome Bruner, Benjamin Bloom, Nathaniel Gage... [48].
Từ những năm 1980, một số tác giả nghiên cứu về Tâm lý học Sư
phạm Đại học tiếp tục đưa ra những cơ sở tâm lý để tổ chức hoạt động dạy
học ở bậc Đại học. Từ những cơ sở của việc nghiên cứu đặc điểm tiếp nhận
tri thức, đặc điểm nhận thức, đặc trưng của hoạt động học tập ở bậc Đại học -
học tập nghiên cứu đến những mong mỏi và hứng thú học tập của tuổi sinh
viên đều được khai thác khá sâu. Hơn thế nữa, những cơ sở tâm lý của việc
tổ chức hoạt động dạy và học ở bậc Đại học, những cơ sở khoa học của việc
lựa chọn các phương pháp dạy học ở bậc Đại học, những yêu cầu về việc
chọn lựa các kỹ thuật dạy học, mô hình dạy học phù hợp tâm lý đều được
khai thác một cách bài bản. Có thể đề cập đến những tác giả như:
Xét trên bình diện thực tiễn tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, có
thể đề cập đến điều kiện làm nảy sinh và hình thành Tâm lý học Sư phạm Đại
học như sau:
- Thứ nhất với số lượng giảng viên các Trường Đại học, Cao đẳng hiện
nay trên toàn quốc lên đến con số hơn 5.000 giảng viên (số liệu năm 2010) thì
việc trang bị những kiến thức về tâm lý của hoạt động giảng dạy ở bậc Đại
học trở nên hết sức quan trọng và cần thiết. Điều này đòi hỏi phải có những
môn học mang tính chất nền tảng và định hướng kỹ năng giảng dạy Đại học.
Môn học Tâm lý học Sư phạm ra đời như là một nhu cầu khách quan. Bắt đầu
từ những năm 1990 với chương trình đào tạo Lý luận dạy học Đại học cho
giảng viên Đại học và sau đó trở thành một phân môn trong chương trình
Thạc sĩ Khoa học Giáo dục ở một số trường Đại học thì việc cần thiết nghiên
cứu chuyên sâu về những cơ sở tâm lý của việc giảng dạy bắt đầu được
quan tâm. Ban đầu, môn học Lý luận dạy học Đại học trở thành môn học gần
như bắt buộc và dần dần những kiến thức có liên quan mà đặc biệt là cơ sở
Tâm lý học của hoạt động giảng dạy là không thể thiếu. Mặt khác, Tâm lý học
Sư phạm Đại học trở thành một môn học (học phần) chuyên ngành đặc biệt
quan trọng được giảng dạy cho các học viên Cao học, Tâm lý học từ những
năm 1994 cho các hệ đào tạo Thạc sĩ Tâm lý học ở Viện và Trường... có thể
kể đến những chuyên gia giảng dạy môn này như: PGS. TS. Nguyễn Thạc,
PGS. TS. Phạm Thành Nghị, PGS. TS. Hoàng Anh...
Cũng có thể dễ dàng nhận ra hiện nay, số lượng trường Cao đẳng - Đại
học toàn quốc lên đến con số trên dưới 300. Trong số đó có những giảng viên
là các cán bộ khoa học ở các ngành khác được đào tạo để làm nghiên cứu
hoặc ứng dụng đã trở thành giảng viên giảng dạy ở bậc Cao đẳng và Đại học.
Đó là chưa kể số lượng sinh viên ở các Trường Đại học tăng lên đáng kể do
nhu cầu học tập nâng cao, thôi thúc phải luôn luôn chuẩn hoá đội ngũ, tuyển
dụng và bồi dưỡng... Việc bồi dưỡng giảng viên có trình độ chuẩn trở thành
nhu cầu không thể thiếu. Ngoài những chương trình học bồi dưỡng do các
trường Cao đẳng và Đại học tự thiết kế mà nội dung Tâm lý học Sư phạm Đại
học thường không thể thiếu thì chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ Sư phạm
dành cho giảng viên với 7 học phần mà trong đó học phần Tâm lý học Sư
phạm Đại học trở thành học phần bắt buộc. Song song với việc bồi dưỡng xét
về mặt chương trình, Tâm lý học Sư phạm Đại học với nội dung cốt lõi là tiếp
cận hoạt động dạy và hoạt động học bằng những cơ sở Tâm lý học, chỉ rõ
những cách thức tiếp cận dạy học, những yêu cầu của việc tổ chức hoạt động
dạy và hoạt động học bằng những cơ sở Tâm lý học. chỉ rõ cách thức tiếp
cận dạy học, những yêu cầu của việc tổ chức hoạt động dạy và hoạt động
học. Nên Tâm lý học Sư phạm Đại học trở thành công cụ rất quan trọng để
phát triển kỹ năng nghề nghiệp của giảng viên theo hướng tiếp cận kỹ thuật.
Mặt khác, việc tiếp nhận và lĩnh hội những tri thức Tâm lý học Sư phạm Đại
học sẽ giúp cho giảng viên nhận ra được những yêu cầu về phẩm chất và
năng lực của người giảng viên Đại học, nhận ra được những đặc điểm của
lao động trí tuệ và mang tính đặc thù này nhằm tự đánh giá bản thân, không
ngừng rèn luyện và hoàn thiện chính mình trong tương lai... Đó chính là lối
tiếp cận mang tính chất nghiên cứu để định hướng tự học và tự phấn đấu
nhằm giúp cho những giảng viên sẽ phát triển và hoàn thiện nhân cách mẫu
mực, nhân cách toàn diện và nhân cách sáng tạo...
Những yêu cầu của thực tiễn cũng cho thấy việc cung cấp một tri thức
khoa học mang tính định danh như “một bộ môn", “một học phần" hay một
chuyên đề sẽ khó khả thi khi lượng tri thức thì rất khổng lồ, da dạng và phong
phú. Hơn thế nữa, thời lượng đào tạo thì được giảm tải theo những định
hướng mới, sinh viên sẽ tự chọn những học phần mình cảm thấy cần... Vì
vậy, khó có thể làm tốt việc giảng dạy Đại học nếu không có phương pháp.
Thế nên, những cơ sở khoa học về mặt tâm lý để tổ chức hoạt động dạy và
học sẽ rất có giá trị để đáp ứng yêu cầu này. Khi nội dung càng rộng mở và
thậm chí là bao la, thời lượng thì có hạn, khả năng của sinh viên cũng trong
một chừng mực thì không có gì khác hơn chính những giảng viên phải đủ bản
lĩnh và kỹ thuật để tiết chế chính mình, điều tiết bài giảng, hướng đến việc
kích thích sinh viên - người học tự nghiên cứu, tự học và tự học suốt đời.
Điều mà giảng viên thu nhận được trong Tâm lý học Sư phạm Đại học, đó
chính là cách thức hướng sinh viên tự làm việc độc lập, tự nghiên cứu và tư
duy chiến lược để giải quyết vấn đề của môn học, những vấn đề xoay quanh
khoa học chuyên ngành và đặc biệt là phương pháp tư duy và phương pháp
làm việc... Tâm lý học Sư phạm Đại học thực hiện sứ mệnh của chính mình
như một đòi hỏi cấp thiết.
Dựa trên những yêu cầu của thực tiễn, nền tảng lý luận và những lịch
sử nghiên cứu mang tính hệ thống, Tâm lý học Sư phạm Đại học ra đời như
một chuyên ngành của Tâm lý học. Tâm lý học Sư phạm Đại học là khoa học
nghiên cứu hệ thống những tri thức, những quan điểm và những nguyên tắc
cũng như những quy luật giảng dạy và giáo dục ở bậc Đại học trong cái nhìn
thích ứng. Tâm lý học Sư phạm Đại học trở thành một kiến thức nền tảng
không thể thiếu trong quá trình giảng dạy ở bậc Đại học cũng như quản lý
công tác giảng dạy ở bậc Đại học trên tầm vĩ mô và vi mô.
1.3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Tâm lý học Sư phạm Đại học
1.3.1. Phương pháp luận nghiên cứu Tâm lý học Sư phạm Đại học
Trước hết, có thể đề cập đến khái niệm phương pháp luận khoa học
đại cương. Phương pháp luận dựa trên những nguyên tắc, những phương
tiện và hình thức nhận thức khoa học mang tính toàn diện. Phương pháp luận
khoa học đại cương nêu ra vấn đề chung để xây dựng nghiên cứu khoa học,
những biện pháp tiến hành hoạt động lý luận và thực tiễn, trong đó có những
vấn đề chung xây dựng nghiên cứu thực nghiệm, quan sát và mô hình hóa.
Phương pháp luận khoa học là học thuyết về các phương pháp nhận
thức khoa học và cải tạo thế giới. Phương pháp luận Tâm lý học Sư phạm
Đại học là những quan điểm duy vật biện chứng và những quan điểm khoa
học tâm lý về bản chất tâm lý, sự thống nhất ý thức nhân cách và hoạt động,
là những nguyên tắc về tri thức khoa học đã được khái quát mang tính logic
đối với quá trình nghiên cứu các hiện tượng tâm lý trong những điều kiện đặc
thù về dạy học và giáo dục ở môi trường Đại học.
Phương pháp luận của việc nghiên cứu Tâm lý học Sư phạm Đại học
đòi hỏi phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
1.3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan khi nghiên cứu Tâm lý
học Sư phạm Đại học
Các hiện tượng tâm lý của sinh viên trong đó bao gồm những đặc điểm,
quy luật, cơ chế của sự phát triển tâm lý là đối tượng nghiên cứu chính của
Tâm lý học Sư phạm Đại học cho nên các hiện tượng này được nghiên cứu
phải đảm bảo tính khách quan. Điều này, đòi hỏi việc nghiên cứu các vấn đề
này trong trạng thái tự nhiên nhất, thật nhất và tiêu chí trung thực, chính xác
phải luôn luôn được đảm bảo.
Việc thực hiện nguyên tắc khách quan trong khi nghiên cứu Tâm lý học
Sư phạm Đại học là yêu cầu tối quan trọng vì chỉ khi tuân thủ yêu cầu này hay
nguyên tắc này thì những đặc điểm tâm lý hay những thông tin khái quát khác
về tuổi sinh viên mới thực sự có tính khách quan và có đủ độ tin cậy. Đây
cũng là một thách thức để thấy rằng việc nghiên cứu Tâm lý học Sư phạm Đại
học đòi hỏi phải rất dày công, phải tỉ mỉ, chi tiết và đặc biệt là luôn có những
bằng chứng khoa học kể cả về mặt định lượng lẫn định tính.
Nguyên tắc tính khách quan được vận dụng một cách cụ thể khi nghiên
cứu Tâm lý học Sư phạm Đại học là mọi cứ liệu về tâm lý đều phải được lưu
giữ và nó trở thành những bằng chứng về mặt khoa học. Dù rằng một biểu
hiện tâm lý của sinh viên có thể xảy ra duy nhất một lần hay xảy ra lặp đi lặp
lại cũng phải được quan tâm vì đây là những cơ sở rất quan trọng để minh
họa cho những thông số phát triển của độ tuổi. Đây cũng chính là những luận
cứ rất quan trọng để người nghiên cứu có thể mở đầu cho một sự giả định.
Nói khác đi, việc kết luận một cách cảm tính hay chủ quan của người nghiên
cứu khi nhìn nhận về sự phát triển tâm lý hay diễn tiến tâm lý của sinh viên sẽ
không thể được chấp nhận vì nó vi phạm nguyên tắc khách quan. Mọi biểu
hiện về tâm lý của sinh viên đều có những cơ sở và những kết luận trong sự
phát triển tâm lý của sinh viên đều phải dựa trên những cứ liệu rõ ràng và chi
tiết.
Nguyên tắc này còn đòi hỏi việc nghiên cứu hoạt động dạy của giảng
viên và hoạt động học của sinh viên phải diễn ra một cách chân thật và tự
nhiên nhất. Cụ thể như, việc nghiên cứu hoạt động học của sinh viên cần nhìn
nhận một cách khách quan trong môi trường học đường giảng đường cũng
như trong môi trường sinh hoạt hàng ngày... Hay việc nghiên cứu hoạt động
dạy của giảng viên cần được xem xét khách quan thông qua những diễn tiến
khách quan của nó trong các khâu khác nhau của quá trình giảng dạy.
1.3.1.2. Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng khi nghiên cứu
Tâm lý học Sư phạm Đại học
Việc nghiên cứu Tâm lý học Sư phạm Đại học phải nhìn nhận những
biểu hiện tâm lý của tuổi sinh viên luôn chịu ảnh hưởng một cách đồng bộ bởi
những yếu tố khác tác động đến tâm lý người. Từ những điều kiện sinh học
đến những điều kiện xã hội hay vai trò đặc biệt quan trọng của chủ thể cùng
với hoạt động của chủ thể đều được xem xét trong việc nghiên cứu Tâm lý
học Sư phạm đại học. Sự tác động tổng hợp và đồng bộ này tồn tại và diễn ra
như một quy luật phổ biến và nó để lại những dấu ấn quan trọng trong tiến
trình phát triển tâm lý của con ngươi. Đặc biệt, việc tuân thủ nguyên tắc này
đòi hỏi cần nhìn nhận sự phát triển tâm lý hay những diễn tiến tâm lý của sinh
viên chịu ảnh hưởng đặc biệt quan trọng bởi tác động của giảng viên cùng với
hoạt động dạy nhưng chính hoạt động học của sinh viên lại quyết định sự
phát triển cá nhân mình.
Ngoài ra, việc nghiên cứu Tâm lý học Sư phạm Đại học luôn luôn nhìn
nhận sinh viên trong sự tác động đa chiều cũng như trong mối liên hệ tương
tác giữa điều kiện sinh học với tâm lý, quan hệ giữa môi trường và gia đình
với tâm lý của sinh viên. Đây cũng chính là yêu cầu để thấy rằng việc nghiên
cứu Tâm lý học Sư phạm Đại học không thể tách sinh viên ra khỏi thực tại
cũng như tách ra khỏi nhóm cộng đồng sinh viên theo nguyên tắc biệt lập dù
chỉ là tương đối.
Những biểu hiện tâm lý của sinh viên không thể tự dưng có được.
Chính vì vậy, những lý giải về mặt hành vi, thái độ hay những sự lựa chọn giá
trị của sinh viên và bất kỳ biến đổi nào khác đều có căn nguyên của nó. Đó là
những đổi thay luôn có những cơ sở từ môi trường bên ngoài. Nguyên tắc
quyết định luận duy vật biện chứng giúp cho người nghiên cứu Tâm lý học Sư
phạm Đại học không những đặt khách thể nghiên cứu trong mối quan hệ cộng
đồng mà cũng nhìn nhận tất cả những tác động ẩn tàng xét trên bình diện
tương tác đa chiều trong nghiên cứu về sự đổi thay hay phát triển của sinh
viên.
1.3.1.3. Nguyên tắc thống nhất tâm lý, ý thức với hoạt động khi nghiên
cứu Tâm lý học Sư phạm Đại học
Nguyên tắc này khẳng định tâm lý, ý thức không tách rời khỏi hoạt động
con người. Tâm lý, ý thức được hình thành, bộc lộ và phát triển trong hoạt
động đồng thời định hướng, điều khiển, điều chỉnh hoạt động. Các đặc điểm
tâm lý, quá trình tâm lý của sinh viên đều phải được nghiên cứu thông qua
hoạt động, diễn biến và các sản phẩm của hoạt động của sinh viên trong thực
tế.
Bên cạnh đó, việc xem xét các đặc điểm tâm lý của sinh viên cũng phải
được quan tâm trên bình diện giữa biểu hiện và bản chất. Không thể quy gán
một cách vội vàng những biểu hiện tạm thời của sinh viên là đặc điểm tâm lý
cũng như không thể kết luận một cách thiếu tỉnh táo nếu những cứ liệu về
việc nghiên cứu Tâm lý học Sư phạm Đại học chưa thực sự đủ độ "chín" về
mặt ý nghĩa thống kê. Cụ thể như việc nghiên cứu những đặc điểm về nhận
thức hay tình cảm của sinh viên không thể không được thực hiện ngay trong
hoạt động thường nhật của sinh viên mà đặc biệt là hoạt động học tập -
nghiên cứu khoa học của sinh viên.
Nguyên tắc này đòi hỏi việc tìm hiểu tâm lý của sinh viên phải dựa trên
nền tảng của những biểu hiện tâm lý thông qua thái độ và hành vi của sinh
viên. Ngay cả việc xem xét sự phát triển đích thực về mặt tâm lý của sinh viên
cũng dựa trên những cơ sở rất cụ thể và rõ ràng mà không chỉ dựa vào
những con số thô đo đạc được. Điều này sẽ đưa ra một đòi hỏi rất nghiêm
ngặt khi nghiên cứu Tâm lý học Sư phạm Đại học là việc dựa trên các chỉ báo
nghiên cứu phải xác thực nhưng phải đồng bộ diễn ra trong hoạt động dạy và
hoạt động học.
1.3.1.4. Nghiên cứu Tâm lý học Sư phạm Đại học trong cái nhìn vận
động và phát triển
Tâm lý người có sự nảy sinh, vận động và phát triển. Sự phát triển tâm
lý người nói chung và tâm lý ở từng lứa tuổi nói riêng mà cụ thể là ở tuổi sinh
viên thanh niên là không ngừng nên khi nghiên cứu Tâm lý học Sư phạm Đại
học phải đảm bảo một cách nghiêm túc, tính thực tế nhưng có đảm bảo tính
dự kiến, dự phòng. Điều này làm cho việc nghiên cứu Tâm lý học Sư phạm
Đại học sẽ mang tính thực tiễn và ứng dụng cao.
Nguyên tắc này đòi hỏi việc nghiên cứu Tâm lý học Sư phạm Đại học
không được “cứng nhắc" vào những chỉ số đã có về mặt phát triển tâm lý của
sinh viên hay những kết luận mang tính chất cố định. Chính những tác động
về mặt xã hội - văn hóa và kể cả những biến đổi có chủ đích của khách thể sẽ
tạo nên những thay đổi khá lớn trong tiến trình phát triển tâm lý. Người nghiên
cứu luôn luôn có cái nhìn vận động để xem xét mọi sự đổi thay trong một
quan điểm rất mới mẻ, tích cực và đặc biệt là theo xu hướng thừa nhận nếu
nó diễn ra theo một quy luật hoặc ít nhất là được lặp đi lặp lại nhiều lần dù chỉ
là tương đối...
Ngoài ra, việc nghiên cứu Tâm lý học Sư phạm Đại học cần xem xét
hoạt động học và hoạt động dạy trong tiến triển và sự vận động liên tục xét về
mặt tự thân từng hoạt động cũng như xét trên bình diện quá trình. Điều này
trở thành một yêu cầu căn bản để việc nghiên cứu Tâm lý học Sư phạm Đại
học nhằm tránh những thói quen tiêu cực khi nghiên cứu cũng như cách nhìn
mang tính cảm tính, chủ quan, duy ý chí.
1.3.2. Phương pháp nghiên cứu Tâm lý học Sư phạm Đại học
1.3.2.1. Khái niệm
- Phương pháp là cách thức để tìm hiểu và nghiên cứu đối tượng của
một khoa học nào đó.
- Thực tế nghiên cứu cho thấy các phương pháp lý luận được sử dụng
phối kết hợp và tồn tại thành một hệ thống. Hệ thống phương pháp này được
lựa chọn dựa trên nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu và các yêu cầu cơ bản của
cuộc nghiên cứu. Khi các phương pháp nghiên cứu cùng tồn tại như một hệ
thống thì nó được gọi là phương pháp hệ. Phương pháp hệ nghiên cứu là
toàn bộ những biện pháp, phương pháp nghiên cứu một vấn đề, một khoa
học nào đó. Đây là những cách thức hợp lý, có mục đích dẫn đến một kết quả
nhất định, một quá trình nhất định hay thực hiện một nhiệm vụ thực tiễn nào
đó. Phương pháp hệ cũng bao gồm những biện pháp kỹ thuật để hiện thực
hóa phương pháp nghiên cứu với mục tiêu chứng minh tính chính xác của tri
thức hay tính thuyết phục của tri thức về khách thể nghiên cứu.
1.3.2.2. Phân loại các phương pháp nghiên cứu
Có nhiều cách phân loại khác nhau:
* Hướng 1: Phân loại của các nhà Tâm lý học Liên Xô cũ.
Cách phân loại này chia thành ba nhóm phương pháp.
Nhóm 1: Nhóm các phương pháp tổ chức.
+ Phương pháp cắt ngang (so sánh).
Phương pháp cắt ngang là nhóm các phương pháp tổ chức nghiên
cứu. Đây là nhóm phương pháp dựa trên một nhóm mẫu theo lát cắt đủ số
lượng nhằm nghiên cứu những khuynh hướng chung nào đó (sử dụng việc so
sánh để nhận ra kết quả nghiên cứu)
+ Phương pháp cắt dọc.
Phương pháp này là phương pháp nghiên cứu tâm lý của một khách
thể trong một khoảng thời gian dài nào đó nhằm tìm sự biến đổi tâm lý quy
luật phát triển tâm lý theo từng giai đoạn.
+ Phương pháp phức hợp.
Phương pháp phức hợp là sự kết hợp giữa phương pháp cắt dọc và
phương pháp cắt ngang trong nghiên cứu. Phương pháp phức hợp đòi hỏi
lượng mẫu nghiên cứu đủ độ thuyết phục về mặt thống kê (khách quan) cũng
như cần phải nghiên cứu sâu trên một vài khách thể để cung cấp thêm những
cứ liệu nhằm góp phần bổ sung cho nghiên cứu định lượng.
- Nhóm 2: Nhóm các phương pháp mang tính kinh nghiệm.
Nhóm phương pháp này bao gồm những phương pháp được sử dụng
để thu thập dữ liệu nghiên cứu mà cụ thể là những biểu hiện của các quá
trình tâm lý, đặc điểm tâm lý, quy luật tâm lý ở một độ tuổi nhất định nào đó.
Trong nhóm phương pháp này có thể đề cập đến những phương pháp cụ thể
như: phương pháp quan sát, phân tích sản phẩm, phỏng vấn...
- Nhóm 3: Nhóm các phương pháp lựa chọn và xử lý các tài liệu đã thu
thập được.
Nhóm phương pháp này được thực hiện chủ yếu để xử lý những cứ
liệu, số liệu hoặc luận cứ - luận chứng trong quá trình nghiên cứu. Thực ra,
đây chính là những phương pháp quyết định chất lượng cuộc nghiên cứu vì
nó cũng chính là những thao tác xét trên bình diện khoa học của cuộc nghiên
cứu. Có thể thấy có hai phương pháp chính bao gồm: nghiên cứu định lượng
và nghiên cứu định tính.
+ Phương pháp nghiên cứu định lượng.
Khái niệm định lượng (quanlity) thường gắn liền với số lượng, tần số,
cường độ, mật độ... Nghiên cứu định lượng thường sử dụng các phương
pháp thu thập số liệu “cứng" dưới dạng con số và với một số lượng mẫu như:
phiếu điều tra, phỏng vấn theo mẫu, thực nghiệm và thậm chí là quan sát.
Theo nhà nghiên cứu Bryman, nghiên cứu đỉnh lượng thường gắn liền và
hướng đến việc kiểm tra giả thuyết, thiết lập sự kiện, thống kê mô tả, tìm hiểu
mối quan hệ giữa các biến số và dự đoán. Nhà nghiên cứu Goodwin cho rằng
nghiên cứu định lượng thường đi theo hướng diễn dịch, có quy trình chặt chẽ
và sử dụng một số dụng cụ đo lường tương đối chi tiết.
Phương pháp nghiên cứu định lượng còn được hiểu là phương pháp
nghiên cứu chủ yếu bằng thống kê toán học để thu thập số liệu nghiên cứu
nhằm tìm ra những đặc điểm tâm lý hoặc những biểu hiện tâm lý chung của
một nhóm mẫu đại diện. Nói khác đi, nghiên cứu định lượng là phương pháp
dựa trên sự phân tích số lượng những dữ liệu thu thập được từ cuộc nghiên
cứu.
Phương pháp này cho phép người nghiên cứu thu thập những số liệu
từ một nhóm hoặc vài nhóm lứa tuổi (nếu nghiên cứu so sánh) và sau đó sử
dụng những biện pháp định lượng và phương pháp giải thích kết quả nghiên
cứu định lượng. Phương pháp này đòi hỏi việc chọn mẫu phải thực sự khoa
học cũng như việc xử lý các số liệu thống kê phải thực sự khách quan khi
đảm bảo những yêu cầu về độ tin cậy, độ phân cách... để có thể đưa ra
những kết luận chính xác. Một trong những chương trình xử lý thuật toán
thống kê bằng máy tính trong việc nghiên cứu Tâm lý học Sư phạm Đại học
khá hữu hiệu ngày nay là chương trình SPSS đã được ứng dụng phổ biến.
Tuy nhiên, điều quan trọng là người nghiên cứu phải thực sự chú ý đầu tiên
đến việc mã hóa số liệu cũng như đặt ra những yêu cầu về thông số thống kê
để áp sát nhiệm vụ nghiên cứu. Mặt khác, điều rất quan trọng là phải đọc
được những con số thống kê cũng như giải mã những con số thống kê ấy và
bình luận một cách sắc nét. Việc sử dụng phương pháp định lượng sẽ không
giúp người nghiên cứu phân biệt mối liên hệ qua lại giữa những thuộc tính
tâm lý khác nhau về chất lượng nhưng lại có những bằng chứng giống nhau
về số lượng trên con số thống kê. Trong trường hợp này, sẽ thực sự là thiếu
tính thuyết phục nếu chỉ nói với các con số mà thiếu hẳn những cứ liệu khác
để bổ sung. Cứ liệu ấy có được nhờ vào phương pháp nghiên cứu định tính.
+ Phương pháp nghiên cứu định tính.
Khái niệm định tính (quality) chỉ đặc tính của sự vật hay hiện tượng.
Nghiên cứu định tính thường chú trọng đến quá trình và ý nghĩa, những cái
khó có thể cân - đong - đo - đếm một cách chính xác để thể hiện bằng số
lượng, tần số hay cường độ. Từ giữa thế kỷ XX nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng các phương pháp nghiên cứu định lượng chỉ chú ý đến logic của con số
mà bỏ qua sự phong phú, phức tạp và chằng chịt vẫn có của các hiện tượng
xã hội. Các phương pháp định tính chú trọng đến bản chất xã hội của thực tại,
những ảnh hưởng của hoàn cảnh lên đối tượng nghiên cứu, mối quan hệ chặt
chẽ giữa người nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu định tính
thường đi theo hướng gắn liền với việc lập giả thuyết và tiến hành theo lối quy
nạp. Nghiên cứu định tính thường sử dụng những phương pháp thu thập dữ
liệu như phỏng vấn, quan sát để có được những số liệu đa dạng và chi tiết.
Nghiên cứu định tính thường đòi hỏi người nghiên cứu xem xét số liệu ngay
từ giai đoạn đầu của việc nghiên cứu và có những định hướng thích hợp cũng
như được tái sử dụng những số liệu nghiên cứu ấy để tiếp tục minh họa.
Nghiên cứu định tính là phương pháp dùng để phân tích tài liệu thu
thập theo nhóm, theo phương án hay nói cách khác đó là phương pháp dựa
trên sự phân tích chất lượng những dữ liệu thu thập được, cùng với tính dự
đoán được mô tả trong những thuật ngữ khái niệm khoa học đã biết nhằm lý
giải khoa học cho những giả thuyết.
Thực tế cho thấy việc nghiên cứu định tính là một đòi hỏi khá quan
trọng trong nghiên cứu Tâm lý học Sư phạm Đại học khi mà những yêu cầu
mô tả nghiên cứu định lượng không thể thỏa mãn nhu cầu phác thảo chân
dung tâm lý của một độ tuổi thì nghiên cứu định tính thực hiện được yêu cầu
này một cách khá hiệu quả. Phương pháp nghiên cứu định tính không cho
phép sử dụng những biện pháp và phương pháp định lượng để giải thích kết
quả nghiên cứu, nhận xét về mức độ phát triển của những thuộc tính tâm lý
được dự đoán và trực tiếp tìm ra những mối liên hệ nguyên nhân giữa những
đại lượng biến thiên được nghiên cứu. Ở đây chính nghiên cứu định tính làm
cho những nghiên cứu về Tâm lý học Sư phạm Đại học sẽ mang tính khái
quát nhưng vẫn đảm bảo tính cụ thể với những khách thể khác nhau trong
tiến trình nghiên cứu.
Nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng dù có sự khác biệt
nhưng không loại trừ lẫn nhau mà có mối quan hệ mật thiết với nhau. Cả hai
phương pháp này đều hướng đến việc tìm kiếm hiểu biết và tri thức khoa học
mặc dù dạng thức thì khác nhau, chúng có thể hỗ trợ lẫn nhau tạo ra một hiểu
biết thấu đáo về đối tượng. Bên cạnh đó, cả hai phương pháp hay hai cách
tiếp cận đều đòi hỏi một quá trình nghiên cứu chuẩn xác và chặt chẽ vì vậy
kết quả của một cách tiếp cận này có thể đủ độ tin cậy để sử dụng cho cách
tiếp cận kia và ngược lại. Ngoài ra, cả hai cách tiếp cận đều sử dụng đo
lường như là một thành phần quan trọng của tiến trình nghiên cứu. Kết quả
đo lường đó có thể bổ sung cho nhau. Việc áp dụng cả nghiên cứu định tính
và định lượng trong Tâm lý học Sư phạm Đại học sẽ làm cho việc nghiên cứu
các đặc điểm tâm lý cụ thể chi tiết nhưng có tính khái quát để tìm ra những cơ
sở khoa học nhằm đưa ra những tác động phù hợp thúc đẩy sự phát triển tối
đa tâm lý của con người theo từng độ tuổi cũng như trong tiến trình phát triển.
* Hướng 2: Cách phân loại của một số nhà Tâm lý học Sư phạm Đại học phương Tây.
Theo quan điểm này thì phương pháp nghiên cứu Tâm lý học Sư phạm
Đại học cũng tồn tại nhiều phương pháp khác nhau trong sự phân chia tương
đối. Cách phân loại này dựa vào hiện trạng việc nghiên cứu ở những chiều
kích khác nhau để đưa ra những phương pháp nghiên cứu khác nhau. Có thể
điểm qua những phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp nghiên cứu mô tả và nghiên cứu giải thích.
+ Phương pháp nghiên cứu trong điều kiện tự nhiên và nghiên cứu
trong phòng thí nghiệm.
+ Phương pháp nghiên cứu có tính lịch sử.
+ Phương pháp nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu dựa trên hình
tượng.
+ Phương pháp nghiên cứu cơ sở và nghiên cứu ứng dụng.
+ Phương pháp nghiên cứu cá thể và nghiên cứu nhóm.
* Hướng 3: Phân loại các phương pháp nghiên cứu dựa trên cách thức thực hiện.
Dựa trên cách thức thực hiện hiểu theo nghĩa là thực hiện phương
pháp này trong những điều kiện và thao tác nào thì có hai phương pháp
nghiên cứu chủ yếu sau:
+ Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm.
+ Phương pháp nghiên cứu không dùng thực nghiệm.
1.3.2.2. Một số phương pháp nghiên cứu thông dụng
a. Phương pháp quan sát
* Khái niệm:
Quan sát là hình thức tri giác chủ định bằng cách sử dụng các giác
quan để thu thập thông tin về đối tượng, vấn đề nghiên cứu nhằm thực hiện
các mục đích đã đặt ra phục vụ cho công tác nghiên cứu.
Quan sát là phương pháp theo dõi có hệ thống, có tổ chức và lý giải
những điều đang xảy ra. Quan sát phải được sử dụng bằng nhiều giác quan
kết hợp một cách hợp lý và sử dụng các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ.
Cụ thể hơn, quan sát trong nghiên cứu Tâm lý học Sư phạm Đại học là
phương pháp mà nhà nghiên cứu theo dõi, ghi chép những biểu hiện đa dạng
của hoạt động tâm lý của sinh viên hoặc giảng viên hoặc nhóm sinh viên,
nhóm giảng viên cùng với những diễn biến của nó.
* Phân loại
Có thể thấy dựa trên khái niệm của phương pháp quan sát thì việc
phân loại phương pháp quan sát cũng là việc làm khá phức tạp Có thể đề cập
đến một vài cách phân loại sau:
Cách 1: Quan sát bao gồm quan sát tự nhiên và quan sát theo mục
tiêu.
- Quan sát tự nhiên:
+ Là loại quan sát được sử dụng nhằm ghi lại tất cả những gì đang xảy
ra trong quá trình nghiên cứu để làm dữ liệu.
+ Loại quan sát này được sử dụng để tìm hiểu khái quát về khách thể
nghiên cứu và theo dõi các hiện tượng lặp đi lặp lại trong quá trình nghiên
cứu thường xuyên.
- Quan sát theo mục tiêu:
+ Là loại quan sát theo các mục tiêu cụ thể được đặt ra từ trước với
các biểu hiện cụ thể cùng các tiêu chí đánh giá.
+ Loại quan sát này được sử dụng để đánh giá một biểu hiện cụ thể
nào đó trong tâm lý của sinh viên, một đặc điểm tâm lý cụ thể của sinh viên
trong quá trình nghiên cứu. Loại quan sát này có thể sử dụng cách đánh dấu
vào bảng liệt kê mức độ phát triển cụ thể của đối tượng quan sát.
Cách 2: Quan sát bao gồm quan sát bộ phận và quan sát toàn diện.
- Quan sát bộ phận:
Quan sát bộ phận là loại quan sát được thực hiện khi chủ thể quan sát
theo dõi một mặt nào đó trong hành vi, thái độ của khách thể nghiên cứu.
- Quan sát toàn diện:
Quan sát toàn diện là loại quan sát được thực hiện nhằm quan sát
nhiều mặt trong diễn biến tâm lý của trẻ nếu như không nói là quan sát một
cách bao quát tất cả những biểu hiện tâm lý của trẻ trong giai đoạn nghiên
cứu nào đó ở một bối cảnh nào đó.
Ngoài ra, có thể đề cập đến hình thức tự quan sát. Tự quan sát là quá
trình nghiệm thể lấy chính các hiện tượng quá trình tâm lý của mình làm đối
tượng tri giác.
* Một số nguyên tắc cụ thể trong quan sát:
Dựa trên loại quan sát mà chủ thể nghiên cứu lựa chọn khi nghiên cứu
thì các nguyên tắc quan sát sau đây được vận dụng một cách tương đối linh
hoạt và sáng tạo.
- Giữ khoảng cách vừa phải, không để khách thể biết mình đang được
quan sát.
- Không trò chuyện với khách thể (kể cả giao tiếp bằng ánh mắt, cử chỉ,
điệu bộ...).
- Không gây cản trở đến hoạt động của khách thể, can thiệp vào hoạt
động của khách thể.
- Ghi chép tất cả sự kiện thật khách quan, không nhận xét nhận định
chủ quan, vội vàng.
- Ghi chép sự việc đúng theo trình tự đã quan sát, không ghi những gì
không nhìn thấy.
- Tập trung vào đối tượng quan sát, không dễ bị nhiễu bởi các yếu tố
thông tin khác.
- Biên bản quan sát phải được chuẩn bị đầy đủ, chu đáo, phản ánh
đúng phương pháp và kỹ thuật đánh giá.
- Chú ý đến độ tin cậy nếu muốn kết quả quan sát thực sự khách quan
và khoa học.
* yêu cầu:
Để đảm bảo việc quan sát có hiệu quả nhà nghiên cứu cần phải thực
hiện các yêu cầu sau:
- Người quan sát phải xác định được mục tiêu, kế hoạch và cách thức
tiến hành.
- Phải đảm bảo được tính hệ thống, tính liên tục của quan sát. Trong
quá trình nghiên cứu một hiện tượng tâm lý nào đó chúng ta phải kết hợp
nhiều giác quan để tri giác đối tượng và đảm bảo được tính liên tục về mặt
thời gian.
- Phải nắm được các vấn đề trước khi tiến hành quan sát. Một trong
các yêu cầu khi tiến hành quan sát là người nghiên cứu phải hiểu biết và nắm
chắc vấn đề cần quan sát, có như vậy mới giúp họ chủ động trong quá trình
nghiên cứu.
- Cần phải chuẩn bị chu đáo các phương tiện trước khi quan sát như:
bút, giấy, camera, máy ghi âm... từ đó có thể ghi nhận được đầy đủ kết quả
quan sát.
* Các nước quan sát:
- Bước 1: Xác định mục tiêu quan sát, đối tượng quan sát.
- Bước 2: Lập kế hoạch quan sát bao gồm những yêu cầu sau; xác định
địa điểm, thời gian, khách thể quan sát, phương tiện hỗ trợ, cách thức quan
sát, những lưu ý khi quan sát...
- Bước 3: Thiết kế mẫu ghi chép quan sát hoặc các loại biên bản quan
sát.
- Bước 4: Quan sát và ghi chép theo mẫu hoặc quan sát tự nhiên khách
thể nghiên cứu đã xác định.
- Bước 5: Phân tích dữ liệu thu thập hoặc nghiên cứu định tính hoặc
bằng nghiên cứu định lượng (nếu số liệu cho phép).
- Bước 6: Đề ra biện pháp giáo dục trực tiếp hoặc kế hoạch tác động
lâu dài (kế hoạch giáo dục cá nhân).
Các bước quan sát trên được sử dụng một cách linh hoạt tùy theo từng
yêu cầu khác nhau của từng cuộc nghiên cứu. Tuy nhiên, các bước này được
thực thi trong sự thỏa mãn những yêu cầu về nguyên tắc quan sát cũng như
đảm bảo có sự hỗ trợ thêm của những công cụ khác hay phương tiện khác
để quá trình quan sát sẽ khách quan, khoa học cũng như đem lại những cứ
liệu xác thực nhất.
Như đã nói, ở mỗi cuộc nghiên cứu, phương pháp quan sát sẽ được
vận dụng một cách chuyên biệt. Tùy theo yêu cầu về nhiệm vụ nghiên cứu,
xác định dữ liệu nghiên cứu, khách thể nghiên cứu và những yêu cầu có liên
quan, các loại mẫu quan sát sẽ rất đa dạng và phong phú nhằm đáp ứng
những yêu cầu trong cuộc nghiên cứu theo mục tiêu đề ra.
* ưu và nhược điểm:
+ Ưu điểm:
- Đây là phương pháp dễ tiến hành, và có thể quan sát được nhiều
khách thể trong một lúc.
- Thông tin quan sát được rất phong phú về khách thể (cả thông tin
ngôn ngữ và thông tin phi ngôn ngữ).
- Chi phí tiến hành đỡ tốn kém (ít hơn) so với các phương pháp nghiên
cứu khác.
+ Nhược điểm:
- Người quan sát đóng vai trò thụ động, không chủ động gây ra được
các hiện tượng nghiên cứu.
- Kết quả thu được mang tính chất chủ quan vì thế hạn chế tính khách
quan của kết quả nghiên cứu.
b. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (Ankét)
* Khái niệm:
Ankét là phương pháp sử dụng bảng hỏi được thiết kế sẵn từ trước,
nhằm thu thập ý kiến chủ quan của một số đông nghiệm thể về một vấn đề
hoặc hiện tượng nghiên cứu nào đó. Bằng cách yêu cầu nghiệm thể lựa chọn
phương án trả lời phù hợp nhất với quan điểm của mình (đối với câu hỏi kín)
hoặc đưa ra ý kiến chủ quan (đối với câu hỏi mở) cho các vấn đề đặt ra, phục
vụ cho mục đích nghiên cứu.
* Phân loại:
Có thể phân ra làm hai loại: điều tra trực tiếp và điều tra gián tiếp.
+ Điều tra trực tiếp là nhà nghiên cứu trực tiếp thiết kế bảng hỏi, trực
tiếp đi điều tra và thu hồi kết quả nghiên cứu cũng như xử lý các kết quả
nghiên cứu.
+ Điều tra gián tiếp là điều tra qua các phương tiện thông tin đại chúng
như: báo, đài, internet, ti vi... hoặc người nghiên cứu có thể sử dụng người
khác thay mình đi phát phiếu điều tra đã được soạn thảo sẵn theo những chỉ
báo nghiên cứu...
* Yêu cầu:
- Các câu hỏi phải ngắn gọn, dễ hiểu và phải phù hợp với trình độ của
nghiệm thể.
- Cần phải kết hợp giữa câu hỏi kín và câu hỏi mở trong bảng hỏi, việc
kết hợp này cho phép nghiên cứu được sâu các động cơ, nhu cầu và mong
muốn của khách thể nghiên cứu.
- Phải tạo được bầu không khí chân thành, hiểu biết lẫn nhau giữa
người nghiên cứu và người được nghiên cứu, có như vậy mới thu được các
thông tin khách quan, trung thực về đối tượng nghiên cứu.
- Phải chuẩn bị chu đáo, chính xác câu hỏi, phương án trả lời khi soạn
bảng hỏi và phải tiến hành nghiên cứu thử trước khi nghiên cứu trên diện
rộng.
- Cần phải hướng dẫn khách thể một cách chi tiết cách thức lựa chọn
hoặc trả lời cho các câu hỏi.
* ưu và nhược điểm:
+ ưu điểm:
- Trong một thời gian ngắn mà thu thập được các thông tin phong phú
về đối tượng.
- Có thể nghiên cứu được nhiều khách thể trong cùng một lúc.
- Phương pháp này dễ tiến hành, có thể nghiên cứu ở trong hội trường,
hay trên đường phố...
+ Nhược điểm:
- Đậy là phương pháp với sự đầu tư nhất định về chi phí (cho soạn thảo
câu hỏi, phương tiện đi điều tra, in ấn bảng hỏi, xử lý kết quả...).
- Các thông tin thu được vẫn còn mang tính chủ quan của nhà nghiên
cứu (kết quả của việc thiết kế câu hỏi).
- Thông tin thu được rất phong phú, đa dạng và phức tạp cho nên rất
khó xử lý...
Nên kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác làm tăng độ khách
quan của kết quả nhận được.
c. Phương pháp phỏng vấn
* Khái niệm:
Phỏng vấn là phương pháp thăm dò ý kiến của nghiệm thể, bằng cách
trao đổi trực tiếp giữa người phỏng vấn và nghiệm thể, nhằm thu thập ý kiến
chủ quan của nghiệm thể về một vấn đề hoặc hiện tượng tâm lý nào đó phục
vụ cho mục đích nghiên cứu.
* phân loại
- Phỏng vấn tiêu chuẩn hóa:
Phỏng vấn tiêu chuẩn hóa là loại phỏng vấn trực tiếp giữa người phỏng
vấn và nghiệm thể theo quy trình và nội dung và các câu hỏi đã được chuẩn
bị từ trước.
- Phỏng vấn phi tiêu chuẩn hóa:
Phỏng vấn phi tiêu chuẩn hóa là loại phỏng vấn trực tiếp không theo
một quy trình và kế hoạch cụ thể, người phỏng vấn có quyền đặt ra các câu
hỏi tùy theo tình huống và thời cơ phỏng vấn.
- Phỏng vấn sâu:
Phỏng vấn sâu là loại phỏng vấn được tiến hành giữa nhà nghiên cứu
và một nghiệm thể về một vấn đề nào đó. Phỏng vấn sâu có thể giúp nhà
nghiên cứu đi sâu vào các tầng bậc sâu của các hiện tượng tâm lý như: động
cơ, sở thích, niềm tin, lý tưởng... Phỏng vấn sâu thường được sử dụng kết
hợp với các phương pháp nghiên cứu khác, giúp chúng ta khẳng định vấn đề
hoặc hiện tượng nghiên cứu nào đó.
* yêu cầu:
- Người phỏng vấn phải hiểu biết tốt vấn đề nghiên cứu. Thông thường,
trước khi tiến hành phỏng vấn, người tiến hành phải nắm chắc vấn đề nghiên
cứu để có thể nắm chắc nội dung phỏng vấn.
- Câu hỏi đưa ra phải ngắn gọn, dễ hiểu phù hợp với trình độ của
nghiệm thể. Khi tiến hành phỏng vấn, người phỏng vấn cần biết trước nghiệm
thể là ai, ở lứa tuổi nào và trình độ của họ ra sao... để đưa ra câu hỏi cho phù
hợp.
- Phải tạo ra được bầu không khí thân mật, chân thành và hiểu lẫn
nhau giữa người phỏng vấn và nghiệm thể.
- Chuẩn bị tốt các phương tiện cần thiết để cho buổi phỏng vấn có kết
quả tốt như máy ghi âm, camera, giấy, bút...
- Hạn chế tối đa những yếu tố ảnh hưởng đến sự khách quan cũng như
độ chính xác của cuộc phỏng vấn. Ngoài ra, cần chú ý đến các yếu tố nhiễu
trong quá trình phỏng vấn để đảm bảo cứ liệu mang tính chính xác.
d. Phương pháp thực nghiệm
* Khái niệm:
Phương pháp thực nghiệm là phương pháp nghiên cứu tác động vào
đối tượng một cách có chủ đích trong những điều kiện tạo ra nhằm làm bộc lộ
hay làm biến đổi một hoặc một vài đặc tính của đối tượng mà nhà nghiên cứu
mong muốn.
* phân loại:
Có thể phân chia phương pháp thực nghiệm thành hai loại: phương
pháp thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm trong phòng thí nghiệm.
- Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm:
Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm là loại thực nghiệm được tổ chức
sẵn sàng chặt chẽ và lựa chọn những tình huống khó để thực nghiệm.
- Thực nghiệm tự nhiên:
Thực nghiệm tự nhiên là loại thực nghiệm tiến hành trong những điều
kiện giống như tự nhiên nhưng được sắp đặt sẵn một cách tương đối.
* Một số nguyên tắc khi thực nghiệm:
- Phải đảm bảo việc tổ chức thực nghiệm diễn ra một cách hết sức bình
thường và đừng làm xáo trộn quá lớn đối với nếp sống của khách thể.
- Xác định biến thực nghiệm và biến phụ thuộc trong quá trình nghiên
cứu thực nghiệm.
- Kiểm tra những biến số nhiễu đối với quá trình thực nghiệm nhiều
nhất có thể có.
- Kiên nhẫn và nghiêm túc đón nhận những kết quả thực nghiệm cũng
như đảm bảo tính khách quan của nó.
* Các bước thực nghiệm:
Thực nghiệm được sử dụng hiện nay trong việc nghiên cứu Tâm lý học
Sư phạm Đại học thông thường là thực nghiệm tác động để nâng cao một
khả năng nào đó hay thay đổi một biểu hiện nào đó trong sự phát triển tâm lý.
Có thể đề cập đến những bước cơ bản sau:
+ chọn nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm tương đồng (đo đầu vào)
+ Tiến hành thực nghiệm các biện pháp đã đề xuất ở nhóm thực
nghiệm, nhóm đối chứng không áp dụng các biện pháp ở nhóm thực nghiệm.
+ Tác động và đo kết quả ở hai nhóm (lần hai).
+ Tiếp tục thử nghiệm trên nhóm khác (nếu cần) và đo thêm kết quả
một lần nữa và rút ra kết luận.
e. Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động
* Khái niệm:
Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động là phương pháp nghiên
cứu nhằm tìm hiểu và đánh giá trình độ phát triển khoa học công nghệ và các
giá trị văn hóa, tinh thần của con người hay nhóm người, thông qua các sản
phẩm sáng tạo, nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu đặt ra từ trước. Trong
Tâm lý học Sư phạm Đại học việc áp dụng phương pháp này nhằm tìm hiểu
những biểu hiện tâm lý của đối tượng được gửi vào những sản phẩm trong
hoạt động thường nhật của chủ thể.
* yêu cầu:
- Người nghiên cứu phải nắm chắc được vấn đề nghiên cứu, trên cơ sở
đó họ có thể trình diễn, phân tích, đánh giá sản phẩm một cách trung thực
khách quan.
- Phải phân tích cụ thể, sâu sắc các giai đoạn, thời gian và điều kiện
xuất hiện sản phẩm, đồng thời phải so sánh với các sản phẩm cùng loại đã có
trên thị trường.
- Cần phải phân tích, so sánh để tìm ra các đặc điểm trình độ phát triển
và kỹ năng của các nhóm người và các cá nhân tạo ra sản phẩm sáng tạo.
f. phương pháp trắc nghiệm
* Khái niệm:
Phương pháp trắc nghiệm hay còn gọi là test (phương pháp nghiên
cứu theo mô hình) là phương pháp nghiên cứu dựa trên các kết quả đáng tin
cậy từ một mẫu khá lớn các cá nhân khác nhau từ đó rút ra một mô hình
mang tính chuẩn hóa làm cơ sở để đánh giá những vấn đề tâm lý nói chung
hay những đặc điểm tâm lý của một con người - nhóm người. Nói khác đi,
trắc nghiệm trong Tâm lý học Sư phạm Đại học là phép thử đã được chuẩn
hóa trở thành công cụ để nhà nghiên cứu đo lường các biểu hiện tâm lý của
con người.
* Phân loại:
Phương pháp trắc nghiệm được sử dụng theo các hình thức đa dạng
như trắc nghiệm nhóm, trắc nghiệm cá nhân, trắc nghiệm tiêu chuẩn hóa
hoặc trắc nghiệm được thiết kế.
* yêu cầu:
- Trắc nghiệm đối tượng lựa chọn phải là trắc nghiệm khách quan.
- Các câu hỏi - bài tập trong trắc nghiệm phải thực sự khoa học và hợp
lý cũng như bám sát tiêu chí cần đo nghiệm.
- Trắc nghiệm phải đo đúng cái cần đo hay nói khác đi các tiêu chí đo
phải rõ ràng.
- Cần chú ý đến tính văn hóa, ngôn ngữ và những yêu cầu đặc trưng
trong quá trình sử dụng trắc nghiệm để nghiên cứu tâm lý ở các độ tuổi khác
nhau đặc biệt là với giảng viên và sinh viên.
1.4. Mối quan hệ giữa Tâm lý học Sư phạm Đại học và các môn học khác1.4.1. Với Tâm lý học đại cương
- Tâm lý học đại cương nghiên cứu những vấn đề chung nhất trong sự
phát triển tâm lý của con người làm cơ sở định hướng cho việc nghiên cứu
Tâm lý học Sư Phạm Đại học.
- Tâm lý học đại cương nghiên cứu những đặc điểm cơ bản về tâm lý
của con người còn Tâm lý học Sư phạm Đại học nghiên cứu cụ thể theo độ
tuổi sinh viên nên Tâm lý học Sư phạm Đại học sẽ bổ sung và làm sáng tỏ
những tri thức của Tâm lý học đại cương.
Như vậy, có thể nói những thành tựu nghiên cứu của Tâm lý học đại
cương tìm được từ các khái niệm như: quá trình tâm lý trạng thái tâm lý,... sẽ
là những khái niệm cơ bản trở thành cơ sở để Tâm lý học Sư phạm Đại học
nghiên cứu từng mặt trong tiến trình phát triển của sinh viên. Ngược lại, Tâm
lý học đại cương sẽ khó có thể trở nên gần gũi và thực tế nếu không dựa vào
những thành tựu của Tâm lý học Sư phạm Đại học và nói như thế nghĩa là
Tâm lý học đại cương và Tâm lý học Sư phạm Đại học có mối quan hệ chặt
chẽ và tác động qua lại với nhau.
1.4.2. Với Giáo dục học và Lý luận dạy học bộ môn
- Tâm lý học Sư phạm Đại học là cơ sở lý luận quan trọng của Giáo dục
học. Giáo dục học là ngành khoa học nghiên cứu về quá trình giáo dục con
người. Đối tượng nghiên cứu của Giáo dục học chính là quá trình giáo dục,
một quá trình hoạt động đặc biệt trong các hoạt động xã hội của con người.
- Ngược lại, Tâm lý học giáo dục cung cấp kết quả nghiên cứu để tổ
chức hợp lý quá trình giáo dục, một quá trình hoạt động đặc biệt trong các
hoạt động xã hội của con người.
Xét về mối quan hệ giữa Tâm lý học Sư phạm Đại học và Lý luận dạy
học bộ môn, Lý luận dạy học bộ môn giúp cho việc dạy học và giáo dục hiệu
quả hơn. Chỉ khi nhà giáo dục hiểu khách thể của mình thì mới có thể giáo
dục sinh viên thích hợp nhất, đề xuất các biện pháp sư phạm hữu hiệu nhất
nên Tâm lý học Sư phạm Đại học trở thành khoa học cơ sở có “sức nặng"
đặc biệt đối với Lý luận dạy học Đại học.
- Ngoài ra, Giáo dục học định hướng, đặt yêu cầu cho Tâm lý học Sư
phạm Đại học nghiên cứu một cách cụ thể, ý nghĩa và mang giá trị vận dụng
cao. Ngay cả những cơ sở quan trọng nhất của việc lựa chọn các phương
pháp dạy học, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức hoạt động cho người
học cũng phải dựa vào những đặc điểm tâm lý - nhận thức của từng độ tuổi
cho nên những chỉ số về tâm lý của từng độ tuổi do Tâm lý học Sư phạm Đại
học đem lại là cực kỳ có giá trị với Giáo dục học. Hơn hết, Tâm lý học Sư
phạm Đại học sẽ giúp giảng viên và các nhà quản lý giáo dục đánh giá được
thực trạng và mức độ phát triển của sinh viên nhằm đưa ra các biện pháp tác
động phù hợp và hiệu quả.
Câu hỏi thảo luận
1. Tại sao nói đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học Sư phạm Đại học
là các quy luật tâm lý diễn ra trong hoạt động dạy của giảng viên và hoạt động
học của sinh viên cũng như mối quan hệ tương tác giữa chúng?
2. Vì sao Tâm lý học Sư phạm Đại học trở nên cần thiết với nhưng
giảng viên trong giai đoạn hiện nay?
3. Đâu là những cơ sở làm nảy sinh một môn học chuyên ngành? Minh
chứng cho môn Tâm lý học sư phạm Đại học.
4. Đâu là những cách thức để tìm hiểu đặc điểm tâm lý của nhóm sinh
viên khi giảng viên chuẩn bị giảng dạy cho tập thể ấy?
Bài tập thực hành
Tìm hiểu những mong mỏi của sinh viên đối với môn học mà anh chị
phụ trách.
Khách thể: Chọn sinh viên trong những lớp mà anh chị đang giảng dạy,
hoặc sinh viên trong các cơ sở giáo dục đại học (trên 30 sinh viên).
Yêu cầu: Nêu bật những mong mỏi của sinh viên với môn học mà anh
chị đang phụ trách trên nhiều chiều kích: nội dung giảng dạy phương pháp
giảng dạy, hình thức tổ chức, phương thức đánh giá, các hoạt động thực
hành - giao lưu.
Cách thực hiện:
- Xây dựng phiếu câu hỏi lấy ý kiến sinh viên. Có thể sử dụng thêm các
phương pháp điều tra khác như phương pháp quan sát, đàm thoại, sưu tầm
tài liệu...
- Tiến hành xin ý kiến phản biện của đồng nghiệp hoặc học viên cùng
học.
- Thu thập và xử lý số liệu để viết báo cáo.
- Rút ra các kiến nghị và đề xuất có liên quan đến nội dung nghiên cứu.
Câu hỏi ôn tập
1. Trình bày đối tượng và xác định nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý
học Sư phạm đại học.
2. Đâu là những cơ sở (tiền đề) làm nảy sinh Tâm lý học Sư phạm Đại
học?
3. Ý nghĩa và vai trò của Tâm lý học Sư phạm Đại học đối với giảng
viên trong giai đoạn hiện nay.
4. Trình bày những yêu cầu khoa học khi xây dựng một bảng điều tra
nhằm khảo sát ý kiến của sinh viên về một vấn đề nào đó.
Chương 2. TÂM LÝ HỌC NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH TRẺ TUỔI
2.1. Tuổi trưởng thành2.1.1. Khái niệm về tuổi trưởng thành
Khi nào thì một người đạt đến trưởng thành? Tính theo năm tuổi không
giúp ích gì trong trường hợp này, bởi vì một người được xem là trưởng thành
ở tuổi 20 nhưng người khác mãi đến tuổi 40 vẫn không hy vọng gì trưởng
thành. Người trưởng thành là một khái niệm tổng hợp được xem xét cả trên
bình diện Sinh học, Tâm lý học, Xã hội học.
Các nhà nghiên cứu dựa trên khả năng tính dục cho rằng, “nhận" và
"trao" tình yêu một cách đích thực và sâu sắc hoặc biết biểu lộ hành vi âu
yếm hay nhu cầu bản năng tính dục là biểu hiện sự trưởng thành. Họ cho
rằng những cá nhân trưởng thành phải có ý thức về mục đích cuộc sống của
mình và khả năng duy trì nòi giống. Các nghiên cứu nhấn mạnh yếu tố xã hội
lại cho rằng, kết bạn, bị thu hút bởi người khác hay chăm sóc bản thân trong
mối quan hệ tâm lý là biểu hiện của sự trưởng thành.
Một cách xem xét sự trưởng thành nữa là sự vận dụng khả năng để
đương đầu tốt với những biến cố hay những quyết định mà hầu hết ai cũng
phải đối mặt cụ thể vài lần trong đời. Trong những giai đoạn của thuyết
Erikson, sự trưởng thành ở tuổi vị thành niên phải bao gồm việc hoàn thành
khi giải quyết các khủng hoảng tăng trưởng ở tuổi ấu thơ và thiếu niên, khả
năng tiến tới kết thân với người khác (khả năng tính dục), một vài người thì lo
lắng về vấn đề hướng dẫn con cái hay vấn đề truyền sinh (Whitbourne và
Waterman, 1979) [38].
L. Hoffman và Manis (1979) xem xét sự trưởng thành là sự tự nhận
thức. Cái gì khiến con người ta cảm thấy mình trưởng thành? L. Hoffman và
Manis đã khảo sát với hơn 2.000 nam nữ có gia đình về đề tài: Đâu là sự kiện
quan trọng nhất trong đời mà làm họ cảm thấy họ thật sự trưởng thành. Trở
thành cha mẹ và việc nâng đỡ ai đó là dấu hiệu được họ thừa nhận nhiều
nhất cho sự trưởng thành (L. Hoffman và Manis, 1979) [38].
Thật khó khi định nghĩa về tuổi trưởng thành vì nó luôn biến đổi và
phức tạp. Sự trưởng thành cần đến một tiến trình điều chỉnh liên tục những
thay đổi không ngừng nơi ước muốn và tính trách nhiệm. Một người có thể
trưởng thành cho dù họ không lập gia đình, không con cái hoặc không công
việc nghề nghiệp. Người trưởng thành biết họ là ai, họ muốn đi đâu, họ
hướng đến mục đích gì.
Theo nghiên cứu của nhiều nhà Tâm lý học, Xã hội học, khái niệm tuổi
trưởng thành được xác định dựa theo một tổ hợp các tiêu chí sau đây:
- Sự chín muồi về mặt sinh lý, thể chất nghĩa là sự hội tụ đầy đủ những
điều kiện sinh học để làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ, cũng như làm một
người lao động thực sự trong gia đình và xã hội.
- Có đầy đủ những quyền hạn và nghĩa vụ của một người công dân
như đi bầu cử, ứng cử, chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hành vi, hoạt
động của mình.
- Đã kết thúc việc học tập ở những mức độ khác nhau.
- Có nghề nghiệp ổn định.
- Có lao động để nuôi sống bản thân và gia đình.
- Đã xây dựng gia đình riêng (lấy vợ, lấy chồng).
- Có cuộc sống kinh tế độc lập, không phụ thuộc vào cha mẹ hoặc
người đỡ đầu [19].
Người trưởng thành là một khái niệm tổng hợp được xem xét cả trên
bình diện Sinh học, Tâm lý học, Xã hội học. Những công trình nghiên cứu cho
thấy sự chín muồi sinh học thường đi trước, sớm hơn tuổi chín muồi về tâm lý
và xã hội khá nhiều. Bới vậy, dưới góc độ Tâm lý học mà xét, tuổi trưởng
thành toàn diện của con người thường đến chậm hơn 2, 3 năm. Không những
thế, khái niệm tuổi trưởng thành cũng còn tùy thuộc vào thời gian đào tạo và
trình độ học vấn. Đó cũng chính là lý do giai đoạn "người trưởng thành trẻ
tuổi" thường được lấy mốc từ 20 tuổi trở lên, chậm hơn chút ít so với tuổi
công dân (18 tuổi).
Dựa vào những tiêu chuẩn trên, những người không học lên Cao đẳng,
Đại học thì độ tuổi trưởng thành của họ thường từ 20 tuổi Giai đoạn người
trưởng thành trẻ tuổi từ 18 - 20 đến 40 tuổi. Tóm lại, người trưởng thành là
những người có độ tuổi từ 20 trở lên và hiểu về chính mình một cách tương
đối cũng như xác lập mục tiêu cuộc đời trong một cái nhìn tổng thể.
2.1.2. Một số thuyết về tâm lý tuổi trưởng thành
2.1.2.1. Thuyết tâm lý xã hội của Erikson
Theo Erik Erikson (1982), người trưởng thành trẻ tuổi là quãng đời
tương ứng với giai đoạn thứ 6 trong 8 giai đoạn phát triển của đời người. Đó
là giai đoạn được đặc trưng bằng sự xuất hiện nhu cầu và năng lực gần gũi
thân thiết về mặt tâm lý với người khác, bao gồm cả sự gần gũi tình dục. Đối
lập với nó là tình cảm ẩn dật và thích cô độc. Khi người thanh niên thắng
được những đối chọi, thì họ có thể tự mình tiến tới đòi hỏi bản thân sự hy sinh
và chấp nhận. Họ có thể yêu người khác một cách không vị kỷ nhiều hoặc ít
hơn. Nếu sự “cô lập" thống trị trong sự tương quan với thân mật thì mối quan
hệ tình cảm sẽ trở nên lãnh đạm và gượng ép và cũng chẳng có sự giao lưu
tình cảm thực sự nào. Con người có thể quan hệ tình dục không với mục đích
phát triển sự thân mật, đặc biệt khi người ta sợ rằng sợi dây tình cảm sẽ dẫn
đến một quan hệ cam kết gò bó. Khi hình thái quan hệ tình dục buông thả này
định hình nên cuộc sống của một người nào đó thì có lẽ vì họ cảm thấy tự do.
Erikson cho rằng những khác biệt văn hóa ảnh hưởng đến tiến trình
tăng trưởng trong từng giai đoạn gặp phải. Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu
đã tiến hành cuộc điều tra theo cơ cấu chiều dọc về tiến trình trưởng thành tin
rằng kết quả nghiên cứu của Erikson chỉ ảnh hưởng trên những nền văn hóa
nơi mà chủ nghĩa cá nhân được đề cao nhưng trách nhiệm công dân thì
không được xã hội lưu tâm một cách chặt chẽ (Vaillant và Milofsky, 1980)
[40].
2.1.2.2. Thuyết về những “mùa vụ” của Levinson
Một thuyết khác về các giai đoạn phát triển trưởng thành đã được lập
ra bởi Daniel Levinson (Levinson và cộng sự, 1978). Ông nói rằng thuyết này
miêu tả một cách sống động những "mùa của cuộc sống con người". Ông
nhấn mạnh thuyết của mình được xây dựng trên thuyết tâm lý của Erikson.
Thuyết Levinson miêu tả sự tăng trưởng của người nam từ khoảng giữa tuổi
17, chú ý tới chuỗi trật tự luân phiên giữa giai đoạn định vị và giai đoạn biến
đổi. Trong những giai đoạn định vị, người nam ít nhiều có thể đạt những đích
điểm (của từng giai đoạn) một cách thanh thản bởi vì quá trình phát triển thích
hợp đã được giải quyết. Giai đoạn biến đổi có thể dẫn đến những thay đổi
chính yếu trong cấu trúc đời sống của họ. Vào những thời điểm này, người
nam đang có những khát vọng đến khuôn mẫu lý tưởng của đời sống họ,
cũng như khám phá ra những khả năng mới nơi họ. Levinson đặt thuyết của
ông trên nền một chuỗi nghiên cứu sâu kín nơi 40 người nam (người Mỹ da
trắng cũng như người da đen, tầng lớp lao động cũng như tầng lớp trung
lưu).
Levinson thấy rằng lứa tuổi từ 17 đến 22 là giai đoạn của những thay
đổi hướng đến sự trưởng thành ban đầu. Trong tiến trình tăng trưởng, cũng
tựa như sự trưởng thành tính cách của Erikson, người nam không ngừng tiến
tới trong việc phát triển tâm lý độc lập với cha mẹ... Vào tuổi 22, họ độc lập
hoàn toàn và chuyển vào giai đoạn định vị khi họ ra sức đặt mình vào thế giới
tuổi trưởng thành. Cùng lúc này họ quan tâm đến việc thiết lập mối quan hệ
với người khác phái và dần kiến thiết một mái ấm; một gia đình - giai đoạn
phát triển tương giao thân mật, theo như các giai đoạn của Erikson. Trong
vòng 6 năm sau, lúc họ khoảng 28 tuổi, họ tiến vào một giai đoạn biến đổi
khác. Đây là thời khắc họ thấy được những lỗ hổng trong khung hình mẫu
của đời sống họ và họ tiến hành những chọn lựa mới. Rồi vào khoảng tuổi 33,
họ sẵn sàng yên vị. Có nghề nghiệp vững chắc là mục đích chính của họ và
người đàn ông tập trung vào phát triển những kỹ năng cũng như đào sâu vốn
kinh nghiệm. Đồng thời, họ cũng hoạt động để đạt đến những ước vọng lớn
lao mà họ đã từng đặt ra cho mình hoặc nỗ lực đạt đến một tổ chức liên
doanh hay làm chủ một công ty nào đó...
Những cố gắng trong việc áp dụng thuyết của Levinson cho người nữ
cũng thu được những kết quả tương tự. Một vài thực nghiệm chỉ ra rằng
người phụ nữ cũng trải qua những giai đoạn như người nam ở tuổi thiếu niên
và cũng vào cùng những thời điểm nhưng có một vài khác biệt. Sự thay đổi
của phụ nữ ở tuổi 30 thể hiện hình thức một khẳng định mới, khi họ có
khuynh hướng chuyển sang chú tâm đến việc chăm sóc gia đình (hoặc ngược
lại). Thay vì yên vị, ở tuổi 30 người phụ nữ nỗ lực hòa hợp những quyết định
mới vào guồng máy cuộc sống của họ.
2.2.3. Thuyết về “những biến động" của Gould
Roger L. Gould (1975, 1978) với thuyết phát triển ở tuổi trưởng thành
dành cho cả hai giới dựa trên số liệu nghiên cứu từ 524 người đàn ông và
phụ nữ được thực nghiệm thuộc tầng lớp trung lưu da trắng ở Mỹ. Từ những
câu trả lời của họ trong bảng câu hỏi ở mọi khía cạnh, Gould kết luận rằng
tiến trình tăng trưởng ở tuổi trưởng thành phải trải qua một chuỗi những biến
động. Ở mỗi giai đoạn, con người phải khẳng định ý niệm phản thân, đối mặt
với khủng hoảng ấu thơ và giải quyết những xung đột.
Trong thuyết của Gould, người thành niên trải qua bốn giai đoạn. Ở giai
đoạn thứ nhất, bắt đầu trong khoảng từ lứa tuổi thiếu niên cho đến tuổi 22,
con người đang dần hình thành tính cách và dần rời xa vòng tay của bố mẹ.
Với ý chí tự khẳng định, con người bước vào giai đoạn thứ hai, trong suốt giai
đoạn này thường chịu ảnh hưởng để đạt đến những mục đích của mình. Giữa
khoảng tuổi 28 - 34, con người phải trải qua giai đoạn chuyển mình trong giai
đoạn này chúng gợi lại những mục đích khi xưa và thực hiện việc lập gia
đình. Vào tuổi 35, họ có những mâu thuẫn sâu sắc cùng với nhận thức ra
ngưỡng cửa của tuổi trung niên đang tiến gần họ một cách dữ dội. Cuộc sống
dường như đầy khó khăn, đau khổ và phiêu lưu. Trong suốt giai đoạn bấp
bênh - có khi kéo dài cho đến sau tuổi 40, dường như, có cái gì đó đã “xé
toang" một phần đời sống của họ và buộc họ phải đặt nó vào một lộ trình mới.
Người độc thân có thể lấy vợ, người có gia đình lại muốn ly hôn, người mẹ
muốn đến trường hoặc trở lại làm việc, những cặp đôi luống tuổi quyết định
thành thân. Thuyết của Gould tương đương với thuyết “mùa vụ cuộc đời" của
Levinson mà đặc biệt giống nhau khi áp dụng cho người phụ nữ. Cả hai
thuyết đều được triển khai cùng một thời điểm - thập niên 1970 - Levinson
nghiên cứu về người đàn ông ở vùng Tây Bắc Hoa Kỳ còn Gould thì lại
nghiên cứu nam nữ ở Califomia [40].
2.1.2.4. Thuyết “nhu cầu làm cha mẹ” của Gutmann
Trong những năm gần đây, một vài nhà nghiên cứu về sự phát triển đã
đưa ra một số thuyết về sự tăng trưởng ở thanh niên đặt nền trên mối liên hệ
giữa thuyết tiến hóa sinh học và hình thái âu yếm và nuôi nấng con cái. Phần
đông việc làm này tập trung vào ý kiến cho rằng sự sống sót của loài phụ
thuộc vào sự bảo tồn và nuôi nấng thế hệ sau cho tới khi chúng vào tuổi sinh
sản, sự tăng trưởng của con người có lẽ cũng ảnh hưởng theo quy luật này.
Theo thuyết tăng trưởng của David Gutmann (1987), sự tăng trưởng xét cho
cùng cũng xoay quanh nhu cầu làm cha mẹ của con người. Ông ta cho rằng
mọi thế hệ đã tiến hóa sinh ra những trẻ nam nữ với tính cách đảm bảo được
độ hoàn thiện về thể chất và tình cảm nơi con cháu. Trong xã hội sơ khai,
người cha với uy lực, độc đoán, giáo dục con cái mình theo một cách áp đặt.
Với sự chăm sóc, đồng cảm, dịu hiền và thông hiểu khiến cho người mẹ dễ
gần con cái và luôn đạt được độ tin cậy thân tình.
Theo Gutmann, sự tiến triển chỉ thể hiện tiềm năng trong những vai trò
của từng giới. Qua những năm tháng sống trong cộng đồng, người nam hay
người nữ sẽ trở nên tự nhiên với đặc điểm bề ngoài và cảm thấy thú vị về
chính họ. Khi họ trở thành tha mẹ thì những ông bố sẽ có nét gia trưởng hơn,
quan tâm của họ là sự yên ổn cho gia đình (thể chất và kinh tế). Vì một ông
bố ỷ lại, thụ động, nhu nhược sẽ gây khó khăn trong khả năng mang lại cho
gia đình những nhu cầu cần thiết hoặc trong việc nuôi dưỡng con cái, người
đàn ông phải loại trừ mọi nguy cơ dẫn đến sự lệ thuộc và nhu nhược Những
bà mẹ mới cũng trở nên hiền mẫu đích thực, mối bận tâm của họ là chăm sóc
và nuôi nấng đàn con. Vì một người mẹ dữ dằn, thiếu lòng yêu thương sẽ gây
tổn thương cho con cái hoặc trấn áp chồng mình. Người mẹ phải ra sức loại
bỏ những nguy cơ trở thành một bà mẹ quyết đoán, khắt khe và nóng nảy.
Cho đến khi con cái họ trở thành thanh niên rời bỏ gia đình để khẳng định vai
trò của mình mà bấy lâu nay vốn bị chôn vùi trong những quan tâm của cha
mẹ.
Mặc dù thuyết của Gutmann có ý dùng cho mọi chế độ xã hội trong mọi
giai đoạn lịch sử, nhưng quả thực nó giới hạn trong xã hội hiện đại nơi mà vai
trò cha mẹ không còn quan trọng nữa. Khi những ông bố bà mẹ chia sẻ cùng
con cái trong việc cung cấp những nâng đỡ vật chất, sự chăm sóc cũng như
sự an toàn tâm lý, tình cảm; tuổi làm cha mẹ có lẽ yêu cầu những thay đổi lớn
trong trách nhiệm và cá nhân ít hơn như theo đề nghị của thuyết Gutmann.
Các quan điểm của các lý thuyết được nêu ở trên nói lên sự bắt đầu
của tuổi trưởng thành tùy thuộc nhiều vào yếu tố văn hóa và tâm sinh lý, trong
đó việc tự xác định mình như người lớn dựa vào nhận thức của cá nhân, liệu
cá nhân có đáp ứng các tiêu chuẩn quan trọng liên quan hay không trở thành
một tiêu chí cực kỳ quan trọng.
2.2. Một số điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của người trưởng thành trẻ tuổi
2.2.1. Đặc điểm sự phát triển thể chất
Trong suốt tuổi trưởng thành, hầu hết mọi người đều đạt đến đỉnh điểm
của sức khỏe, tốc độ và linh hoạt của thể chất. Lúc người thanh niên đã đạt
đến điểm hoàn thiện thể chất ở tuổi trưởng thành cũng là lúc nhiều dấu hiệu
của lão hóa bắt đầu xuất hiện. Trong khoảng tuổi 20, người ta đã có ít nhiều
những thay đổi ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ thể con người. Đặc điểm
của cơ bắp và sức khỏe đạt đến điểm hoàn thiện ở độ tuổi 20 - 30, rồi sau đó
giảm xuống dần. Độ tinh nhạy của tai và mắt cũng bắt đầu giảm xuống ở độ
tuổi 20. Nếp nhăn đầu tiên xuất hiện ở đuôi mắt và da bị lão hóa, đặc biệt đối
với những người có nhiều tàn nhang. Tia cực tím tiêu diệt DNA và các tố chất
bảo vệ da, và vì thế chúng làm chậm lại tiến trình phục hồi của da, dẫn tới da
bị mỏng và nhăn nheo.
Những thay đổi khác cũng xảy ra bên trong cơ thể. Mặc dù trọng lượng
không thay đổi, nhưng qua cuộc điều tra về tuổi thanh niên cho thấy lượng tế
bào trong cơ bắp bắt đầu giảm. Ngoài ra. lượng khí vận chuyển vào phổi
trong mỗi lần hít thở cũng có dấu hiệu giảm sút ở tuổi hai mươi, và giảm trung
bình 1% mỗi năm; cũng như thế đối với tỷ lệ lọc máu của thận. Những dây
động mạch cũng bắt đầu già với sự xuất hiện của các màng mỡ thô vàng nơi
thành động mạch nơi những người có hội chứng vữa xơ cứng động mạch.
Việc kiêng khem ngặt nghèo hoặc thiếu tập thể dục sẽ thúc đẩy sự phát triển
những căn bệnh kinh niên sẽ xuất hiện ở tuổi trung niên và tuổi già.
Một vài người trẻ lo lắng khi ở tuổi 30 thấy xuất hiện vài sợi tóc bạc tinh
nghịch. Sự phát triển về thể chất của con người đã đạt đến mức hoàn thiện ở
tuổi 25 - 26 (nữ sớm hơn nam khoảng 2 năm) như: trọng lượng não đạt mức
tối đa; số lượng nơ-ron thần kinh lên tới mức cao nhất (14 - 16 tỉ) với chất
lượng hoàn hảo nhờ quá trình myelin hóa cao độ. Số lượng xi-nap của các tế
bào thần kinh đảm bảo cho một sự liên lạc rộng khắp, chi tiết, tinh tế và linh
hoạt giữa vô số kênh làm cho hoạt động của não bộ trở nên nhanh, nhạy,
chính xác đặc biệt so với các lứa tuổi khác.
Những biểu hiện về giai đoạn phát triển ổn định, đồng đều về hệ
xương, cơ bắp, tạo ra nét đẹp hoàn mỹ ở người thanh niên; các tố chất về thể
lực: sức nhanh, sức bền bỉ, dẻo dai, linh hoạt đều phát triển mạnh này nhìn
chung thường kéo dài đến độ tuổi 26 và vì vậy thanh niên thường nổi trội
trong những môn thể thao đòi hỏi phản ứng nhanh, tốc độ và khỏe mạnh. Sau
tuổi 25 - 26, mọi sự phát triển về thể chất đều dừng lại và khoảng 30 tuổi thì
bắt đầu có sự đi xuống, đó là lý do mà hầu hết các vận động viên chuyên
nghiệp bắt đầu cảm thấy có tuổi khi họ bước vào tuổi 30.
2.2.2. Điều kiện sống, hoạt động và vai trò xã hội của người trưởng thành trẻ tuổi
Xét về các điều kiện sống và hoạt động của người trưởng thành trẻ tuổi
cho thấy họ đang đứng trước những ngả rẽ của cuộc đời, người thì tiếp tục đi
học, người thì bắt đầu lao động kiếm sống... Đa số họ đều thiết lập dần dần
cuộc sống độc lập. Trong gia đình, họ được xem như là một thành viên chính
thức, được đối xử một cách công bằng như những người lớn thực thụ. Ngoài
xã hội, họ trở thành những thành viên chính thức của xã hội với đầy đủ quyền
hạn và nghĩa vụ công dân trước pháp luật.
Hoạt động thủ yếu ở giai đoạn lứa tuổi này là hoạt động nghề nghiệp.
Nếu chưa phải lao động kiếm sống thì họ thường tiếp tục theo học tại các cơ
sở đào tạo hệ Trung cấp, Cao đẳng, hoặc Đại học. Đa số những thanh niên
này chưa thể tự lập hoàn toàn. Đây cũng là một hạn chế nhất định ảnh hưởng
đến sự phát triển tâm lý của họ.
Hoạt động chủ yếu của thanh niên sinh viên là hoạt động học tập chuẩn
bị cho nghề nghiệp tương lai. Thanh niên sinh viên là những người trưởng
thành còn đang theo học ở các trường Đại học và Cao đẳng... Do vậy điều
kiện sống và các dạng hoạt động cơ bản của họ có những đặc trưng rất riêng.
* Trong các trường Đại học và Cao đẳng, họ là đại biểu của một nhóm
xã hội đặc biệt gồm những người đang trong quá trình chuẩn bị tri thức để trở
thành chuyên gia ở một lĩnh vực nhất định của xã hội, là những người trẻ tích
cực, năng động, nhạy cảm với những thay đổi của xã hội và dễ thích nghi với
sự thay đổi đó. Khoảng thời gian sinh viên lĩnh hội nền tri thức xã hội trong
môi trường Đại học - Cao đẳng... là thời điểm diễn ra quá trình xã hội hóa rất
nhanh, mạnh và đa dạng. Đây là thời điểm và là cơ hội để họ định hình phát
triển và hoàn thiện nhân cách của mình. Cần xem xét những điều kiện phát
triển tâm lý của sinh viên thông qua những hoạt động mà họ tham gia.
- Hoạt động học tập:
+ Nội dung học tập
Sinh viên phải tải trọng một nội dung học tập rất đáng kể, phong phú.
Khối lượng kiến thức chuyên ngành đa dạng, phức tạp (lĩnh hội hệ thống tri
thức kỹ năng, kỹ xảo chuyên ngành và phát triển những phẩm chất và năng
lực của người làm việc chuyên nghiệp ở tương lai).
Sự đòi hỏi của thực tiễn cho thấy song song với việc chuẩn bị những tri
thức lý thuyết thì việc chuẩn bị những kinh nghiệm thực tiễn và thao tác làm
việc là yêu cầu tối quan trọng. Hơn thế nữa, việc tiếp cận những kiến thức
chuyên ngành vẫn chưa đủ nên việc học hỏi những kiến thức liên ngành và
xuyên ngành để chuẩn bị làm việc thực tế là một cơ hội đáng quý cho độ tuổi.
+ Phương pháp học tập
Những yêu cầu về học tập ở độ tuổi này đòi hỏi người sinh viên phải
độc lập, tự chủ, có ý thức đầy đủ và sáng tạo.
Ngoài ra, sự học của sinh viên là loại hoạt động trí tuệ đích thực căng
thẳng, cường độ cao và có tính lựa chọn rõ rệt.
- Hoạt động chính trị xã hội:
Các hoạt động chính trị xã hội ở tuổi này là một điều kiện đặc biệt cho
sự phát triển tâm lý. Việc tham gia vào tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên Việt Nam đem lại những kinh nghiệm thực sự
quý báu để nâng cao tri thức - tầm hiểu biết, tích lũy những kinh nghiệm sống
và hoàn thiện dần những kỹ năng cũng như xây dựng lý tưởng nghề nghiệp -
lý tưởng cuộc sống.
Ngoài ra, việc tham gia các tổ chức khác, các câu lạc bộ đội nhóm xã
hội - kỹ năng cũng là một điều kiện thú vị giúp thanh niên sinh viên thể hiện
mình và phát triển có định hướng hoặc phát triển toàn diện.
- Hoạt động nghiên cứu khoa học:
Hoạt động nghiên cứu khoa học chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt
động học tập của sinh viên. Hoạt động này nhằm phát huy những tố chất của
một người trí thức lao động chuyên nghiệp với hệ thống quan điểm, phương
pháp luận và những phẩm chất - năng lực của một con người làm việc có
phương pháp và đam mê sáng tạo.
Đối với sinh viên, việc tham gia nghiên cứu khoa học ở nhiều hình thức
khác nhau đem đến những cơ hội mới để nhìn thấy mình và phát triển mình ở
đỉnh cao về nhân cách - nghề nghiệp.
- Hoạt động văn thể mỹ:
Việc tham gia các câu lạc bộ văn thơ, hội họa, âm nhạc, khiêu vũ, thể
hình, các cuộc thi... sẽ trở thành một điều kiện để sinh viên tự thể hiện và điều
chỉnh chính mình. Không ít sinh viên đã thực sự phát triển một cách nhanh
chóng bằng những bước tiến dài khi có những thành công ban đầu trong hoạt
động này.
- Hoạt động giao tiếp:
Hoạt động giao tiếp của thanh niên sinh viên đa dạng với nhiều mối
quan hệ đan xen. Trong những mối quan hệ khác nhau, họ trở thành thành
viên của các nhóm xã hội khác nhau. Đây cũng là một môi trường giúp sinh
viên phát triển các phẩm chất, hình thành những kỹ năng sống, kỹ năng mềm
hỗ trợ cho nghề nghiệp và cuộc sống.
Xét về vai trò xã hội của người trưởng thành trẻ tuổi có rất nhiều quan
niệm khác nhau. Có thể đề cập đến một số quan niệm sau đây:
* Robert Havighurst (Mỹ) xác định vai trò xã hội của người trưởng thành
dựa trên các nhiệm vụ trọng tâm mà họ sẽ phải thực hiện. Và như vậy theo
ông, người trưởng thành trẻ tuổi có các vai trò xã hội sau:
- Lựa chọn người bạn đời.
- Học cách sống với người bạn đời.
- Bắt đầu cuộc sống gia đình.
- Nuôi dạy con cái.
- Tổ chức gia đình.
- Bắt đầu một nghề nghiệp.
- Thực hiện trách nhiệm người công dân.
- Tìm nhóm xã hội tâm đầu ý hợp.
* Grace and Richard (2003) xác định vai trò xã hội của người trưởng
thành dựa trên các đặc trưng tâm lý lứa tuổi. Theo tác giả này, vai trò xã hội
của người trưởng thành trẻ tuổi khá phức tạp với những biểu hiện sau:
- Thích nghi với tâm lý sống cách xa cha mẹ.
- Chấp nhận trách nhiệm về thể chất của bản thân.
- Trở nên quan tâm đến “lịch sử”, kinh nghiệm của bản thân và giới hạn
của thời gian ở bản thân.
- Tích hợp kinh nghiệm tình dục đồng giới hay khác giới.
- Phát triển khả năng thể hiện tình cảm với vợ, chồng hoặc bạn tình.
- Quyết định có con hay không.
- Có thể hiểu và thông cảm với trẻ con.
- Thiết lập những mối quan hệ người lớn với cha mẹ.
- Đạt được những kỹ năng thích hợp.
- Chọn lựa một công việc, nghề nghiệp phù hợp.
- Sử dụng tiền bạc cho mục tiêu tương lai.
- Đảm đương vai trò xã hội.
- Thích nghi với những giá trị đạo đức và tinh thần trong xã hội [41].
* Theo "Luật Thanh niên" của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, số 53/2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2006, vị trí và vai trò xã
hội của thanh niên sinh viên được thể hiện thông qua các điều luật sau:
- Điều 9: Quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong học tập.
- Điều 10: Quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong lao động.
- Điều 1 1: Quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong bảo vệ tổ quốc
- Điều 12: Quyền và nghĩa vụ của Thanh niên trong hoạt động khoa
học, công nghệ và bảo vệ tài nguyên, môi trường.
- Điều 13: Quyền và nghĩa vụ của Thanh niên trong hoạt động văn hóa,
nghệ thuật, vui chơi, giải trí.
- Điều 14: Quyền và nghĩa vụ của Thanh niên trong bảo vệ sức khỏe,
hoạt động thể dục, thể thao.
- Điều 15: Quyền và nghĩa vụ của Thanh niên trong hôn nhân và gia
đình.
- Điều 16: Quyền và nghĩa vụ của Thanh niên trong quản lý nhà nước
và xã hội [Chương II: Quyền và nghĩa vụ của thanh niên, Luật Thanh niên].
Như vậy, có thể thấy vai trò xã hội của sinh viên được xem xét ở những
luận điểm sau:
- Người trưởng thành trẻ tuổi là một tầng lớp xã hội quan trọng đối với
mọi thể chế chính trị, đội ngũ trí thức tương lai.
- Người trưởng thành trẻ tuổi là công dân thực thụ.
- Người trưởng thành trẻ tuổi trưởng thành về mặt xã hội một cách
đúng nghĩa về mặt nhận thức, thái độ và hành vi trong quyền và nghĩa vụ của
mình trên bình diện nghề nghiệp, gia đình và xã hội.
Tóm lại, đặc điểm phát triển thể chất, điều kiện sống và vai trò xã hội
của người trưởng thành trẻ tuổi ảnh hưởng đến sự ổn định về sự phát triển
tâm lý; khả năng nhận thức, học tập; tự ý thức, định hướng giá trị và sự lập
thân của họ.
2.3. Đặc điểm tâm lý thanh niên sinh viên (18 đến 25 tuổi)2.3.1. Đặc điểm về sự phát triển nhận thức và học tập của thanh
niên sinh viên
2.3.1.1. Đặc điểm về sự phát triển nhận thức của thanh niên sinh viên
Những nghiên cứu về sinh viên Đại học cho thấy, đầu tiên họ giải thích
thế giới và những kinh nghiệm giáo dục của họ một cách độc đoán
(authoritarian term). Thế nhưng, dần dần họ bắt đầu chấp nhận và tích cực
chấp nhận những chân lý. Kramer (1991) cho rằng đặc trưng tư duy của tuổi
này vượt khỏi tư duy hình thức gồm ba giai đoạn: tuyệt đối hóa (18 - 22 tuổi);
tương đối (cuối tuổi 20 - đầu trung niên); biện chứng [41].
Hoạt động nhận thức của thanh niên sinh viên vừa phải kế thừa và cập
nhật những thành tựu của khoa học đương đại. Hoạt động học tập có tính
chất mở rộng theo năng lực và sở trường. Cấu trúc thứ bậc động cơ học tập
bao gồm:
- Động cơ nhận thức.
- Động cơ nghề nghiệp.
- Động cơ có tính chất xã hội.
- Động cơ tự khẳng định.
Bên cạnh việc học tập, Thanh niên sinh viên còn tham gia hoạt động
nghiên cứu khoa học. Hoạt động này của sinh viên có đặc điểm:
- Phải phục vụ cho mục đích học tập.
- Nhận thức khoa học là động cơ chủ yếu.
- Được tiến hành dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy Cao đẳng,
Đại học.
- Góp phần hình thành tính độc lập về nghề nghiệp, năng lực giải quyết
nhiệm vụ thực tiễn, tương lai.
Kết quả thực hiện IQ test cho thấy, khả năng trí tuệ được tăng lên cho
đến 45 - 46 tuổi, sau đó bị giảm. Tuổi 20 - 30 của một đời người có thể tích
lũy 2/3 lượng tri thức của cuộc đời. Những nghiên cứu cũng cho thấy việc tiếp
tục học tập làm tăng điểm IQ ở người lớn tuổi. Những người thường xuyên
luyện tập kỹ năng nhận thức thì đạt điểm số cao hơn những người không
được luyện tập
Những so sánh về chiều kích độ tuổi cho thấy có sự khác biệt cơ bản
về tư duy của thanh niên sinh viên và thanh thiếu niên. Đặc biệt, thanh niên
sinh viên thường có những biểu hiện sau trong nhận thức:
- Thay đổi cách suy nghĩ của mình để tập trung cao độ vào những
hướng đi cụ thể.
- Phải xem xét những tương lai (viễn cảnh) khác nhau của mọi người ở
các lứa tuổi khác nhau hơn là họ đã làm điều này ở tuổi thanh thiếu niên.
- Phải khám phá ra những cách giải quyết những cuộc tranh luận, bất
hòa và giải quyết những xung đột thông qua sự thỏa hiệp, thương lượng,
hoặc điều chỉnh mục đích.
Theo Jean Piaget, giai đoạn cuối của sự phát triển nhận thức là giai
đoạn tư duy thao tác hình thức (formal opera thought), đạt được ở lứa tuổi
thanh thiếu niên nhờ sự phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần cùng với
những kinh nghiệm tích lũy nhờ việc học tập. Tư duy hình thức mang tính
chất logic, sử dụng tư duy trừu tượng để để giải quyết những vấn đề chung
và đòi hỏi những giả thuyết có thể xảy ra trong dạng của hệ thống cấu trúc.
Nhưng trong cuộc sống hàng ngày, những vấn đề thực tế của người lớn xảy
ra trong mối quan hệ mơ hồ, không có cấu trúc xã hội và mối quan hệ xã hội.
Cuộc sống của người trưởng thành đòi hỏi sự năng động hơn, ít trừu tượng
hơn và không phải là cách suy nghĩ duy nhất để có thể đối phó với những
trường hợp không nhất quán, không dự đoán trước được và mơ hồ (nhiều
nghĩa). Đó là dạng nhận thức hợp lý (thực dụng) khắp nơi được gọi là tư duy
sau hình thức.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng tư duy sau hình thức không phải là
một giai đoạn riêng biệt mà giai đoạn này cần một sự tổ chức lại về tư duy, đó
là một kiểu suy nghĩ mà nó lộ ra ở tuổi trưởng thành. Tư duy trừu tượng, tư
duy logic đã phát triển ở trình độ cao với sự phối hợp của nhiều thao tác tư
duy. Mặt khác, ở tuổi này tư duy của sinh viên thường linh hoạt, nhạy bén, có
căn cứ khả năng tư duy cho phép lĩnh hội nhanh nhạy và sắc bén mọi vấn đề.
Bên cạnh đó, sinh viên thường ít thỏa mãn với những gì đã biết mà muốn đi
sâu, tìm tòi, khám phá trên bình diện tư duy. Điều này dẫn đến khả năng tìm
tòi và nghiên cứu của sinh viên khá phát triển.
Song song đó, ở sinh viên cũng có sự phát triển tư duy sáng tạo. Sinh
viên thường hướng đến cái mới và hành trình đi tìm cái mới cũng rất quyết
liệt, óc hoài nghi khoa học cũng đặc biệt phát triển về chất trong độ tuổi này
thôi thúc khả năng phản biện, khả năng lật ngược vấn đề xuất hiện một cách
thường trực.
Riêng xét về khả năng tưởng tượng của sinh viên thì sự phát triển đạt
đến đỉnh cao. Điều này thể hiện qua khả năng sáng tác thơ, văn, truyện ngắn,
bút ký... đạt mức hoàn thiện.
Xem xét đặc điểm nhận thức và tư duy của sinh viên cần đặt nó trong
mối quan hệ với hoạt động học tập. Hoạt động học tập của sinh viên thuộc
dạng lao động trí óc. Bản chất của hoạt động nhận thức của sinh viên là
nghiên cứu chuyên sâu một chuyên ngành nào đó. Chính vì thế, điều này đòi
hỏi ở sinh viên một trình độ phát triển tương ứng về nhận thức. Đó là những
kỹ năng phân tích và tổng hợp vấn đề, năng lực đánh giá và nhận xét các tình
huống, các sự kiện có liên quan đến chuyên ngành của mình. Bên cạnh việc
nghiên cứu chuyên sâu về một lĩnh vực nào đó, sinh viên cũng phải tìm hiểu
thêm những kiến thức chuyên - liên ngành, tổng hợp và ứng dụng những tri
thức đó vào ngành nghề họ đang học. Nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin
ngày na, sinh viên luôn phải nhạy bén, tính cực cập nhật những tri thức mới.
Hơn thế nữa, sinh viên cũng phải hình thành cho mình năng lực nghiên
cứu khoa học. Đây là một hoạt động đặc thù của sinh viên trong môi trường
Đại học. Hình thành năng lực này phải thông qua việc học hỏi và trang bị cho
mình những kỹ năng cơ bản như: kỹ năng xác định vấn đề, kỹ năng phân tích
- tổng hợp chuyên biệt, kỹ năng giải quyết vấn đề...
Hoạt động học tập của sinh viên mang tính chất độc lập, sáng tạo. Nó
đòi hỏi sinh viên phải tự đào tạo, tự hoạch định mục tiêu học tập sao cho phù
hợp với năng lực của mình và yêu cầu của nhà trường. Họ phải nhạy bén,
uyển chuyển trong từng hoàn cảnh, linh hoạt trong việc vận dụng các kiến
thức để xử lý các tình huống mới; sáng tạo trong việc phát hiện ra vấn đề,
xem xét và giải quyết vấn đề dưới những góc độ khoa học khác nhau.
2.3.1.2. Đặc điểm về động cơ học tập của thanh niên sinh viên
Động cơ học tập là những lý do khiến sinh viên tham gia vào các hoạt
động học, là nội dung tâm lý của hoạt động học tập. Động cơ học tập có thể bị
chi phối bởi nhiều yếu tố, dựa trên nguồn gốc xuất phát có thể chia thành ba
yếu tố sau:
- Các yếu tố xuất phát từ chính chủ thể như hứng thú, niềm tin, lý
tưởng, tâm thế, mục đích...
- Các yếu tố xuất phát từ phía xã hội (ngoài chủ thể) như danh vọng,
mong muốn của gia đình và xã hội...
- Các yếu tố xuất phát trong chính hoàn cảnh học tập như nội dung,
phương pháp dạy học, nhân cách của giảng viên, các thiết bị dạy học...
Chính vì thế, lĩnh vực động cơ học tập của sinh viên rất phong phú và
thường bộc lộ rõ tính hệ thống. Hoạt động học tập của sinh viên diễn ra không
phải đơn thuần chịu sự chi phối của một loại mà bao gồm nhiều loại động cơ.
Đó có thể là động cơ có tính chất nhận thức, động cơ có tính chất xã hội và
động cơ học tập của sinh viên cũng chịu sự chi phối khá mạnh bởi hoạt động
và cách thức tổ chức giảng dạy của giảng viên.
Tìm hiểu từng mặt của việc động cơ hóa đối với hoạt động học tập của
sinh viên có thể nhận thấy một số đặc điểm như sau:
- Sinh viên không muốn người khác xem mình như một đứa trẻ mới
lớn, nhưng muốn được tôn trọng như một người lớn thực sự. Sinh viên có
nguyện vọng thể hiện tính tự lập và độc lập khỏi mọi sự ràng buộc quá mức
từ phía gia đình cũng như nhà trường. Sinh viên sẽ không chấp nhận và
không thỏa mãn với giảng viên sử dụng những phương pháp dạy truyền
thống bởi vì nó mang tính thụ động và không tạo điều kiện cho sinh viên phát
huy tính tích cực và cơ hội để thể hiện chính mình. Sinh viên cũng không
muốn là những trò giỏi bằng cách ngồi học thụ động, chép những gì giảng
viên đọc và xem đó là “giáo trình chính". Họ muốn được thể hiện chính kiến
của mình, có thể điều đó khác với quan điểm của giảng viên và các bạn,
nhưng chính bằng cách đó sinh viên khẳng định được "cái tôi" và bản sắc
riêng của mình.
- Khác hẳn với các học sinh Trung học, sinh viên muốn đem những kiến
thức trải nghiệm bản thân vào chính bài học của mình. Những phương pháp
dạy học truyền thống cần phải chuyển sang những phương pháp lấy hoạt
động làm phương tiện và sinh viên làm trung tâm. Tăng cường hoạt động của
sinh viên và giảm bớt hoạt động của giảng viên. Sự thụ động cần được thay
thế bằng sự tích cực tham gia trong quá trình thảo luận và làm việc nhóm
giữa sinh viên; những vấn đề đưa ra cần phải kích thích tư duy và trí tò mò thì
mới khơi gợi được tính tích cực học tập của sinh viên.
- Nhìn chung, động cơ học tập của thanh niên sinh viên rất đa dạng và
mang tính hệ thống, việc học của họ bị chi phối bởi nhiều loại động cơ
+ Động cơ nhận thức: sự khao khát trau dồi tri thức, hứng thú các vấn
đề khoa học.
+ Động cơ nghề nghiệp: mong muốn có nghề nghiệp ổn định, thành đạt
trong lĩnh vực chuyên ngành.
+ Động cơ xã hội: đáp ứng yêu cầu của xã hội.
+ Động cơ tự khẳng định: về năng lực và phẩm chất cá nhân.
+ Động cơ cá nhân: tương lai ổn định, thu nhập cao...
Tóm lại, chính do tính đặc thù của hoạt động học tập trong môi trường
Đại học, Cao đẳng sẽ giúp sinh viên phát triển mạnh về mặt nhận thức và trí
tuệ để đáp ứng được yêu cầu học tập. Đây sẽ là một ưu điểm lớn để sinh
viên trưởng thành hơn khi bước chân vào cuộc sống thực sự. Ngoài ra, việc
giảng viên cần tìm hiểu các động cơ học tập rất đa dạng và phức tạp của sinh
viên để tổ chức hoạt động học tập hiệu quả cũng là một nhiệm vụ hết sức
quan trọng.
2.3.2. Đời sống xúc cảm - tình cản của thanh niên sinh viên
2.3.2.1. Một số đặc điểm chung về sự phát triển xúc cảm - tình cảm
Tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển tích cực nhất của những loại tình
cảm cao cấp như: tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình
yêu nam nữ. Những tình cảm này chiếm vị trí quan trọng và có ảnh hưởng
không nhỏ đến các hoạt động của sinh viên trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Các loại tình cảm này ngày càng trở nên đậm nét thông qua việc khám
phá, tìm tòi và tham gia vào nhiều loại hình hoạt động khác nhau. Đáng kể
nhất là hoạt động học tập và tham gia các hoạt động xã hội khác. Trong hoạt
động học tập, sinh viên cảm nhận được vẻ đẹp của sự đa dạng, sự mới lạ
của các lĩnh vực khoa học mà họ có dịp tiếp cận. Sự bí ẩn và huyền diệu của
Thiên văn học, sự kỳ diệu của Hóa học, sự logic của Toán học... khơi gợi
trong các bạn một nhu cầu khám phá và say mê học hỏi. Trong các hoạt động
xã hội như chiến dịch tình nguyện mùa hè xanh, các phong trào đoàn hội...
các bạn sinh viên sẽ cảm nhận được vẻ đẹp đơn sơ chất phác của con người
trong những làng quê nghèo, hẻo lánh; cảm nhận được sức sống của tuổi trẻ,
ý nghĩa của các hoạt động tình nguyện.
Hơn ai hết, sinh viên là người yêu vẻ đẹp thể hiện ở hành vi, phong thái
đạo đức, cũng như vẻ đẹp thẩm mỹ ở các sự vật, hiện tượng của thiên nhiên
hoặc con người tạo ra. Khác với những lứa tuổi trước, tình cảm đạo đức, tình
cảm thẩm mỹ ở tuổi sinh viên biểu lộ một chiều sâu rõ rệt. Họ yêu thích cái gì
họ đều có thể lý giải, phân tích một cách có cơ sở. Điều này lý giải vì sao ở độ
tuổi này sinh viên đã có cách cảm, cách nghĩ riêng, ăn mặc theo sở thích
riêng của mình... Bên cạnh đó, sinh viên có thể lý giải, xây dựng “triết lý" cho
cái đẹp của mình theo chiều hướng khá ổn định.
Đặc biệt và nổi trội nhất trong thời kỳ này là sự phát triển mạnh mẽ, có
tính định hướng, khá sâu sắc về tình yêu nam nữ. Thông qua các hoạt động
giao lưu, các bạn nam nữ sinh viên có dịp để gặp gỡ, trao đổi, tìm hiểu lẫn
nhau. Dần dần tình yêu nam nữ sẽ nảy sinh từ những tình bạn chân thành,
đồng cảm và gắn bó. Loại tình cảm này mang một sắc thái mới, cao hơn và
chín chắn hơn so với tình cảm thời Trung học, nó chiếm một vị trí hết sức
quan trọng vào thời điểm này thể hiện ở việc chi phối các hoạt động của sinh
viên, hướng sinh viên đến một tương lai gần nào đó mà họ đang mong ước.
Tình cảm này có tác dụng tích cực trong việc giúp các bạn thỏa mãn được
nhu cầu về mặt tình cảnh chia sẻ những vui buồn của cảnh xa nhà nhớ quê,
cùng nhau gắn bó vượt qua những khó khăn của quãng đời sinh viên. Tuy
nhiên, tình yêu này cũng có thể gây cho sinh viên cảm giác mâu thuẫn. Mâu
thuẫn giữa việc dành thời gian học tập và dành thời gian để đi chơi; giữa việc
mong muốn tiến xa hơn trong mối quan hệ và điều kiện chưa chín muồi... Tuy
vậy, trong giai đoạn thanh niên sinh viên xuất hiện nhu cầu sẵn sàng gắn bó
với người khác, tình yêu nam nữ đích thực xuất hiện.
2.3.2.2. Các lý thuyết về lựa chọn trong tình yêu
Có thể đề cập đến một số lý thuyết cơ bản sau về tình yêu của thanh
niên sinh viên dưới những sự lý giải khác nhau:
* Lý thuyết về sụ thu hút giữa những cái giống nhau:
Lý thuyết này khẳng định, thanh niên sinh viên có thể yêu vì những sự
tương đồng.
- Giống nhau về sắc tộc, tôn giáo, giai cấp xã hội, nền giáo dục, nghề
nghiệp để người ta thu hút lẫn nhau.
- Yếu tố địa lý hay môi trường lao động chung tạo điều kiện cho đôi
nam nữ gặp gỡ.
- Sở thích, lý tưởng giống nhau giúp họ cùng nhìn về một hướng.
* Lý thuyết về sự thu hút giữa những điểm trái ngược:
Lý thuyết này khẳng định có sự thu hút giữa những nhân cách trái
ngược nhau. Lý thuyết này cũng được gọi là sự bổ sung các nhu cầu.
* Lý thuyết về "mô hình có sẵn trong tiềm thức":
Lý thuyết này cho rằng có những người tự dưng gặp ai đó lại bị thu hút
ngay. Những người này đã xây dựng một hình ảnh lý tưởng về người yêu
tương lai và họ cứ bám vào hình ảnh đó. Mô hình lý tưởng này hình thành do:
- Ảnh hưởng của cha, mẹ, người thân.
Kinh nghiệm tình cảm tích cực, sự an toàn có được trong quan hệ với
cha, mẹ làm cho họ chọn bạn đời giống cha, mẹ. Kinh nghiệm tình cảm tiêu
cực trong quan hệ với cha, mẹ dẫn đến họ chọn bạn đời khác cha, mẹ. Anh,
chị em hay các thành viên khác trong gia đình cũng ảnh hưởng tới mô hình
mà người ta tự xây dựng về người bạn đời tương lai.
- Ảnh hưởng của "tình yêu” trẻ con.
Những đặc điểm của đối tượng gây cảm xúc mạnh mẽ như khuôn mặt,
tiếng nói, cách ứng xử đi vào tiềm thức khi còn nhỏ (8 - 9 tuổi) sẽ ảnh hưởng
đến việc lựa chọn bạn đời của người thanh niên.
* Lý thuyết về sự phát hiện chính mình trong người kia: Lý thuyết này
dựa trên hiện tượng đột nhiên thấy chính mình trong người kia. Những gì
người kia phát biểu là chính nhu cầu, ước muốn, thái độ của chính tôi mà tự
tôi không dám nói ra. Chính người đó đang và sẽ thể hiện “cái tôi" của tôi.
2.3.2.3. Các kiểu tình yêu thanh niên sinh viên
Tình yêu sinh viên đạt đến hình thái chuẩn mực, nhìn chung rất đẹp,
lãng mạn, đầy thi vị. Trong tình yêu sinh viên cũng gặp phải những mâu thuẫn
nội tại phải giải quyết, họ thể hiện những bản sắc riêng của mình trong tình
yêu nam nữ. Theo nhà Tâm lý học Robert Stenlberg (1986), tình yêu mà chỉ
bao gồm niềm đam mê và sự cảm thông là quá đơn giản. Ông cho rằng tình
yêu hợp thành từ ba yếu tố: thân tình, đam mê và trách nhiệm.
Các kiểu tình yêu
(Kind of love)Gần gủi thân
tình (Intimacy)Đam mê (Pasion)
Trách nhiệm(commitment
/decision)
Thích (liking) + - -
Si mê (infatuated love) - + -
Sự trống rỗng (empty love) - - -
Tình yêu lãng mạn(Romantic love) + - +
Tình yêu đồng cảm (Companionate love) + - +
Tình yêu dại dột (Fatuous love) - + +
Tình yêu hoàn hảo (Cónumimate love) + + +
Bảng 1. Phân loại các kiểu tình yêu dựa vào lý thuyết tam giác của
Sternberg (R. Sternberg's triangular theory of love,1986).
Yếu tố gần gũi, thân tình là tình cảm nảy sinh qua sự thân thiết lâu
ngày, yêu mến (về một hay nhiều điểm nào đó), qua sự giao tiếp thường
xuyên. Còn yếu tố đam mê bao gồm những ham muốn nhuốm màu sắc tình
dục, những gần gũi về thể xác và sự lãng mạn. Yếu tố này được minh họa
bởi những cảm xúc lôi cuốn đến khó kiềm chế về thể xác, tình dục khi gặp đối
tượng (muốn lại gần, muốn hôn, muốn nắm tay...). Cuối cùng khía cạnh thứ
ba là yếu tố trách nhiệm, bao gồm những ấn tượng mạnh ban đầu khiến bạn
yêu người đó (một người giúp đỡ bạn trong cơn hoạn nạn) và quyết định duy
trì dài lâu tình yêu này.
Bằng cách xem xét từng yếu tố trên có hiện diện hay không, Sternberg
phân loại thành bảy "thể loại" tình yêu theo tình cảm. Không yêu (trống rỗng)
là mức độ tình cảm chỉ dừng ở những quen biết thông thường, loại tình cảm
này thiếu hẳn ba yếu tố vừa nói trên. Thích lại chỉ có sự hiện diện của yếu tố
thân tình. Trong khi đó, tình yêu si mê vắng bóng hai yếu tố thân tình và trách
nhiệm.
Những dạng tình yêu khác lại phức tạp hơn. Đơn cử như tình yêu lãng
mạn xảy ra khi hai yếu tố thân tình và đam mê xuất hiện; một mối tình được
gọi là tình yêu đồng cảm khi hai yếu tố thân tình và trách nhiệm được hợp
thành. Khi hai người đến với nhau bằng tình yêu lãng mạn, chính những cảm
xúc đam mê và tình dục nồng nàn kẻo họ đến với nhau. Mối quan hệ này có
lâu dài hay không đối với họ không quan trọng. Trái lại ở tình yêu đồng cảm,
những quan hệ lâu dài bền vững lại ở vị trí cao hơn những đam mê về sinh lý,
thể xác đơn thuần. Bên cạnh đó, tình yêu dại dột chỉ tồn tại khi yếu tố thân
tình được nảy nở. Cuối cùng là tình yêu đích thực (tình yêu lãng mạn) xuất
hiện khi cả ba yếu tố của R. Sternberg đều hiện hữu ở dạng tình yêu này.
Mặc dù con người thường cho rằng đây là kiểu mẫu tình yêu "lý tưởng",
nhưng cũng có những dạng tình yêu khác mà hạnh phúc và sự vững bền là
nền tảng nhưng nó không phải là dạng tình yêu hoàn hảo. Hơn thế nữa, qua
thời gian, dạng tình yêu này đặt nền móng trên sự vững bền và hạnh phúc đã
chiếm ưu thế trong nhiều mối quan hệ đa dạng của nhân loại. Thuyết tam giác
tình yêu của R. Sternberg nhấn mạnh đến tính chất phức tạp của tình yêu,
động lực dẫn đến tình yêu phẩm chất của các thể loại tình yêu. Nếu các mối
quan hệ của con người phát triển và thay đổi theo thời gian thì tình cảm của
con người cũng diễn ra như thế.
2.3.3. Một số đặc điểm nhân cách thanh niên sinh viên
2.3.3.1. Sự phát triển về nhu cầu
Theo Abraham Maslow, nhu cầu được phân loại theo các nhóm cấu
trúc có đẳng cấp từ thấp đến cao, mà tính nhất quán logic của các nhu cầu
chứng tỏ một trật tự xuất hiện các nhu cầu trong quá trình phát triển của cá
thể, cũng như chứng tỏ sự phát triển của hệ thống động cơ (Xem biểu đồ 1).
Sự tự thể hiện, tự thực hiện mục đích của mình bằng khả năng phát
triển nhân cách bản thân là nhu cầu trên đỉnh tháp các nhu cầu và nó được
phát triển vào lứa tuổi đầu của người trưởng thành, lứa tuổi thanh niên sinh
viên.
Biểu đồ 1: Thang tháp bậc nhu cầu của Abraham Maslow (1908 - 1970)
Những nghiên cứu cho thấy trong sự phát triển chung về nhu cầu của
người trưởng thành trẻ tuổi thì nhu cầu xã hội phát triển về chất rất đặc biệt.
Việc thanh niên sinh viên không có những cơ hội giao lưu và tiếp xúc cũng
ảnh hưởng khá nhiều đến kỹ năng sống cũng như dễ dẫn đến những triệu
chứng rối nhiễu tinh thần. Mặt khác, điều này cũng ảnh hưởng quan trọng đến
nhân cách của cá nhân. Song song đó, nhu cầu được tôn trọng tiếp tục phát
triển sâu hơn trên bình diện các mối quan hệ khác nhau và chuyển biến theo
hướng ngòi bình đẳng thực thụ trong từng tình huống. Ngoài ra, nhu cầu tự
thể hiện cũng thôi thúc thanh niên sinh viên tự khẳng định mình một cách
quyết liệt và “bung" cái tôi của mình trong những hoàn cảnh khác nhau của
đời sống cá nhân cũng như đời sống xã hội.
2.3.3.2. Sự phát triển về tự đánh giá, tự ý thức và tự giáo dục
Nhân cách của sinh viên phát triển một cách khá toàn diện và phong
phú. Sau đây là những đặc điểm đặc trưng nhất: đặc điểm về tự đánh giá, tự
ý thức và tự giáo dục của sinh viên.
Nhu cau sinh ly
Nhu cau an toan
Nhu cau xa hoi
Đuoc ton trong
Tựthe hien
Tự đánh giá ở lứa tuổi sinh viên phát triển mạnh với những biểu hiện
phong phú và sâu sắc. Điều này thể hiện ở điểm sinh viên không chỉ đánh giá
hình ảnh bản thân mình với tính chất bề ngoài, hình thức mà còn đi sâu vào
nội dung các phẩm chất, các giá trị của nhân cách. Tự đánh giá không chỉ
đơn thuần trả lời câu hỏi: “Tôi là ai?" mà còn phải nhận thức rõ: “tôi là người
thế nào?", "Tại sao tôi là người như thế", "Tôi có những phẩm chất nào?"...
Những cấp độ đánh giá ở trên mang tính phê phán rõ rệt. Vì vậy, tự đánh giá
của sinh viên có ý nghĩa tự ý thức và tự giáo dục. Bên cạnh đó, sự tự đánh
giá của sinh viên được thể hiện thông qua sự đối chiếu, so sánh, học hỏi từ
những người khác. Người khác như là tấm gương để sinh viên soi nhân cách
của mình vào, trên cơ sở đó, họ sẽ điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu của xã
hội.
Tự ý thức là trình độ phát triển cao của ý thức. Tự ý thức như là cặp
mắt để mỗi sinh viên nhìn vào chính nhân cách của mình, để điều chỉnh cũng
như nhận ra khiếm khuyết để bổ sung những phẩm chất nhân cách cần thiết
cho phù hợp với yêu cầu và sự phát triển của xã hội. Nhìn chung, tự ý thức,
tự đánh giá ở sinh viên mang tính toàn diện và sâu sắc:
- Sinh viên nhận thức bản thân, đánh giá bản thân cả hình thức đến
những phẩm chất phức tạp bên trong (danh dự, lòng tự trọng, tinh thần trách
nhiệm, nghĩa vụ...) và cả năng lực cá nhân.
- Sinh viên bắt đầu có khả năng đi sâu vào lý giải câu hỏi: Tại sao tôi lại
như thế?
Một số kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng mức độ phát triển của những
phẩm chất nhân cách có liên quan đến trình độ học lực cũng như kế hoạch
sống trong tương lai của sinh viên. Những sinh viên có thành tích học tập tốt
thường chủ động và tích cực trong việc nhìn nhận, đánh giá về thái độ cũng
như hành vi của mình trong cuộc sống để ngày càng hoàn thiện. Khi thanh
niên sinh viên tự nhìn nhận đánh giá bản thân khá chính xác, họ sẽ có kế
hoạch học tập, rèn luyện bản thân hướng tới các thành tựu khoa học, lập kế
hoạch học tập và nghiên cứu một cách hiệu quả. Ngược lại, những sinh viên
có kết quả học tập thấp thường dễ dàng đánh giá bản thân không chính xác
theo hướng hoặc đánh giá quá cao hoặc đánh giá quá thấp về mình vì vậy
cần lưu ý hỗ trợ về mặt tâm lý cho những sinh viên này một cách thiết thực và
hợp lý.
Tự đánh giá và tự ý thức là cơ sở của sự tự giáo dục ở sinh viên. Sinh
viên chỉ có thể tự giáo dục chính mình một khi họ hiểu rõ về bản thân mình.
Từ đó, họ phải phấn đấu và rèn luyện những phẩm chất nhân cách cần thiết
để đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Nhìn chung, sự phát triển các đặc điểm tâm lý nói trên tạo điều kiện cho
sinh viên đáp ứng được yêu cầu học tập và các loại hình hoạt động trong môi
trường Đại học. Điều này cũng góp phần định hình và hoàn thiện dần nhân
cách.
Tóm lại, những phẩm chất của nhân cách như sự tự ý thức, tự đánh
giá, lòng tự trọng, sự tự tin, tinh thần trách nhiệm đều phát triển mạnh mẽ ở
lứa tuổi này. Chính những phẩm chất nhân cách bậc cao này có ý nghĩa rất
lớn đối với việc tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân theo hướng tích cực của
những trí thức tương lai.
2.3.3.3. Sự phát triển về định hướng giá trị - định hướng lối sống.
Định hướng giá trị là những giá trị được chủ thể nhận thức; ý thức và
đánh giá cao, có ý nghĩa định hướng điều chỉnh thái độ, hành vi, lối sống của
chủ thể nhằm vươn tới những giá trị đó. Định hướng giá trị phát triển mạnh
vào lúc thanh niên phải đứng trước việc chọn nghề, chọn các chuyên ngành
khác nhau trong việc thi vào các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học
chuyên nghiệp.
Cấu trúc của định hướng giá trị cũng là một trong những vấn đề cần
được đề cập ở đây. Một sự vật có giá trị đối với một cá nhân nào đó khi nó
phù hợp và đáp ứng được nhu cầu cũng như mục đích hoạt động của cá
nhân đó. Như thế rõ ràng là để biết sự vật đó có giá trị như thế nào đối với
bản thân thì chủ thể phải nhận thức về sự vật đó, tỏ thái độ đối với chúng và
chọn lựa chúng trong hoạt động của mình. Do đó có thể nói, định hướng giá
trị được cấu thành bởi các yếu tố tâm lý cơ bản sau: sự nhận thức, thái độ và
hành động lựa chọn.
Kết quả nghiên cứu về định hướng giá trị của chương trình Khoa học
Công nghệ cấp Nhà nước, với đề tài KX - 07 - 04 của Nguyễn Quang Uẩn,
Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang (1995) cho thấy trong hệ thống các giá trị
chung, sinh viên Việt Nam đánh giá cao 5 giá trị: học vấn, niềm tin, nghề
nghiệp, sống có mục đích, tự trọng (Theo Nguyễn Thạc, 2007). Cũng theo tác
giả này thì sự lựa chọn trong định hướng giá trị nhân cách của sinh viên gồm:
- Có tư duy kinh tế, biết tính toán hiệu quả.
- Năng động, nhanh thích nghi với hoàn cảnh.
- Sử dụng thành thạo tiếng nước ngoài.
- Dám nghĩ, dám làm chấp nhận mạo hiểm.
- Biết xây dựng cuộc sống gia đình hòa thuận [26].
Ngoài ra, định hướng lối sống của sinh viên cũng có những đặc điểm
khá thú vị. Lứa tuổi sinh viên là thời kỳ quan trọng và chín muồi cho việc định
hình và hoàn thiện bộ mặt nhân cách. Trong thời kỳ đang có nhiều biến động
trên thế giới về mọi mặt, nhất là sự thay đổi về quan niệm giá trị, về hệ thống
giá trị, cũng như thang giá trị, sinh viên cần phải có một tầm nhìn rộng, một sự
trải nghiệm thực tế để có thể định hướng lối sống cho mình.
Định hướng lối sống của sinh viên là việc sinh viên tự lựa chọn cho
mình một phương cách để thể hiện các đặc điểm của bộ mặt nhân cách, cũng
như con đường để đạt được những giá trị xã hội mà cá nhân hướng đến.
Chính phương cách thể hiện này sẽ bộc lộ nội dung nhân cách của mỗi sinh
viên. Đó là quá trình “xuất tâm" những tư tưởng, tình cảm, thái độ, niềm tin, lý
tưởng của họ ra ngoài và để lại dấu ấn trong sản phẩm (vật chất cũng như
tinh thần) của họ. Dựa trên sự thể hiện này mà người khác nói riêng và dư
luận xã hội nói chung có thể nhận xét, đánh giá về họ.
Định hướng lối sống của sinh viên thể hiện ở quá trình hiện thực hóa
“nội dung đời sống tâm lý" của mỗi sinh viên. Nói cách khác, sinh viên tự tìm
cho “nội dung nhân cách" của mình một “vỏ bọc", một "phương tiện” để chứa
đựng, để truyền tải và để thể hiện. Chính do tính chủ thể, do sự khác biệt về
đặc điểm tâm lý mà mỗi “nội dung" đòi hỏi một “vỏ bọc” riêng, không ai giống
ai. Định hướng lối sống của mỗi người hoàn toàn mang bản sắc cá nhân
trong mối quan hệ với định hướng lối sống của cộng đồng.
Định hướng giá trị của người trưởng thành trẻ tuổi liên quan mật thiết
với xu hướng nhân cách và kế hoạch đường đời của họ. Giải thích sự phù
hợp giữa con người và nghề nghiệp là mục đích của thuyết nhân cách hướng
nghiệp của John L. Holland (1985, 1987, 1996). Tác giả cho rằng: “... người ta
nhận thấy công việc được trọn vẹn khi các đặc điểm quan trọng của một công
việc hoặc nghề nghiệp phù hợp với nhân cách của người được hướng
nghiệp..." [45].
Theo tác giả Nguyễn Thạc (2007), định hướng giá trị nghề nghiệp của
sinh viên có sự lựa chọn trùng hợp chín giá trị của kết quả chung trong nghiên
cứu về định hướng giá trị của chương trình Khoa học công nghệ cấp nhà
nước (Đề tài KX - 07 - 04):
+ Nghề có thu nhập cao.
+ Nghề phù hợp với sức khỏe, trình độ.
+ Nghề phù hợp với hứng thú, sở thích.
+ Nghề có điều kiện chăm lo cuộc sống gia đình.
+ Nghề có điều kiện phát triển năng lực.
+ Nghề được xã hội tôn trọng.
+ Nghề bảo đảm yên tâm suốt đời.
+ Nghề giúp ích cho nhiều người.
+ Nghề có điều kiện tiếp tục học lên.
Ngoài ra, còn lựa chọn một yêu cầu nổi trội là nghề làm việc bằng trí óc
[26].
Cũng cần thiết nhìn nhận về định hướng giá trị của tuổi này không hẳn
hoàn toàn ổn định. Xu hướng biến đổi định hướng giá trị của sinh viên theo
kết quả nghiên cứu của tác giả Đỗ Ngọc Hà (2002) như sau:
Thứ nhất: Bộc lộ những khuynh hướng mới, năng động của nhân cách
phù hợp xu thế biến đổi của xã hội.
Thứ hai: Định hướng giá trị khẳng định cái tôi cá nhân.
Thứ ba: Hệ thống định hướng giá trị có sự đan xen hệ giá trị truyền
thống và hiện đại [27].
Từ các xu hướng trên cho thấy tính đa dạng của nhân cách sinh viên,
tạo những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển xã hội.
Kết quả này minh chứng cho sự chuyển biến lớn trong định hướng giá
trị, định hướng lối sống và định hướng nghề nghiệp của thanh niên sinh viên
là hướng về tương lai. hướng về mục tiêu được nhận thức bằng những giá trị
đa tầng. Định hướng giá trị của sinh viên liên quan mật thiết với xu hướng
nhân cách và kế hoạch đường đời của họ.
Có thể kết luận rằng trong sự phát triển nhân cách của thanh niên sinh
viên, những nét cấu tạo tâm lý mới nổi trội được mô tả như sau:
- Sự hoàn thiện cái tôi (sự tự ý thức).
- Sự hoàn thiện thế giới quan khoa học.
- Lập các kế hoạch cuộc đời, chuẩn bị nghề nghiệp cho tương lai.
- Thiết lập cuộc sống độc lập hoàn toàn.
- Dần dần xâm nhập sâu vào các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống.
Nói cách khác, thanh niên sinh viên là lứa tuổi tràn trề sức sống, giàu
nghị lực, ước mơ và có hoài bão lớn. Thế giới quan niềm tin, lý tưởng được
thể hiện rõ rệt. Tuy nhiên, do sự phát triển không đồng đều nên nhiều sinh
viên chưa đạt được mức độ phát triển cần thiết. Sự phát triển phụ thuộc nhiều
vào hệ thống các giá trị của mỗi sinh viên định hướng - lựa chọn. Những sinh
viên có sự nhìn nhận đúng đắn, khoa học sẽ có những kế hoạch đường đời
phù hợp, có mục tiêu phấn đấu rõ rệt để trở thành những chuyên gia hữu
dụng, sống có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội. Đây là một cơ
sở tâm lý cực kỳ quan trọng để thanh niên sinh viên hướng đến những nền
tảng phát triển vững chắc và giàu tiềm lực.
2.4. Đặc điểm tâm lý người thành niên (sau 25 đến 40 tuổi)Có thể nói rằng, trong sự phát triển tâm lý - nhân cách của người thành
niên thì diễn tiến của từng cá nhân mang những màu sắc hết sức riêng biệt.
Sự khác biệt và độc đáo này do nhiều yếu tố chi phối, ảnh hưởng: nghề
nghiệp, hoàn cảnh cá nhân, đời sống hôn nhân, những cơ hội làm việc,... Vì
vậy, sự phổ quát về mặt mô hình tâm lý sẽ là một trong những bức tranh tổng
thể mang tính chất tương đối. Tuy nhiên, có thể phân tích một cách khái quát
và sơ khởi những nét tâm lý chính của tuổi này như sau:
2.4.1. Một vài đặc điểm nhận thức của người thành niên
Một trong những đặc điểm nổi trội về nhận thức của người thành niên
là lối “tư duy sau hình thức" được xây dựng quan điểm về phát triển nhận
thức của dựa trên hệ thống lý thuyết của Jean Piaget. Với kiểu tư duy này,
mọi sự vật hiện tượng đều được cân nhắc và nhìn nhận đa chiều trong nhiều
mối tương quan. Ngay cả việc ra quyết định nhận thức đòi hỏi có chút “liều”
thì lối tư duy này cũng cho phép con người dự định những rủi ro xảy ra với
chính mình hoặc với hành động của mình. Điều này thực sự chi phối hoạt
động và cả những kế hoạch lớn của người thành niên.
Trên cơ sở phân tích về đặc điểm nhận thức của người thành niên, các
nghiên cứu cho thấy những thay đổi nhận thức trước tuổi trưởng thành phản
ánh những con đường hiệu quả trong việc tiếp nhận thông tin mới. Còn
những thay đổi trong giai đoạn tuổi trưởng thành phản ánh những cách khác
trong việc sử dụng thông tin. Câu hỏi trở thành động cơ thúc đẩy con người
nhận thức là: Tôi nên biết cái gì?". Việc sử dụng thông tin một cách độc đáo
và hữu ích thể hiện sự tư duy sâu sắc và hiệu quả của người thành niên theo
tình huống và cả cách chiến lược.
Một diễn tiến tâm lý cho thấy người thành niên bắt đầu có những ám
ảnh trong nhận thức là mình có sự khác biệt lớn với độ tuổi trước đó. Từ
những suy nghĩ ấy dẫn đến hành động nhận thức “khó dung hòa". Thực tế
không hẳn là người thành niên nhận thức khác biệt với độ tuổi đầu thanh niên
mà “vết hằn" nhận thức dẫn đến sự “cách biệt" trong nhìn nhận và đánh giá.
2.4.2. Đặc điểm nhân cách người thành niên
2.4.2.1. Sự phát triển xu hướng của nhân cách
Ngày nay, câu hỏi “bạn cần gì?", “bạn phải là ai?", “bạn phải làm gì?"
được người trưởng thành trẻ tuổi trả lời nhanh chóng và rõ ràng: “Đó là sự
khát khao tri thức, khát khao làm giàu, khát khao thành đạt". Người thành niên
nhận thức rõ ràng muốn thành đạt trong sự nghiệp phải thông qua sự nỗ lực,
ý chí, trí tuệ của bản thân (tài - đức thực sự) chứ không phải số phận hay
trông chờ may mắn. Điều này thể hiện một xu hướng sống tích cực, tạo ra
những con người ham học hỏi, giàu ý chí, năng động và thực tế.
Những khảo sát về xu hướng nhân cách của người thành niên cho thấy
hướng lựa chọn cơ bản mà nhiều người quan tâm vẫn là vị trí đích thực mà
họ có được trong nghề nghiệp và cuộc sống. Sự định chuẩn trong nhân cách
cho thấy họ hướng đến sự thành đạt một cách đúng nghĩa chứ không chỉ là
thành công ở nghề nghiệp hay chỉ là sự vươn lên ở một chiều kích đơn lẻ
trong cuộc sống. Sự thành đạt đúng nghĩa thôi thúc họ đi tìm hạnh phúc một
cách tương đối: công việc tốt, thăng tiến, vị trí xã hội, điều kiện kinh tế và gia
đình hạnh phúc với vợ chồng và con cái...
Trên cơ sở đó, những biểu hiện về xu hướng của nhân cách người
thành niên gắn liền với các biểu hiện tâm lý:
- Có khả năng thích nghi tốt với các điều kiện sống và hoạt động.
- Có khả năng giải quyết tốt các mâu thuẫn và khó khăn của cuộc sống.
- Có ý chí, độc lập tự chủ và khả năng dám chịu trách nhiệm trước bản
thân, gia đình và xã hội.
- Có những phẩm chất nhân cách tiêu biểu: thế giới quan vững vàng,
tình cảm sâu sắc, tính cách trung thực, có khả năng cộng tác làm việc...
- Có khát khao hướng đến sự thành công, thành đạt.
Tuy nhiên, một thực trạng khác trong xu hướng sống của không ít
người thành niên hiện nay là đặt lợi ích của cá nhân, gia đình lên trên lợi ích
của cộng đồng, xã hội. Diễn tiến về sự lựa chọn các tiêu chí thành đạt cũng
có phần thay đổi như tiêu chuẩn về kinh tế được đẩy lên quá ngưỡng, xu thế
độc thân hoặc lập gia đình không con cái xuất hiện... Đây là một vấn đề cần
quan tâm trên tinh thần tôn trọng nhưng cũng cần có những tác động mang
tính chất điều chỉnh, dung hòa.
2.4.2.2. Sự lập thân của người thành niên
Người thành niên có sự gắn kết thành những gia đình bền vững (tính
có trách nhiệm). Đây là một trong những đặc điểm nổi trội của nhân cách
người thành niên.
Theo TS. Tâm lý học Mỹ Soi Gordon (2003), để biết sự gắn bó phát
triển đến mức độ nào thì đủ, để cho phép mối quan hệ chín muồi trở thành
hôn nhân thì cần quan tâm đến sự tương hợp và niềm tin bền vững. Những
câu hỏi cần phải trả lời cho người có ý định kết hôn:
- Bạn có chắc chắn người ấy đến không chỉ để lấp đi một khoảng trống
trong cuộc đời bạn mà còn mang đến một điều gì đó quý giá cho tương lai
của bạn? Tình yêu của bạn đã được thử thách qua một thời gian nào đó hay
chưa?
- Bạn sẽ bằng lòng chấp nhận người ấy với tất cả những hạn chế vốn
có của họ?
- Bạn tin rằng cả hai đều hết lòng vì sự phát triển của nhau?
Kết hôn tạo nên một ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đời một cá nhân.
Khi câu hỏi “con người nên kết hôn ở tuổi nào?" được đặt ra thì câu trả lời ở
cả nam lẫn nữ là khoảng 25 tuổi. Những kết quả thống kê cho thấy tuổi kết
hôn trung bình ở các nước có sự khác nhau. Đơn cử như ở Philippines là
21,6 tuổi; Ai Cập là 19,2 tuổi; Indonesia là 18,1 tuổi; Nigeria là 16,9 tuổi;
Banglades chỉ là 14,4 tuổi; Nhật Bản lên đến 26,1tuổi (1993), đến nay đã tăng
lên xấp xỉ 30.
Ở Việt Nam, theo số liệu thống kê năm 1999 của Uỷ ban dân số gia
đình và trẻ em Việt Nam thì hiện nay nam giới kết hôn lần đầu ở tuổi 25,5
tuổi; trong khi đó ở nữ giới là 24 tuổi [19]. Những nghiên cứu cũng cho thấy
tuổi kết hôn có ảnh hưởng đến hạnh phúc vợ chồng trẻ theo quan niệm của
người thành niên:
- Với nữ:
+ 18,7 % kết hôn ở tuổi 17 - 18 cho rằng có hạnh phúc.
+ 58,1 % kết hôn ở tuổi 28 - 30 cho rằng có hạnh phúc.
- Với nam:
+ 28,8 % kết hôn ở tuổi 18 - 21 cho rằng có hạnh phúc.
+ 60,9 % kết hôn ở tuổi 28 cho rằng có hạnh phúc.
Kết quả nghiên cứu trên cho thấy, nam nữ thanh niên không nên kết
hôn quá sớm là có cơ sở.
Nhu cầu của sự gắn kết đối với tình yêu nam nữ có vị trí đặc biệt quan
trọng ở người thành niên nên vấn đề tâm lý tiềm tàng của giai đoạn này là sự
cô độc, thất vọng, thậm chí tuyệt vọng do những thất bại trong tình yêu và sự
gắn bó bởi nhiều lý do khác nhau. Điều này cũng trở thành một nốt trầm trong
đời sống tâm lý và hoạt động của một số người thành niên chưa thích nghi
hoặc thiếu bản lĩnh sống, kỹ năng sống trong thực tế.
Ở đây, sự lập thân của người trưởng thành được xem như một biểu
hiện tâm lý đặc trưng hết sức độc đáo. Điển hình trong sự lập thân của tuổi
này là sự lựa chọn bạn đời và kết hôn, thiết lập, xây dựng và củng cố các mối
quan hệ trong gia đình. Bên cạnh đó là sự xác lập các mối quan hệ xã hội và
khẳng định vị trí vai trò cá nhân, khẳng định "cái tôi" (với tư cách một nhân
cách, một thành viên gia đình, một người lao động) một cách đích thực.
Phân tích về sự lập thân của người thành niên, có thể nhận thấy những
biểu hiện cơ bản:
- Tình yêu nam nữ đích thực xuất hiện.
- Tình yêu nam nữ thơ mộngl lãng mạn và hướng tới hôn nhân.
- Đại đa số đã kết hôn trong độ tuổi này.
- Tình yêu gắn liền với hạnh phúc lứa đôi.
Tuy vậy, cũng trong quá trình lập thân ở người thành niên, cần quan
tâm đến những vấn đề cơ bản. Điều này đòi hỏi người thành niên cần chuẩn
bị tâm lý bao gồm những kiến thức, kỹ năng có liên quan:
- Lần quan hệ đầu tiên.
- Thử nghiệm tiền hôn nhân.
- Những khó khăn trong quan hệ gần gũi vợ chồng.
- Sự ra đời của đứa con đầu lòng.
- Gia đình đơn thân: giáo dục con cái bằng tình thương, trách nhiệm và
cách thức hiệu quả.
Người thành niên sau khi lập gia đình sẽ đón nhận những thay đổi mới.
Cột mốc này thực sự quan trọng đối với khá nhiều người vì nó chi phối lối
sống, nghề nghiệp và cả những dự định tương lai. Vì thế, không ít người
thanh niên quyết định lập gia đình để bảo đảm sự ổn định về công việc và sự
nghiệp. Tuy nhiên, không nhất thiết phải cần sự ổn định “cưỡng chế” khi
quyết định lập gia đình không xuất phát từ tiếng nói của trái tim. Một số người
thành niên ngày nay cũng bị ám ảnh bởi suy nghĩ này nên sự lựa chọn cũng
có phần vội vã. Nói khác đi, không ít người thành niên nhìn về vấn đề hôn
nhân chưa thực sự mềm mại và toàn diện nên đây có thể là một rào cản
không dễ vượt qua. Sau cột mốc kết hôn, một diễn tiến tâm lý phức tạp khác
bắt đầu xuất hiện đó là sự thích nghi với đời sống vợ chồng. Đời sống tâm lý
của những cặp vợ chồng trẻ sau ngày cưới ở độ tuổi này cũng có nhiều vấn
đề. Theo Jacques Gauthier, 1999 (Pháp) thì có hai giai đoạn của đời sống vợ
chồng trẻ:
- Giai đoạn 1: Sự hòa tan (Fusion)
Ở giai đoạn này, những tháng đầu của tuần trăng mật kéo dài vô tận,
đó là thời của bản tình ca. Họ tập sống hai người với nhau, “định nghĩa" vai
vế của nhau, chia sẻ những nhiệm vụ, đáp ứng nhu cầu...
Thế nhưng sự ảo tưởng biến mất dần khi các tính khí và tính tình xung
đột. Thực tế không ăn khớp với giấc mơ ban đầu khi kết hôn.
- Giai đoạn 2: Sự khó xử (Confusion)
Ở giai đoạn này xuất hiện hiện tượng tâm lý "mưu toan ra khỏi tình
trạng hòa tan". Những diễn tiến cuộc sống dẫn đến những biểu hiện:
+ Khủng hoảng về tính khác biệt mà cụ thể là cảm giác không được tôn
trọng, không được chấp nhận những khác biệt. Họ có thể trách móc nhau:
“anh ấy không có cùng cách dạy con như tôi", “Cô ấy không có cùng thị hiếu
như tôi"...
+ Thách thức lớn cần vượt qua rất khó xử là vẫn có sự thân mật nhưng
vẫn tôn trọng các khác biệt, trở thành cha mẹ mà vẫn là vợ chồng. Sự khó xử
này chỉ được giải quyết khi cả hai ý thức được giá trị mới trong cuộc sống,
tuân thủ những vị trí - vai trò mình đảm nhiệm và yêu thương hết lòng.
Những nghiên cứu cũng cho thấy “tuổi thọ" và hạnh phúc vợ chồng phụ
thuộc nhiều vào tình yêu, văn hóa vợ chồng, tinh thần trách nhiệm, đạo đức,
nhân phẩm của chính họ trong quá trình sống và hoạt động cụ thể. Đây chính
là trách nhiệm cho cả hai người theo khái niệm của một "cặp đôi". Có sáu đặc
thù được nêu ra trong cuốn "Bí quyết của những gia đình bền vững" của De
Frain và Stinnett, sau khi nghiên cứu 6000 cặp vợ chồng:
+ Hết lòng vì nhau (kể cả thời gian dành cho con cái).
+ Thời gian có ý nghĩa bên nhau.
+ Bày tỏ sự quý trọng.
+ Tinh thần luôn sảng khoái, lành mạnh.
+ Khả năng đương đầu với những khó khăn phía trước và chống chọi
lại một cách tích cực.
+ Trao đổi với nhau chân thành, cởi mở.
Tóm lại, sự lập thân ở người thành niên thể hiện rõ ở sự gắn kết thành
những gia đình bền vững. Việc chung sống, nuôi dạy con cái thành con khỏe,
con ngoan, trò giỏi trở thành mục tiêu phấn đấu, trách nhiệm, nghĩa vụ và
niềm hạnh phúc to lớn của những người làm cha, làm mẹ. Điều này chi phối
không ít đến cuộc sống, tâm lực của người làm cha, làm mẹ ở giai đoạn này
bên cạnh sự phấn đấu cho chính bản thân mình.
2.4.2.3. Sự lập nghiệp của người thành niên
Đối với giai đoạn đầu trưởng thành (early adulthood) là giai đoạn cho
những quyết định có liên quan tới cả cuộc đời. Một trong những điều trọng
yếu là chọn lựa một con đường nghề nghiệp. Sự chọn lựa của người trưởng
thành trẻ vượt xa khỏi các quyết định liên quan đến chuyện tiền bạc kiếm
được. Nó liên quan tới địa vị của họ, tới cảm nhận của họ về những giá trị tự
thân và những đóng góp của họ sẽ thực hiện trong cuộc đời. Như vậy, những
quyết định về công việc là điểm nòng cốt nhất trong nhân cách của người
trưởng thành trẻ (young adults).
Theo Goerge Vaillant, giai đoạn đầu thời kỳ trưởng thành được đánh
dấu bởi một giai đoạn phát triển được gọi là giai đoạn khẳng định nghề
nghiệp (career consolidafion). Trong suốt giai đoạn khẳng định nghề nghiệp,
bắt đầu từ 20 - 40 tuổi, những người trưởng thành trẻ tập trung vào nghề
nghiệp của họ.
Ở đầu tuổi 20, người nam có khuynh hướng chịu ảnh hưởng bởi uy
quyền của cha mẹ. Nhưng ở vào cuối độ tuổi 20 đầu 30, họ bắt đầu hành
động với mức độ tự lập cao hơn. Họ lập gia đình, bắt đầu có con và nuôi dạy
chúng. Cũng chính khi ấy, họ bắt đầu tập trung vào những công việc của họ -
giai đoạn khẳng định nghề nghiệp.
Dù vậy, thật khó để nói về tầm quan trọng đích thực của công việc
trong đời sống của người thành niên nhưng chắc chắn rằng công việc trở
thành một phần quan trọng trong nhân cách của cả người nam và người nữ.
Chính điều này làm cho sự lập nghiệp của con người trở thành một nhiệm vụ
và một khát khao cuốn lấy cũng như chi phối tâm lực của con người một cách
đặc biệt. Sự xung đột nội tại dễ dàng diễn ra trong quá trình lập nghiệp,
những khủng hoảng tạm cũng không ít lần xuất hiện. Đó là chưa kể những
xưng đột giữa quá trình lập thân và lập nghiệp như đã phân tích trước đó.
Phân tích về sự lập nghiệp của người trưởng thành, không thể không
đề cập đến những vấn đề về chọn nghề một cách “tinh thần" trên bình diện
con người. Một số người biết được rằng họ muốn trở thành một bác sĩ hay
công việc kinh doanh ngay từ thời ấu thơ và họ không ngừng theo đuổi để đạt
đến mục tiêu của họ. Đối với những người khác, vấn đề chọn lựa nghề rất có
thể chỉ là một vấn đề cơ may, có thể thay đổi trước những cơ hội mà họ cho
rằng thực sự đáng quý với mình.
Cũng có thể đề cập đến kết quả nghiên cứu về giới tính trong sự lựa
chọn nghề nghiệp cho thấy trước đây, nhiều phụ nữ bước vào giai đoạn đầu
tuổi trưởng thành được cho rằng việc mô tả nghề nghiệp này gắn với những
công việc mà họ đặc biệt yêu thích và đam mê: nghề nội trợ. Còn đối với
những phụ nữ đi tìm những công việc bên ngoài chỉ nên chọn lựa hoặc thực
hiện một số nghề nào đó. Đây là một quan điểm khá cổ thể hiện rõ sự "mặc
định giới tính” trong việc chọn nghề cũng như ít nhiều đã hiện rất rõ quan
điểm bất bình đẳng giới. Đơn cử như danh sách nghề với từng giới được mô
tả cụ thể ở nhiều quốc gia vào những năm 1960 đến tận những năm 1990.
Danh sách nghề với nam giới bao gồm những nghề như: cảnh sát viên, người
làm các công trình xây dựng, luật sư. Danh sách nghề đối với nữ gồm: thư ký,
giáo viên, nhân viên quầy thu ngân, thủ thư. Tại Việt Nam, điều này không thể
hiện rõ nhưng cũng tồn tại "mặc định" trong suy nghĩ của không ít người.
Lý luận về nghề nghiệp và giới tính phản ánh cái nhìn truyền thống của
xã hội về những nghề nghiệp được cho thích hợp nhất theo giới tính. Theo
truyền thống, người nữ thích hợp với những nghề liên quan tới tính cách mềm
mại. Trái lại, người nam được coi là thích hợp nhất cho những nghề đòi hỏi
óc tổ chức, khả năng sắp xếp. Tuy nhiên, trong thực tế thì khả năng tiềm tàng
của mỗi con người và tố chất cùng với kinh nghiệm công việc và sự cống hiến
mới quyết định mức lương, vị trí công việc cũng như những triển vọng đích
thực của từng cá nhân. Hơn nữa, ngay trong từng giới thì vẫn có những
trường hợp cần được nhìn nhận riêng với khả năng thực và khát khao của
chính họ với công việc hay nghề nghiệp.
Ngày nay ít có sự phân biệt về giới tính hơn so với cách đây vài thập
niên. Chẳng hạn, việc khẳng định hay tuyên bố một nghề đặc trưng cho người
nam hay nữ là một điều phi logic. Tuy nhiên, vẫn còn những thành kiến mang
tính truyền thống trong việc xác định vai trò, trách nhiệm nghề nghiệp dựa
theo giới tính. Một số người nữ ít có thể tìm được một công việc mà theo
truyền thống đó là công việc dành cho nam giới, chẳng hạn như nghề kỹ sư,
lập trình viên. Theo tài liệu đã thu thập được cho thấy, có 97% những ngành
nghề, việc kiếm tiền trong một tuần của người nữ ít hơn nam. Thực tế cũng
cho thấy người nữ trong một số ngành nghề thường kiếm được ít tiền hơn so
với người nam cùng làm một công việc. Ngày nay, cơ hội làm việc trong các
lĩnh vực mới của phụ nữ cũng nhiều hơn đáng kể so với trước. Phụ nữ ngày
nay có thể làm luật sư, nhân viên bảo hiểm, tài xế xe buýt. Lẽ đương nhiên,
với một số công việc có tính đặc trưng thì vẫn còn có những khác biệt đáng
kể về giới tính. Điều này cũng cần được nhìn nhận một cách toàn diện, sâu
sắc, nhân văn nhưng khoa học. Người phụ nữ trong những vai trò nghề
nghiệp có vị trí cao và được trọng vọng có thể sẽ gặp phải cái có thể gọi là
“trần nhà kiếng" (glass ceiling). Đây là một “hàng rào" không thể thấy rõ bằng
hình dạng được trong một tổ chức, do việc đối xử phân biệt, làm cản trở các
thành viên thăng tiến đạt tới một vị trí nào đó cao hơn. Nó có thể vận hành
phảng phất và những người chịu trách nhiệm về việc tìm giữ trần nhà kiếng
tại một nơi nào đó không ý thức được hành động của họ đã kéo dài sự “hạn
chế” những phấn đấu đích thực của phụ nữ.
Những nghiên cứu chuyên biệt về lứa tuổi trong mối quan hệ với sự
thành công trong nghề nghiệp cho thấy:
- Từ 25 đến 40 tuổi là giai đoạn con người đã có nghề và đang đó vào
giai đoạn hành nghề một cách tích cực.
- Đặc biệt từ sau 30 tuổi trở đi, con người bắt đầu có tay nghề khá cao.
Sự say mê sáng tạo trong nghề nghiệp bắt đầu được hình thành và phát triển
ở mức độ bến vững, sâu sắc làm cho nghề nghiệp rất dễ thăng hoa.
Đây là những cơ sở quan trọng cần được nhận thức và ứng dụng trong
việc bố trí lao động, quản trị nguồn nhân lực trong tổ chức. Đó cũng là một
tiêu chí để đề bạt nhằm nâng cao chất lượng làm việc nói chung và hoạt động
của nhà quản lý nói riêng.
Muốn thành đạt trong nghề nghiệp phải có sự nỗ lực phấn đấu tích cực
của cá nhân, bằng tài năng, trí tuệ, tâm huyết của mình. Những tổng kết về
sự thành công của người thành niên trong nghề nghiệp cần dựa trên những
gợi mở liên quan đến sáu chữ T cần có cho sự thành công nghề nghiệp.
- T1 (Tin): Thông tin là điều kiện đầu tiên của sự thành đạt, ai nắm
được thông tin nhanh chóng, biết quản lý và điều khiển nó thì sẽ có được
những quyết định đúng đắn và làm chủ.
- T2 (Tài): Tài thể hiện ở các chỉ số:
+ Có tư duy độc lập sáng tạo.
+ Có năng lực đưa ra những quyết định nhanh chóng, kịp thời, chính
xác.
+ Có năng lực vận dụng những lý luận vào thực tiễn, có phương pháp
hành động thục tiễn có hiệu quả.
+ Có khả năng thích nghi mềm dẻo với những thay đổi của thời đại và
cuộc sống.
+ Có kế hoạch, xác định được cái ưu tiên trong từng thời kỳ và giai
đoạn.
+ Có phẩm chất quyết đoán, dám mạo hiểm thực hiện những quyết
định táo bạo sau khi đã biết tính toán kỹ càng nguyên nhân và kết quả của nó.
- T3 (Tâm): Đó là đạo đức, lương tâm và tính nhân bản trong sự
nghiệp. Chữ tâm thể hiện sự cao thượng, tính hướng thiện, xu hướng phấn
đấu và cạnh tranh lành mạnh.
- T4 (Tín): Đó là uy tín của con người. Uy tín là phẩm chất, năng lực và
giá trị của cá nhân được thừa nhận. Muốn thành đạt trong một hoạt động,
nghề nghiệp thì phải có uy tín chuyên về lĩnh vực nghề nghiệp ấy.
- T5 (Tiền): Tiền được xem là cơ sở ban đầu về vốn. Vốn là điều kiện
để làm nên sự nghiệp lớn nhưng nó hoàn toàn phụ thuộc vào người sử dụng
nó.
- T6 (Tình): Người có tình, quảng giao dễ có cơ hội thành đạt. Tình cảm
tốt với mọi người tạo động lực cho sự nghiêm giúp có những kinh nghiệm,
phương pháp, những quyết định đúng đắn học hỏi từ bạn bè.
Ngoài ra, những nghiên cứu chuyên biệt về tâm lý người trưởng thành
cho thấy khi con người bước vào tuổi 35 - 40 nhưng vẫn chưa có nghề
nghiệp ổn định, chưa được lao động bằng chính nghề của mình thì sự hẫng
hụt về mặt tâm lý xã hội là rất lớn. Điều này sẽ làm cho họ dễ mất phương
hướng và buông trôi thậm chí dễ dẫn đến những tệ nạn xã hội (ma túy, mại
dâm). Nạn thất nghiệp hiện nay ở tuổi người thành niên cũng là vấn đề của
toàn cầu cần được quan tâm và có những quyết sách kịp thời để tránh những
ảnh hưởng liên đới mang tính tiêu cực đến cộng đồng và độ tuổi.
Tóm lại, quá trình lập nghiệp của người trưởng thành trẻ có những biểu
hiện sau:
- Có sự phát triển tình cảm nghề nghiệp, hết mình tiến thân, tạo dựng
những thành quả lao động.
- Có sự am hiểu sâu sắc, thành thạo ngành nghề đã chọn.
- Luôn tự khẳng định mình trong nghề nghiệp từ đó dẫn đến sự say mê
làm việc và sáng tạo.
Sau 35 tuổi mà chưa có nghề nghiệp ổn định thì dễ dẫn đến những
“khủng hoảng vị trí xã hội”
Câu hỏi thảo luận
1. Đâu là những tiêu chuẩn để xác định một con người đã trưởng
thành?
2. Đâu là những điều kiện xã hội quan trọng ảnh hưởng đến sự phát
triển tâm lý tuổi thanh niên sinh viên?
3. Những điểm nào về tư duy của thanh niên sinh viên mà người giảng
viên cần lưu ý khi giảng dạy.
4. Đâu là những giá trị mà sinh viên thường lựa chọn trong định hướng
lối sống của mình?
5. Đâu là những mong mỏi lớn nhất trong xu hướng của người trưởng
thành?
Bài tập thực hành
Tìm hiểu nhu cầu của sinh viên về môi trường học tập tích cực ở bậc
Đại học.
Khách thể: Chọn học viên trong lớp mà anh chị đang học tập hoặc
những sinh viên ở các cơ sở giáo dục Cao đẳng - Đại học.
Yêu cầu: Nêu những mong đợi có liên quan đến môi trường học tập mà
sinh viên đòi hỏi.
Cách thực hiện:
- Xây dựng phiếu câu hỏi lấy ý kiến đánh giá của sinh viên. Có thể sử
dụng thêm các phương pháp điều tra khác như phương pháp quan sát, đàm
thoại, sưu tầm tài liệu....
- Tiến hành xin ý kiến phản biện của đồng nghiệp hoặc học viên cùng
học về phiếu hỏi.
- Thu thập và xử lý số liệu để viết báo cáo.
- Rút ra các kiến nghị và đề xuất có liên quan đến nội dung nghiên cứu.
Câu hỏi ôn tập
1. Trình bày tóm tắt những đặc điểm tâm lý cơ bản của thanh niên sinh
viên.
2. Tại sao nói động cơ học tập của thanh niên sinh viên rất đa dạng và
phức tạp?
3. Trình bày tóm tắt một số đặc điểm tâm lý của người thành niên.
4. Tại sao nói quá trình lập thân và lập nghiệp của người thành niên là
vấn đề trọng yếu trong tâm lý của độ tuổi này?
5. Phân tích cột mốc lập gia đình đối với đời sống tâm lý người thành
niên.
Chương 3. CƠ SỞ TÂM LÝ CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC ĐẠI HỌC
3.1. Bản chất của hoạt động dạy học ở Cao đẳng - Đại học cho sinh viênKhi xem xét bản chất của hoạt động dạy học, cần dựa trên hai mối
quan hệ mang tính quy luật của hoạt động dạy học, đó là quan hệ giữa hoạt
động nhận thức của loài người với hoạt động dạy học và quan hệ giữa dạy và
học, giữa giáo viên và người học trong hoạt động dạy học. Hoạt động dạy do
giảng viên đảm nhận và hoạt động học do sinh viên thực hiện không tồn tại
độc lập mà có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó giảng viên đóng vai
trò chủ đạo, còn sinh viên giữ vai trò chủ động và tích cực. Như vậy, xem xét
bản chất của hoạt động dạy học phải xem xét cả bản chất của hoạt động dạy
và hoạt động học trong mối quan hệ nói trên.
3.1.1. Bản chất của hoạt động dạy
Để tồn tại và phát triển thì xã hội cũng phải truyền lại cho thế hệ sau
những kinh nghiệm đã được thế hệ trước sáng tạo và tích lũy được tức là
phải dạy. Trước đây, việc dạy chỉ diễn ra theo hình thức đầy tri thức kinh
nghiệm. Hay nói ngắn gọn đó là kiểu dạy trao tay (cầm tay chỉ việc): người
dạy trực tiếp truyền lại kinh nghiệm cho người học thông qua hoạt động cụ
thể nào đó. Chẳng hạn, người nông dân dạy con mình cách bón phân, trồng
lúa... thông qua hoạt động lao động trên ruộng đồng. Với việc truyền thụ kinh
nghiệm như thế, tuy việc tiếp thu dễ dàng, sâu sắc nhưng đó chỉ là những
kinh nghiệm mà người dạy thu được qua trải nghiệm chứ chưa được thực
nghiệm và khái quát khoa học nên chưa trở thành những tri thức có tính phổ
biến. Bởi vì xã hội không chỉ tồn tại mà còn phải phát triển. Do đó, con người
phải chinh phục tự nhiên và chinh phục chính bản thân mình. Tù đó, xuất hiện
hoạt động nghiên cứu khoa học mà sản phẩm là các tri thức khoa học, được
hình thành bởi hoạt động nghiên cứu, thực nghiệm và khái quát khoa học.
Đây là những tri thức có bản chất khác với những kinh nghiệm thu được qua
trải nghiệm cá nhân. Đồng thời, chúng có tính phổ biến và khái quát cao. Vì
vậy, việc truyền thụ những kinh nghiệm này không thể bằng phương pháp
trao tay mà phải thực hiện theo quy trình có tổ chức khoa học, được tiến hành
bởi hoạt động chuyên biệt: hoạt động dạy - hoạt động có mục đích, nội dung,
phương pháp và phương tiện xác định. Dạy học được hiểu là một hình thức
đặc biệt của giáo dục (nghĩa rộng), xem như là một trường hợp riêng của nó
(của giáo dục). Dạy học là con đường đặc biệt quan trọng trong mối quan hệ
biện chứng và phối hợp với các con đường, các hoạt động khác trong quá
trình giáo dục để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ giáo dục đặt ra. Khi tiếp
cận bản chất của dạy và hoạt động dạy không thể không dựa trên những khái
niệm của nhiều nhà khoa học hay nhiều tác giả khi nghiên cứu về Tâm lý học
Sư phạm hay Tâm lý học dạy học. Có thể đề cập đến một số quan niệm sau
về dạy và hoạt động dạy.
Dạy học là một quá trình truyền thụ kiến thức, kinh nghiệm xã hội và
nghề nghiệp cho người học nhằm hình thành và phát triển nhân cách nói
chung và nhân cách nghề nghiệp nói riêng. Dạy học bao hàm trong nó sự học
và sự dạy gắn bó với nhau, trong đó sự dạy không chỉ là sự giảng dạy mà còn
là sự tổ chức, chỉ đạo và điều khiển sự học.
Dạy học là một mặt của quá trình dạy và học do người giảng viên thực
hiện theo nội dung, chương trình đào tạo đã định nhằm giúp người học đạt
được các mục tiêu học tập theo từng bài học hoặc toàn khóa đào tạo. Hoạt
động dạy học không chỉ hướng đến yêu cầu truyền thụ kiến thức, hình thành
kỹ năng, kỹ xảo và thái độ nghề nghiệp đúng đắn ở người học mà còn góp
phần phát triển tính tích cực là tổ chức các hoạt động học tập của học viên.
Ở một góc độ khác, dạy học được xác định như một nỗ lực để giúp một
con người hay một nhóm người có được hoặc thay đổi một kỹ năng, một kiến
thức và các ý tưởng. Hoạt động dạy nói theo cách khác là tạo ra hay gây ảnh
hưởng để dẫn đến một sự thay đổi về một hành vi nào đó như mong muốn.
Xét dưới góc độ mục đích của dạy học thì dạy học được định nghĩa là
một hoạt động đặc thù nhằm tác động đến người học để giúp người học mở
rộng những kiến thức cũng như phát triển tư duy.
Mặt khác, cũng trên bình diện của quan niệm này thì hoạt động dạy
được xem là hoạt động đặc biệt của con người mang một ý nghĩa hết sức
nhân văn nhằm cung cấp cho người học những cơ hội để người học có thể
phát triển cả chiều sâu lẫn chiều rộng của kiến thức, sự hiểu biết cũng như
niềm tin vào các giá trị.
Dưới góc độ của hoạt động tích cực thì dạy cũng phải là hoạt động tích
cực. Hoạt động dạy tích cực đòi hỏi phải có một cái nhìn hệ thống và toàn
diện về tính tích cực của hoạt động, trong đó nhấn mạnh đến vị trí trung tâm
của người học, việc dạy phải hướng đến người học và hướng đến sự thay đổi
của người học, hướng đến việc người học tự khám phá và sự tích lũy tri thức,
hoàn thiện về kỹ năng của người học.
Như vậy, có thể nhìn nhận rằng có khá nhiều cơ sở tiếp cận và nhìn
nhận về hoạt động dạy. Có thể hiểu một cách khái quát nhất về hoạt động dạy
như một trong những con đường hay cách thức giúp sinh viên hoàn thiện
chính mình thông qua vai trò rất đặc biệt của người giảng viên. Từ những
quan niệm khác nhau về hoạt động dạy, có thể hiểu bản chất của hoạt động
dạy là hoạt động tổ chức để sinh viên khám phá tri thức, nghiên cứu khoa học
và hình thành kỹ năng, kỹ xảo tương ứng cũng như dẫn đến sự phát triển và
hoàn thiện nhân cách. Theo quan niệm này, có một số vấn đề về bản chất
của hoạt động dạy ở Cao đẳng - Đại học cần tập trung nhấn mạnh:
Thứ nhất, hoạt động dạy thực chất thể hiện vai trò tổ chức và định
hướng cho hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học ở sinh viên. Thực tế
cho thấy có thể nói chỉ có thuật ngữ tổ chức mới nói thật rõ về vai trò đúng
nghĩa nhất và khái quát nhất của hoạt động dạy cũng như những nhiệm vụ và
yêu cầu đối với người dạy trong quá trình thực thi hoạt động dạy. Tổ chức,
hiểu theo nghĩa đơn giản là chuẩn bị và sắp xếp những điều kiện có liên quan
để người thực hiện sẽ tiến hành nhằm đạt những kết quả cao nhất. Ở đây,
trên bình diện của hoạt động dạy học, tổ chức của người giảng viên sẽ thể
hiện ở những yêu cầu sau đây:
Một là, xác định mình không phải là nhân vật trung tâm hay người thực
hiện chủ chốt những hoạt động diễn ra trong khi dạy học.
Hai là, tất cả những hoạt động diễn ra trên lớp học, giảng viên sẽ đóng
vai trò là người thiết kế, người bày trí hay người chủ trò mà không phải là
người thực hiện một cách chủ động.
Ba là, người giảng viên khi thực hiện vai trò tổ chức nghĩa là sẽ
nhường vai chính và các hoạt động cơ bản nhất cho sinh viên sao cho học
thực hiện một cách chủ động và khám phá tối đa để đạt được những kết quả
cần thiết như mong đợi.
Bốn là, người giảng viên đóng vai trò tổ chức nghĩa là hoạt động chuẩn
bị, sắp xếp các điều kiện học, đều được thực thi trên một chuỗi trục tương
tác: thầy - trò, hoạt động dạy - hoạt động học mà trong đó sinh viên sẽ là
người liên tục "công phá" các thách thức hay các bí ẩn cần khám phá để sinh
viên khám phá và phát triển.
Năm là, tổ chức theo nghĩa tích cực của người dạy nghĩa là phát huy tối
đa sự “bày trò" hay sự "sắp xếp" theo hướng mở của chính mình để sinh viên
sẽ tham gia một cách tìm cực nhất nhằm đạt được những kết quả như dự
kiến trên bình diện tổng thể của nhà tổ chức.
Sáu là tổ chức ở người giảng viên còn thể hiện vai trò của một trọng tài,
của một người động viên, của người cố vấn, của nhà tham vấn chuyên
nghiệp hay thậm chí của một thành viên trong nhóm lớp. Tất cả những vai trò
này sẽ được lựa chọn và được đảm bảo sao cho thật sự thích nghi. Điều này
sẽ tạo điều kiện kiện tốt nhất để mỗi một sinh viên sẽ cảm nhận được sự tự
chủ của mình, phát huy tối đa vai trò của mình. Ngược lại, mỗi giảng viên
cũng sẽ ý thức được vai trò của mình thật sự thích ứng trong từng trường
hợp cụ thể trên cơ sở đó sẽ tạo điều kiện để sinh viên phát huy hết nội lực
của chính mình nhằm tích luỹ tri thức và hình thành kỹ năng một cách hiệu
quả nhất.
Bảy là, giảng viên cùng với vai trò tổ chức sẽ đảm nhận thêm vai trò
của người giám sát. Trong nhiều trường hợp khác nhau, kịch bản được giao
hẳn cho nhân vật thính - sinh viên nhưng nhà tổ chức mà cụ thể là giảng viên
sẽ giám sát để hỗ trợ khi cần thiết hay thậm chí là giám sát quá trình thực
hiện cũng như tuân thủ những yêu cầu cơ bản để có những tác động kịp thời,
kịp lúc.
Giảng viên ở bậc Cao đẳng - Đại học ngoài nhiệm vụ tổ chức thì vai trò
định hướng của họ đối với việc khám phá và lĩnh hội tri thức mới, định hướng
để sinh viên tự đặt ra vấn để và giải quyết vấn đề theo phương pháp nghiên
cứu khoa học là một trách nhiệm không thể tách rời với công tác giảng dạy.
Thực tế đã chỉ ra rằng niềm đam mê, yêu thích công tác nghiên cứu khoa học
ở sinh viên phần lớn được nuôi dưỡng bởi lửa nhiệt huyết và lòng nhiệt thành
từ thầy cô. Giảng viên không chỉ đơn thuần giúp sinh viên hiểu được giá trị
của việc nghiên cứu khoa học, khơi dậy niềm đam mê nghiên cứu ở sinh viên
bằng những tri thức, bằng những kết quả nghiên cứu của bản thân được lồng
ghép vào bài học, mà thực tiễn sống động khám phá tri thức của các nhà
khoa học mà trên hết là khơi gợi cho sinh viên những ý tưởng để họ có thể
triển khai thành những đề tài nghiên cứu phù hợp với năng lực của bản thân.
Vai trò định hướng sinh viên trong việc tìm kiếm và khai phá những chân lý
mới làm cho vai trò chủ đạo của người dạy trong việc tổ chức hoạt động dạy
khác về chất do với giáo viên ở các cấp dưới. Nếu như ở trường Trung học,
tác dụng chủ đạo của người giáo viên là ở chỗ tổ chức, điều khiển người học
nắm chân lý phổ thông, cơ bản đã được phát hiện và bước đầu dần dần tiếp
xúc với hoạt động nghiên cứu ở trình độ thấp với hình thức giản đơn thì ở
trường đại học, tác dụng chủ đạo của giảng viên là giúp cho sinh viên hoàn
thành được hoạt động nhận thức có tính chất nghiên cứu, trong đó bao hàm
cả hoạt động thực sự nghiên cứu khoa học tìm ra chân lý mới đối với nhân
loại.
Tổ chức và định hướng cho hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học
ở sinh viên bao hàm cả việc hướng cho sinh viên biết cách học và hướng
dẫn, kích thích sinh viên tự học. Việc hướng dẫn sinh viên phương pháp tìm
tòi tri thức mà nhân loại đã phát hiện thực chất chính là quá trình hướng dẫn
người học những cách thức hay con đường chung của việc khám phá tri
thức. Sinh viên nếu có khả năng tự học sẽ giúp họ có những thanh công cụ
và các thao tác rất đặc biệt để tích lũy tri thức theo thời gian. Nhu cầu tích lũy
tri thức sẽ dần dần tăng lên nếu mỗi sinh viên hết mình và hết sức tự khám
phá những tri thức, tạo cơ hội để thể hiện chính mình. Từ đó, sinh viên sẽ
không hài lòng với kiểu thụ động nắm những tri thức hiện hữu do người dạy
mang đến mà dần dần thái độ tự học sẽ trở thành một yêu cầu quan trọng để
đảm bảo sự thích ứng trong cuộc sống cũng như thích ứng với tiến bộ xã
hội...
Thứ đến, cũng cần phân tích sự khám phá của sinh viên trong quan
niệm mới về bản chất của hoạt động dạy hiện nay. Có thể nói rằng theo yêu
cầu của hoạt động dạy hiện đại thì sinh viên không phải được "rót" tri thức
hay được giảng giải theo kiểu một chiều hoặc rập khuôn bằng sự hiểu biết
của giảng viên. Khám phá của sinh viên trong hoạt động dạy mà “người chủ”
của nó là giảng viên sẽ phải thực hiện yêu cầu tối quan trọng là thiết kế nó
thành những kịch bản đầy màu sắc, những bài toán vừa sức, những hoạt
động hấp dẫn để thách thức sự khám phá của người học sao cho đẩy người
học đến một trạng thái của sự nô nức tìm hiểu, thích thú khám phá và khát
khao tìm đáp án... Lúc bấy giờ sự khám phá của sinh viên sẽ giúp họ tìm ra
được những kết quả của tư duy mà đó chính là những sản phẩm mang đậm
chất tinh thần trong dạy và học... Những sản phẩm tìm được của sự khám
phá ấy chính là tri thức, kỹ năng và kỹ xảo tương ứng... Đó có thể được xem
là những giá trị đặc biệt trong hành động khám phá của sinh viên. Những sản
phẩm ấy, không là cái mới đối với người dạy mà thực sự là cái mới đối với
người học vì nó chính là những hiểu biết mới, những kỹ năng mới và những
kỹ xảo cao ở mức tương ứng sau một thời gian rèn luyện.
Có thể nhận thấy, thông qua hoạt động dạy và bằng sự khám phá của
sinh viên, điều dễ dàng nhận ra đó là sự hiểu biết của họ sẽ gia tăng. Song
song với việc mở mang những hiểu biết thì sinh viên sẽ hình thành những kỹ
năng tương ứng. Những kỹ năng này cũng không phải được truyền thụ hay
hướng dẫn bằng con đường cầm tay chỉ việc mà phải được thực hiện bằng
con đường khám phá. Sự trải nghiệm những tình huống, sự thực hiện những
thao tác, sự lặp lại của những hành động... dần dần sẽ hình thành những kỹ
năng mới để giúp cho sinh viên thực hiện một công việc hay một nhiệm vụ
nào đó nhằm đạt được kết quả cao. Những kỹ năng này sẽ được chính người
học khám phá bằng sự nỗ lực của chính mình và cũng chính trên cơ sở đó,
sinh viên sẽ tiếp tục khám phá ra những yêu cầu của từng kỹ năng và vận
dụng trong thực tế.
Bên cạnh đó, sinh viên còn không ngừng khám phá để hoàn thiện tiếp
những kỹ năng ấy của chính mình và tích cực một cách tối đa để chuyển
những kỹ năng ấy thành kỹ xảo tương ứng. Những kỹ xảo cũng chỉ được hình
thành khi chính người học khám phá ra được những bí quyết đặc trưng, tìm
ra được những đòi hỏi rất đặc thù, giải quyết được những hệ thống biện pháp
rèn luyện một cách hiệu quả... Việc làm này thể hiện sự mạnh mẽ của ý chí
và sự khát khao chinh phục của những người biết khám phá và thích khám
phá. Hoạt động dạy sẽ phải thực hiện được yêu cầu kích thích sinh viên khám
phá bằng cách khơi gợi những mong mỏi và thiết tha chinh phục của mình
thông qua việc phát huy cao độ tính tích cực nhận thức của chính mình.
Mục tiêu cuối cùng của hoạt động dạy là phát triển và hoàn thiện nhân
cách cho sinh viên, giúp họ có đầy đủ tay nghề, bản lĩnh và sự tự tin bước
vào hành trình sáng nghiệp của bản thân. Bởi vì việc nắm chắc những kiến
thức vẫn không đủ cho một nhân cách hoàn thiện mà đòi hỏi con người cần
phải có những giá trị sống và những kỹ năng sống tương ứng. Mặt khác,
những kỹ năng và kỹ xảo sẽ giúp cho sinh viên dễ dàng thực hiện được mục
tiêu hoàn thiện chính mình cũng như vững tin bước vào cuộc sống. Bên cạnh
đó, nếu chỉ có kiến thức hay tri thức mà con người không có những chuẩn
mực về đạo đức thì cũng không đủ để thực sự sống tốt. Chính vì vậy, việc
tham gia vào hoạt động dạy học của giáo viên thì sinh viên không chỉ khám
phá tri thức hay kỹ năng mà mục tiêu cuối cùng vẫn là hoàn thiện mình tốt
nhất.
Tóm lại, bản chất của hoạt động dạy của giảng viên là hoạt động tổ
chức để sinh viên khám phá tri thức, nghiên cứu khoa học và hình thành kỹ
năng, kỹ xảo tương ứng cũng như dẫn đến sự phát triển và hoàn thiện nhân
cách nhằm chuẩn bị cho nghề nghiệp ở tương lai
3.1.2. Bản chất của hoạt động học
Con người muốn tồn tại và phát triển cần phải có khả năng thích ứng
với sự thay đổi của môi trường sống. Do đó con người phải tiếp thu kinh
nghiệm và chuyển hóa những kinh nghiệm xã hội thành kinh nghiệm của riêng
mình. Từ ngàn xưa, con người đã có nhiều phương thức học khác nhau: học
ngẫu nhiên, học kết hợp, học tập. Tuy nhiên, không phải phương thức học
nào cũng mang lại hiệu quả. Đồng thời cũng thật nguy hiểm khi người học
học theo kiểu mò mẫm, tự tìm tòi mà không có sự hướng dẫn, không tổ chức,
không mục đích rõ ràng. Do đó, để việc học thu được kết quả tốt đẹp, có mục
đích rõ ràng thì việc học phải được triển khai bởi một hoạt động đặc thù: hoạt
động học. Đây là hoạt động đặc thù vì chỉ có ở người, nó nhằm thỏa mãn một
nhu cầu nhất định được kích thích bởi động cơ học và được thực hiện bởi
một hoạt động chuyên biệt: có nội dung, phương pháp, phương tiện riêng.
Bên cạnh đó, những tri thức người học thu được qua hoạt động học là những
tri thức khoa học đã được loài người thực nghiệm và khái quát hóa thành
những chân lý phổ biến. Ngày nay, xã hội càng hiện đại, khoa học càng phát
triển thì việc học tập của con người càng đóng vai trò quyết định trong sự
phát triển của cá nhân và xã hội. Cá nhân nào không học tập tức là đang tự
bước lùi, là tụt hậu. Học, theo nghĩa rộng nhất, được hiểu là quá trình cơ bản
của sự phát triển nhân cách trong hoạt động của con người, là sự lĩnh hội
những “sức mạnh bản chất người" đã được đối tượng hóa trong các sản
phẩm của hoạt động con người. Đó là hoạt động phản ánh những mặt nhất
định của hiện thực khách quan vào ý thức người học. Tuy nhiên, nó chủ yếu
hướng người học vào lĩnh hội những chân lý đã được loài người phát hiện
nhưng chúng lại là mới đối với họ.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng khi đề cập đến "sự học" mà chưa phải
là việc đi học hay hoạt động học thì nó tồn tại ở cả con người và con vật. Nó
được xem là phương thức để sinh vật hay con vật và cả con người có khả
năng thích ứng với những điều kiện xung quanh và môi trường sống thông
qua đó con người sẽ tồn tại, sinh sống và phát triển.
Thứ nữa, sự học ở con người và cả con vật được đặc trưng bởi hai dấu
hiệu cơ bản:
Một là, học là quá trình tương tác giữa cá thể và đối tượng. Nghĩa là ở
đây có sự tác động qua lại, tương ứng giữa các kích thích từ bên ngoài với
các phản ứng đáp lại của cơ thể. Đây cũng được xem là điều kiện cần của
việc học. Nếu chỉ có sự tác động của các yếu tố bên ngoài mà không có sự
phản ứng của cá thể thì sự học cũng không diễn ra và như vậy, sự tương tác
đích thực giữa cơ thể với môi trường là cơ sở cho sự học diễn ra.
Hai là, hệ quả của sự tương tác dẫn đến sự biến đổi bền vững về nhận
thức, thái độ hay hành vi của cá thể. Nói cách khác, sự tương tác này phải
tạo ra ở cá thể một kinh nghiệm mới hay là sự ôn luyện và củng cố nó nếu đã
có. Đây cũng là đặc điểm làm cho sự tương tác trong sự học mang một ý
nghĩa đặc biệt và khác với các sự tương tác giản đơn hay sự tương tác mang
tính tự nhiên và mang tính sinh lý thường thấy trong đời sống hàng ngày.
Trên cơ sở đó, hoạt động học được định nghĩa ban đầu như là quá
trình tương tác giữa cá thể với đối tượng, kết quả là dẫn đến sự biến đổi bền
vững về nhận thức, thái độ hay hành vi của cá thể đó [14, tr. 54].
Hoạt động học của sinh viên lại có những nét độc đáo so với hoạt động
học của người học trung học và hoạt động nhận thức của các nhà khoa học.
Cụ thể là trong hoạt động học tập, họ không chỉ đơn thuần tiếp thu cái mới đối
với bản thân mình rút ra từ kho tàng hiểu biết chung của nhân loại mà còn
tiếp thu một cách sáng tạo những kỹ năng cơ bản về nghề nghiệp tương lai.
Điều này, yêu cầu sinh viên luôn phải chủ động tìm tòi, khám phá và giải
quyết những vấn đề do chính bản thân mình đặt ra chứ không hoàn toàn phụ
thuộc vào sự “cầm cương bẻ lái" của người thầy. Hoạt động học của sinh viên
là một hoạt động nhận thức độc đáo mang tính chất nghiên cứu mà thông qua
đó sinh viên chủ yếu thay đổi chính bản thân mình và ngày càng có năng lực
hơn trong hoạt động tích cực nhận thức và cải biến hiện thực khách quan.
Xét về bản chất của hoạt động học theo quan điểm hiện đại là hoạt
động khám phá của người học nhằm lĩnh hội những tri thức, kỹ năng và kỹ
xảo [24]. Như vậy, xét theo nhiều quan điểm khác nhau, bản chất của hoạt
động học của sinh viên có thể được phân tích như sau:
Thứ nhất, hoạt động học là hoạt động nhận thức độc đáo mang tính
chất nghiên cứu. Trong quá trình học tập ở trường Đại học, mỗi sinh viên phải
tự mình chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng, phải nắm vững những cơ sở
của nghề nghiệp tương lai ở trình độ Cao đẳng hoặc Đại học và có tiềm năng
vươn lên thích ứng với những yêu cầu trước mắt và lâu dài do thực tiễn xã
hội và Cách mạng khoa học, công nghệ đặt ra. Để đạt được điều đó, khi tiến
hành hoạt động học tập ở Đại học, người sinh viên không thể chỉ có năng lực
nhận thức thông thường mà cần tiến hành hoạt động nhận thức mang tính
chất nghiên cứu trên cơ sở khả năng tư duy độc lập, sáng tạo phát triển ở
mức độ cao. Điều đó có nghĩa là dưới vai trò chủ đạo của thầy, sinh viên
không nắm một cách máy móc những chân lý có sẵn mà họ có khả năng tiếp
nhận những chân lý đó với óc phê phán, có thể khẳng định, phủ định, hoài
nghi khoa học, lật ngược vấn đề, đào sâu hoặc mở rộng... Như vậy, bên cạnh
nhiệm vụ nhận thức được cái mới đối với bản thân, sinh viên còn bắt đầu
thực sự tham gia tìm kiếm cái mới đối với nhân loại một cách vừa sức. Vì thế,
hoạt động nghiên cứu khoa học đi vào quá trình học tập ở Đại học và tồn tại
như là một bộ phận hữu cơ của quá trình đó. Hoạt động nghiên cứu khoa học
này giúp sinh viên từng bước tập vận dụng những tri thức khoa học, phương
pháp luận khoa học, những phương pháp nghiên cứu tự tu dưỡng, rèn luyện
những phẩm chất, tác phong của nhà nghiên cứu nhằm góp phần giải quyết
một cách khoa học những vấn đề do thực tiễn xã hội, thực tiễn cuộc sống,
thực tiễn nghề nghiệp đề ra.
Thứ hai, việc học tập của sinh viên thực chất là quá trình lĩnh hội những
tri thức, hình thành những kỹ năng và kỹ xảo đáp ứng với nghề nghiệp và
phát triển bản thân trong tương lai. Sinh viên trong hoạt động dạy học, họ
phải hoàn thành nhiệm vụ chủ yếu là tiếp thu một cách sáng tạo, có phê phán
ở trình độ cao những hiểu biết và những kỹ năng cơ bản về nghề nghiệp
tương lai. Nói một cách khác, họ phải phấn đấu nắm được cơ sở của nghề
nghiệp mà họ cần đảm nhiệm sau khi tốt nghiệp đại học với tư cách là người
cán bộ khoa học, kỹ thuật, người cán bộ quản lý, nghiệp vụ có trình độ cao.
Những tri thức mà họ tích lũy là hệ thống những tri thức cơ bản, cơ sở của
chuyên ngành, tri thức chuyên ngành và hệ thông những kỹ năng, kỹ xảo
tương ứng về một ngành khoa học, kỹ thuật, văn hóa nhất định. Thực chất
của quá trình tích lũy ấy chính là quá trình lĩnh hội và tiến dần đến sự tự lĩnh
hội. Khi tham gia vào từng hoạt động, khám phá từng nút thắt trong bài học,
sinh viên sẽ nắm vững những kinh nghiệm ẩn chứa trong từng hoạt động dạy
học. Việc thực hiện từng hoạt động như quan sát thao tác, nhìn những hình
mẫu và trải nghiệm bằng những trò chơi hay những hoạt động thi đua trong
từng tình huống trong dãy hoạt động tổ chức của giảng viên bằng hoạt động
dạy sẽ góp phần hình thành những kỹ năng cho sinh viên. Những kỹ năng
ban đầu sẽ được diễn ra dưới dạng nắm vững các thao tác và sau đó khi mô
hình thao tác đã được hoạt hóa trong suy nghĩ hay nhận thức của sinh viên
thì kỹ năng chính thức được hình thành. Khi kỹ năng hình thành đến một trình
độ mà sinh viên không cần phải huy động ý thức để kiểm tra các thao tác hay
đạt đến trình độ tự động hóa thì các kỹ xảo tương ứng được hình thành. Điều
này sẽ tạo điều kiện cho sinh viên đạt đến một mức mới trong việc tiến hành
các thao tác. Với hiệu quả cao, với ít lỗi mắc phải và với sự nhẹ nhàng của
vận động và cả trí tuệ, sinh viên đã có sự thay đổi ở hoạt động thực hành khi
những kỹ xảo đã thực sự hiện diện.
Tóm lại, bản chất của hoạt động học của sinh viên là hoạt động nhận
thức độc đáo mang tính chất nghiên cứu. Hoạt động nhận thức mang tính
chất nghiên cứu này có thể diễn ra ở nhiều mức độ khác nhau nhưng điều cơ
bản nhất là người học sẽ nhận ra được sự hào hứng khi được tìm hiểu, giải
quyết và nghiên cứu vấn đề được tổ chức thông qua vai trò định hướng của
giảng viên. Kết quả mang tính độc đáo nhất trong hoạt động học này chính là
tri thức kỹ năng, kỹ xảo để hướng đến sinh viên nhằm tạo điều kiện cho
người học phát triển và hoàn thiện chính mình.
Nói khác đi, hoạt động học của sinh viên là hoạt động khám phá tri thức
khoa học mang tính hệ thống, lĩnh hội một cách khái quát các kỹ năng, kỹ xảo
và bước đầu nghiên cứu khoa học để phát triển bản thân trở thành lực lượng
lao động trí thức.
3.1.3. Mối quan hệ giữa hoạt động dạy và học
Có thể nói giữa hoạt động dạy và hoạt động học có mối quan hệ chặt
chẽ và mật thiết với nhau. Hoạt động dạy và hoạt động học không thể tách rời
khi chúng cùng tồn tại trong một chỉnh thể. Hoạt động học sẽ phải trả lời cùng
một lúc hàng loạt những câu hỏi như: học cái gì, học của ai... Đồng thời, hoạt
động dạy cũng sẽ nhận lĩnh những câu hỏi tương tự cũng đầy thách thức: dạy
ai, dạy cái gì, dạy như thế nào, dạy làm sao để học tốt... Tất cả những minh
chứng ấy cho thấy mối liên kết chặt chẽ mang tính tương tác rất mật thiết.
Chúng gắn bó hữu cơ với nhau. Sự tồn tại và phát triển của mặt này quy định
sự tồn tại và phát triển của mặt kia.
Có thể khẳng định, hoạt động dạy sẽ làm nền tảng để hoạt động học
được diễn ra một cách thuận lợi và hiệu quả. Những nghiên cứu cho thấy
người học sẽ học như thế nào, khi người dạy sẽ dạy như thế ấy hay nhìn
cách học của người học có thể hiểu được cách dạy của người dạy. Hoạt
động dạy không thể tách đơn độc mình ra khỏi hoạt động học vì hoạt động
dạy hướng đến mục đích sâu xa nhất là cống hiến mọi giá trị, mọi sự đầu tư
của mình cho hoạt động học diễn ra hiệu quả, cho người học hướng đến
những hoạt động lý thú và mang tính khoa học cao độ...
Về phần mình, hoạt động học sẽ dựa trên nền tảng của hoạt động dạy
và thoạt đầu bị hoạt động dạy chi phối một phần. Tuy nhiên, hoạt động dạy
mà giảng viên tiến hành không thể "lơ lửng" và chủ quan mà phải dựa vào
sinh viên mà đặc biệt là hoạt động học của sinh viên. Hoạt động học khi đã
hình thành sẽ tương tác lại với hoạt động dạy làm cho hoạt động dạy cũng
nương theo, thậm chí hoạt động dạy sẽ được điều chỉnh để hướng đến
những thay đổi tích cực nhằm tạo ra sự tương tác tích cực, hiệu quả song
hành...
Ngay khi phân tích về mối quan hệ giữa hoạt động học và hoạt động
dạy cũng không thể tách rời khỏi mối quan hệ giữa người dạy và người học.
Sự tương tác song hành này được ví von như cặp đôi “song ca" mang tính
đồng bộ vì người dạy chỉ dạy thực sự tốt khi người học học tập tích cực và
tuyệt vời và ngược lại người học sẽ phát huy tối đa khả năng cũng như tính
tích cực của mình nếu như người dạy thể hiện đúng vai trò kích thích, tổ
chức, hỗ trợ khi cần thiết. Ở góc độ liên nhân cách, người giảng viên đầu tư
cho bài giảng của mình thật sống động và hấp dẫn thì sinh viên càng cảm
nhận được sức mạnh của mình khi tham gia. Khi các hoạt động của người
dạy càng phong phú và càng lý thú, người học càng bị cuốn vào thế giới tri
thức, vươn hết mình để lĩnh hội những điều thú vị được giảng viên đan kết tổ
chức. Ngay cả trong lúc hoạt động cùng với sinh viên, giảng viên sẽ cảm
nhận mình sắc sảo hơn khi hiểu hơn về họ, cảm thấy mình tinh tế hơn trong
vai trò của nhà tổ chức. Hay thậm chí những lúc cùng trở thành một thành
viên trong nhóm cùng hoạt động với sinh viên của chính mình, giảng viên sẽ
mang lại cho chính mình những nguồn cảm xúc bất tận và mới mẻ hơn bao
giờ hết.
Mối liên hệ giữa giảng viên và sinh viên còn được phân tích ở sự tác
động qua lại tích cực. Những gì sinh viên tiếp nhận ở giảng viên trong hoạt
động học không chỉ là tri thức, không chỉ là kỹ năng nghề nghiệp mà còn hơn
thế nữa. Đó chính là nhân cách, thói quen, kinh nghiệm, bộ mặt đạo đức,
những giá trị xã hội. Bên cạnh đó, khi dạy học cho sinh viên, chính người
giảng viên cảm nhận được lại chính quá khứ của mình, định hướng cuộc
sống hiện tại mang tính thực tiễn và thích ứng hơn cũng như hướng đến một
tương lai hợp lý hơn.
Một chương trình dạy học, một kế hoạch dạy học muốn thực hiện có
hiệu quả hay không không những dựa vào hoạt động học mà còn dựa vào
hoạt động dạy. Việc tổ chức dạy học của giảng viên hiệu quả, việc học tập
của sinh viên tích cực sẽ đem đến sự đồng điệu và chắc chắn rằng những
mục tiêu đặt ra trong dạy học sẽ được hoàn thành. Sự gắn kết giữa hoạt động
dạy và hoạt động học không chỉ trải dài ở mục tiêu mà còn ở cả nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức, phương tiện và kết quả cuối cũng như sự
đánh giá. Sự tương tác này càng ăn khớp thì sự học sẽ được diễn ra đúng
đường hướng nhất dưới sự tổ chức của hoạt động dạy để nhiệm vụ của từng
hoạt động cũng như nhiệm vụ chung của dạy học được thực thi một cách
xuất sắc.
Như vậy, nếu bản chất của hoạt động dạy được tựu trung ở sự tổ chức
của người dạy thì ở người học đó lại là sự khám phá. Giữa hoạt động học và
hoạt động dạy đều hướng đến việc lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
nhằm mục đích sâu xa là tạo ra sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của
người học. Sự tương đồng giữa hoạt động dạy và hoạt động học xét về bản
chất là có cùng mục đích là hướng vào làm thay đổi người học. Mặt khác,
cũng chính sự đồng điệu giữa người học và người dạy hay nói khác hơn là
hoạt động dạy và hoạt động học đó là sự tương thích hay ăn khớp giữa hoạt
động tổ chức và tham gia, giữa tổ chức và khám phá, giữa thiết kế và thực
thi... Sự tương tác này càng hiệu quả thì kết quả của từng hoạt động cũng
như của hoạt động dạy học sẽ đạt đến mức cao nhất.
3.2. Cơ sở tâm lý của việc tổ chức hoạt động học của sinh viên và hoạt động dạy của giảng viên
Khía cạnh tâm lý của việc tổ chức hoạt động học và hoạt động động
dạy có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự thành công của dạy học. Việc
phân tích những cơ sở tâm lý của việc tổ chức hoạt động học của sinh viên
và hoạt động dạy của giảng viên sẽ chỉ rõ những nền tảng khoa học của việc
tổ chức các hoạt động này sao cho thật sự hiệu quả. Có thể nói rằng dẫu việc
phân tích diễn ra ở góc nhìn nào thì mong mỏi lớn nhất vẫn là việc tìm ra
những cách thức tổ chức dạy học nhằm phát triển sinh viên một cách toàn
diện và độc đáo. Dưới đây là một số yếu tố cần được chú ý đặc biệt mà trong
một vài thập kỷ qua trong Tâm lý học về “dạy học phát triển" đã xác định:
3.2.1. Hoạt động học của sinh viên là nột quá trình nhận thức
Mục tiêu của dạy học là thông qua hoạt động học - một hoạt động nhận
thức độc đáo mang tính chất nghiên cứu, làm cho sinh viên lĩnh hội được
những kinh nghiệm xã hội mà loài người đã tích lũy được nhằm hình thành kỹ
năng, kỹ xảo nghề nghiệp. Hoạt động hay quá trình nhận thức - học tập ở bậc
giáo dục nghề nghiệp có những đặc điểm chủ yếu sau: Quá trình nhận thức là
quá trình phản ánh các hiện tượng thực tiễn nhưng không phải là phản ánh
tất cả mọi hiện tượng mà là phản ánh một cách tích cực và chọn lọc. Chỉ
những gì liên quan đến nhu cầu, hứng thú, đến hoạt động hiện tại và sự phát
triển tương lai nghề nghiệp của sinh viên mới được chọn lọc và phản ánh.
Quy luật nhận thức của loài người đã được V. I. Lênin nêu lên trong công
thức nổi tiếng: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy
trừu tượng trở về thực tiễn...". Con đường biện chứng của sự nhận thức chân
lý, như vậy bao gồm hai giai đoạn, đó là giai đoạn cảm tính và giai đoạn lý
tính. Tuy nhiên, trong sự nhận thức - học tập của sinh viên không chỉ là nhận
thức những điều mà nhân loại đã biết, tức là những điều mới mẻ chỉ đối với
chính bản thân họ mà họ bước đầu khám phá được chân lý mới cho nhân loại
thông qua việc “tập dượt” nghiên cứu khoa học. Điều đáng lưu ý ở đây là hoạt
động nhận thức của sinh viên không cần phải diễn ra theo như trình tự và thời
gian mà loài người và các nhà khoa học đã nhận thức ra chân lý đó. Tùy
thuộc vào đặc điểm nội dung học tập khả năng và điều kiện học tập thực mà
sinh viên có thể thực hiện hoạt động nhận thức - học tập đi từ cụ thể đến trừu
tượng hay ngược lại từ trừu tượng đến cụ thể.
Những công trình nghiên cứu về tâm lý học đã xác minh rằng sự phát
triển của các thao tác tư duy cơ bản được thực hiện theo hai phương hướng:
Thứ nhất, khắc phục tính không đồng đều trong sự phát triển phân tích và
tổng hợp và xác lập sự tương ứng giữa chúng với nhau. Thứ hai, nâng cao
trình độ phát triển của mỗi thao tác đó. Những hình thức phân tích thô thiển
được thay thế bằng những hình thức phân tích phân hóa tinh vi hơn và sự
tổng hợp một chiều, từng phần nhường chỗ cho sự tổng hợp nhiều mặt đầy
đủ hơn. Ở sinh viên những biến đổi ấy không diễn ra cùng một lúc trên tất cả
các mặt học tập các bộ môn trong nhà trường. Việc giảng viên đưa đề tài mới
mẻ về nội dung và mức độ phức tạp có thể hạ thấp mức độ phân tích và tổng
hợp. Tuy nhiên, những nghiên cứu cũng cho thấy một xu thế nhất định đó là
trình độ hoạt động tư duy phân tích - tổng hợp ở sinh viên các lớp trên được
nâng cao hơn. Trình độ phân tích và tổng hợp còn bộc lộ ra đặc tính của
những khái quát hóa và trừu tượng hóa của sinh viên mà họ thường gặp
trong quá trình tiếp thu kiến thức khi phải hình thành cho họ những khái niệm
trong một lĩnh vực khoa học nào đó.
Trong hoạt động dạy học làm thế nào để tạo ra những điều kiện thuận
lợi nhất cho việc hình thành ở sinh viên những khái quát đúng đắn và ngăn
ngừa những khái quát hóa sai lầm? Trước hết điều có ý nghĩa quan trọng là
làm biến thiên những dấu hiệu không bản chất của tài liệu nghiên cứu, đồng
thời giữ không đổi những dấu hiệu bản chất. Sự biến thiên tài liệu học tập còn
có thể hoàn toàn hiệu nghiệm khi sinh viên không những nhận thức được
rằng một dấu hiệu nào đó không phải là dấu hiệu tất yếu và cố định mà còn tự
mình có thể phát biểu, diễn tả bằng lời lẽ nguyên tắc của sự biến thiên và nêu
lên đặc tính của những dấu hiệu không bản chất. Cần chú ý rằng sự khái quát
hóa có liên quan chặt chẽ với quá trình trừu tượng hay sự trừu tượng hóa. Sự
trừu tượng hóa nhất thiết có hai mặt: Thứ nhất, nêu bật những dấu hiệu bản
chất ra khỏi những dấu hiệu khác và nghiên cứu chúng, điều này được gọi là
sự trừu tượng hóa tích cực. Thứ hai, loại trừ những dấu hiệu không bản chất,
điều này được gọi là sự trừu tượng hóa tiêu cực. Hai mặt này không thể tách
rời nhau được, nhưng rất có thể mặt này hay mặt kia nổi lên hàng đầu. Trong
quá trình tổ chức hoạt động dạy học cho sinh viên cần tính đến tình hình sau
đây, đó là các yêu cầu nhiệm vụ có những mức độ khó khăn hoàn toàn khác
nhau đối với sinh viên tùy theo loại trừu tượng hóa mà sinh viên phải vận
dụng. Nếu đó là sự trừu tượng hóa có liên hệ với sự khái quát hóa và cả dẫn
đến sự hình thành khái niệm (sự trừu tượng hóa sơ cấp) thì nhiệm vụ có nội
dung cụ thể sẽ rất dễ dàng đối với sinh viên. Nhưng nếu sinh viên gặp phải
loại trừu tượng hóa thứ hai, khi cần tìm ra một nguyên tắc đã biết trong những
điều kiện của một nhiệm vụ mới (sự trừu tượng hóa thứ cấp) thì lúc đó loại
yêu cầu nhiệm vụ trừu tượng hơn sẽ là vấn đề rất dễ với sinh viên. Tác giả E.
A. Flesne cho rằng nguyên nhân tâm lý của những khó khăn của người học
chính là sự cần thiết phải chuyển ý nghĩ từ một phương diện khác, từ cụ thể
sang trừu tượng, sự cần thiết phải tự mình trừu tượng hóa, tìm thấy cái trừu
tượng trong cái cụ thể, cái chung trong cái riêng [11].
Sinh viên chỉ thực sự nắm vững kiến thức trong điều kiện có sự tác
động qua lại giữa quá trình cụ thể và trừu tượng của hoạt động tư duy, mà cơ
sở sinh lý của hoạt động này là sự tác động qua lại của hai hệ thống tín hiệu.
Chính vì vậy, để hình thành một khái quát có giá trị đầy đủ về một vấn đề nào
đó cho sinh viên không những cần đến những kiến thức lý thuyết mà cần cả
đến công tác thực hành. Hoạt động học tập ở sinh viên sẽ tiến bộ lên theo hai
phương hướng cơ bản và ngược chiều nhau: một mặt, những kiến thức đã
tiếp thu sẽ phức tạp hóa lên do chúng mỗi ngày một nhiều thêm lên và do
chúng được đưa vào hệ thống những kiến thức mới và được vận dụng để giải
quyết những nhiệm vụ ngày càng phức tạp. Mặt khác, bản thân quá trình vận
dụng kiến thức đơn giản hóa đi do sự tự động hóa, sự hình thành những kỹ
xảo khi thực hiện những động tác nào đó, mà không cần nhớ đến những quy
tắc tương ứng với chúng. Khi đề cập đến hiện tượng tự động hóa để hình
thành những kỹ năng và kỹ xảo cho sinh viên cần đặc biệt chú ý đến những
hành động học tập được thực hiện không cần nhớ đến quy tắc làm cơ sở cho
hành động. Tác giả P. A. Sevarep có phân tích loại hành động này, phát hiện
ra cơ chế của chúng, gọi chúng là những hành động đúng quy tắc và chứng
minh nguồn gốc khác nhau của chúng. Trong một số trường hợp, con người
hành động phù hợp với quy tắc mặc dù không biết và cũng không thể diễn tả
quy tắc đó thành lời được. Trong những trường hợp khác, con người hành
động mà không nhớ đến quy tắc vì đã nhiều lần giải quyết những nhiệm vụ
khác nhau dựa vào quy tắc đó [11]. Luận điểm này cho thấy rằng kiến thức về
quy tắc là cơ sở để sinh viên giải quyết và kiểm tra vấn đề.
Để hình thành những biện pháp hợp lý của hoạt động học đòi hỏi sinh
viên phải có kiến thức về biện pháp và có kinh nghiệm độc lập vận dụng nó
để giải quyết những nhiệm vụ khác nhau. ở đây phải nói đến cả một tập hợp
những biện pháp, đến sự rèn luyện một hệ thống phức tạp những kỹ năng sử
dụng các biện pháp đó vào công tác học tập độc lập. Theo nghĩa rộng, điều
này có nghĩa là kỹ năng tổ chức những quá trình tâm lý của bản thân. Sinh
viên khi đã nắm vững kỹ năng này sẽ trở thành không những là khách thể của
việc dạy học, mà còn là chủ thể điều chỉnh hoạt động học tập của bản thân. Ở
khía cạnh này, cần nhấn mạnh đến việc hình thành ở sinh viên hình thức đặc
biệt của ý thức về bản thân - ý thức bản thân; về học tập, rèn luyện cho sinh
viên một phong cách đặc biệt của hoạt động trí tuệ, thể hiện không những
trong lĩnh vực những quá trình tư duy, mà còn biểu hiện cả trong những đặc
điểm của ý chí, tính cách, tình cảm.
Việc nắm vững những biện pháp tri giác có tổ chức đòi hỏi rèn luyện
cho sinh viên kỹ năng bắt tri giác của mình phải phục tùng một nhiệm vụ xác
định, lựa chọn những yếu tố bản chất nhất, tập hợp chúng thành nhóm theo
một cách nhất định. Bên cạnh đó, sinh viên phải có kỹ năng vận dụng linh
hoạt những biểu tượng, kỹ năng tái hiện hình tượng nhằm mục đích đi sâu
vào ý nghĩa của vấn đề, khả năng biến hóa hình tượng, xáo trộn chúng bằng
tưởng tượng, kỹ năng đặt vấn đề và bước đầu tìm kiếm chân lý mới... Bàn về
việc phát triển phương pháp ghi nhớ hợp lý cho sinh viên, có thể đề cập đến
những quan điểm của các tác giả A. A. Xmiecnop, L. V. Zancop, P.I.
Zintsenco khi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tạo ra phương hướng cho
sự ghi nhớ và ứng dụng những phương pháp khác nhau trong việc gia công
tài liệu một cách tích cực về mặt ý nghĩa như tập hợp những cái giống nhau,
vạch ra những mốc đề tựa [11].
* Hoạt động học tập của sinh viên là một quá trình nhận thức. Vì vậy,
trong dạy học Đại học, giảng viên cần chú ý đến các quy luật của hoạt động
nhận thức như: quy luật cảm giác, quy luật tri giác; các thao tác tư duy, các
cách sáng tạo hình ảnh của tưởng tượng, quy luật nhớ - quên để vận dụng
chúng vào dạy học một cách hiệu quả nhất.
Từ những quan điểm trên có thể đi tới một kết luận rằng hoạt động học
tập của sinh viên là một quá trình nhận thức. Vì vậy, trong hoạt động dạy học
ở Cao đẳng - Đại học, giảng viên cần chú ý đến các quy luật của hoạt động
nhận thức như quy luật cảm giác, quy luật tri giác, các thao tác tư duy, các
cách sáng tạo hình ảnh mới của tưởng tượng, quy luật của trí nhớ để vận
dụng chúng vào dạy học một cách hiệu quả. Trong hoạt động dạy và hoạt
động học thì lý thuyết và thực tiễn đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ
biện chứng với nhau. Việc tổ chức thực hành nhất định cho sinh viên, tổ chức
những thao tác trí tuệ vận dụng kiến thức để tiếp thu chúng đã được nhiều
nhà tâm lý học đưa ra như một nguyên tắc quan trọng nhất quyết định kết quả
học tập. Bên cạnh đó, sinh viên muốn nắm vững biện pháp, giảng viên muốn
tổ chức giảng dạy một cách hiệu quả thì không phải chỉ hình thành thao tác tư
duy tương ứng cho sinh viên mà còn cần xây dựng ý thức sẵn sàng và có
động cơ, tức là có nhu cầu vận dụng thao tác đó như một phương pháp hành
động.
3.2.2. Hoạt động dạy và học không chỉ bao gồm các quá trình mang tính chất nhận thức mà còn mang tính chất giao tiếp
Giao tiếp là quá trình tác động qua lại, trao đổi thông tin, ảnh hưởng lẫn
nhau, nhận biết lẫn nhau giữa hai chủ thể giao tiếp. Giao tiếp thường tham
gia vào hoạt động thực tiễn của con người như lao động, vui chơi và cả hoạt
động học tập... đảm bảo cho sự tác động, tham gia vào quá trình thực hiện và
kiểm tra hoạt động của con người. Đó là quá trình thiết lập mối quan hệ đa
chiều giữa một người với một người hoặc với nhiều người xung quanh, liên
quan đến sự truyền đạt thông điệp và sự đáp ứng với sự truyền đạt ấy là quá
trình qua đó con người phát và nhận thông tin, suy nghĩ, có ý kiến và thái độ
để có được sự thông cảm và hành động tiến tới việc chia sẻ mà qua đó thông
điệp đáp ứng được xuất hiện: Giao tiếp là quá trình nói, nghe và trả lời để
chúng ta có thể hiểu và phản ứng với nhau trải qua nhiều mức độ, từ thấp
đến cao, từ sự e dè bề ngoài đến việc bộc lộ những tình cảm sâu kín bên
trong. Về phương diện nhận thức, giao tiếp là một quá trình mà con người ý
thức được mục đích, nội dung và những phương tiện cần thiết để đạt kết quả
khi tiếp xúc với người khác. Từ cơ sở đó, giao tiếp diễn ra dưới dạng trao đổi
thông tin, tư tưởng, tình cảm, thế giới quan, nhu cầu... của các chủ thể tham
gia vào quá trình giao tiếp. Qua đó, mỗi cá nhân tự hoàn thiện mình và hòa
nhập vào xã hội trong quá trình giao tiếp [23, tr. 14]. Trong hoạt động học tập,
sinh viên tiếp thu không chỉ bằng tư duy mà còn bằng cả cảm xúc nữa. Sự
chú ý, say mê, xúc động đều chiếm ít nhất một nửa những điều kiện của nhận
thức. Giao tiếp giữa giảng viên và sinh viên trong hoạt động dạy học có ảnh
hưởng rất mạnh đến động cơ học tập tới sự hình thành thái độ học tập của
sinh viên. Giao tiếp là con đường khác bên cạnh hoạt động để hình thành
nhân cách cho sinh viên.
Hoạt động dạy học chủ yếu là sự giao tiếp giữa giảng viên và sinh viên,
trong đó giảng viên là người tổ chức, điều khiển quá trình giáo dục trong nhà
trường được gọi là chủ thể giao tiếp với nghĩa chung nhất. Sinh viên là người
lĩnh hội tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp do giảng viên truyền
đạt cho. Với ý nghĩa này, sinh viên là khách thể trong hoạt động giao tiếp sư
phạm. Tuy nhiên, để giáo dục, dạy học đạt kết quả cao, chúng ta không thể
xem sinh viên là khách thể thụ động, mà họ thực sự là một chủ thể có ý thức,
hoạt động tích cực để đón nhận tri thức khoa học của giảng viên. Quá trình
giao tiếp trong hoạt động dạy học bao gồm sự giao tiếp giữa giảng viên và
sinh viên, giữa sinh viên với sinh viên, hay nói cách khác đó là giữa chủ thể
và khách thể, giữa chủ thể giao tiếp và chủ thể tiếp nhận, giữa chủ thể và chủ
thể. Các tiếp xúc tâm lý mà giảng viên cần tạo ra cho sinh viên là tiếp cận
được tâm tại xây dựng không khí tâm lý thuận lợi là tạo cho sinh viên có được
tâm lý thoải mái khi chuẩn bị tiếp thu những tri thức mới, sinh viên không bị
ức chế khi phải tiếp nhận thông tin từ giảng viên; các quá trình tâm lý khác ở
đây được hiểu là trí tưởng tượng kích thích trí nhớ, sự tư duy và hoạt động
của tri giác. Từ các vấn đề trên ta thấy rằng giao tiếp là điều kiện đảm bảo
hoạt động dạy học mà mục đích của quá trình giao tiếp này là nhằm truyền
đạt vốn sống, kinh nghiệm, những tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo, thói
quen nghề nghiệp, xây dựng và phát triển nhân cách toàn diện ở sinh viên.
Hoạt động giáo dục chỉ diễn ra trong nhà trường, trong đó chủ yếu là sự
giao hấp giữa người dạy và người học. Giao tiếp có vị trí quan trọng trong cấu
trúc năng lực sư phạm của người giáo viên, là phương tiện thực hiện các
nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục và phát triển. Giao tiếp được xem là phương
tiện quan trọng hàng đầu phục vụ công việc giảng dạy, là điều kiện xã hội -
tâm lý bảo đảm quá trình giáo dục, là phương thức tổ chức các mối quan hệ
qua lại giữa thầy và trò. Nhờ có giao tiếp giữa người dạy và người học, người
học với người học mà hoạt động dạy học có thể được tổ chức, điều kiện, phối
hợp nhịp nhàng để có thể hoạt động cùng nhau đạt được mục tiêu học tập đã
đề ra. Giao tiếp trong hoạt động dạy học là một khâu quan trọng trong quá
trình hình thành nhân cách, phát triển tính tích cực nhận thức và xã hội của
người học trong quá trình hình thành tập thể học sinh. Giảng viên say sưa với
bộ môn mình dạy, tế nhị trong quan hệ với sinh viên, giúp đỡ kịp thời sinh
viên trong học tập, thể hiện tính khách quan trong đánh giá, thái độ của giảng
viên tích cực và thân thiện, bản lĩnh trong ứng xử và nghề nghiệp... đều ảnh
hưởng đến kết quả học tập của sinh viên. Sự khéo léo sư phạm trong tiếp xúc
sẽ làm tăng hiệu quả dạy học.
Tóm lại, giao tiếp trong hoạt động dạy học là một hình thức của giao
tiếp sư phạm, đó là sự tiếp xúc giữa người dạy và người học nhằm truyền đạt
và lĩnh hội những tri thức khoa học, vốn sống, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo,
nghề nghiệp, xây dựng và phát triển nhân cách toàn diện ở người học. Giao
tiếp trong hoạt động dạy học thể hiện đầy đủ chức năng và vai trò của giao
tiếp nói chung. Nó vừa thỏa mãn nhu cầu nhận thức, nhu cầu tình cảm và
truyền đạt kinh nghiệm của con người, thực hiện được chức năng tổ chức,
điều khiển, phối hợp hành động trong hoạt động dạy và học, có vai trò điều
khiển và điều chỉnh hành vi của sinh viên trong quá trình lĩnh hội tri thức, giúp
cho cả người dạy và người học có thể nhận thức và đánh giá lẫn nhau. Trên
hết, nhờ có hoạt động giao tiếp mà hoạt động dạy học đạt được mục đích của
mình là giáo dục và phát triển nhân cách cho sinh viên một cách toàn diện.
3.2.3. Động cơ là những yếu tố kích thích hoạt động học của sinh viên
Những đặc điểm của động cơ sinh viên, thái độ của họ đối với học tập,
những hứng thú nhận thức của họ đều có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
của hoạt động học tập. Những động cơ học tập đã được khơi gợi đều có cơ
sở sinh lý là hiện tượng mà I. P. Pavlov gọi là sự củng cố, coi nó là điều kiện
cần thiết cho việc tạo thành những mối quan hệ tạm thời. Trong những giờ
học nào mà tư duy tích cực được kích thích thì cũng sẽ xuất hiện thái độ tích
cực đối với học tập, sẽ hình thành hứng thú nhận thức.
Động cơ học tập của sinh viên được hiện thân ở đối tượng của hoạt
động học, tức là những tri thức kỹ năng, kỹ xảo, thái độ, giá trị, chuẩn mực...
mà dạy học và giáo dục sẽ đưa lại cho họ. Nghiên cứu về động cơ học tập, ta
tìm thấy các lý luận nghiên cứu từ các nhà tâm lý học Nga như L. I. Bozovik,
A. N. Leontiev, A. K. Markova... Nhiều nhà Tâm lý học đều khẳng định: hoạt
động học tập của người học được thúc đẩy bởi nhiều động cơ. Những động
cơ này tạo thành cấu trúc xác định có thứ bậc của các kích thích, trong đó có
một số động cơ là chủ đạo, cơ bản, một số động cơ khác là phụ, là thứ yếu.
Trên cơ sở nghiên cứu nhiều năm, A. N. Leontiev đã nêu lên cấu trúc vĩ
mô của hoạt động bao gồm các thành tố và mối liên hệ giữa các thành tố này.
Sơ đồ cấu trúc vĩ mô của hoạt động được mô tả như sau.
Sơ đồ cấu trúc vĩ mô của hoạt động
San pham
Thao tac Phuong tien, đieu kien
Hanh đong Muc đich
Hoat đong Đong co
Khach theChu the
Dong cac hoat đong
Theo sơ đồ cấu trúc trên thì động cơ học tập là một bộ phận không thể
thiếu và hơn nữa, nó gần như là nguồn gốc của cấu trúc hoạt động. Động cơ
học tập giúp chủ thể xác định những mục đích và phương tiện để rồi có
những thao tác, hành động cho đúng. Nó là động lực và là định hướng cho
hoạt động học tập diễn ra và đi đúng hướng. Thiếu động cơ thì hoạt động học
tập không thể diễn ra được. Có nhiều loại động cơ và mỗi loại sẽ có vai trò
nhất định trong hoạt động học tập của con người. Dưới góc độ của Tâm lý
học hoạt động, động cơ học tập được phân thành hai loại:
- Động cơ hoàn thiện tri thức:
Động cơ hoàn thiện tri thức là mong muốn khao khát chiếm lĩnh, mở
rộng tri thức, say mê với việc học tập..., bản thân tri thức và phương pháp
chiếm lĩnh tri thức có sức hấp dẫn, lôi cuốn học sinh. Người có động cơ này
luôn nỗ lực ý chí, khắc phục trở ngại từ bên ngoài để đạt nguyện vọng bên
trong. Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ hoàn thiện tri thức
thường không chứa đựng xung đột bên trong. Có thể có những khó khăn
trong quá trình học hỏi đòi hỏi phải có nỗ lực ý chí để khắc phục, nhưng là
khắc phục các trở ngại bên ngoài chứ không hướng vào đấu tranh với chính
bản thân. Do đó, chủ thể của hoạt động học không có những căng thẳng tâm
lý. Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ này được cho là tối ưu trong
lĩnh vực sư phạm.
- Động cơ quan hệ xã hội:
Động cơ quan hệ xã hội trong học tập thể hiện ở điểm người học học
tập bởi sự lôi cuốn hấp dẫn của các yếu tố khác như: đáp ứng mong đợi của
cha mẹ, cần có bằng cấp vì lợi ích tương lai, lòng hiếu danh hay sự khâm
phục của bạn bè,... đây là những mối quan hệ xã hội cá nhân được hiện thân
ở đối tượng học. Đối tượng đích thực của hoạt động học tập chỉ là phương
tiện để đạt mục tiêu cơ bản khác. Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động
cơ quan hệ xã hội ở mức độ nào đó mang tính cưỡng bức, có những lực
chống đối nhau. Vì thế nó gắn liền với sự căng thẳng tâm lý, đòi hỏi phải đấu
tranh với chính bản thân, người học dễ vi phạm nội quy, lơ là việc học...
Thông thường thì cả hai loại động cơ này cùng được hình thành ở
người học và được sắp xếp theo thứ bậc. Trong những điều kiện nhất định
của việc dạy và học thì một trong hai loại động cơ sẽ nổi lên chiếm vị trị ưu
thế trong sự sắp xếp theo thứ bậc của hệ thống động cơ. Theo nghiên cứu
của A. N. Gheboxo, việc hình thành động cơ học tập của sinh viên phụ thuộc
vào một số yếu tố sau:
- Ý thức về mục đích gần và mục đích xa của hoạt động học tập.
- Nắm vững ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của các tri thức do sinh
viên lĩnh hội.
- Nội dung mới của những tài liệu và thông tin khoa học được trình bày.
- Tính chất hấp dẫn, sự xúc cảm của thông tin.
- Tính nghề nghiệp được thể hiện rõ trong tài liệu được trình bày.
- Lựa chọn được những bài tập phù hợp, gây được những hoàn cảnh
có vấn đề, tạo được các mâu thuẫn trong quá trình dạy học.
- Thường xuyên duy trì được không khí tâm lý nhận thức trong hoạt
động học tập [19].
Như vậy, động cơ học tập của sinh viên không có sẵn hay tự phát, mà
được hình thành dần dần trong quá trình học tập của sinh viên dưới sự tổ
chức, hướng dẫn của giảng viên. Để hình thành động cơ học tập cho sinh
viên, giảng viên cần làm cho việc học của sinh viên trở thành nhu cầu không
thể thiếu thông qua tổ chức bài giảng, sử dụng phương pháp dạy học... sao
cho kích thích được tính tích cực, tạo hứng thú cho sinh viên. Động cơ nói
chung và động cơ học tập nói riêng thường liên hệ mật thiết tới hứng thú của
mỗi sinh viên. Nhờ có hứng thú mà động cơ ngày càng mạnh mẽ. Vì thế vai
trò của hứng thú trong học tập rất lớn. Trong học tập chẳng những cần có
động cơ đúng đắn mà còn phải có hứng thú bền vững thì sinh viên mới có thể
tiếp thu tri thức hiệu quả nhất.
Những điều kiện kích thích sinh viên học tập tích cực thì có khá nhiều
và được đề cập khá chi tiết ở những nội dung sau. Tuy nhiên, ở đây cần phân
biệt những hình thức kích thích trực tiếp và gián tiếp. Việc đánh giá kiến thức
là yếu tố kích thích trực tiếp, sức mạnh kích thích của nó dựa vào việc sinh
viên biết kết quả học tập. Ở khía cạnh này cần lưu ý việc đánh giá phải đáp
ứng đúng những yêu cầu tâm lý sư phạm nếu không sẽ có tác dụng trái
ngược lại, tức là hiệu quả tiêu cực. Yếu tố kích thích hoạt động học tập ở sinh
viên còn là sự tự đánh giá, nó có liên quan với việc kiểm tra thường xuyên
những thao tác tư duy của bản thân và với sự hiểu biết xem kết quả thu được
trong quá trình giải quyết là đúng hay sai. Vì thế, việc đánh giá kết quả học
tập của sinh viên phải là đánh giá quá trình mà đặc biệt là đánh giá giữa kỳ
bao giờ cũng kèm theo sự động viên và khuyến khích. Đây chính là sự lựa
chọn an toàn và hiệu quả trong phương thức đào tạo tín chỉ ở các trường Đại
học hiện nay. Khác với việc tự đánh giá thường được tiến hành ngay sau khi
hành động đã hoàn thành và như được dùng để củng cố những hành động
đó, phần lớn những hình thức kích thích khác đều liên quan đến kinh nghiệm
trước đó của sinh viên, hoặc với động cơ đã có ở sinh viên hoặc với những
hứng thú nhận thức đã hình thành ở họ, hoặc cuối cùng ngay chính những
kiến thức mà sinh viên đã lĩnh hội được và trở thành của riêng của cá nhân
sinh viên cũng tác động như một dạng kích thích học tập ở họ. Lẽ đương
nhiên, sinh viên sẽ dễ dàng lĩnh hội tốt những vấn đề có liên quan đến kinh
nghiệm sống của họ, hoặc sinh viên xác nhận kinh nghiệm đó, ngược lại có
thể mâu thuẫn với nó. Trường hợp thứ hai này sinh viên sẽ nảy sinh nhu cầu
giải quyết mâu thuẫn đó bằng cách dựa vào kiến thức mới [11]. Từ đó cho
thấy rằng không phải chỉ có kinh nghiệm sống của cá nhân mới có sức kích
thích mà cả kinh nghiệm rộng rãi và thực tiễn xã hội nữa. Những sinh viên
trong hoạt động học tập càng hiểu rõ được ý nghĩa thiết thực, giá trị xã hội
của những kiến thức đã lĩnh hội thì họ càng có ưu thế trong việc lĩnh hội kiến
thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Nói cách khác, tính tích cực nhận thức
được kích thích và nâng cao khi sinh viên đánh giá đúng giá trị và tầm quan
trọng của tri thức gắn liền với nghề nghiệp của mình trong tương lai. Điều này
cho thấy cần khuyến khích sinh viên trải nghiệm với cuộc sống, tăng cường
việc tìm hiểu nghề nghiệp, thực hành nhận thức về nghề hay thực tập nghề
nghiệp sẽ đem đến cho sinh viên những cảm xúc mới mẻ và những hứng thú
thật sâu sắc và bền chặt trong học tập.
Tóm lại, việc phát triển động cơ học tập như là kích thích bốn trong
nhằm thúc đẩy sinh viên tham gia học tập một cách tích cực và việc phát triển
hứng thú nhận thức diễn ra ngay trong quá trình nhận thức là những vấn đề
đặc biệt quan trọng tác động đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động dạy
và hoạt động học.
3.2.4. Tổ chức hoạt động học và hoạt động dạy gắn liền với đặc điểm tâm lý và hoạt động chủ đạo của sinh viên
Mỗi một lứa tuổi khác nhau đều có những đặc điểm tâm lý nổi bật, chịu
sự chi phối của hoạt động chủ đạo và tổ chức hoạt động dạy học không tách
rời những yếu tố này. Sinh viên là một nhóm xã hội đặc biệt, đang tiếp thu
những kiến thức, kỹ năng chuyên môn ở các trường Cao đẳng, Đại học để
chuẩn bị cho hoạt động nghề nghiệp sau khi ra trường. Ở đây, chúng tôi quan
tâm đến sinh viên, những người có hoạt động chủ đạo là học tập để tiếp thu
kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp một cách chuyên biệt ở các trường
Cao đẳng, Đại học. Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa
tuổi thanh niên - sinh viên là sự phát triển tự ý thức. Nhờ có tự ý thức phát
triển, sinh viên có những hiểu biết, thái độ, có khả năng đánh giá bản thân để
chủ động điều chỉnh sự phát triển bản thân theo hướng phù hợp với xu thế xã
hội. Chẳng hạn, sinh viên đang học ở các trường Cao đẳng, Đại học Sư
phạm, họ nhận thức rõ ràng về những năng lực, phẩm chất của mình, mức độ
phù hợp của những đặc điểm đó với yêu cầu của nghề nghiệp. Qua đó, họ sẽ
xác định rõ ràng mục tiêu học tập, rèn luyện và thể hiện bằng hành động học
tập hàng ngày trong giờ lên lớp, thực tập nghề hay nghiên cứu khoa học. Nhờ
khả năng tự đánh giá phát triển mà sinh viên có thể nhìn nhận, xem xét năng
lực học tập của mình, kết quả học tập cao hay thấp phụ thuộc vào ý thức, thái
độ, vào phương pháp học tập của họ. Ở sinh viên đã bước đầu hình thành
thế giới quan để nhìn nhận, đánh giá vấn đề cuộc sống, học tập sinh hoạt
hàng ngày. Sinh viên là những trí thức tương lai, ở các em sớm nảy sinh nhu
cầu, khát vọng thành đạt. Học tập ở Đại học là cơ hội tốt để sinh viên được
trải nghiệm bản thân, vì thế, sinh viên rất thích khám phá, tìm tòi cái mới,
đồng thời, họ thích bộc lộ những thế mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau
dồi, trang bị vốn sống, hiểu biết cho mình, dám đối mặt với thử thách để
khẳng định mình. Một đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa tuổi này là tình cảm
ổn định của sinh viên, trong đó phải đề cập đến tình cảm nghề nghiệp - một
động lực giúp họ học tập một cách chăm chỉ, sáng tạo, khi họ thực sự yêu
thích và đam mê với nghề lựa chọn. Chính vì vậy, tổ chức hoạt động dạy học
cho sinh viên cần chú ý đến những đặc điểm tâm lý điển hình này để giúp họ
lĩnh hội tri thức một cách tích cực nhất, phát huy những thế mạnh nổi bật ở
mỗi cá nhân sinh viên để hình thành những kỹ năng tương ứng cho hoạt động
nghề nghiệp sau này.
Khác với người học Trung học, bên cạnh hoạt động chủ đạo là học tập,
lĩnh hội tri thức của thầy, người sinh viên còn phải có nhiệm vụ tự học, tự
nghiên cứu trên cơ sở tư duy độc lập. Về bản chất, quá trình học tập của sinh
viên ở bậc Đại học là quá trình nhận thức có tính nghiên cứu. G. A. Kelly, nhà
Tâm lý học xuất sắc thế kỷ XX, nhìn nhận mỗi con người là một nhà khoa
học, luôn luôn cố gắng hiểu, lý giải, dự đoán, kiểm soát thế giới các sự kiện
để có thể tác động qua lại có hiệu quả với chúng. Cách thức nhận thức thế
giới của con người giống hệt như cách thức nhận thức của nhà khoa học.
Người trưởng thành lại có xu hướng học thông qua giải quyết các vấn đề, họ
chủ động xây dựng kiến thức cho bản thân bằng cách tạo các biểu tượng của
chính họ về những điều cần học, lựa chọn thông tin mà họ nhận thấy là thích
hợp, diễn giải thông tin trên cơ sở kiến thức và nhu cầu hiện có của họ
(Prawat và Floden, 1994) [49]. Chính những lý do này cho phép khẳng định,
về mặt Tâm lý học dạy học, tổ chức dạy học mang tính chất nghiên cứu là
phù hợp hơn cả đối với sinh viên.
Người học ở Đại học có những đặc điểm đặc trưng là: họ là những
người trưởng thành cả về thể chất tâm lý và nhận thức. Do đó, họ phải được
đối xử như người lớn trong mọi hoạt động. Sinh viên là người đã có định
hướng về nghề nghiệp gắn với nhu cầu và lợi ích của họ. Vậy nên dạy học
làm sao để kích thích được nguyện vọng hướng nghiệp của họ. Sinh viên
hoàn toàn có khả năng tự học tập, nghiên cứu, tuy nhiên khả năng đó được
phát huy thế nào còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có cách dạy của
giáo viên. Theo quan niệm của UNESCO sản phẩm Đại học trong thời đại
ngày nay phải có năng lực trí tuệ, có khả năng sáng tạo và thích ứng. Có khả
năng hành động để có thể lập nghiệp, có năng lực tự học, tự nghiên cứu để
có thể học thường xuyên và phải có năng lực quốc tế như ngoại ngữ, văn hóa
toàn cầu để có khả năng hội nhập. Để đáp ứng được những yêu cầu trên thì
sinh viên phải có cách học chủ động, khả năng tự lực tìm kiếm, xử lý thông tin
và khát khao sáng tạo.
Do quy luật phát triển không đồng đều về mặt tâm lý, do những điều
kiện, hoàn cảnh sống và cách thức giáo dục khác nhau, không phải bất cứ
sinh viên nào cũng được phát triển tối ưu độ chín muồi trong suy nghĩ và
hành động còn hạn chế. Chính vì vậy, tổ chức hoạt động dạy học cho sinh
viên cần bảo đảm tốt nhất yêu cầu cá biệt hóa dạy học, phù hợp với tốc độ,
nhịp độ học tập của từng người học. Mỗi người học đặt ra và giải quyết các
vấn đề trong khả năng của mình, với tốc độ và nhịp độ phù hợp nhất với
mình. Đồng thời cũng cần bảo đảm một sự đánh giá khách quan nhất những
tiến bộ của mỗi sinh viên trong hoạt động học tập.
Khi nghiên cứu đặc điểm tâm lý của sinh viên trong quá trình nhận
thức, không những cần phải phát hiện ra những -tính chất riêng lẻ thuộc về
sinh viên mà còn phải vạch ra đặc tính của mối tương quan giữa những tính
chất khác nhau và nắm lấy sự độc đáo điển hình của phong thái tâm lý chung
của sinh viên. Nhiệm vụ phát triển toàn diện sinh viên và nâng cao hiệu quả
của việc giảng dạy chỉ có thể được tiến hành dựa trên những quy luật chung
của học tập cũng như đặc điểm về tâm lý lứa tuổi này.
3.3. Các yêu cầu tâm lý trong việc tích cực hóa hoạt động nhận thức và học tập của sinh viên
3.3.1 Tích cực hóa hoạt động nhận thức và học tập của sinh viên gắn liền với phát triển động cơ và hứng thú, tính tự giác học tập.
Phương pháp dạy học tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực
hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính
tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực
của người dạy. Tuy nhiên, để tích cực hóa hoạt động nhận thức và học tập
của sinh viên thì giảng viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp
thụ động. Tính tích cực nhận thức và học tập của sinh viên đặc trưng ở khát
vọng hiểu biết, cố gắng về trí tuệ và có nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh
tri thức. Nguồn gốc của tính tích cực trong hoạt động bắt nguồn từ động cơ
hoạt động. Chính vì vậy, việc tích cực hóa hoạt động nhận thức và học tập
của sinh viên chỉ thực sự hiệu quả từ việc hình thành động cơ học tập. Quá
trình này còn bị bỏ ngỏ thì giáo dục chưa làm được công việc giúp người học
trở thành những người tự chủ và có thể thực hiện được các kế hoạch cũng
như mong muốn của bản thân và xã hội. Trước đây, sinh viên thường được
giáo dục chung chung với những động cơ to lớn và cao cả mà thiếu tính ứng
dụng, thiếu tính thực tiễn. Chính những động cơ mơ hồ, kiến thức chung
chung và khác biệt với thực tế làm cho họ chưa đủ tự tin để thể hiện các động
cơ thực sự và chính đáng của mình. Điều này, khiến cho không ít sinh viên
còn rụt rè với sự lựa chọn của mình, về con đường mình sẽ đi trong tương lai,
về kiến thức mình đang được tiếp thu. Giảng viên sử dụng những trải nghiệm
về cuộc sống để quan tâm, hướng dẫn và thúc đẩy để động cơ nhận thức của
mỗi sinh viên. Sinh viên nên được các giảng viên khuyến khích để xác định
mục tiêu phấn đấu được giảng viên hỗ trợ để vạch kế hoạch và giúp đỡ trong
quá trình thực hiện.
Điều quan trọng cần phải lưu ý là trong mỗi sinh viên có các động cơ
khác nhau. Muốn phát động được động cơ học tập cần khơi dậy mạnh mẽ ở
các em nhu cầu nhận thức, nhu cầu chiếm lĩnh đối tượng học tập. Nếu biết
cách khơi gợi một cách khéo léo, chúng ta có thể khơi nguồn tính tự giác, tích
cực nhận thức và học tập ở sinh viên. Điều này chủ yếu phụ thuộc vào việc
giúp sinh viên đưa ra và phát triển các động cơ và khuynh hướng học tập tự
nhiên của họ hơn là quy định hoặc cung cấp cho họ những gì họ thiếu. Sau
đây, có thể đề cập đến một số định hướng tiếp cận cơ bản để hình thành
động cơ trong học tập gắn liền với mong muốn thành công của sinh viên
nhằm khơi gợi và phát triển tính tích cực nhận thức và học tập ở họ:
* Giúp sinh viên hiểu rõ tầm quan trọng, cấu trúc môn học và cách thức
để sinh viên đạt kết quả học tập tốt
Trong thời gian đầu cung cấp thông tin cho sinh viên và phác thảo tại
sao kiến thức cơ bản cần thiết đối với việc áp dụng đặc trưng trong các môn
học khác, trong nghề nghiệp tương lai hoặc trong cuộc sống hàng ngày.
Trong buổi học đầu tiên, người thầy nên đưa ra phác thảo những mục tiêu
của môn học trong chương trình giảng dạy và thảo luận về các mục tiêu đó.
Từ đó, sinh viên có thể nghĩ ra mục đích của họ đối với môn học. Giảng viên
có thể giải thích các mục tiêu của môn học không chỉ bằng một bảng tóm tắt
khối lượng kiến thức mà bạn mong muốn sinh viên sẽ lĩnh hội mà còn là sự
tham gia của sinh viên. Cả mục tiêu môn học và mục tiêu cá nhân đều phải
được đặt ra một cách phù hợp. Sinh viên sẽ hứng thú nếu những thách thức
đó mang tính thực tế và họ dễ dàng thấy được hướng đi thành công. Bên
cạnh giúp sinh viên xác định mục tiêu học tập thì để tính tích cực được duy trì
và phát triển, không thể thiếu những cách thức hay phương pháp để có thể
đạt được tri thức. Điều này đồng nghĩa với việc cần làm cho sinh viên ý thức
được quá trình học và nắm vững các phương pháp làm việc trí tuệ để hiểu,
ghi nhớ tài liệu học tập, hình thành kỹ năng, kỹ xảo và thực hiện việc kiểm tra
sự lĩnh hội kiến thức.
Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là việc quán triệt mục tiêu môn học cần
được thực hiện một cách xuyên suốt và sâu sát trong suốt quá trình triển khai
môn học. Từng đơn vị tri thức, từng kỹ năng hay thậm chí từng ví dụ minh
họa đều nhằm hướng đến việc giúp sinh viên hiểu rõ nhất về mục tiêu học tập
và thấm nhuần nó trong nhận thức - thái độ và hành động.
* Khơi gợi và tận dụng hứng thú học tập của sinh viên là động lực thúc
đẩy trực tiếp tính tích cực nhận thức và học tập
Sinh viên chỉ thực sự cảm nhận được sự hấp dẫn, sự lý thú của môn
học đặc biệt là nhu cầu khám phá môn học khi những tri thức họ tiếp thu
chạm vào đúng hứng thú lĩnh hội tri thức ở họ. Nhưng làm sao những tri thức
và hoạt động học tập mà giảng viên triển khai có thể đáp ứng nguyện vọng
học tập ở sinh viên? Chúng ta biết rằng trong môi trường giảng đường, trình
độ của sinh viên ở nhiều cấp độ khác nhau cũng như sự thích thú trong môn
học. Để khơi gợi được hứng thú nhận thức ở sinh viên cần phải dành thời
gian tìm hiểu nguyện vọng học tập ở họ, mong muốn đóng góp cho môn học.
Một hình thức đơn giản để thực hiện là giảng viên yêu cầu sinh viên cung cấp
thông tin về mức độ chuẩn bị, về các môn học đã học và lý do họ tham gia
môn học này.
Không chỉ ghi nhớ thông tin sinh viên cung cấp về hứng thú của mình
mà cách áp dụng của thông tin này lại vô cùng quan trọng. Việc liên kết môn
học với hứng thú của sinh viên rất hữu hiệu để gia tăng hiệu quả giảng dạy.
Thông thường, giảng viên làm tăng sự thích thú của chính họ trong một chủ
đề nào đó bằng sự đam mê hoặc nhiệt tình và thông qua đó khơi dậy hứng
thú trong sinh viên. Hứng thú là một động cơ quan trọng để sử dụng những
phương pháp học tập tích cực giúp sinh viên tiến bộ vượt bậc. Một khi đã
nắm bắt được hứng thú học tập ở sinh viên, người giảng viên có thể sàng lọc
được các phương pháp và nội dung tích cực một cách phù hợp nhằm lôi cuốn
sinh viên vào việc nhận thức môn học, kích thích sự ham hiểu biết và huy
động được toàn bộ chức năng trí tuệ của người học. Khi ấy, hoạt động nhận
thức và học tập không phải là sự căng thẳng, thúc ép không đáng có khi
người học nhận thức đúng nghĩa sự hấp dẫn của vấn đề, nhận thức được sự
hứng khởi của trí tuệ để tìm ra những thái độ tích cực và hành vi cụ thể để
đến với tri thức bằng sự tham gia của hoạt động nhận thức của bản thân một
cách tối đa. Một thách thức cần vượt qua là làm sao để mỗi buổi học đều là
một cơ hội gây hứng thú cho sinh viên, mỗi chương - mỗi bài đều đem đến
những ấn tượng khó phai và đầy lý thú thì việc tích cực hóa hoạt động học
tập của sinh viên sẽ dễ dàng hơn và thuận lợi hơn.
* Chuẩn bị tài liệu dù họ kết hợp việc sử dụng những ví dụ thực tế để
minh hoa cho việc ứng dụng các nguyên lý và lý thuyết, hướng dẫn sinh viên
biến tài liệu giảng dạy thành tài liệu học tập cho riêng mình, chỉ rõ sự phù hợp
của tài liệu
Nếu sinh viên nắm vững tài liệu lý thuyết sẽ thâm nhập đích thực vào
bản chất của các quy luật, khái niệm, nguyên lý và có thể vận dụng một cách
đầy biến hóa trong những trường hợp khác nhau. Chính vì vậy, tính tích cực
nhận thức và học tập ở sinh viên không thể thiếu tính tích cực nhận thức đối
với những kiến thức lý thuyết. Người dạy phải ưu tiên và đồng thời giúp sinh
viên nhận thức được một cách nghiêm túc vị trí của nó trong quá trình học tập
hay nhận thức ở sinh viên. Việc triển khai lý thuyết chỉ thu hút sinh viên trong
bối cảnh nó đã được chứng minh, kiểm nghiệm trong thực tiễn, giúp họ liên
kết tài liệu môn học với sự hứng thú học tập của mình, biến cái chung thành
cái riêng để lĩnh hội thông các kinh nghiệm thực tế của mình.
Sinh viên không học được nhiều nếu chỉ ngồi trong lớp, lắng nghe
giảng viên giảng bài, ghi nhớ những bài tập đã được chuẩn bị sẵn và đưa ra
câu trả lời. Sinh viên phải nói về những điều mình đang học, viết về những
điều đó, liên hệ những gì mới học với những kinh nghiệm của bản thân trong
quá khứ và vận dụng nó vào cuộc sống thường ngày. Họ phải biến những
điều ghi trong sách vở trở thành những kiến thức của chính bản thân họ. Sinh
viên sẽ sẵn sàng nỗ lực nhận thức nhiều hơn khi nhận thức sự phù hợp của
tài liệu, có nghĩa là họ nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của những kiến
thức lý thuyết trong thực tế cuộc sống. Ngoài ra, nó còn giúp sinh viên tăng
thêm hiểu biết trong việc đưa ra một vấn đề và giải quyết vấn đề đó. Điều này
sẽ góp phần giải quyết được mâu thuẫn là sinh viên chỉ mong mỏi tiếp cận kỹ
năng và tình huống thực tế nhưng sẽ dễ dàng bị “hẫng” khi quy trình thay đổi,
khi công nghệ mới được áp dụng và những tình huống mới của xã hội xuất
hiện. Vì vậy, phải đảm bảo hài hoà giữa việc lĩnh hội kiến thức lý thuyết một
cách hệ thống song song với việc rèn kỹ năng, lĩnh hội các mô hình tư duy vì
phương pháp luận, cách thức làm việc và kỹ năng nghề nghiệp đều thực sự
hữu dụng như nhau.
3.3.2. Tích cực hóa hoạt động nhận thức và học tập của sinh viên gắn liền việc kích thích tinh thần tự tìm tòi, khám phá tri thức, nghiên cứu khoa học ở sinh viên
Vai trò của giảng viên là đào tạo không chỉ nhằm vào những gì sinh
viên cần đạt mà còn là giúp họ cách tìm ra và nắm bắt kiến thức từ những đề
tài độc lập ngoài giờ học. Bằng cách tạo cơ hội cho sinh viên phát triển các kỹ
năng học tập thông qua việc ứng dụng nội dung môn học vào các đề tài
nghiên cứu hoặc bài luận, giảng viên có thể khuyến khích sinh viên kiểm tra
các mục tiêu, động lực và phương pháp học tập. Khi đưa ra các yêu cầu,
nhiệm vụ nên đưa ra hướng dẫn và gợi ý rõ ràng cách thức để tiến hành và
kết quả cần đạt được. Giảng viên nên chia nhỏ bài tập, làm mẫu, nhắc nhở và
hướng dẫn sinh viên cách suy nghĩ và giải quyết vấn đề. Dần dần giúp cho
sinh viên thấy được trách nhiệm của mình. Kết quả của phương pháp dạy học
này là thúc đẩy họ phấn khích kiên trì với những vấn đề xác thực, kết hợp các
kiến thức và kinh nghiệm sẵn có với cách học mới.
Để có được hiệu quả lâu dài đối với tri thức, người dạy phải giúp sinh
viên hiểu và kết hợp các nguyên tắc học tập độc lập với việc học tại trường,
tự tìm kiếm tri thức. Hình thức này được gọi là “học tự điều chỉnh". Nó bao
gồm các hoạt động tích cực, tự định hướng và tự chủ, các động lực học tập
và nhận thức về những bài tập trên lớp của từng sinh viên. Phương pháp
giảng dạy tăng cường việc tự học là giới thiệu hoặc tăng cường những thói
quen cần thiết. Những thói quen này tạo cơ sở cho các thành tích mang tính
sáng tạo và có ý nghĩa trong học tập. Mọi sinh viên đều có kỹ năng tư duy,
nhưng không phải ai cũng dùng nó một cách có hiệu quả Kỹ năng tư duy có
hiệu quả khó đạt được ngay nhưng sinh viên có thể phát triển dần dần thông
qua các kỹ năng tự học. Việc rèn luyện cho sinh viên kỹ năng tự học là một
mấu chốt trong việc tích cực hóa nhận thức và học tập ở họ.
Phương pháp tự học có tác dụng bồi dưỡng năng lực tự học, kỹ năng
tự học làm cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên. Trong
quá trình học tập, mỗi sinh viên tự mình chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng,
phải nắm vững những cơ sở của nghề nghiệp tương lai và có tiềm năng vươn
lên thích ứng với những yêu cầu trước mắt và lâu dài do thực tiễn xã hội đặt
ra. Muốn vậy, khi tiến hành hoạt động học tập, sinh viên không chỉ phải có
năng lực nhận thức thông thường mà cần tiến hành hoạt động nhận thức
mang tính chất nghiên cứu trên cơ sở khả năng tư duy độc lập, sáng tạo phát
triển ở mức độ cao. Điều đó có nghĩa là dưới vai trò chủ đạo của thầy, sinh
viên không nhận thức một cách máy móc chân lý có sẵn mà còn đào sâu
hoặc mở rộng kiến thức... Mặt khác, trong quá trình học tập, sinh viên đã bắt
đầu thực sự tham gia hoạt động tìm kiếm chân lý mới. Đó là hoạt động tập
dượt nghiên cứu khoa học được tiến hành ở từng mức độ từ thấp đến cao tùy
theo yêu cầu của chương trình. Hoạt động nghiên cứu khoa học này giúp sinh
viên từng bước tập vận dụng những tri thức khoa học, phương pháp luận
khoa học, những phẩm chất, tác phong của nhà nghiên cứu nhằm góp phần
giải quyết một cách khoa học những vấn đề do thực tiễn xã hội, thực tiễn
nghề nghiệp đặt ra. Tính tích cực nhận thức và học tập của sinh viên được
nâng cao khi và chỉ khi tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi biến
được quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục.
3.3.3. Tích cực hóa hoạt động nhận thức và học tập của sinh viên gắn liền với việc tăng cường sự hợp tác giữa người dạy và người học, người học và người học
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của sinh viên không
thể đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp
nhận sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là
khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập, áp dụng phương
pháp tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này càng lớn. Việc sử
dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong trường đại học sẽ đáp ứng
yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi sinh
viên.
Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kỹ năng, thái độ đều
được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi
trường giao tiếp người dạy - người học, người học - người học, tạo nên mối
quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học
tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được
bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ
mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của chính
người dạy và người học. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là
lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối
hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Sinh viên có thể học từ
mối quan hệ tương tác với bạn học nhiều hơn là học từ việc lắng nghe giảng
viên truyền thụ, bởi vì một trong những phương pháp hay nhất để hiểu rõ hơn
và bền hơn chính là đi giải thích vấn đề cho người khác nghe. Rõ ràng học
hợp tác giúp cho khả năng làm việc với người khác cũng như khả năng tích
cực nhận thức tốt hơn. Đây cũng là một xu hướng dạy học được ủng hộ và
tán thành mạnh mẽ trong giai đoạn hiện nay.
Trong quá trình hợp tác, mỗi cá nhân sinh viên tìm thấy lợi ích cho
chính mình và cho tất cả các thành viên trong lớp nghĩa là thúc đẩy sự ảnh
hưởng tích cực lẫn nhau trong tập thể sinh viên. Sinh viên học bằng cách
thực hiện (Learning by doing) chứ không chỉ học bằng cách nghe giáo viên
giảng (Learning by listening). Quan điểm học tập này tạo nên môi trường hợp
tác giữa trò - trò, thầy - trò, sinh viên sẽ là trung tâm của quá trình dạy học và
giáo viên không độc chiếm diễn đàn. Đồng thời quan điểm học tập này thể
hiện tính dân chủ và dựa trên nguyên tắc tương hỗ. Học hợp tác sẽ có nhiều
ảnh hưởng tốt đến tính tích cực hoạt động nhận thức và học tập của sinh viên
như:
- Tạo điều kiện cho tất cả các đối tượng sinh viên có cơ hội tham gia
nhiều vào những hoạt động học tập trong lớp.
- Sinh viên được tạo điều kiện tối đa để phát huy tính chủ động sáng
tạo, phát triển năng lực tư duy.
- Thay vì chỉ học từ giảng viên, sinh viên còn học từ bạn, từ tài liệu sách
vở.
- Rèn luyện tinh thần hợp tác giữa các sinh viên trong lớp đồng thời
tăng cường trách nhiệm cá nhân trong tập thể, rèn luyện thói quen biết lắng
nghe ý kiến của người khác.
- Rèn luyện cho sinh viên năng lực diễn đạt, tăng cường sự tự tin.
Trong quá trình học, sự hợp tác giữa người dạy và người học, người
học và người học được tăng cường sẽ giúp sinh viên nỗ lực nhiều hơn, tích
cực hơn để nhận thức, nhận thức cao hơn, mở rộng hơn của tất cả các sinh
viên từ mức độ thấp đến mức độ cao. Những mô hình học hợp tác làm giảm
hiện tượng sinh viên thụ động tiếp thu kiến thức, tăng cường khả năng tự học
và tinh thần tích cực tự giác. Thường trong một nhóm nhỏ sinh viên sẽ chịu
nói hơn là trong một nhóm lớn, những sinh viên chưa hiểu vấn đề thường sẽ
hỏi sinh viên khác về khó khăn hoặc thất bại của mình chứ không muốn tiết lộ
với giảng viên đang có mặt ở đó: Những sinh viên đã hiểu vấn đề phải tích
cực tổ chức và tái tổ chức việc học tập của mình để có khả năng giải thích.
Do đó, cả những sinh viên chưa hiểu và những sinh viên đã hiểu đều có lợi,
dĩ nhiên sẽ giúp sinh viên tích cực học tập hơn.
Dạy học thông qua hợp tác tạo nên mối quan hệ tương tác giữa trò với
trò, giữa thầy với trò, tạo nên sự bình đẳng trong quan hệ giữa các thành viên
và tạo nên môi trường học tập an toàn. Trong môi trường đó mỗi cá nhân
được phép thể hiện tối đa khả năng nhận thức và kinh nghiệm của mình một
cách tự tin và thoải mái bởi cảm giác an toàn.
3.3.4. Tích cực hóa hoạt động nhận thức và học tập của sinh viên gắn liền với việc đảm bảo tính thích ứng kết hợp với việc tạo ra và duy trì không khí dạy học
Tạo ra và duy trì không khí dạy học trong lớp nhằm tạo ra môi trường
thuận lợi cho việc nhận thức và học tập ở sinh viên. Sinh viên sẽ dễ dàng bộc
lộ những hiểu biết của mình và sẵn sàng tham gia tích cực vào quá trình dạy
học, vì khi đó tâm lý của họ rất thoải mái. Trước mỗi tiết học tư duy của sinh
viên ở trạng thái nghỉ ngơi. Để kích thích được tính tích cực nhận thức ở sinh
viên, người dạy cần khởi động tư duy gây hứng thú học tập cho họ. Trước hết
giảng viên phải tích cực hóa hoạt động nhận thức của sinh viên ngay từ khâu
đề xuất vấn đề học tập nhằm vạch ra lý do của việc học và giúp sinh viên xác
định được nhiệm vụ học tập. Đây là bước khởi động tư duy nhằm đưa sinh
viên vào trạng thái sẵn sàng học tập, lôi kéo sinh viên vào không khí dạy học.
Khởi động tư duy chỉ là bước mở đầu, điều quan trọng hơn là phải tạo ra và
duy trì không khí dạy học trong suốt giờ học. Sinh viên càng hứng thú học tập
bao nhiêu thì việc thu nhận kiến thức của họ càng chủ động, tích cực bấy
nhiêu. Muốn vậy, cần phải chú ý đến việc tạo các tình huống có vấn đề nhằm
gây sự xung đột tâm lý của sinh viên. Điều này rất cần thiết và cũng rất khó
khăn, nó đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực và năng lực sư phạm của người dạy.
Nhịp độ hoạt động, hứng thú học tập và quá trình nhận thức của sinh viên
mới tiến triển theo một mạch liên tục không bị ngắt quãng. Chú trọng đến đòi
hỏi nhịp độ khẩn trương của công tác học tập, thời gian và nhịp độ cần được
đẩy nhanh trong những trường hợp cần thiết để tránh sự đơn điệu của các
kích thích. Kiến thức phải được trình bày trong dạng động, phát triển và mâu
thuẫn với nhau, tập trung vào những vấn đề then chốt, có lúc diễn ra một
cách đột ngột, bất ngờ nhưng vẫn đảm bảo có những khoảng không để sinh
viên suy nghĩ, trải nghiệm hay thậm chí là nghiền ngẫm khi cần thiết.
Trong bất kỳ một chương trình dạy học hay kế hoạch dạy học, đều phải
đảm bảo sự thích ứng cho tất cả các đối tượng khác nhau. Sự thích ứng này
phải dựa trên nền tảng của việc tìm hiểu thật kỹ tâm lý của người học, khả
năng, trình độ và cả những yêu cầu có liên quan. Việc tổ chức dạy học hay
thực thi chương trình bao giờ cũng có phần "cứng" và phần “mềm" để vận
dụng thích hợp cho từng đối tượng khác nhau. Bên cạnh việc triển khai
chương trình ở góc độ chọn lựa nội dung thì những yêu cầu cụ thể về mục
tiêu cần đạt được dưới dạng mục tiêu phát triển, cả việc triển khai phương
pháp dạy học cũng cần chú ý đến các dạng đối tượng khác nhau theo nguyên
tắc cá thể hóa để đảm bảo phát huy được tính tích cực của sinh viên trong
nhận thức và học tập.
3.4. Các cơ sở tâm lý của việc triển khai các xu hướng dạy học hiện đại hoặc các phương pháp dạy học tích cực hiện nay
3.4.1. Khát niệm về phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực dựa trên cơ sở tâm lý học cho rằng
nhân cách của trẻ được hình thành thông qua các hoạt động chủ động và
sáng tạo, thông qua các hành động có ý thức. A. Binet phân biệt thích ứng
máy móc với thích ứng thông minh, xem trí thông minh là hoạt động có chủ
định được điều khiển từ nội tâm, bằng cách xác lập mối liên hệ giữa chủ thể
với hành động. J. Piaget cũng quan niệm trí thông minh của trẻ phát triển và
mở rộng trường hoạt động của nó nhờ "đối thoại" giữa chủ thể hoạt động với
đối tượng và môi trường [12]. Theo lẽ đó, mà phương pháp giáo dục cần chú
trọng sự tự giáo dục, biến người được giáo dục thành người tự giáo dục, là
nhân vật tự nguyện, có ý thức về sự giáo dục của bản thân.
Thuật ngữ phương pháp dạy học tích cực dùng để chỉ những phương
pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực thủ động, sáng tạo
của người học. Theo Jean Vial (1968), phương pháp tích cực có ba tiêu
chuẩn chủ yếu: hoạt động, tự do, tự giáo dục [12]. Phương pháp dạy học tích
cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của
người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ
không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để
dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy
theo phương pháp thụ động.
Mỗi một phương pháp giảng dạy dù cổ điển hay hiện đại đều nhấn
mạnh lên một khía cạnh nào đó của cơ chế dạy - học hoặc nhấn mạnh lên
mặt nào đó thuộc về vai trò của người thầy. Cho dù các phương pháp thể
hiện hiệu quả như thế nào thì nó vẫn tồn tại một vài khía cạnh mà người học
và người dạy chưa khai thác hết. Chính vì thế mà không có một phương pháp
giảng dạy nào được cho là lý tưởng. Mỗi một phương pháp đều có ưu điểm
của nó. Do vậy, người giảng viên nên xây dựng cho mình một phương pháp
riêng phù hợp với mục tiêu, bản chất của vấn đề cần trao đổi phù hợp với
thành phần nhóm lớp học, các nguồn lực, công cụ dạy và học sẵn có, thể
hiện rõ được động cơ học tập và mong đợi của người học, thể hiện rõ được
vai trò của người học, người dạy, vai trò của các mối tương tác trong quá
trình học.
Xu hướng dạy học hiện đại cũng như các phương pháp dạy học tích
cực chú trọng việc lấy người học là trung tâm cho việc tổ chức hoạt động dạy
học trong nhà trường. Điều cần chú ý trong dạy học lấy người học làm trung
tâm là cần hướng đến một mục tiêu cao nhất là chuẩn bị cho người học thích
ứng với đời sống xã hội, tôn trọng mục đích và nhu cầu, khả năng, hứng thú
và lợi ích học tập của người học. Dạy để học và học trên nền tảng của dạy
nên chúng chỉ được thực hiện một cách hiệu quả nhất khi người học cần
được tìm hiểu và tôn trọng một cách tối đa. Mặt khác, khi người học là nhân
vật trung tâm nghĩa là việc chọn lựa nội dung dạy học cũng phải dựa vào
người học. Điều này đòi hỏi phải hiểu người học đã biết đến đâu, đã biết ở
mức nào để có thể có những bổ sung hoặc định hướng nội dung cần thiết.
Ngoài ra, việc tổ chức dạy học với các phương pháp dạy học cũng hướng về
người học. Phương pháp dạy học cần xác định ở đây không phải là dạy để
hay, dạy do giảng viên thích hay có thuận lợi - có thế mạnh mà phương pháp
đó có tạo ra những hiệu ứng tích cực từ phía người học, có thích hợp với
người học và đặc biệt có thực sự làm cho người học phát triển tối đa hay
không, phát triển toàn diện hay không đóng vai trò rất quan trọng.
Tóm lại, xu hướng dạy học hiện đại ngày nay chú trọng việc triển khai
được các phương pháp dạy học tích cực mà nền tảng của nó được đúc kết từ
quan điểm lấy người học làm trung tâm. Điều này được hiểu là dạy học
hướng vào người học, người học là cơ sở cực kỳ quan trọng để tổ chức hoạt
động dạy học, người học là nhân vật được chú trọng nhiều nhất, các hoạt
động đều hướng vào người học để người học khám phá hết mình nhằm phát
triển bản thân. Xu thế dạy học lấy người học làm trung tâm còn được hiểu đó
chính là chương trình dạy học do “người học kiểm soát" hay "chương trình
giảng dạy do người học quản lý” với mục tiêu sâu xa là mọi thứ đều hướng về
người học từ mục tiêu đến nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức và kể
cả sự đánh giá. Nói khác đi phương pháp dạy học tích cực là những cách
thức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
người học đạt đến hiệu quả phát triển chính mình một cách cao nhất.
3.4.2. Những định hướng tiếp cận nhằm triển khai các xu hướng dạy học hiện đại hoặc các phương pháp dạy học tích cực hiện nay
Việc lĩnh hội tri thức chỉ thật sự có kết quả khi người học được phát huy
nội lực để tự phát triển chính mình. Nếu trong quá trình học tập, người học
không tích cực suy nghĩ, tìm tòi, không có sự nỗ lực cao để tự chiếm lĩnh, thì
chỉ có thể tiếp thu được những gì mà thầy truyền thụ. Trong khi đó, tri thức
của nhân loại qua các thời kì phát triển ngày càng đồ sộ, việc dạy học trong
nhà trường không thể cung cấp được hết khối lượng tri thức đó. Sự bùng nổ
thông tin ngày nay khiến người ta phải nghĩ đến một chiến lược dạy học mới,
nhằm phát huy vai trò chủ thể của người học, trong đó chú trọng rèn luyện
phương pháp tự học, giảng viên là người tổ chức, hướng dẫn, khơi gợi hứng
thú hoạt động của học sinh. Thông qua hoạt động người học lĩnh hội được tri
thức, kỹ năng, hình thành thái độ, niềm tin, hệ thống giá trị mới. Mặt khác, xã
hội phát triển nhanh đòi hỏi con người phải thích ứng với những yêu cầu:
- Tự học suốt đời.
- Năng động sáng tạo.
- Tự lực giải quyết những vấn đề của cuộc sống.
Từ đó ta thấy phương pháp dạy học cũ theo lối thụ động là chưa phù
hợp với bản chất của lao động học tập và chưa đáp ứng được mục tiêu giáo
dục của xã hội hiện đại và phải có sự đổi mới. Việc triển khai các phương
pháp dạy học hiện đại là một trong những điều trọng yếu quyết định đến sự
phát triển khả năng tư duy, nhận thức, hình thành thế giới quan trong bối
cảnh cuộc sống ngày càng hiện đại và tri thức không ngừng được mở rộng và
nâng cao. Từ kết quả nghiên cứu của nhiều lĩnh vực các khoa học giáo dục
như triết học giáo dục, tâm lý học, giáo dục học và lý luận dạy học có thể rút
ra những cơ sở khoa học của việc triển khai phương pháp dạy học tích cực.
Những cơ sở này không hoàn toàn tách biệt mà có mối liên hệ với nhau. Từ
kết quả nghiên cứu của Triết học nhận thức có thể rút ra những cơ sở sau
đây cho việc tổ chức hoạt động nhận thức của người học trong quá trình dạy
học:
- Sự thống nhất giữa khách thể và chủ thể trong quá trình nhận thức.
- Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
- Sự liên kết giữa tư duy và hành động.
- Sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
- Sự liên kết giữa trường học và cuộc sống.
- Sự liên kết giữa kinh nghiệm và phương pháp.
Phù hợp với những quan điểm của triết học nhận thức, các nghiên cứu
thuộc nhiều lĩnh vực của Tâm lý học cũng dẫn đến những kết luận về hoạt
động nhận thức của người học. Đây cũng là những định hướng trong việc đổi
mới phương pháp dạy học, triển khai các phương pháp dạy học tích cực:
* Trong quá trình tiếp thu kiến thức các hành động trí tuệ và thực hành
có quan hệ tương hỗ với nhau
Mục đích của dạy học là đem đến sự phát triển toàn diện cho người
học. Điều đó nói lên rằng giữa dạy học và phát triển có mối quan hệ với nhau.
Đó là mối quan hệ hai chiều, biện chứng: Trước hết phát triển là mục đích
cuối cùng của hoạt động dạy học, đồng thời khi tư duy người học phát triển
thì việc thu nhận và vận dụng kiến thức của người học sẽ nhanh chóng và
hiệu quả hơn, quá trình dạy học diễn ra một cách thuận lợi hơn. Nghĩa là sự
hoạt động và trí tuệ của con người có mối quan hệ mật thiết với nhau. Không
có hoạt động thì trí tuệ không thể phát triển tốt được. Nhìn chung, dạy học
bằng cách này hay cách khác đều có thể góp phần phát triển học sinh, nhưng
dạy học được coi là đúng đắn nhất nếu nó đem lại sự phát triển tốt nhất cho
người học. Dạy học phải có tác dụng thúc đẩy sự phát triển trí tuệ của người
học. Một mặt trí tuệ của người học chỉ có thể phát triển tốt trong quá trình dạy
học khi giảng viên phát huy tốt vai trò của người tổ chức, điều khiển làm giảm
nhẹ khó khăn cho người học trong quá trình nhận thức, biết cách khuyến
khích người học tham gia vào hoạt động nhận thức tích cực trong dạy học.
Mặt khác, đối với người học để phát triển trí tuệ của mình không có cách nào
khác là phải tự mình hành động, hành động một cách tích cực và tự giác.
Những hành động vật chất có tác dụng kích thích tính tích cực học tập ở
người học thông qua việc họ được trải nghiệm bằng chính sự lĩnh hội tri thức
trước đó để chỉnh sửa, đào sâu hoặc mở rộng thêm tri thức. Đó chính là bản
chất của mối quan hệ biện chứng giữa dạy và học, giữa hoạt động và phát
triển.
* Các phẩm chất nhân cách phải được hình thành thông qua các hoạt
động phức hợp và trong một tổng thể
Theo lý thuyết hoạt động được L. S. Vygotsky khởi xướng và A. N.
Leontiev phát triển: bằng hoạt động và thông qua hoạt động, mỗi người tự
sinh thành ra mình, tạo dựng và phát triển ý thức cũng như nhân cách cho
bản thân. Tác giả A. Binet xem trí thông minh là hoạt động có chủ định được
điều khiển từ nội tâm bằng cách xác lập những mối liên hệ giữa chủ thể với
hành động. J. Piaget cũng quan niệm trí thông minh của trẻ phát triển nhờ sự
đối thoại giữa chủ thể hoạt động với đối tượng và môi trường [12]. Vận dụng
vào dạy học, việc học tập của người học có bản chất hoạt động. Bằng hoạt
động và thông qua hoạt động của bản thân mà người học chiếm lĩnh kiến
thức, hình thành và phát triển năng lực trí tuệ cũng như quan điểm đạo đức,
thái độ.
Giảng viên và sinh viên là những chủ thể của quá trình dạy học, vì thế
tích cực hoá hoạt động nhận thức của sinh viên phải do chính những chủ thể
này quyết định. Trong việc xác định rõ vai trò, nhiệm vụ của từng chủ thể có ý
nghĩa rất quan trọng, nó giúp cho chủ thể định hướng hoạt động của mình.
Trong giờ học, giảng viên không được làm thay cho sinh viên mà phải đóng
vai trò là người tổ chức quá trình học tập, hướng dẫn sinh viên đi tìm kiếm
kiến thức mới. Còn sinh viên phải chuyển từ vai trò thụ động sang chủ động
tham gia tích cực và sáng tạo vào quá trình học tập tránh tình trạng ngồi chờ
và ghi chép một cách máy móc. Muốn vậy, cần phải tăng cường hơn nữa việc
tổ chức cho sinh viên hoạt động. Kết quả của việc học tập phụ thuộc chủ yếu
vào hoạt động học của sinh viên. Nhiệm vụ chính của giảng viên là tổ chức,
hướng dẫn hoạt động học của sinh viên để thông qua hoạt động đó mà sinh
viên lĩnh hội được nền văn hóa xã hội, tạo ra sự phát triển những phẩm chất,
tâm lý và hình thành nhân cách cho chính bản thân.
Kết hợp xen kẽ các hoạt động tĩnh và động, cá nhân và tập thể đem lại
cho người học những trải nghiệm đa dạng và phong phú. Cũng cần phải chú
ý đến sự phối hợp giữa các hoạt động cá nhân và các hoạt động mang tính
tập thể. Đôi khi một không gian riêng biệt sẽ giúp cho mỗi sinh viên tập trung
suy nghĩ và làm việc hiệu quả hơn. Sau đó, để có cái nhìn đa chiều và tiếp thu
nhiều ý kiến hơn, lúc này mỗi sinh viên cần phải hòa mình vào tập thể để có
cơ hội trình bày kết quả và tranh thủ sự góp ý từ những người khác.
Học thông qua trò chơi, bài tập thi đua nhằm tạo sự hào hứng và cạnh
tranh lành mạnh giữa các cá nhân cũng như giũa các nhóm với nhau.
* Trong quá trình tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm từ hoạt động của bản
thân, giải quyết nhiệm vụ gắn với các tình huống thực tế, sự tự trải nghiệm
của người học có ý nghĩa lớn
Việc dạy học hay giáo dục phải bám sát các vấn đề thực tiễn, áp dụng
kiến thức vào giải quyết vấn đề của thực tiễn thay cho việc nhồi nhét thông
tin. Nội dung dạy học phải mới nhưng không quá xa lạ với người học mà cái
mới phải liên hệ, phát triển cái cũ và có khả năng áp dụng trong tương lai.
Kiến thức phải có tính thực tiễn, gần gũi với sinh hoạt, suy nghĩ hàng ngày,
thỏa mãn nhu cầu nhận thức ở người học. Thực chất của dạy học tích cực
chính là quá trình giúp người học nhận thức, thông hiểu và vận dụng kiến
thức vào cuộc sống thực tế. Điều này sẽ làm cho người học hiểu, tự lý giải
mình cần phải học những gì và bằng cách nào để chiếm lĩnh được nó.
Trong dạy học, cần rèn cho người học phương pháp tự học. Nếu người
học có được phương pháp, kỹ năng, thói quen và ý chí tự học thì sẽ tạo cho
họ lòng say mê học tập, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi người học và kết
quả học tập sẽ được tăng lên. Việc tự học của người học được xem như đỉnh
cao của việc học và làm được điều này nghĩa là người giáo viên đã đẩy việc
dạy học của mình đạt đến một thành quả dài lâu và bền chặt.
Trong dạy học tích cực cần khuyến khích sinh viên tự trải nghiệm thông
qua việc vận dụng kiến thức đã học vào điều kiện thực tế tại gia đình, tạo điều
kiện để các em có thể rèn luyện những kỹ năng đã học là một hình thức có ý
nghĩa, giúp liên hệ kiến thức đã học vào thực tế, liên hệ giữa gia đình và nhà
trường một cách chặt chẽ. Trong dạy học cũng cần phải xen kẽ và lồng ghép
những hoạt động thích hợp với chuyên đề để người học “trải nghiệm" những
điều đó thông qua hoạt động. Điều này vừa làm hứng khởi bầu không khí,
vừa tạo điều kiện cho người học vận động giúp tinh thần được sảng khoái;
thậm chí, đôi khi những tri thức không thể làm người học hiểu, thấm thía và
nhớ lâu bằng cách trải nghiệm trò chơi tâm lý; thông qua những trò chơi này
người học sẽ hiểu được những gì ẩn chứa đằng sau câu chữ. Đó là lý do mà
một số người cho rằng “bạn quên những gì bạn nghe, bạn nhớ những gì bạn
thấy và bạn hiểu những gì bạn làm". Nhà Tâm lý học nổi tiếng của Mỹ là John
Deway đã chủ trương “học bằng trải nghiệm" (learn by doing); tức là người
học sẽ tiếp thu, lĩnh hội tri thức ngay chính lúc họ đang thực hiện, đang trải
nghiệm những hoạt động học tập.
Việc dạy học tích cực đẩy mạnh định hướng tự học, tự trải nghiệm ở
người học nghĩa là đã tạo điều kiện để người học hướng đến một “đẳng cấp
mới" trong tính tích cực nhận thức. Ở đó, tính tích cực đã song hành với tính
độc lập nhận thức, tính tự lực nhận thức của bản thân người học.
* Việc học tập cần được thực hiện thông qua việc người học tương tác
với các mối quan hệ và môi trường xung quanh
Quan hệ người dạy - người học theo quan niệm của dạy học hiện đại là
mối quan hệ tương tác, không phải do người dạy chi phối một cách áp đặt
một chiều. Trong đó, người dạy đóng vai trò người điều phối, chịu trách nhiệm
chủ đạo, người học tham gia một cách tích cực và tự lực, cùng quyết định và
cùng chịu trách nhiệm. Sự tương tác được xây dựng trên tinh thần hợp tác,
những biện pháp nhằm nâng cao động cơ học tập của người học bằng cách
ép buộc hoặc đe dọa trừng phạt, thường không mang lại hiệu quả mà sẽ đưa
đến hệ quả tiêu cực.
Học thông qua trao đổi, thảo luận và hoạt động nhóm là cơ hội tốt để
mỗi người tự điều chỉnh bản thân mình sao cho phù hợp với người khác trong
các mối quan hệ; từ đó bản thân mỗi người sẽ trưởng thành và bản lĩnh hơn
để mở rộng những mối quan hệ khác trong xã hội. Học hợp tác chắc chắn
không chỉ là môi trường để chia sẻ, để khẳng định mà chắc chắn đó còn là
“nền tảng" rất quan trọng để hình thành những yếu tố cơ bản trong nhân cách
của một con người. Học hợp tác sẽ giúp từng cá nhân cảm nhận được sức
mạnh hay thế mạnh của mình đồng thời cảm nhận được sự bù đắp lẫn nhau
trong học tập. Những nhiệm vụ mang tính cộng tác yêu cầu người học không
thể giải quyết một mình mà cần thiết phải có sự cộng tác thực sự giữa các
thành viên trong nhóm. Tuy nhiên, vẫn phải đảm bảo tính độc lập giữa các
thành viên.
Tương tác với môi trường xung quanh thực chất là việc người học trải
nghiệm và thực hành tri thức trong thực tiễn cuộc sống, môi trường xung
quanh không chỉ bao hàm là môi trường lớp học, phòng thí nghiệm, nơi sinh
viên thực tập, phong trào Đoàn - Hội, công tác xã hội mà còn bao hàm cả
thực tiễn sống động đang diễn ra trong cuộc sống... Khi hòa nhập vào tất cả
môi trường ấy sẽ giúp người học tự đúc kết được rất nhiều sự trải nghiệm mà
không có một bài học nào có thể triển khai và cung cấp một cách đủ đầy.
Thông qua đó, tri thức được lĩnh hội vận động trong tư duy một cách tinh tế
hơn, sâu sắc hơn và sáng sủa hơn. “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn",
người học biết tự điều chỉnh và cân bằng lại mình khi hòa mình vào các mối
quan hệ khác nhau trong cuộc sống và chính họ sẽ tự động hóa rèn luyện kỹ
năng cho mình thông qua việc quan sát, trải nghiệm và cả những lần sự thất
bại trong hành trình tiến hành sự tương tác ấy.
* Môi trường học tập tích cực, tính độc lập, việc sử dụng nhiều giác
quan hà việc học tập kiểu khám phá có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển động
cơ và kết quả học tập
Dạy học tích cực cần coi trọng sự khám phá của người học vì người
học là người được tạo điều kiện tốt nhất để mày mò và tìm hiểu tích cực. Tất
nhiên, sự khám phá này không phải là tự mày mò không đích đến hay không
phải là sự tìm hiểu đầy hiểm nguy mà mọi sự hiểm nguy nếu có đều đã được
giới hạn, mọi sự thất bại cũng có thể được ước lượng một cách tương đối
trong phạm vi cho phép khá an toàn. Học tập khám phá giúp người học tiếp
thu những tri thức khoa học thông qua con đường nhận thức: từ tri thức của
bản thân thông qua hoạt động hợp tác với bạn đã hình thành tri thức có tính
chất xã hội của cộng đồng lớp học. Giảng viên kết luận về cuộc đối thoại, đưa
ra nội dung của vấn đề, làm cơ sở cho người học tự kiểm tra, tự điều chỉnh tri
thức của bản thân tiếp cận với tri thức khoa học của nhân loại. Từ đó, người
học tự điều chỉnh nhận thức góp phần tăng cường tính mềm dẻo trong tư duy
và năng lực tự học. Đó chính là nhân tố quyết định sự phát triển bản thân
người học.
Dạy học tích cực rất xem trọng việc tìm tòi ở người học vì chỉ có như
vậy mới đúng nghĩa với việc học bằng chính bản thân, học bằng chính sự nỗ
lực và bằng chính hành động của cá nhân người học để đạt được những kết
quả tương ứng. Lẽ công bằng rằng, người học sẽ không thể tự thân để hoàn
thành tất cả mọi hành trình khám phá. Ngay cả khi hành trình khám phá ấy
được sắp đặt hay “nhào nặn" thật kỹ thuật bởi người dạy thì người dạy trong
hoạt động dạy học tích cực cần có hướng dẫn kịp thời giúp cho sự tìm tòi của
người học đạt kết quả. Có như vậy thì dạy học tích cực sẽ được đặt trong mối
liên hệ đúng nghĩa và tương tác ở tầm vĩ mô với học tập tích cực.
Khác với dạy học thụ động trước đây, quá trình lĩnh hội tri thức của
người học chủ yếu được diễn ra dưới thính giác, thị giác thì với các phương
pháp dạy học hiện đại với việc cải thiện môi trường dạy học bằng việc ứng
dụng công nghệ thông tin có một vai trò và một sự tác động tích cực với việc
tạo dựng hứng thú học tập ở người học. Việc nghe - nhìn được tăng cường
và kích thích bởi nhiều yếu tố trực quan sinh động. Thông qua các hoạt động,
các trò chơi nhận thức tạo điều kiện để người học vận dụng đầy đủ các giác
quan của mình vào việc giải quyết nhiệm vụ, khai thác được tối đa sự tích cực
của các giác quan, thúc đẩy hứng thú học tập, khơi dậy tiềm năng của mỗi cá
nhân.
3.5. Vốn để dạy học hiệu quả ở bậc Cao đẳng - Đại học hiện nay3.5.1. Tiêu chí lựa chọn phương pháp dạy học hiệu quả ở bậc Cao
đẳng - Đại học hiện nay
Sản phẩm đào tạo của giáo dục Đại học nước ta sẽ hoạt động trong
một nền kinh tế thị trường có tính quốc tế, và trong một khung cảnh hội nhập
về văn hóa, giáo dục. Đặc điểm quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường là
cạnh tranh, đó là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển. Như vậy, sản
phẩm đào tạo của nền giáo dục đào tạo nước ta phải vừa biết sống hòa hợp
với cộng đồng dân tộc và quốc tế, vừa có năng lực cạnh tranh để tự khẳng
định và phát triển. Đó là những đòi hỏi quan trọng của thời kỳ mới đối với sản
phẩm đào tạo Đại học, cũng là những thách thức mới chưa bao giờ thể hiện
rõ ở giai đoạn trước đây của giáo dục Đại học nước ta.
Hội nghị giáo dục đào tạo trong thế kỷ tại Paris tháng 10 năm 1998 đã
đề ra những yêu cầu mới về năng lực của sinh viên tốt nghiệp. Sau năm năm
triển khai những hoạt động giáo dục đào tạo trên thế giới theo khuyến cáo
của Hội nghị Paris, Báo cáo tổng hợp của UNESCO năm 2003 có phân tích rõ
những thay đổi mạnh mẽ về bản chất và nhu cầu của thế giới việc làm và
trình bày khái quát các tiềm năng mà trường đại học cần tạo cho sinh viên
sao cho họ có thể đương đầu với những đòi hỏi của xã hội tri thức. Đó là:
- Các tiềm năng để học tập, nghiên cứu: dựa trên việc đào tạo chuyên
môn, nhưng còn bao gồm tư duy phê phán, giải quyết vấn đề có năng lực đổi
mới tư duy và học suốt đời.
- Các kỹ năng phát triển cá nhân gắn kết với xã hội: tự tin, quyết tâm
cao, tôn trọng các giá trị đạo đức, hiểu biết rộng về xã hội và thế giới...
- Các kỹ năng sáng nghiệp: các tiềm năng đáp ứng cả việc lãnh đạo và
làm việc đồng đội, làm chủ công nghệ thông tin truyền thông và các công
nghệ khác...
Ngay trong nhóm tiềm năng để học tập và nghiên cứu thì cách dạy và
học hiện tại ở các trường đại học nước ta thường cũng chỉ mới phát triển
được các năng lực nhận thức ở mức nhận biết và thông hiểu, khả năng giải
quyết vấn đề và tư duy độc của sinh viên còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, yêu
cầu của sự phát triển xã hội, môi trường hòa nhập quốc tế, sự phát triển một
cách vũ bão của công nghệ thông tin và nguồn trí thức khoa học mới đòi hỏi
sinh viên phải hình thành được khả năng tư duy sáng tạo, tư duy phản biện
và các tác phong học tập, tổ chức công việc một cách khoa học nhưng
phương pháp giáo dục trong trường Đại học hiện nay chưa hình thành được
cho sinh viên các khả năng ấy. Sự đổi mới tư duy trong sinh viên còn chậm,
khả năng chọn lọc và tiếp nhận nguồn thông tin mới chưa thật tích cực.
Phương pháp học quan trọng hơn nhiều so với kiến thức. Bới vì những tiềm
năng để học tập mà sinh viên rèn luyện được trong thời gian học Đại học là
nền tảng để họ tiếp tục con đường lĩnh hội tri thức nhân loại trong suốt quãng
đời còn lại. Tri thức mà họ thu nhận được ở nhà trường chỉ là gốc để họ tiếp
thu và cập nhật những tri thức mới của nhân loại để không ngừng nâng cao
trình độ chuyên môn và tay nghề của mình. Hệ thống tri thức khoa học ở bậc
Cao đẳng - Đại học không thể nào là một gói hành trang đầy đủ và trọn vẹn
được, bởi kiến thức bao la và luôn vận động để đổi mới từng giờ, từng ngày.
Lẽ đương nhiên, nếu sinh viên biết cách học thì vẫn chưa đủ, mà họ phải tự
tạo nên được thói quen và niềm say mê học suốt đời được hình thành thông
qua sự tương tác với giảng viên.
Ở nhóm tiềm năng các kỹ năng phát triển cá nhân gắn kết xã hội đề
cập đến nhiều giá trị nhân văn, liên quan đến khía cạnh nhân cách của một trí
thức hiện đại. Tuy nhiên, kiểu dạy học truyền thống khiến không ít sinh viên
trở nên thụ động, thiếu bản lĩnh, tạo ra tâm thế ỷ lại chờ vào sự cung cấp kiến
thức ở người thầy. Sự tràn lan các nguồn thông tin và lối sống thiếu lành
mạnh khiến một bộ phận thanh niên rơi vào vòng xoáy, lạc hướng mục tiêu vì
thiếu kỹ năng sống, thiếu khả năng định vị trong nhận thức và tư duy.
Ở nhóm tiềm năng các kỹ năng sáng nghiệp, có thể thấy rõ sự đề cao
của những kỹ năng mềm, kỹ năng sống để khẳng định mình, để tồn tại, đồng
thời để cạnh tranh phát triển sau khi mỗi cá nhân rời khỏi ghế giảng đường.
Tuy nhiên, một thực trạng dễ dàng nhận thấy là phần đông sinh viên Việt Nam
hiện nay thiếu kỹ năng mềm. Phần lớn sinh viên khi tốt nghiệp đều được
trang bị những kiến thức chuẩn về ngành nghề mà họ được đào tạo trong các
trường Đại học. Tuy nhiên, những kỹ năng mềm như: kỹ năng làm việc nhóm,
kỹ năng giao tiếp, tìm kiếm thông tin, giải quyết vấn đề để đáp ứng nhu cầu thị
trường lao động thì sinh viên còn rất hạn chế. Trong khi việc đào tạo kỹ năng
mềm tại các trường Đại học trên thế giới rất được chú trọng, thì quá trình
giảng dạy môn học này ở nước ta vẫn chưa thực sự được tiến hành một cách
thực sự bài bản và hệ thống.
Với những yêu cầu và thách thức đang đặt ra thì giáo dục Đại học Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay cần tiến hành và triển khai các phương pháp
giảng dạy tích cực, mạnh dạn áp dụng các xu hướng dạy học hiện đại. Trong
bối cảnh đổi mới này, bước đầu có thể đề cập đến một số tiêu chí dựa trên
việc tổng hợp nhiều quan điểm, ý kiến của các nhà giáo dục khác nhau để có
thể chọn lựa một hệ phương pháp dạy và học hiệu quả cho từng trường hợp
cụ thể:
* Chú trọng rèn luyện phương pháp học tập và nghiên cứu cho sinh
viên mà ưu tiên hàng đầu là khả năng tự học
Trước hết, cần quan niệm dạy cách học và học cách học nhằm tạo thói
quen, niềm say mê và khả năng học suốt đời là tiêu chí bao quát nhất của
việc dạy và học ở Đại học. Mọi phương pháp dạy, phương pháp học, nội
dung cần dạy, nội dung cần học đều phải xuất phát từ đó. Chẳng hạn, trong
chương trình đào tạo Đại học phải chú trọng kiến thức nền tảng, chứ không
phải kiến thức về một quy trình cụ thể, vì kiến thức nền tảng tạo cho người
học một cái nền vững chắc để tiếp tục học tập những thứ cụ thể khác. Trong
từng lĩnh vực, từng môn học có khá nhiều nội dung, nhiều vấn đề để học,
người giảng viên phải biết chọn nội dung gì, vấn đề gì mà khi học thì học viên
được rèn luyện năng lực tư duy cao cấp, được học cách học tốt nhất. Ngoài
ra, bằng cách khêu gợi sự tò mò, bằng cách tạo sự hấp dẫn của tri thức và
bằng tấm gương học tập của mình, giảng viên cố gắng tạo nên niềm say mê
học tập cho học viên, từng bước làm cho phương pháp học tập của sinh viên
ngày càng thống nhất với phương pháp nghiên cứu khoa học. Có không ít
người từng nghĩ về người giảng viên như là người chế biến thông tin. Ngày
nay, nhận thức về vai trò người giảng viên không phải dừng lại ở đó. Với sự
bùng nổ kiến thức thì vai trò người giảng viên không thể nào pha trộn, chế
biến tất cả những kiến thức mà sinh viên sẽ cần cho cuộc đời họ sau khi ra
trường, vì thế chúng ta cần nhấn mạnh “biết học như thế nào" là điều cốt yếu
của nền giáo dục hiện đại. Vì vậy, vai trò mới của người giảng viên trở thành
nhân tố kích thích trí tò mò của sinh viên, mài sắc thêm năng lực nghiên cứu
độc lập, tăng cường khả năng tổ chức và sử dụng kiến thức. Nói tóm lại, giúp
cho sinh viên có được các năng lực tự giáo dục suốt đời.
* Tạo điều kiện tốt nhất để phát huy tối đa tính chủ động trong học tập
của sinh viên.
Dạy học hiệu quả ở bậc Cao đẳng - Đại học hiện nay không thể nào
tách rời tiêu chí phát huy tính chủ động của người học, lấy sinh viên làm trung
tâm, dạy học hướng vào sinh viên, phát huy cao độ tính tích cực, độc lập,
sáng tạo của sinh viên. Người học là người đi học chứ không phải là người
được dạy, nhiệm vụ của người dạy là giúp đỡ người học, phục vụ người học
để làm nảy sinh tri thức ở người học, còn môi trường tự nhiên và xã hội xung
quanh và bên trong người học là tác nhân quan trọng ảnh hưởng đến việc
dạy và học.
Vì lẽ đó trong quá trình dạy học, sinh viên vẫn chiếm vai trò cực kỳ
quan trọng. Theo phương hướng, quá trình dạy học Đại học phải huy động
toàn bộ chức năng tâm lý, đặc biệt là khả năng tư duy độc lập, sáng tạo của
sinh viên nhằm thực hiện tốt mục tiêu đào tạo. Thực hiện được phương
hướng này, chúng ta sẽ thực sự biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào
tạo. Khi sinh viên ý thức và thực hiện được việc tự đào tạo, quá trình giáo dục
chuyển dần thành tự giáo dục và nhân cách của sinh viên sẽ không ngừng
được hoàn thiện.
* Xây dựng và khai thác phươlng tiện dạy học hiện đại một cách hiệu
quả.
Điều kiện cơ sở vật chất và phương tiện dạy học là một nhân tố quan
trọng đặc biệt góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả và dạy học ở đại học.
Điều này cho thấy rằng việc bổ trợ để có thể phát huy tính tích cực nhận thức
và học tập ở sinh viên một cách hiệu quả hơn thì cần khai thác công nghệ
thông tin và phương tiện truyền thông mới. Nó trở thành một công cụ quan
trọng trong các tiêu chí cần khai khác hợp lý khi dạy và học ở Cao đẳng - Đại
học hiện nay. Công nghệ mới là một khía cạnh văn hóa của thế giới mới, và
như mọi thứ văn hóa, nó sẽ được tiếp nhận tốt nhất ở tuổi trẻ, nó giúp cho
người học định hướng tư duy và thái độ của mình trong thời kỳ mới. Từ đó,
cần thông qua dạy và học làm cho thế hệ trẻ nhanh chóng làm quen và sử
dụng công nghệ mới một cách đúng đắn, để hình thành phong cách văn hóa
mới.
Tuy vậy, việc sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại để hỗ trợ các
phương pháp dạy học hiện đại phải có sự phù hợp và thích ứng, tránh việc
lạm dụng và phụ thuộc quá mức gây ra một tác dụng ngược “chủ động lại trở
thành thụ động" khi cả người dạy và người học đều quá phụ thuộc vào những
công nghệ mà không có sự tương tác tích cực và thường xuyên. Điều đó
cũng góp phần tạo cho sinh viên tránh thói quen ỷ lại, luôn thích ứng với
những điều kiện thực tế trong công việc và cuộc sống ở những môi trường
khác nhau với những thách thức khác nhau.
3.5.2. Một số nguyên tắc định hướng dạy học hiệu quả ở bậc Cao đẳng Đại học hiện nay
Có thể nói việc tổ chức hoạt động dạy học hiệu quả trong nhà trường
Cao đẳng - Đại học hiện nay gắn liền với việc phát huy tính chủ động, tích
cực nhận thức ở sinh viên. Đáp ứng yêu cầu này đòi hỏi trong công tác giảng
dạy người giảng viên phải thực sự chú ý đến các nguyên tắc thực thi các xu
hướng dạy học hiện đại. Điều quan trọng là cần kế thừa và phát huy các mặt
tích cực trong phương pháp truyền thống đồng thời mạnh dạn áp dụng các
phương pháp dạy học tích cực một cách hài hòa. Căn cứ vào cơ sở của việc
tổ chức hoạt động học tập tích cực có thể đề cập đến một số định hướng dạy
học hiệu quả như sau:
3.5.2.1. Nguyên tắc 1: Kiến thức và kỹ năng của giảng viên cần phải
được bổ túc thường xuyên
Một số nghiên cứu về Tâm lý Giáo dục đã đưa ra nhận định giảng dạy
hiệu quả tùy thuộc vào khả năng kiến thức của người dạy. Người dạy cần
phải có khả năng hiểu biết về nhiều phương diện của kiến thức: kiến thức căn
bản môn học, phương pháp truyền đạt kiến thức, duy trì không khí lớp học...
Một giảng viên giỏi và kinh nghiệm có khả năng truyền đạt một cách hữu hiệu
những con số, những sự kiện, những diễn tiến thực hiện bài vở với bài soạn
và lời giảng, rõ ràng, giản dị [17].
Đặc biệt, trong bối cảnh mà kiến thức và thông tin không ngừng được
chuyển biến và cập nhật thì buộc người dạy không ngừng học hỏi, sàng lọc
thông tin mới để bắt kịp với sự phát triển của xã hội. Lẽ đương nhiên là cải
tiến để theo kịp với tâm lý và thái độ của sinh viên trong thời đại tri thức mới
ngày nay. Giảng viên phải có kiến thức sâu, rộng, nắm vững lý luận sư phạm
ở nhiều lĩnh vực giảng dạy, đồng thời, phải biết chuyển tải những kiến thức
đó vào chương trình, vào phương pháp giảng dạy, vào các bài học cụ thể. Có
như vậy, giảng viên mới có thể giúp sinh viên tích cực chủ động, phát huy khả
năng sáng tạo trong quá trình học tập.
3.5.2.2. Nguyên tắc 2: Tăng cường sự tiếp xúc giữa người dạy và người
học
Nhiều nghiên cứu đã chứng tỏ rằng lòng nhiệt thành của người dạy tỷ
lệ thuận với kết quả học tập của người học. Với sự gần gũi, thân mật của
người giảng viên, sinh viên cảm thấy được chú ý hơn, không ngại ngùng khi
đặt câu hỏi, không ngại ngùng khi đưa ra câu trả lời dù lo ngại câu trả lời
không chính xác. Nhờ đó sinh viên cảm thấy tự tin hơn, có cơ hội phát huy
sáng kiến, phát triển động lực thúc đẩy học tập và định hướng tương lai tốt
hơn [17].
3.5.2.3. Nguyên tắc 3: Khuyến khích các hoạt động hợp tác giũa sinh
viên với sinh viên
Chất lượng học tập trong môi trường làm việc nhóm phát triển tốt hơn
so với làm việc cá nhân. Cũng giống như trong làm việc, học tập tốt cần đến
sự hợp tác và trao đổi chứ không phải ganh đua và biệt lập. Làm việc nhóm
giúp phát triển tính tích cực học tập, chia sẻ và trao đổi ý kiến giúp phát triển
trí tuệ và làm sâu sắc thêm sự hiểu biết của mỗi cá nhân. Đặc biệt, tinh thần
tập thể khiến sinh viên cảm thấy gắn bó với lớp học và có trách nhiệm hơn
với tập thể.
Giảng viên có thể xây dựng tinh thần tập thể cho sinh viên thông qua
các trò chơi nhóm, thảo luận nhóm hay bài tập nhóm. Việc chia nhóm sẽ tạo
ra không khí thi đua giữa các nhóm, khích lệ tinh thần thi đua của từng sinh
viên. Điều này còn khiến cho sinh viên cảm thấy sự đóng góp của mình có giá
trị hơn vì nó quyết định đến kết quả của cả nhóm.
3.5.2.4. Nguyên tắc 4: Khuyến khích các phương pháp học tập tích cực
và nghiên cứu khoa học
Dạy học hiệu quả có thể đạt được khi giảng viên giúp sinh viên tham
gia tích cực vào các hoạt động từ đó họ suy nghĩ và nhận định về các thông
tin được trình bày. Sinh viên không học được gì nhiều nếu chỉ đến lớp để
nghe giảng, ghi nhớ các dạng bài tập để làm các bài kiểm tra. Sinh viên cần
được trao đổi về những điều được học, viết về chúng, liên hệ chúng với
những điều đã biết và áp dụng chúng vào cuộc sống hàng ngày. Sinh viên
cần được sở hữu thật sự những điều họ được dạy. Sinh viên sẽ tham gia vào
nhiều hoạt động giúp họ ngẫm nghĩ lại các khái niệm và cách vận dụng khái
niệm đó.
Song song đó, giảng viên cần quan tâm giúp sinh viên liên hệ những
điều được học với thực tế, cung cấp những tình huống thực để sinh viên phân
tích, khuyến khích sinh viên đưa ra các đề xuất và hoạt động mới đối với môn
học, khuyến khích sinh viên tranh luận vấn đề, tổ chức làm việc nhóm,
xêmina... Khi đó, sinh viên không chỉ đơn giản lắng nghe, mà sẽ phát triển các
kỹ năng trong việc lĩnh hội các tri thức chuyên ngành. Bên cạnh đó, phát triển
năng lực của sinh viên thông qua việc khuyến khích và hướng dẫn họ tham
gia vào một vị trí mới, đó là vị trí một nhà nghiên cứu trẻ, rèn luyện tác phong
làm việc khoa học.
3.5.2.5. Nguyên tắc 5: Cung cấp thông tin phản hồi kịp thời
Công nhận các nỗ lực của sinh viên trong các hoạt động học tập bằng
các thông tin phản hồi đủ để họ cảm thấy những nỗ lực đó là xứng đáng và
giúp họ tiến gần đến mục đích hơn. Đồng thời giúp họ định hướng và khắc
phục lại những thiếu xót trong việc tiếp thu tri thức và hình thành kỹ năng. Khi
giảng viên phản hồi về các bài tập về nhà và các kỳ thi càng sớm thì sẽ càng
giúp sinh viên suy nghĩ nhiều không những về kiến thức mà còn là các
phương pháp học của họ. Tuy điểm số là yếu tố tạo động lực cho sinh viên
học tập nhưng các góp ý trong quá trình học tập sẽ giúp sinh viên nhiều hơn
trong việc trau dồi kỹ năng của họ.
Những lời khen tại lớp có thể giúp sinh viên phấn khởi và là động cơ
thúc đẩy họ, chẳng hạn, yêu cầu các sinh viên xuất sắc chia sẻ với các sinh
viên khác bằng cách cho phép họ trình bày trước lớp về các đề tài nghiên cứu
đã thực hiện. Ngoài ra, giảng viên có thể giúp sinh viên tập trung vào việc học
tập như là một mục đích chứ không đơn thuần vì điểm số cuối học kỳ đó, mà
còn làm cho sinh viên cảm thấy hài lòng về kiến thức đã lĩnh hội. Đặc biệt,
giảng viên yêu cầu sinh viên cho ý kiến phản hồi về môn học, đặc biệt vào
những tuần giữa học kỳ là biểu hiện sự quan tâm của giáo viên đối với việc
học tập của sinh viên. Đây cũng là cách kích thích sự nhiệt tình ở sinh viên vì
họ sẽ cảm thấy họ có ảnh hưởng lớn đến môn học theo hướng giúp họ đạt
được mục tiêu mà họ mong muốn: lĩnh hội tri thức và kỹ năng một cách thực
thụ.
3.5.2.6. Nguyên tắc 6: Kỳ vọng nhiều vào sinh viên
Kỳ vọng cao thường cho kết quả tốt vì nó đem lại một sự động viên tinh
thần khiến con người có điểm tựa để vượt qua trở ngại tiếp tục phấn đấu. Mọi
người đều muốn được kỳ vọng cao, kể cả những người có năng lực còn hạn
chế lẫn những người thông minh. Sinh viên sẽ cảm thấy phấn khởi để cố
gắng hơn trong học tập nếu họ được giảng viên và nhà trường đặt nhiều kỳ
vọng và hỗ trợ họ đạt được những kỳ vọng đó.
Việc kỳ vọng đồng nghĩa với việc sinh viên được khuyến khích để có
thể phát huy được những năng lực và sở trường của bản thân ở mức cao
nhất. Kỳ vọng còn đồng nghĩa với việc sinh viên được khen ngợi kịp thời về
những thành quả của mình, được góp ý một cách tinh tế và chân thành kèm
theo sự hỗ trợ kịp thời để điều chỉnh những thiếu sót. Định kỳ cải tiến bài
giảng theo hướng giúp sinh viên luôn nỗ lực để hoàn thiện mình với những
yêu cầu và thách thức mà nghề nghiệp tương lai đặt ra.
3.5.2.7. Nguyên tắc 7: Tôn trọng sự khác biệt giữa các sinh viên
Sự học có thể diễn ra theo nhiều cách thức và mức độ khác nhau. Sinh
viên vào trường với những năng khiếu và cách thức học tập không như nhau.
Những sinh viên tỏ ra vượt trội tại lớp học lý thuyết có thể lại chậm chạp trong
các buổi thực hành và ngược lại. Sinh viên cần có cơ hội để phát triển năng
khiếu và cách thức học tập riêng của họ đồng thời với việc họ được yêu cầu
phát triển thêm các năng lực mới.
Bên cạnh đó, giảng viên có thể giới thiệu nhiều phương pháp học tập
khác nhau phù hợp với đặc điểm tâm lý và trình độ của mỗi sinh viên. Gợi mở
những vấn đề để sinh viên có thể tự lựa chọn những khía cạnh mà mình quan
tâm, yêu thích để thực hiện, giải quyết vấn đề, nghiên cứu. Giảng viên cần
tránh khuynh hướng áp đặt đề tài thảo luận hoặc bài thuyết trình, cần để sinh
viên tự lựa chọn theo khuynh hướng nhận thức hoặc nhân cách của bản thân.
Điều này giúp sinh viên cảm nhận được sự tôn trọng, công bằng và có thái độ
học tập một cách tích cực.
3.6. Đánh giá việc học tập của sinh viên Cao đẳng - Đại học3.6.1. Đánh giá việc học tập của sinh viên Cao đẳng - Đại học theo
quan điểm dạy học tích cực
Dạy học tích cực có những yêu cầu đặc trưng về đánh giá. Trước hết,
cần đề cập đến khái niệm đánh giá. Đánh giá là một thuật ngữ không quá mới
nhưng không phải cách dùng mang ý nghĩa thống nhất. Có thể đề cập đến
các quan niệm sau:
Trong thuật ngữ tiếng Anh, người ta sử dụng hai từ lượng giá và đánh
giá. Lượng giá (Assessment) là quá trình thu thập bằng chứng (evidence) và
đưa ra nhận xét (makingjudgment) về nhu cầu, sức mạnh, khả năng, những
kết quả thu được của một nhóm. Đánh giá (Evaluation) là quá trình thu thập
số liệu (data) và đưa ra nhận xét về hiệu quả của các chương trình, các chính
sách và những thủ tục hay cách thức tiến hành một định hướng. Hiểu một
cách khái quát nhất thì đánh giá là quá trình hình thành những nhận định,
phán đoán về kết quả công việc, dựa vào sự phân tích những thông tin thu
được, đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đề ra, nhằm đề xuất những
quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất lượng
và hiệu quả công việc. Như vậy, đánh giá không đơn thuần là sự ghi nhận
thực tế, thực trạng mà còn là đề xuất những quyết định làm thay đổi thực tiễn,
thực trạng. Vì thế, đánh giá được xem là một khâu rất quan trọng, đan xen với
các khâu lập kế hoạch và triển khai công việc [22].
Đánh giá được xem là quá trình hình thành những nhận định, phán
đoán về kết quả công việc, dựa vào sự phân tích những thông tin thu được
đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đề ra nhằm đề xuất những quyết
định thích hợp để cải thiện thực trạng và nâng cao chất lượng của một hiệu
quả nào đó.
Quá trình đánh giá mang tính hệ thống cho nên việc đưa ra các quyết
định trong đánh giá thể hiện sự cân nhắc và tư duy. Có thể nhận thấy những
yêu cầu sau như những yêu cầu mang tính quyết đoán khi đánh giá:
Quyết định vì sao đánh giá.
Cái gì sẽ được đánh giá.
Các chiến lược thích hợp, khung thời gian, vai trò của những người
tham gia.
Thu thập thông tin phù hợp.
Phân tích và chia sẻ thông tin.
Sử dụng kết quả trong việc lập kế hoạch và hành động tương lai.
Việc đánh giá ở dạy học tích cực mang những đặc trưng rất cơ bản.
Đánh giá ở đây không chỉ nhằm mục đích nhận định khả năng thực tế và điều
chỉnh hoạt động học tập của người học mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận
định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của giáo viên. Đánh giá của
người dạy cũng mang một hàm ý sâu xa không hẳn là sự cho điểm hay sự kết
luận rằng đạt hay không đạt, đạt ở mức độ nào mà mang hàm ý sâu xa hơn là
thừa nhận một trình độ đạt được. Hơn thế nữa, đánh giá của người dạy cũng
có thể đưa ra những góp ý chân tình nhằm định hướng cho người học có thể
phát triển ở một mức cao hơn trong quá trình học tập tích cực dưới tác động
của dạy học tích cực.
Song hành với sự đánh giá của người dạy thì tự đánh giá cũng đóng
vai trò khá quan trọng. Trước hết, cần quan tâm đến khái niệm tự đánh giá.
Tự đánh giá là mức độ cao của tự ý thức. Tự ý thức phát triển đến một
mức độ nhất định thì tự đánh giá mới xuất hiện. Khi cá nhân có thể nhận thức
rõ ràng về các giá trị của bản thân thì cá nhân mới có thể đưa ra những nhận
định, những đánh giá về các giá trị đó. Có thể nói, tự ý thức chính là nền tảng,
là cơ sở dữ kiện để con người tự đánh giá bản thân.
Theo tác giả S. Franz, đã phân tích một cách sâu sắc bản chất tâm lý
và cơ chế của tự đánh giá dưới góc độ nhận thức luận “sự tự đánh giá là một
hình thức đặc biệt của hoạt động nhận thức của nhân cách". Quá trình tự
nhận thức bao gồm các quá trình sau:
- Thứ nhất, những quá trình cung cấp tài liệu ban đầu.
- Thứ hai, những quá trình dẫn đến sự xác định đơn giản về bản thân.
- Thứ ba, những quá trình dẫn đến sự tự đánh giá.
- Thứ tư, những quá trình dẫn đến sự tự phê phán.
Các quá trình này gắn bó chặt chẽ với nhau và chỉ có thể phân tách
chúng ra về mặt lý thuyết. Quá trình tự đánh giá tương ứng với ba khâu đầu
của quá trình tự nhận thức.
Khái niệm tự đánh giá mà S. Franz đưa ra cũng như sự phân tích cơ
chế tự đánh giá theo quan niệm của ông đã làm sáng tỏ một số điểm quan
trọng về lý luận. Ông nhìn nhận tự đánh giá như một quá trình tự nhận thức
đặc biệt, bao gồm các bước tiếp nối nhau trong một cấu trúc vừa chặt chẽ về
logic vừa linh hoạt trong sự so sánh, đối chiếu với đánh giá bên ngoài, với hệ
thống các tiêu chuẩn khách quan. Với cách nhìn nhận đó đã cho phép đi sâu
vào cơ chế của quá trình phức tạp này. Tự đánh giá là một hiện tượng tâm lý
phức tạp nhưng có thể điều chỉnh được. Chúng ta có thể lần theo từng bước
của quá trình tự đánh giá mà tìm ra nguyên nhân sai sót và khắc phục:
- Có thể cá nhân bị thiếu sót trong việc thu nhận thông tin từ bên ngoài
hay tự quan sát.
- Có thể quá trình xử lý thông tin bị sai.
- Cá nhân có thể tự đánh giá sai do không hiểu đúng nội dung, tiêu
chuẩn đánh giá và thang bậc các mức độ đánh giá. Do vậy không xác định
được các hiện tượng tâm lý của mình tương ứng với mức độ nào trong hệ
thống thang bậc đánh giá.
- Tự đánh giá cũng có thể sai lầm do tổ hợp nhiều nguyên nhân khác
nhau.
Tóm lại, lý luận về tự đánh giá của S. Franz đã làm sáng tỏ bản chất và
cơ chế tự đánh giá. Tác giả đã xem tự đánh giá như một quá trình tự nhận
thức đặc biệt trong đó cá nhân không chỉ xác định được các hiện tượng tâm
lý đang có ở bản thân mà còn phải chỉ ra mức độ tồn tại của các hiện tượng
tâm lý đó.
Như vậy, tự đánh giá là sự tự xem xét và đánh giá chất lượng và tính
hiệu quả của một yếu tố nào đó. Cũng có thể xem xét khái niệm tự đánh giá
như là quá trình tự xem xét trên cơ sở các tiêu chuẩn đánh giá. Dựa trên kết
quả tự đánh giá, có thể tiến hành điều chỉnh các yêu cầu nhằm đáp ứng tốt
hơn các tiêu chuẩn đã quy định. Tự đánh giá là một hình thức đánh giá mà
sinh viên tự liên hệ phần nhiệm vụ đã thực hiện với các mục tiêu của quá
trình học tập. Sinh viên sẽ học cách đánh giá các nỗ lực và tiến bộ, nhìn lại
quá trình và phát hiện những điểm cần thay đổi để hoàn thiện bản thân. Tự
đánh giá không chỉ đơn thuần là tự mình cho điểm số mà là sự đánh giá
những nỗ lực, quá trình và kết quả, mức độ cao hơn là sinh viên có thể phản
hồi lại quá trình học của mình.
Nói tóm lại, việc kết hợp hay đảm bảo song hành giữa đánh giá của
người dạy và tự đánh giá sẽ là cơ sơ khá quan trọng của dạy học tích cực.
Làm được điều này chắc chắn rằng dạy học tích cực cũng sẽ là nền tảng của
học tập tích cực. Nói khác đi, dạy học tích cực sẽ hướng đến học tập tích cực
để nâng cao người học lên một mức độ mới với đầy đủ những biểu hiện tích
cực trong nhận thức cũng như những biểu hiện của tính tích cực học tập.
3.6.2. Mục đích đánh giá việc học tập của sinh viên Cao đẳng - Đại học
Bất kể hoạt động đánh giá nào cũng phục vụ cho nhiều mục đích. Tuy
nhiên, tùy theo đối tượng cụ thể mà đánh giá hướng vào những mục đích
nhất định. Đánh giá trong giáo dục nhằm nâng cao chất lượng của tất cả các
hoạt động giáo dục, chương trình giáo dục, sản phẩm giáo dục. Đánh giá cần
phải mang tính dự đoán, chi tiết, có tác dụng điều chỉnh, phát triển nâng cao
[20]. Trên cơ sở đó, đánh giá việc học tập của sinh viên nhằm vào các mục
đích sau:
* phân loại hoặc tuyển chọn sinh viên
Đây có lẽ là mục đích phổ biến nhất của các hoạt động đánh giá học
tập. Với mục đích này, thông qua đánh giá người học được phân loại về trình
độ nhận thức, năng lực tư duy, hoặc kỹ năng. Sự phân loại này có thể nhằm
phục vụ cho những mục đích khác nhau: xét lên lớp, khen thưởng, xét tuyển
đối với bậc học cao hơn, xét tuyển dụng lao động... Việc đánh giá này cũng
làm cơ sở cho việc lựa chọn bồi dưỡng năng khiếu hay xếp nhóm để người
dạy có những tác động có hiệu quả.
* Duy trì chất lượng dạy và học
Đánh giá còn nhằm mục đích xem xét một chương trình học hoặc một
nhóm đối tượng người học có đạt được yêu cầu tối thiểu về mặt chất lượng
đã được xác định hay không. Hay nói cách khác là sự phù hợp với mục tiêu
giáo dục, để đạt được mục tiêu tốt hơn cần phải điều chỉnh hành động, từ đó
cho phép can thiệp kịp thời và làm cho hành động thành công hơn. Đánh giá
sẽ đặt sinh viên đứng trước trình độ học lực của họ, đồng thời tạo điều kiện
giúp đỡ cho họ cải thiện nâng cao về số lượng và chất lượng tri thức. Thông
qua đánh giá, sẽ xác định được thiếu sót của từng sinh viên và giúp đỡ họ
khắc phục.
* Thúc đẩy sinh viên học tập
Thực tiễn giáo dục cho thấy một khi hoạt động đánh giá được tổ chức
đều đặn và thích hợp thì chất lượng học tập không ngừng được nâng cao.
Đánh giá được xem như một chất xúc tác giúp cho “phản ứng học tập" được
diễn ra thuận lợi hơn, hiệu quả hơn. Trong tâm lý học, cho điểm hay xếp loại
học tập có thể được xếp vào loại hoạt động khích lệ. Hoạt động này đóng vai
trò như là nhân tố thúc đẩy bên ngoài. Nếu nó được kết hợp cùng với lòng
mong muốn, cả hai sẽ tạo ra động lực cho các hoạt động của con người. Tuy
nhiên, nếu quá đề cao hoặc áp dụng thái quá các biện pháp khích lệ thì có thể
dẫn đến kết quả làm cho người được khuyến khích điều chỉnh mục đích hoạt
động của họ. Không ít sinh viên hiện nay coi điểm số hay xếp hạng là mục
tiêu quan trọng nhất của sự học. Đây chính là tác dụng ngược của hoạt động
đánh giá học tập một khi nó không được thực hiện một cách đúng đắn.
* Giúp người dạy tự điều chỉnh
Thông qua đánh giá, giáo viên có thể biết được năng lực học tập hoặc
khả năng tiếp thu về một vấn đề cụ thể của người học, biết được tính hiệu
quả của một phương pháp giảng dạy hoặc một chương trình đào tạo nào đó
và từ đó có thể khắc phục những hạn chế. Từ đó giúp cho giảng viên đưa ra
những quyết định liên quan tới các vấn đề như lập kế hoạch, chuẩn bị nội
dung, phương pháp giảng dạy và các yếu tố khác trên cơ sở căn cứ vào khả
năng, hứng thú học tập của sinh viên.
* Chuẩn bị hành trang vào đời cho sinh viên
Thông qua các phương pháp đánh giá khác nhau, giáo viên có thể giúp
người học bổ sung, phát triển những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho cuộc
sống cũng như nghề nghiệp về sau. Ngoài những kỹ năng có tính đặc thù của
nghề nghiệp, những kỹ năng xã hội như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc
nhóm, kỹ năng tư suy sáng tạo... cũng rất quan trọng đối với người học về
sau. Bởi lẽ cho dù với loại công việc gì, con người cũng phải sống và làm việc
trong một môi trường tập thể nhất định. Bản thân họ phải có được những
cách thức để không ngừng phát triển bản thân đồng thời vượt qua được
những áp lực trong công việc và cuộc sống để có thể hạnh phúc và thành
công.
3.6.3. Yêu cầu đánh giá việc học tập của sinh viên Cao đẳng - Đại học hiện nay
Kết quả học tập thể hiện chất lượng của quá trình dạy học nó đích thực
chỉ xuất hiện khi có những biến đổi tích cực trong nhận thức hành vi của
người học. Đánh giá việc học tập là quá trình thu thập xử lý thông tin về trình
độ, khả năng mà người học thực hiện các mục tiêu học tập đã xác định, nhằm
tạo cơ sở quyết định sư phạm của người dạy, cho nhà trường và bản thân
sinh viên để giúp họ học tập tiến bộ hơn.
Trong một phúc trình của Uỷ ban Quốc tế về Giáo dục cho thế kỷ 21
của UNESCO có xác định bốn trụ cột của một nền giáo dục là: “Học để biết,
học để làm, học để chung sống và học để khẳng định mình". "Học để biết" nói
lên yêu cầu về mặt trí tuệ, bao gồm những kiến thức có thể giúp người học có
thể vươn lên trong học tập trong hoạt động nghề nghiệp, và học tập suốt đời.
“Học để làm" đòi hỏi sự thành thạo của các kỹ năng, thao tác cũng như
phương pháp tư duy. Học toàn diện đặt ra yêu cầu phát triển toàn diện về
chất, nhằm giúp người học phát triển nhân cách hoàn chỉnh. “Học để chung
sống" nhấn mạnh mục đích đào tạo ra những con người biết cách sống và
biết cách làm việc với những người xung quanh.
Bốn trụ cột nói trên là định hướng cho hoạt động giáo dục ở mọi cấp,
trong đó có hoạt động đánh giá. Như vậy, ngoài các yêu cầu về sự đa dạng
của năng lực nhận thức (nhận biết, hiểu, áp dụng, phân tích, đánh giá...),
phương pháp và nội dung đánh giá còn cần phải hướng đến những mục tiêu
đáp ứng cả bốn trụ cột trên. Có thể xem đây là những định hướng thể hiện
tính nhân bản của đánh giá học tập vì chúng hướng đến sự phát triển toàn
diện của con người. Lâu nay, hoạt động đánh giá ở mọi cấp học thường tập
trung chủ yếu vào mục tiêu "học để biết", thứ yếu cho “học để làm" và hầu
như là chẳng có mấy với “học toàn diện" và “học để chung sống". Điều này đã
góp phần không ít vào một thực trạng hiện nay là rất nhiều sinh viên ở các
trường Đại học học tập thụ động, rất nhiều sinh viên tốt nghiệp kém năng
động trong môi trường làm việc tập thể. Tất nhiên, để đánh giá được hai mục
tiêu “học để chung sống”, “học để khẳng định mình" cần phải có tương ứng
những phương pháp giáo dục thích hợp. Chúng ta không thể đánh giá về
những điều mà sinh viên không được trang bị. Triển khai các xu hướng dạy
học hiện đại để hướng đến mục tiêu giúp người học biết cách sống và làm
việc cùng với nhau.
Như vậy, theo quan điểm trên đánh giá việc học tập của sinh viên Cao
đẳng - Đại học trong bối cảnh hội nhập và phát triển đòi hỏi phải xác định
không chỉ là mặt tri thức lý thuyết mà bao hàm cả tri thức thực tiễn và kỹ năng
thực hành nhằm hướng đến việc xây dựng một mô hình nhân cách với đầy đủ
phẩm chất và năng lực cần thiết để học tập và nghiên cứu suốt đời, cạnh
tranh, hợp tác để phát triển bản thân và đất nước. Tiêu chuẩn đánh giá phải
đảm bảo tính toàn diện, đảm bảo tính khách quan, đảm bảo có tác dụng phát
triển năng lực trí tuệ, năng lực tư duy độc lập, sáng tạo của sinh viên.
Nội dung đánh giá là những kết quả học tập hàng ngày; cũng như
những kết quả phản ánh trong kiểm tra định kỳ, các kỳ thi. Kết quả của việc
đánh giá được thể hiện chủ yếu bằng điểm số theo thang điểm đã được quy
định. Ngoài ra, việc đánh giá còn được thể hiện bằng lời nhận xét của giảng
viên và những định hướng tích cực. Trong quá trình dạy học đại học, có thể
đề cập đến hai hình thức đánh giá sau đây:
- Đánh giá không chính thức
Đánh giá không chính thức diễn ra khi tiến hành dạy một bài học hay
một đơn vị học tập, bao gồm các hình thức quan sát, đặt câu hỏi, giao bài tập
về nhà cho sinh viên. Đánh giá này nhằm cung cấp liên tục cho giảng viên và
sinh viên những thông tin phản hồi từ đó có thể tiến hành những hoạt động
hiệu chỉnh nhằm nâng cao chất lượng học tập của người học và chất lượng
giảng dạy của giảng viên. Trong đánh giá không chính chính thức, việc quan
sát thường ngày là quan trọng để nhận biết mức độ hình thành và phát triển
các kỹ năng ở sinh viên, về các khía cạnh hợp tác làm việc nhóm, giao tiếp...
đây là những nền tảng giúp sinh viên có thể tự rèn luyện các kỹ năng mềm để
có thể “học để chung sống" nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục.
- Đánh giá chính thức
Đánh giá chính thức diễn ra vào cuối đơn vị học tập. Mục đích là xác
định kết quả học tập của sinh viên sau khi kết thúc giảng dạy.
Đánh giá việc học tập của sinh viên phải đưa ra được những kết luận
tin cậy về kết quả học tập bao hàm cả hai mặt kiến thức và kỹ năng của sinh
viên, phải giúp cho giảng viên có những quyết định phù hợp trong quá trình
dạy học, đồng thời thúc đẩy động cơ học tập và nâng cao trách nhiệm của
sinh viên trong học tập. Đánh giá việc học tập của sinh viên cần phải dựa vào
các bằng chứng được thu thập qua nhiều hoạt động khác nhau. Có thể đề
cập đến một số phương pháp đánh giá việc học tập của sinh viên được tiến
hành một cách phổ biến như: phương pháp kiểm tra tự luận, trắc nghiệm
khách quan, vấn đáp, kiểm tra thực hành... Ngày nay, nhằm đảm bảo tính
công bằng, chính xác, khách quan, phản ánh đúng trình độ tri thức, kỹ năng
hiện có của sinh viên thì xu hướng đánh giá việc học tập của sinh viên dần
chuyển từ kết quả đánh giá cuối cùng sang việc đánh giá cả quá trình học tập
và công khai tiêu chí đánh giá, chuyển từ đánh giá kỹ năng riêng lẻ sang đánh
giá các kỹ năng tổng hợp và kỹ năng vận dụng kiến thức, kết hợp giữa đánh
giá của người dạy và tự đánh giá của người học, đánh giá cũng căn cứ vào
nhiều thông tin đa dạng hơn trước đây.
Như vậy, theo xu hướng đổi mới phương pháp giảng dạy ở bậc Cao
đẳng và Đại học thì đánh giá việc học tập của sinh viên hiện nay được gắn
liền với quan điểm giáo dục toàn diện và quan điểm của dạy học tích cực.
Điều này tạo ra động lực thúc đẩy sự nỗ lực của sinh viên để hoàn thiện bản
thân và đặt người dạy vào một vị trí mới của công tác đánh giá - vị trí cộng tác
với sinh viên trong việc đánh giá việc học tập của chính họ.
Câu hỏi thảo luận
1. Tìm những từ ngữ diễn tả bản chất của hoạt động dạy của người
giảng viên ở môi trường Cao đẳng - Đại học.
2. Tìm những từ ngữ diễn tả bản chất của hoạt động học của sinh viên
ở môi trường Cao đẳng - Đại học.
3. Tại sao nói mối quan hệ giữa hoạt động dạy của giảng viên và hoạt
động học của sinh viên ảnh hưởng đặc biệt đến chất lượng của việc giảng
dạy?
4. Những yêu cầu về mặt kỹ thuật cần thực hiện để giảng viên thực
hiện đúng bản chất của hoạt động dạy là gì?
5. Đâu là những yếu tố kích thích sinh viên học tập tích cực? 6. Hình
thức đánh giá kết quả học tập của sinh viên hiện nay. Thực trạng và các giải
pháp.
Bài tập thực hành
Tìm hiểu những kỹ năng tổ chức để giảng dạy môn học trong môi
trường Cao đẳng - Đại học.
Khách thể: Chọn học viên trong lớp mà anh chị đang học tập hoặc
những đồng nghiệp trong các cơ sở giáo dục Đại học hoặc khách thể đánh
giá là sinh viên ở các cơ sở giáo dục Cao đẳng - Đại học.
Yêu cầu: Nêu những kỹ năng tổ chức mà giảng viên cần có khảo sát tự
đánh giá của giảng viên, khảo sát đánh giá của sinh viên về các kỹ năng ấy
trên nhóm mẫu. Ưu tiên nhóm mẫu tương ứng.
Cách thực hiện:
- Xây dựng phiếu tự đánh giá của giảng viên, xây dựng phiếu câu hỏi
lấy ý kiến đánh giá của sinh viên. Có thể sử dụng thêm các phương pháp điều
tra khác như phương pháp quan sát, đàm thoại, sưu tầm tài liệu...
- Tiến hành xin ý kiến phản biện của đồng nghiệp hoặc học viên cùng
học về phiếu tự đánh giá hoặc phiếu hỏi.
- Thu thập và xử lý số liệu để viết báo cáo.
- Rút ra các kiến nghị và đề xuất có liên quan đến nội dung nghiên cứu.
Ngoài ra, có thể chọn bài tập thực hành xây dựng phiếu lấy ý kiến phản
hồi của sinh viên về giờ dạy môn học, giảng viên và khảo sát tính khả thi.
Câu hỏi ôn tập
1. Trình bày bản chất của hoạt động dạy của giảng viên, hoạt động học
của sinh viên và mối liên hệ giữa chúng.
2. Tại sao nói bản chất hoạt động học của sinh viên là hoạt động khám
phá và hoạt động nghiên cứu khoa học, trải nghiệm - thực hành để chuẩn bị
nghề nghiệp?
3. Một số nguyên tắc định hướng dạy học hiệu quả ở bậc Cao đẳng -
Đại học hiện nay.
4. Các yêu cầu đánh giá việc học tập của sinh viên ở bậc Cao đẳng -
Đại học hiện nay.
5. Trình bày các cơ sở tâm lý của việc kích thích động cơ học tập của
sinh viên Cao đẳng - Đại học hiện nay.
Chương 4. ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP VÀ NHÂN CÁCH CỦA NGỪỜI CÁN BỘ GIẢNG DẠY CAO ĐẲNG - ĐẠI HỌC
4.1. Đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của người cán bộ giảng dạy Cao đẳng - Đại học (giảng viên)
Nghề nghiệp là một dạng công việc đòi hỏi người lao động phải có
chuyên môn nhất định hay nói một cách khác đó là một việc làm theo sự phân
công lao động của xã hội [21, tr. 676]. Như vậy lao động nghề nghiệp là một
lĩnh vực hoạt động, trong đó con người dùng sức lao động của mình để tạo ra
những sản phẩm cần thiết đáp ứng nhu cầu của xã hội. Nghề nghiệp trong xã
hội rất đa dạng. Hiện nay ở nước ta có khoảng trên 30 nhóm nghề khác nhau.
Dựa trên cách phân chia của tác giả E. A. Klimov [53] có thể phân chia các
nghề trong xã hội thành năm nhóm: “người - tự nhiên"; “người - kỹ thuật":
“người - hệ thống kỹ thuật"; “người - người"; "người - nghệ thuật".
Nghề dạy học là một công việc được xã hội phân công và ủy thác cho
nhà giáo. Nhà giáo là những người là những người làm nhiệm vụ giảng dạy,
giáo dục trong nhà trường và các cơ sở giáo dục. Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở
giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp trình độ sơ cấp
nghề, trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp gọi là giáo viên; nhà giáo
giảng dạy ở cơ sở giáo dục đại học và trường cao đẳng gọi là giảng viên [16,
Điều 70]. Cơ sở giáo dục đại học đảm nhận đào tạo trình độ Cao đẳng, Đại
học, Thạc sĩ, Tiến sĩ. [5. Điều 38].
Dạy học ở bậc Đại học là một dạng hoạt động có sự tương tác giữa
người dạy và người học, trong đó có sự truyền thụ và lĩnh hội những tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo đáp ứng mục tiêu giáo dục Đại học đã đề ra. Trong quá trình
dạy học người giảng viên là chủ thể của hoạt động dạy sẽ giữ vai trò chủ đạo.
Giảng viên có chức năng tổ chức, điều khiển hoạt động học của sinh viên, để
họ phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo trong học tập, phù hợp
với mục tiêu giáo dục ở đại học [11, tr. 25]. Mục tiêu giáo dục Đại học là đào
tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân,
có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào
tạo, có sức khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [16, Điều 37].
Hoạt động nghề nghiệp thường có những đặc trưng cơ bản như đối
tượng, mục đích, phương tiện và tính chất của hoạt động. Dựa trên những
đặc trưng này, nghề dạy học của giảng viên có những điểm đặc biệt sau:
4.1.1. Đối tương hoạt động của giảng viên là người trưởng thành
Nghề nào cũng có đối tượng hoạt động. Nghề dạy học thuộc nhóm
nghề “người - người" có đối tượng hoạt động trực tiếp là những con người
nên đòi hỏi người hoạt động trong nghề đó phải có được một số nét tính cách
như ân cần, lịch sự, tế nhị... đáp ứng được những yêu cầu nhất định về giao
tiếp như biết tôn trọng, đồng cảm... đồng thời có được một số kỹ năng trong
giao tiếp ứng xử sư phạm như quan sát, lắng nghe, thấu hiểu, biết cách
thuyết phục và xử lý tình huống...
Nhiều nghề nghiệp khác cũng có đối tượng quan hệ là con người
nhưng con người trong hoạt động nghề nghiệp của giảng viên là những con
người đã trưởng thành đang dốc sức học tập, rèn luyện cho mình những
phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của một loại hình nghề nghiệp nào
đó, xã hội mạnh hay yếu phụ thuộc rất lớn vào nội dung và chất lượng của
loại hình đào tạo này: Người trưởng thành đã có những suy nghĩ độc lập, tình
cảm khá ổn định, tự ý thức phát triển cao nên họ cũng có những yêu cầu và
đòi hỏi rất lớn về phẩm chất và năng lực của người giảng viên. Giảng viên,
với tư cách là người quyết định trực tiếp chất lượng đào tạo phải hội tụ đủ
năm tiêu chuẩn: (1) có phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt, (2) có bằng tốt
nghiệp Đại học trở lên và có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm; có bằng thạc sĩ
trở lên đối với giảng viên giảng dạy các môn lý thuyết ở chương trình đào tạo
đại học; có bằng tiến sĩ trở lên đối với giảng viên giảng dạy và hướng dẫn
chuyên đề, luận văn, luận án trong các chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ,
(3) có trình độ ngoại ngữ tin học đáp ứng yêu cầu công việc, (4) đủ sức khỏe
theo yêu cầu nghề nghiệp, (5) có lý lịch bản thân rõ ràng [5].
4.1.2. Nhiệm vụ trọng tâm của giảng viên là giảng dạy, nghiên cứu khoa học và phục vụ xã hội - cộng đồng
Hoạt động của giảng viên là quá trình giải quyết các nhiệm vụ liên quan
đến việc giảng dạy, giáo dục và chuẩn bị nghề nghiệp cho sinh viên. Phạm vi
hoạt động của giảng viên chủ yếu là phụ trách giảng dạy một số môn học phù
hợp với chuyên ngành đã được đào tạo. Song song với hoạt động giảng dạy,
giảng viên còn phải tham gia nghiên cứu khoa học và hướng dẫn sinh viên
nghiên cứu khoa học, tham gia quản lý đào tạo, quản lý hoạt động khoa học
và công nghệ, học tập và bồi dưỡng nâng cao trình độ. Giảng viên cũng phải
tham gia quản lý trường học, tham gia các công tác xã hội và các hoạt động
đoàn thể khi được tín nhiệm và các công tác khác do nhà trường, khoa và tổ
bộ môn giao phó.
Ngoài ra, giảng viên cũng có nhiệm vụ giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh
dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách người học, đối xử công bằng với người
học, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người học [5].
4.1.3. Nghề mà công cụ lao động chủ yếu là nhân cách của giảng viên
Khi giảng dạy, người giảng viên dùng chính nhân cách của mình để tác
động đến sinh viên. Đó là những phẩm chất nhân cách như thế giới quan,
niềm tin, lý tưởng, lương tâm, đạo đức nghề nghiệp... Đó là những năng lực
như năng lực dạy học, năng lực giao tiếp sư phạm, năng lực giáo dục, năng
lực nghiên cứu khoa học... Giảng viên không dạy sinh viên theo những khuôn
mẫu có sẵn mà họ dạy sinh viên bằng tất cả trí tuệ và tâm hồn của mình. K.
D. Usinxki đã từng nhấn mạnh rằng ảnh hưởng nhân cách của người làm
công tác dạy học và giáo dục đối với người học là một sức mạnh không có
sách giáo khoa nào, không có châm ngôn đạo đức nào, không có hệ thống
trừng phạt, khuyến khích nào có thể thay thế được. Đó là lý do mà K. D.
Usinxki khẳng định: "Dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”.
Với công cụ lao động chủ yếu là toàn bộ nhân cách của bản thân, cho
nên nghề dạy học đòi hỏi những yêu cầu về phẩm chất và năng lực rất cao
đối với từng giảng viên, buộc họ phải luôn phấn đấu học tập không ngừng,
tích cực trau dồi tri thức, kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp thì mới đáp ứng
được nhu cầu của sinh viên. Một nhân cách giảng viên phong phú về tâm
hồn, giàu có và độc đáo về trí tuệ, trong sáng về đạo đức sẽ có ảnh hưởng rất
lớn và tích cực đến nhân cách người học.
4.1.4. Nghề đòi hỏi tính khoa học, tính sáng tạo và tính nghệ thuật cao
Tính khoa học được thể hiện trước tiên ở việc người giảng viên phải
nắm vững khoa học bộ môn mình phụ trách và khi truyền đạt nó người giảng
viên cần nắm vững cả khoa học giáo dục, khoa học sư phạm. Ngoài ra, người
giảng viên còn tham gia nghiên cứu khoa học với tư cách như một nhà khoa
học thực thụ.
Tính khoa học thường đi kèm với tính sáng tạo. Sáng tạo là phải biết
làm ra cái mới. Công việc của giảng viên không phải là một công việc rập
khuôn máy móc mà nó đòi hỏi sự sáng tạo không ngừng. Sáng tạo trong cách
chế biến tài liệu học tập, sáng tạo trong các phương pháp giảng dạy, sáng tạo
trong nghiên cứu khoa học, sáng tạo trong giao tiếp ứng xử với từng đối
tượng sinh viên khác nhau... Dạy sinh viên không chỉ là truyền thụ kiến thức
mà dạy sao cho sinh viên nắm được con đường đi tới chân lý, tích cực chủ
động, sáng tạo trong học tập đó mới là công việc đích thực của người giảng
viên giỏi, đúng như Dieterweg, nhà sư phạm học người Đức đã nhấn mạnh:
“Người Thầy giáo tồi là người mang chân lý đến sẵn, người Thầy giáo giỏi là
người biết dạy học sinh đi tìm chân lý".
Xét cho cùng dạy học là một công việc đầy sáng tạo: nó không giống
như những loại hình hoạt động khác mà ở đó nếu áp dụng đúng công nghệ
sẽ mang lại những kết quả giống nhau và kết quả có thể dự đoán trước. Việc
dạy học mang lại cho ta những bất ngờ vô tận - những thú vui vô tận - từng
giờ từng phút một. Chúng ta có thể biết hoặc học được một phương pháp nào
đó có thể áp dụng vào việc dạy học, nhưng áp dụng chúng như thế nào, với
đối tượng nào thì phải do chính ta suy nghĩ, hình dung, tưởng tượng và vận
dụng vào thực tế [3. tr. 20 - 21].
Chúng ta vẫn thường nói: Dạy học là cả một nghệ thuật. Trong nghệ
thuật người ta thường dùng những hình tượng sinh động, cụ thể để phản ánh
hiện thực và thông qua các hình tượng đó truyền đạt tư tưởng tình cảm của
mình. Nghệ thuật cũng thể hiện ở những phương thức làm việc đầy tính sáng
tạo [21, tr. 676]. Người giảng viên khi giảng dạy cũng áp dụng những phương
pháp dạy học một cách sáng tạo, họ khiến cho những kiến thức và kỹ năng
còn đang bất động trở nên sinh động hẳn lên bằng chính trí tuệ và tâm hồn
của mình nhằm truyền tải những tri thức và kỹ năng đó cho sinh viên. Công
việc dạy học đòi hỏi những yêu cầu cao như vậy nên người giảng viên cũng
phải chuẩn bị trước mọi thứ thật kỹ để khi thể hiện nó, chúng ta có thể ví
giảng viên như một người thợ cả lành nghề, một nghệ sĩ của quá trình sư
phạm.
Công việc của giảng viên giống nghệ sĩ ở chỗ họ cũng phải làm việc
theo những “vở diễn" nhất định và biểu diễn trước những khán giả; họ phải có
giọng nói tốt, có khả năng thể hiện và biểu cảm bằng ngôn ngữ. “Khán giả"
của giảng viên là sinh viên. Để có được vở diễn hay và trọn vẹn người giảng
viên phải tự mình tự biên tự diễn, thiết kế từng giáo án hay kế hoạch bài dạy
dựa theo nội dung chương trình đào tạo được quy định sẵn, phải tập dượt và
luyện tập thật kỹ càng trước khi đứng lớp để có thể tái hiện lại những tri thức
một cách sống động trước sinh viên, đáp ứng nhu cầu của người học. Khán
giả trong rạp hát hay rạp phim có thể chỉ thưởng thức nghệ thuật và không
can thiệp trực tiếp vào vở diễn, nhưng "khán giả" sinh viên thì sẽ tham gia
trực tiếp một cách tích cực và chủ động vào quá trình hoạt động sư phạm của
giảng viên. Giảng viên cũng không biểu diễn trước sinh viên một cách đơn
thuần mà đó là cả một quá trình tổ chức và điều khiển hoạt động học của sinh
viên một cách tích cực và khoa học.
4.1.5. Nghề lao động trí óc chuyên nghiệp
Lao động trí óc thường có hai đặc điểm nổi bật:
Một là, phải có một thời kỳ khởi động để cho lao động đi vào nề nếp,
tạo ra hiệu quả. Trước khi lên lớp người giảng viên phải mất một lượng thời
gian nhất định để chuẩn bị bài giảng của mình, rồi khi đi giảng cũng chưa
chắc đã giảng trôi chảy và nhuần nhuyễn. Ngay cả những người giảng viên
đã được đào tạo rất tốt về chuyên môn khi bắt đầu đi dạy cũng phải đối mặt
với những thách thức lớn nhất của việc dạy học đó là việc họ phải tùy cơ ứng
biến trong nhiều tình huống khác nhau. Không phải ai cũng có thể làm tốt
được điều này ngay lần đầu tiên đi dạy. Thường phải sau một thời gian hành
nghề nhất định, lâu lâu lại mất bình tĩnh, lâu lâu lại căng thẳng, và nói chung,
phải sau vài lần rút kinh nghiệm thì họ mới bắt đầu quen dần với công việc, và
chất lượng giảng dạy của họ mới dần đi vào nền nếp và ổn định.
Hai là, có quán tính trí tuệ. Người giảng viên sau khi bước ra khỏi giảng
đường vẫn còn suy nghĩ miên man, đôi khi là một câu hỏi của sinh viên đôi
khi là một thái độ chưa thật hợp lý của mình trong lúc giảng dạy, đôi khi là một
trường hợp chậm hiểu nào đó của sinh viên...
Do tính chất công việc như trên nên lao động của người giảng viên
không đóng khung trong không gian (lớp học), thời gian (8h lao động mỗi
ngày) nhất định, mà ở khối lượng, chất lượng và tính sáng tạo của công việc.
Tóm lại, thông qua những đặc điểm lao động của nghề dạy học, dễ
dàng nhận thấy xã hội đặt ra nhiều yêu cầu về phẩm chất và năng lực đối với
một giảng viên. Mặt khác, nghề dạy học là một nghề cao quý, nó cũng đặt ra
cho xã hội một yêu cầu chính đáng là phải dành một vị trí xã hội với những ưu
đãi về tinh thần và vật chất xứng đáng để giảng viên có thể yên tâm giảng dạy
và cống hiến hết mình cho xã hội. Nắm vững đặc điểm của nghễ sẽ giúp
người hành nghề xác định được mục tiêu, phương hướng hoạt động, lường
trước được những khó khăn và thuận lợi của nghề, từ đó có sự chuẩn bị, trau
dồi những phẩm chất và năng lực cần thiết, đáp ứng yêu cầu của nghề.
4.2. Cấu trúc nhân cách của người cán bộ giảng dạy Đại học (giảng viên)Nói đến nhân cách là nói đến một tổ hợp những đặc điểm, những thuộc
tính tâm lý của cá nhân, thể hiện giá trị bản sắc và giá trị xã hội của người đó
[32, tr. 167].
Cấu trúc là sự thống nhất toàn vẹn của các phần tử tạo thành là mối
liên hệ giữa chúng. Nhân cách cũng bao gồm các phần tử cấu tạo và những
phần tử ấy có sự liên hệ chặt chẽ với nhau theo nhiều phương thức tạo nên
sự ổn định, thống nhất và toàn vẹn của một nhân cách nhất định. Nhân cách
cũng có ảnh hưởng ngược trở lại các phần tử và các mối liên hệ giữa chúng.
Từ đó, có thể nói rằng cấu trúc tâm lý của nhân cách là sự sắp xếp các thuộc
tính hay các thành phần của nhân cách thành một chỉnh thể trọn vẹn, tương
đối ổn định trong mối liên hệ và quan hệ nhất định.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về sự phân chia cấu trúc của nhân
cách tùy thuộc vào quan niệm của mỗi nhà khoa học về bản chất của nhân
cách. Có thể nêu một số cách phân chia cấu trúc của nhân cách khá nổi bật
đó là cấu trúc hai thành phần bao gồm: Phẩm chất (đức) và năng lực (tài);
cấu trúc ba thành phần bao gồm: nhận thức (tri thức và năng lực trí tuệ), tình
cảm (thái độ, rung cảm), ý chí (phẩm chất ý chí, hành động ý chí, kỹ năng, kỹ
xảo, thói quen); cấu trúc bốn thành phần gồm: xu hướng, tính cách, khí chất,
năng lực. Ngoài ra, cũng còn nhiều cách phân chia khác về nhân cách [28, tr
216 - 220].
Trong các tài liệu Tâm lý học Việt Nam quan điểm cấu trúc nhân cách
gồm hai mặt phẩm chất (đức) và năng lực (tài) được phổ cập khá rộng rãi.
Các phẩm chất và năng lực thống nhất với nhau thể hiện đặc trưng nhân cách
cá nhân. Vì vậy, nên xem xét cấu trúc nhân cách của giảng viên theo quan
điểm này.
Nói đến phẩm chất là nói đến thái độ của người đó đối với hiện thực (tự
nhiên, xã hội, người khác và cả bản thân). Phẩm chất là hệ thống những
thuộc tính tâm lý biểu hiện các mối quan hệ xã hội cụ thể của người đó.
Những mối quan hệ cụ thể đó thường được thể hiện ra bằng thái độ và hành
vi, cung cách ứng xử đối với con người, công việc, tổ chức... [14, tr. 123] và
có ảnh hưởng một cách gián tiếp đến hiệu quả của hoạt động.
Phẩm chất có thể chia làm bốn nhóm cơ bản sau [28, tr. 220]:
- Phẩm chất xã hội (hay đạo đức - chính trị) như: thế giới quan, niềm
tin, lý tưởng, lập trường chính trị, thái độ lao động...
- Phẩm chất cá nhân (hay đạo đức - tư cách): tính cách, các nết, các
thói quen, các "thú” (ham muốn)...
- Phẩm chất ý chí: tính mục đích, tính tự chủ, tính kỷ luật, tính kiên
cường...
- Cung cách ứng xử: tác phong, lễ tiết, tính khí...
Nói đến năng lực là nói đến mặt hiệu quả của những tác động một cách
trực tiếp. Năng lực là tổng hợp những thuộc tính tâm lý độc đáo của cá nhân,
đáp ứng những yêu cầu của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động đó đạt kết
quả cao [28, tr. 237].
Năng lực cũng có thể phân thành bốn nhóm cơ bản sau:
- Năng lực xã hội hóa: là khả năng thích ứng, năng lực sáng tạo, cơ
động, mềm dẻo, linh hoạt trong toàn bộ cuộc sống xã hội.
- Năng lực chủ thể hóa: là khả năng biểu hiện tính độc đáo, đặc sắc khả
năng biểu hiện cái riêng, cái bản lĩnh của cá nhân.
- Năng lực hành động: là khả năng hành động có mục đích, có điều
khiển, chủ động, tích cực, hiệu quả.
- Năng lực giao tiếp: là khả năng thiết lập và duy trì mối quan hệ với
người khác.
Như vậy, những phẩm chất và năng lực tạo nên nhân cách của con
người. Trong mỗi loại hình hoạt động khác nhau sẽ có những yêu cầu về
phẩm chất và năng lực khác nhau, đặc trưng cho loại hình hoạt động đó. Hoạt
động giảng dạy cũng đòi hỏi người giảng viên một số phẩm chất và năng lực
nhất định. Vì vậy, cần phân tích cụ thể từng phẩm chất và năng lực của người
giảng viên.
4.3. Những phẩm chất tâm lý cần thiết đối với người cán bộ giảng dạy Cao đẳng - Đại học (giảng viên)
Nghề dạy học đòi hỏi nhiều phẩm chất tâm lý cần thiết, trong đó có
những phẩm chất cơ bản, không có nó thì giảng viên không thể thành công
với nghề, không thể trở thành những giảng viên có uy tín, được sự tín nhiệm
của sinh viên và đồng nghiệp, nhưng cũng có những phẩm chất chỉ là thứ
yếu, giảng viên không nhất định phải có, nhưng nếu có nó thì nhân cách của
giảng viên sẽ trở nên hoàn chỉnh, trở thành một hình mẫu cho sinh viên noi
gương. Trong số những phẩm chất cơ bản cũng có những phẩm chất luôn
cần thiết và bền vững với thời gian mà giảng viên thời đại nào cũng cần phải
có, nhưng cũng có những phẩm chất không bền vững và có thể thay đổi cùng
với sự thay đổi của xã hội. Dưới đây là một số những phẩm chất cụ thể.
4.3.1. Những phẩm chất đạo đức xã hội - chính trị
Đối với một giảng viên, quan trọng nhất là người ấy phải có thế giới
quan khoa học. Thế giới quan là hệ thống những quan niệm về tự nhiên và xã
hội. Dựa trên những quan điểm duy vật biện chứng về các quy luật tự nhiên,
xã hội và tư duy, người giảng viên phải có cách nhìn nhận thế giới một cách
khoa học, nắm vững khoa học bộ môn và khoa học giáo dục, truyền bá những
tri thức và kỹ năng mang tính khoa học, được xã hội nhìn nhận và đánh giá.
Giảng viên phải truyền thụ kiến thức trong giáo trình sao tho chính xác, rõ
ràng, giúp sinh viên hiểu được bài, khơi gợi ở sinh viên tư duy khoa học, tích
cực và sáng tạo, biết vận dụng kiến thức để giải quyết các bài tập, thực hành
và vận dụng vào cuộc sống... Thế giới quan chi phối nhiều mặt của hoạt động
giảng dạy, cũng như thái độ của giảng viên đối với hoạt động đó, như việc lựa
chọn nội dung và phương pháp giảng dạy, việc kết hợp giữa dạy học, giáo
dục với các nhiệm vụ chính trị xã hội, gắn nội dung giảng dạy lý thuyết với
thực hành... Thế giới quan khoa học là kim chỉ nam giúp cho người giảng viên
xây dựng niềm tin cho thế hệ trẻ vững bước đi lên xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh.
Lý tưởng nghề nghiệp được ví như ngôi sao “dẫn đường" giúp người
giảng viên luôn tiến lên phía trước. Lý tưởng là một mục tiêu cao đẹp có tác
dụng lôi cuốn mạnh mẽ toàn bộ cuộc sống của cá nhân trong một thời gian
tương đối dài vào hoạt động, để vươn tới nhằm đạt được mục tiêu đó [32, tr.
220]. Mục tiêu mà người giảng viên cần hướng tới là đào tạo người học trở
thành những công dân hữu ích cho xã hội đáp ứng mục tiêu của giáo dục đại
học. Lý tưởng nghề nghiệp của giảng viên được bộc lộ ở lòng khát khao, sự
mong muốn tột cùng là làm sao cho người học có đủ kiến thức và kỹ năng
tương xứng với trình độ được đào tạo từ ước muốn đó người giảng viên thể
hiện tinh thần trách nhiệm và tự ý thức cao trong quá trình giảng dạy và
nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng. Lý tưởng nghề nghiệp còn được
biểu hiện ở lòng yêu nghề và sự tận tụy, nhiệt tình giúp đỡ sinh viên cũng như
các đồng nghiệp trẻ. Vì tác dụng to lớn của lý tưởng nghề nghiệp đối với hoạt
động của giảng viên nên nhà trường sư phạm cần giáo dục lý tưởng nghề
nghiệp cho người học, cần xác định rõ ràng mục tiêu của giáo dục từng hệ
Cao đẳng - Đại học phù hợp với chuyên ngành được đào tạo của người học
và công việc tương lai..
Lòng yêu nghề là phẩm chất tâm lý quan trọng và luôn cần thiết đối với
giảng viên. Lòng yêu nghề không tự nhiên có sẵn, cũng không phải cứ muốn
là được. Lòng yêu nghề chỉ có thể được hun đúc, hình thành và phát triển
trong quá trình tích cực hoạt động sư phạm. Những ai thành công trong nghề,
gặt hái được nhiều thành quả trong công tác, giảng dạy được sinh viên yêu
quý đồng nghiệp tôn vinh, xã hội nhìn nhận và ghi ơn thì người ấy càng càng
gắn bó với nghề hơn, tình cảm nghề nghiệp cũng từ đó mà phát triển mạnh
mẽ hơn. Có yêu nghề, giảng viên mới cảm nhận được hết giá trị của nghề,
nhất là trong thời buổi hiện nay. Lòng yêu nghề được thể hiện ngay trong
niềm đam mê hoạt động sư phạm, hứng thú với bộ môn mình phụ trách, nhiệt
tình trong giảng dạy, tích cực cải tiến nội dung và phương pháp, đáp ứng với
yêu cầu ngày càng cao của giáo dục Đại học và nhu cầu người học.
Càng yêu nghề bao nhiêu con người càng làm việc hăng say, phấn đấu
hết mình cho sự nghiệp. Những người giảng viên yêu nghề thường làm việc
với tinh thần trách nhiệm cao, có ý thức công dân tốt. Ý thức trách nhiệm cao
đối với công việc, lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, có ý thức và trách
nhiệm công dân tốt cũng là những phẩm chất tâm lý xã hội cần thiết đối với
giảng viên. Giảng viên phải có ý thức hoàn thành tốt các công việc được giao,
sống và làm việc theo pháp luật, tuân thủ các điều luật được quy định trong
luật giáo dục và các quy chế của ngành, quy định của nhà trường, kỷ luật lao
động...
4.3.2. Phẩm chất đạo đức, lối sống, cung cách ứng xử
Người ta thường nói, làm Thầy phải có cái Tâm. Tâm của người Thầy
được tỏa sáng bằng những tình cảm trong sáng, nhất là tình người. Để khẳng
định ý nghĩa của tình người đối với nhân cách người Thầy, V. A.
Xukhomlinxki (nhà giáo công huân người Nga (1918 - 1970) đã viết: “Tôi nghĩ
rằng đối với một nhà giáo dục điều chủ yếu là tình người, đó là nhu cầu sâu
sắc trong con người. Có lẽ những mầm mống của hứng thú sư phạm là ở chỗ
hoạt động sáng tạo đầy tình người để tạo ra hạnh phúc cho con người. Đó là
một điều vô cùng quan trọng. Vì khi tạo ra niềm vui cho người khác, cho trẻ
thơ thì ở họ sẽ có một tài sản vô giá: đó là tình người, mà tập trung là sự nhiệt
tâm, thái độ ân cần và chu đáo, lòng vị tha" [14, tr. 126].
Giảng viên thấm đượm tình người trong đạo đức và lối sống thường thể
hiện thái độ quan tâm đầy thiện chí đối với sinh viên, khoan dung và vị tha
trước những lầm lỗi của sinh viên, công bằng trong đối xử với sinh viên,
không thành kiến, trù dập sinh viên, biết gần gũi và cảm thông với sinh viên,
biết khuyến khích, nâng đỡ sinh viên học tập và rèn luyện, không tính toán so
đo hơn thiệt, sung sướng khi thấy sinh viên của mình trưởng thành, hạnh
phúc khi họ thành đạt. Đó cũng là những phẩm chất đạo đức được sinh viên
đặc biệt ưa thích ở người giảng viên đại học. Thương yêu sinh viên không có
nghĩa là ủy mị, yếu đuối, đáp ứng cả những yêu cầu vô lý của sinh viên, mà
thương yêu họ có nghĩa là luôn yêu cầu cao và nghiêm khắc với chính bản
thân mình và với sinh viên.
Tình người của giảng viên còn được thể hiện trong quan hệ, ứng xử với
đồng nghiệp nhất là với những giảng viên trẻ tuổi đời, ít tuổi nghề hơn mình.
Đội ngũ giảng viên trẻ mới vào nghề đôi khi còn nhiều bỡ ngỡ, dễ va vấp
trong giảng dạy và trong giao tế. Họ rất cần sự giúp đỡ, sự cảm thông, lòng
khoan dung, sự chỉ dẫn tận tình của các giảng viên thế hệ đàn anh, đàn chị.
Đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, tính tình chân chất, ngay
thẳng, liêm khiết, sự phấn đấu vươn lên không mệt mỏi, sự tín nhiệm của
đồng nghiệp và sinh viên... là những phẩm chất tâm lý luôn cần thiết đối với
giảng viên để họ có thể trở thành những tấm gương sáng cho sinh viên noi
theo. Dạy học là một nghề cao quý, được xã hội tôn vinh, nhưng xã hội cũng
có những đòi hỏi rất cao về các phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cũng như lối
sống của giảng viên. Tuy nhiên, giảng viên cũng là những con người bình dị,
họ cũng có thể có lúc mắc sai lầm trong giảng dạy và trong lối sống, quan
trọng là những sai lầm đó chỉ là những sai lầm nhỏ, những va vấp đời thường
cũng cần được xã hội khoan dung và tha thứ. Giảng viên không thể biết hết
tất cả mọi điều, tuy nhiên việc truyền tải những kiến thức xác thực một cách
khoa học là yêu cầu thiết yếu của việc dạy học, nên bất cứ những sai sót nào
về mặt kiến thức trong bài giảng, giảng viên cần sớm nhận ra, thú nhận một
cách thành thực và sửa chữa càng sớm càng tốt. Như thế, chất lượng học
tập sẽ được cải thiện và tấm gương về sự phục thiện ấy cũng có ảnh hưởng
tích cực đến sinh viên. Mỗi lần không thành công là một lần giảng viên phải
biết rút ra những bài học bổ ích, tích cực thay đổi và dũng cảm đứng lên bước
tiếp trên con đường khá chông gai mà mình đã chọn.
4.3.3. Phẩm chất ý chí
Tính mục đích, tính độc lập, tính quyết đoán là những phẩm chất ý chí
mà sinh viên luôn mong đợi ở giảng viên. Tính mục đích giúp giảng viên xác
lập mục tiêu dạy học một cách cụ thể, rõ ràng trong từng bài giảng. Tính độc
lập giúp giảng viên có thể tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc chế biến tài
liệu học tập và lựa chọn các phương pháp giảng dạy một cách phù hợp và
hiệu quả nhất mà không lệ thuộc cứng nhắc vào giáo trình cũng như vào
người khác. Điều đáng lưu ý là độc lập khác với tính bảo thủ, người có tính
độc lập vẫn có thể phục tùng ý kiến của người khác và ý kiến của tập thể nếu
ý kiến của họ nêu ra là đúng. Tính quyết đoán giúp giảng viên đưa ra được
những quyết định kịp thời một cách có căn cứ, phản ứng nhanh chóng, đúng
lúc và kịp thời trong mọi tình huống.
Sự kiên trì và nhẫn nại là một phẩm chất ý chí cũng không kém phần
quan trọng đối với giảng viên. Tính kiên trì sẽ giúp giảng viên bền bỉ vượt qua
rất nhiều khó khăn trở ngại trong giảng dạy và giao tiếp với sinh viên. Sự
nhẫn nại giúp giảng viện có thể tạm quên đi nhiều nỗi bực bội và thất vọng khi
gặp phải những sinh viên chậm hiểu và hay quên. Những giảng viên trẻ
thường ít kiên nhẫn và hay bốc đồng thì giảng viên có kinh nghiệm cần bình
tĩnh và sáng suốt, hành xử đúng đắn và quân bình hơn, chẳng hạn giảng viên
sẽ cưỡng lại ước muốn dạy thật nhanh những gì mình đã biết quá rõ, mà họ
vẫn sẽ từ tốn, chậm rãi giảng dạy phần đó một cách tỉ mỉ, bởi vì đối với sinh
viên phần lớn những bài học đều mới lạ và khó cho nên họ cần có thời gian
để tiếp thu và hiểu bài. Lòng kiên nhẫn giúp giảng viên sẵn sàng chấp nhận
những hạn chế của sinh viên, “chịu đựng" được những lỗi lầm của sinh viên,
đem lại cho sinh viên những cơ hội học tập và sửa chữa lỗi lầm và như thế
sinh viên cảm thấy trong học tập luôn có người bạn đồng hành, tất nhiên sinh
viên sẽ nảy sinh những tình cảm gắn bó và sự tin tưởng đối với giảng viên.
Sự kiên nhẫn cần nhiều đến khả năng kiềm chế những cảm xúc, chứ
không phải buông thả cảm xúc. Nói như thế, tính tự kiềm chế, tự chủ cũng là
một phẩm chất ý chí cần thiết đối với giảng viên. Tính tự chủ là khả năng và
thói quen kiểm soát bản thân, kìm hãm những cảm xúc tiêu cực và những
hành động không cần thiết hoặc có hại trong quá trình giảng dạy. Tính tự chủ
sẽ giúp giảng viên khắc phục được tính cục cằn cũng như những làm chủ
được những xúc cảm tiêu cực thường nảy sinh trong giảng dạy và giao tiếp
với sinh viên. Mặc dù đòi hỏi giảng viên lúc nào cũng phải kiểm soát bản thân
là điều rất khó nhưng đó là một đòi hỏi hoàn toàn hợp lý. Sinh viên sẽ cảm
thấy yên tâm trong học tập khi tính cách của giảng viên luôn ổn định. Cũng có
thể trong cuộc sống riêng tư những cảm xúc tiêu cực như nóng giận, ưu tư,
thậm chí tuyệt vọng là điều khó tránh khỏi nhưng tất cả những điều đó cần
phải để ngoài lớp học, nó không giúp ích gì cho sinh viên và chúng cũng
không liên quan gì đến nội dung môn học. Đây không phải là biểu hiện của
thói đạo đức giả mà nó là sự cần thiết để giảng viên luôn làm chủ được
những cảm xúc của bản thân.
Như vậy, những phẩm chất đạo đức chính trị sẽ chỉ hướng hoạt động,
thắp sáng con đường đi tới trong mọi hoạt động của giảng viên. Những phẩm
chất đạo đức sẽ tạo ra sự cân bằng theo quan điểm sư phạm trong các mối
quan hệ cụ thể giữa giảng viên - sinh viên. Những phẩm chất ý chí tạo nên
sức mạnh tinh thần giúp người giảng viên vượt qua mọi khó khăn gian khổ đi
đến tận cùng mục tiêu đã đề ra.
4.4. Những năng lực cần thiết đối với người cán bộ giảng dạy Cao đẳng - Đại học (giảng viên)
Muốn phân chia năng lực của giảng viên cần phải dựa vào các tiêu chí
xác định. Do cách lựa chọn các tiêu chí khác nhau mà có thể có nhiều cách
phân chia khác nhau, chẳng hạn, V. A. Krutexki dựa vào chức năng chính của
hoạt động sư phạm là dạy học và giáo dục mà ông phân thành ba nhóm năng
lực đó là năng lực dạy học, năng lực giáo dục, năng lực tổ chức các hoạt
động sư phạm [52, tr. 155].
Tuy nhiên, mọi cách phân chia cũng chỉ là tương đối bởi vì có những
năng lực chung cần thiết cho mọi lĩnh vực hoạt động của giảng viên, nhưng
cũng có những năng lực riêng biệt đặc trưng và cần thiết cho một lĩnh vực
hoạt động chuyên biệt nào đó của giảng viên. Dưới đây là cách phân chia chủ
yếu dựa vào các nhiệm vụ trọng tâm của giảng viên là: giảng dạy, nghiên cứu
khoa học và phục vụ xã hội, cộng đồng. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng
tâm đó người giảng viên cần có những năng lực tương ứng, ta có thể tạm
phân chia năng lực của giảng viên thành các nhóm cơ bản
4.4.1. Năng lực dạy học
Năng lực dạy học là khả năng truyền thụ kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cho
sinh viên, hình thành ở sinh viên khả năng tư duy tích cực độc lập và sáng
tạo. Năng lực dạy học có thể xếp thành một nhóm, với nhiều năng lực tạo
thành.
4.4.1.1. Hiểu sinh viên của mình
Dạy học là một quá trình tương tác giữa người dạy - người học, vì vậy
trước khi dạy, giảng viên cần tìm hiểu về sinh viên của mình. Hiểu sinh viên là
khả năng xâm nhập vào thế giới bên trong của họ, hiểu biết tường tận những
đặc điểm tâm lý lứa tuổi về nhận thức, tình cảm, ý chí và những hành động
của họ, những thuận lợi và khó khăn, những biểu hiện tâm lý của sinh viên
trong quá trình dạy học.
Năng lực hiểu sinh viên được biểu hiện trước hết ở việc giảng viên phải
xác định được những gì mà sinh viên mong đợi, khối lượng kiến thức đã có
và mức độ, phạm vi lĩnh hội của sinh viên, dự đoán từ đó xác định mức độ và
khối lượng kiến thức mới cần trình bày. Tiếp theo trong quá trình giảng dạy
cần phải có sự quan sát tinh tế những biểu hiện của sinh viên xem họ hiểu bài
mới ra sao, dự đoán được cả mức độ hiểu bài và có khi còn phát hiện cả mức
độ hiểu sai lệch của họ, trên cơ sở đó có sự điều chỉnh phù hợp với từng đối
tượng sinh viên. Vì vậy, năng lực hiểu sinh viên được xem như là chỉ số cơ
bản của năng lực sư phạm.
Để có được năng lực này, giảng viên có thể phát những phiếu điều tra
nhanh vào đầu khóa học xem sinh viên mong đợi gì về mặt học thuật ở môn
học, qua đó giảng viên sẽ nắm được động cơ và dự đoán thái độ học tập của
sinh viên sẽ như thế nào, thói quen ứng xử nào mà giảng viên phải đối mặt?
Nơi đây sẽ là một môi trường học thuật thực sự hay chỉ là môi trường “tiệc
tùng” mà ở đó sinh viên đến trường từ những sở làm, rồi cố gắng "đi học cho
có mặt", thực hiện các nhiệm vụ học tập “nhanh nhanh cho xong môn học".
Để tìm hiểu về khối lượng kiến thức mà họ đã có giảng viên có thể thêm
những câu hỏi như họ đã được học qua những môn học nào, đã đọc qua
những cuốn sách hoặc tài liệu nào có liên quan đến môn học. Muốn tìm hiểu
sâu hơn về các đặc điểm nhận thức cách thức mà họ sẽ tiếp nhận tri thức,
khuôn mẫu tư duy đã có giảng viên có thể làm một phiếu lượng giá nhanh
cuối buổi học với yêu cầu sinh viên điền thông tin vào phiếu như: ý chính của
bài học hôm nay là... Điều làm tôi hứng thú nhất là gì... Điều tôi không hiểu
là... Tên (nếu có thể)... Giảng viên cũng cần để ý đến phương pháp học tập
của sinh viên, họ thích học nhóm hay thích học một mình, với những sinh viên
thích hình thức học nhóm, họ sẽ thấy thoải mái và học hiệu quả hơn trong lúc
thảo luận hơn là nghe giảng, họ cũng dễ dàng nắm bắt được các sự kiện cụ
thể hơn là những khái niệm và lý thuyết trừu tượng, nhưng sinh viên như vậy
sẽ học một cách dễ dàng hơn khi được giao các bài tập cụ thể và có cấu trúc
định sẵn: như nêu được định nghĩa, đưa ra các lý do...hơn là hãy giải thích ý
nghĩa... [19, tr. 39 - 45].
Với các môn khoa học xã hội, giảng viên cần ý thức về các giai đoạn
phát triển nhận thức của sinh viên, bởi lẽ với phương pháp dạy học tích cực
thì những câu hỏi thú vị luôn có nhiều câu trả lời và chân lý được thừa nhận
thường do tranh luận mà có, nhưng sinh viên năm nhất thường không hiểu
được điều đó, họ sẽ cảm thấy bối rối và sự khẳng định của giảng viên luôn là
điều cần thiết đối với họ. Theo William G. Perry, tác giả công trình nghiên cứu
“những hình thức phát triển tri thức và đạo đức ở những năm đại học” được
xuất bản 1970, nhận thức của sinh viên thường trải qua bốn giai đoạn: (1) Nhị
cực luận (dualism): sinh viên nhìn thế giới theo hai cực đúng và sai. (2)
Tương đối luận (relativism): sinh viên tiếp cận với nhiều quan niệm khác nhau
và họ nhìn chân lý một cách hoài nghi khoa học, nếu có nhiều hơn một câu
trả lời cho một vấn đề nào đó thì kiến thức khi đó trở thành “chỉ là ý kiến cá
nhân của tôi” và cách lý giải của ai cũng đúng như nhau. (3) Đa dạng luận
(multiplicity): sau khi giảng viên yêu cầu cung cấp bằng chứng và những lý do
khiến họ lý giải vấn đề như thế, thì sinh viên nhận ra rằng có một số quan
điểm đúng đắn hơn một số khác, sinh viên sẽ thừa nhận tính phức tạp của
vấn đề và chấp nhận nó. (4) Cam kết luận (commitment): sinh viên tiếp nhận
kiến thức và vận dụng chúng vào cuộc sống dựa trên kinh nghiệm của mình.
Năng lực hiểu sinh viên là kết quả của một quá trình lao động sư phạm
nghiêm túc, đầy tinh thần trách nhiệm, tình yêu thương và sự quan tâm, sâu
sát đối với sinh viên. Mức độ am hiểu về sinh viên cũng thể hiện năng lực trí
tuệ, khả năng quan sát, sự nhạy cảm, tình cảm và những nét nhân cách khác
của giảng viên.
4.4.1.2. Năng lực trí trệ phát triển (Giàu trí tuệ)
Lao động của giảng viên là lao động trí óc chuyên nghiệp nên đòi hỏi
giảng viên phải có năng lực trí tuệ vượt trội, hay nói một cách khác giảng viên
ưu tú phải là người có trí tuệ phát triển cao. Sự phát triển trí tuệ của giảng
viên được thể hiện qua các chỉ số: (1) Sự nhanh trí: khả năng giải quyết
nhanh cả những nhiệm vụ không giống mẫu; (2) Tốc độ khái quát hóa: khả
năng nhanh hiểu, nhanh biết, nhanh nắm được bản chất vấn đề; (3) Tiết kiệm
tư duy: khả năng tìm nhanh phương án giải quyết tối ưu; (4) Trí tuệ mềm dẻo:
dễ dàng xây dựng lại hoạt động cho phù hợp với những biến đổi của điều
kiện, có khả năng xem xét vấn đề dưới nhiều góc độ; (5) Tư duy phê phán:
không suy nghĩ rập khuôn máy móc nhưng sự phê phán luôn dựa trên cơ sở
khoa học; (6) Có bề rộng và chiều sâu của sự hiểu biết: có sự hiểu biết về
nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, có khả năng phân biệt được cái bản chất
và nhưng bản chất, cái tổng quát và cái bộ phận... [14, tr.87].
Năng lực trí tuệ của giảng viên thể hiện rất rõ qua tri thức và tầm hiểu
biết. Hiểu sâu biết rộng là năng lực cơ bản của năng lực dạy học. Giảng viên
không thể dạy sinh viên một điều gì, trừ khi họ biết điều gì đó để dạy. Giảng
viên có nhiệm vụ truyền thụ lại hệ thống tri thức kỹ năng, kỹ xảo cho sinh viên,
và tất nhiên, muốn làm tốt được điều đó trước tiên họ phải nắm được nội
dung và phương pháp truyền tải. Giảng viên không thể trở thành một giảng
viên giỏi nếu họ không hiểu sâu, biết rộng về lĩnh vực chuyên môn mà mình
phụ trách. Nhưng không phải ai hiểu sâu, biết rộng cũng có thể trở thành một
giảng viên giỏi, vì nếu vậy tất cả các nhà khoa học ưu tú đều có thể trở thành
giảng viên giỏi, giảng viên giỏi còn đòi hỏi nhiều năng lực khác bổ trợ mà đặc
biệt là năng lực nghiệp vụ sư phạm giảng dạy Cao đẳng - Đại học.
Mức độ sâu sắc của trí tuệ và tầm hiểu biết rộng của người giảng viên
được thể hiện thông qua việc họ hiểu và biết rất rõ về lĩnh vực chuyên môn,
thường xuyên theo dõi những thành tựu mới trong lĩnh vực khoa học mà mình
phụ trách, thực hiện những nghiên cứu khoa học, đưa ra những nhận định
sắc nét về những chủ đề mà họ quan tâm, thường xuyên theo dõi và đọc
thêm tài liệu thuộc những chuyên ngành gần gũi khác, có hiểu biết xã hội...
Để có được năng lực trí tuệ phát triển đòi hỏi người giảng viên phải tích
cực tự học, tự bồi dưỡng để bổ túc và hoàn thiện tri thức của mình.
4.4.1.3. Năng lực thiết kế bài dạy
Năng lực thiết kế bài dạy là sự gia công trí tuệ của giảng viên đối với tài
liệu học tập, thay đổi hình thức và nội dung, lựa chọn phương pháp giảng dạy
sao cho nó phù hợp tối đa với trình độ, đặc điểm nhân cách của sinh viên mà
vẫn đảm bảo chuẩn về mặt kiến thức, kỹ năng, và logic sư phạm.
Năng lực thiết kế bài dạy được thể hiện trước tiên ở việc giảng viên xác
định được mối quan hệ giữa yêu cầu chuẩn về mặt kiến thức và kỹ năng của
môn học với trình độ nhận thức của sinh viên, trên cơ sở đó thiết kế nội dung
bài giảng sao cho bài giảng có sức lôi cuốn và sinh viên dễ tiếp thu nhất, mà
vẫn đảm bảo được logic nhận thức, logic sư phạm. Hiện nay giảng viên
thường dạy học theo hình thức tổ chức các hoạt động trên lớp, vì vậy, công
việc thiết kế bài dạy đòi hỏi sự gia công trí tuệ rất lớn ở giảng viên. Trước tiên
về nội dung bài giảng, giảng viên cần bổ sung kiến thức ở sách giáo khoa
bằng những dẫn chứng sinh động lấy từ cuộc sống, đồng thời phải chế biến,
nhào nặn nó sao cho phù hợp với các hình thức tổ chức, điều khiển các hành
động học tập của sinh viên mà giảng viên sẽ thực hiện trên lớp.
Muốn làm được điều đó đòi hỏi giảng viên phải có mức độ trí tuệ cao,
tư duy độc lập, sáng tạo, có nền tảng tri thức vững chắc. Một là, giảng viên
phải rèn luyện khả năng phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa kiến thức. Khi trình
bày một tài liệu mới, phải xác định được phần kiến thức trọng tâm, cơ bản
nhất, phản ánh thuộc tính bản chất nhất của vấn đề và tập trung điểm nhấn
vào nội dung này. Hai là, tích cực rèn luyện để phát triển khả năng tư duy
sáng tạo của bản thân, bởi việc xây dựng lại cấu trúc của tài liệu và chọn lựa
các phương pháp giảng dạy thích hợp là một quá trình lao động nghiêm túc,
đầy sáng tạo. Đó là công việc khó khăn và đầy thử thách đối với nhà giáo nói
chung và giảng viên nói riêng.
4.4.1.4. Năng lực tổ chức và điều khiển hoạt động học của sinh viên.
Dạy học theo phương pháp hiện đại, giảng viên cũng giống như nhà tổ
chức, người đặt ra các mục tiêu, đề ra các hành động, hướng dẫn sinh viên
chuẩn bị, khích lệ, động viên, truyền cảm hứng và dẫn dắt sinh viên tham gia
vào các hành động đó. Giảng viên cũng là người dẫn đường, người khơi gợi
những gì tốt đẹp nhất của từng cá nhân và của cả tập thể lớp học, gắn kết
nhu cầu, kỹ năng từng thành viên thành một khối tổng thể có tổ chức.
Năng lực tổ chức và điều khiển hoạt động học của sinh viên được thể
hiện ở chỗ:
Giảng viên nắm vững kỹ thuật dạy học mới. Đặc điểm nổi bật của kỹ
thuật dạy học mới là thầy tổ chức và điều khiển hoạt động học, còn trò thì tích
cực, chủ động, sáng tạo lĩnh hội tri thức và kỹ năng.
Biết tạo cho sinh viên những tâm thế học tập có lợi, xây dựng một môi
trường học tập tự nhiên có tính phê phán, biết thu hút và duy trì sự chú ý của
sinh viên.
Có khả năng dẫn dắt sinh viên vào đi sâu giải quyết những vấn đề có
tính chất chuyên môn chẳng hạn theo mô hình: vấn đề - giải pháp - vấn đề -
giải pháp - vấn đề... [20, tr. 159].
Biết tạo ra những kinh nghiệm học tập phong phú, giúp sinh viên học
được cả ở bên ngoài lớp học.
Biết khuyến khích sinh viên bày tỏ ý kiến, nhiệt tình giải thích, khả năng
ngôn ngữ khá lưu loát.
Biết tổ chức các hành động học tập một cách đa dạng và hiệu quả, đặt
sinh viên ở vị trí người phát minh trong quá trình học. Biết dự kiến trước các
hành động, tổ chức và điều khiển sinh viên thực hiện, tổ chức kiểm tra đánh
giá kết quả.
Để có được năng lực tổ chức, và điều khiển các hoạt động của sinh
viên một cách hiệu quả nhất đòi hỏi người giảng viên: Một là, nắm vững các
phương pháp dạy học trong nhà trường hiện nay. Hai là, nắm vững các kỹ
thuật dạy học thuộc nhóm phương pháp tổ chức hành động học cho sinh viên
[6]. Ba là, nắm vững cơ sở Tâm lý học của các phương pháp dạy học tích cực
đó. Bốn là, vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giảng dạy. Năm là, học
hỏi kinh nghiệm của những nhà giáo thành công và vận dụng chúng vào công
tác một cách hiệu quả.
Mức độ phát triển năng lực tổ chức và điều khiển hoạt động học cho
sinh viên còn phụ thuộc vào chính bản thân sinh viên. Andrew D. White nói
rằng sinh viên đến lớp không phải để nhận sự giáo dục mà sinh viên đến lớp
để là để tự giáo dục mình [20, tr. 171]. Tinh thần này đặc biệt đúng với sự đòi
hỏi về cách dạy và học ở các trường đại học hiện nay. Bản thân sinh viên
phải tích cực chủ động và sáng tạo trong chính hoạt động học tập của mình,
có như vậy sự tổ chức và điều khiển, lãnh đạo của giảng viên mới dễ gặt hái
những thành công.
4.4.1.5. Năng lực ngôn ngữ
Năng lực ngôn ngữ là năng lực biểu đạt rõ ràng và mạch lạc ý nghĩ và
tình cảm của mình bằng lời nói cũng như nét mặt và điệu bộ [4, tr. 135 - 137].
Năng lực ngôn ngữ được thể hiện cả ở hình thức và nội dung.
a. Về hình thức của ngôn ngữ:
Giảng viên có năng lực ngôn ngữ thường sử dụng hình thức ngôn ngữ
giản dị, sinh động, lời nói giàu hình ảnh, cách phát âm to và rõ, tránh nói
ngọng, cách diễn đạt khúc chiết và mạch lạc, tránh những câu phức tạp và
rườm rà. Để được như vậy, giảng viên phải lựa chọn từ ngữ và cách trình bày
sao cho sinh viên dễ hiểu và dễ tiếp thu. Nếu có được một giọng nói truyền
cảm, cộng với cách diễn đạt gãy gọn sẽ có tác dụng đi sâu vào tâm hồn và trí
tuệ của sinh viên, để lại những dấu ấn sâu sắc trong lòng sinh viên.
Tốc độ và cường độ của ngôn ngữ cũng ảnh hưởng lớn đến sinh viên.
Nếu giảng viên nói với tốc độ nhanh quá sẽ gây mệt mỏi, ức chế và căng
thẳng cho sinh viên, ngược lại tốc độ diễn đạt cứ đều đều khiến người nghe
dễ nhàm chán. Ngoài ra, chúng ta còn thấy nếu giảng viên nói với cường độ
quá to, quá mạnh, giọng the thé, hoặc quá yếu ớt cũng gây ảnh hưởng tương
tự. Vì vậy, giảng viên phải điều chỉnh tốc độ sao cho vừa phải, không nhanh
quá không chậm quá, nhất là phải có ngắt câu một cách rõ ràng, có sự nhấn
mạnh vào những câu những chữ được cho là những khái niệm cơ bản của
môn học.
b. Về nội dung của ngôn ngữ.
Xét về nội dung, giảng viên có năng lực ngôn ngữ thường chứa đựng
nội dung rõ ràng, hoàn chỉnh, ngắn gọn, súc tích, chính xác và lịch sự trong
ngôn ngữ. Cụ thể như sau [23, tr.62 - 63]:
Nội dung thông tin cần rõ ràng, phù hợp với trình độ và tâm thế tiếp
nhận của sinh viên, giúp họ hiểu nhanh, hiểu đúng thông tin.
Mỗi đơn vị biểu đạt đến toàn bài giảng cần chứa đầy đủ lượng thông tin
đầy đủ và cần thiết để sinh viên tiếp thu kiến thức được hoàn chỉnh.
Nội dung thông điệp cần ngắn gọn, cô đọng, đi thẳng vào vấn đề, nêu
bật trọng tâm của vấn đề khiến sinh viên sáng tỏ thông tin một cách nhanh
chóng.
Nội dung thông điệp cần sự chính xác về hình thức và nội dung, không
sai lỗi chính tả, con số, ngày tháng, sự kiện... để sinh viên tiếp nhận một cách
dễ dàng, đồng thời họ cảm thấy yên tâm và tin tưởng vào giảng viên.
Nội dung thông điệp chứa đựng nội dung cần thiết, văn phong lịch
thiệp, lời lẽ nhã nhặn, phương pháp truyền tải thông tin lịch sự khiến sinh viên
cảm thấy được tôn trọng.
Dạy học thật khó thành công nếu như giảng viên thiếu năng lực này.
Đây là một trong những năng lực quan trọng của người giảng viên, vì vậy
giảng viên cần phải chú ý phát triển ngôn ngữ và rèn luyện những cách thức
truyền tải thông tin đến với người học sao cho hiệu quả nhất.
4.4.1.6. Năng lực giao tiếp sư phạm
Năng lực giao tiếp sư phạm là năng lực thấu hiểu những diễn biến tâm
lý của sinh viên và bản thân, đồng thời biết sử dụng hợp lý những phương
tiện giao tiếp, biết cách tổ chức và điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm tạo ra
các tiếp xúc tâm lý, xây dựng bầu không khí tâm lý thuận lợi để tạo ra kết quả
tối ưu trong quan hệ giảng viên - sinh viên, đáp ứng mục tiêu giáo dục Đại
học.
Năng lực giao tiếp sư phạm của giảng viên thường được biểu hiện ở
các mặt sau:
- Giảng viên nắm vững các nguyên tắc cơ bản trong giao tiếp sư phạm
và vận dụng chúng vào thực tiễn một cách linh hoạt. Đó là các nguyên tắc:
tính mô phạm trong giao tiếp, tôn trọng nhân cách sinh viên, có thiện chí với
sinh viên và biết đồng cảm trong giao tiếp với sinh viên [1, tr 18 - 27].
- Giảng viên nắm vững kỹ năng giao tiếp sư phạm và biết thực hành
chúng một cách thành thạo. Đó là ba nhóm kỹ năng chính như: kỹ năng định
hướng giao tiếp, kỹ năng định vị, kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp [1, tr.
36 - 46].
+ Kỹ năng định hướng giao tiếp là giảng viên có khả năng phán đoán
chính xác về nhân cách cũng như về những vấn đề mà sinh viên muốn bày
tỏ.
+ Kỹ năng định vị trong giao tiếp là giảng viên có khả năng xác định vị
trí của mình và đối tượng trong giao tiếp, biết đặt vị trí của vào vị trí của sinh
viên để thấu hiểu họ.
+ Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp là khả năng giảng viên biết thu
hút đối tượng, tìm ra đề tài giao tiếp, duy trì nó, xác định được nguyện vọng,
hứng thú của đối tượng, biết làm chủ các xúc cảm của bản thân và sử dụng
hợp lý các phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.
Hiểu biết và rèn luyện những kỹ năng trên sẽ phát triển được năng lực
giao tiếp sư phạm, đạt đến mức độ khéo léo trong ứng xử với sinh viên, luôn
làm chủ được mọi tình huống, đó cũng là kỳ vọng của nhiều giảng viên đại
học.
4.4.2. Năng lực giáo dục
Dạy học không tách rời khỏi quá trình giáo dục đạo đức cho sinh viên,
Năng lực giáo dục của giảng viên được biểu hiện ở những khả năng sau [54,
tr. 533]:
Có khả năng hiểu được "thế giới bên trong” của sinh viên, đồng cảm
được với họ, cùng trăn trở với họ.
Có khả năng trở thành một tấm gương sáng có sức lôi cuốn mạnh mẽ
về trí tuệ, tình cảm và hành vi khiến sinh viên muốn học tập, bắt chước và noi
gương.
Có khả năng khơi gợi ở sinh viên những tình cảm tốt đẹp, những khát
vọng và mong muốn phấn đấu trở nên hoàn thiện hơn, làm những điều tốt
cho mọi người, vươn tới những giá trị đạo đức cấp cao.
Có khả năng ảnh hưởng đặc biệt đến quá trình hình thành những phẩm
chất và năng lực đặc biệt ở sinh viên.
Có khả năng khơi dậy sự tự tin, làm họ yên lòng, thúc đẩy sự phát triển
quá trình hoàn thiện nhân cách của sinh viên.
Có khả năng giao tiếp và ứng xử sư phạm một cách khéo léo, tìm ra
những cách thức giao tiếp và ứng xử phù hợp với từng đối tượng sinh viên,
thiết lập được mối quan hệ liên nhân cách giảng viên - sinh viên trên cơ sở
tôn trọng, thiện cảm và hiểu biết lẫn nhau.
Có khả năng tạo được uy tín đối với sinh viên, được sinh viên yêu quý
kính trọng và tín nhiệm cao.
Quá trình hình thành và phát triển năng lực giáo dục có thể nói là khó
hơn so với quá trình hình thành và phát triển năng lực dạy học. Đó là quá
trình rèn luyện và phấn đấu đầy khó khăn và phức tạp. Trở thành một nhà
giáo dục giỏi khó hơn so với việc trở thành một giảng viên dạy giỏi, điều đó
gắn liền với việc trong số những năng lực của một nhà giáo dục ưu tú, có
nhiều năng lực có nguồn gốc từ những năng khiếu bẩm sinh hơn, so với
những năng lực của một giảng viên dạy giỏi. Trong số giảng viên ta gặp
không ít những giảng viên dạy giỏi nhưng lại là những nhà giáo dục tồi.
Ngược lại, cũng có thể gặp những giảng viên có khả năng giáo dục sinh viên
rất tốt nhưng trong lĩnh vực giảng dạy họ lại thể hiện kém hơn. Và tuy hiếm,
nhưng cũng có thể gặp được những giảng viên phát triển được cả hai nhóm
năng lực đó. Thực tế đó không phải là cơ sở chính để kết luận rằng, giảng
viên dạy giỏi không thể trở thành những nhà giáo dục tốt, chẳng qua lĩnh vực
mà họ chọn để thể hiện tay nghề sư phạm có thể sẽ khác nhau: trở thành nhà
giáo giỏi lợi thế hơn, hay trở thành nhà giáo dục giỏi quan trọng hơn.
4.4.3. Năng lực nghiên cứu khoa học
Một giảng viên dạy giỏi phải là người biết kích thích tính tò mò ham
hiểu biết của sinh viên bằng cách hướng sinh viên đến những nghiên cứu
khoa học mới nhất, dẫn dắt sinh viên tranh luận sâu về chuyên ngành của họ.
Muốn đạt được điều này, người giảng viên phải vừa dạy học, vừa kết hợp với
nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu khoa học được xem là một lĩnh vực hoạt
động đặc trưng của giáo dục đại học. Với hoạt động này, các trường Đại học
không chỉ là trung tâm đào tạo mà đã thực sự trở thành trung tâm nghiên cứu
khoa học, sản xuất, sử dụng, phân phối, xuất khẩu và chuyển giao công nghệ
mới hiện đại.
Nghiên cứu khoa học thực sự là nhiệm vụ đầy thách thức đối với giảng
viên. Để nghiên cứu khoa học hiệu quả người giảng viên cần phải nắm vững
phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học, biết cách viết đề
cương nghiên cứu, tổ chức nghiên cứu biết cách trình bày và phân tích kết
quả nghiên cứu, sau nữa cần phổ cập kết quả nghiên cứu đến với cộng đồng.
Năng lực nghiên cứu khoa học của giảng viên được thể hiện ở những
thành quả nổi bật như sau [30]:
Số lượng và chất lượng các công trình khoa học được công bố, được
xuất bản, được ứng dụng vào thực tiễn.
Số lượng và chất lượng sách và tài liệu tham khảo được xuất bản,
được sử dụng.
Hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học.
Bồi dưỡng các nhà khoa học trẻ.
Tích cực tham gia các hội nghị hội thảo trong và ngoài nước.
Có các giải thưởng về nghiên cứu khoa học.
Do vừa nghiên cứu khoa học vừa giảng dạy nên có thể tạo nên bốn
mẫu hình người cán bộ giảng dạy như sau [8, tr. 179]:
- Loại thứ nhất là những người vừa có khả năng nghiên cứu khoa học
chuyên sâu, vừa có khả năng giảng dạy tốt: Đây là những giảng viên biết kết
hợp một cách nhuần nhuyễn giữa hai loại hình hoạt động này, họ thực sự là
những người có trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao, và còn chưa có nhiều
trong đội ngũ cán bộ giảng dạy hiện nay.
- Loại thứ hai là những người nghiên cứu khoa học tốt nhưng năng lực
giảng dạy yếu, không hấp dẫn đối với sinh viên trên giảng đường. Những cán
bộ như vậy rất có ích cho công tác nghiên cứu khoa học và hướng dẫn sinh
viên nghiên cứu khoa học.
- Loại thứ ba bao gồm phần lớn cán bộ giảng dạy chỉ tập trung giảng
dạy mà không thực hiện tốt công tác nghiên cứu khoa học.
- Loại thứ tư là những cán bộ yếu cả về hoạt động khoa học và hoạt
động giảng dạy chuyên môn. Những cán bộ này thường khó tồn tại lâu trên
bục giảng ở các trường đại học và họ thường được luân chuyển công tác
sang một vị trí khác thích hợp hơn.
Những năm gần đây do nhu cầu hội nhập thúc đẩy, các trường đại học
ở nước ta bắt đầu quan tâm đến nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, dù tất cả
đều nhất trí về tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học nhưng lại nảy sinh
những quan điểm trái ngược nhau gây nên nhiều trở ngại. Một là, quan niệm
dễ dãi về nghiên cứu khoa học, mở rộng nghiên cứu khoa học theo nghĩa
thông thường mà trên thế giới các nhà khoa học thực thụ không xem là
nghiên cứu khoa học. Hai là, nghiên cứu khoa học theo kiểu chạy theo công
bố quốc tế để đi nước ngoài, sao nhãng giảng dạy... Ba là, quan niệm chẳng
cần có công trình nghiên cứu khoa học, chẳng cần công bố quốc tế vẫn có
thể là nhà khoa học lớn... Bốn là, quan niệm cực đoan tuyệt đối hóa và vận
dụng máy móc các chỉ số đánh giá định lượng về nghiên cứu khoa học gần
đây đã được phổ biến trên quốc tế vào Việt Nam. Các chỉ số này cho những
thông tin bổ ích có thể làm tư liệu tham khoa học quan trọng khi đánh giá ở
các cộng đồng lớn, nhưng không thể có ý nghĩa tuyệt đối và thay thế sự đánh
giá của chuyên gia am hiểu khi đánh giá từng cá nhân riêng lẻ. Và như thế,
sử dụng máy móc các chỉ số định lượng có thể gây ra những xu hướng không
lành mạnh trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Như vậy, tình hình nghiên
cứu khoa học ở nước ta vẫn gặp nhiều khó khăn, và trên thực tế theo phản
ánh của báo chí thì tình trạng "bận giảng dạy” quên nghiên cứu vẫn còn trầm
trọng ở ngay những trường Đại học lớn [29, tr. 491- 493].
Năng lực nghiên cứu khoa học luôn gắn liền với năng lực học tập, bồi
dưỡng nâng cao trình độ. Để có những công trình nghiên cứu khoa học chất
lượng đòi hỏi người giảng viên phải có khả năng tự học, học mãi không
ngừng. Với phương châm "học tập suốt đời”, giảng viên cần rèn luyện cho
mình các kỹ năng tự học, học từ xa, vừa học, vừa làm... Tự học sẽ tạo điều
kiện cho tư duy độc lập, sáng tạo phát triển. Tự học vừa là quá trình tự hoàn
thiện mình, vừa là để nêu gương cho sinh viên.
Năng lực học tập không ngừng nghỉ của giảng viên được thể hiện qua
những hành động cụ thể như:
Thường xuyên cập nhật kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, các phương
pháp giảng dạy và nâng cao hiểu biết.
Học tập nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học. Có khả năng sử dụng
ngoại ngữ vào dịch, đọc tài liệu chuyên môn và giao tiếp, có khả năng sử
dụng hiệu quả công nghệ thông tin vào nghiên cứu giảng dạy và quản lý...
Tích cực tham gia các khóa bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ…
4.4.4. Năng lực hoạt động xã hội
Tích cực tham gia đóng góp để phục vụ xã hội, phát triển cộng đồng
cũng là một nhiệm vụ quan trọng của giảng viên. Năng lực hoạt động xã hội,
phục vụ cộng đồng được thể hiện trong nhiều hoạt động đa dạng của giảng
viên như:
- Tích cực tham gia vào các hoạt động của các tổ chức chính quyền,
đoàn thể ở các cấp độ khác nhau; tổ bộ môn, khoa, trường, ngoài xã hội như
công tác tuyển sinh, công tác quản lý đào tạo, quản lý hoạt động nghiên cứu
khoa học, các công tác kiêm nhiệm khác...
- Tích cực tham gia vào các công tác truyền thụ kiến thức khoa học cho
cộng đồng thông qua các bài trả lời phỏng vấn, các bài báo trên các phương
tiện truyền thông.
- Tích cực tham gia đóng góp các chương trình giáo dục đặc biệt cho
cộng đồng thông qua việc làm tư vấn, cố vấn cho một số hội đồng khoa học
và học thuật.
- Tích cực tham gia vào các hội đồng chuyên môn: chấm giải sinh viên
nghiên cứu khoa học, tổ chức hội nghị hội thảo, tham gia vào các hội đồng
thẩm định các bài báo khoa học, các tài liệu, sách giáo khoa, tham gia vào
các hội đồng xem xét lựa chọn các giải thưởng
- Tích cực tham gia các hoạt động xã hội, hoạt động từ thiện... Đầu tư
thời gian và trí tuệ cho các hoạt động của các tổ chức xã hội ở các địa
phương. Giúp đỡ các nhà khoa học của các địa phương thực hiện các đề tài,
dự án, hướng dẫn các nhà khoa học trẻ ở các địa phương tiếp cận với các
thành tựu mới của ngành...
Muốn đóng góp hữu ích cho xã hội đòi hỏi người giảng viên phải được
trang bị những kỹ năng sống, đặc biệt là những kỹ năng xã hội như kỹ năng
hợp tác, kỹ năng gây thiện cảm, kỹ năng giao tiếp và truyền thông, kỹ năng
thích ứng xã hội... Những kỹ năng này giúp cá nhân nhanh chóng hội nhập,
thích nghi với những điều kiện sống và hoạt động của xã hội hiện đại và phát
triển bản thân.
4.5. Tay nghề sư phạm và sự hình thành uy tín của người cán bộ giảng dạy Cao đẳng - Đại học (giảng viên)
Tay nghề sư phạm là trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao của người
giảng viên, nói một cách khác đó là mức độ thành thạo tay nghề trong hoạt
động sư phạm. Trình độ nghiệp vụ hoạt động sư phạm của giảng viên có thể
tương ứng với các mức độ sau [81 tr.186]:
Mức độ tối thiểu (mức độ tái tạo): ở mức độ này, giảng viên biết nói lại
cho sinh viên nghe về những gì mình đã biết.
Mức độ thấp (mức độ thích ứng): ở mức độ này, giảng viên không chỉ
truyền đạt thông tin mà còn biết cải biến chúng cho phù hợp với trình độ
người học.
Mức độ trung bình: (mức độ mô hình hóa - cục bộ): ở mức độ này,
giảng viên đã biết hình thành cho người học những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
theo từng phần của giáo trình hay từng chuyên đề của bộ môn.
Mức độ cao (mức độ mô hình hóa hệ thống các tri thức): ở mức độ này,
giảng viên hình thành ở người học hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo vững
chắc theo toàn bộ chương trình khung của bộ môn mình phụ trách.
Mức độ cao nhất (mức độ mô hình hóa hệ thống hoạt động): ở mức độ
này, thông qua các dạng hoạt động khác nhau, giảng viên hình thành hệ
thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng ở người học và đặc biệt là hình
thành ở họ khả năng tư duy tích cực, chủ động và sáng tạo, biết cách vận
dụng hiệu quả những tri thức đã học vào cuộc sống.
Hiệu quả của hoạt động sư phạm không chỉ phụ thuộc vào trình độ tay
nghề của giảng viên mà còn phụ thuộc rất nhiều vào uy tín của giảng viên. Uy
tín là sự kết hợp giữa quyền uy và sự tín nhiệm. Đó là sự tín nhiệm, tin yêu,
mến phục của mọi người đối với một người có đủ đức, tài, hoàn thành sứ
mệnh mà nhân dân giao phó. Người giảng viên có uy tín là người có khả
năng tác động, ảnh hưởng, cảm hóa sinh viên khiến họ tin, yêu, phục tùng và
tuân theo một cách tự giác.
Uy tín thực sự phải được xây dựng dựa trên tấm lòng và tài năng đích
thực của giảng viên. Vì có tấm lòng, giảng viên có tình thương đối với sinh
viên, tận tụy, nhiệt thành với công việc, đạo đức trong sáng. Vì có tài năng
trong giảng dạy, giảng viên sẽ có tay nghề cao được sinh viên tín nhiệm và nể
phục. Giảng viên có uy tín sẽ được đồng nghiệp và sinh viên chia sẻ mọi
thông tin liên quan đến công việc và cuộc sống. Những công việc nhờ cậy
đồng nghiệp hoặc những nhiệm vụ giao cho sinh viên sẽ được triển khai và
thực thi một cách kịp thời và hiệu quả, nếu gặp khó khăn sẽ nhận được
những thông tin phản hồi để cùng nhau trao đổi, bàn bạc tìm biện pháp khắc
phục. Giảng viên có uy tín không chỉ được đồng nghiệp yêu quý, sinh viên tín
nhiệm và phục tùng, lãnh đạo đánh giá cao, mà cả những người có quan
điểm đối lập cũng phải vì nể. Tất cả những điều đó sẽ giúp giảng viên có cảm
giác mình được sống trong môi trường tập thể thân ái, tràn đầy tình yêu
thương.
Khác với uy tín thực là uy tín giả, được xây dựng dựa trên địa vị, quyền
uy, ô dù, thủ thuật mị dân hay sự tô vẽ thành tích cá nhân. Chẳng hạn, dùng
quyền lực của giảng viên để trấn áp khiến sinh viên sợ hãi phục tùng, dùng
điểm số thưởng, phạt không công minh nhằm sai khiến sinh viên... Có thể nói
rằng, uy tín giả được xây dựng bằng các thủ thuật theo thời gian sẽ bị chọn
lọc tự nhiên, chọn lọc xã hội lên án và đào thải.
Như vậy, uy tín thực sự được toát lên từ toàn bộ cuộc sống và nhân
cách tốt đẹp của người giảng viên. Đó là sự kết tinh của những phẩm chất và
năng lực cần thiết đối với giảng viên. Sự hình thành uy tín là cả một quá trình
tu dưỡng và rèn luyện tay nghề trong chính môi trường hoạt động thực tiễn
của nghề nghiệp. Mỗi giảng viên phải tích cực học tập và rèn luyện cho bản
thân những phẩm chất và năng lực đáp ứng những yêu cầu của hoạt động sư
phạm.
Câu hỏi thảo luận
1. Có thể chọn một hoặc vài phẩm chất nhân cách của giảng viên mà
anh chị đặc biệt ưa thích, phân tích nội dung bằng lý luận và lấy nhũng dẫn
chứng minh họa, từ đó chỉ ra những hành động cụ thể của bản thân để rèn
luyện cho mình những phẩm chất đó.
2. Chọn một số năng lực của giảng viên mà anh chị ưa thích, giải thích
rõ tại sao lại chọn như vậy, phân tích nội dung và chỉ ra các biện pháp cụ thể
để rèn luyện cho bản thân những năng lực đó.
3. Nêu và phân tích một vài tình huống tâm lý thể hiện cung cách ứng
xử của giảng viên. Chỉ rõ ưu điểm (hoặc những thiếu sót) của giảng viên trong
tình huống đó.
Bài tập thực hành
Tìm hiểu những phẩm chất và năng lực của giảng viên được sinh viên
ưa thích ngày nay.
Đối tượng: Chọn sinh viên trong những lớp mà anh chị đang giảng dạy,
hoặc sinh viên trong các cơ sở giáo dục đại học (trên 30 sinh viên).
Yêu cầu: liệt kê được cụ thể những phẩm chất và năng lực của giảng
viên mà sinh viên ưa thích, qua đó thấy được nhân cách toàn vẹn của nhà sư
phạm tài năng trong tình hình thực tiễn ngày nay, qua đó chỉ ra những hành
động cụ thể mà anh chị sẽ làm để rèn luyện cho mình những phẩm chất và
năng lực đó.
Cách thực hiện: Xây dựng phiếu câu hỏi mở hoặc câu hỏi đóng đóng
để lấy ý kiến sinh viên. Có thể sử dụng thêm các phương pháp điều tra khác
như phương pháp quan sát, đàm thoại, sưu tầm tài liệu... Thu thập và xử lý
số liệu để viết báo cáo mô tả được chân dung tâm lý của người giảng viên
được sinh viên ưa thích.
Câu hỏi ôn tập
1. Phân tích đặc điểm lao động nghề nghiệp của người cán bộ giảng
dạy đại học và ý nghĩa của sự hiểu biết đó đối với định hướng rèn luyện nhân
cách giảng viên.
2. Phân tích những phẩm chất tâm lý cần thiết đối với người giảng viên.
3. Phân tích những năng lực cần thiết đối với người giảng viên.
Chỉ rõ mối quan hệ giữa chúng với nhau trong cấu trúc năng lực của
giảng viên.
4. Phân tích tay nghề sư phạm và sự hình thành uy tín của người giảng
viên.
TÀI LIỆU THAM KHẢOTiếng Việt
1. Hoàng Anh - Vũ Kim Thanh (1995). Giao tiếp sư phạm, NXB Đại học
Sư phạm, Hà Nội.
2. Ken Bain (2008). Phẩm chất của những nhà giáo ưu tú (Nguyễn Văn
Nhật dịch)/ NXB Văn hóa Sài gòn.
3. James M. Banner. Jr. & Harold C. Cannon (2009), Những yếu tố cơ
bản của nghề day học, NXB VH Sài gòn và Đại học Hoa Sen.
4. Nguyên Văn Cường (2010), Một số vấn đề chung về đổi mới phương
pháp dạy học ở trường phổ thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo - Dự án phát triển
giáo dục phổ thông.
5. Điều lệ trường đại học 2010, (Ban hành kèm theo Quyết định số
58/201 0/QĐ - TTg ngày 22/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ).
6. Nguyễn Văn Đồng (2008), Tâm lý học phát triển, NXB Lao động Xã
hội, Hà Nội.
7. Feldman Robert S. (2003), Những điều trọng yếu trong Tâm lý học,
NXB Thống kê.
8. Filene Peter (2008), Niềm vui dạy học, (Tô Diệu Lan, Trần Nữ Mai
Tay dịch), NXB Văn hóa Sài gòn.
9. Nguyễn Thị Bích Hạnh - Trần Thị Hương (2004), Lý luận dạy học, (tài
liệu lưu hành nội bộ), Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
10. Lê Văn Hảo (2008), Sổ tay phương pháp giảng dạy và đánh giá, (tài
liệu lưu hành nội bộ), Đại học Nha Trang.
11. Đặng Vũ Hoạt (chủ biên), 2008, Lý luận day học Đại học. NXB Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
12. Trần Bá Hoành (2007). Đổi mới phương pháp dạy học, chương
trình và sách giáo khoa, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
13. Lê Văn Hồng (1999), Tâm lý học Sư phạm, NXB Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
14. Dương Thị Diệu Hoa (2009), Giáo trình Tâm lý học phát triển, NXB
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
15. Robert V. khít, John C. Cavanaugh (2006), Nghiên cứu về sự phát
thiển con người, NXB Văn hóa Thông tin.
16. Luật giáo dục 2010.
17. Trần Thị Thu Mai (2009), Tâm lý học Giáo dục Đai học (Tài liệu
tham khảo nội bộ), Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
18. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong
nhà trường, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
19. Vũ Thị Nho (2008), Tâm lý học phát triển, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội.
20. Trần Thị Tuyết Oanh (2007), Đánh giá và đo lường kết quả học tập,
NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
21. Hoàng Phê (chủ biên) (2003) Từ điển Tiếng Viết, NXB Đà Nẵng.
22. Huỳnh Văn Sơn (2011), Những cơ sở tâm lý của việc tổ chức hoạt
động dạy và học tích cực, NXB Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
23. Huỳnh Văn Sơn (chủ biên), Nguyễn Thị Tứ, Nguyễn Hoàng Khắc
Hiếu, Bùi Hồng Quân (2011). Giáo trình Tâm lý học Giao tiếp NXB Đại học Sư
phạm TP. Hồ Chí Minh.
24. Huỳnh Văn Sơn (chủ biên), (2010), Những vấn đề cơ bản của Tâm
lý học lứa tuổi và Tâm lý học Sư phạm, NXB Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí
Minh.
25. P. Sutherland (2001), Việc học tập của người lớn, NXB Y học, Hà
Nội.
26. Nguyễn Thạc, Phạm Thành Nghị (2008), Tâm lý học Sư phạm Đại
học, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
27. Nguyễn Thạc (2003). Lý thuyết và phương pháp nghiên cứu sự
phát triển của trẻ em, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
28. Nguyễn Xuân Thức (chủ biên) (2006), Tâm lý học đại cương, NXB
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
29. Hoàng Tụy (201 1), Ba vấn đề của đại học Việt nam hiện nay, Kỷ
yếu Đại học Humboldt 200 năm, kinh nghiệm thế giới và Việt nam, NXB Tri
thức.
30. Nguyễn Thị Tuyết (2008), Tiêu chí đánh giá giảng viên, Tạp chí
Khoa học Xã hội và Nhân văn số 24.
31. Trần Trọng Thủy (1992), Khoa học chẩn đoán tâm lý, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
32. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), Trần Hữu Luyến, Trần Quốc Thành
(1998), Tâm lý học đại cương, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
33. Viện Hàn Lâm Khoa học Giáo dục Liên Xô (1977), Những cơ sở
của lý luận dạy họ c - Tập 1, NXB Giáo dục.
34. Frank H. T. Rhodes (2009), Tao dựng tương lai (Hoàng Kháng, Tô
Diệu Lan, Lê Lưu Diệu Đức dịch), NXB Văn hóa Sài gòn.
35. Carl Rogers (2001) Phương pháp dạy và học hiệu quả, NXB Trẻ.
Tiếng Anh
36. Mary D'Apice (1989), Noon to Nightfall, Kadena Press Quezon City,
Philippines.
37. Laura E. Berk (1989), Child Development, Boston, Allyn and Bacon.
38. Berliner David C. and Calfee Robert C. (1996), Handbool of
Educational psychology, Macmilian Library Reference USA.
39. Brehony Katheleen A. (1996), Awakening at midlife, Riverhead
Books New York.
40. Bromley D. B. (1977), The Psychology of Human Ageing, Penguin
Books.
41. Feldman Robert S. (2003), Development across the life span,
Prentice - Hall, lnc.
42. Gaudencio V. Aquino and Norma C. Miranda (1991), lntroduction to
Psychology National Book Stọre, INC. Metro Manila, Philippines.
43. Getzels. J and Jackson. P (1962), Creativity and inteligence:
Explorations with gifted student, New York.
44. Grace J. Craig (1999), Human Development, Prentice - Hall, lnc.
45. Lee. J. Cronbach (1990), Essentials of psychological Testing,
Standford University.
46. Matsumoto. D (1996), Culture and Psychology Pacific Grove, CA:
Brooks/Cole.
47. Pai Obanya, Juma Shabani, Peter Okebukola với sự giúp đỡ của
Văn phòng UNESCO vùng của Châu Phi (2001), "Guide to Teaching and
Learning in Higher Education", http://www.breda-auide.tripod.com.
48. Jeanne Ellis Ormrod (2006), Educational Psychology Developing
Learners, Prentice Hall, lnc.
49. Slavin Robert E. (1991), Educational Psychology, Prentice Hall, lnc.
p.2.
50. Turner Jeffrey S. (1995), Lifespan Development, Harcourt Brace.
51. Zimbardo Philip G. (1992), Psycholog and life, Harper Collins
Publishers.
Tiếng Nga
52. Aixmantax B.B. (2004), Tâm lý học Sư phạm - Biểu đồ và chú thích,
Matxcơva, NXB Vlađox - Press.
53. Klimov E.A. (1995), Hình ảnh thế giới qua các ngành nghề khác
nhau, Matxcơva, NXB Vlađox - Press.
54. Nhemov P.X. (2007), Tâm lý học, tập 2 (Tâm lý học sư phạm),
Matxcơva, NXB Vlađox - Press.
Các trang website
55. http://www.pz.harvard.edu/Pls/HG.htm.
56. httD://www.newhorizons.org/restr - wahll.html..
MỤC LỤCLời nói đầu
Chương I: MỘT SÔ VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM ĐẠI HỌC
1.1. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu và vai trò của Tâm lý học Sư
phạm Đại học
1.2. Những điều kiện làm nảy sinh và hình thành Tâm lý học Sư phạm
Đại học
1.3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Tâm lý học Sư
phạm Đại học
1.4. Mối quan hệ giữa Tâm lý học Sư phạm Đại học và các môn học
khác
Câu hỏi thảo luận - Bài tập thực hành - Câu hỏi ôn tập
Chương II: TÂM LÝ HỌC NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH TRẺ TUỔI
2.1. Tuổi trưởng thành
2.2. Một số điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của người
trưởng thành trẻ tuổi
2.3. Đặc điểm tâm lý thanh niên sinh viên (18 đến 25 tuổi)
2.4. Đặc điểm tâm lý người thành niên (sau 25 đến 40 tuổi)
Câu hỏi thảo luận - Bài tập thực hành - Câu hỏi ôn tập
Chương III: CƠ SỞ TÂM LÝ CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC ĐẠI HỌC
3.1. Bản chất của hoạt động dạy học ở Cao đẳng - Đại học cho sinh
viên
3.2. Cơ sở tâm lý của việc tổ chức hoạt động học của sinh viên và hoạt
động dạy của giảng viên
3.3. Các yêu cầu tâm lý trong việc tích cực hóa hoạt động nhận thức và
học tập của sinh viên
3.4. Các cơ sở tâm lý của việc triển khai các xu hướng dạy học hiện đại
hoặc các phương pháp dạy học tích cực hiện nay
3.5. Vấn đề dạy học hiệu quả ở bậc Cao đẳng - Đại học hiện nay
3.6. Đánh giá việc học tập của sinh viên Cao đẳng - Đại học
Câu hỏi thảo luận - Bài tập thực hành - Câu hỏi ôn tập
Chương IV: ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP VÀ NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI CÁN BỘ GIẢNG DẠY CAO ĐẲNG - ĐẠI HỌC
4.1. Đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của người cán bộ giảng dạy Cao
đẳng - Đại học (giảng viên)
4.2. Cấu trúc nhân cách của người cán bộ giảng dạy Cao đẳng - Đại
học (giảng viên)
4.3. Nhũng phẩm chất tâm lý cần thiết đối với người cán bộ giảng dạy
Cao đẳng - Đại học (giảng viên)
4.4. Những năng lực cần thiết đối với người cán bộ giảng dạy Cao
đẳng - Đại học (giảng viên)
4.5. Tay nghề sư phạm và sự hình thành uy tín của người cán bộ giảng
dạy Cao đẳng - Đại học (giảng viên)
Câu hỏi thảo luận - Bài tập thực hành - Câu hỏi ôn tập
TÀI LIỆU THAM KHẢO
---//---
GIÁO TRÌNHTÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM ĐẠI HỌC
Tác giả:
TS. HUỲNH VĂN SƠN (Chủ biên)
TS. TRẦN THỊ THU MAI – TS. NGUYỄN THỊ TỨ
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
280 An Dương Vương, Phương 4. Quận 5. TP.HCM
Điện thoại: (08) 38 301 303 - Fax: (08) 39 381 382
Email: [email protected] - http://nxb.hcmup.edu.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc - Tổng biên tập PGS.TS. NGUYỄN KIM HỒNG
Tổ chức nội dung:
Trưởng bộ môn Tâm lý học TS. HUỲNH VĂN SƠN
Biên tập: NGÔ THỊ THU NGỌC
Trình bày bìa & Sửa bản in: DIỆP QUANG PHƯỚC
In 500 cuốn khổ 16 x 24 cm tại DNTN TM&SX Minh Kim Long. Số đăng ký kế
hoạch xuất bản 85-2012/CXB/28-02/ĐHSPTPHCM. Quyết định xuất bản số:
21/QĐ-NXBĐHSP, cấp ngày 19 tháng 01 năm 2012. In xong và nộp lưu chiều
Quý I năm 2012.