Upload
fifi-lapin
View
247
Download
2
Embed Size (px)
Citation preview
i
MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC BANG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................1
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN(FACTORING)..............................................................................................4
1.1.Sự ra đời và phát triển của factoring........................................................4
1.2.Những nội dung cơ bản vềfactoring...........................................................7
1.2.1.Khái niệm vềfactoring..........................................................................7
1.2.2.Đặc điểm của factoring........................................................................9
1.2.3.Sự khác nhau cơ bản giữa factoring và một số hình thức tài trợ thương mại khác.........................................................................................10
1.2.4.Chức năng của factoring...................................................................11
1.2.5.Phân loại Factoring...........................................................................12
1.2.6.Quy trình thực hiện nghiệp vụ factoring phổ biến trong thực tế.. . .15
1.2.7.Lợi thế của factoring trong thương mại quốc tế..............................18
1.3.Rủi ro trong nghiệp vụ factoring..............................................................22
1.3.1. Rủi ro từ phía đơn vị cung cấp dịch vụ factoring............................22
1.3.2. Rủi ro từ phía người mua.................................................................22
1.3.3.Rủi ro từ phía ngân hàng, hay đơn vị thực hiện nghiệp vụ factoring......................................................................................................................23
1.4.Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển nghiệp vụ factoring...............23
1.4.1. Các nhân tố khách quan...................................................................23
1.4.2. Các nhân tố chủ quan.......................................................................24
1.5.Kinh nghiệm về hoạt động factoring trên thế giới..................................24
1.5.1. Tình hình hoạt động factoring trên thế giới....................................24
1.5.2. Kinh nghiệm về hoạt động factoring của một số quốc gia trên thế giới...............................................................................................................27
1.5.3.Các bài học kinh nghiệm cho hoạt động factoring tại Việt Nam.. . .30
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN (FACTORING) TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM..........33
ii
2.1. Cơ sở pháp lý cho sự phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.......................................................................................33
2.1.1. Các văn bản pháp lý quy định về hoạt động factoring tại Việt Nam......................................................................................................................33
2.1.2. Các quy định cơ bản về factoring trong các văn bản luật và dưới luật...............................................................................................................34
2.2. Thực trạng hoạt động factoring tại một số ngân hàng thương mại Việt Nam....................................................................................................................36
2.2.1. Số lượng các ngân hàng tham gia cung cấp dịch vụ factoring......36
2.2.2. Quy trình thực hiện factoring tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.............................................................................................................39
2.2.3. Quy mô, doanh số Factoring............................................................45
2.3. Rủi ro đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam khi thực hiện nghiệp vụ factoring..........................................................................................48
2.3.1.Rủi ro tín dụng...................................................................................48
2.3.2.Rủi ro gian lận...................................................................................49
2.3.3.Rủi ro thu nợ......................................................................................49
2.3.4.Rủi ro thanh khoản............................................................................49
2.3.5.Rủi ro ngoại hối.................................................................................49
2.4. Đánh giá chung về tình hình phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng thương mại Việt Nam....................................................................50
2.4.1. Kết quả đạt được...............................................................................50
2.4.2. Những hạn chế còn tồn tại...............................................................51
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động factoring......................................................................................................53
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN (FACTORING) TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM.........................................................................................................................56
3.1. Sự cần thiết phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng thương mại Việt Nam....................................................................................................56
3.2. Triển vọng áp dụng nghiệp vụ factoring tại Việt Nam..........................57
3.2.1. Năng lực của các ngân hàng thương mại Việt Nam.......................57
3.2.2. Nhu cầu về dịch vụ factoring ngày càng tăng.................................60
iii
3.3. Giải pháp phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng thương mại Việt Nam...........................................................................................................61
3.3.1. Giải pháp chủ yếu.............................................................................61
3.3.2. Giải pháp hỗ trợ................................................................................74
3.4. Kiến nghị nhằm phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.......................................................................................77
3.4.1. Những kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước....................................77
3.4.2. Những kiến nghị với các ngân hàng thương mại Việt Nam...........78
KẾT LUẬN..............................................................................................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................82
iv
DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG
Bảng 1.1 : Doanh số factoring trên thế giới giai đoạn 2007-2011...........................25
Bảng 1.2 : Doanh số bao thanh toán của các châu lục trên thế giới giai đoạn 2007-2011...........................................................................................................................25
Bảng 1.3 : Doanh số Factoring của các quốc gia hàng đầu châu Á giai đoạn 2006-2010...........................................................................................................................26
Bảng 1.4 : Số lượng khách hàng của dịch vụ factoring tại Anh năm 2011..............28
Bảng 2.1 : Số lượng các ngân hàng thương mại Việt Nam cung cấp dịch vụ factoring giai đoạn 2007-2011..................................................................................37
Bảng 2.2 : Biểu phí/lãi suất dịch vụ bao thanh toán của ACB.................................39
Bảng 2.3 : Biểu phí/lãi suất dịch vụ của Vietcombank............................................42
Bảng 2.4 : Doanh số factoring tại Việt Nam trong giai đoạn 2005– 2011...............45
Bảng 2.5 : Doanh số factoring xuất nhập khẩu của Vietcombank giai đoạn 2007-2011...........................................................................................................................47
Bảng 2.6 : Doanh số nghiệp vụ factoring nội địa của ngân hàng VIB.....................48
Bảng 3.1 : Quy mô vốn điều lệ của một số ngân hàng thương mại Việt Nam.........58
Bảng 3.2. Tỷ lệ CAR một số ngân hàng thương mại Việt Nam...............................58
Bảng 3.3. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam và một số ngân hàng thương mại................................................................................................................59
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1.1: Doanh số bao thanh toán FCI giai đoạn 2007 - 2011............................6
Biểu đồ 1.2: Thị phần về doanh số bao thanh toán của FCI so với toàn thếgiới giai đoạn 2007 - 2011........................................................................................................7
Biểu đồ 1.3: Thị phần doanh số factoring các châu lục trên thế giới năm 2011.....26
Biểu đồ 1.4 : Tình hình doanh số factoring của một số nước Asean.......................27
Biểu đồ 1.5 : Doanh số factoring của Anh trong năm 2011.....................................28
Biểu đồ 1.6 : Doanh số factoring của Ý trong giai đoạn 2007 - 2011......................29
Biểu đồ 1.7 : Doanh số factoring của Trung Quốc giai đoạn 2007 – 2011.............30
Biểu đồ 2.2 : Doanh thu Factoring theo nhóm dịch vụ của Việt Nam trong giai đoạn 2008-2011.................................................................................................................46
v
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Quy trình thực hiện nghiệp vụ Factoring theo hệ thống một đơn vị bao thanh toán..................................................................................................................15
Sơ đồ 1.2: Quy trình thực hiện nghiệp vụ Factoring theo hệ thống hai đơn vị bao thanh toán..................................................................................................................17
Sơ đồ 2. 1a: Quy trình thực hiện bao thanh toán trong nước của ACB..................40
Sơ đồ 2.1b: Quy trình thực hiện bao thanh toán xuất khẩu của ACB......................41
Sơ đồ 2.2: Quy trình thực hiện bao thanh toán trong nước của Vietcombank.........43
Sơ đồ 2.3: quy trình thực hiện bao thanh toán xuất khẩu tại Vietcombank.............43
Sơ đồ 2.4: Quy trình thực hiện bao thanh toán nhập khẩu tại Vietcombank............44
1
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài.
Trên thế giới hiện nay, hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế chủ đạo.
Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế từng bước được đẩy nhanh. Đầu tư, lưu chuyển hàng
hóa, dịch vụ lao động và vốn ngày càng được mở rộng. Bên cạnh đó, khoa học kỹ
thuật phát triển, nhất là sự phát triển mạnh mẽ theo chiều sâu của công nghệ thông
tin và thị trường tài chính đã tác động lớn tới cơ cấu và sự phát triển của kinh tế thế
giới, mở ra những cơ hội mới cho những quốc gia đang phát triển. Việt Nam cũng
là một quốc gia đang phát triển, đang đứng trước những cơ hội ấy. Tuy nhiên, tình
hình thế giới và khu vực vẫn chứa đựng nhiều những yếu tố phức tạp, các tranh
chấp, xung đột xảy ra thường xuyên gây mất ổn định không chỉ về mặt chính trị, mà
còn về kinh tế tới nhiều nơi trên thế giới. Các nước lớn, với những lợi thế cạnh
tranh nhất định,luôn tìm cách áp đặt các rào cản thương mại với các nước nghèo và
các nước đang phát triển. Đứng trước những cơ hội và thách thức ấy, đẩy mạnh tăng
trưởng kinh tế một cách hiệu quả và bền vững , nâng cao vị thế của mình trong khu
vực và trên trường quốc tế là mục tiêu phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
Có thể nói, đối với một quốc gia đang phát triển, lĩnh vực tài chính ngân
hàng được coi như là một “mạch máu” của nền kinh tế. Với các bước tiến rõ rệt
theo ba xu hướng : một là, phát triển các dịch vụ trên thị trường tài chính; hai là ,
phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tiện ích và hiện đại; ba là, mở rộng các dịch vụ
ngân hàng quốc tế, lĩnh vực này đã dần trở thành một lĩnh vực quan trọng đối với
mục tiêu phát triển bền vững. Bên cạnh đó, để gặt hái được những thành công hơn
nữa trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện
nay luôn nỗ lực để đạt được mục tiêu của mình bằng chiến lược đa dạng hóa sản
phẩm, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Bao thanh toán là một sản phẩm được
đưa vào chiến lược phát triển của nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam gần đây.
Mặc dù, trên thị trường tài chính ngân hàng quốc tế, bao thanh toán không còn mới
mẻ, nhưng ở Việt Nam, dịch vụ này vẫn còn khá mới lạ và việc phát triển dịch vụ
vẫn còn gặp nhiều khó khăn với lượng doanh số còn khiêm tốn. Với mục tiêu
nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn dịch vụ bao thanh toán, em đã chọn đề tài “Nghiệp
2
vụ bao thanh toán (Factoring) – Thực trạng và giải pháp tại các ngân hàng thương
mại Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mục tiêu nghiên cứu:
Thứ nhất, hệ thống hóa những vấn đề lý luận về nghiệp vụ bao thanh toán
(Factoring).
Thứ hai, nghiên cứu về thực trạng nghiệp vụ bao thanh toán (Factoring) tại
các ngân hàng thương mại Việt Nam, đánh giá chung về tình hình phát triển, những
thành tựu đạt được, cũng như những hạn chế còn tồn tại trong quá trình thực hiện
phát triển nghiệp vụ bao thanh toán (Factoring).
Thứ ba, đề xuất một số những giải pháp và đưa ra một số những kiến nghị
nhằm phát triển dịch vụ bao thanh toán (Factoring) tại các ngân hàng thương mại
Việt Nam.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Dịch vụ bao thanh toán được phổ biến dưới hai hình thức : Factoring và
Forfaiting. Tuy nhiên phạm vi nghiên cứu của khóa luận chỉ tập trung vào một hình
thức của hoạt động bao thanh toán : Factoring trong giai đoạn 2007 - 2011. Vì vậy,
thuật ngữ “Bao thanh toán”được sử dụng trong khóa luận đồng nghĩa với
“Factoring” và thuật ngữ “Factor” sẽ được hiểu là các đơn vị bao thanh toán cung
cấp dịch vụ Factoring.
Phương pháp nghiên cứu :
Khóa luận được nghiên cứu dựa trên các phương pháp thống kê, tổng hợp, so
sánh, phân tích, đối chiếu kết hợp với việc minh họa bằng sơ đổ, bảng biểu nhằm
mục đích làm vấn đề trở nên rõ ràng hơn, trực quan hơn.
Bên cạnh đó, dựa trên việc tham khảo, trao đổi ý kiến với cán bộ tác nghiệp
tài trợ thương mại tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam, nên
những số liệu nghiên cứu được tập hợp chính xác hơn.
Kết cấu của khóa luận :
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa
luận được thể hiện qua ba chương như sau:
C hương I : Tổng quan về nghiệp vụ bao thanh toán của các ngân hàng thương mại
Việt Nam.
3
C hương II : Thực trạng về nghiệp vụ bao thanh toán tại các ngân hàng thương mại
Việt Nam giai đoạn 2007 - 2011.
C hương III : Các giải pháp nhằm phát triển dịch vụ bao thanh toán tại các ngân
hàng thương mại Việt Nam trong thời gian tới.
Với thời gian và kiến thức còn hạn chế, chắc chắn đề tài sẽ không tránh khỏi
được những thiếu sót về nội dung, cũng như về hình thức. Kính mong được sự góp
ý, chỉ dẫn của các thầy cô giáo, để đề tài khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành của mình tới PGS.TS Nguyễn Thị
Quy, cô đã góp ý cho em rất nhiều về mặt kết cấu, nội dung đề tài, và những kiến
thức cần thiết để em có thể hoàn thành được khóa luận này.
Em xin chân thành cám ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2012
Sinh viên
Hoàng Hải Ly
4
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ BAO THANH
TOÁN(FACTORING)
1.1.Sự ra đời và phát triển của factoring.
Một số học giả cho rằng nghiệp vụ bao thanh toán bắt nguồn từ khoảng 2000
năm về trước dưới thời đế chế La Mã, xuất phát từ hoạt động đại lý hưởng hoa
hồng. Bên cạnh đó, một số ý kiến khác lại cho rằng Factoring bắt đầu hình thành từ
nền văn minh Mesopotamia cách đây 4000 năm, một nền văn minh đầu tiên phát
minh ra chữ viết, hình thành các luật lệ thương mại, cũng như các quy tắc nhà nước.
Khái niệm factor xuất phát từ động từ tiếng Latin facio, có nghĩa là “he who does
thing”. Hầu hết các quốc gia văn minh thời bấy giờ coi trọng buôn bán, đều đã ứng
dụng một số những phương thức tương tự như phương thức bao thanh toán hiện giờ,
ví dụ điển hình là người Roman đã từng bán giảm giá tờ thương phiếu. Tuy có hai
luồng ý kiến về lịch sử hình thành của bao thanh toán, nhưng hầu hết các học giả
đều thống nhất ở quan điểm Factoring có nguồn gốc từ sự phát triển thương mại
quốc tế, trong đó, hình thức sơ khai ban đầu là việc sử dụng các đại lý thương mại ở
nước ngoài làm factor.
Vào thế kỷ 15, bao thanh toán phát triền mạnh ở Anh dưới hình thức ứng trả
trước một phần cho người ủy nhiệm (hay còn gọi là người cung ứng sản phẩm) .
Thế kỷ 16 chứng kiến sự bắt đầu của chủ nghĩa thực dân Mỹ, đó là tiền đề
thúc đẩy sự phát triển của bao thanh toán trong khoảng thời gian này. Khi Mỹ mở
rộng biên giới phía Tây, kéo theo khoảng cách giữa châu Âu và thị trường Mỹ trở
lên lớn hơn, đồng nghĩa với sự giảm mức độ tin cậy về tín dụng đối với các khách
hàng Mỹ của các nhà sản xuất ở châu Âu. Một sự bảo đảm cho khoản tín dụng
thương mại cho các nhà sản xuất châu Âu là cần thiết. Bởi vậy, để giảm mức độ lo
ngại bởi vòng tuần hoàn từ khi bắt đầu sản xuất cho tới khi thu hồi được khoản tiền
bán hàng ngày một dài hơn, những đại lý bao thanh toán ở Mỹ đã đứng ra thành lập
một tổ chức để cung cấp cho các nhà sản xuất châu Âu những dịch vụ tài chính,
marketing, trong đó bao gồm cả nghiệp vụ bao thanh toán.
Trong khoảng thời gian thế kỷ 17, 18, sự giao lưu thương mại quốc tế giữa
các nước châu Âu và các khu vực khác trên thế giới được đẩy mạnh. Do hạn chế về
5
thông tin liên lạc, và phương tiện vận chuyển hàng hóa, nên nhà xuất khẩu phải chỉ
định các đại lý thương mại tại các thị trường nước ngoài, cho phép các đại lý này
được quyền bán hàng của họ trên cơ sở tín dụng thương mại và hóa đơn thương mại
của chính các đại lý, đồng thời cũng bắt các đại lý phải chịu trách nhiệm về các
khoản tín dụng thương mại này bằng khoản tiền ứng trước để trả cho phí cảng,
thuế,...và tiền hàng cho họ.
Thế kỷ 19 đánh đấu một sự biến chuyển mạnh mẽ của factoring thông qua
các đại lý thanh toán ngành dệt may của Mỹ, hay trong các ngành công nghiệp
điện, hóa chất, sợi tổng hợp....Và khi nền kinh tế Mỹ vững mạnh, các mối quan hệ
lệ thuộc giữa Mỹ và Châu Âu không còn tồn tại nữa, nhu cầu sử dụng các đại lý
thương mại tại thị trường nước ngoài đã giảm xuống. Nhờ vào những nguồn lực
trong nước, và việc áp đặt biểu thuế gắt gao với hàng hóa nước ngoài, nhu cầu nhập
khẩu hàng hóa giảm xuống. Các đại lý bao thanh toán bấy giờ đã điều chỉnh dịch vụ
của mình theo nhu cầu của nền kinh tế, tập trung chủ yếu vào các hoạt động tín
dụng, thu nợ, kế toán...Factoring nội địa ra đời, nhằm đáp ứng nhu cầu bán hàng
trong phạm vi biên giới một quốc gia.
Đầu thế kỷ 20, bao thanh toán phát triển rộng hơn sang các ngành công
nghiệp khác, như phụ kiện, đồ may mặc, đồ nội thất.... Các đại lý bao thanh toán
đưa ra hình thức bao thanh toán mua lại các khoản phải thu dựa trên cơ sở hóa đơn
thương mại . Từ đó, bao thanh toán đã thực sự có một chỗ đứng vững vàng trong
các hoạt động thương mại.
Hiện nay, các đơn vị bao thanh toán tồn tại dưới nhiều hình thức : một phòng
ban của một tổ chức tài chính lớn, hay tồn tại độc lập như một doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ bao thanh toán. Số lượng các factor trên thế giới có xu hướng ngày
càng gia tăng nhanh với mức lãi suất tăng cao. Sự phát triển mạnh mẽ của dịch vụ
bao thanh toán dẫn tới nhu cầu cấp thiết thành lập Hiệp hội bao thanh toán.
Đầu năm 1960, tổ chức các nhà bao thanh toán quốc tế IFG (International
Factor Group) ra đời với gần 70 thành viên là những ngân hàng, đơn vị bao thanh
toán độc lập.. của 47 quốc gia trên toàn thế giới. Với mục tiêu giúp các đơn vị bao
thanh toán thuận lợi trong quá trình hợp tác, IFG lập ra hệ thống bao thanh toán hai
đơn vị, hay còn gọi là hệ thống dịch vụ bao thanh toán quốc tế.
6
FCI (Factors Chain International) – Hiệp hội bao thanh toán thế giời được
thành lập năm 1986, đứng ra tập hợp các công ty bao thanh toán độc lập với nhau.
Ngay từ những ngày đầu thành lập, FCI đã xác định được mục tiêu hoạt động của
mình :
(i) Đưa bao thanh toán trở thành một dịch vụ mang tính toàn cầu.
(ii) Giúp các thành viên trong Hiệp gội giành được lời thế cạnh tranh
trong tài trợ thương mại thông qua việc : thiết lập mạng lưới các nhà bao thanh toán
hàng đầu thế giới, xây dựng mạng lưới thông tin tiện ích, hiện đại để kết nối các nhà
bao thanh toán với nhau, thường xuyên mở các lớp đào tạo nghiệp vụ và không
ngừng giới thiệu quảng bá bao thanh toán như là một phương thức tối ưu trong tài
trợ thương mại.
Cho tới nay, FCI đã trở thành một Hiệp hội có sức ảnh hưởng mạnh mẽ tới
sư phát triển của bao thanh toán trên thế giới với 255 đơn vị bao thanh toán của 69
quốc gia trên toàn thế giới. Hiện nay, tổng doanh số bao thanh toán của các thành
viên trong Hiệp hội chiếm tới 80% doanh số bao thanh toán toàn cầu.
Biểu đồ 1.1 : Doanh số bao thanh toán FCI giai đoạn 2007 - 2011.
ĐVT : Triệu EUR
(Nguồn : www.factors-chain.com, Annual Review 2011)
7
Biểu đồ 1.2 : Thị phần về doanh số bao thanh toán của FCI so với toàn thếgiới
giai đoạn 2007 - 2011.
2007 : 58% 2008 : 59% 2009 : 59% 2010 : 56% 2011 : 57%
(Nguồn : www.factors-chain.com, Annual Review 2011)
Qua biểu đồ trên, ta có thể thấy đượ sự phát triển của Hiệp hội bao thanh
toán FCI hay sự chiếm ưu thế của FCI trong thị trường bao thanh toán trên toàn thế
giới.
1.2.Những nội dung cơ bản vềfactoring.
1.2.1.Khái niệm về factoring.
Đối với các ngân hàng, tổ chức tín dụng, hay các doanh nghiệp ở những
nước phát triển trên thế giới, khái niệm bao thanh toán đã trở nên phổ biến. Tuy
nhiên, khái niệm này vẫn còn khá mới mẻ với những doanh nghiệp xuất nhập khẩu
ở Việt Nam. Vậy thực chất bao thanh toán là gì và dịch vụ bao thanh toán được
cung cấp nhằm mục đích gì. Để trả lời cho những câu hỏi trên, trước hết cần làm rõ
bằng một số khái niệm về bao thanh toán.
Khái niệm 1 : “Hợp đồng Factoring (Factoring contract) là hợp đồng giữa
đơn vị bán và đơn vị bao thanh toán (Factors), theo đó, người bán có thể chuyển
nhượng cho các đơn vị bao thanh toán các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng
mua bán hàn hóa/dịch vụ giữa người bán và người mua hàng. Đơn vị bao thanh toán
phải thực hiện ít nhất 2 trong 4 chức năng sau : (i) tài trợ cho bên bán, bao gồm các
khoản vay và thanh toán trước, (ii) quản lý các khoản liên quan tới các khoản phải
thu, (iii) thu hộ các khoản phải thu, (iv) bảo hiểm rủi ro thanh toán của con nợ”
8
(Điều 1, công ước UNIDROIT về bao thanh toán quốc tế 1998 - UNIDROIT
Convention on International Factoring – Ottawa, Canada, 28 May 1998).
Khái niệm 2 : “Hợp đồng Factoring là hợp đồng theo đó người bán có thể
hoặc sẽ chuyển nhượng các khoản phải thu cho một đơn vị bao thanh toán (factor),
có thể với mục đích nhận tài trợ thương mại hoặc không, để nhận được ít nhất một
trong các chức năng sau: (i) theo dõi sổ sách các khoản phải thu, (ii) thu hộ các
khoản phải thu, (iii) bảo hiểm rủi ro nợ xấu” (Điều 1, Quy tắc chung về Factoring
quốc tế của Hiệp hội Factoring quốc tế - General Rules For International Factoring
– FCI)
Khái niệm 3 : “Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng cho bên bán
hàng thông qua lại việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ đã được bên bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và bên mua
hàng hóa, sử dụng dịch vụ thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ” (Điều 2, quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 6/9/2004 về Quy chế
hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng và Quyết định số 30/2008/QĐ-
NHNN ngày 16/10/2008 về sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế hoạt động bao
thanh toán của các tổ chức tín dụng ban hành ngày 6/9/2004)
Khái niệm 4 : “dựa trên quan điểm của luật và kế toán thì factoring là một
dịch vụ dựa vào những khoản phải thu được chuyển nhượng. Các khoản phải thu
của người bán hàng được chuyển nhượng cho factor, do đó tạo ra một sự chuyển đổi
chủ nợ. Một factor sẽ trở thành chủ nợ mới và độc quyền với các khoản phải thu,
bao gồm cả phần phụ thuộc vào các khoản phải thu đó” (Theo cuốn Marketing
International Factoring, 2000)
Tóm lại, từ các khái niệm trên đây, xét về các khía cạnh mà bao thanh toán
có liên quan, ta có thể hiểu bao thanh toán (Factoring) là một công cụ tài chính
cung cấp cho người bán hàng hoặc một thực thể kinh doanh bốn yếu tố dịch vụ
dưới đây:
- Tài trợ vốn lưu động.
- Dịch vụ thu hộ tiền thanh toán từ người mua hàng.
- Dịch vụ quản lý số bán hàng.
- Dịch vụ bảo đảm rủi ro.
9
Sự khác nhau giữa các khái niệm chính là ở việc đơn vị bao thanh toán cung
cấp nhiều hay ít số lượng các dịch vụ để được gọi là Bao thanh toán. Dịch vụ bao
thanh toán thông thường sẽ có sự xuất hiện của ít nhất ba bên:
1. Tổ chức bao thanh toán (factor): là ngân hàng, công ty tài chính chuyên
thực hiện việc mua bán nợ và các dịch vụ khác liên quan đến mua bán nợ. Trong
nghiệp vụ bao thanh toán quốc tế sẽ có hai đơn vị bao thanh toán, một đơn vị bao
thanh toán tại nước của nhà xuất khẩu và một đơn vị bao thanh toán tại nước của
nhà nhập khẩu.
2. Người bán hay nhà xuất khẩu (seller, exporter): các doanh nghiệp sản
xuất hàng hóa hoặc kinh doanh dịch vụ có những khoản nợ của khách hàng nhưng
chưa đến hạn thanh toán.
3. Người mua hàng (người mắc nợ) hay nhà nhập khẩu (buyer, debtor,
importer): hay còn gọi là người phải trả tiền, đó chính là người mua hàng hóa hay
nhận các dịch vụ cung ứng
1.2.2.Đặc điểm của factoring.
Về mặt hình thức, bao thanh toán được cung cấp chủ yếu dưới hai loại đó là
factoring và forfaiting. Bản chất của hai loại bao thanh toán này có những đặc điểm
khác nhau nhất định, từ đó quyết định tới mức độ phổ biến của hai loại bao thanh
toán này trong thực tế. Trên thế giới, factoring thường được áp dụng phổ biến hơn
là forfaiting.
Forfaiting có thể hiểu là loại hình bao thanh toán tuyệt đối, tức là một hình
thức tài trợ thương mại của tổ chức tín dụng cho người xuất khẩu theo phương thức
miễn truy đòi. Đối tượng áp dụng của nghiệp vụ forfaiting là các khoản phải thu
trung và dài hạn có nguồn gốc từ các hợp đồng mua bán hàng hóa và dịch vụ với
điều kiện các khoản phải thu phải được bảo lãnh thanh toán bởi một ngân hàng có
uy tín.
Factoring, hay còn gọi là bao thanh toán tương đối,trước hết là một hình thức
cấp tín dụng ngắn hạn của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng. Khi thực hiện nghiệp
vụ factoring, tổ chức tín dụng ứng trước cho khách hàng của mình một khoản tiền
nhất định thấp hơn giá trị thực tế của các khoản phải thu.
10
Hoạt động factoring được thực hiện, dựa trên quan hệ về mua bán quyền tài
sản là quyền đòi nợ. Tổ chức tín dụng sau khi thực hiện nghiệp vụ factoring, có
quyền thay mặt bên bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, đòi nợ bên mua hàng hóa và
sử dụng dịch vụ khi khoản nợ tới ngày đáo hạn. Đồng thời, tổ chức tín dụng được
phép hưởng phần chênh lệch giữa giá trị thực tế của khoản nợ, và số tiền tổ chức tín
dụng đã bỏ ra để mua khoản nợ đó.
1.2.3.Sự khác nhau cơ bản giữa factoring và một số hình thức tài trợ thương
mại khác.
1.2.3.1. Sự khác nhau giữa factoring và cho vay thông thường.
Về mặt bản chất, factoring và cho vay thông thường đều là hình thức cung
cấp tín dụng cho người yêu cầu dựa trên những điều kiện, quy định nhất định. Tuy
nhiên, hai nghiệp vụ này vẫn có những điểm khác nhau cơ bản, dẫn tới những ưu
thế hay những hạn chế riêng khi áp dụng trong thực tế.
Tiêu chí Bao thanh toán Cho vay thông thường
Chủ thể tín dụng Có hai chủ thể gắn liền với
khoản tín dụng :bên bán và bên
mua.
Chỉ có một chủ thể gắn liền
với khoản tín dụng.
Hạn mức tín
dụng
Cấp hạn mức dựa trên uy tín và
năng lực bên bán và bên mua.
Cấp hạn mức dựa trên uy tín
và năng lực bên vay vốn.
Hình thức cấp tín
dụng
ứng trước cho bên bán hàng (dựa
trên hóa đơn bán hàng).
Cấp vốn cho bên vay (dựa
trên tài sản đảm bảo bên vay)
Thu nợ Thu nợ từ bên mua hàng. Thu nợ từ bên vay.
Chức năng Theo dõi bán hàng và các khoản
phải thu từ bên mua
Theo dõi, kiểm tra tình hình
sử dụng vốn bên vay.
1.2.3.2. Sự khác nhau giữa factoring với tài trợ các khoản phải thu.
Tiêu chí Bao thanh toán Tài trợ các khoản phải thu
Chủ thể tham
gia
Ba bên gồm : Factor, người mua
hàng, người bán hàng.
Hai bên : ngân hàng (tổ chức
tín dụng) và bán hàng.
Hạn mức tín
dụng
Tùy thuộc vào loại hình bao
thanh toán, dựa trên cơ sở hóa
Tài trợ thường được cấp cho
người xuất khẩu dựa vào từng
11
đơn thương mại. khoản phải thu riêng biệt.
Rủi ro tín dụng Phụ thuộc vào uy tín và khả năng
trả nợ của bên mua.
Phụ thuộc vào uy tín và khả
năng tín dụng của người bán .
Tráchnhiệm thu
nợ
Phụ thuộc vào loại hình factoring
áp dụng, thường là factor thu nợ
từ người mua hàng.
Người bán hàng chịu trách
nhiệm cuối cùng về việc thu
nợ từ người mua hàng.
Đối với nghiệp vụ tài trợ các khoản phải thu, khoản phải thu chỉ là tài sản
đảm bảo, chứ không thuộc quyền sở hữu của các tổ chức tài chính. Do đó mà người
bán sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm thu hồi nợ, cũng như chịu mọi rủi ro nếu người mua
không thanh toán. Factoring đã khắc phục được những điểm yếu của hình thức tài
trợ thương mại này.
1.2.4.Chức năng của factoring.
Từ các công ước quốc tế, các quy định chung về nghiệp vụ bao thanh toán, ta
có thể thấy được bao thanh toán có bốn chức năng cơ bản :
(i) Bảo hiểm tín dụng.
Với chức năng này, người bán sẽ được đảm bảo về khoản tín dụng mà khách
hàng nợ mình. Một khoản phải thu được bảo hiện là khi đơn vị bao thanh toán cấp
cho người mua hàng một hạn mức tín dụng (mục đích để thanh toán tiền hàng), lúc
người mua ký hợp đồng mua bán hàng hóa với người bán, thì giá trị khoản phải thu
phải nhỏ hơn hoặc bằng hạn mức còn lại của người mua. Khi đó, nếu như không có
tranh chấp giữa người mua và người bán thì khoản phải thu ấy được gọi là khoản
phải thu được bảo hiểm. Cần lưu ý một điều rằng, nếu khoản phải thu có giá trị lớn
hơn hạn mức còn lại của người mua, thì giao dịch mua bán vẫn được thực hiện,
nhưng giá trị khoản phải thu sẽ tăng thêm sẽ không được đơn vị bao thanh toán bảo
hiểm, tức là không thanh toán, nếu người mua mất khả năng thanh toán, hoặc không
thanh toán trong vòng 90 ngày.
(ii) Tài trợ / ứng trước.
Với chức năng này. đơn vị bao thanh toán cam kết sẽ ứng trước cho người
bán một số tiền với tỉ lệ khoảng 70 – 90% giá trị các khoản phải thu đạt tiêu chuẩn.
Khi khoản phải thu được thanh toán, thì người bán sẽ nhận tiếp số tiền còn lại sau
khi đã trừ đi phí và lãi.
12
(iii) Quản trị sổ sách các khoản phải thu.
Đơn vị bao thanh toán sẽ quản lý hóa đơn, các giấy nhận nợ và các khoản
thanh toán liên quan đến người mua. Khi thích hợp thì đơn vị bao thanh toán sẽ gửi
thông báo cho người mua về việc người bán đã chuyển nhượng các khoản phải thu
cho đơn vị bao thanh toán. Và người mua phải thanh toán tiền cho đơn vị bao thanh
toán. Người bán sẽ nhận các báo cáo hàng kỳ về tình trạng của sổ quản lý các khoản
phải thu. Điều này sẽ giúp cho người bán biết được khả năng thanh toán của người
mua.
(iv) Thu nợ các khoản phải thu.
Một trong những vấn đề trong việc sử dụng phương thức thanh toán mở sổ là
người mua không thanh toán cho người bán khi chưa nhận được hàng hóa. Đơn vị
bao thanh toán sẽ giải quyết vấn đề này bằng cách thay doanh nghiệp đòi nợ nếu
người mua không thanh toán.
Ứng với mỗi chức năng, bao thanh toán mang lại những lợi ích nhất định
riêng biệt, nhưng không phải lúc nào bao thanh toán cũng thực hiện đủ các chức
năng ấy, mà còn tùy thuộc vào loại sản phẩm bao thanh toán mà đơn vị bao thanh
toán cung cấp.
1.2.5.Phân loại Factoring.
1.2.5.1.Phân loại theo phạm vi hoạt động địa lý.
Factoring nội địa (domestic Factoring) : là hình thức cấp tín dụng của một
ngân hàng thương mại hay một công ty tài chính chuyên nghiệp cho bên bán hàng
thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa đã
được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa,
trong đó, bên bán hàng và bên mua hàng là người cư trú trong phạm vi một quốc
gia.
Theo khoản 2, điều 4, chương I của Quy chế hoạt động bao thanh toán của
các tổ chức tín dụng tại Việt Nam có giải thích “ Bao thanh toán trong nước là việc
bao thanh toán dứa trên hợp đồng mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, trong đó
bên bán hàng và bên mua hàng là người cư trú theo quy định của pháp luật về quản
lý ngoại hối”.
13
Factoring quốc tế (international Factoring): là Factoring trong đó các bên
tham gia có ít nhất hai bên thuộc hai quốc gia khác nhau, dựa trên hợp đồng xuất
nhập khẩu.
Theo khoản 2 điều 4 chương I của Quy chế hoạt động bao thanh toán của các
tổ chức tín dụng tại Việt Nam có quy định : “Bao thanh toán xuất nhập khẩu là việc
bao thanh toán dựa trên hợp đồng xuất nhập khẩu . Đơn vị bao thanh toán xuất nhập
khẩu là đơn vị thực hiện bao thanh toán cho bên bán hàng là bên xuất khẩu trong
hợp đồng xuất nhập khẩu. Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu là đơn vị được phép
hoạt động bao thanh toán, tham gia vào quy trình bao thanh toán xuất nhập khẩu”.
1.2.5.2.Phân loại theo ý nghĩa bảo hiểm rủi ro thanh toán.
Factoring có truy đòi (with recourse/ recourse Factoring) : là hình thức bao
thanh toán trong đó đơn vị bao thanh toán có quyền truy đòi lại số tiền đã ứng trước
cho bên bán hàng khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh
toán khoản phải thu.
Factoring miễn truy đòi (without recourse/ non-recourse Factoring) : là hình
thức bao thanh toán, trong đó đơn vị bao thanh toán chịu mọi rủi ro đối với số tiền
đã ứng trước cho bên bán khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ
thanh toán khoản phải thu.
Trong loại hình bao thanh toán này, đơn vị bao thanh toán chỉ có quyền đòi
lại số tiền đã ứng trước cho bên mua hàng trong trường hợp bên mua từ chối thanh
toán các khoản phải thu do bên bán hàng giao hàng không đúng hợp đồng hoặc vì lý
do khác không liên quan tới khả năng thanh toán của bên mua hàng.
1.2.5.3.Phân loại theo phạm vi áp dụng nghiệp vụ Factoring đối với số
lượng các hóa đơn của một người bán hàng cụ thể.
Factoring toàn bộ (whole Factoring) : là việc thực hiện bao thanh toán cho
toàn bộ các hóa đơn thương mại phát hành ra của một người bán hàng.
Factoring một phần (partial Factoring): là việc thực hiện bao thanh toán cho
một số các hóa đơn phát hàng của người bán hàng đòi tiền một số người mua hàng
cụ thể.
14
1.2.5.4.Phân loại theo phương thức thực hiện Factoring.
Factoring từng lần : là hình thức đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thực
hiện các thủ tục cần thiết và kí kết hợp đồng bao thanh toán đối với các khoản phải
thu của khách hàng.
Factoring hạn mức : là hình thức đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thỏa
thuận và xác định một hạn mức bao thanh toán duy trì trong một khoảng thời gian
nhất định.
Đồng bao thanh toán : là hình thức hai hay nhiều đơn vị bao thanh toán cùng
thực hiện hoạt động bao thanh toán cho một hợp đồng mua bán hàng hóa và cung
ứng dịch vụ, trong đó một đơn vị bao thanh toán làm đầu mối thực hiện việc tổ chức
đồng bao thanh toán.
1.2.5.5.Phân loại theo phạm vi giao dịch của factor với người mua.
Factoring công khai (disclosed Factoring) : là hình thức bao thanh toán
trong đó bên mua hàng hóa có biết về hoạt động này. Theo đó, người bán hàng giao
hàng cho người mua và nhận tiền ứng trước từ factor. Sau đó, người mua trả tiền
hàng cho factor này.
Fatoring kín (confidential/ undisclosed Factoring) : là hình thức bao thanh
toán trong đó người mua hàng không biết về dịch vụ Factoring được thực hiện.
Theo đóm người bán giao hàng cho người mua, nhận tiền ứng trước từ factor, người
mua trả tiền mua hàng cho người bán như thường lệ. Sau đó, người bán chuyển số
tiền này cho factor.
1.2.5.6.Căn cứ vào cách thức thực hiện.
Factoring theo phương thức thực hiện truyền thống: là hình thức bên bán và
bên mua sẽ liên hệ với đơn vị bao thanh toán để biết chắc rằng đơn vị bao thanh
toán có mua lại các khoản phải thu cho bên bán hàng hay không trước khi thực hiện
mua bán theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán.
Factoring theo phương thức thực hiện phi truyền thống : là hình thức đơn vị
bao thanh toán sẽ tiến hành xây dựng những tiêu chuẩn chung cho bên mua và bên
bán đủ điều kiện. Đơn vị bao thanh toán sẽ cấp hạn mức bao thanh toán cho cả hai
bên. Nếu những quan hệ giao dịch mua bán phát sinh mà bên mua và bên bán nằm
15
trong tiêu chuẩn chung thì đơn vị này sẽ tiến hành thực hiện bao thanh toán, miễn là
số tiền ứng trước không vượt quá hạn mức bao thanh toán được cấp cho bên bán.
1.2.6.Quy trình thực hiện nghiệp vụ factoring phổ biến trong thực tế.
1.2.6.1.Quy trình thực hiện nghiệp vụ factoring theo hệ thống một đơn vị
bao thanh toán.
Nghiệp vụ Factoring theo hệ thống một đơn vị bao thanh toán được thực hiện
với sự tham gia của ba bên bao gồm : người bán (khách hàng của factor), người
mua (con nợ của factor), đơn vị bao thanh toán (fator). Quy trình thực hiện nghiệp
vụ này được thể hiện chi tiết qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1 : Quy trình thực hiện nghiệp vụ Factoring theo hệ thống một đơn vị
bao thanh toán
(1)Người bán
(khách hàng) ( 6)
Người mua
(con nợ)
(2) (4) (5) (7) (8) (11) (3) (9) (10)
Đơn vị bao thanh toán
(1) Người bán và người mua tiến hành thương lượng và ký kết hợp đồng.
(2) Người bán đề nghị đơn vị bao thanh toán tài trợ với tài sản đảm bảo chính là
khoản phải thu trong tương lai từ hợp đồng mua bán hàng hóa.
(3) Đơn vị bao thanh toán thẩm định khả năng thanh toán tiền của người mua.
(4) Nếu xét thấy có thể thu được tiền hàng từ người mua theo đúng hạn hợp đồng
mua bán, đơn vị bao thanh toán sẽ thông báo đồng ý tài trợ cho người bán.
(5) Đơn vị bao thanh toán và người bán thỏa thuận và ký kết hợp đồng bao thanh
toán.
(6) Người bán giao hàng cho người mua theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng mua
bán hàng hóa.
(7) Người bán chuyển nhượng hóa đơn, chứng từ bán hàng, và các chứng từ khác
liên quan đến các khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán.
16
(8) Đơn vị bao thanh toán ứng trước một phần tiền cho người bán theo thỏa thuận
trong hợp đồng bao thanh toán.
(9) Khi đến hạn thanh toán, đơn vị bao thanh toán tiến hành thu hồi nợ từ người
mua.
(10) Người mua thanh toán tiền hàng cho đơn vị bao thanh toán.
(11) Sau khi đã thu hồi tiền hàng từ phía người mua, đơn vị bao thanh toán thanh
toán nốt tiền chuyển nhượng khoản phải thu cho người bán.
Quy trình thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán theo hệ thống một đơn vị bao
thanh toán chủ yếu được áp dụng cho bao thanh toán nội địa, tức có nghĩa là các bên
tham gia đều nằm trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Tuy nhiên, ngày nay,
khi thương mại quốc tế phát triển, nhu cầu quốc tế hóa, giao lưu kinh tế giữa các
quốc gia ngày càng được nâng cao. Theo đó mà phương thức bao thanh toán theo hệ
thống hai đơn vị bao thanh toán phổ biến hơn và đang là một giải pháp hữu hiệu
trong tài trợ thương mại quốc tế.
1.2.6.2.Quy trình thực hiện nghiệp vụ factoring theo hệ thống hai đơn vị
bao thanh toán.
Hệ thống hai đơn vị bao thanh toán thường được sử dụng trong bao thanh
toán quốc tế (xuất nhập khẩu hàng hóa). Trong đó xuất hiện hai đơn vị thực hiện
nghiệp vụ bao thanh toán là factor nhập khẩu và factor xuất khẩu. Factor nhập khẩu
chịu trách nhiệm phân tích khoản phải thu, tình hình hoạt động, khả năng tài chính
của bên nhập khẩu trong hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hóa, thực hiện việc thu nợ
theo ủy quyền của factor xuất khẩu và xam kết thanh toán thay cho bên nhập khẩu
trong trường hợp bên nhập khẩu không có khả năng thanh toán khoản phải thu.
Quy trình thực hiện nghiệp vụ này được thể hiện chi tiết qua sơ đồ sau đây:
Sơ đồ 1.2 : Quy trình thực hiện nghiệp vụ Factoring theo hệ thống hai đơn vị
bao thanh toán
(1)
(7)
Người mua
(người nhập khẩu)
Người bán
(người xuất khẩu)
17
(2) (5) (6) (8) (9) (13) (4) (10) (11)
(3)
(5)
(8)
(12)
(1) Người bán và người mua tiến hành thương lượng trên hợp đồng mua bán
hàng hóa dịch vụ.
(2) Người bán đề nghị đơn vị bao thanh toán xuất khẩu tài trợ với tài sản đảm
bảo chính là khoản phải thu trong tương lai từ hợp đồng mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ.
(3) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu đề nghị đơn vị bao thanh toán nhập khẩu
cùng thực hiện hợp đồng bao thanh toán.
(4) Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu thực hiện phân tích các khoản phải thu,
tình hình hoạt động và khả năng tài chính của bên mua hàng.
(5) Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu đồng ý tham gia giao dịch bao thanh toán
với đơn vị bao thanh toán xuất khẩu. Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu chấp nhận tài
trợ cho người bán.
(6) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu và người bán thỏa thuận và ký kết hợp
đồng.
(7) Người bán giao hàng cho người mua theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng.
(8) Người bán chuyển giao bản gốc hợp đồng và các chứng từ liên quan đến các
khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán xuất khẩu.
(9) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu chuyển tiền ứng trước cho người bán theo
thỏa thuận trong hợp đồng bao thanh toán.
(10)Khi đến hạn thanh toán, đơn vị bao thanh toán nhập khẩu tiến hành thu hồi
nợ từ người mua.
(11)Người mua thanh toán tiền hàng cho đơn vị bao thanh toán nhập khẩu.
(12)Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu trích trừ phí và lãi (nếu có) rồi chuyển số
tiền còn lại cho đơn vị bao thanh toán nhập khẩu.
Đơn vị bao thanh toán
xuất khẩu
Đơn vị bao thanh toán
nhập khẩu
18
(13)Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu trích trừ phí rồi chuyển số tiền còn lại cho
người bán.
1.2.7.Lợi thế của factoring trong thương mại quốc tế.
1.2.7.1.Lợi thế của factoring so với các loại hình thanh toán khác:
(i) Lợi thế về thanh toán:
Sau khi đã được đơn vị bao thanh toán chấp thuận, người bán hàng thông qua
việc bán lại các khoản phải thu cho đơn vị bao thnh toán đã làm giảm đi rất nhiều
công việc cần thực hiện. Đơn vị bao thanh toán sẽ thực hiện tất cả những nhiệm vụ
đó cho người bán.
Khi thực hiện bao thanh toán quốc tê, đơn vị bao thanh toán xuất khẩu phải
tạo mối quan hệ với đơn vị bao thanh toán nhập khẩu. Điều này đảm bảo cho các
khoản phải thu được thanh toán đúng hạn thông qua đơn vị bao thanh toán nhập
khẩu. Đây chính là tính ưu việt của bao thanh toán so với các loại hình thanh toán
khác, nó làm giảm nhẹ gánh nặng về khả năng thu hồi tiền cho người bán.
Đặc biệt đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, việc thiếu thông tin
về thị trường và bên mua, đặc biệt là khả năng thu hồi nợ nhanh là những trở ngại
rất lớn khi phải quyết định bán hàng theo điều kiện trả chậm cho khách hàng nước
ngoài. Đồng thời, hiện nay, trước áp lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế, bên mua
ngày càng đòi hỏi các phương thức thanh toán thuận lợi hơn so với những phương
thức truyền thống. Do vậy, bao thanh toán trở thành một công cụ rất hiệu quả đối
với những nhà xuất khẩu muốn bán hàng theo phương thức trả chậm, mà lại tránh
được rủi ro.
(ii) Lợi thế về tài chính :
Bao thanh toán giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn được nhận vốn từ
ngân hàng dù không có tài sản thế chấp, đồng thời, giúp họ tăng hạn mức tín dụng.
Còn về phía đơn vị bao thanh toán, có thể yên tâm khi biết được vốn của mình được
sử dụng nhằm mục đích gì.
Khi sử dụng dịch vụ bao thanh toán, các doanh nghiệp được ứng trước một
số tiền của khoản phải thu để quay vòng vốn kinh doanh. Điều này giúp giải quyết
được vấn đề vốn lưu động hạn chế đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước.
19
1.2.7.2.Lợi ích của các bên khi sử dụng Factoring.
(i) Đối với người bán (người xuất khẩu):
Thứ nhất, cải thiện dòng lưu chuyển tiền tệ nhờ thu được tiền hàng nhanh
hơn. Lượng tiền mặt có sẵn tại doanh nghiệp tăng lên, góp phần thúc đẩy hoạt động
sản xuất kinh doanh phát triển.
Có thể coi factoring như là một quá trình chuyển hóa các khoản phải thu
thành tiền mặt. Đối với bất kỳ người bán nào, tiền mặt có ý nghĩa rất lớn trong hoạt
động sản xuất kinh doanh. Ở một số đơn vị cung cấp dịch vụ factoring chuyên
nghiệp, người bán thậm chí còn có thể nhận được tiền ngay trong ngày đề nghị được
bao thanh toán. Nói một cách ngắn gọn, các đơn vị cung cấp dịch vụ factoring giúp
người bán lấp được lỗ hổng thiếu hụt tiền mặt trong khoảng thời gian từ khi giao
hàng đến khi người mua thanh toán.
Một lợi ích nữa đó là người bán có thể giải quyết được nhu cầu về vốn, mà
không cần tài sản đảm bảo. Đặc biệt đối với các quốc gia chưa phát triển, hay vẫn
đang phát triển, công nghệ ngân hàng chưa đạt tới trình độ cao, việc cấp tin dụng
hay không phụ thuộc phần lớn vào tài sản đảm bảo. Bao thanh toán phần nào giải
quyết được những hạn chế đó. Các đơn vị bao thanh toán sẽ thẩm định các mối quan
hệ mua bán, và quyết định có cấp tín dụng cho bên bán hàng hay không một cách
nhanh chóng. Nguyên nhân là mối quan tâm của các đơn vị bao thanh toán thường
là tập trung vào khả năng trả nợ của bên mua hàng hơn là bên bán hàng.
Thứ hai, điều kiện cấp tín dụng thương mại dễ dàng, làm cho người bán có
thể quay vòng vốn nhanh,tập trung phát triển, và giảm thiểu rủi ro.
Nhiều chủ thể kinh tế khi phát triển kinh doanh lại rơi vào tình trạng thiếu
tiền mặt. Người mua nào cũng mong muốn mua hàng với giá thấp nhất, có nguồn
hàng dồi dào nhất và thời gian thanh toán tiền hàng kéo dài. Nhưng chính điều đó
lại đẩy người bán vào tình thế khó khăn với những khoản nợ có thể mang tới rủi ro,
và không phải người bán nào cũng có thể xoay sở được với tất cả những khoản nợ
này. Khi đó, factoring sẽ là một công cụ hữu hiệu giúp người bán vượt qua khó
khăn.
Những rủi ro thuộc về vấn đề này sẽ được giảm thiểu bằng cách chuyển các
hóa đơn thành tiền mặt nhờ vào dịch vụ factoring. Nhờ đó mà người bán có thể tiếp
20
tục cung cấp tín dụng thương mại cho người mua mà không cần lo tới rủi ro thanh
khoản nữa. Theo đó, người bán có thể nâng cao năng lực cạnh tranh nhờ sẵn sàng
chấp nhận kéo dài khoảng thời hạn thanh toán cho các hóa đơn thương mại.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt động nhờ chuyên môn hóa sản xuất.
Khi chấp nhận bán chịu cho người mua, người bán còn phải dành thời gian
vào việc quản lý khoản phải thu từ người mua. Nếu như người bán sử dụng dịch vụ
factoring, công việc này sẽ được chuyển sang cho đơn vị cung cấp dịch vụ
factoring. Người bán tiết kiệm được thời gian, chi phí để duy trì và điều hành bộ
phận chuyên trách việc quản lý khoản phải thu của khách hàng. Với kinh nghiệm,
nguồn lực vật chất và nguồn nhân lực được đào tạo bài bản của mình, các đơn vị
cung cấp dịch vụ factoring sẽ giải quyết công việc này một cách nhanh chóng,
chuyên nghiệp, hiệu quả.
Ngoài ra, các đơn vị bao thanh toán còn có thể lập các báo cáo quản lý thu nợ
và bán hàng mà không phải khách hàng được bao thanh toán nào cũng có thể thực
hiện được. Người bán tiếp cận được với những cơ hội giao thương quốc tế mới khi
bao thanh toán được áp dụng rộng rãi, và hạn chế được những rủi ro trong quan hệ
mua bán với các nước khác nhờ vào sự tư vấn của đơn vị bao thanh toán.
(ii) Đối với người mua (người nhập khẩu):
Thứ nhất, người mua có thể giảm gánh nặng về tài chính.Nếu như người bán
ở nước ngoài, L/C vẫn là phương thức thanh toán được áp dụng rộng rãi nhất. Nếu
người bán yêu cầu sử dụng dịch vụ factoring, người mua không phải mở thư tín
dụng, không phải trả phí mở thư tín dụng hay không phải ký quỹ...
Thứ hai, người mua được chủ động với hàng hóa. Người mua có thể mua
hàng, nhận hàng, sử dụng hàng mà chưa cần phải thanh toán tiền ngay và chỉ phải
thanh toán tiền hàng khi hàng hóa đáp ứng được các yêu cầu của hợp đồng mua bán.
Thứ ba, người mua có thể đơn giản thủ tục thanh toán nhờ tập trung thanh
toán về một đầu mối là ngân hàng.
Thứ tư, người mua giảm được công sức và chi phí trong việc quản lý sổ sách
kế toán, quản lý khoản nợ vì khi ngân hàng đã ký hợp đồng bao thanh toán với nhà
xuất khẩu thì ngân hàng có trách nhiệm trong việc theo dõi, giám sát khoản phải thu
21
từ phía người mua. Khi đó, người mua có thể thỏa thuận với ngân hàng trong việc
quản lý sổ sách cũng như khoản nợ của mình.
(iii) Đối với đơn vị bao thanh toán.
Thứ nhất, doanh thu hoạt động kinh doanh của đơn vị cung cấp dịch vụ
factoring tăng lên nhanh chóng.
Thực hiện nghiệp vụ factoring giúp những đơn vị này thu được các khoản
tiền như lãi suất, phí, ...là một phần quan trọng giúp doanh thu hoạt động hàng năm
tăng lên nhanh chóng. Việc gia tăng doanh thu, đồng nghĩa với việc gia tăng lời
nhuận. Nhờ đó, nguồn vốn hoạt động của những đơn vị này được gia tăng. Đây là
một điều rất quan trọng với các định chế tài chính trung gian bởi nó sẽ thúc đẩy khả
năng đầu tư vào kinh doanh, nâng cao tính thanh khoản của luồng tiền mặt của các
đơn vị bao thanh toán.
Thứ hai, nâng cao được sự cạnh tranh khi triển khai đa dạng dịch vụ.
Đơn vị cung cấp dịch vụ factoring hiện nay chủ yếu là ngân hàng thương
mại, các công ty tài chính... Thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán, các đơn vị này sẽ
nâng cao được thương hiệu, tăng sức cạnh tranh nhờ vào sự đa dạng hóa trong các
loại hình sản phẩm dịch vụ của mình.
Thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán, đồng nghĩa với việc đơn vị bao thanh
toán cung cấp tài chính, để đổi lấy các khoản phải thu, lưu giữ sổ cái bán hàng và
tiến hành thu nợ các hóa đơn bán hàng chưa thanh toán. Nếu thực hiện hoạt động
bao thanh toán thường xuyên, đơn vị bao thanh toán có thể kiểm soát chặt chẽ hoạt
động kinh doanh của các khách hàng hiện có, mở rộng quy mô hoạt động và có thể
tiếp cận được những khách hàng tiềm năng trong tương lai.
(iv) Đối với những quốc gia áp dụng bao thanh toán.
Đối với những quốc gia có hành lang pháp lý vững chắc, cùng trình độ kinh
nghiệm quản lý là trở ngại lớn cho hoạt động giao thương trong và ngoài nước. Đặc
biệt là với hoạt động giao lưu kinh tế quốc tế, các bên bán rất hạn chế giao dịch với
bên mua tại các quốc gia có luật thương mại yếu kém vì cơ sở giao dịch không được
đảm bảo, dễ gặp phải những rủi ro. Thông qua việc áp dụng bao thanh toán, vấn đề
này được cải thiện rất nhiều. Cùng với vai trò, trách nhiệm tư vấn, kiểm tra,giám sát
22
các khoản phải thu, các khoản nợ xấu được loại trừ, rủi ro cho người xuất khẩu cũng
vì thế mà giảm đi. Điều này góp phần cải thiện hình ảnh bên mua tại những quốc
gia có luật thương mại kém, giúp các quốc gia này có cơ hội giao lưu buôn bán
quốc tế nhờ vào sự đảm bảo về mặt tài chính và uy tín của các đơn vị bao thanh
toán.
Đặc biệt , trong xu thế toàn cầu hóa, thông qua bao thanh toán, những quốc
gia bên bán có thể tăng cường tài trợ trực tiếp cho bên mua để phát triển kinh tế, mà
vẫn đảm bảo được nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
1.3.Rủi ro trong nghiệp vụ factoring.
1.3.1. Rủi ro từ phía đơn vị cung cấp dịch vụ factoring.
Thứ nhất, rủi ro trong nghiệp vụ bao thanh toán xuất hiện là do người bán cố
tình gây ra, có thể vì một lý do không trung thực dẫn tới những rủi ro ấy.
Thứ hai, rủi ro xảy ra do năng lực yếu kém của bên bán về mặt quản lý, sản
xuất, hay chiến lược phát triển... Từ đó, kéo theo sản phẩm của bên bán không đạt
được yêu cầu như trong hợp đồng đối với bên mua đã đề ra. Bởi thế mà giá trị các
khoản phải thu theo hợp đồng mua bán, cung ứng dịch vụ đã ký lại nhỏ hơn giá trị
ứng trước của đơn vị bao thanh toán đã cấp cho bên bán. Đây chính là vấn đề căn
bản, làm ảnh hưởng tới lợi ích của đơn vị thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán.
1.3.2. Rủi ro từ phía người mua.
Năng lực tài chính và đạo đức của người mua là yếu tố quan trọng trong việc
có xảy ra rủi ro từ phía người mua hay không trong quá trình thực hiện nghiệp vụ
bao thanh toán. Nó quyết định đơn vị bao thanh toán có thể thu được các khoản phải
thu một cách dễ dàng hay không. Do bên mua là bên thứ ba đối với các đơn vị bao
thanh toán, do vậy ,quá trình tiếp cận với bên mua sẽ có những điểm không thuận
lợi. Nếu như bên mua có ý định xấu trong việc thực hiện hợp đồng với bên bán, thì
việc các đơn vị bao thanh toán thực hiện nghiệp vụ này, cũng đồng nghĩa với việc
mua lại rủi ro. Trong hoạt động tín dụng nói chung, rủi ro đao dức là rủi ro khó
lường và thường gây ra những hậu quả xấu, làm mất nhiều thời gian, và chi phí cho
bên thiệt hại.
23
1.3.3.Rủi ro từ phía ngân hàng, hay đơn vị thực hiện nghiệp vụ factoring.
Dưới góc độ là tổ chức thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán, các tổ chức tín
dụng phải thực sự có trình độ hiểu biết nhất định về nghiệp vụ, và có sự giám sát
chặt chẽ với các khoản phải thu. Tuy nhiên, việc xem xét đánh giá khách hàng bên
mua cũng là một quá trình. Rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thẩm định này,
nguyên nhân dẫn tới rủi ro này rất nhiều, có thể do trình độ của cán bộ thẩm định
yếu, hoặc thẩm định không kỹ dẫn tới những kết luận sai lầm, hoặc có thể do thiếu
thông tin về bên mua dẫn tới việc thẩm định không được chính xác...
1.4.Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển nghiệp vụ factoring.
1.4.1. Các nhân tố khách quan.
(i) Sự phát triển của thương mại quốc tế dẫn tới sự gia tăng các hoạt động xuất
nhập khẩu. Chính nhờ sự gia tăng của các hoạt động xuất nhập khẩu, mà nhu cầu
thanh toán, cũng như luân chuyển luồng tiền mặt nhanh hơn ngày càng trở nên cấp
thiết. Điều này đã tác động trực tiếp tới sự phát triển của bao thanh toán. Những nhà
xuất khẩu, nhập khẩu đã tìm tới bao thanh toán như một công cụ hữu ích để đảm
bảo quyền lợi, cũng như mang lại nhiều lợi ích cho mình.
(ii) Môi trường pháp lý là một nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển
của dịch vụ bao thanh toán. Mỗi quốc gia cần tạo ra một môi trường pháp lý hoàn
thiện hơn, bảo đảm được quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia vào hoạt động
bao thanh toán, đồng thời tránh được những rủi ro khi thực hiện hoạt động này.
(iii) Công nghệ thông tin phát triển là một nhân tố thúc đẩy nghiệp vụ này trở
nên chuyên nghiệp và hoàn thiện hơn. Khi công nghệ thông tin được ứng dụng rộng
rãi trên mọi lĩnh vực của đời sống thì nó đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình
cung cấp và sử dụng dịch vụ của các ngân hàng, các tổ chức tài chính. Bởi thế,công
nghệ thông tin có một tầm ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển của hoạt động bao
thanh toán. Để có thể giao thương với các quốc gia phát triển – những quốc gia có
ứng dụng công nghệ thông tin cao, thì các quốc gia đang phát triển, hoặc các nước
nghèo cần phải hoàn thiện hơn cơ sở hạ tầng công nghệ.
24
1.4.2. Các nhân tố chủ quan.
(i) Hệ thống đơn vị bao thanh toán và mạng lưới đại lý bao thanh toán ở nước
ngoài có ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của hoạt động bao thanh toán. Muốn
thực hiện được nghiệp vụ bao thanh toán quốc tế, các đơn vị bao thanh toán cần
phải có một mạng lưới đại lý rộng lớn, từ đó có thể thu thập thông tin cũng như làm
giảm rủi ro cho đơn vị khi thực hiện nghiệp vụ này.
(ii) Doanh nghiệp yêu cầu cung cấp dịch vụ bao thanh toán (người bán) và
người mua cũng đóng vai trò quan trọng trong dịch vụ bao thanh toán. Sự quan tâm
của khách hàng với dịch vụ là rất cần thiết đối với sự phát triển của nghiệp vụ này.
Bên cạnh đó, những thông tin do người bán cũng cấp cung ảnh hưởng tới hiệu quả
của hoạt động.
1.5.Kinh nghiệm về hoạt động factoring trên thế giới.
1.5.1. Tình hình hoạt động factoring trên thế giới.
Theo báo cáo thường niên của Hiệp hội bao thanh toán thế giới (FCI), doanh
số bao thanh toán trên toàn thế giới trong năm 2011tăng hơn 22% so với năm 2010,
tương ứng với doanh số năm 2010 là 1.648.229 triệu EUR và tới năm 2011, con số
này đạt tới 2.015.413 triệu EUR.
Qua con số đó, ta có thể thấy lĩnh vực bao thanh toán tiếp tục gia tăng mạng
mẽ, trong đó có sự tăng trưởng đầy ấn tượng của bao thanh toán quốc tế. Điều này
cho thấy rằng những nhà xuất khẩu và nhập khẩu trên thế giới ngày càng trở nên
quen thuộc với những tiện ích mà sản phẩm mà bao thanh toán đem lại như : tài trợ
vốn lưu động, phòng ngừa rủi ro tín dụng, và các dịch vụ nhờ thu cho người xuất
khẩu. Về phía người nhập khẩu, bao thanh toán mang lại những lợi ích được mua
hàng bằng hình thức ghi sổ mà không cần phải mở L/C hay sử dụng những hình
thức thanh toán với những điều khoản ràng buộc khắt khe.
Trên thế giới hiện nay có 2.503 đơn vị bao thanh toán hoạt động, đạt doanh số
hơn 1.741.137 triệu EUR bao thanh toán nội địa và 274.276 triệu EUR bao thanh
toán quốc tế.
Bảng 1.1 : Doanh số factoring trên thế giới giai đoạn 2007-2011
(ĐVT : Triệu EUR)
25
Năm 2007 2008 2009 2010 2011
Factoring quốc tế 145.996 176.168 165.459 245.898 274.276
Factoring nội địa 1.153.131 1.148.943 1.118.100 1.402.331 1.741.137
Tổng số 1.299.127 1.325.111 1.283.559 1.648.229 2.015.413
(Nguồn : www.factors-chain.com)
Doanh số bao thanh toán tăng trưởng qua các năm, trong tổng doanh số bao
thanh toán năm 2011 thì bao thanh toán nội địa chiếm tỷ trọng tới 86%. Con số này
chứng tỏ rằng bao thanh toán nội địa được sử dụng nhiều hơn cả do trong phạm vi
một quốc gia, người mua, người bán, và đơn vị bao thanh toán trực tiếp quan hệ với
nhau, việc thẩm định uy tín,khả năng tài chính dễ dàng hơn và tốn ít chi phí hơn so
với bao thanh toán quốc tế.
Có thể nói, doanh số bao thanh toán quốc tế chiếm tỷ trọng nhỏ do giao
thương quốc tế đã quen thuộc với những phương thức thanh toán cổ điển như nhờ
thu, L/C, D/A, D/P... Tuy vậy, ta vẫn có thể thấy được bao thanh toán quốc tế có sự
tăng trưởng qua các năm đặc biệt năm 2010 tăng tới gần 49% so với năm trước,
nhưng tới năm 2011, tốc độ tăng trưởng của bao thanh toán quốc tế lại giảm đi, chỉ
tăng 11,5% so với năm 2010.
Bảng 1.2 : Doanh số bao thanh toán của các châu lục trên thế giới giai đoạn 2007-2011.
(ĐVT: Triệu EUR)2007 2008 2009 2010 2011
Châu Âu 932.264 888.528 876.649 1.045.069 1.217.811
Châu Mỹ 149.673 154.195 142.013 185.357 207.172
Châu Phi 10.705 13.263 14.796 16.686 23.451
Châu Á 174.244 235.418 209.991 355.602 508.888
Châu Úc 33.780 33.246 40.110 45.515 58.091
Tổng số 1.300.666 1.324.650 1.283.559 1.648.229 2.015.413
(Nguồn : www.factors-chain.com)
26
Biểu đồ 1.3. Thị phần doanh số factoring các châu lục trên thế giới năm 2011.
(Nguồn : www.factors-chain.com)
Đứng đầu về doanh số bao thanh toán hàng năm hiện nay vẫn là châu Âu,
với nhiều số lượng đơn vị tham gia bao thanh toán nhất trên thế giới. Tuy có sự tăng
giảm không đồng đều qua các năm, nhưng trong năm 2010, doanh số bao thanh
toán ở châu Âu tăng trưởng vượt bậc, chiếm 63,5% doanh số bao thanh toán toàn
thế giới. Cho tới năm 2011, tốc độ tăng trưởng của thị trường châu Âu có phần
chậm lại (tăng hơn 16,5% so với năm 2010), nhưng vẫn là châu lục đứng đầu trên
toàn thế giới về tổng doanh số bao thanh toán.Trong 5 thị trường bao thanh toán
hàng đầu trên thế giới gồm Anh (266.243 triệu EUR), Trung Quốc (154,556 Triệu
EUR),Pháp (153.252 Triệu EUR), Ý (143, 745 Triệu EUR), Đức (129,536 Triệu
EUR) thì đã có tới 3 đại diện thuộc châu Âu với nước đứng đầu về doanh số là Anh.
Bảng 1.3 : Doanh số Factoring của các quốc gia hàng đầu châu Á giai đoạn 2006-2010.
(ĐVT: Triệu EUR)2007 2008 2009 2010 2011
Trung Quốc 32.976 55.000 67.300 154.550 274.870
Nhật Bản 77.721 106.500 83.700 98.500 111.245
Hồng Kong 7.700 8.500 8.079 14.400 17.388
Đài Loan 42.500 48.750 33.800 67.000 79.800
(Nguồn : www.factors-chain.com)
Châu Á là khu vực có tốc độ tăng trưởng bao thanh toán rất mạnh mẽ, với
doanh số bao thanh toán đứng thứ 2 trong các châu lục.
27
Biểu đồ 1.4 : Tình hình doanh số factoring của một số nước Asean.(ĐVT: Triệu EUR)
(Nguồn : www.factors-chain.com)
Tại các nước Asean, dịch vụ bao thanh toán còn phát triển chậm. Singapore
là nước có doanh số bao thanh toán lớn nhất trong khu vực Asean. Các quốc gia
Thái Lan, Malaysia cũng có doanh số cao trong khu vực Asean. Việt Nam là nước
có doanh số bao thanh toán thấp nhất trong bốn nước trên. Trong vòng bốn năm
2006 -2009., doanh số bao thanh toán của Việt Nam tăng trưởng nhanh, là một thị
trường đầy hứa hẹn. Tuy nhiên cho tới năm 2010, doanh số bao thanh toán lại giảm
tới 31% so với năm 2009. Nhưng tới năm 2011, ta lại có thể thấy được dấu hiệu
phục hồi của thị trường bao thanh toán Việt Nam.
1.5.2. Kinh nghiệm về hoạt động factoring của một số quốc gia trên thế giới.
Kinh nghiệm hoạt động facoring của Anh.
Trong nhiều năm gần đây, Anh Quốc luôn là nước đứng đầu trên thế giới về
doanh số bao thanh toán theo tổng kết hàng năm của FCI. Ở Anh đã thành lập Hiệp
hội các nhà bao thanh toán Anh Quốc (ABF - Association Bristish Factors) ngay từ
những năm 1976. Đến nay, Hiệp hội này đã sáp nhập cùng CFA European Chapter,
và đổi tên thành Hiệp hội tài chính trên cơ sở giá trị tài sản – ABFA (Asset Based
Finance Association), đánh dấu sự phát triển vượt bậc về khả năng cung cấp các
dịch vụ hỗ trợ tài chính của các đơn vị bao thanh toán Anh Quốc.
Trở thành thành viên của ABFA, các đơn vị hoạt động bao thanh toán Anh
Quốc có được một mạng lưới thông tin rộng lớn và chính xác về các khách hàng.
28
các thông tin mới nhất về chính sách, pháp luật của các quốc gia trên thế giới cho
các đơn vị bao thanh toán để hỗ trợ tối đa cho các đơn vị này.
Biểu đồ 1.5 : Doanh số factoring của Anh trong năm 2011.(ĐVT: Triệu EUR)
(Nguồn : www.abfa.org.uk. ABFA Quarterly statistic 2011)
Bảng 1. 4: Số lượng khách hàng của dịch vụ factoring tại Anh năm 2011.
(ĐVT: Triệu EUR)
Factoring nội địa Factoring quốc tế
Quý I 19.434 4.977
Quý II 18.457 5.070
Quý III 18.378 5.077
Quý IV 18.204 5.152
(Nguồn : abfa.org.uk. ABFA Quarterly statistic 2011)
Kinh nghiệm về hoạt động factoring của Ý.
Sự thành công của hoạt động factoring ở Ý là nhờ vào sự nỗ lực của các đơn
vị bao thanh toán trong việc làm hài lòng khách hàng bằng các nâng cao chất lượng
dịch vụ của mình như : giảm thủ tục thực hiện hoạt động, thực hiện nghiệp vụ chủ
yếu qua mạng Internet...Bên cạnh đó, các đơn vị bao thanh toán ở Ý cũng rất chú ý
đầu tư vào công nghệ thông tin hiện đại. Bởi thế mà, quy mô của hoạt động
factoring trên toàn quốc có tốc độ tăng đáng kể.
Biểu đồ 1.6 : Doanh số factoring của Ý trong giai đoạn 2007 - 2011.
(ĐVT: Triệu EUR)
29
(Nguồn : www.factors-chain.com, Annual Review 2011)
Có ba nhóm công ty bao thanh toán trên thị trường Ý : nhóm ngân hàng
(banking), nhóm công nghiệp (captive) và nhóm độc lập (independent). Nhóm công
nghiệp được hình thành bởi những tập đoàn công nghiệp lớn, hoạt động bao thanh
toán với các nhà cung cấp và chính các tập đoàn đã hình thành nên nó. Luật pháp
của Ý rất ủng hộ cho nhóm công ty bao thanh toán này, cho phép người mua ngăn
cản các nhà cung cấp ký hợp đồng bao thanh toán với các đơn vị bao thanh toán
không thuộc tập đoàn của mình. Tuy nhiên, hoạt động bao thanh toán của ngành
ngân hàng vẫn hiệu quả hơn do có vốn dồi dào, mạng lưới phân phối , sản phẩm
dịch vụ đa dạng, công nghệ cao hơn...
Kinh nghiệm hoạt động factoringcủa Trung Quốc.
Theo thống kê năm 2011 của FCI, Trung Quốc là một trong những nước có
số lượng các đơn vị bao thanh toán lớn nhất trên thế giới. Điều này đã phần nào
phản ánh được sự phát triển của hoạt động bao thanh toán tại Trung Quốc.Ngoài ra,
doanh số bao thanh toán của Trung Quốc cũng nằm trong top 5 thế giới.
Biểu đồ 1.7 : Doanh số factoring của Trung Quốc giai đoạn 2007 – 2011.
(ĐVT: Triệu EUR)
30
(Nguồn : www.factors-chain.com, Annual Review 2011)
Thành công của các đơn vị hoạt động factoring tại Trung Quốc là kết quả của
chiến lược marketing và quy trình thanh toán hiệu quả. Không chỉ dừng lại ở bao
thanh toán trong nước, các công ty bao thanh toán hàng đầu ở Trung Quốc còn mở
rộng thị trường sang Mỹ, Anh, và Hồng Kong.
1.5.3.Các bài học kinh nghiệm cho hoạt động factoring tại Việt Nam.
Trong điều kiện kinh tế phát triển mạnh mẽthời gian gần đây của nhiều quốc
gia trên thế giới, bao thanh toán là một loại hình dịch vụ tài chính có tiềm năng phát
triển, mang lại nhiều lợi ích. Đã có rất nhiều các quốc gia trên thế giới thành công
trong việc đưa bao thanh toán trở thành một dịch vụ phổ biến. Tuy nhiên, mỗi quốc
gia lại có những đặc điểm riêng về lãnh thổ, con người, điều kiện kinh tế... do đó,
bao thanh toán ở mỗi quốc gia cũng có những đặc điểm riêng biệt. Bởi vậy mà ta
cần học hỏi các quốc gia đã có kinh nghiệm phát triển dịch vụ bao thanh toán thành
công một cách linh hoạt, phù hợp với thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
1.5.3.1.Duy trì nhu cầu ổn định và đáng kể với nghiệp vụ factoring.
Nhu cầu về tín dụng trong hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu luôn là vấn
đề cấp thiết với doanh nghiệp , nhất là các doanh nghiệp muốn cạnh tranh bằng
phương thức bán hàng trả chậm. Thực tế ấy đã mở ra cơ hội phát triển cho các hình
thức tài trợ thương mại mới như factoring, góp phần thỏa mãn được nhu cầu hỗ trợ
phát triển sản xuất kinh doanh. Để đẩy mạnh được nhu cầu sử dụng dịch vụ
31
factoring cũng như duy trì nhu cầu đó ở mức ổn định thì trước hết cần phải tạo ra
được một môi trường kinh tế- xã hội với mức tăng trưởng kinh tế hợp lý.
Anh Quốc là một ví dụ cho bài học kinh nghiệm này. Kinh tế Anh là nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa, phát triển sớm trên thế gới với nhiều thành tựu khoa học
công nghệ. Quốc gia này luôn giữ được mức độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao
so với các nước EU. Điều này kéo theo nhu cầu lớn về vốn, và cũng đồng nghĩa với
việc là tiền đề cho dịch vụ factoring phát triển.
1.5.3.2.Phát triển và mở rộng các đơn vị thực hiện nghiệp vụ factoring.
Đây là bài học rất quan trọng, có ý nghĩa đối với giai đoạn hình thành và
triển khai dịch vụ này. Nhiều quốc gia đã đẩy mạng việc triển khai dịch vụ
factoring tại các ngân hàng hoặc các công ty con thuộc ngân hàng để huy động lợi
thế sẵn có như trường hợp của Anh và Trung Quốc và Ý.
Hiện nay những đơn vị thực hiện bao thanh toán tại Việt Nam chủ yếu là các
ngân hàng thương mại, chỉ có một số ít các công ty của các tâp đoàn lớn như Tập
đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam hay Tập đoàn Điện lực cung cấp dịch vụ này. Tại
Anh Quốc đặc biệt là tại Ý, thành phần tham gia cung cấp dịch vụ factoring rất đa
dạng, có thể là các ngân hàng, các công ty con của các ngân hàng, các công ty tài
chính, và một số các công ty tư nhân. Điều này phần nào đã giúp cho Anh Quốc có
thế tận dụng tối đa được uy tín những ngân hàng sẵn có, hệ thống đại lý đã thiết lập,
các nghiệp vụ liên quan tới tín dụng chuyên nghiệp, thanh toán quốc tế...Đó là cơ sở
về nguồn nhân lực, hạ tầng, thông tin cần thiết để triển khai một cách chuyên
nghiệp và thành công loại dịch vụ này.
1.5.3.3.Mở rộng nguồn vốn tài trợ.
Nguồn vốn tài trợ cho các đơn vị cung cấp dịch vụ factoring tại Anh Quốc,
Trung Quốc hay Ý chủ yếu là từ các ngân hàng. Vì vậy nguồn vốn này rất dồi dào,
do có tiềm lực về tài chính mà họ có thể tài trợ không chỉ trong ngắn hạn mà còn
trong trung và dài hạn. Đặc biệt, ở Anh Quốc, nền công nghiệp ngân hàng phát triển
từ rất sớm đã tạo tiền đề cho sự phát triển vượt bậc của thị trường factoring.
32
1.5.3.4.Xây dựng hiệp hội liên kết mang tầm cỡ quốc gia.
Các đơn vị thực hiện factoring ở Anh Quốc đã sớm nhận thức được tầm quan
trọng của việc thành lập hiệp hội liên kết. Sự ra đời của hiệp hội không chỉ hỗ trợ về
mặt thông tin mà còn bổ trợ về mặt kiến thức, cập nhật những đổi thay của thị
trường kịp thời, đồng thời tư vấn về pháp luật cho các đơn vị cung cấp dịch vụ này.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG BAO
THANH TOÁN (FACTORING) TẠI CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM.
2.1. Cơ sở pháp lý cho sự phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam.
2.1.1. Các văn bản pháp lý quy định về hoạt động factoring tại Việt Nam.
Luật các tổ chức tín dụng.
Hiện nay, các đơn vị thực hiện hoạt động bao thanh toán trên thế giới nói
chung, và Việt Nam nói riêng hầu hết là các hệ thống ngân hàng thương mại, hay
các công ty tài chính, các tổ chức tín dụng. Các tổ chức tài chính này hoạt động tuân
thủ theo luật các tổ chức tín dụng. Tại Việt Nam, các tổ chức tài chính này tuân theo
Luật các tổ chức tín dụng 2010.
Các văn bản dưới luật.
Với hoạt động bao thanh toán, quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ban
hành ngày 6 tháng 9 năm 2004 là cơ sở pháp lý rõ ràng, và riêng biệt. Tất cả các
đơn vị khi tham gia hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam đều phải tuân theo quy
33
định này. Quy chế này được chia thành 6 chương, 28 điều, đã đề cập tới những vấn
đề cơ bản trong hoạt động factoring tại Việt Nam, bước đầu tạo được cơ sở pháp lý ,
giúp các ngân hàng thương mại Việt Nam thực hiện bao thanh toán theo một quy
định chung.
Tuy nhiên, văn bản pháp luật này vẫn còn nhiều hạn chế. Văn bản này đã
được bổ sung bằng Công văn số 676/NHNN-CSTT ban hành ngày 28/6/2005 về
việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, chuyển nợ quá hạn đối với hoạt động bao thanh toán
của ngân hàng thương mại. Công văn nhằm hướng dẫn các ngân hàng thương mại,
ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và các công ty
tài chính thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn thanh toán, chuyển nợ quá hạn với các
hợp đồng bao thanh toán.
Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN ngày 16/10/2008 được ban hành nhằm
sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức
tín dụng. Quyết định này đã phần nào khắc phục được những hạn chế của Quyết
định số 1096/2004/QĐ – NHNN.
2.1.2. Các quy định cơ bản về factoring trong các văn bản luật và dưới luật.
Điều kiện để các ngân hàng được phép thực hiện factoring.
Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện hoạt động bao thanh toán trong
nước khi tổ chức tín dụng có đủ các điều kiện sau :
- Có nhu cầu hoạt động bao thanh toán.
- Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tại thời điểm cuối từng tháng của ba tháng gần
nhất dưới 5%, không vi phạm các quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt
động ngân hàng.
- Không thuộc đối tượng đang bị xem xét xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tài chính ngân hàng hoặc đã bị xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tàu
chính ngân hàng nhưng đã khắc phục được.
Đối với hoạt động bao thanh toán xuất nhập khẩu : ngoài các điều kiện quy
định đối với hoạt động bao thanh toán trong nước, đơn vị xin thực hiện bao thanh
toán xuất nhập khẩu còn phải là tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối.
Đơn vị thực hiện hoạt động factoring.
34
Tổ chức thực hiện hoạt động factoring là các tổ chức tín dụng được thành lập
và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng bao gồm:
- Ngân hàng thương mại nhà nước.
- Ngân hàng thương mại cổ phần.
- Ngân hàng liên doanh
- Ngân hàng 100% vốn nước ngoài.
- Công ty tài chính.
- Công ty cho thuê tài chính
Bên cạnh đó còn có ngân hàng nước ngoài được mở chi nhánh tại Việt Nam
theo Luật tổ chức tín dụng.
Tại Việt Nam hiện nay, đơn vị chủ yếu thực hiện nghiệp vụ này vẫn là các
ngân hàng thương mại . Số lượng các công ty tài chính tham gia còn chưa nhiều, chỉ
có một số các công ty tài chính của các tập đoàn lớn như Công ty tài chính dầu khí
Việt Nam (PVFC), Công ty tài chính cổ phần Điện lực...
Đối tượng cung cấp dịch vụ factoring.
Nhìn chung các ngân hàng ở Việt Nam đều chấp nhận cung cấp dịch vụ này
cho các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất
kinh doanh, dịch vụ :
- công ty trách nhiệm hữu hạn.
- công ty cổ phần.
- doanh nghiệp tư nhân.
- doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- doanh nghiệp nhà nước.
- hợp tác xã.
- công ty hợp danh.
- các pháp nhân nước ngoài.
Điều kiện của các khoản phải thu.
Theo đúng như Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN và Quyết định số
30/2008/QĐ-NHNN, các ngân hàng cung cấp dịch vụ factoring đều đưa ra những
điều kiện của các khoản phải thu là các khoản phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng
hóa, dịch vụ hợp pháp. Hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ đó phải có quy định
35
được phép chuyển nhượng khoản phải thu hoặc không quy định. Bên cạnh đó, các
khoản phải thu được phép bao thanh toán không nằm trong các trường hợp dưới đây
:
- Phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bị pháp luật cấm.
- Phát sinh từ các giao dịch, thỏa thuận bất hợp pháp.
- Phát sinh từ các giao dịch, thỏa thuận đang có tranh chấp.
- Phát sinh từ các hợp đồng bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ hình thức ký gửi
- Phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ có thời hạn
thanh toán dài hơn 180 ngày
- Các khoản phải thu đã được gán nợ, hoặc cầm cố, hoặc thế chấp.
- Các khoản phải thu đã quá hạn thanh toán theo hợp đồng mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ
- Các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng cung ứng dịch vụ trong lĩnh vực
xây dựng, lĩnh vực tài chính theo phụ lục của văn bản pháp luật,
- Hợp đồng mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ có thỏa thuận không được
chuyển giao quyền, nghĩa vụ trong hợp đồng.
Một số ngân hàng cũng có những quy định riêng, ví dụ như ACB thực hiện
bao thanh toán trong nước hầu hết với các mặt hàng, tuy nhiên, ưu tiên những mặt
hàng tiêu dùng, mặt hàng có chất lượng ổn định, ít xảy ra hư hỏng.
Loại hình, phương thức factoring.
Theo Điều 11, quyết định của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, đơn vị
factoring được thực hiện các loại hình factoring như sau :factoring có truy đòi,
factoring miễn truy đòi, factoring xuất nhập khẩu, factoring nội địa.
Điều 12 của Quyết định 1096 có quy định về phương thức factoring như
factoring từng lần, factoring hạn mức, đồng bao thanh toán.
Trên thực tế, các ngân hàng thương mại Việt Nam hầu hết đều thực hiện
cung cấp các dịch vụ factoring theo loại hình được quy định trong văn bản của
Ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, một vài năm trở lại đây, Ngân hàng nhà nước chỉ
cho phép một số những ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ factoring nội địa
như Ngân hàng thương mại cổ phần Liên Việt, Ngân hàng xăng dầu Petrolimex...
36
Tùy từng ngân hàng cung cấp dịch vụ factoring có truy đòi hay miễn truy
đòi. Có những ngân hàng áp dụng cả hai loại factoring có truy đòi và miễn truy đòi
như ngân hàng Vietcombank, Techcombank... Bên cạnh đó cũng có những ngân
hàng chỉ cung cấp dịch vụ factoring có truy đòi như Eximbank, Nam Á ... Điều này
phần nào phản ánh thái độ còn dè dặt của ngân hàng trước một dịch vụ mang lại
rất nhiều tiện ích, nhưng lại có phần mới mẻ tại Việt Nam.
2.2. Thực trạng hoạt động factoring tại một số ngân hàng thương mại Việt
Nam.
2.2.1. Số lượng các ngân hàng tham gia cung cấp dịch vụ factoring.
Vào cuối thập kỷ 90, một số chi nhánh những ngân hàng nước ngoài đang
hoạt động tại Việt Nam đã giới thiệu dịch vụbao thanh toán cho các ngân hàng
thương mại trong nước,các công ty xuất nhập khẩu Việt Nam. Song nghiệp vụ này
vẫn còn mới mẻ với các công ty, các ngân hàng nên vẫn chưa được áp dụng rộng
rãi.
Trên thực tế, Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) đã thực hiện
nghiệp vụ bao thanh toán vào đầu năm 2001. Tuy nhiên, tại thời điểm đó,
Techcombank chỉ cung cấp dịch vụ bao thanh toán cho một doanh nghiệp duy nhất,
đó là nhà sản xuất và xuất khẩu Foocosa và cũng chỉ giới hạn một mặt hàng duy
nhất. Dịch vụ mà Techcombank cung cấp cũng rất hạn chế, chỉ áp dụng bao thanh
toán trả ngay, thời hạn tài trợ giới hạn trong 30 – 45 ngày, và phí bao thanh toán quá
cao 6-10%/năm. Chính điều này đã làm cho các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn
ngại ngần trước dịch vụ mới này.
Dịch vụ bao thanh toán chỉ thực sự được biết đến rộng rãi hơn ở thị trường
Việt Nam từ tháng 4/2005. Sau khi Ngân hàng Nhà nước ban hàng văn bản pháp
luật riêng cho dịch vụ bao thanh toán, thực sự dịch vụ bao thanh toán mới được
giới thiệu, tiếp thị và triển khai cho các doanh nghiệp Việt Nam một cách rộng rãi
hơn.Những ngân hàng tiên phong trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ bao thanh toán
bao gồm Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank-VCB), Ngân hàng Á Châu
(ACB), Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), và Ngân hàng Sài Gòn
Thương Tín (Sacombank). Bốn ngân hàng này cũng là những ngân hàng đầu tiên
của Việt Nam tham gia Hiệp hội bao thanh toán quốc tế (FCI).
37
Cho tới cuối năm 2006, Ngân hàng Nhà nước đã chấp thuận cho thực hiện
nghiệp vụ này tại một số ngân hàng thương mại Việt Nam khác như : Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Phát Triển Nhà TP.HCM, Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt
Nam... Tại thời điểm đó, một số ngân hàng nước ngoài đặt chi nhánh tại Việt Nam
đã thực hiện việc cung cấp dịch vụ này là Deutsche Bank của Đức, Far East
National Bank(FENB) của Mỹ, City Bank của Mỹ, Bank of Tokyo Mitsubishi Ltd
của Nhật Bản...
Bảng 2.1 : Số lượng các ngân hàng thương mại Việt Nam cung cấp dịch vụ
factoring giai đoạn 2007-2011.
2007 2008 2009 2010 2011
Số lượng 15 - 18 29 33
Nguồn: Báo cáo Ngân hàng nhà nước 2012
Tính cho tới hết năm 2007, đã có 15 ngân hàng thương mại được Ngân hàng
nhà nước cấp phép hoạt động dịch vụ bao thanh toán.Tuy nhiên, dịch vụ bao thanh
toán tại thời điểm này chỉ hạn chế ở hoạt động bao thanh toán trong nước.
Năm 2009, Ngân hàng nhà nước đã cho phép thêm một số ngân hàng nước
ngoài chi nhánh tại Việt Nam được phép hoạt động bao thanh toán như Mizuko
Corporate Bank, ANZ Hà Nội, Calyon Bank Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2010
được coi như là năm “nở rộ” của việc các ngân hàng thương mại được cấp phép
cung cấp dịch vụ bao thanh toán. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước lại chỉ hạn chế
những ngân hàng này ở trong một số phạm vi bao thanh toán nhất định. Ví dụ như
Ngân hàng MB được phép hoạt động bao thanh toán nhập khẩu, LienVietBank,
PGBank được phép hoạt động bao thanh toán trong nước... cùng một số những ngân
hàng nước ngoài khác. Năm 2011 là năm chững lại của hoạt động bao thanh toán,
với chỉ hai ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước cho phép hoạt động bao thanh
toán. Trong đó, có một ngân hàng thương mại Việt Nam MHB(Ngân hàng Phát
triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long) và một chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Mới
đây nhất, 4/4/2012, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép MDB (ngân hàng Phát triển
Mê Kong) cung cấp dịch vụ bao thanh toán.
Trong một số năm gần đây, dịch vụ bao thanh toán đã dần dần thu hút được
sự quan tâm của các doanh nghiệp và những ngân hàng thương mại trong nước..
38
Qua nhận xét của nhiều ngân hàng tiên phong trong việc cung cấp dịch vụ bao
thanh toán, các doanh nghiệp Việt Nam từ chỗ còn ngại ngần sử dụng dịch vụ này,
thì đã dần làm quen, và ký hợp đồng sử dụng dịch vụ với ngân hàng.
Mặc dù hiện nay số lượng các ngân hàng thương mại Việt Nam tham gia
cung cấp dịch vụ bao thanh toán đang tăng lên, nhưng một thực tế là những khách
hàng doanh nghiệp lại được biết rất ít về dịch vụ này. Những hoạt động quảng bá,
giới thiệu dịch vụ bao thanh toán vẫn còn hạn chế. Một số ngân hàng như
Techcombank, ACB, Eximbank, Đại Á Bank, ... đã đưa phần giới thiệu tới khách
hàng về factoring qua website của mình, nhưng hầu như những thông tin được đưa
ra vẫn hạn chế, chỉ là những giới thiệu khái quát. Khách hàng rất khó có thể tìm
thấy thông tin về bao thanh toán tại những website này, và khó có cơ hội so sánh
những tiện ích của dịch vụ này, so với những loại hình tài trợ thương mại
khác.Thậm chí, trên website của Sacombank – một thành viên của FCI, lại không có
một phần giới thiệu nào về dịch vụ bao thanh toán. Đối với một dịch vụ, tuy còn
mới mẻ, nhưng lại rất nhiều tiện ích như Factoring, mức độ giới thiệu, quảng bá như
vậy là rất ít, chưa đủ để thu hút được sự quan tâm của khách hàng.
2.2.2. Quy trình thực hiện factoring tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Quy trình thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán hầu hết đều được các ngân
hàng thương mại Việt Nam xây dựng trên quy trình cơ bản được giới thiệu trong
chương I. Sau đây là quy trình bao thanh toán của hai ngân hàng thương mại Việt
Nam điển hình dạt đạt được những thành công nhất định khi cung cấp dịch vụ
factoring.
Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) là một trong những ngân hàng thương
mại cổ phần hàng đầu tại Việt Nam, và cũng là ngân hàng luôn có doanh số bao
thanh toán đứng đầu trong số các ngân hàng thương mại Việt Nam tham gia cung
cấp dịch vụ bao thanh toán. Các sản phẩm bao thanh toán của ACB bao gồm hai
nhóm : bao thanh toán trong nước và bao thanh toán xuất khẩu.
Bảng 2.2: Biểu phí/lãi suất dịch vụ bao thanh toán của ACB.
STT Dịch vụ Mức phí/lãi suất
1 Bao thanh toán trong nước
1.1 Phí bao thanh toán 0,2 %, mức phí tối thiểu 400.000VNĐ
39
1.2 Phí gia hạn 0,2% ,mức phí tối thiểu 400.000VNĐ
2 Bao thanh toán xuất khẩu
2.1 Mức phí = 0,25%*thời hạn thanh toán/45*hệ số k
k = 1 : doanh số < 1 triệu USD/năm
k = 0,9 : doanh số > 1 triệu tới 2 triệu USD/năm
k = 0,8 : doanh số >2 triệu tới 3 triệu USD/năm
3 Bao thanh toán nhập khẩu
Mức phí Tùy uy tín bên mua hàng khoảng từ 0,8% tới 1,5%
4 Lãi = (số tiền ứng trước * lãi suất theo tháng * số ngày
bao thanh toán)/30 ngày.
Nguồn: ACB
Hiện nay, ACB không áp dụng cách thức thực hiện bao thanh toántheo
phương thức truyền thống mà áp dụng theo phương thức phi truyền thống. Tức là,
ngân hàng sẽ tiến hành xây dựng những tiêu chuẩn chung cho bên mua và bên bán
đủ điều kiện thực hiện bao thanh toán, sẽ cấp hạn mức bao thanh toán cho cả bên
mua và bên bán, nếu những quan hệ giao dịch mua bán phát sinh mà bên mua và
bên bán nằm trong tiêu chuẩn chung thì ngân hàng sẽ tiến hành thực hiện bao thanh
toán, miễn là tổng số tiền ứng trước không vượt quá hạn mức bao thanh toán đã
được cấp cho hai bên. Theo đó, quy trình thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán có
những điểm khác biệt với cách thức thực hiện của các ngân hàng khác. Quy trình
thực hiện bao thanh toán tại ACB được tiến hành theo những bước sau :
- Khối khách hàng doanh nghiệp tiến hàng thẩm định và cấp hạn mức bao
thanh toán cho bên mua hàng :
- Sở giao dịch và các chi nhánh thực hiện bao thanh toán:
- Thẩm định khoản phải thu :
- Sở giao dịch, các chi nhánh phối hợp với khối khách hàng doanh nghiệp để
xử lý các trường hợp phát sinh khác.
40
Sơ đồ 2. 1a : Quy trình thực hiện bao thanh toán trong nước của ACB.
1. Bên bán hàng và ACB ký kết hợp đồng bao thanh toán.
2. Bên bán hàng và ACB cùng gửi thông báo về hợp đồng cho bên mua hàng
trong đó nêu rõ việc chuyển nhượng khoản phải thu cho ACB.
3. Bên mua hàng xác nhận về việc đã nhận thông báo và cam kết thanh toán
cho ACB.
4. Bên bán hàng giao hàng cho bên mua.
5. ACB ứng trước cho bên bán hàng.
6. Bên bán hàng thanh toán khoản phải thu cho ACB khi đến hạn.
7. ACB thu phần ứng trước và thanh toán phần còn lại cho bên bán hàng.
Sơ đồ 2.1b : Quy trình thực hiện bao thanh toán xuất khẩu của ACB.
1. Nhà xuất khẩu ký kết hợp đồng bao thanh toán xuất khẩu với ACB.
2. Nhà xuất khẩu giao hàng cho nhà nhập khẩu.
3. Nhà xuất khẩu giao bộ chứng từ liên quan đến khoản phải thu cho ACB.
4. ACB ứng trước cho nhà nhập khẩu.
5. Nhà xuất khẩu giao bộ chứng từ liên quan đến khoản phải thu cho ACB.
41
6. Nhà nhập khẩu thanh toán khoản phải thu cho ACB khi đến hạn thông qua
đơn vị bao thanh toán nhập khẩu – đối tác của ACB.
7. ACB thu phần ứng trước và chuyển phần còn lại cho nhà nhập khẩu.
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)là
ngân hàng hàng đầu trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ bao thanh toán quốc tế.
Vietcombank hiện đang cung cấp ba nhóm sản phẩm bao thanh toán : nhóm sản
phẩm bao thanh toán xuất khẩu, nhóm sản phẩm bao thanh toán nhập khẩu, nhóm
sản phẩm bao thanh toán trong nước. Trong mỗi nhóm sản phẩm này lại có những
sản phẩm cụ thể đảm bảo đáp ứng đầy đủ các nhu cầu đa dạng của khách hàng.
- Nhóm sản phẩm bao thanh toán xuất khẩu gồm: sản phẩm nhập khẩu cơ bản
(cung cấp dịch vụ theo dõi khoản phải thu và thu nợ), sản phẩm nhập khẩu tiêu
chuẩn (cung cấp dịch vụ theo dõi khoản phải thu, thu nợ, cho vay ứng trước và đảm
bảo rủi ro tín dụng), sản phẩm ưu đãi (theo dõi khoản phải thu, thu nợ và cho vay
ứng trước).
- Nhóm sản phẩm bao thanh toán nhập khẩu gồm : sản phẩm nhập khẩu cơ bản
(cung cấp dịch vụ theo dõi khoản phải thu và thu nợ), sản phẩm nhập khẩu tiêu
chuẩn (cung cấp dịch vụ theo dõi khoản phải thu, thu nợ và đảm bảo rủi ro tín dụng)
- Nhóm sản phẩm bao thanh toán trong nước gồm sản phẩm bao thanh toán
tiêu chuẩn (theo dõi khoản phải thu, thu nợ cho vay ứng trước và đảm bảo rủi ro tín
dụng), sản phẩm ưu đãi (theo dõi khoản phải thu, thu nợ và cho vay ứng trước).
Ngoài những nhóm sản phẩm nói trên, Vietcombank linh động trong việc
cung cấp dịch vụ cho khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của khách hàng.
Phí cung ứng dịch vụ bao thanh toán của Vietcombank được xác định theo
biểu phí và lãi suất tạm ứng bao thanh toán của Vietcombank vào ngày ký xác nhận
giấy chuyển nhượng khoản phải thu. Lãi suất tạm ứng bao thanh toán được xác định
theo biểu phí và lãi suất tạm ứng bao thanh toán của Vietcombank vào ngày
Vietcombank thông báo chấp nhận tạm ứng cho người bán với một khoản phải thu
bất kỳ.
Bảng 2.3 : Biểu phí/lãi suất dịch vụ của Vietcombank.
STT Dịch vụ Mức phí/lãi suất
1. Khi Vietcombank là đại lý bên mua
42
1.1 Phí quản lý 0,1-0,2% doanh số bao thanh toán
1.2 Phí xử lý hóa đơn 0-10USD/hóa đơn hoặc phiếu ghi có
1.3 Phí đại lý bao thanh toán bên mua Theo thông báo của đại lý
1.4 Lãi suất ứng trước
1.4.1 đối với trường hợp bao thanh
toán có đảm bảo rủi ro tín dụng
Lãi suất chiết khấu do Vietcombank công
bố từng thời kỳ + biên độ (0%-1%)
1.4.2. đối với trường hợp bao thanh
toán không đảm bảo rủi ro tín dụng
Lãi suất cho vay thương mại ngắn hạn do
Vietcombank công bố từng thời kỳ + biên
độ (0%-1%)
2 Bao thanh toán khi Vietcombank là đại lý bên mua
2.1 Phí thu nợ 0,2% - 0,5% doanh số bao thanh toán thu
nợ
2.2 Phí bảo đảm rủi ro (đã bao gồm phí
thu nợ)
0,5% - 1,5% doanh số bao thanh toán bảo
đảm
2.3 Phí xử lý hóa đơn 0-10 USD/ hóa đơn hoặc phiếu ghi có
(Nguồn : Vietcombank)
Quy trình cung ứng dịch vụ của Vietcombank được thực hiện theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.2. Quy trình thực hiện bao thanh toán trong nước của Vietcombank.
Bước 1 : bên bán giao hàng cho bên mua.
Bước 2 : bên bán xuất trình chứng từ tại Vietcombank.
Bước 3: Vietcombank ứng trước cho bên bán.
Bước 4 : Vietcombank tiến hàng các thủ tục thu nợ bên mua khi đến hạn.
43
Bước 5 : Bên mua thanh toán tiền hàng cho Vietcombank.
Bước 6 : Vietcombank tất toán phần ứng trước và thanh toán phần còn lại cho bên
bán.
Sơ đồ 2.3: quy trình thực hiện bao thanh toán xuất khẩu tại Vietcombank.
Bước 1 : bên xuất khẩu giao hàng cho bên nhập khẩu.
Bước 2 : Bên xuất khẩu xuất trình chứng từ tại Vietcombank.
Bước 3 : Vietcombank thông báo cho đại lý bao thanh toán bên nhập và ứng trước
cho bên xuất khẩu.
Bước 4 : đại lý bao thanh toán bên nhập khẩu tiến hành các thủ tục thu nợ từ bên
nhập khẩu khi đến hạn.
Bước 5 : bên nhập khẩu thanh toán tiền hàng cho đại lý bao thanh toán, đại lý bao
thanh toán chuyển tiền cho Vietcombank.
Bước 6 : Vietcombank tất toán phần ứng trước và thanh toán phần còn lại cho bên
xuất khẩu.
44
Sơ đồ 2.4.: Quy trình thực hiện bao thanh toán nhập khẩu tại Vietcombank.
Bước 1 : Bên xuất khẩu giao hàng cho bên nhập khẩu.
Bước 2 : Bên xuất khẩu xuất trình chứng từ đại lý bao thanh toán bên xuất khẩu.
Bước 3 : đại lý bao thanh toán bên xuất khẩu thông báo cho Vietcombank và ứng
trước cho bên xuất khẩu.
Bước 4 : Vietcombank tiến hành các thủ tục thu nợ từ bên nhập khẩu khi đến hạn.
Bước 5 : Bên nhập khẩu thanh toán tiền hàng cho Vietcombank, Vietcombank
chuyển tiền cho đại lý bao thanh toán.
Bước 6: Đại lý bao thanh toán bên xuất khẩu tất toán phần ứng trước và thanh toán
phần còn lại cho bên xuất khẩu.
2.2.3. Quy mô, doanh số Factoring.
Năm 2004, khi bao thanh toán còn chưa thực sự được triển khai tại Việt
Nam, thì tại một số quốc gia châu Á khác, nghiệp vụ này đã khá phát triển.Nghiệp
vụ bao thanh toán tai Việt Nam được chính thức triển khai vào năm 2005. Hiện nay,
tuy số lượng các đơn vị bao thanh toán đang gia tăng nhưng do vẫn còn dè dặt trong
việc triển khai nghiệp vụ này nên doanh số bao thanh toán tại Việt Nam vẫn còn
thấp
Bảng 2.4 : Doanh số factoring tại Việt Nam trong giai đoạn 2005– 2011.
(ĐVT : Triệu EUR)
45
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Doanh số 2 16 43 85 95 65 67
(Nguồn : www.factors-chains.com, Annual Review 2011)
Theo số liệu thống kê hàng năm của FCI, doanh số factoring của giai đoạn
2005-2011 hàng năm đạt chưa tới 100 Triệu Euro. Đây là một con số khá khiêm tốn
so với các quốc gia có doanh số factoring đứng đầu thế giới.
Trong biểu đồ, có thể thấy, trong năm thứ 2 triển khai thực hiện dịch vụ bao
thanh toán, doanh số đã tăng vượt bậc, gấp 7 lần so với năm thứ nhất. Bốn năm sau,
con số này tiếp tục tăng lên với tỷ lệ đáng kể. Doanh số bao thanh toán năm 2008
tăng lên 197,67%, được coi là một sự tăng trưởng ngoạn mục nhất trong giai đoạn 5
năm đầu triển khai dịch vụ factoring. Con số 95 Triệu EUR là con số khả quan nhất
trong số 7 năm nước ta chính thức triển khai dịch vụ này. Tuy nhiên tốc độ tăng
trưởng của factoring trong năm 2009 chậm lại, chỉ ở mức 11,7%, nhưng đặt trong
bối cảnh của khủng hoảng kinh tế toàn cầu (2008-2009) thì mức độ tăng trưởng
trong hai năm này đã là khá ấn tượng.
Năm 2010 có thể coi là một năm khó khăn cho toàn nền kinh tế Việt Nam.
Tuy kinh tế có phục hồi nhờ vào những điều tiết phù hợp về chính sách sau cuộc
khủng hoảng năm trước đó, nhưng Việt Nam lại phải đối mặt với tình trạng lạm
phát đáng báo động. Lạm phát vào cuối năm 2010 tăng cao tới mức hai con số
(11,8%) và Việt Nam đồng bị trượt giá, dẫn tới lãi suất cho vay của các ngân hàng
thương mại tăng cao. Mức lãi suất này đã khiến cho các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh gặp khó khăn về vốn đầu tư, từ đó dẫn tới việc cắt giảm sản xuất, kinh doanh.
Diễn biến trên đã kéo theo việc doanh số bao thanh toán lại giảm xuống 15% so với
năm 2009, chỉ đạt 65 Triệu Euro. Theo báo cáo thưởng niên của FCI, cho tới cuối
năm ngoái, tình hình hoạt động factoring của Việt Nam cũng đã được cải thiện, mặc
dù doanh số tăng lên ở mức rất thấp, nhưng trong điều kiện Chính phủ Việt Nam tập
trung “ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định nền kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã
hội” với 6 gói biện pháp chính, trong đó có thắt chặt chính sách tiền tệ, thắt chặt
chính sách tài chính thì đây cũng đã là một dấu hiệu khả quan cho hoạt động
factoring tại Việt Nam. Những tháng đầu năm nay, với việc các ngân hàng liên tục
giảm lãi suất cho vay, đầu tư cùng với chính sách tập trung đẩy mạnh xuất nhập
46
khẩu thì hoàn toàn có thể hi vọng một con số khả quan hơn cho hoạt động factoring
tại Việt Nam
Mặc dù tốc độ tăng trưởng của hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam khá ấn
tượng, nhưng quy mô của nghiệp vụ bao thanh toán tại Việt Nam so với các nước
khác vẫn còn rất nhỏ bé. Bên cạnh đó, doanh thu factoring quốc tế vẫn còn khá
khiêm tốn so với doanh thu factoring nội địa.
Biểu đồ 2.2 : Doanh thu Factoring theo nhóm dịch vụ của Việt Nam trong giai
đoạn 2008-2011.
(ĐVT : Triệu EUR)
(Nguồn : www.factors-chain.com)
Năm 2010, doanh số bao thanh toán đột ngột giảm xuống, điều này một phần
là do những ảnh hưởng tiêu cực từ sự bất ổn của nền kinh tế. Tuy nhiên, tỷ lệ giữa
các nhóm dịch vụ factoring thì lại rất khả quan. Doanh thu factoring quốc tế đạt
mức cao nhất trong giai đoạn này. Điều này chứng tỏ factoring quốc tế đang dần có
ưu thế, đạt được những thành công nhất định, và có tiềm năng phát triển tại Việt
Nam. Tuy nhiên, thị trường bao thanh toán Việt Nam vẫn chưa đạt được sự cân
bằng giữa factoring quốc tế và factoring nội địa. Đây cũng là xu hướng chung của
nhiều quốc gia trên thế giới, thậm chí cả với những quốc gia có dịch vụ bao thanh
toán phát triển nhất. Để lý giải cho điều này, ta có thể kể đến những yếu tố cần thiết
để làm tiền đề cho sự phát triển của bao thanh toán quốc tế.
Trong số các đơn vị bao thanh toán của Việt Nam đã gia nhập tổ chức FCI,
Vietcombank luôn được nhắc tới với vị trí hàng đầu về doanh số lớn, cũng như tốc
47
độ tăng trưởng của dịch vụ này theo các năm. Trong ba năm gần đây, thị phần của
Vietcombank trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ bao thanh toán quốc tế đã tăng lên
nhanh chóng, từ 33,87% lên tới 68,49%.
Bảng 2.5 : Doanh số factoring xuất nhập khẩu của Vietcombank giai đoạn
2007-2011.
(ĐVT : Triệu EUR)
2007 2008 2009 2010 2011
Factoring
xuất khẩu
635.132 2124.907 3305.881 4.131.021 4.434.904
Factoring
nhập khẩu
23.326 54.112 122.649 179.267 243.348
Factoring
XNK
658.458 2.179.019 3.428.530 4.310.488 4.678.252
(Nguồn : Báo cáo nghiệp vụ thanh toán của Vietcombank)
Có thể nói, Vietcombank đã từng bước chiếm lĩnh thị trường bao thanh toán
quốc tế của Việt Nam. Theo báo cáo của Vietcombank năm 2011, doanh số bao
thanh toán ngân hàng này đạt được hơn 5,2 Triệu Euro trong đó đa phần doanh thu
từ hoạt động factoring xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, mặt hạn chế của Vietcombank
khi cung cấp dịch vụ bao thanh toán là còn quá chú trọng tới những doanh nghiệp
lớn, mạnh, và nghiêng vào mảng xuất nhập khẩu quốc tế, chứ chưa chú trọng vào
thị trường bao thanh toán trong nước. Điều này được phản ánh qua doanh số bao
thanh toán nội địa mà Vietcombank thực hiện trong năm 2011 chỉ bằng 5% - 6% so
với doanh số bao thanh toán quốc tế.
Nếu như Vietcombank là một ngân hàng với lợi thế về bao thanh toán quốc
tế, thì VIB lại là một ngân hàng có nhiều ưu thế và thành tựu về phát triển bao thanh
toán nội địa.
Bảng 2.6 : Doanh số nghiệp vụ factoring nội địa của ngân hàng VIB.
ĐVT : Triệu VNĐ
48
2006 2007 2008 2009
Doanh số 91.308,560 160.494,015 210.009.121 242.167.342
Số lượng chi nhánh
thực hiện
4 8 12 15
Sô lượng khách hàng 9 16 18 18
(Nguồn : báo cáo nghiệp vụ bao thanh toán VIB)
Nhìn vào bảng số liệu, ta có thể thấy doanh số factoring của ngân hàng có tỷ
lệ tăng nhanh, tuy nhiên doanh số thì vẫn còn rất khiêm tốn, đặc biệt là so với doanh
số các dịch vụ khác của ngân hàng. Bên cạnh đó, số lượng khách hàng ở mức thấp
là một thực tế mà VIB phải đối mặt tuy số lượng các chi nhánh thực hiện có tăng
qua các năm. Tuy nhiên, với quy mô vốn nhỏ mà đạt được những kết quả trên, có
thể coi là bước đầu thành công trong qua trình triển khai dịch vụ factoring.
2.3. Rủi ro đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam khi thực hiện nghiệp
vụ factoring.
2.3.1.Rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng là rủi ro từ phía khách hàng đối với đơn vị bao thanh toán,
bao gồm cả rủi ro từ phía người bán và người mua mất khả năng thực hiện nghĩa vụ
thanh toán. Khi người bán chuyển nhượng khoản phải thu cho đơn vị bao thanh
toán, mọi quyền và lợi ích liên quan tới khoản phải thu đó được chuyển cho đơn vị
bao thanh toán. Nếu người mua phá sản hoặc mất khả năng thanh toán, tùy thuộc
vào từng loại hình bao thanh toán cụ thể được ký kết giữa hai bên, đơn vị bao thanh
toán phải thực hiện nghĩa vụ của mình, và đôi khi phải chịu hoàn toàn rủi ro về
khoản nợ không thu hồi được từ phía người mua.Mặt khác, đối với người bán, khi
thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán, đơn vị bao thanh toán sẽ cung cấp cho người
mua một số tiền ứng trước. Ngay cả trong trường hợp bao thanh toán có truy đòi,
nếu người bán gặp khó khăn về tài chính hoặc mất khả năng thanh toán, factor sẽ
tổn thất do không có bất kỳ một tài sản đảm bảo nào cho khoản tiền ứng trước đó.
49
2.3.2.Rủi ro gian lận.
Rủi ro gian lận là loại rủi ro factor gặp phải khi hóa đơn được bao thanh toán
không ứng với bất cứ một giao dịch thương mại thực tế nào. Do đó, hóa đơn không
có giá trị pháp lý, và factor cũng không thể thu nợ được từ người mua.
2.3.3.Rủi ro thu nợ.
Khi đơn vị bao thanh toán cung cấp dịch vụ bao thanh toán cho các mặt hàng
được bán theo phương thức ký gửi, hoặc hàng hóa cần được lắp đặt, hoặc hàng hóa
có điều khoản bảo hành, cho phép người mua có quyền yêu cầu người bán mua lại
hoặc phải giảm giá nếu như hàng hóa không đáp ứng được những yêu cầu nhất
định... rủi ro này rất dễ gặp phải. Đó là rủi ro đơn vị bao thanh toán không thu được
nợ đúng hạn và hiệu quả do người mua khấu trừ vào tiền thanh toán.
2.3.4.Rủi ro thanh khoản.
Khi luồng tiền ra và luồng tiền vào của các đơn vị bao thanh toán không
tương xứng với nhau, các đơn vị này có thể sẽ gặp khó khăn về tính thanh khoản
của luồng tiền. Theo đó, các đơn vị bao thanh toán sẽ không thể ứng trước cho
người bán cho đến khi thu được nợ từ người mua trước đó.
2.3.5.Rủi ro ngoại hối.
Ngoài những rủi ro trên, đơn vị bao thanh toán còn có thể gặp phải rủi ro
ngoại hối, do sự thay đổi của tỷ giá hối đoái trong thời điểm ứng trước tiền cho
người bán, và thu nợ tiền từ người mua.
2.4. Đánh giá chung về tình hình phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân
hàng thương mại Việt Nam.
2.4.1. Kết quả đạt được.
2.4.1.1. Cơ sở hạ tầng để phục vụ nghiệp vụ factoring đang được xây dựng
.
Với sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghệ thông tin (sự phổ cập dịch
vụ Internet, máy móc, thiết bị liên lạc hiện đại) trong những năm gần đây, các tổ
50
chức tín dụng Việt Nam có đủ khả năng để triển khai dịch vụ này một cách hiệu
quả.
2.4.1.2. Nghiệp vụ factoring cơ bản đã hình thành và đang phát triển theo
hướng đa dạng và chuyên nghiệp hơn.
Mặc dù nghiệp vụ bao thanh toán mới được phát triển thực sự trong những
năm gần đây, nhưng đã đạt được những kết quả rất triển vọng. Những nét cơ bản
nhất của nghiệp vụ bao thanh toán cũng đã được hình thành. Cho tới thời điểm này,
rất nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam được ngân hàng nhà nước cho phép thực
hiện nghiệp vụ bao thanh toán điển hình như các ngân hàng Vietcombank, ACB,
Eximbank, Tienphongbank, MB...Ngoài ra, các chi nhánh của ngân hàng nước
ngoài, các tổ chức tài chính cũng được cấp giấy phép cung ứng dịch vụ như ANZ,
MDB, công ty tài chính dầu khí PVFC, công ty tài chính cổ phần Điện lực... Việc
tham gia vào FCI, một tổ chức với các thành viên đến từ 65 quốc gia trên thế giới,
đã tạo ra nhiều cơ hội để cọ xát và thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán một cách
hiệu quả hơn.
Mặt khác, môi trường cạnh tranh cũng đòi hỏi dịch vụ ngân hàng cần phải đa
dạng và chuyên nghiệp hơn. Bởi vậy, các ngân hàng cũng đã ý thức được sự cần
thiết của việc đa dạng hóa, chuyên nghiệp hóa trong việc cung cấp sản phẩm của
mình. Tiêu biểu như Vietcombank có một hệ thống sản phẩm thanh toán gồm ba
nhóm chính : sản phẩm bao thanh toán xuất khẩu, sản phẩm bao thanh toán nhập
khẩu, sản phẩm bao thanh toán nội địa; ACB thực hiện cả bao thanh toán nội địa và
bao thanh toán quốc tế... Hay thay cho phần lớn bộ phận thực hiện nghiệp vụ bao
thanh toán của các ngân hàng thường nằm trong những phòng tín dụng thì có ngân
hàng đã thành lập một phòng riêng chuyên thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán, ví
dụ như ngân hàng ACB.Bên cạnh đó, các ngân hàng còn nỗ lực thực hiện những
hoạt động marketing nhằm thu hút khách hàng cho dịch vụ bao thanh toán của
mình, nhằm cạnh tranh với những ngân hàng khác, như chương trình“bao thanh
toán, mùa vàng bội thu” năm 2011 của VIB.
51
2.4.1.3.Nghiệp vụ factoring góp phần thúc đẩy sự phát triển của các dịch
vụ khác của ngân hàng.
Việc thực hiện nghiệp vụ này đã thúc đẩy sự phát triển của nghiệp vụ bảo
lãnh, thanh toán và chuyển tiền trong nước cũng như quốc tế. Bên cạnh đó, nó còn
thúc đẩy cả dịch vụ kinh doanh tiền tệ trên thị trường hối đoái quốc tế, thanh toán
quốc tế, và chứng khoán.
2.4.1.4. Nghiệp vụ factoring góp phần thúc đẩy sự phát triển của các
doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam.
Thực tế cho thấy, khách hàng chủ yếu của bao thanh toán Việt Nam là các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước. Điều này phần nào phản ánh nhu cầu
ngày càng tăng của các doanh nghiệp về vốn, về các hình thức bảo hiểm tín dụng để
hạn chế rủi ro trong thanh toán. Trên cơ sở những khía cạnh tích cực mà bao thanh
toán mang lại cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, bao thanh toán đang dành được
sự quan tâm của các doanh nghiệp.
2.4.2. Những hạn chế còn tồn tại.
2.4.2.1.Khung pháp lý còn nhiều bất cập.
Quy chế 1906/2004/QĐ-NHNN về hoạt động bao thanh toán qua thực tế
triển khai tại các ngân hàng thương mại vẫn còn nhiều bất cập. Sau đó, ngân hàng
nhà nước đã có văn bản điều chỉnh lại quy chế nhằm phù hợp hơn với hoạt động
bao thanh toán và các quy tắc hoạt động bao thanh toán trên thế giới bằng Quyết
định sửa đổi bổ sung số 30/2008/QĐ-NHNN. Tuy nhiên, tình hình thực tế vẫn phản
ánh nhiều hạn chế của văn bản luật này. Một số quy định trong quy chế vẫn còn
chưa chính xác. Ví dụ:
Điều 4 mục 9 định nghĩa “số dư bao thanh toán là số tiền mà đơn vị bao
thanh toán ứng trước cho bên bán hàng theo thỏa thuận tại hợp đồng bao thanh
toán” là chưa chính xác, và mâu thuẫn với điều 2 “bao thanh toán là một hình thức
cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các
khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ đã được
bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua, bán hàng hóa và
cung ứng dịch vụ”.
52
Điều 11 : định nghĩa về bao thanh toán miễn truy đòi và bao thanh toán có
truy đòi là không cần thiết vì trong các luật và quy tắc quốc tế chỉ quy định việc các
tổ chức bao thanh toán có cung cấp chức năng đảm bảo rủi ro tín dụng cho người
bán hàng hay không.
Điều 13 : Quy định về việc không được bao thanh toán kín là không phù hợp
với thực tiễn. Do việc thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán phải được bên bán hàng
và bên mua hàng thỏa thuận trước trong hợp đồng. Điều này có lẽ sẽ hạn chế phạm
vi hoạt động của các tổ chức bao thanh toán.
Điều 25 mục c : Không cho phép người mua được đòi lại số tiền đã thanh
toán cho đơn vị bao thanh toán trong trường hợp bên bán hàng không thực hiện,
hoặc thực hiện không đúng, đầy đủ các điều khoản quy định tại hợp đồng mua bán
hàng hóa và cung ứng dịch vụ, trừ tường hợp đơn vị bao thanh toán cố tình thanh
toán khoản chi trả của bên mua hàng cho bên bán hàng sau khi đã được bên mua
hàng thông báo về việc bên bán hàng có hàng vi vi phạm hợp đồng mua bán hàng
hóa và cung ứng dịch vụ. Điều này trái với luật của FCI.
Bởi vậy, để hoạt động bao thanh toán nói chung và hoạt động factoring nói
riêng có thể phát triển tại Việt Nam, rất cần có một nguồn luật đầy đủ, chính xác,
phù hợp để có thể phát huy được hiệu quả của quá trình triển khai thực hiện nghiệp
vụ.
2.4.2.2. Doanh số factoring vẫn còn thấp, vẫn còn sự chênh lệch giữa
factoring quốc tế và factoring nội địa.
Từ số liệu doanh số factoring của Việt Nam, và doanh số của một số ngân
hàng tiêu biểu, ta có thể thấy doanh số factoring là rất thấp so với khu vực, nằm
trong những nước có doanh số bao thanh toán thấp nhất châu Á.Hơn nữa, tỷ trọng
hoạt động factoring so với các hoạt động khác vẫn còn rất thấp.
Bên cạnh đó, ta có thể thấy dịch vụ factoring quốc tế luôn có doanh số thấp
hơn so với factoring nội địa từ năm đầu triển khai dịch vụ bao thanh toán cho tới
nay. Mặc dù trong 2 năm gần đây, sự chênh lệch giữa doanh số của factoring quốc
tế và factoring nội địa đã được rút ngắn, nhưng vẫn chưa có được sự cân bằng. Có
thể dễ nhận thấy được điều này qua quy mô của dịch vụ tại các ngân hàng thương
53
mại hiện nay, nhiều ngân hàng vẫn chỉ bó hẹp trong phạm vi bao thanh toán nội địa,
chứ chưa cung cấp dịch vụ bao thanh toán quốc tế.
2.4.2.3. Số lượng khách hàng tham gia dịch vụ vẫn còn khiêm tốn.
Mặc dù các ngân hàng thương mại Việt Nam cung cấp nghiệp vụ cho cả các
doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng số lượng khách hàng sử dụng
dịch vụ factoring vẫn còn thấp. Thậm chí, có những doanh nghiệp không biết tới
dịch vụ này, và nếu như biết thì vẫn còn rất hạn chế, chưa hiểu hết những tiện ích
mà dịch vụ mang lại. Điều này dẫn đến tâm lý ngại ngần sử dụng dịch vụ mới thay
cho những dịch vụ mà họ đã sử dụng từ lâu.
2.4.2.4. Về cơ cấu tổ chức, nhiều ngân hàng thương mại vẫn chưa có bộ
phận thực hiện nghiệp vụ factoring độc lập.
Hiện nay việc thực hiện nghiệp vụ này tại các ngân hàng thường do một bộ
phận nằm trong một phòng nghiệp vụ chuyên ngành có liên quan đảm nhận nên
chưa tạo ra được một cơ chế hoạt động độc lập và hiệu quả.
Theo đó, ngân hàng không chủ động nắm bắt được chính xác và tập trung
nhu cầu của khách hàng để tiếp thị sản phẩm của mình. Cán bộ của ngân hàng cũng
không có điều kiện để học hỏi chuyên sâu về nghiệp vụ bao thanh toán do phải làm
việc với nhiều khách hàng có nhu cầu khác nhau. Khách hàng có nhu cầu lại phải
tiếp xúc với nhiều đầu mối như phòng thanh toán xuất nhập khẩu, phòng tín dụng...
để có thể thực hiện được giao dịch.
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động
factoring.
2.4.3.1. Nguyên nhân khách quan.
Thứ nhất,các văn bản pháp lý quy định về hoạt dộng này vẫn còn mang tính
chung chung, chưa được đầy đủ, cụ thể rõ ràng. Cụ thể như sửa đổi bổ sung quy
chế 1096 (quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN) và luật các tổ chức tín dụng năm
2010 quy định bao thanh toán là một nghiệp vụ tín dụng nhưng chưa có văn bản cụ
thể hướng dẫn cách hạch toán nghiệp vụ bao thanh toán dẫn đến sự lúng túng trong
cách thực hiện. Điều này dẫn đến kết quả là tuy cùng một bản chất sự việc nhưng
54
cách phản ánh của các đơn vị trên sổ sách kế toán lại khác nhau. Từ đó, gây khó
khăn cho các cơ quan ban ngành trong việc kiểm soát nghiệp vụ bao thanh toán.
Thứ hai, sản phẩm bao thanh toán vẫn còn mới mẻ với thị trường Việt Nam.
Dù được các nước áp dụng khá lâu, nhưng đối với Việt Nam, nền kinh tế vẫn còn
đang phát triển, thì bao thanh toán vẫn còn mới mẻ, cần có thời gian để cho các
doanh nghiệp và những ngân hàng thương mại tìm hiểu và làm quen. Hơn nữa,
những phương thức khác như nghiệp vụ gửi tiền, chuyển tiền, cho vay, tín dụng
chứng từ, nhờ thu... dường như đã trở thành thói quen thanh toán đối với các doanh
nghiệp Việt Nam. Đây thật sự là một nguyên nhân dẫn tới sự khó khăn cho ngân
hàng trong việc đưa nghiệp vụ bao thanh toán trở nên phổ biến.
Thứ ba,đa số các doanh nghiệp Việt Nam đều không công khai thông tin
trong quá trình hoạt động. Chính thông tin không đầy đủ này đã gây khó khăn cho
các ngân hàng khi đánh giá khách hàng. Nó làm tăng mức độ rủi ro cho những bên
tham gia vào nghiệp vụ bao thanh toán. Nếu các ngân hàng tự xét duyệt hạn mức tín
dụng đơn thuần sau khi phải thu thập thông tin về khách hàng và việc chứng minh
tình trạng tài chính của khách hàng phần lớn qua việc phân tích các bản báo cáo kết
quả kinh doanh tài chính thì thực sự chưa đủ mức độ tin cậy, và mang lại nhiều mạo
hiểm cho ngân hàng.
Thứ tư,thị trường vốn và thị trường tiền tệ của Việt Nam phát triển chậm,
chưa đồng bộ. Chính điều này đã làm hạn chế nhu cầu huy động vốn và đầu tư vốn
của ngân hàng thương mại, làm giảm khả năng đa dạng hóa sản phẩm và tăng mức
độ rủi ro khi cung cấp sản phẩm.
2.4.3.2. Nguyên nhân chủ quan.
Thứ nhất, quy mô ngân hàng ở Việt Nam còn nhỏ. Việc sử dụng nghiệp vụ
bao thanh toán đòi hỏi tổ chức bao thanh toán phải nắm rõ được khách hàng, cả
người xuất khẩu lẫn người nhập khẩu. Nhưng hoạt động xuất nhập khẩu lại là hoạt
động xuyên biên giới, nên khó khăn cho ngân hàng thực hiện việc thẩm định khách
hàng. Hơn nữa, đối với các ngân hàng Việt Nam, mạng lưới chi nhánh trên các quốc
gia khác còn hạn chế, nên việc thẩm định lại càng khó khăn hơn. Bên cạnh đó, ở
một số ngân hàng chủ yếu nghiệp vụ bao thanh toán được thực hiện ở hội sở của các
ngân hàng đó. Các chi nhánh chưa quen thuộc, và chưa quan tâm tới việc thực hiện,
55
cũng như đẩy mạnh tiếp thị dịch vụ tới khách hàng. Điều này là một rào cản gây
khó khăn cho việc mở rộng và phát triển sản phẩm này ở nước ta.
Thứ hai là nguồn vốn để thực hiện nghiệp vụ vẫn còn hạn chế. Hiện nay một
số các ngân hàng thương mại có năng lực tài chính yếu so với hệ thống các ngân
hàng nước ngoài. Vốn điều lệ của các ngân hàng vẫn chưa nhiều. Mức vốn tự có
thấp là nguyên nhân làm yếu sức mạnh tài chính, và nâng cao rủi ro kinh doanh,
đồng nghĩa với việc giảm khả năng mở rộng tín dụng, phát triển nghiệp vụ bao
thanh toán của các ngân hàng, và tăng rủi ro thanh toán.
Thứ ba, khả năng quản lý tín dụng còn kém là nguyên nhân các ngân hàng
còn ngần ngại khi triển khai nghiệp vụ. Ngoài ra, trình độ nhân viên ngân hàng am
hiểu về nghiệp vụ bao thanh toán chưa nhiều. Việc đào tạo các chuyên viên vẫn
chưa được nhiều ngân hàng tập trung triển khai, hoặc triển khai ở mức độ sơ sài,
dẫn tới nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện nghiệp vụ.
Thứ tư do tâm lý còn dè dặt sử dụng các dịch vụ mới của các doanh nghiệp
Việt Nam. Cả doanh nghiệp lớn, hay những doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam
đều ưa thích sử dụng những dịch vụ cho vay truyền thống hơn là các dịch vụ mới.
Đây cũng là kết quả tất yếu của việc chưa hiểu rõ các ưu thế của bao thanh toán so
với các loại hình cấp tín dụng khác như không cần tài sản đảm bảo, giảm thời gian
và công sức quản lý các khoản nợ, giảm rủi ro cho doanh nghiệp với các khaorn
phải thu. Một phần nữa là khi thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán, vẫn có một số
ngân hàng đưa ra những điều kiện làm triệt tiêu đi lợi thế của bao thanh toán như
bên bán phải chứng minh điều kiện tài chính của bên mua... chính điều này làm
giảm đi sức hấp dẫn của dịch vụ bao thanh toán với các khách hàng.
56
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN
NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN (FACTORING) TẠI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM.
3.1. Sự cần thiết phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng thương mại
Việt Nam.
Việt Nam đã gia nhập tổ chức WTO vào tháng 11 năm 2006. Sự kiện này đã
mở ra cho kinh tế Việt Nam những cơ hội mới để phát huy tiềm lực và phát
triển.Trong những năm gần đây, nền kinh tế của đất nước đã có sự thay đổi mạnh
mẽ. Tốc độ phát triển kinh tế hàng năm luôn được duy trì ở mức cao (số liệu). Cơ
cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng trong ngành sản xuất
công nghiệp thương mại, xuất nhập khẩu và dịch vụ... đã làm thay đổi bộ mặt kinh
tế của đất nước..
Đối với nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam thì ổn định thị trường tài
chính là một thách thức lớn. Trong những năm gần đây, ngành Tài chính ngân hàng
đã chứng minh được tiềm năng phát triển mạnh mẽ của mình, được coi là một trong
những lĩnh vực xếp ở vị trí dẫn dầy trong nhóm dịch vụ có tính đột phá nhằm phát
triển kinh tế. Các ngân hàng thương mại tiếp tục phát triển cà ngày càng khẳng định
được vai trò, vị thế trên thị trường tài chính tiền tệ. Hệ thống ngân hàng Việt Nam
thực hiện mạnh việc cơ cấu lại đã nâng cao năng lực cạnh tranh để hội nhập cùng
nền kinh tế thế giới. Phát triển các dịch vụ ngân hàng trở thành lĩnh vực mũi nhọn
trong hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn là mục tiêu hàng đầu của toàn hệ thống
ngân hàng Việt Nam.
Kinh tế phát triển với tốc độ cao cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho xã hội
phát triển, hệ thống pháp lý được xây dựng và cải thiện thường xuyên nhằm tạo ra
những nguyên tắc hoạt động chung nhât, cơ bản nhất cho một xã hội hiện đại đã cơ
bản được thiết lập. Trong lĩnh vực tài chính, với sự điều tiết và quản lý của chính
phủ, đã phát triển nhanh. Theo đó cũng tạo điều kiện cho những dịch vụ ngân hàng
phát triển trong đó có dịch vụ factoring.
Sự phát triển đa dạng các doanh nghiệp, công ty thuộc nhiều thành phần kinh
tế khác nhau, đặc biệt trong ngành xuất nhập khẩu, sản xuất thương mại kéo theo
57
nhiều cơ hội cho các ngành nghề dịch vụ khác phát triển. Các doanh nghiệp mới
xuất hiện cũng có nhu cầu rất lớn về vốn và vốn từ các hoạt động tài trợ thương mại
của ngân hàng là một nguồn vốn quan trọng. Hoạt động factoring cũng là một kênh
tài trợ vốn rất hữu ích mà lại hạn chế được một số những khuyết điểm của các kênh
tài trợ khác.
Bên cạnh đó, việc mở cửa thị trường trong lĩnh vực ngân hàng dẫn tới sự gia
tăng nhanh chóng của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Điều này
tất yếu sẽ kéo theo sức ép cạnh tranh lớn cho các ngân hàng thương mại trong nước
bởi thị phần sẽ bị thu hẹp và rủi ro cũng lớn hơn. Bởi vậy, muốn cạnh tranh với
những ngân hàng nước ngoài có nhiều lợi thế về tài chính, kinh nghiệm, công nghệ
một cách bình đẳng, các ngân hàng thương mại Việt Nam chỉ còn cách nâng cao
chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ.
Trong bối cảnh như thế, dịch vụ factoring được coi là một dịch vụ quan
trọng, tạo nên kênh phân phối nguồn vốn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam với các
ngân hàng khác. Bên cạnh đó, cùng với xu hướng phát triển của xã hội, khi trình độ
dịch vụ ngân hàng cao và việc thanh toán qua ngân hàng là phổ biến,... thì hoạt
động factoring được áp dụng rộng rãi là điều tất yếu. Sự nhanh chóng, tiện lợi, an
toàn, đơn giản và các ngân hàng có thể kiểm soát tốt các khoản phải thu là những
yếu tố cơ bản giúp dịch vụ này được sử dụng nhiều hơn là dịch vụ cho vay thế chấp
bằng tài sản có với sự chậm chạp, thủ tục rườm rà và có nhiều điều kiện về tài sản
đảm bảo...
3.2. Triển vọng áp dụng nghiệp vụ factoring tại Việt Nam.
3.2.1. Năng lực của các ngân hàng thương mại Việt Nam ngày càng được
củng cố.
(i) Năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại.
Theo số liệu công bố, trong những năm qua, các ngân hàng thương mại Việt
Nam không ngừng nâng cao sức mạnh tài chính của mình. Quy mô vốn điều lệ của
các ngân hàng đã có sự tăng nhanh trong các năm gần đây.
58
Bảng 3.1 : Quy mô vốn điều lệ của một số ngân hàng thương mại Việt Nam.
(ĐVT : Tỉ VNĐ)
2007 2008 2009 2010 2011
BIDV 7.699 8.756 10.499 - -
Vietinbank 7.609 7.717 11.253 15.172 16.858
Sacombank 5.662 5.978 8.078 10.931 -
Eximbank 2.800 7.220 8.800 10.560 10.560
ACB - - - - 9.337
Teachcombank 2.521 3.642 5.401 6.932 6.932
Vietcombank 4.429 12.101 12.101 13.224 17.588
(Nguồn : Báo cáo của NHNN, báo cáo của các NHTM)
Kể từ năm 2010, thực thi các quy định của Ngân hàng Nhà nước (vốn điều lệ
tối thiểu của các ngân hàng thương mại là 3.000 tỷ đồng), hầu hết các ngân hàng
thương mại đã tăng vốn điều lệ, quy mô tổng tài sản khá ấn tượng. Nhìn vào bảng
số liệu trên, có thể thấy một số những ngân hàng có mức độ tăng vốn điều lệ rất cao.
Điển hình là Eximbank, trong vòng 4 năm từ năm 2007 tới năm 2011 vốn điều lệ
tăng từ 2.800 tỷ đồng lên 10.560 tỷ đồng tức tăng gần 4 lần. Vietcombank tăng từ
4.429 tỷ đồng tới 17.588 tỷ đồng tức tăng gấp 4 lần.
Bảng 3.2. Tỷ lệ CAR một số ngân hàng thương mại Việt Nam.
(ĐVT : %)
2007 2008 2009 2010 2011
Vietcombank 9,2 8,9 8,11 8,17 9,5
Vietinbank 11,62 11,45 8,06 8,02 9,86
ACB 16,19 12,4 9,97 10,6 10,01
(Nguồn : Báo cáo của NHNN, báo cáo của các NHTM)
Xét về mức độ an toàn vốn, với sự gia tăng của vốn điều lệ theo các năm, hệ
số an toàn vốn CAR (thước đo an toàn vốn của ngân hàng,thường được dùng để bảo
vệ những người gửi tiền trước rủi ro của ngân hàng và tăng tính ổn định cũng như
hiệu quả của hệ thống) của đa số ngân hàng thương mại Việt Nam đều trên mức tối
thiểu 9%, đảm bảo yêu cầu theo những điều chỉnh mới của Basel và theo Thông tư
59
số 13/2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo đó, đảm bảo an toàn của các
ngân hàng thương mại.
Bảng 3.3. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam và một số ngân hàng
thương mại.
(ĐVT : %)
2008 2009 2010 2011
Toàn hệ thống
ngân hàng
3,5 1,9 2,5 3,3
Vietcombank 4,61 2,47 4,15 3,9
Vietinbank 1,81 0,61 0,66 0,75
BIDV 4,02 2,98 2,92 2,5
ACB 0,89 0,41 0,37 -
(Nguồn : Báo cáo của NHNN, báo cáo của các NHTM)
Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay không
phải là điều đáng lo ngại khi luôn ở mức thấp hơn 5% như dự kiến của NHNN.
Một thực tế là hiện nay, hầu như các ngân hàng thương mại ở Việt Nam đã
tiến hành cổ phần hóa. Nhờ đó mà các ngân hàng có thể huy động được nguồn vốn
nhàn rỗi từ khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp thông qua các đợt phát
hành trái phiếu ngân hàng. Do vậy mà nguồn vốn của các ngân hàng tăng, làm nâng
cao được khả năng phát triển nghiệp vụ tài trợ nói chung và nghiệp vụ bao thanh
toán nói riêng.
(ii) Yếu tố con người.
Trong bất kỳ một lĩnh vực nào, con người luôn giữ vai trò quan trọng. Trong
lĩnh vực ngân hàng, con người càng giữ vị trí quan trọng hơn, do tính chất của
ngành là hoạt động dịch vụ, rất cần có sự duy trì quan hệ giữa khách hàng với ngân
hàng – nhiệm vụ trung tâm cho sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng thương
mại.
Trong giai đoạn gần đây, năng lực quản trị điều hành và năng lực thực hiện
nghiệp vụ bao thanh toán đã được nâng cao thông qua các khóa đào tạo trong và
ngoài nước. Điển hình là vào tháng 4/2011, Phó Tổng Giám đốc của Vietcombank
đã được The Asean Banker trao giải thưởng “ Nhà lãnh đạo Ngân hàng trẻ và triển
60
vọng năm 2011”trên khu vực Châu Á – Thái Bình Dượng, 10/3/2012 Vietinbank đã
tổ chức lớp bồi dưỡng nghiệp vụ bao thanh toán cho các chi nhánh phía Bắc, Ngân
hàng Nhà nước cũng liên tục tổ chức các hội nghị tập huấn nghiệp vụ bao thanh
toán cho các ngân hàng.Bên cạnh đó, một thuận lợi lớn với ngành bao thanh toán
của Việt Nam là được sự quan tâm của các ngân hàng lớn trên thế giới. Phát hiện
thấy Việt Nam là một thị trường tiềm năng, các ngân hàng đứng đầu về bao thanh
toán trên thế giới thường xuyên gửi các chuyên gia sang Việt Nam tổ chức các buổi
tọa đàm về bao thanh toán.
Hơn nữa, trong quá trình hoạt động, ngân hàng đã xây dựng được một đội
ngũ các nhân viên có trình độ trong việc thẩm định tín dụng, cho vay, thu hồi nợ...
Do vậy, họ có đủ khả năng, và giàu kinh nghiệm để sẵn sàng học hỏi, thực hiện
nghiệp vụ bao thanh toán.
3.2.2. Nhu cầu về dịch vụ factoring ngày càng tăng.
Việt Nam là một thị trường tiềm năng với dân số gần 88 triệu người , mức độ
tăng trưởng GDP bình quân hàng năm luôn ở mức khá cao. Với sự phát triển như
vậy, đối với các doanh nghiệp thì nguồn vốn bị giới hạn là một khó khăn lớn. Nhu
cầu về vốn cùng với những biện pháp hạn chế rủi ro mà ngân hàng và các tổ chức
tín dụng áp dụng nhằm hạn chế những rủi ro có thể xảy ra kéo theo nhu cầu một
dịch vụ tài trợ vốn mà không cần tài sản đảm bảo. Dịch vụ bao thanh toán giải quyết
được những điều kiện trên.
Hơn nữa, Việt Nam là một quốc gia có khả năng thu hút nguồn vốn FDI
mạnh mẽ, nhưng nguồn vốn này lại rất khó đến với các doanh nghiệp tư nhân. Vì
vậy, để giải quyết vấn đề vốn cho các doanh nghiệp, các ngân hàng cần phát triển
dịch vụ bao thanh toán nhằm giúp những doanh nghiệp này có thể mở rộng phạm vu
huy động vống, giúp cho vòng quay vốn nhanh hơn, từ đó mở rộng đầu tư.
Đứng trước những cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp trước nền
kinh tế mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới, việc giao thương giữa các nước
diễn ra ngày càng mạnh mẽ, các doanh nghiệp Việt Nam phải tăng khả năng cạnh
tranh. Nhưng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước với các doanh
nghiệp nước ngoài lại phụ thuộc rất lớn vào quy mô vốn. Nếu như hỗ trợ tín dụng
của Nhà nước mang tầm vĩ mô và tác động một cách gián tiếp thì hỗ trợ tín dụng
61
của ngân hàng lại ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp một
cách trực tiếp và mang tính tức thời.
3.3. Giải pháp phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng thương mại
Việt Nam.
3.3.1. Giải pháp chủ yếu.
3.3.1.1. Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động Factoring.
Cho tới thời điểm hiện nay, khung pháp lý cho bao thanh toán nói chung và
factoring nói riêng vẫn còn rất sơ sài. Ngân hàng nhà nước mởi chỉ ra quyết định
1906/2004/QĐ-NHNN để ban hành quy chế hoạt động bao thanh toán, quyết định
30/2008/QĐ-NHNN để sửa đổi bổ sung . Tuy nhiên đã được sửa đổi, nhưng qua
thực tế cho thấy quyết đinh này vẫn còn bộc lộc nhiều hạn chế. Vì vậy, Ngân hàng
Nhà nước cần nhanh chóng ban hành một quy chế mới đầy đủ, khắc phục được
những hạn chế của văn bản cũ, phù hợp với thông lệ, công ước về bao thanh toán
trên thế giới và phù hợp với tình hình thực tế.
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng một định nghĩa về nghiệp vụ
factoring một cách phù hợp để thống nhất với các công ước, thông lệ quốc tế. Trong
định nghĩa cần phân biệt được giữa thuật ngữ “cấp tín dụng” và “mua lại các khoản
phải thu”. Quan hệ tín dụng là một quan hệ tách bạch với quan hệ mua bán, nếu
trong khái niệm như quy định đã nêu: “việc cấp tín dụng thông qua việc mua lại các
khoản phải thu” thì gây khó hiểu cho người đọc. Bên cạnh đó, chỉ định nghĩa bao
thanh toán thuần túy là một hoạt động cấp tín dụng thì chưa đầy đủ, bởi khi sử dụng
dịch vụ bao thanh toán, khách hàng còn được cung cấp những chức năng khác nằm
trong gói dịch vụ đó bao gồm : thu nợ, đảm bảo rủi ro tín dụng, và theo dõi khoản
phải thu.Mặt khác, trong luật lệ của FCI có quy định người mua được phép đòi lại
tiền hàng trong trường hợp bên bán hàng không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng, đẩy đủ các điều khoản quy định trong hợp đồng, quy định về bao thanh toán
của Ngân hàng Nhà nước ban hành lại ngược lại...
Thứ hai, Ngân hàng nhà nước cần nghiên cứu xây dựng quy chế hạch toán,
kiểm toán chuẩn mực dành cho hoạt động factoring để tránh trường hợp mỗi ngân
hàng thương mại lại có một phương pháp hạch toán riêng, gây khó khăn cho các cơ
62
quan quản lý theo dõi và đánh giá sự hiệu quả trong hoạt động này. Quy chế hạch
toán kế toán được ban hành cần đầy đủ những điều kiện cơ bản :
- Phù hợp với nguyên lý, chuẩn mực kế toán áp dụng cho tất cả các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kế toán tài chính.
- Đảm bảo tính chặt chẽ và nhất quán khi áp dụng quy chế hạch toán đó vào
thực tế. Thêm vào đó, ngân hàng cũng cần nghiên cứu, giả định các tình huống có
thể xảy ra trong thực tế để bổ sung, sửa đổi vào quy chế khi cần thiết.
- Đảm bảo được sự rõ ràng, mạch lạc khi phản ánh hoạt động bao thanh toán
trên sổ sách kế toán.
- Phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của nhà nước. Do sự phát triển
kinh tế xã hội nhanh chóng, chắn chắn những văn bản hướng dẫn của nhà nước về
hạch toán kế toán hoạt động bao thanh toán không thể phản ánh hết những tình
huống xảy ra trên thực tế. Bởi vậy mà tính mở trong những văn bản này là rất cần
thiết để có thể sửa đổi, bổ sung để theo kịp được với sự phát triển của nghiệp vụ
factoring.
- Quy chế hạch toán kế toán cần phải có tính pháp lý cao khi áp dụng. Đối với
hoạt động bao thanh toán quốc tế, quy chế phải đảm bảo tính phù hợp, thống nhất
với những thông lệ quốc tế và những thỏa thuận mà Việt Nam tham gia.
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với các cơ quan ban ngành để ban
hành những quy định về thuế với hoạt động factoring. Việc ban hành thuế cho hoạt
động này phải đảm bảo vừa khuyến khich các đơn vị cung cấp dịch vụ này tăng
cường hoạt động.
- Việc áp dụng về thuế chuyển nhượng có được áp dụng hay không? Nếu như
được áp dụng thì mức thuế suất bao nhiêu thì hợp lý.
- Tách biệt việc khai thuế hoạt động factoring riêng hay khai cùng với báo cáo
thuế hàng tháng của đơn vị thực hiện nghiệp vụ.
- Do nghiệp vụ này vẫn còn ở trong giai đoạn đang triển khai, cần được
khuyến khích rất lớn từ phía nhà nước, nên cần có những mức độ miễn giảm thuế
trong hoạt động, thời gian được miễn, những điều kiện để có thể được miễn.
63
- Xây dựng các hình thức khen thưởng cho các đơn vị thực hiện tốt những quy
định về thuế, bên cạnh đó là các chế tài xử phạt khi các đơn vị này thực hiện không
đúng theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, cần ban hành những quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của đơn vị thực
hiện nghiệp vụ factoring.
- Các bên mua, bên bán tham gia trong hoạt động cần phải cung cấp những
chứng từ, thông tin gì cho đơn vị cung cấp dịch vụ factoring.
- Mức độ và các hình thức xử lý đối với các sai lệch trong thông tin do bên
mua, bên bán cung cấp và cả những hình thức ưu đãi về mặt quản lý khi các bên
tham gia vào hoạt động factoring nhằm khuyến khích sử dụng dịch vụ này.
- Những thông tin tín dụng như báo cáo tài chính bên mua, bên bán, doanh số
hoạt động factoring, ngành nghề bên mua bên bán... mà các đơn vị thực hiện
factoring phải báo cáo định kỳ cho Ngân hàng Nhà nước.
- Cần có những quy định cụ thể về vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc
thực hiện các nghiệp vụ đảm bảo nhằm thu hồi vốn cho các đơn vị bao thanh toán
khi xảy ra rủi ro trong việc cung cấp dịch vụ này dù đã thực hiện đầy đủ các biện
pháp đảm bảo theo quy định.
- Cần có những quy định về mức độ can thiệp của các cơ quan hữu quan đối
với hoạt động factoring đến đâu.
3.3.1.2. Nâng cao chất lượng hệ thông thông tin tín dụng CIC.
Hiện nay, các ngân hàng, tổ chức tín dụng cung cấp dịch vụ factoring có thể
truy cập thông tin về các doanh nghiệp thông qua website riêng biệt đó là hệ thống
thông tin tín dụng (CIC). Do đó, việc xây dựng mới, hoặc phát triển trung tâm CIC
là một việc làm rất cần thiết cho các đơn vị bao thanh toán. Trung tâm này thực hiện
những chức năng như sau:
- Cung cấp thông tin, đánh giá chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp,
công ty tham gia hoạt động bao thanh toán một cách nhanh chóng và kịp thời.
Những thông tin này bao gồm : Thông tin ngành nghề, địa chỉ kinh doanh của
doanh nghiệp; tình hình hoạt động tài chính của các doanh nghiệp; uy tín thanh
toán, lịch sử giao dịch của các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động đối với các
tổ chức tín dụng, những quy định của nhà nước về hoạt động bao thanh toán.
64
- Tình hình kinh tế xã hội tác động như thế nào tới hoạt động của doanh
nghiệp trong những giai đoạn nhất định.
- Những định hướng phát triển kinh tế của nhà nước trong giai đoạn sắp tới.
Việc cung cấp thông tin này được thực hiện trên cơ sở chọn lọc thông tin do
các tổ chức tin dụng cung cấp để hình thành cơ sở hệ thống dữ liệu. Trung tâm này
phải tạo được sự liên thông trong hoạt động factoring giữa các tổ chức tín dụng.
Trên cơ sở đó, hình thành các liên minh factoring trong nước để thực hiện factoring
cho những khoản phải thu lớn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Việc xây
dựng liên minh factoring không phải trên cơ sở bắt bược, mà trên cơ sở trung tâm
thông tin sẽ là nơi cung cấp thông tin, giới thiệu và là cầu nối để các tổ chức tín
dụng có nhu cầu đồng bao thanh toán hợp tác với nhau. Bên cạnh đó, trung tâm này
cũng có thể làm các chức năng như xử lý tranh chấp trong quá trình thực hiện đồng
bao thanh toán giữa các ngân hàng hay tham mưu cho ngân hàng những định hướng
phát triển hoàn thiện sản phẩm này trong tương lai để phù hợp với định hướng phát
triển kinh tế của đất nước và xu thế kinh tế khu vực, thế giới...
3.3.1.3. Tạo cơ sở hạ tầng cho sản phẩm factoring phát triển.
Trong thời đại hiện nay, cơ sở hạ tầng, đặc biệt công nghệ là yếu tố quan
trọng. Dù hệ thống ngân hàng có những cán bộ nhân viên am hiểu nghiệp vụ và có
năng lực thực hiện nghiệp vụ tốt nhưng không có hệ thống các sản phẩm công nghệ
ưu việt mang tính hỗ trợ cho hoạt động factoring thì không thể làm nên một hệ
thống factoring có chất lượng cao và tiện ích để cung cấp cho khách hàng. Bởi vậy
mà, ngành ngân hàng phải tiến tới hiện đại hóa trong hoạt động, đổi mới công nghệ,
nắm bắt được những cái mới, xu thế của thế giới, nhưng vẫn phù hợp với hoàn cảnh
nước ta để phục vụ tốt hơn cho nền kinh tế. Vấn đề này không phải chỉ làm trong
thời gian ngắn, mà đòi hỏi phải có sự đầu tư lâu dài, và thích đáng.
Để phát triển nghiệp vụ factoring, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần
mạnh dạn đầu tư hệ thống máy móc trang thiết bị hiện đại, đường truyền tốc độ cao,
khả năng tối mật tốt, dung lượng lớn.. Song song với đó, ngân hàng cũng cần tuyển
dụng và bố trí đội ngũ quản trị mạng, quản trị hệ thống máy móc để đảm bảo được
cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động factoring.
65
Các ngân hàng thương mại cũng cần thực hiện các dự án tổng thể kết hợp với
việc mời chuyên gia tư vấn để sao cho việc đầu tư được đồng bộ các chủng loại
trang thiết bị hiện đại khi lắp đặt trong toàn bộ hệ thống ngân hàng.
3.3.1.4. Nâng cao nhận thức về sự cần thiết phải phát triển nghiệp vụ
factoring.
Nhận thức đóng vai trò quyết định trong sự phát triển, bởi vậy, để các dịch
vụ factoring phát triển, trước hết cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của
factoring. Đối với các ngân hàng thương mại, việc đa dạng hóa sản phẩm là một
việc làm hết sức cần thiết để có thể nâng cáo được sức cạnh tranh và vị thế của
mình trên thị trường. Do đó, phổ biến dịch vụ factoring cần được các ngân hàng
xem như là một cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh của mình.
Hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay đều có website riêng,
số lượng các khách hàng doanh nghiệp truy cập vào các website này tương đối lớn.
Để tận dụng lợi thế này nhằm nâng cao nhận thức về hoạt động factoring, các ngân
hàng nên xây dựng được phần giới thiệu ngắn gọn, súc tích, mà vẫn đầy đủ và
truyền tải được những thông tin cơ bản nhất về dịch vụ này như định nghĩa, những
gói dịch vụ, quy trình thực hiện, hồ sơ yêu cầu khi sử dụng dịch vụ,... Trong phần
lợi ích của dịch vụ factoring, các ngân hàng cần nêu bật lên được những lợi ích vượt
trội mà chỉ có dịch vụ bao thanh toán mới có thể đem lại. Để tạo niềm tin đối với
các khách hàng trong thị trường có mức độ cạnh tranh cao như hiện nay, các ngân
hàng cũng có thể đưa những nhận xét, những đánh giá của các khách hàng trước đó
đã sử dụng dịch vụ factoring. Trong phần giới thiệu dịch vụ factoring tới khách
hàng, các ngân hàng cũng nên đính kèm những văn bản pháp lý hiện hành có ảnh
hưởng trực tiếp tới hoạt động factoring nhằm tạo cảm giác tiện lợi nơi khách hàng
khi tìm hiểu về hoạt động này.
3.3.1.5. Xây dựng chiến lược sản phẩm phù hợp với thị trường và chiến
lược marketing hiệu quả cho dịch vụ factoring.
Hiện nay, hầu như sản phẩm factoring của các ngân hàng thương mại đã khá
đa dạng. Tuy nhiên, tại một số các ngân hàng, dịch vụ factoring được cung cấp tới
khách hàng lại chỉ có một hình thức là có truy đòi, chính điều này đã phần nào làm
giảm đi sức hấp dẫn của sản phẩm trong mắt các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh
66
đó, một số ngân hàng cũng chưa cung cấp đầy đủ các chức năng của nghiệp vụ
factoring như bảo hiểm rủi ro bên bán. Đối với hoạt động thương mại quốc tế, gói
dịch vụ factoring bao gồm cả bảo hiểm rủi ro bên bán là một gói dịch vụ rất hấp
dẫn, sẽ được nhiều nhà xuất khẩu lựa chọn bởi do các nhà xuất khẩu thiếu thông tin
bên bán, không đảm bảo được thanh toán sẽ sẵn sàng trả mức phí cao hơn. Điều này
cần nỗ lực rất lớn từ phía ngân hàng trong việc đẩy mạnh mối quan hệ với các đơn
vị bao thanh toán nhập khẩu, cũng như nắm bắt được thị trường xuất khẩu của các
doanh nghiệp.
Bất cứ một sản phẩm mới nào muốn tới được với khách hàng một cách hiệu
quả, đều cần một chiến lược marketing đúng đắn. Tại thị trường Việt Nam, một thị
trường tiềm năng cho hoạt động factoring, nhất là với những năm gần đây cơ cấu
kinh tế dịch chuyển theo hướng tăng trưởng các ngành dịch vụ, sản xuất và kim
ngạch xuất nhập khẩu tăng, thì việc các khách hàng doanh nghiệp chưa biết tới dịch
vụ tiện ích này là một điều đáng tiếc. Đa phần các ngân hàng khi triển khai nghiệp
vụ factoring cũng đã giới thiệu dịch vụ factoring qua website của mình, nhưng
những khách hàng doanh nghiệp vẫn chưa nắm được bản chất của dịch vụ, cũng
như tính ưu việt của dịch vụ so với các phương thức tài trợ cũ, dẫn đến sự ngần ngại
trong việc sử dụng dịch vụ này.
Bởi vậy mà trong thời gian tới, ngân hàng cần xây dựng một chiến lược cụ
thể và được thực hiện triệt để. Trong đó, cần chú trọng những vấn đề như :
Nghiên cứu thị trường :
- Nghiên cứu thị trường để nắm bắt được thói quen và lý do khi khách hàng
lựa chọn ngân hàng. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy sự lựa chọn của khách hàng sựa
vào các tiêu chuẩn như địa điểm,thái độ phục vụ, chất lượng, sự thuận tiện khi giao
dịch, uy tín của ngân hàng. Từ đó, các ngân hàng có thể xây dựng cho mình một
chuẩn mực để có thể làm hài lòng khách hàng một cách tốt nhất.
- Nghiên cứu về khả năng cạnh tranh của ngân hàng, theo đó, tiếp tục phát huy
những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu.
- Dự đoán sự biến đổi, phát triển của thị trường, từ đó xác định cho mình mục
đích cần hướng tới.
67
Do thị trường Việt Nam có mức độ rủi ro cao nên cần lựa chọn ngành hàng
thích hợp để bao thanh toán. Đó là những ngành sản xuất đặc thù như dệt, đồ gỗ,
hàng xa xỉ, vật liệu xây dựng, cao su, hàng kim loại, hàng nhựa, quần áo, giầy dép,
ngành in, xuất bản, chế biến thực phẩm... Bên cạnh đó, các đơn vị bao thanh toán
cũng ưa chuộng những công ty có sổ sách lưu trữ tốt và đã kinh doanh trong nhiều
năm, đối với Việt Nam thì đó là những công ty đã niêm yết trên thị trường chứng
khoán. Các đơn vị bao thanh toán cũng cần tránh những ngành hàng không thích
hợp với dịch vụ bao thanh toán : như hàng lương thực, thực phẩm..., hay những
công ty có số lượng lớn các khách hàng nợ những món tiền nhỏ, những công ty đầu
cơ, những công ty có quản lý yếu kém... Đôi khi, đơn vị bao thanh toán cần thực
hiện kiểm tra với các công ty bên mua hàng, để có thể đánh giá được rủi ro thu hồi
nợ.
Xác định khách hàng mục tiêu:
Các ngân hàng thương mại Việt Nam nên bắt đầu với những khách hàng có
quan hệ giao dịch từ trước vì có thể hiểu rõ hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp đó. Đa số các ngân hàng đều đã có một lượng khách giao dịch trung
thành. Mỗi một dịch vụ có thể hướng tới những đối tượng khách hàng khác nhau,
nên tiêu chí để xây dựng chính sách đối với khách hàng của mỗi dịch vụ sẽ khác
nhau. Đối với nghiệp vụ factoring cũng vậy. Để thực hiện được việc lựa chọn khách
hàng mục tiêu, ngân hàng cần thực hiện những bước sau:
- Xác định đối tượng khách hàng mà ngân hàng có thể thực hiện cung ứng
dịch vụ này. Ngân hàng cần chú ý tới những khách hàng có quan hệ giao thương,
quan hệ mua bán hàng hóa thường xuyên, phát sinh các khoản phải thu và có nhu
cầu về vốn.
- Sau khi đã xác định được đối tượng để cung ứng hàng hóa, bước tiếp theo là
lựa chọn trong số những khách hàng đang hoạt động giao dịch tại ngân hàng và các
khách hàng tiềm năng để lựa chọn ra những khách hàng là đối tượng cụ thể tiếp cận.
Trong nghiệp vụ bao thanh toán có nhiều gói dịch vụ khác nhau, bởi vậy mà tính
chất của khách hàng ở mỗi gói dịch vụ này cũng khác nhau. Ngân hàng cần xác
định được đối tượng nào sẽ được cung cấp gói dịch vụ nào thì phù hợp. Việc lựa
68
chọn này phụ thuộc chủ yếu vào khả năng thu hồi được khoản phải thu, năng lực tài
chính của người mua, tình hình hoạt động trong quá khứ và hiện tại của người bán.
- Việc lựa chọn cụ thể khách hàng mục tiêu còn giúp cho ngân hàng dễ dàng
hơn trong việc lựa chọn cách thức giới thiệu sản phẩm cho người có nhu cầu sử
dụng.
- Trong quá trình nghiên cứu về nghiệp vụ factoring, ta có thể thấy một nghịch
lý trong cách lựa chọn đối tượng cung cấp dịch vụ factoring của ngân hàng. Đó là
đa số các doanh nghiệp nhỏ đều sử dụng phương thức thanh toán ghi sổ. Trong khi
đó, một số các ngân hàng thương mại Việt Nam lại ưu tiên cung cấp dịch vụ
factoring cho các doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên, theo thông lệ quốc tế, nghiệp
factoring được thiết kế để phục vụ các doanh nghiệp có tốc độ nhỏ, tốc độ phát triển
cao. Bởi vậy, để có thể tận dụng khai thác được tối đa thị trường factoring, các ngân
hàng cần triển khai cung cấp dịch vụ cho cả những khách hàng là doanh nghiệp nhỏ,
nhưng có nhu cầu sử dụng dịch vụ và có chiến lược kinh doanh tốt.
Tích cực triển khai các hoạt động quảng cáo:
Muốn sản phẩm này tới được với nhiều khách hàng hơn nữa, các ngân hàng
thương mại cần chủ động tìm đến những khách hàng tiềm năng, giới thiệu cho
khách hàng làm quen với sản phẩm thông qua các phương thức như :
- Bán hàng trực tiếp, quảng cáo trực tiếp tại quầy để sản phẩm bao thanh toán
có thể đến được với khách hàng.
- Gửi thư trực tiếp tới các khách hàng tiềm năng.
- Tổ chức hội thảo về dịch vụ factoring.
- Tận dụng những kênh truyền thông hiệu quả như quảng cáo trên phương tiện
thông tin đại chúng, tổ chức các sự kiện.
- Tổ chức những buổi tọa đàm trực tiếp giữa các đơn vị cung cấp dịch vụ
factoring và các doanh nghiệp đã sử dụng dịch vụ factoring....
- Quảng cáo thông qua các website uy tín mà các doanh nghiệp đang chú ý tới
như doanhnghiepvietnam.com, doanhnghiep24h.net...
Song song với chiến lược quảng cáo hiệu quả, các ngân hàng cũng phải chứng
minh được tính ưu việt của dịch vụ qua sự so sánh với các phương thức khác và
mức độ cạnh tranh giá cả thông qua lãi suất và phí dịch vụ.
69
Ngoài ra, ngân hàng cũng cần thực hiện những chính sách khách hàng linh
hoạt. Ngân hàng cần nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, xây dựng dịch vụ dựa
trên nhu cầu khách hàng. Cùng với việc duy trì mối quan hệ với khách hàng truyền
thống, ngân hàng cần có chính sách để thu hút những khách hàng mới. Một điều
quan trọng nhất trong khi cung cấp dịch vụ ngân hàng là thái độ của các nhân viên
giao dịch, bởi thế, nhân viên giao dịch luôn phải giữ thái độ phục vụ văn minh, tận
tình với khách hàng.
Tóm lại, một chiến lược marketing hiệu quả sẽ không chỉ tạo đà cho dịch vụ
factoring của ngân hàng phát triển mà còn thu hút được khách hàng, nâng cao uy tín
của ngân hàng,từ đó phát triển được các dịch vụ khác.
3.3.1.6.Xây dựng quy trình lựa chọn và kiểm soát rủi ro bên bán và bên
mua khi cung cấp dịch vụ factoring.
Để ký được hợp đồng factoring và duy trì được mối quan hệ lâu dài với các
doanh nghiệp, ngân hàng cần phải lường trước được hết những rủi ro có thể xảy ra
trong quá trình thực hiện nghiệp vụ, phải dự báo được ngân hàng có thể quản lý
được những rủi ro này một cách hiệu quả hay không. Bởi vậy nên một quy trình lựa
chọn và kiểm soát rủi ro bên bán và bên mua trước khi quyết định cung ứng dịch vụ
factoring là rất cần thiết. Điều này phải tiến hành một cách tuần tự và có cơ sở vững
chắc để đi đến kết luận, tránh làm ngân hàng mắc phải những rủi ro gây thiệt hại và
cũng tránh làm mất đi những khách hàng tiềm năng.
(i) Quy trình lựa chọn và kiểm soát rủi ro bên bán gồm những bước sau :
Khảo sát yêu cầu của khách hàng có thể bằng cách gọi điện thoại hoặc yêu
cầu khách hàng điền vào những phiếu cung cấp thông tin.
Tìm hiểu hoạt động kinh doanh : giúp chúng ta nhận biết các nhu cầu của
người bán để bán được sản phẩm và kiểm tra xem đề nghi cung cấp dịch vụ
factoring của khách hàng có phù hợp với các quy định của ngân hàng hay không.
Khảo sát khách hàng : công đoạn này nhằm mục đích kiểm tra lại những
thoogn tin đã thu thập được trước đó có đầy đủ và chính xác hay không, ngoài ra
còn cung cấp thêm thông tin về khách hàng.
Đối chiếu những thông tin thu thập được về khách hàng với những tiêu chí
lựa chọn khách hàng để cung cấp dịch vụ, bao gồm những tiêu chí sau:
70
Tiêu chí 1 : Khoản phải thu thỏa mãn những yếu tố sau:
- có thể chuyển nhượng vô điều kiện.
- có thể thu hồi được từ một người mua uy tín.
- nếu người bán bị phá sản, vẫn có khả năng thu hồi được số tiền từ khoản tài
trợ cho các khoản phải thu.
Tiêu chí 2 : Khả năng phát triển và uy tín của bên bán, đánh giá theo:
- bản thân công ty: loại hình kinh doanh, thời gian hoạt động, cổ động, cam
kết của cổ đông về việc sử dụng và mở rộng khoản mục vốn...
- năng lực quản lý : mô hình quản lý của doanh nghiệp, quyền quản lý tập
trung vào những ai, kinh nghiệm và kỹ năng quản lý.
- tình hình tài chính: công ty kinh doanh có lãi hay không? Khả năng thanh
toán nợ ngăn hạn như thế nào? Công ty có chịu áp lực từ những chủ nợ hay không?
- sản phẩm mà họ cung cấp có uy tín trên thị trường hay không? Có tiềm năng
phát triển hay không?
- lý do cần được tài trợ : để phát triển hoạt động kinh doanh hay bù lỗ? Việc
sử dụng vốn sai mục đích sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng cho bên bán và cho ngân
hàng.
Tiêu chí 3 : dịch vụ thỏa đáng với nhu cầu của khách hàng.
Khách hàng sẽ cảm thấy hài lòng nếu như ngân hàng đưa ra một mức giá phù
hợp. Và thực hiện việc đưa ra mức giá này dựa trên việc xem xét mối tương quan
giữa dịch vụ factoring với dịch vụ tài trợ thương mại khác, và trong mối tương quan
với dịch vụ factoring của các ngân hàng khác. Theo đó, ngân hàng cần phải:
- đưa ra hạn mức bao thanh toán phù hợp.
- mức tín dụng tài trợ hợp lý
- xem xét khả năng thanh toán của bên mua hàng.
Tiêu chí 4 : hiệu quả lợi nhuận mà dịch vụ mang lại.
Hầu hết các ngân hàng chỉ chấp nhận cung cấp dịch vụ factoring cho những
doanh nghiệp đạt doanh số nhất định, đồng thời họ cũng tiến hành kiểm tra số lượng
người mua và số lượng hóa đơn bán hàng liên quan đến doanh số đó. Nếu như
doanh số của doanh nghiệp cao, nhưng số lượng khách hàng và chứng từ mua bán
71
quá nhiều khiến ngân hàng phải tốn nhiều công sức, chi phí xử lý chứng từ và quản
lý khách hàng thì ngân hàng cũng từ chối cung cấp dịch vụ factoring.
Ra quyết định lựa chọn : căn cứ vào giá trị của các khoản phải thu cùng với
những thông tin thu thập để quyết định xem sẽ chấp nhận hay từ chối cung cấp dịch
vụ factoring.
Mặc dù quá trình và tiêu chí lựa chọn khách hàng được xem xét khá kỹ
lưỡng nhưng mối quan hệ giữa ngân hàng và người bán luôn có những thay đổi ảnh
hưởng tới sự tin tưởng giữa hai bên và đây là một tỏng những nguyên nhân gây ra
rủi ro với hoạt động factoring. Do đó, ngân hàng cần quản lý, giám sát sự thay đổi
của bên bán một cách chặt chẽ.
(ii) Quy trình lựa chọn và kiểm soát rủi ro bên mua.
Quy trình lựa chọn và kiểm soát rủi ro từ bên mua gồm những bước sau:
Đánh giá độ tin cậy của người mua : để thực hiện được bước này, ngân hàng
cần thu thập những thông tin về người mua bao gồm:
- Loại hình doanh nghiệp.
- Các thông tin phi kế toán.
- Thông tin về tư cách người mua.
- Thông tin từ các tổ chức đánh giá tín dụng.
- Thông tin từ ngân hàng.
- Thông tin từ CIC.
- Thông tin từ các đối tác kinh doanh.
- Thông tin kế toán gồm báo cáo hoạt động kinh doanh, ...
Quản lý rủi ro khoản phải thu
Chất lượng và tính đa dạng của người mua là một trong những vấn đề mà
ngân hàng cần lưu ý trong vấn đề đánh giá rủi ro của khoản phải thu. Ngân hàng
quyết định có tài trợ hay không và nếu có thì hạn mức phù hợp là như thế nào dựa
trên chất lượng của người mua.
Tính đa dạng của người mua sẽ hạn chế được rủi ro cho ngân hàng trong
trường hợp có xảy ra vỡ nợ. Do vậy, nếu các khoản phải thu chỉ tập trung vào một
số ít người mua thì một cách để quản lý rủi ro hiệu quả là không tài trợ cho phần
vượt quá một mức giới hạn tín dụng an toàn nào đó. Tuy vậy, điều này lại làm giảm
72
khả năng cạnh tranh của ngân hàng nên có thể chấp nhận cung cấp dịch vụ factoring
sau khi đã đảm bảo được những vấn đề sau : sản phẩm của người bán là sản phẩm
có thể bao thanh toán, người mua thực sự đáng tin cậy đã từng có mối quan hệ lâu
dài với người bán, hồ sơ về các khoản phải thu phải chi tiết, đầy đủ; ngân hàng phải
tìm ra được giải pháp thu hồi khoản tiền đã tài trợ trong trường hợp rủi ro xảy ra.
Khi quyết định cung cấp dịch vụ factoring cho khách hàng, ngân hàng luôn
hi vọng họ đã đưa ra một quyết định đúng đắn dựa trên cơ sở thông tin mà ngân
hàng đã thu thập được. Tuy nhiên, tình hình tài chính của người mua lại luôn luôn
thay đổi. Do vậy, việc làm thiết yếu là ngân hàng phải luôn kiểm soát được quá
trình kinh doanh giao dịch của người mua, để có biện pháp thu hồi khoản phải thu
một cách hiệu quả mà vẫn duy trì được quan hệ tốt giữa người mua để từ đó không
làm ảnh hưởng tới quan hệ giữa bên mua bên bán.
Ngân hàng có thể tham khảo những biện pháp thu hồi nợ hiệu quả như sau:
- Thu hồi khoản nợ bằng phương pháp tăng dần cấp bậc: Các ngân hàng sẽ
thương lượng về vấn đề này với từng người có cấp bậc tăng dần trong công ty của
người mua. Dĩ nhiên người chịu trách nhiệm đi thương lượng trong ngân hàng cũng
phải có cấp bậc tương đương. Điều này sẽ giúp giải quyết ổn thỏa vấn đề này hơn
mà vẫn giữ được mối quan hệ với người bán và bày tỏ được sự tôn trọng đối với
công ty của người mua hơn là việc kiện người mua ra tòa.
- Trong trường hợp ngân hàng thấy rằng đó chỉ là khó khăn nhất thời về mặt
dòng tiền mà người mua thực sự có được một chiến lược kinh doanh phát triển rõ
ràng trong tương lai thì ngân hàng có thể xem xét việc gia hạn thời gian thanh toán
khoản nợ đến hạn. Điều này vừa giúp cho người mua vượt qua được khó khăn nhất
thời về mặt tài chính và khoản phải thu sẽ được thu hồi một cách dễ dàng hơn sau
đó mà vẫn tránh dược những tổn thất phát sinh. Tuy vậy, điều này lại đòi hỏi ở các
ngân hàng sự đánh giá kỹ càng tiềm lực của người mua.
- Sau khi gia hạn cho khoản nợ, ngân hàng cần đặt ra lịch trình thanh toán cụ
thể bằng văn bản. Lịch trình thanh toán này không nên quá khắt khe, mà phải phù
hợp với dòng tiền vào của người mua. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn cần cho người
mua thấy được mức độ quan trọng của vấn đề và khuyến cáo bất cứ sự vi phạm nào
73
với lịch trình thanh toán cũng đồng nghĩa với việc toàn bộ khoản nợ chưa trả sẽ đến
hạn thanh toán ngay lập tức.
Có thể nói, việc quản lý và xử lý rủi ro của ngân hàng một cách có hiệu quả
sẽ giúp cho nghiệp vụ factoring hiệu quả hơn. Và nếu như người mua thường xuyên
thất tin, trì hoãn thanh toán những khoản sẽ đến hạn thì ngân hàng thương mại cũng
không nên ngần ngại nhờ tới sự can thiệp của tòa án.
3.3.1.7.Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho dịch vụ
factoring.
Vấn đề con người luôn là yếu tố cốt lõi trong bất cứ hoạt động nào. Hơn
nữa, factoring lại là một dịch vụ vẫn còn khá mới mẻ với các ngân hàng thương mại
Việt Nam. Do đó, việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ và nhân viên thực hiện nghiệp
vụ factoring cần có được sự quan tâm tích cực.
Trong thời gian tới, các ngân hàng cũng cần chủ động đào tạo cho mình một
nguồn nhân lực vững chắc về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như phẩm chất đạo đức
tốt. Các ngân hàng thương mại cũng có thể liên kết với các trường đại học, cao đẳng
khối kinh tế, tài chính, ngân hàng đưa chương trình đào tạo kiến thức về tài trợ
thương mại nói chung và bao thanh toán nói riêng cho sinh viên. Những kiến thức
mới theo xu thế phát triển của thế giới phải luôn được cập nhật trong giáo trình học
và xây dựng thêm những giáo trình mới phù hợp với yêu cầu thực tế công việc tại
các ngân hàng Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, cần phải đưa những tình huống
thực tế vào quá trình giảng dạy nhằm tránh sự chênh lệch giữa kiến thức được học
trong trường và thực tế khi làm việc.
Để có được một đội ngũ làm việc chuyên nghiệp, có chuyên môn không phải
là chuyện dễ dàng đối với các ngân hàng thương mại. Muốn vậy, các ngân hàng cần
phải chú ý những điều sau:
- Sau quá trình tuyển chọn cán bộ nhân viên, các ngân hàng cần bố trí nhân sự
đúng với năng lực chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo để nhân viên có thể phát
huy được hết những kiến thức đã được học, những khả năng của mình. Các ngân
hàng nên mạnh dạn trong việc sử dụng đội ngũ cán bộ nhân viên trẻ nếu họ có năng
lực và tinh thần trách nhiệm với công việc. Tuy nhiên, kinh nghiệm và hoạt động
thực tiễn cũng rất cần được coi trọng.
74
- Đối với những nhân viên đang làm việc trong ngân hàng, cần chú trọng bồi
dưỡng thêm để họ có thể thực hiện tốt công việc được giao. Các ngân hàng thương
mại cần tổ chức các lớp đào tạo cán bộ nhân viên về nghiệp vụ factoring mà các
chuyên viên giàu kinh nghiệm về nghiệp vụ factoring trong và ngoài nước giảng
dạy. Ngoài ra còn có thể hợp đồng với các ngân hàng đại lý để nhân viên có thể tập
sự học hỏi kinh nghiệm hay gửi một số những cán bộ nhân viên có triển vọng, năng
lực đi đào tạo ở nước ngoài, khảo sát thực tế ở các nước áp dụng nghiệp vụ
factoring thành công. Để khuyến khích nhân viên của mình tích cực học hỏi, làm
việc có hiệu quả, các ngân hàng cũng nên phát động những phong trào thi đua.
- Chế độ đãi ngộ hợp lý là một cách thức để khuyến khích nhân viên cống hiến
kiến thức cũng như khả năng của mình vào công việc một cách tích cực nhất. Ngân
hàng cần có chế độ lương thưởng hợp lý theo đúng yêu cầu công việc, tính chất của
công việc để có thể nắm giữ được những cán bộ nghiệp vụ có năng lực và kinh
nghiệm. Bên cạnh đó, cũng cần nghiêm minh xử phạt những cán bộ không hoàn
thành công việc, có thái độ không tích cực với công việc, hay lợi dụng nghiệp vụ
chuyên môn vi phạm pháp luật nhằm thu lợi riêng, ảnh hưởng tới uy tín ngân hàng.
- Định kỳ tổ chức sát hạch, thi nghiệp vụ để có thể lựa chọn được những cán
bộ nhân viên có năng lực, đồng thời thấy được những cán bộ có chuyên môn, năng
lực yếu.
- Chú trọng trang bị cho cán bộ nhân viên ngân hàng trình độ ngoại ngữ nhất
định. Bởi làm việc trong lĩnh vực tài trợ thương mại, ngoại ngữ là một yếu tố hết
sức cần thiết.
3.3.2. Giải pháp hỗ trợ.
3.3.2.1.Hoàn thiện chính sách thương mại.
Chính sách thương mại có ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của hoạt
động factoring. Trong thời gian qua, một loạt sự thay đổi về chính sách thương mại
như thay đổi trong quy định về hoạt động xuất nhập khẩu, thuế quan, hải quan...đã
khiến xác doanh nghiệp không thể thực hiện được kế hoạch kinh doanh một cách
hiệu quả nhất, đặc biệt là những hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Điều này đã
làm ảnh hưởng tới hoạt động của các ngân hàng thương mại, trong đó có hoạt động
factoring. Bởi vậy một chính sách thương mại ổn định, tạo điều kiện cho các doanh
75
nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó mới có thể tạo điều kiện cho nghiệp vụ
factoring phát triển.
Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy rằng cán cân thương mại của Việt Nam luôn
trong tình trạng thâm hụt. Thậm chí theo dự báo của cơ quan thống kê nhà nước,
năm 2011 lại là năm có mức độ thâm hụt cao nhất trong 10 năm trở lại đây, và năm
2012 được dự báo là mức độ thâm hụt lại vẫn có thể tăng lên. Điều này trực tiếp tác
động tới cán cân thanh toán quốc tế, dẫn tới tình trạng khan hiếm ngoài tệ làm ảnh
hưởng tới hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Bởi vậy, song song
với việc ổn định chính sách thương mại, chính phủ cần đề ra những biện pháp cải
thiện cán cân thương mại theo hướng khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu
nhằm ổn định cán cân thanh toán của Việt Nam:
- Đẩy mạnh các hoạt động thương mại với các thị trường rộng lớn, tiềm năng
như Trung Quốc, các nước EU, các nước Asean...
- Thực hiện chính sách hỗ trợ các hàng hóa xuất khẩu như trợ giá, giảm thuế...
- Hạn chế việc nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng mà trong nước có thể sản
xuất, những mặt hàng xa xỉ...
- Tiếp tục duy trì chính sách tỷ giá linh hoạt để khuyến khích xuất khẩu, hạn
chế nhập khẩu song vẫn đảm bảo được sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô.
3.3.2.2. Mở rộng các mối quan hệ đại lý.
So với các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, một khó khăn mà
các ngân hàng thương mại trong nước gặp phải khi triển khai nghiệp vụ factoring đó
là bất lợi về mạng lưới hoạt động. Đa số các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại
Việt Nam đều đã có được mạng lưới ngân hàng hoạt động trên khắp thế giới. Bởi
vậy mà khi cung cấp dịch vụ factoring quốc tế, những ngân hàng này hầu như gặp ít
khó khăn trong quá trình thu thập thông tin người mua ở nước ngoài, cũng như việc
đánh giá và thẩm định khả năng thanh toán của người mua dễ dàng hơn. Từ đó, các
ngân hàng này có thể tránh được rủi ro triệt để hơn so với ngân hàng thương mại
trong nước.
Việc mở chi nhánh ngân hàng ở nước ngoài là một giải pháp rất khó thực
hiện trước khó khăn này bởi sự hạn chế về khả năng tài chính cũng như phải cân
nhắc giữa chi phí bỏ ra và hiệu quả mang lại. Do đó, để hoạt động factoring đạt hiệu
76
quả và có thể phát triển, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần phải mở rộng
quan hệ đại lý vì các lợi ích sau :
- Ngân hàng đại lý sẽ cung cấp dịch vụ và tiện ích về lĩnh vực thanh toán,
cũng như thông tin liên lạc.
- Ngân hàng đại lý sẽ cung cấp thông tin về khách hàng, thị trường ở nơi mà
các ngân hàng thương mại Việt Nam cung cấp dịch vụ factoring.
- Mạng lưới ngân hàng đại lý giúp làm giảm chi phí giao dich, đồng thời rút
ngắn thời gian thực hiện giao dịch từ đó thu hút được khách hàng đến với ngân
hàng.
- Ngân hàng đại lý sẽ có những hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại về kinh
nghiệm, và đào tạo nhân sự.
3.3.2.3. Áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro hiệu quả.
Ngoài việc xây dựng quy trình lựa chọn và kiểm soát rủi ro bên bán và bên
mua hiệu quả, ngân hàng cũng nên có những biện pháp phòng ngừa rủi ro khác. Bởi
rủi ro có thể xảy đến với ngân hàng vì nhiều lý do mặc dù quá trình lựa chọn, thẩm
định đã được xây dựng chặt chẽ.
(i) Thiết lập mối quan hện với các tổ chức tín dụng.
Mối quan hệ giữa ngân hàng với các tổ chức tín dụng là rất cần thiết. Qua
những thông tin của các tổ chức tín dụng, ngân hàng có thể phát hiện được những
điểm bất thường, đặc biệt, ngân hàng có thể loại trừ việc đảo nợ của khách hàng,
dùng lặp các chứng từ hóa đơn và hợp đồng vay vốn. Do đó, khi triển khai hoạt
động này, đối với khách hàng lớn, nhưng lại phức tạp và khó có thể xác định được
mức độ tin tưởng, những thông tin này là hết sức quan trọng.
(ii) Hoạt động kiểm soát nợ.
Ngân hàng cần nâng cao chất lượng tài sản Nợ và Có cũng như khả năng
sinh lời của hệ thống ngân hàng, xử lý nhanh gọn số nợ xấu còn tồn đọng. Để làm
được điều đó, ngân hàng cần xây dựng được một hệ thống kiểm soát nợ và các kỹ
thuật kiểm soát chuyên nghiệp.
(iii) Bảo hiểm cho khoản phải thu đã tiến hành ứng trước.
Ngân hàng cũng có thể tiến hành mua bảo hiểm cho các khoản phải thu, hoặc
trích lập quỹ dự phòng cho các khoản phải thu này. Nếu có rủi ro xảy ra mà ngân
77
hàng không giải quyết được, những tổn thất của ngân hàng do những khoản phải thu
này gây ra sẽ được giảm thiểu
3.3.2.4. Nâng cao chất lượng phục vụ và công tác chăm sóc khách hàng.
Như đã nói ở phần trên, tính chất của ngành ngân hàng là ngành dịch vụ nên
yếu tố chất lượng dịch vụ rất quan trọng để thu hút được khách hàng. Nhất là trong
điều kiện hiện nay, các ngân hàng đang hoạt động và cùng cung cấp dịch vụ
factoring khá nhiều, thì mức độ cạnh tranh lại càng gay gắt. Ngoài cạnh tranh về
yếu tố giá cả, các ngân hàng ngày càng có xu hướng chú trọng đến vấn đề chất
lượng phục vụ.Yếu tố chất lương dịch vụ trước, trong và sau khi giao dịch đóng vai
trò quan trọng trong việc tạo cảm giác cho khách hàng yên tâm, tin tưởng đối với
ngân hàng. Điều này đòi hỏi cán bộ nhân viên ngân hàng phải kiên nhẫn, có khả
năng giao tiếp tốt, để tạo không khí thân thiện, gần hũi, cách thức thu hồi nợ hiệu
quả, tạo mối quan hệ lâu dài.
Công tác chăm sóc khách hàng cũng cần được chú trọng. Sau khi sử dụng
dịch vụ của ngân hàng, ngân hàng cần chú ý duy trì mối quan hệ để mang tới nhiều
lợi ích hơn trong tương lai. Theo như kinh nghiệm trong các hoạt động kinh doanh
khác nói chung, và kinh nghiệm trong hoạt động factoring nói riêng, các ngân hàng
thương mại Việt Nam có thể thực hiện các chương trình tri ân khách hàng của mình
để xây dựng hình ảnh ngân hàng văn minh, thân thiện.
3.4. Kiến nghị nhằm phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng thương
mại Việt Nam.
3.4.1. Những kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước.
3.4.1.1. Thành lập Hiệp hội bao thanh toán Việt Nam.
Trong thời gian sớm nhất, để phát triển nghiệp vụ factoring hiệu quả, Ngân
hàng Nhà nước nên thành lập Hiệp hội bao thanh toán Việt Nam với thành viên là
các đơn vị thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán. Hiệp hội bao thanh toán Việt Nam
được thành lập nhằm mục đích:
- Hướng dẫn các đơn vị thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán hiệu quả.
- Cung cấp thông tin tín dụng, tài chính của các doanh nghiệp.
- Cung cấp thông tin về tình hình bao thanh toán trên thế giới.
78
- Bảo vệ, hỗ trợ đơn vị bao thanh toán trong trường hợp có rủi ro xảy ra.
- Tạo nên một liên minh giữa các đơn vị bao thanh toán, từ đó có thể tiến hành
đồng bao thanh toán nếu như một đơn vị không thể thực hiện được.
Bên cạnh đó, Hiệp hội bao thanh toán Việt Nam cũng cần xây dựng một
website riêng về bao thanh toán để cung cấp những thông tin về hoạt động bao
thanh toán một cách thường xuyên, giúp các doanh nghiệp tìm hiểu sâu rộng hơn về
dịch vụ bao thanh toán một cách dễ dàng, cũng như giúp cho những sinh viên trong
ngành ngân hàng tương lại có điều kiện nghiên cứu.
3.4.1.2. Ngân hàng Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ về giá và
phí cho các bên khi tham gia dịch vụ factoring.
Hoạt động factoring là một hoạt động còn mới mẻ tại Việt Nam. Đứng trước
những hình thức tài trợ thương mại khác đã được các doanh nghiệp và ngân hàng sử
dụng từ nhiều năm nay,dịch vụ factoring rất khó có thể cạnh tranh với các hình thức
tài trợ thương mại ấy về mức độ tin tưởng của các doanh nghiệp. Bởi vậy, để
khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nhiều hơn dịch vụ này, Nhà nước cần có
những chính sách hỗ trợ về giá và phí cho các bên tha gia dịch vụ factoring. Nếu
được hỗ trợ, dịch vụ factoring sẽ trở nên hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp. Tuy
nhiên, Chính phủ cũng cần đưa ra một chính sách hỗ trợ ở mức độ hợp lý, vẫn đảm
bảo được hiệu quả của dịch vụ mà không gây thâm hụt cho nguồn ngân sách nhà
nước.
3.4.2. Những kiến nghị với các ngân hàng thương mại Việt Nam.
3.4.2.1. Thành lập phòng ban chuyên trách cung cấp dịch vụ fatoring.
Hiện nay, nghiệp vụ factoring hầu hết được thực hiện bởi những nhân viên
của phòng tín dụng hoặc phòng nghiệp vụ liên quan. Điều này làm giảm đi hiệu quả
của hoạt động factoring, bởi những nhân viên trực tiếp cung cấp dịch vụ lại không
có thời gian tìm hiểu sâu về dịch vụ và không thể chuyên tâm khi thực hiện nhiều
nghiệp vụ cùng lúc.Hình thức này chỉ thích hợp với hoạt động triển khai sơ bộ ban
đầu, nghĩa là trong giai đoạn làm quen, tìm hiểu về nghiệp vụ factoring, chứ không
khả thi khi ngân hàng muốn thực hiện đẩy mạnh, phát triển lâu dài những nghiệp vụ
này. Bởi vậy, muốn dịch vụ factoring được phát triển, các ngân hàng cần nhanh
chóng thành lập một bộ phận chuyên trách về hoạt động bao thanh toán riêng,
79
phòng bao thanh toán trong cơ cấu tổ chức của ngân hàng mình. Nhờ đó, những
thông tin tín dụng được tiếp cận dễ dàng hơn, chuyên nghiệp hơn; hiệu quả thực
hiện hoạt động cao hơn.
Phòng bao thanh toán trong mỗi ngân hàng có thể bao gồm hững bộ phận
sau:
- Bộ phận tổ chức: bao gồm lãnh đạo, nhân viên hành chính...
- Bộ phận marketing : chịu trách nhiệm giới thiệu, quảng bá dịch vụ tới các
đối tượng khách hàng, giải đáp, tư vấn cho khách hàng, tiếp nhận hồ sơ đề nghị
cung cấp dịch vụ của khách hàng.
- Bộ phận thực hiện nghiệp vụ : là bộ phận chịu trách nhiệm chính trong việc
xét duyệt, thẩm định hồ sơ khách hàng, và thực hiện các nghiệp vụ chuyên môn.
- Bộ phận kế toán : thực hiện các nghiệp vụ liên quan trong lĩnh vực kế toán
trong đó quan trọng nhất là quản lý hồ sơ người mua.
- Bộ phận tham vấn pháp luật : chịu trách nhiệm tư vấn về thủ tục, quy định
pháp lý, đặc biệt khi giao dịch với các đối tác nước ngoài.
3.4.2.2. Mở rộng nguồn vốn cho hoạt động factoring.
Bản chất của dịch vụ factoring là tài trợ thương mại, tài trợ nguồn vốn cho
các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, vốn là nguồn lực cơ bản làm nên sức mạnh tài
chính của các ngân hàng thương mại, quyết đinh tới quy mô, độ an toàn cho các
hoạt động của ngân hàng thương mại. Chính vì vậy, khách hàng rất quan tâm tới
khả năng của ngân hàng trong việc duy trì, đảm bảo mức vốn đầy đủ khi triển khai
hoạt động factoring.
Muốn phát triển dịch vụ factoring, các ngân hàng thương mại cần chú trọng
tới mở rộng nguồn vốn cho hoạt động này bằng cách tích cực huy động tiền gửi
trong dân cư, hay tiến hành cổ phần hóa để có thể tận dụng được nguồn vốn nhàn
rỗi từ khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp...
80
KẾT LUẬN
Với quá trình lịch sử phát triển lâu đời và những ưu việt nhất định, nghiệp vụ
factoring đã trở thành một sản phẩm quan trọng trong hoạt động tài chính ngân hàng
trên thế giới.Nghiệp vụ này không chỉ tạo lợi thế cạnh tranh cho các ngân hàng mà
còn nâng cao hình ảnh của quốc gia có nghiệp vụ này phát triển.
Khi Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại lớn nhất thế
giới WTO, xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế lại càng được coi trọng với một nước
đang phát triển như nước ta. Do vậy, để có thể tồn tại và đứng vững trong môi
trường cạnh tranh khốc liệt hay không đòi hỏi một sự nỗ lực rất lớn từ phía các ngân
hàng thương mại Việt Nam trong việc đổi mới công nghệ, cách quản lý hiện đại...
và quan trọng là nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ. Nghiệp
vụ factoring đã phát triển ở nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, mang lại
nhiều lợi ích cho các quốc gia áp dung nghiệp vụ nhưng ở thị trường Việt nam lại
còn khá mới mẻ. Để kéo gần sự chênh lệnh trong khoảng cách phát triển giữa các
ngân hàng thương mại Việt Nam và các ngân hàng, tổ chức tài chính nước ngoài
trong nghiệp vụ này rất cần có một chiến lược cụ thể trong từng giai đoạn và sự
phối hợp đồng bộ giữa các bộ ngành liên quan. Thách thức đặt ra cho các ngân hàng
thương mại Việt Nam hiện nay là tìm một hướng đi riêng phù hợp với thị trường tài
chính Việt Nam nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp dịch vụ factoring tốt nhất.
Với ý nghĩa thiết thực này, khóa luận đã thu hoạch được một số kết quả sau:
- Nghiên cứu, hệ thống những cơ sở lý luận về nghiệp vụ factoring.
- Đánh giá thực trạng và những kinh nghiệm áp dụng nghiệp vụ factoring trên
thế giới, từ đó rút ra những bài học có thể áp dụng vào thị trường factoring Việt
Nam.
- Xây dựng cái nhìn toàn cảnh về nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam. Trên cơ sở đó đánh giá chung về tình hình phát triển nghiệp
vụ này, chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế vẫn còn tồn tại và nguyên
nhân của những hạn chế này.
- Đề xuất một số những giải pháp có thể áp dụng,một số những kiến nghị tới
Ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mạinhằm phát triển dịch vụ factoring
tại Việt Nam.
81
Em hi vọng những vấn đề đã trình bày trong khóa luận đã phần nào mang lại
một cái nhìn tổng quan về bản chất, nội dung, lợi ích và thực trạng hoạt động
factoring tại Việt Nam và trên thế giới. Hi vọng rằng trong tương lai không xa, với
một thị trường đầy tiềm năng và hứa hẹn như Việt Nam, nghiệp vụ factoring sẽ từng
bước được hoàn thiện, trở thành một nghiệp vụ chủ lực của các ngân hàng thương
mại và một công cụ tài chính hỗ trợ đắc lực cho hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp Việt Nam.
82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Đào Văn Chung, 2005, Rủi ro trong hoạt động bao thanh toán và biện pháp
phòng ngừa, Tạp chí Tài chính tiền tệ, ngày 15/7/2005.
2. GS.NGƯT. Đinh Xuân Trình, 2011, Giáo trình Thanh toán quốc tế, NXB
Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
3. TS. Đặng Thị Nhàn, 2007, Cẩm nang về nghiệp vụ bao thanh toán Factoring và
Forfaiting trong tài trợ thương mại quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội.
4. Minh Đức, Hệ số CAR các ngân hàng Việt Nam đảm bảo yêu cầu mới của
Basel, Kinh tế Việt Nam,tháng 9/2010
5. Minh Thúy, Ngân hàng thương mại chạy đua tăng vốn điều lệ, Báo Pháp luật
Thành phố Hồ Chí Minh, số ra 1/2010.
6. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2010, Luật các tổ chức tín dụng 2010.
7. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, 2004, Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN về
Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng, Hà Nội.
8. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, 2005, Văn bản hướng dẫn số 676/NHNN-CSTT
về cơ cấu lại thời gian trả nợ, chuyển nợ quá hạn đối với hoạt động bao thanh
toán của tổ chức tín dụng, Hà Nội.
9. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2008, Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN để
sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN về Quy chế
hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng, Hà Nội.
10. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2011, Định hướng phát triển dịch vụ ngân
hàng giai đoạn 2011-2015, Hà Nội.
11. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Báo cáo thường niên, 2011.
12. Ngân hàng Á Châu, 2006, Tài liệu tập huấn bao thanh toán.
13. Nguyễn Quỳnh Lan, 2009, Nghiệp vụ bao thanh toán – Factoring, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
14. Nguyễn Thị Mùi, 2008, Quản trị ngân hàng thương mại,NXB Tài chính, Hà
Nội.
15. Nguyễn Thị Thanh Tuyền, 2003, Marketing căn bản, NXB Giáo dục Hà Nội.
83
16. PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến,2005, Thanh toán quốc tế và tài trợ ngoại thương,
NXB Thống kê.
17. Tô Ngọc Hưng, 2009, Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, Hà Nội
18. Trần Hoàng Ngân – Nguyễn Thị Thùy Linh, 2006, Bao thanh toán Factoring
một hình thức tín dụng mới tại Việt Nam.
19. Trần Thị Kim Thanh, Giải pháp nào cho việc mở rộng bao thanh toán tại Việt
Nam ? , Tạp chí ngân hàng, 11/6/2007.
TIẾNG ANH
1. ABFA,2011,ABFA Quarterly statistic 2011
2. FCI, 2011,Annual Review 2011.
3. FCI, 2011,Introduction to International Factoring.
4. FCI,2011, World Factoring Yearbook 2011, BCR Publishing, Holland.
5. Jeff Callender, 2008, Factoring Wisdom.
6. Leora Klapper, The determinants of Global Factoring.
7. Marie H.R.Bakker, Leora Klapper, Undell, G.P, 2004, Finance SMEs with
factoring : Global growth in factoring and its potential in Eastern Europe,
Working Paper, The World Bank, Edition I, Poland.
MỘT SỐ WEBSITE
1. http://www.abfa.org.uk/statistics/ABFAStatsQ12011.pdf
2. http://www.fci.nl/about-fci/statistics/total-factoring-volume-by-
country-last-7-years
3. http://www.fci.nl/about-fci/statistics/accumulative-factoring-
turnover-fci-members
4. http://www.vnbaorg.info/ao-to-tuyn-dng/ao-to/1578-nhng-thay-
i-ch-yu-ca-lut-cac-t-chc-tin-dng-nm-2010-
5. http://www.vietcombank.com.vn/Corporates/Factoring/
6. http://vneconomy.vn/20100525051055112P0C6/nang-yeu-cau-
ty-le-an-toan-von-ngan-hang-len-9.htm