31
1. Khái niệm vận đơn đường biển Vận đơn đường biển (Bill of Lading, Ocean Bill of Lading) là chứng từ chuyên chở hàng hóa do người chuyên chở hay đại diện của người chuyên chở cấp phát cho người gửi hàng sau khi hàng hoá được xếp lên tàu hay sau khi nhận hàng để chở. Người cấp vận đơn là người chuyên chở, chủ tàu, người thuê lại tàu để kinh doanh và khai thác tàu, thuyền trưởng hay đại lý của người chuyên chở. Thời điểm cấp vận đơn là sau khi hàng hoá được xếp lên tàu (Shipping on board) hay sau khi nhận hàng để xếp lên tàu (Received for Shipment). Chữ ký trên vận đơn: Khi cấp vận đơn, người chuyên chở, chủ tàu hay người đại diện của họ phải kí vào vận đơn và ghi rõ tư cách pháp lý. Hình thức vận đơn truyền thống: Vận đơn thường được phát hành theo các bản gốc (Original) và các bản sao (Copy). Một bộ vận đơn bao gồm từ một đến ba vận đơn gốc giống nhau và số lượng bản sao phụ thuộc vào mục đích sử dụng của người gửi hàng. Muốn nhận được hàng, người nhận hàng phải xuất trình vận đơn gốc. 2. Chức năng vận đơn đường biển Vận đơn đường biển có 3 chức năng quan trọng sau: Là bằng chứng xác nhận hợp đồng chuyên chở hàng hoá bằng đường biển đã được kí kết. Là biên lai nhận hàng để chở của người chuyên chở. Là chứng từ xác nhận quyền sở hữu hàng hoá ghi trên vận đơn 3. Phân loại vận đơn đường biển Dựa vào đặc đIểm của hành trình, tình trạng hàng hoá, ghi chú nhận xét ghi trên vận đơn…. có thể phận loại như sau: • Căn cứ vào khả năng lưu thông: Vận đơn đích danh (Straight B/L), vận đơn vô danh (Bearer B/L) và vận đơn theo lệnh (To order B/L) • Căn cứ vào việc ghi chú trên vận đơn: Vận đơn hoàn hảo (Clean B/L) và vận đơn không hoàn hảo (Unclean B/L) • Căn cứ vào việc xếp hàng: Vận đơn đã xếp hàng (Shipped on board B/L) và vận đơn nhận hàng để xếp (Received for Shipment). • Căn cứ vào qui trình vận tải: Vận đơn đi thẳng (Direct B/L), vận đơn chở suốt (Through B/L) và vận đơn chuyển tải liên hợp (Combined Transport B/L) • Căn cứ vào việc đơn giản hoá chứng từ: Vận đơn đường biển (Ocean B/L) và Giấy gửi hàng đường biển (Sea waybill) 4. Nội dung vận đơn đường biển Vận đơn thông thường bao gồm hai mặt: Mặt thứ nhất bao gồm các cột, các mục để trống để người gửi hàng và người chuyên chở điền các chi tiết liên quan tới: thông tin về người gửi hàng,

Một số vấn đề với vận đơn đường biển

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

1. Khái niệm vận đơn đường biểnVận đơn đường biển (Bill of Lading, Ocean Bill of Lading) là chứng từ chuyên chở hàng hóa do người chuyên chở hay đại diện của người chuyên chở cấp phát cho người gửi hàng sau khi hàng hoá được xếp lên tàu hay sau khi nhận hàng để chở.Người cấp vận đơn là người chuyên chở, chủ tàu, người thuê lại tàu để kinh doanh và khai thác tàu, thuyền trưởng hay đại lý của người chuyên chở.Thời điểm cấp vận đơn là sau khi hàng hoá được xếp lên tàu (Shipping on board) hay sau khi nhận hàng để xếp lên tàu (Received for Shipment). Chữ ký trên vận đơn: Khi cấp vận đơn, người chuyên chở, chủ tàu hay người đại diện của họ phải kí vào vận đơn và ghi rõ tư cách pháp lý.Hình thức vận đơn truyền thống: Vận đơn thường được phát hành theo các bản gốc (Original) và các bản sao (Copy). Một bộ vận đơn bao gồm từ một đến ba vận đơn gốc giống nhau và số lượng bản sao phụ thuộc vào mục đích sử dụng của người gửi hàng. Muốn nhận được hàng, người nhận hàng phải xuất trình vận đơn gốc. 2. Chức năng vận đơn đường biểnVận đơn đường biển có 3 chức năng quan trọng sau:Là bằng chứng xác nhận hợp đồng chuyên chở hàng hoá bằng đường biển đã được kí kết. Là biên lai nhận hàng để chở của người chuyên chở. Là chứng từ xác nhận quyền sở hữu hàng hoá ghi trên vận đơn3. Phân loại vận đơn đường biển Dựa vào đặc đIểm của hành trình, tình trạng hàng hoá, ghi chú nhận xét ghi trên vận đơn…. có thể phận loại như sau:• Căn cứ vào khả năng lưu thông: Vận đơn đích danh (Straight B/L), vận đơn vô danh (Bearer B/L) và vận đơn theo lệnh (To order B/L) • Căn cứ vào việc ghi chú trên vận đơn: Vận đơn hoàn hảo (Clean B/L) và vận đơn không hoàn hảo (Unclean B/L) • Căn cứ vào việc xếp hàng: Vận đơn đã xếp hàng (Shipped on board B/L) và vận đơn nhận hàng để xếp (Received for Shipment). • Căn cứ vào qui trình vận tải: Vận đơn đi thẳng (Direct B/L), vận đơn chở suốt (Through B/L) và vận đơn chuyển tải liên hợp (Combined Transport B/L) • Căn cứ vào việc đơn giản hoá chứng từ: Vận đơn đường biển (Ocean B/L) và Giấy gửi hàng đường biển (Sea waybill) 4. Nội dung vận đơn đường biểnVận đơn thông thường bao gồm hai mặt: Mặt thứ nhất bao gồm các cột, các mục để trống để người gửi hàng và người chuyên chở điền các chi tiết liên quan tới: thông tin về người gửi hàng,

Page 2: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

người nhận hàng, địa chỉ thông báo, tàu và hành trình tàu, chi tiết về hàng hoá, tên vận đơn, số lượng vận đơn, nơi và ngày cấp vận đơn, chữ lý của người cấp vận đơn v.v…Mặt thứ hai bao gồm: các định nghĩa, khái niệm; qui định về trách nhiệm của người chuyên chở; cước phí; những qui định liên quan tới việc xếp, dỡ, bảo quản hàng hoá; qui định về tổn thất chung v.v…. Mặt này được in sẵn ở mỗi tờ vận đơn. 5. Nguồn luật điều chỉnh vận đơn đường biểna) Các Công ước quốc tếMặc dù mỗi hãng tàu đều phát hành mẫu vận đơn của riêng mình, song về mặt pháp lý, tất cả các vận đơn đường biển được phát hành liên quan tới vận chuyển hàng hóa bằng đường biển đều do các Công ước quốc tế về vận đơn đường biển và vận tải biển. Cho đến nay các Công ước này bao gồm: • Công ước quốc tế để thống nhất một số qui tắc về vận đơn đường biển, ký kết tại Brussel năm 1924 (The international Convention for Reunification of Certain Rules Relating to Bill of Lading), gọi tắt là Công ước Brussel 1924. Công ước này còn có tên gọi là Qui tắc Hague, đã có hiệu lực từ năm 1931 và cho tới nay đã có gần 90 nước tham gia. • Nghị định thư sửa đổi năm 1968, sửa đổi Công ước Brussel 1924, có hiệu lực từ ngày 23/6/1977, cùng với Quy tắc Hague tạo thành Quy tắc Hague- Visby. • Nghị định thư SDR năm 1979 sửa đổi Công ước Brussel. • Công ước của Liên Hợp Quốc về chuyên chở hàng hoá bằng đường biển, ký kết tại Hamburg năm 1978 (The UN Convention on the Carriage of Goods by Sea), gọi tắt là Công ước Hamburg hay Quy tắc Hamburg. Công ước này đã có hiệu lực từ ngày 1/1/1992, sau khi có đủ 20 nước phê chuẩn và gia nhập.

b) Bộ luật Hàng hải Việt Nam.Tại Việt Nam, nguồn luật điều chỉnh vận đơn đường biển là Luật Hàng hải Việt Nam được ban hành vào ngày 30 tháng 06 năm 1990 và có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 1991. Về cơ bản, Luật Hàng hải giống Qui tắc Hague- Visby 6. Nhược điểm của vận đơn đường biểnTốc độ gửi vận đơn gốc chậm hơn hàng hóa : Ngày nay, do sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong ngành vận tải biển, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của vận tải container nên tốc độ chuyên chở hàng hoá trong thương mại quốc tế rất nhanh chóng. Trong rất nhiều trường hợp, hành trình của vận đơn theo đường hàng không hay đường bưu điện chậm hơn rất nhiều so với hành trình trên biển của hàng hóa. Do đó, người nhận hàng không có vận đơn để

Page 3: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

nhận hàng, đồng thời phải mất thêm chi phi lưu kho, lưu bãi. Trong một số trường hợp người nhận hàng muốn nhanh chóng lấy hàng do tính thời vụ của hàng hoá thì họ phải đến ngân hàng xin bảo lãnh để được nhận hàng. Để có thế được bảo lãnh, người nhận hàng phải đặt cọc hay vay ngân hàng tiền, do vậy, họ lại phải chịu thêm chi phí vay tiền bảo lãnh. Như vậy, đôi khi, vận đơn lại cản trở, làm chậm lại sự phát triển của thương mại quốc tế.Sử dụng vận đơn đường biển rất tốn kém. Thứ nhất, chi phí in ấn và phát hành vận đơn không nhỏ bởi vận đơn được in thành nhiều bản gốc và bản sao, và mỗi lần gửi hàng là một lần phát hành vận đơn. Thứ hai, do vận đơn có tính tiêu chuẩn không cao, mỗi hãng tàu đều phát hành một loại vận đơn khác nhau, do vậy, sử dụng vận đơn lại phải mất thêm chi phí lưu trữ. Theo số liệu của WTO, tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1996 đạt 10.380 tỉ đô la Mỹ, trong đó chi phí cho vận đơn là gần 7 %.Sử dụng vận đơn phải sử dụng bản gốc, do đó không áp dụng được những thành tựu của công nghệ tin học, trong khi đó vận chuyển hàng hoá bằng đường biển lại chiếm hơn 80% số lượng hàng hóa trong thương mại quốc tế. Do vậy, vận đơn đường biển cùng một loạt các chứng từ khác trong thương mại quốc tế trở thành trở ngại và tốn kém trong xu thế nên thương mại quốc tế không cần chứng từ. 7. Sử dụng vận đơn truyền thống trong thanh toán quốc tếTrong thương mại truyền thống, như chúng ta đã biết thông thường người gửi hàng sẽ nhận được bản vận đơn bằng giấy do người chuyên chở phát hành sau khi hàng hoá được xếp lên tàu hoặc hàng hoá đã được nhận để chở. Để thu tiền theo phương thức thư tín dụng (L/C), người gửi hàng sẽ ký hậu vận đơn cho ngân hàng ở nước của người xuất khẩu (ngân hàng thông báo, ngân hàng xuất trình…). Ngân hàng này thông thường là do ngân hàng phát hành tín dụng thư (ngân hàng của người nhập khẩu) chỉ định. Sau khi kiểm tra vận đơn, ngân hàng ở nước người xuất khẩu sẽ ký hậu cho ngân hàng phát hành đồng thời với việc nhận tiền hàng, và ngân hàng phát hành cuối cùng sẽ chuyển vận đơn cho người mua. Vì vận đơn là một chứng từ có thể chuyển nhượng được nên ngân hàng có thể giữ chứng từ này như một sự bảo đảm cho các khoản tín dụng cấp cho nhà nhập khẩu. Khi hàng hoá tới cảng đến, người mua xuất trình vận đơn gốc cho người chuyên chở để nhận hàng.Mục tiêu của việc thay thế hệ thống vận hành vận đơn vốn từ lâu đã đi vào quy củ này là phải giữ được những chức năng truyền thống của vận đơn mà thay thế hình thức tồn tại trên giấy tờ của nó. Một số chức năng của vận đơn truyền thống có thể dễ dàng được thay thế bởi vận đơn điện tử vì đó chỉ đơn giản là sự thay đổi hình thức trao đổi thông tin từ giấy tờ sang dữ liệu điện tử. Tuy nhiên, để thực hiện được chức năng là chứng từ sở hữu hàng hoá, vận đơn điện tử phải được xây dựng trên một cơ sở kỹ thuật khả thi và đáng

Page 4: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

tin cậy. 3.2.2.1. Khái niệm Vận đơn điện tử3.2.2.1. Khái niệmVận đơn đường biển điện tử là một thông điệp điện tử có nội dung và cấu trúc theo những tiêu chuẩn thống nhất được chuyển từ nơi này sang nơi khác thông qua hệ thống điện tử viễn thông mà không có sự can thiệp của phương thức lưu chuyển cơ học để thay thế cho vận đơn giấy trong hoạt động vận tải.Trên thế giới đã từng có 3 loại vận đơn đường biển điện tử: SEADOCS- Seaborne trade Documentation System- hệ thống chứng từ thương mại hàng hải; vận đơn đường biển điện tử theo qui tắc của CMI (Comité Maritime International: Uỷ ban hàng hải quốc tế); và vận đơn Bolero. Tuy nhiên hiện nay hầu hết các vận đơn đường biển điện tử được sử dụng là vận đơn Bolero do hai loại vận đơn trên có một số nhược điểm vẫn chưa được khắc phục. Vận đơn Bolero ban đầu hình thành là để sử dụng giữa các nước Châu Âu với nhau, song hiện tại đã được Bắc Mĩ và Nhật Bản. 3.2.2.2. Đặc điểm của vận đơn đường biển điện tửChứng từ vận tải điều chỉnh mối quan hệ giữa người gửi hàng và người chuyên chở trong phương thức thuê tàu chợ truyền thống là vận đơn đường biển. Khi thực hiện phương thức thuê tàu chợ trong thương mại điện tử thì người gửi hàng được cấp một vận đơn đường biển điện tử thông qua mạng. Vận đơn đường biển điện tử có giá trị pháp lý và chức năng như vận đơn truyền thống. Tuy nhiên, vận đơn đường biển điện tử có một số điểm khác biệt về hình thức, nội dung và nguồn luật điều chỉnh so với vận đơn truyền thống như sau:

So sánh vận đơn truyền thống và vận đơn đường biển điện tửVận đơn truyền thống (VĐTT) Vận đơn đường biển điện tử (VĐ ĐT)

Hình thức VĐTT thường được các công ty vận tải in sẵn theo mẫu riêng gồm hai mặt. Một bộ vận đơn thông thường bao gồm 3 bản vận đơn gốc và các bản copy VĐ ĐT là một thông điệp điện tử, do vậy nó không có khái niệm mặt trước, mặt sau. VĐ ĐT chỉ có một bản chứ không phát hành 3 bản gốc như VĐTT

Page 5: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

Nội dung Mặt thứ nhất của VĐTT ghi các thông tin về người gửi hàng, người chuyên chở, tàu chuyên chở và hàng hóa được chuyên chở. Mặt thứ hai in các điều khoản chung qui định quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan VĐ ĐT có đầy đủ nội dung của một vận đơn đường biển mặc dù nó không chia thành mặt trước, mặt sau. Những qui định chung về quyền và nghĩa vụ của các bên được qui định riêng tại mục “Điều khoản và điều kiện” tách rời bản ghi nội dung của VĐ ĐT Ngoài ra, VĐ ĐT còn có một số yếu tố khác như mật khẩu, mã khoá v.v…nhằm đảm bảo an toàn và tính bảo mật của VĐ ĐT

Nguồn luật điều chỉnh Hiện nay tồn tại 3 nguồn luật điều chỉnh VĐTT: 1. Công ước Brussel 1924 và 2 nghị định thư sửa đổi vào năm 11968 và vào năm 1979 2. Công ước Hamburg 1978 3. Quy tắc Hage-Visby 4. Luật điều chỉnh hoạt động chuyên chở hàng hoá của các nước. Tuỳ thuộc vào loại VĐ ĐT mà có nguồn luật điều chỉnh, tuy nhiên trên thực tế có 3 nguồn luật điều chỉnh: 5. Incoterms 2000 6. Qui tắc CMI 7. Qui tắc về vận đơn Belero 8. Luật điều chỉnh hoạt động chuyên chở hàng hoá của các nước.

+ Nội dung của Vận đơn Bolero (B.B/L): có nội dung cơ bản giống như vận đơn truyền thống do người chuyên chở cấp cho người gửi hàng. B.B/L có thể bị ghi chú sạch hay không sạch (clean or unclean), hàng đã xếp lên tàu hay nhận để xếp phù hợp với tập quán hàng hải quốc tế. B.B/L có thể bao gồm các điều khoản và điều kiện chung của người chuyên chở. + Điểm khác biệt so với vận đơn truyền thống là B.B/L không có phần ghi tên người chuyên chở, người gửi hàng, những người được chuyển nhượng khác, đồng thời người chuyên chở không trực tiếp ký vào B.B/L mà ký bằng chữ ký kỹ thuật số vào bức thông điệp trong đó có chứa B.B/L khi người chuyên chở gửi đến trung tâm xử lý B.B/L. Một số ưu điểm của Vận đơn điện tử+ Tiết kiệm thời gian : Phương thức lưu chuyển vận đơn truyền thống thường kéo dài nhiều ngày thậm chí là nhiều tuần, tuỳ thuộc vào khoảng cách địa lý giữa các bên và tốc độ kiểm tra chứng từ của các ngân hàng. Trong nhiều trường hợp khi quãng đường chuyên chở hàng hoá không dài cộng thêm việc tốc độ chuyên chở ngày càng nhanh chóng, hàng hoá đến cảng trước khi vận đơn được chuyển cho người nhận hàng, do đó người

Page 6: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

nhận hàng không có vận đơn để nhận hàng từ người chuyên chở. Với vận đơn đường biển điện tử, việc lưu chuyển chỉ mất vài giờ, do vậy, người nhận hàng luôn được đảm bảo vận đơn đến trước hàng hoá. Trong thời đại ngày nay, việc tiết kiệm thời gian là vô cùng quan trọng, nhất là đối với các mặt hàng mang tính mùa vụ nên việc sử dụng vận đơn đường biển điện tử có ý nghĩa rất quan trọng.+ Tiết kiệm chi phí: Vận đơn đường biển điện tử là các bản ghi điện tử do đó, việc tạo lập, sử dụng, lưu chuyển hay xuất trình đều được tiến hành thông qua hệ thống điện tử viễn thông. Điều này đã giúp người sử dụng vận đơn cũng như những người liên quan khác tiết kiệm được chi phí in ấn, phát hành và lưu trữ vận đơn.+ Bảo mật: Khi tạo lập vận đơn đường biển điện tử, người lập sẽ được cấp mă khoá kép mà chỉ có người chủ sở hữu vận đơn, người chuyên chở và các cơ quan trung gian trong việc lưu chuyển vận đơn đường biển điện tử là nắm được mã khoá cũng như nội dung của vận đơn, do vậy đảm bảo được tính bảo mật của vận đơn. Trong khi đó, những thông tin của vận đơn truyền thống dễ bị lộ hơn nữa khi bị thất lạc, điều này không bao giờ có thể xảy ra đối với vận đơn đường biển điện tử.+ Phù hợp với xu thế phát triển của khoa học kỹ thuật: Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang bùng nổ trên khắp thế giới đặc biệt là cuộc cách mạng về công nghệ thông tin với các phương tiện điện tử như Internet, Fax, trao đổi dữ liệu điện tử EDI. đã và đang tác động và làm thay đổi cuộc sống của con người theo hướng ngày càng nâng cao điều kiện sống và sinh hoạt. Trong khi đó nếu sử dụng vận đơn truyền thống sẽ không ứng dụng được những thành tựu của công nghệ tin học. Do vậy, vận đơn đường biển điện tử ra đời đã đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và phù hợp với xu thế phát triển khách quan của thời đại. 3.2.2.3.. Nguồn luật điều chỉnh vận đơn đường biển điện tử i. Incoterms2000ICC đã tiên liệu sự phát triển của EDI và đưa ra các qui tắc diễn giải mới. Điều 8A và 8B Incoterms 2000 đề cập tới giá trị hiệu lực của thông tin điện tử: “ở nơi nào người mua và người bán thoả thuận liên lạc bằng điện tử thì có thể dùng thoả thuận trao đổi dữ liệu điện tử (electronic data interchange agreement) có giá trị tương đương thay cho chứng từ thông thường.Vì thế các bên cần phải thoả thuận sẽ sử dụng các thông điệp điện tử thay thế các chứng từ vận tải thông thường trong đó bao gồm cả vận đơn truyền thống. ii. Qui tắc của CMI đối với vận đơn đường biển điện tử Điểm đáng chú ý của qui tắc này là áp dụng đối với vận đơn phải được kiểm tra. Những qui tắc này đã được tổ chức CMI soạn thảo tại Paris vào tháng 6/

Page 7: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

1990. Và các qui tắc của CMI không mang tính chất bắt buộc. Do vậy, các bên phải thoả thuận các qui tắc này và trên cơ sở đó thống nhất với hợp đồng chuyên chở. Điều 1 nêu rõ: “ Qui tắc này áp dụng bất kỳ lúc nào các bên chấp nhận.” Nếu các bên quyết định chuyển từ vận đơn CMI sang vận đơn giấy tờ thì mã khoá riêng sẽ mất hiệu lực.Điểm mấu chốt của qui tắc CMI chính là sự ra đời của vận đơn đường biển điện tử. Các qui tắc này không nhằm mục đích điều chỉnh về EDI nói chung và vận đơn nói riêng trên cơ sở toàn diện. Do đó, các qui tắc này không nhằm để thay thế luật thực chất áp dụng cho vận đơn. iii. Quy tắc Bolero. Tuỳ thuộc vào loại vận đơn đường biển điện tử mà có nguồn luật điều chỉnh như khi sử dụng vận đơn Bolero thì sẽ phải theo các qui tắc do Bolero International Limited đưa ra (Bolero rulebook - chủ yếu cũng dựa trên qui tắc của CMI). 3.2.2. Quy trình sử dụng Vận đơn điện tử Thông thường, quy trình xử dụng hệ thống điện tử để thuê tàu được tiến hành như sau:i. Đăng ký khách hàng (Customer Registry)Trước khi tiến hành đăng ký thuê khoang tàu thì người gửi hàng phải đăng ký mã tài khoản khách hàng (Customer ID) với hãng tàu. Sau khi vào trang web của một hãng tàu mà người gửi hàng muốn thuê lưu cước, chọn nút “ Registry”. Sau đó, trên trang chủ sẽ hiện ra trang đăng ký khách hàng. Người gửi hàng điền các thông tin cá nhân vào mẫu đăng ký và gửi nó bằng cách nhấn chuột vào nút “OK”. Sau khi kiểm tra lại các thông tin đã điền, nhấn chuột vào nút “Submit” để hoàn thành việc đăng ký. Sau 48 tiếng, hãng tầu sẽ thông báo kết quả đăng ký cùng với hướng dẫn tải (download) chứng chỉ kỹ thuật số (digital certificate). ii. Đăng ký thuê lưu cước tàu trực tuyến (Online booking)Sau khi nhập mã tài khoản khách hàng (Customer ID), nhấn chuột vào nút Bookings. Sau đó, người gửi hàng tiến hành tạo một tờ khai thuê lưu cước mới thông qua nút “Create Booking”.- Trang “Create Booking” bao gồm 4 mục:+ Booking homepage+ Booking Details (Thông tin trên tờ lưu cước)+ Cargo Details (Chi tiết về hàng hoá)+ Finish (Hoàn thành việc đăng ký)- Người gửi hàng sử dụng các mục: Booking Details, Cargo Details và Finish để hoàn thành việc gửi giấy thuê lưu cước.Ngoài những chi tiết cần điền giống như giấy lưu cước trong phương thức thuê tàu chợ truyền thống, thì những chi tiết trong phương thức này còn bao gồm:

Page 8: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

+ Địa chỉ e-mail của các bên + Những số tham chiếu (Reference Numbers) do hãng tàu áp cho từng người gửi hàng và từng lần gửi hàng.+ Mã con tàu - Sau khi điền đầy đủ thông tin ở hai mục Booking Details và Cargo Details, người gửi hàng nhấn chuột vào nút “Finish” để hoàn thành. Sau khi kiểm tra lại các thông tin đã điền, nhấn chuột vào nút “Send” để gửi giấy thuê lưu cước. iii. Hãng tàu sẽ trả lời yêu cầu thuê lưu cước trong vòng 48 giờ làm việc, cùng các chi tiết hướng dẫn việc vận chuyển hàng ra cảng. iv. Người gửi hàng theo đúng hướng dẫn của hãng tàu, vận chuyển hàng ra cảng và giao cho người chuyên chở. v. Người chuyên chở nhận hàng, kiểm tra. Sau đó gửi bức thông điệp tới hệ thống Bolero để yêu cầu tạo lập vận đơn đường biển điện tử. Người gửi hàng sẽ nhận được vận đơn điện tử thông qua hệ thống Bolero. 3.2.3. Những vấn đề cần lưu ý khi áp dụng thương mại điện tử trong vận tải, giao nhận+ Chữ ký trong vận đơn đường biển điện tử Vận đơn đường biển điện tử được ký bởi đại diện của người chuyên chở tại cảng xếp hàng. Khi đó xác nhận được số lượng và tình trạng của hàng hoá xếp lên tàu, chủ tàu hoặc đại diện của chủ tàu cũng có tư cách pháp lý để kí vận đơn. Một vận đơn đôi khi cũng được ký hậu cho bên thứ ba trong quá trình chuyên chở. Vì vậy khi sử dụng vận đơn điện tử, tất yếu chúng ta phải sử dụng chữ kí điện tử.Khi sử dụng vận đơn điện tử, người gửi hàng sẽ có mã khoá kép để đảm bảo tính bảo mật. Khi đó, người gửi hàng sử dụng mã khoá riêng (Private key) của mình để mã hoá bức thông điệp. Chiếc chìa khoá này là duy nhất và chỉ có người gửi hàng mới biết; sau đó người gửi hàng sẽ dùng chiếc chìa khoá chung (Public key) của người chuyên chở để mã hoá lại bức thông điệp. Bức thông điệp này sẽ được gửi đến người chuyên chở. Người chuyên chở chỉ có thể giải mã bức thông điệp với chiếc chìa khoá riêng của mình. Điều này sẽ xác nhận rằng người chuyên chở sẽ nhận được bức thông điệp gốc từ người gửi hàng. Chiếc chìa khoá chung được đăng ký tại một bên thứ ba có uy tín (tổ chức Bolero). Tổ chức này sẽ xác nhận các thông tin về bản thân người muốn đăng ký chữ ký điện tử. Điều này khuyến khích người sẽ nhận bức thông điệp được mã hoá tiếp cận với chìa khoá chung. Một ưu điểm nữa của hệ thống mã hoá kép là hệ thống này cho phép bức thông điệp này được truy cứu lại nguồn gốc mà đối với chữ ký được qui ước thì người nhận sẽ khó có thể xác nhận được chữ ký được ký bằng tay hay không. Muốn đọc được chữ kí điện tử của người ký theo phương pháp này, người

Page 9: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

đọc phải tìm đúng phần mã khoá công khai của người gửi, ngoài cách “gặp gỡ và trao đổi trực tiếp mã khoá công khai cho nhau”, “nhờ môt bên trung gian chuyển khoá công khai”, thì cách chủ yếu là “sử dụng các trung tâm phân phối mã khóa kép (key distribution center)” như các trung tâm cung cấp chữ kí điện tử: Humin, SignOnline, Interlink Electronics … Tại các trung tâm này có lưu giữ các cuốn danh bạ công khai chủ yếu- giống như một cuốn danh bạ điện thoại, trong đó có ghi rõ tên doanh nghiệp, tên người ký, quốc gia, thành phố đăng ký chữ ký, thời hạn hiệu lực của chữ ký và mã khoá công khai tương ứng của chữ ký đó. Khi cần sử dụng, người dùng có thể tải xuống phần khoá công khai cần thiết đó từ mạng Internet về máy tính của mình và sử dụng. Ngược lại, họ cũng có thể đăng ký và gửi phần mã khoá công khai của mình vào trung tâm này cho một hoặc nhiều người sử dụng khác nhau có thể đọc được chữ ký của mình. + Một số đạo luật riêng về chữ kí điện tử của các nước: - Khung pháp lý về CKĐT 13/12/1999 của EU; - Luật giao dịch điện tử 2000 (Electronic Communications Act 2000) có hiệu lực ngày 25/7/2000 của Anh; - Luật chữ kí điện tử thương mại quốc gia và thương mại toàn cầu (Electronic Signatures in Global and National Commerce, gọi tắt là E-sign Act) ngày 30/6/2000, có hiệu lực từ ngày 1/10/2000- Luật giao dịch điện tử thống nhất (UETA) của Hoa Kỳ; - Luật CKĐT (Electronic Signature Bill) 7/1997 có hiệu lực vào năm 2000 của Đức; - Luật bảo vệ thông tin cá nhận và tài liệu điện tử 1999 của Canada; - Luật giao dịch điện tử (Electronic Transaction Act 1998) của Singapore; Sắc lệnh giao dịch TMĐT (E-transaction Ordiance) có hiệu lực từ 7/1/2000 của Hồng Kông;- Luật giao dịch điện tử 1999 của Australia; và một số nước khác như Thái Lan, Nhật Bản cũng đã thông qua các đạo luật về thương mại điện tử. - Việt Nam đã có dự thảo Luật giao dịch điện tử, Nghị định về chữ ký điện tử và dịch vụ chứng thực điện tử. + Các quy tắc về vận đơn điện tử của Uỷ ban hàng hải quốc tế (CMI)Cơ sở pháp lý đầu tiên điều chỉnh vận đơn điện tử là do Uỷ ban hàng hải quốc tế (International Maritime Committee - CMI) đưa ra năm 1990. “Các quy tắc về vận đơn điện tử” (“ Rules for Electronic Bills of Lading”) của CMI là một tập hợp các điều khoản mà các bên có thể tự nguyện coi là một phần không tách rời của hợp đồng mua bán (incorperate into a sales contract) trên cơ sở sự thoả thuận của các bên.Quy tắc 1 nêu ra phạm vi áp dụng của các quy tắc này: “Các quy tắc này được áp dụng trên cơ sở sự thoả thuận của các bên”.

Page 10: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

Trong trường hợp hai bên quyết định chuyển vận đơn CMI thành vận đơn giấy thì khoá bí mật (Private Key) của bản vận đơn đó sẽ trở nên vô hiệu. Tình huống này xảy ra trong một số trường hợp, ví dụ như người cầm vận đơn mới (new holder) không có các phương tiện điện tử cần thiết để nhận một vận đơn điện tử. Các quy tắc của CMI đã lường trước được điều này và đưa ra một biện pháp giải quyết linh hoạt là chuyển vận đơn điện tử thành vận đơn giấy.

1.1. Đặc trưng chính của các quy tắc nàyMục đích chính của các quy tắc của CMI là việc tạo lập vận đơn điện tử. Do đó, các quy tắc này không điều chỉnh việc xử lý các thông điệp dữ liệu nói chung, và vận đơn nói riêng. Điều này được chứng minh bởi việc những người soạn thảo ra các quy tắc này không định dùng chúng để thay thế các nguồn luật vẫn điều chỉnh vận đơn, Trong đại đa số các trường hợp trong thực tiễn hàng hải hiện nay, Quy tắc Hague hoặc Hague – Visby vẫn là nguồn luật chủ yếu điều chỉnh vận đơn.Quy tắc 6 quy định: “Hợp đồng chuyên chở sẽ chịu sự điều chỉnh của bất kỳ công ước quốc tế hoặc nguồn luật quốc gia nào mà nếu một vận đơn trên giấy được phát hành thì vận đơn đó bắt buộc phải chịu sự điều chỉnh của công ước quốc tế hay luật quốc gia đó”. 1.2. Tạo lập vận đơn điện tử theo các quy tắc của CMINgười gửi hàng giao hàng hoá cho người chuyên chở. Khi đó theo quy tắc số 4 người chuyên chở sẽ thông báo về việc nhận hàng cho người gửi hàng. Việc này được thực hiện bằng một thông điệp được gửi tới địa chỉ điện tử (electronic adress) của người gửi hàng. Thông điệp nhận hàng (“receipt message”) phải đáp ứng một số các yêu cầu được nêu trong quy tắc 4 (b). Cụ thể về mặt nội dung thông điệp này phải thể hiện những thông tin giống như vận đơn truyền thống, bao gồm:• tên người gửi hàng; • mô tả hàng hoá; • ngày và địa điểm nhận hàng; • dẫn chiếu đến các điều kiện chuyên chở của người chuyên chở ; và • khoá bí mật ( Private Key).

Điều 4(d) quy định thông điệp xác nhận nhận hàng “sẽ có hiệu lực như thể thông điệp nhận hàng này được thể hiện trên vận đơn giấy”. Điều này cũng có nghĩa thông điệp xác nhận nhận hàng này tương đương với một vận đơn giấy. Sau khi nhận được thông điệp xác nhận nhận hàng, người gửi hàng phải xác nhận việc nhận được thông điệp cho người chuyên chở. Trong thương mại truyền thống, người cầm vận đơn có quyền sở hữu hàng hoá và

Page 11: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

có quyền ký hậu vận đơn cho một bên thứ ba để chuyển nhượng quyền sở hữu đối với hàng hoá. Các quy tắc của CMI sử dụng công cụ là “khoá bí mật” (“Private Key”) để thực hiện việc ký hậu và chuyển quyền sở hữu đối với vận đơn điện tử. Khoá bí mật được định nghĩa trong Quy tắc 2 là “ bất cứ hình thức điện tử thích hợp nào… mà các bên thoả thuận để đảm bảo sự chân thực và nguyên vẹn của một cuộc truyền tin”. Cách quy định như vậy tạo điều kiện cho việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới đang và sẽ diễn ra trong lĩnh vực mã hoá và giải mã các dữ liệu điện tử. Người nắm giữ khoá bí mật do đó có thể ra lệnh giao hàng, chuyển quyền kiểm soát hàng hóa cho một bên thứ ba bất kỳ và chỉ định hoặc thay thế người nhận hàng được chỉ định. Người nắm giữ khoá bí mật như vậy là có đầy đủ các quyền mà người nắm giữ vận đơn giấy có được. Khi người nắm giữ khoá bí mật đồng thời là người thực tế nắm giữ vận đơn muốn chuyển quyền sở hữu vận đơn cho một người khác, anh ta sẽ phải thông báo cho người chuyên chở ý định của anh ta. Khoá bí mật (mỗi người nắm giữ vận đơn có một khoá bí mật riêng) sẽ được sử dụng để xác nhận tính chân thực của dữ liệu. Tuy nhiên vẫn cần có những biện pháp an ninh để đảm bảo tính bí mật của việc truyền tin. Sau đó, người chuyên chở phải xác nhận đã nhận được thông điệp của người nắm giữ khoá bí mật và chuyển xác nhận nhận hàng (vận đơn) cho người chủ mới của hàng hoá. Khoá bí mật lúc đó sẽ bị thu lại để chờ sự chấp thuận của người chủ mới của hàng hóa về việc chuyển quyền sở hữu. Khi người nắm giữ vận đơn mới đã chấp thuận việc chuyển quyền sở hữu hàng hoá, người chuyên chở sẽ cấp cho người này một khoá bí mật mới va khoá bí mật trước đó sẽ bị huỷ bỏ. Người chuyên chở trực tiếp thực hiện chức năng cơ quan đăng ký sở hữu và điều này sẽ làm phát sinh một số vấn đề sẽ được đề cập dưới đây. Việc giao hàng sẽ được thực hiện nếu người nhận hàng chứng minh được tư cách của mình với người chuyên chở. Do đó, không cần thiết phải xuất trình vận đơn gốc để nhận được hàng. Để ngăn ngừa các trở ngại về mặt pháp lý có thể phát sinh do luật của các quốc gia khác nhau có các quy định khác nhau về việc chứng từ phải được lập dưới dạng văn bản viết (“in writing”), CMI đã đưa ra Quy tắc số 11. Quy tắc này nói rằng các bên thoả thuận rằng bất kỳ một đạo luật quốc gia hay tập quán nào yêu cầu hợp đồng chuyên chở phải có bằng chứng dưới dạng văn bản sẽ được đáp ứng bằng các dữ liệu điện tử được truyền tải và xác nhận (transmitted and confirmed data). Ngoài ra, các bên thoả thuận sẽ không dùng luận điểm là hợp đồng không được lập bằng văn bản trong trường hợp xảy ra tranh chấp. Tuy nhiên, quy tắc này chưa xoá bỏ được hoàn toàn những hoài nghi về khả các trở ngại pháp lý đối với vận đơn điện

Page 12: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

tử. 1.3. Những vấn đề cần lưu ýLiệu cơ chế khoá bí mật có thể thay thế được vận đơn có thể chuyển nhượng truyền thống hay không? Bằng việc chấp nhận thông điệp xác nhận gửi hàng người mua nhận được các quyền được pháp luật bảo hộ. Tuy nhiên, điều này được thực hiện trên giả thiết là thông điệp xác nhận việc nhận hàng là chân thực. Nếu người nhận nhận được một thông điệp giả mạo, rắc rối thực sự nảy sinh. Những vấn đề này không thể khắc phục được chỉ bằng một tuyên bố rằng khoá bí mật và thông điệp xác nhận việc nhận hàng tương đương với một vận đơn bằng giấy. Các rắc rối cũng có thể nảy sinh từ việc người chuyên chở phải đóng vai trò của cơ quan đăng ký sở hữu. Đây là trách nhiệm quá nặng nề đối với người chuyên chở. Người chuyên chở phải đảm bảo bí mật cho mỗi giao dịch chuyển nhượng quyền sở hữu. Tuy nhiên không có điều khoản nào trong bản quy tắc quy định rõ giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở nếu không đảm bảo được việc đó. Do đó người chuyên chở có lẽ sẽ không tham gia vào các giao dịch mà giới hạn trách nhiệm của mình không được quy định rõ ràng.Quy tắc không quy định rõ thời gian và địa điểm vận đơn được ký kết. Trong trường hợp này các bên lại phải dựa vào Tư pháp quốc tế (Private International Law) để xác định thời gian, địa điểm hình thành hợp đồng.Các ngân hàng cũng không mấy tin tưởng vào độ an toàn của hệ thống khoá bí mật. Giao dịch càng phức tạp, càng có nhiều bên tham gia thì an ninh của hệ thống càng khó đảm bảo.Các quy tắc của CMI cũng không đưa ra cơ chế chứng thực vận đơn điện tử. Nhiều ý kiến cho rằng bên cạnh quy định về khoá bí mật, CMI phải có các quy định về hệ thống mã số công cộng (public key system) để chứng thực vận đơn.(“The Impact of EDI on Bills of Lading – A Global Pespective on the Dynamics Involved” by Erik Muthow). Yêu cầu về “văn bản” (“writing” or “document”)Yêu cầu về việc các chứng từ phải được lập bằng văn bản là yêu cầu phổ biến của hầu hết các luật quốc gia. Ví dụ, ở Úc, Đạo luật chuyên chở hàng hoá bằng đường biển năm 1991 (Cwlth) định nghĩa thuật ngữ ‘hợp đồng chuyên chở’ là “hợp đồng được thể hiện bằng một vận đơn hoặc bất ký chứng từ sở hữu nào khác…”. Và chứng từ được liệt kê gồm:a. bất kỳ giấy tờ hoặc chất liệu nào có chữ viết trên đó. b. Bất kỳ giấy tờ hoặc chất liệu nào có các ký hiệu, cac hình ảnh…có ý nghĩa mà một người có đủ năng lực có thể hiểu được chúng; và c. Bất kỳ đồ vật hoặc chất liệu nào phát ra hình ảnh hoặc chữ viết mà có thể

Page 13: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

tái tạo lại được nhờ vào hoặc không cần nhờ vào sự trợ giúp của bất kỳ đồ vật hay thiết bị nào khác. Mặc dù theo quy định trên thì rõ ràng chứng từ không chỉ được hiểu là chứng từ dưới hình thức giấy tờ nhưng riêng đối với vận đơn đường biển, trên thực tế, các toà án Úc cũng chỉ chấp nhận các vận đơn lập trên giấy vì vận đơn theo luật bắt buộc phải có chữ ký.Tại Anh đã có án lệ mà cơ sở dự liệu trên máy tính được chấp thuận là văn bản (document). Tuy nhiên điều này có lẽ vẫn chưa thoả mãn các yêu cầu đối với “văn bản viết” (“writing”). Luật diễn giải (Interpretation Act) năm 1978 của Anh định nghĩa “writing” bao gồm “đánh máy, in, in thạch bản, chụp ảnh và các cách thức thể hiện và mô phỏng các từ ngữ dưới dạng có thể nhìn thấy được”. Do đó, nếu một văn bản phải đáp ứng yêu cầu được thể hiện dưới dạng viết, một thông điệp dự liệu sẽ không phải là một văn bản. Tuy nhiên, do việc liên lạc bằng các phương tiện điện tử ngày càng trở nên phổ biến thì thuật ngữ “văn bản” cũng phải được hiểu theo nghĩa rộng hơn.Theo Luật mẫu, hiệu lực pháp lý của các dữ liệu điện tử hoàn toàn tương đương với văn bản viết. Điều 6 của Luật mẫu quy định trường hợp pháp luật (luật quốc gia) đòi hỏi thông tin phải thể hiện bằng văn bản viết thì một thông điệp dữ liệu được coi là thoả mãn đòi hỏi ấy nếu thông tin hàm chứa trong đó là có thể truy cập được để sử dụng cho mục đích tham chiếu sau này trừ một số trường hợp cụ thể được liệt kê. Chữ ký và các phương pháp chứng thực khác:Phương pháp chứng thực phổ biến nhất mà luật pháp quốc gia và quốc tế thường yêu cầu đó là chữ ký bằng tay. Chữ ký có vai trò quan trọng không chỉ bởi nó chứng thực các bên của hợp đồng mà còn là bằng chứng thể hiện ý chí của các bên sẵn sàng chịu các trách nhiệm pháp lý. Việc chứng thực một thông điệp điện tử bằng chữ ký là để cho người nhận thông điệp đó cũng như các bên thứ ba biết nguồn gốc của thông điệp cũng như ý chí của bên đưa ra thông điệp đó.Công ước Hamburg quy định việc ký có thể được thực hiện “ bằng tay, bằng fax, đục lỗ, đóng dấu, bằng các biểu tượng hoặc bằng bất kỳ phương tiện máy móc hoặc điện tử nào, nếu không mâu thuẫn với luật quốc gia nơi vận đơn được phát hành”.Tuy nhiên đối với hầu hết các toà án, thuật ngữ “chữ ký” vẫn chỉ được giới hạn ở chữ ký bằng tay. Theo quy định của Luật mẫu, các giải pháp kỹ thuật thích hợp sẽ có hiệu lực pháp lý như chữ ký truyền thống và các bên có toàn quyền thoả thuận giải pháp kỹ thuật cụ thể. Điều 7 của Luật mẫu quy định: “Trong trường hợp pháp luật đòi hỏi phải có chữ ký của một người nào đó, thì một thông điệp dữ liệu được coi là đáp ứng đòi hỏi ấy nếu: (a) có sử dụng một phương pháp nào đó để xác minh được người ấy và chứng tỏ được sự

Page 14: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

chấp thuận của người ấy với thông tin hàm chứa trong thông điệp dự liệu đó; và (b) phương pháp ấy là đủ tin cậy với nghĩa là thích hợp cho mục đích mà theo đó thông điệp dữ liệu ấy đã được tạo ra và truyền đi, tính đến tất cả các tình huống, bao gồm cả các thoả thuận bất kỳ có liên quan”.Theo điều khoản này, Luật mẫu không quy định một phương pháp kỹ thuật cụ thể đối với chữ ký, bất kỳ công nghệ chữ ký điện tử nào cũng có thể được ứng dụng trong tương lai mà không cần phải sửa đổi luật. Chứng từ sở hữu và khả năng chuyển nhượngChứng từ sở hữu là chức năng quan trọng nhất của vận đơn. Một câu hỏi liên quan đến chứng từ sở hữu và khả năng chuyển nhượng trong bối cảnh vận đơn điện tử đang từng bước thay thế vận đơn truyền thống là liệu khả năng chuyển nhượng vận đơn và theo đó là chuyển quyền sở hữu hàng hoá có thể thực hiện được bằng vận đơn điện tử hay không.Nhóm công tác của UNCITRAL về EDI chưa kết thúc cuộc nghiên cứu về vấn đề này. Theo kế hoạch, UNCITRAL sẽ phải tổ chức thêm các cuộc hội thảo về khả năng chuyển nhượng vận đơn và chuyển quyền sở hữu đối với hàng hoá của vận đơn đường biển. Nghiên cứu này sẽ xem xét các gợi ý và kiến nghị của nhiều quốc gia cũng như tổ chức quốc tế. Một gợi ý thú vị thu hút được sự chú ý của nhóm công tác là gợi ý của các chuyên gia Mỹ: “Cần phải lưu ý một điểm là cái được chuyển nhượng không phải là tờ giấy hay một thông điệp điện tử (đó chỉ là phương tiện), mà là các quyền và/ hoặc quyền sở hữu đối với đối tượng của giao dịch”Kết quả của vấn đề cuối cùng và cũng là vấn đề quan trọng nhất để vận đơn điện tử có thể đảm đương được các chức năng của vận đơn truyền thống do đó vẫn đang ở phía trước và sẽ được đưa vào bản cuối cùng của Luật mẫu.(Electronic Bills of Lading and Functional Equivalance của John Livermore and Krailerk Euarjai/elj.warwich.ac.uk/jilt/ecomm/98_2liv/) HỆ THỐNG BOLERO.NETKhái quát quá trình ra đời và phát triển của các chứng từ vận tải điện tử Vài nét về sự ra đời, phát triển, mục tiêu và các bộ phận chủ yếu của hệ thống BoleroBolero là viết tắt của “ Bill of Lading Electronic Registry Organization”. Dự án Bolero được sự ủng hộ của Uỷ ban Châu Âu và được thực hiện trên cơ sở sự hợp tác giữa Society for Worldwide Interbank Finance Transaction (SWIFT) và Thorough Transport Mutual Insurance Association Ltd. (TT club). Ý tưởng của các bên khi tiến hành dự án này là nếu một tổ chức chuyên thực hiện việc thanh toán các giao dịch thương mại quốc tế và một tổ chức có chức năng giảm thiểu rủi ro cho các nhà chuyên chở trong các giao dịch này mà hợp tác với nhau để xây dựng và vận hành một hệ thống điện tử thì hệ thống đó dễ được thị trường chấp nhận hơn là một hệ thống do những

Page 15: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

người chẳng có chút liên quan nào đến thương mại quốc tế tạo lập nên. Hệ thống Bolero được chính thức đưa vào hoạt động từ ngày 27 tháng 9 năm 1999. Bolero bao gồm hai công ty riêng biệt, do đối tượng khác nhau sở hữu nhưng có mối quan hệ hết sức mật thiết với nhau trong việc duy trì hoạt động của cả hệ thống. Bolero Association Limited (BAL) do các thành viên của nó sở hữu. BAL được thành lập năm 1995 và bao gồm tất cả các thành viên của Bolero.net cũng như các tổ chức ngành nghề (cross-industry bodies) ủng hộ mục tiêu tạo ra một nền thương mại điện tử thay thế cho nền thương mại dựa trên giấy tờ từ trước tới nay. Bolero International Limited là một công ty liên doanh giữa SWIFT và TT Club và là người cung cấp các dịch vụ của hệ thống Bolero.net. (The Bills of Lading Electronic Registry Organization – The Bolero Project của Simon Taylor/ www.elbornes.com) Các mục tiêu chính mà dự án Bolero theo đuổi bao gồm:1. Đảm bảo các dịch vụ do Bolero cung cấp đáp ứng được các yêu cầu của các thành viên; và các dịch vụ thương mại khác có liên quan được phát triển đồng bộ với các dịch vụ trên; 2. Hoạt động như một diễn đàn liên ngành để giải quyết các vấn đề liên quan đến thực tiễn thương mại điện tử trong thương mại quốc tế, tập trung vào các vấn đề liên quan đến các chứng từ có khả năng chuyển nhượng và các chứng từ điện tử tương đương; 3. Tạo lập và phổ biến các chuẩn mực trong thương mại điện tử; 4. Thiết lập một khuôn khổ pháp lý đảm bảo rằng các yêu cầu đối với các chứng từ vận tải truyền thống có thể được đáp ứng bằng các chứng từ điện tử tương ứng mà không làm thay đổi sự cân bằng về rủi ro đã được thiết lập giữa các bên; 5. Làm đầu mối liên lạc với các cơ quan quản lý quốc gia và quốc tế để đảm bảo rằng các nhu cầu của doanh nghiệp được cân nhắc đến một cách đầy đủ trong quá trình hoàn thiện cơ sở pháp lý và cơ sở kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển của thương mại. The Companies Act 1985 to 1989/www.bolero.net Cấu trúc kỹ thuật của hệ thống Bolero (Slides)1. Core Messaging Platform: Đây là một hệ thống dùng để gửi các thông điệp điện tử (trong đó có vận đơn Bolero) giữa các thành viên của Bolero với nhau, với Bolero International và Bolero Association. Hệ thống này còn cung cấp các thông báo về việc tiếp nhận các thông điệp và theo dõi các thông điệp sau khi chúng được gửi đi. Đồng thời Core Messaging Platform cũng gửi các thông tin sang cho một bộ phận khác của Bolero là Hệ thống đăng ký sở hữu (The Title Registry). Tuỳ theo nhu cầu của người gửi, các thông điệp còn có thể bao gồm các tài liệu gửi kèm (attachments). Cách các

Page 16: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

thông điệp được gửi và nhận trong hệ thống cũng như cách mà các thông điệp này được bảo mật sẽ được trình bày chi tiết trong phần ... 2. Hệ thống đăng ký sở hữu (The Title Registry): Đây là một cơ sở dữ liệu được xây dựng trên cơ sở các chỉ dẫn đặc biệt của người sử dụng. Nội dung của cơ sở dữ liệu này quyết định quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên có liên quan đến một vận đơn Bolero. Các thông tin liên quan đến một vận đơn cụ thể có thể thay đổi nhiều lần sau khi vận đơn được phát hành. Mục đích chính của hệ thống này là để tạo cho vận đơn điện tử chức năng là chứng từ sở hữu hàng hoá được mô tả trên vận đơn, chức năng quan trọng nhất của vận đơn truyền thống. 3. Cơ sở dữ liệu về người sử dụng (User Database) : Đây là hệ thống lưu giữ các thông tin về các thành viên của hệ thống Bolero. Hệ thống này được sử dụng để nhận diện các thành viên hợp lệ, giới hạn sự tiếp cận với hệ thống Bolero, và quyết định tính chân thực của các thông điệp do các thành viên gửi đến cũng như liên lạc với các thành viên, gửi hoá đơn đòi tiền dịch vụ và các mục đích tương tự. Mặc dù thường được nhắc đến như một cơ sở dữ liệu thống nhất, hệ thống này thực chất là một tập hợp các thông tin có liên quan chặt chẽ được quản lý và sử dụng một phần bởi Bolero Association và một phần bởi Bolero International. 4. User Support Resources: Hệ thống này bao gồm (1) một giao diện kết nối với Core Messaging Platform cho phép người sử dụng giám sát các thông điệp của mình, (2) một giao diện kết nối với cơ sở dữ liệu của người sử dụng cho phép nhân viên quản trị của người sử dụng (User’s administrator) quản lý tài khoản (account) mà Bolero cấp cho từng thành viên, (3) một tập hợp các thông tin chung được đưa trên mạng Internet về tất cả các thành viên của hệ thống Bolero, mục trợ giúp hướng dẫn cách sử dụng hệ thống Bolero, các bản tin, cảnh báo và các thông tin tương tự và một bàn trợ giúp giải đáp các thắc mắc của các thành viên trực tiếp qua điện thoại hoặc e-mail. Trong tương lai Bolero có thể sẽ bổ sung nhiều hình thức hỗ trợ các thành viên hơn nữa vào hệ thống này. Hệ thống User Support Resouces trực tuyến được thể hiện dưới hình thức một trang web. Nội dung của các thông điệp được gửi tới Core Messaging Platform và Hệ thống đăng ký sở hữu sẽ được đảm bảo không có sự thay đổi khi được đưa vào hệ thống User Support Resources 5. Hệ thống của người sử dụng (User Systems): là các phương tiện kỹ thuật cho phép các thành viên sử dụng hệ thống Bolero, bao gồm một kênh liên lạc (communications link) tới một mạng lưới kết nối với Core Messaging Flatform, phần cứng của máy tính để có thể kết nối với kênh liên lạc trên và phần mềm để tạo, gửi, nhận các thông điệp qua Core Messaging Flatform và hiển thị User Support Resources.

Page 17: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

Bốn thành phần đầu tiên là các dịch vụ chủ yếu mà Bolero sẽ cung cấp cho các thành viên. Thành phần thứ năm sẽ được cung cấp bởi một bên thứ ba (các công ty hoặc các cơ quan nhà nước chuyên cung cấp các dịch vụ này) và phải phù hợp với mô tả của Bolero để đảm bảo có thể tương thích với Core Messaging Platform. 3. Cơ sở pháp lý của hệ thống BoleroĐể cả hệ thống Bolero có thể hoạt động trôi chảy cần có các thoả thuận giữa (i) những người sử dụng hệ thống với Bolero và (ii) những người sử dụng hệ thống với nhau. Vấn đề này được giải quyết thông qua việc ban hành Bolero Rulebook. Tất cả các thành viên khi gia nhập hệ thống Bolero sẽ bị ràng buộc bởi Bolero Rulebook. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng Bolero Association và Bolero International không đảm bảo cũng như không chịu trách nhiệm về bất kỳ nghĩa vụ nào mà một thành viên phải có với bên kia theo các quy định của Bolero Rulebook hoặc các nguồn luật khác.Về bản chất, Bolero Rulebook quy định cách thức các công ty sử dụng hệ thống Bolero để phát hành vận đơn điện tử. Bolero Rulebook chịu sự điều chỉnh của luật Anh, và các toà án Anh sẽ có thẩm quyền các giải quyết tranh chấp phát sinh có liên quan đến các quy tắc này.Nội dung của Bolero Rulebook khá đầy đủ, chi tiết, bao gồm ba phần chính là:Phần 1: Các định nghĩa và giải thíchPhần 2: Các điều khoản chungPhần 3: Hệ thống đăng ký sở hữuMột bộ phận không thể tách rời của Rulebook là Phụ lục quy định cụ thể về các thủ tục vận hành (operational procedures) của hệ thống. Mặc dù bản quy tắc này bao quát nhiều nội dung, điều khoản cốt lõi của nó là các thành viên của hệ thống Bolero chấp nhận các thông điệp điện tử được gửi qua hệ thống Bolero như thể chúng được thể hiện trên giấy và thừa nhận hiệu lực của chữ ký điện tử trong hệ thống Bolero. 4. Cơ chế kết nạp thành viên của BoleroMột trong những ưu điểm của hệ thống Bolero là mỗi đối tượng tham gia hệ thống đều có thể yên tâm rằng các đối tác làm ăn trong cùng hệ thống là những người mà Bolero đã có những hiểu biết nhất định và đều chịu sự điều chỉnh của Bolero Rulebook. Do đó một người sử dụng có thể tin tưởng rằng các thông điệp mà mình nhận được là chân thực. Hệ thống Bolero giảm thiểu khả năng các công ty gặp phải các đối tác “ảo”. Thêm vào đó, do tất cả người sử dụng đều tuân thủ một khuôn khổ pháp lý chung nên hệ thống Bolero còn giảm thiểu sự không chắc chắn về việc luật nào sẽ được áp dụng đối với thương mại điện tử và rủi ro về việc các đạo luật vẫn điều chỉnh hoạt

Page 18: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

động thương mại không áp dụng đựơc cho các giao dịch điện tử. Để đảm bảo các thành viên tham gia hệ thống đều được xác định một cách rõ ràng và đều chịu sự ràng buộc về mặt pháp lý bởi các quy tắc của Bolero, hệ thống Bolero áp dụng một hệ thống kiểm soát chặt chẽ ngay ở khâu kết nạp thành viên. Quy trình kết nạp thành viên phải đủ tin cậy để đặt nền móng cho việc nhận diện thành viên và chứng thực các dòng thông điệp sau này.Gia nhập là quá trình thông qua đó một thành viên mới gia nhập cộng đồng Bolero và có thể sử dụng hệ thống Bolero. Hệ thống Bolero bao gồm cả các thành phần pháp lý và kỹ thuật đan xen vào nhau do đó việc gia nhập hệ thống Bolero liên quan đến cả khía cạnh pháp lý và khía cạnh kỹ thuật. Do tính chất này các đối tượng muốn gia nhập Bolero nên tìm cho mình một cố vấn pháp luật và một kỹ thuật viên để hỗ trợ cho quá trình gia nhập Gia nhập chỉ là một phần của quá trình bắt đầu sử dụng hệ thống Bolero. Ngoài việc đăng nhập, một thành viên mới phải mua sắm và thử nghiệm hệ thống của chính mình, thiết lập một kết nối kỹ thuật số với Bolero, đào tạo nhân viên, xây dựng quy chế sử dụng và kiểm soát nội bộ, và các hoạt động kỹ thuật khác cần thiết cho việc áp dụng bất kỳ một quy trình kinh doanh mới nào. Quy trình đăng nhập hệ thống Bolero gồm 3 bước chính sau đây:• Hình thành hợp đồng: Để trở thành thành viên của hệ thống Bolero, một thành viên phải ký kết ba hợp đồng sau đây: (1) Hợp đồng dịch vụ BAL (BAL Service Contract) để trở thành thành viên của Hiệp hội Bolero (Bolero Association), (2) hợp đồng với từng thành viên khác của hệ thống cam kết tuân thủ Bolero RuleBook và (3) Hợp đồng tiến hành dịch vụ (Operational Service Contract) ký kết với Bolero International để sử dụng các dịch vụ của hệ thống Bolero. • Cung cấp thông tin và các tài liệu chứng minh (Providing information and supporting documentation): Để có thể cung cấp các dịch vụ một cách hiệu quả nhất, Bolero International và Bolero Association đều cần có những thông tin nhất định về người sử dụng như tên công ty, địa chỉ…Một số thông tin về một thành viên còn cần phải có sự xác nhận tin cậy về tính chính xác để các thành viên khác có thể nhận biết được thành viên đó và tin cậy vào tính chân thực của các thông điệp mà thành viên đó gửi đi. Người xác nhận các thông tin đó (hiện tại là Bolero International) do đó phải có đầy đủ chứng cứ để khẳng định tính chính xác của thông tin. Đối tượng đăng nhập phải cung cấp các tài liệu cần thiết để hỗ trợ cho việc xác nhận của Bolero International. • Thiết lập tài khoản kỹ thuật (Technical account set-up): Khi người sử dụng tiềm năng đã ký và cung cấp các thông tin cần thiết để xác nhận tính chính xác của các thông tin, Bolero International sẽ mở một tài khoản cho người sử dụng mới, phát hành các chứng nhận (Certificates) sẽ được sử dụng để

Page 19: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

nhận diện các chữ ký điện tử, và nhập thông tin của người sử dụng này vào cơ sở dữ liệu của người sử dụng (User Database). Bước này chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở người sử dụng đã có sự chuẩn bị đầy đủ về mặt kỹ thuật. Những công việc liên quan đến kỹ thuật cần phải hoàn thành là:• Thiết lập hệ thống của người sử dụng: Người sử dụng phải cài đặt và vận hành một hệ thống nội bộ để tiếp cận và sử dụng hệ thống Bolero. Bolero International không cung cấp hệ thống này nhưng người sử dụng có thể mua của các nhà cung cấp được liệt kê tại địa chỉ www.boleroassociation.org/dow_soft.htm.• Chọn mã nhận diện của người sử dụng (RID): Mã này dùng để nhận diện người sử dụng với tư cách một công ty trong hệ thống Bolero. Người sử dụng có thể chọn chính tên thương mại của công ty mình, miễn là tên này không quá giống với RID của một người sử dụng khác. • Cung cấp mã khoá công cộng (public key): mã khoá công cộng này sẽ được điền vào chứng nhận mà Bolero cấp cho mỗi người sử dụng. Để cung cấp được mã khoá công cộng, hệ thống của người sử dụng phải tạo ra nó cùng với mã khoá bí mật (private key) tương ứng.

CƠ CHẾ TRAO ĐỔI VÀ BẢO MẬT THÔNG TIN CỦA HỆ THỐNG BOLERO1. Dòng dịch chuyển của các thông điệp (messages)Hầu hết các giao dịch mà người sử dụng thực hiện trong hệ thống Bolero đều được tiến hành thông qua the Core Massaging Platform. Để gửi một thông điệp hay một văn bản tới một thành viên khác của hệ thống, đăng ký một vận đơn Bolero hay thay đổi các quyền liên quan đến một vận đơn Bolero với Hệ thống đăng ký sở hữu, các thành viên của Bolero sẽ phải gửi các thông điệp đến the Core Messaging Platform.Các thành phần chính của một thông điệp Bolero bao gồm:• Tiêu đề của thông điệp (Message headers): là những dòng văn bản đầu tiên ở đầu thông điệp thể hiện các thông tin như ai gửi, gửi cho ai, đã được truyền qua những đâu trước khi tới nơi nhận, gợi ý cách thức xử lý thông điệp (ví dụ như ghi chú về loại nội dung thông điệp chứa đựng) và các mục đích tương tự. • Tiêu đề của từng phần thông điệp (Message part headers): Phần thân của một thông điệp được chia ra làm nhiều phần phù hợp với quy định của Multipurpose Internet Mail Extentions (MIME). Tiêu đề của từng phần nêu loại nội dung của phần đó và mã dùng để truyền tải phần đó qua email. • Tiêu đề Bolero (Bolero Header): Mỗi một thông điệp gửi qua Bolero đều

Page 20: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

có một tiêu đề Bolero. Tiêu đề này thể hiện loại và chức năng của thông điệp trong hệ thống Bolero, dùng để phân loại và xử lý các thông điệp trong hệ thống. Tiêu đề Bolero mang tính đặc thù và chỉ áp dụng cho hệ thống Bolero. • Các văn bản (Document parts): Sau tiêu đề Bolero, thông điệp có thể có một hoặc nhiều phần khác, mỗi phần lại có thể gồm một văn bản được giới thiệu bằng tiêu đề của từng phần thông điệp. Phần văn bản này đôi khi còn được gọi là “tài liệu gửi kèm” (“attachments”). Phần văn bản là bộ phận không bắt buộc nhưng là bộ phận thường gặp trong tất cả các thông điệp gửi qua hệ thống Bolero. Hình thức của các phần văn bản không mang tính đặc thù của Bolero mà phù hợp với các tiêu chuẩn MIME. • Chỉ dẫn kết thúc thông điệp: Là dòng văn bản chỉ gồm có một dấu chấm thể hiện thông điệp đã kết thúc theo đúng chuẩn mực về thư điện tử (chủ yếu là RFC 822 của the Internet Engineering Task Force). Các phần như tiêu đề của thông điệp, tiêu đề của từng phần thông điệp, và tiêu đề Bolero là các thành phần kỹ thuật được sử dụng để truyền và lưu các thông điệp. Tiêu đề của thông điệp sẽ không được ký hay mã hoá mặc dù nội dung thông điệp (bao gồm cả tiêu đề Bolero) phải được ký và có thể được mã hoá.Các thông điệp trong Core Messaging Platform thực hiện rất nhiều chức năng. Mỗi chức năng này lại tương ứng với một tiêu đề Bolero khác nhau. Các hình thức đa dạng của tiêu đề Bolero có một ý nghĩa rất quan trọng đối với người sử dụng. Mỗi thông điệp với tiêu đề khác nhau sẽ kéo theo các hoạt động khác nhau của hệ thống, thông thường là sẽ làm nảy sinh một thông điệp khác với một tiêu đề Bolero tương ứng. Sơ đồ sau đây tóm tắt dòng dịch chuyển của các thông điệp trong đó một thông điệp này sẽ làm nảy sinh một thông điệp khác. Bảng sau tóm tắt các tiêu đề Bolero với số thứ tự tương tự như sơ đồ trên:Loại thông điệp Gửi từ Gửi đến Thể hiện1. SMsg (thông điệp gửi đi) Người gửi thông điệp ban đầu Core Messaging Platform Bất cứ nội dung nào mà thông điệp chứa đựng.2. BAck (xác nhận của Bolero) Bnak (Bác bỏ của Bolero) Core Messaging Platform Core Messaging Platform Người gửi thông điệp ban đầu Người gửi thông điệp ban đầu Core Messaging Platform đã nhận được thông điệp gửi đi, thông điệp đã được ký và đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật. Hệ thống Bolero đã nhận được thông điệp nhưng thông điệp đó không đáp ứng yêu cầu kỹ thuật.(thông điệp này không sẽ không được chuyển tiếp đến người nhận.3. FMsg (thông điệp chuyển tiếp) Core Messaging Platform Người nhận dự

Page 21: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

tính của thông điệp gửi đi Tất cả những nội dung mà SMsg chứa đựng, nhưng mang chữ ký của Bolero (thay vì chữ ký của người gửi thông điệp ban đầu và có một tiêu đề Bolero khác. Tiêu đề Bolero của FMsg có ghi RID của người gửi thông điệp ban đầu. 4. Uack (xác nhận của người nhận) Người nhận FMsg Core Messaging Platform SMsg (như được chuyển tiếp dưới hình thức FMsg) mà người nhận nhận được có chữ ký có thể xác nhận được và đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật.5. Dnot (thông báo đã gửi)

hoặcFnot ( thông báo gửi không thành công) Core Messaging Platform

Core Messaging Platform Người gửi thông điệp ban đầu

Người gửi thông điệp ban đầu Thông điệp gửi đi (như đã được Bolero chuyển tiếp dưới hình thức một thông điệp FMsg) đã được gửi thành công đến người nhận như đã nêu trong xác nhận của người nhận Không có xác nhận về việc nhận thông điệp gửi đi (như đã được chuyển tiếp dưới hình thức một thông điệp FMsg) trong thời gian quy định (cần chú thích)6. SBRf (từ chối đề nghị giao dịch) Người nhận thông điệp FMsg Core Messaging Platform Người nhận quyết định không chấp nhận đề nghị giao dịch trong thông điệp FMsg mà người nhận đã nhận được và xác nhận7. FBRf (chuyển tiếp từ chối đề nghị giao dịch) Core Messaging Platform Người gửi thông điệp ban đầu Người nhận quyết định không chấp nhận đề nghị giao dịch trong thông điệp FMsg như đã nêu trong thông điệp SBRf gửi cho Core Messaging Platform

Nguồn: Appendix to Bolero Rulebook-Operating Procedures / www.bolero.net 2. Nhận diện thành viên và chứng nhận các thông điệpGửi một thông điệp hay thực hiện một hoạt động quan trọng nào khác thông qua hệ thống Bolero đòi hỏi người gửi phải ghi rõ mã nhận diện (“RID”) của mình. RID là tên gọi của người sử dụng (công ty gửi thông điệp) và tuỳ theo sự lựa chọn của người sử dụng còn có thể thể hiện các phòng ban và cá nhân

Page 22: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

trong nội bộ công ty. Khi nhận được một thông điệp, hệ thống Bolero sẽ kiểm tra RID của người gửi và kiểm tra chữ ký tương ứng với RID đó và với chứng nhận khoá công cộng có liên quan (Public Key Certificate). Quá trình này nhằm ngăn chặn việc thành viên này giả mạo là thành viên khác mà không bị phát giác. Nó cũng đồng thời đảm bảo với mọi thành viên của hệ thống rằng chỉ có những thành viên đã gia nhập và chịu sự điều chỉnh của Bolero Rulebook có thể gửi và nhận các thông điệp thông qua Core Messaging Platform. Vì vậy, người sử dụng nhất thiết phải cung cấp một RID có hiệu lực và ký các thông điệp thì mới có thể tiến hành giao dịch qua Bolero được.2.1. Nhận diện các thành viên trong hệ thống BoleroMột mã nhận diện (RID) bao gồm hai phần chính và một phần mở rộng tùy chọn. Hai phần chính bao gồm mã nhận diện gốc (Root Indentifier), phần bắt buộc phải có trong mỗi RID và mã nhận diện chi tiết (không bắt buộc nhưng thường được sử dụng để thể hiện chi nhánh, phòng, ban và cá nhân trong nội bộ một thành viên để phục vụ cho mục đích quản lý nội bộ của thành viên đó).Ví dụ một người sử dụng có RID:XYZcompany.CanadaDivision.Purchasing.SJ0131 IJonesTrong đó: XYZcompany là phần mã nhận diện gốc.CanadaDivision.Purchasing.SJ0131là phần mã nhận diện chi tiếtIJones: là phần mở rộng tuỳ chọnMã nhận diện gốc chính là tên của một thành viên trong hệ thống Bolero. Tất cả các thành viên đều là các công ty chứ không phải các nhân viên hay người đại diện cho công ty. Một công ty thành viên của Bolero có thể có một số mã nhận diện gốc nhưng một mã nhận diện gốc thì chỉ thể hiện một thành viên mà thôi. Bolero sẽ ấn định cho mỗi thành viên một mã nhận diện trong quá trình đăng nhập. Việc sửa đổi RID sau đó hiếm khi xảy ra trừ phi công ty thành viên có sự thay đổi lớn về tổ chức như chia tách hay sát nhập…Mã nhận diện gốc thường là rất ngắn gọn và không nêu được đầy đủ, rõ ràng tên công ty thành viên cho mục đích giao dịch hay pháp lý. Mã nhận diện gốc thường không giống như tên pháp lý chính thức của công ty dù có thể lấy một phần tên đó. Thêm vào đó, người sử dụng có thể tuỳ ý lựa chọn mã nhận diện gốc nên mã nhận diện gốc có thể hoàn toàn không liên quan gì đến tên thương mại thực sự của thành viên Bolero. Chứng nhận do Bolero cấp chỉ nhận diện người đăng ký theo mã nhận diện gốc và một hay một số mã nhận diện chi tiết tuỳ ý người đăng ký chứ không phải theo tên chính thức hay tên pháp lý. Để có được thông tin về tên pháp lý chính xác, người sử dụng phải tham khảo bản đăng ký RID của đối tác.

Page 23: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

Bên cạnh mã nhận diện gốc, người sử dụng cũng có thể thêm vào phần nhận diện chi tiết để xác định phòng ban, hoặc cá nhân giao dịch. Mã nhận diện gốc và bất kỳ phần nhận diện chi tiết nào khác tạo thành mã nhận diện (“RID”). Ngoài ra sau phần RID người sử dụng còn có thể thêm một phần mở rộng với nội dung tuỳ ý. Cả phần mã nhận diện chi tiết và phần mở rộng đều do người sử dụng tuỳ chọn sao cho thuận lợi cho việc giao dịch và không có giá trị pháp lý đối với mối quan hệ giữa các thành viên. Người chịu trách nhiệm duy nhất về các thông điệp là công ty thành viên cho dù sau phần mã nhận diện gốc có phần mã nhận diện chi tiết và phần mở rộng.Việc sử dụng RID là cách rất thuận tiện để nhận diện người gửi một thông điệp hay văn bản nhưng để đảm bảo tính chân thực của thông điệp và văn bản đó thì vẫn không thể thiếu được chữ ký. 2.2. Chữ ký trong hệ thống BoleroTrong hệ thống Bolero chữ ký điện tử được ứng dụng như sau:Mỗi thông điệp phải được ký bằng mã khoá bí mật đã được chứng nhận cho từng thành viên Bolero khi đăng nhập. Nếu không được ký, hệ thống Bolero sẽ loại bỏ thông điệp đó.Chữ ký điện tử trên mỗi thông điệp của người sử dụng được xác nhận bằng cách dẫn chiếu đến một giấy chứng nhận được lưu trong cơ sở dữ liệu của hệ thống Bolero. Thông điệp sau đó được gửi chuyển tiếp và được ký bởi Bolero International. Hệ thống của người sử dụng sẽ xác nhận chữ ký của Bolero International, và coi đây là một sự xác nhận rằng Bolero International đã kiểm tra chữ ký trên thông điệp ban đầu. Tất cả các thông điệp và các chỉ dẫn đăng ký sở hữu gửi đều được gửi kèm trong các thông điệp đã được ký và xác nhận. Tính chân thực của mỗi thông điệp, văn bản hay chỉ dẫn đăng ký sở hữu trong hệ thống đăng ký sở hữu do đó có thể chứng minh được và rất đáng tin cậy. HỆ THỐNG ĐĂNG KÝ SỞ HỮU CỦA BOLERO (BOLERO TITLE REGISTRY) Hệ thống đăng ký sở hữu của Bolero là cơ sở dữ liệu điện tử trung tâm lưu giữ các thông tin về các vận đơn Bolero. Hệ thống này cho phép vận đơn Bolero có khả năng thay thế được vận đơn trên giấy truyền thống, do đó đẩy nhanh dược tốc độ của các giao dịch.1. Tính chất của vận đơn BoleroNhư chúng ta đã biết, vận đơn là một chứng từ do người chuyên chở phát hành với các chức năng (1) biên lai nhận hàng để chở, (2) bằng chứng của hợp đồng chuyên chở và (3) chứng từ sở hữu hàng hoá, cho phép người nắm giữ hợp pháp chứng từ có thể nhận hàng từ người chuyên chở. Thông thường vận đơn sẽ được người chuyên chở cấp cho người gửi hàng và người cuối cùng nắm giữ vận đơn là người mua hàng sau khi vận đơn có thể đã

Page 24: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

được chuyển qua rất nhiều đối tượng khác ví dụ như các ngân hàng. Những người sở hữu vận đơn sẽ có những quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vận đơn.Vận đơn Bolero vẫn bảo đảm những chức năng của vận đơn truyền thống nhưng thay thế hình thức thể hiện trên giấy tờ bằng các bản ghi điện tử (electronic records). Một vận đơn Bolero bao gồm các bản ghi sau đây:Văn bản vận đơn (“BBL Text”): là một văn bản chứa phần nội dung chính của vận đơn. Văn bản này có chữ ký điện tử của người chuyên chở và mã nhận diện văn bản (document ID) và phải đảm bảo các yêu cầu đối với văn bản của Bolero. Văn bản vận đơn sẽ được gửi tới hệ thống Bolero thông qua Core Messaging Platform và sẽ được lưu với mã nhận diện văn bản và loại văn bản là “705”. Nội dung của văn bản vận đơn Bolero tương tự như một vận đơn truyền thống. Văn bản vận đơn có thể là “sạch” hoặc “bảo lưu”, có thể thể hiện là hàng đã bốc hoặc được nhận để xếp… Ngoài ra, người chuyên chở cũng có thể dẫn chiếu đến các điều kiện chuyên chở. Bản đăng ký sở hữu (Title Registry Record): Hệ thống đăng ký sở hữu sẽ duy trì một bảng cơ sở dữ liệu (database table) cho mỗi vận đơn Bolero. Bảng cơ sở dữ liệu này được gọi là “Bản đăng ký sở hữu. Bảng này sẽ liệt kê RID của các thành viên có vai trò nhất định liên quan đến vận đơn cũng như một số các dữ liệu khác. Các thành viên có thể thay đổi thông tin trên Bản đăng ký sở hữu (tương đương với việc ghi nhận các giao dịch liên quan đến vận đơn) bằng cách gửi các chỉ thị đến Hệ thống đăng ký sở hữu thông qua Core Messaging Platform.Như vậy hiểu một cách đơn giản, vận đơn Bolero bao gồm (1) BBL Text, một văn bản với những nội dung tương tự như vận đơn truyền thống và (2) một bản ghi cơ sở dữ liệu có tên là Bản ghi đăng ký sở hữu trong đó ghi nhận các giao dịch có liên quan có liên quan đến BBL Text. Thông qua các giao dịch này mà các thành viên của Bolero sẽ phát sinh các quyền và nghĩa vụ liên quan đến vận đơn Bolero theo quy định của Bolero Rulebook. 2. Các bên liên quan đến vận đơn BoleroCác bên liên quan đến một vận đơn Bolero sẽ được ghi lại trên các trường dữ liệu (data fields) của Bản đăng ký sở hữu (Title Registry Record). Thông qua hoạt động của Hệ thống đăng ký sở hữu mà vận đơn Bolero thực hiện được các chức năng truyền thống của vận đơn. Trong các trường dữ liệu của một Bản đăng ký sở hữu, hệ thống sở hữu lưu giữ các thông tin về trạng thái của vận đơn Bolero đó và các quyền và nghĩa vụ của các thành viên có liên quan đến vận đơn đó. Sơ đồ sau mô tả một cách đơn giản cấu trúc của một Bản đăng ký sở hữu: Sơ đồ 5: Mô hình giản lược một Bản đăng ký sở hữu (Nguồn: Appendix to Bolero Rulebook-Operating Procedures/www.bolero.net)

Page 25: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

Mỗi bên liên quan đến một vận đơn Bolero sẽ được thể hiện trên một trường dữ liệu bằng mã nhận diện (RID) của thành viên đó, bao gồm cả các phần mã nhận diện chi tiết (specific identifiers) nhưng không bao gồm phần mở rộng của của mã nhận diện. Mặc dù một mã nhận diện được ghi trong Bản đăng ký sở hữu, bất cứ ai có tài khoản phụ (sub- account) cùng sử dụng một mã nhận diện gốc (Root Indentifier) đều có thể gửi các chỉ dẫn đến Hệ thống đăng ký sở hữu để thay đổi Bản đăng ký sở hữu của vận đơn trừ phi bị giới hạn bởi hệ thống của chính người sử dụng đó. 2.1. Người chuyên chở (Originator/Carrier): Người chuyên chở là người chuyên chở theo hợp đồng. Đây chính là người phát hành vận đơn Bolero theo thoả thuận với người gửi hàng. Vai trò của Người chuyên chở trong Hệ thống đăng ký sở hữu được thể hiện như sau:Có thể được đảm nhận bởi Về lý thuyết, bất kỳ thành viên nào cũng có thể được ghi tên trong trường dữ liệu Người chuyên chở. Tuy nhiên trên thực tế chỉ một số thành viên của Bolero có khả năng hoạt động như những người chuyên chở. Số lượng Chỉ có một thành viên được ghi nhận với vai trò là người chuyên chở của một vận đơn Bolero.Tính bắt buộc Tất cả các vận đơn Bolero đều phải có một người chuyên chởĐược chỉ định bởi Người chuyên chở tự chỉ định chính mình khi phát hành vận đơn.Tính cố định Khi một vận đơn Bolero được phát hành, không một người sử dụng nào có thể chỉ định một người chuyên chở mới hay thay đổi mã nhận diện của người chuyên chở ghi trên Bản đăng ký sở hữu.Quyền hạn Người chuyên chở có thể: 1. Phát hành một vận đơn Bolero cũng có nghĩa là có quyền chỉ định người gửi hàng, người nắm giữ ban đầu (initial Holder, bên theo lệnh ban đầu (initial To Order Party), người nhận hàng và các bên khác có liên quan. 2. Chấp thuận hoặc từ chối đề nghị sửa đổi vận đơn, và nếu chấp thuận thì tiến hành quá trình sửa đổi.

2.2. Bên xuất trình (Surrender Party):Là một người do người chuyên chở chỉ định để hoàn thành việc thực hiện nghĩa vụ của người chuyên chở khi vận đơn Bolero được xuất trình (là người mà vận đơn phải được xuất trình cho người đó để nhận hàng). Vai trò của bên xuất trình. Vai trò của bên xuất trình có thể được tóm tắt như sau:Có thể được đảm nhận bởi Bất kỳ thành viên nào của hệ thống cũng đều có thể được chỉ định là bên xuất trình (RID của thành viên đó được ghi trong trường “Bên xuất trình”Số lượng Mỗi vận đơn Bolero chỉ có thể có một bên xuất trình được chỉ

Page 26: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

định.Tính bắt buộc Việc chỉ định bên xuất trình là tuỳ thuộc vào người chuyên chở. Nếu người chuyên chở không chỉ định bên xuất trình, người chuyên chở sẽ tự nhận vận đơn Bolero được xuất trình.Được chỉ định bởi Chỉ có người chuyên chở của một vận đơn Bolero mới có thể chỉ định bên xuất trình của vận đơn đó.Tính cố định Một khi đã được chỉ định, Hệ thống đăng ký sở hữu không thể thay đổi bên xuất trình, tuy nhiên bên xuất trình có thể được thay đổi thông qua việc người chuyên chở sửa đổi vận đơnQuyền hạn Bên xuất trình không thể thực hiện bất cứ chức năng nào thông qua Hệ thống đăng ký sở hữu, tuy nhiên bên xuất trình vẫn được thông báo các thông tin liên quan đến vận đơn nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện nghĩa vụ giao hàng khi vận đơn được xuất trình.

2.3. Người gửi hàng (Shipper) Là người ký hợp đồng với người chuyên chở để chuyên chở hàng hoá. Thông thường, người gửi hàng là người bán hay người xuất khẩu. Vai trò của người gửi hàng trong hệ thống đăng ký sở hữu được thể hiện như sau:Có thể được đảm nhận bởi Bất kỳ thành viên nào của hệ thống cũng đều có thể được chỉ định là người gửi hàng (RID của thành viên đó được ghi trong trường “Người gửi hàng”).Số lượng Mỗi vận đơn Bolero chỉ có thể có một người gửi hàng.Tính bắt buộc Mỗi vận đơn Bolero được phát hành đều có một người gửi hàng được chỉ định.Được chỉ định bởi Người chuyên chở phát hành vận đơn chỉ định người gửi hàng theo như thoả thuận với người gửi hàng.Tính cố định Một khi đã được chỉ định, không thể thay đổi người gửi hàng thông qua hệ thống đăng ký sở hữu, tuy nhiên người gửi hàng có thể được thay đổi thông qua việc người chuyên chở sửa đổi vận đơn. Quyền hạn Người gửi hàng không thể thực hiện bất cứ chức năng nào thông qua Hệ thống đăng ký sở hữu nếu chỉ có vai trò là người gửi hàng. Các quyền của người chuyên chở phát sinh từ các vai trò khác bên cạnh vai trò người gửi hàng. Với một số vai trò khác, người gửi hàng có thể: 1. Chỉ định người cầm vận đơn hoặc người cầm cố vận đơn làm tài sản thế chấp (Pledgee Holder), nếu người gửi hàng đồng thời là người cầm vận đơn. 2. Chỉ định người nhận hàng hoặc bên theo lệnh kế tiếp hoặc ký hậu bỏ trống (vô danh) vận đơn, nếu người gửi hàng đồng thời là người cầm vận đơn theo lệnh (Holder-To-Order) hoặc người cầm vận đơn vô danh (Bearer Holder). 3. Xuất trình vận đơn nếu người gửi hàng đồng thời là người cầm vận đơn

Page 27: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

theo lệnh hoặc vừa là người cầm vận đơn vừa là người nhận hàng (Trường hợp người gửi hàng đồng thời là người gửi hàng rất hiếm gặp trên thực tế). 4. Yêu cầu sửa đổi vận đơn Bolero hoặc đưa ra chỉ thị về việc chuyển vận đơn thành vận đơn trên giấy nếu người gửi hàng đồng thời là người cầm vận đơn. Người gửi hàng nếu không còn là người cầm vận đơn sẽ không thực hiện được bất kỳ chức năng nào liên quan đến vận đơn đó nữa.

2.4. Người nhận hàng (Consignee)Là người mua hoặc người nhập khẩu hàng hoá, là người sẽ nhận hàng hoá được chuyên chở theo một vận đơn Bolero không thể chuyển nhượng. Khi một người nhận hàng được chỉ định cho một vận đơn Bolero có thể chuyển nhượng, vận đơn đó sẽ trở thành một vận đơn không thể chuyển nhượng. Vai trò của người nhận hàng trong hệ thống đăng ký sở hữu được thể hiện như sau:Có thể được đảm nhận bởi Bất kỳ thành viên nào của hệ thống cũng đều có thể được chỉ định là người nhận hàng (RID của thành viên đó được ghi trong trường “Người nhận hàng”.Số lượng Chỉ có một RID duy nhất được chỉ định là người nhận hàng của một vận đơn.Tính bắt buộc Việc chỉ định người nhận hàng là không bắt buộcĐược chỉ định bởi Trong quá trình phát hành vận đơn, người chuyên chở có thể chỉ định người nhận hàng của vận đơn, nếu người chuyên chở không chỉ định bên theo lệnh của vận đơn. Sau khi bên theo lệnh của vận đơn được chỉ định, bên theo lệnh hoặc người cầm vận đơn vô danh có thể chỉ định người nhận hàng.Tính cố định Một khi đã được chỉ định, không thể thay đổi người nhận hàng thông qua hệ thống đăng ký sở hữu, tuy nhiên người nhận hàng có thể được thay đổi thông qua việc người chuyên chở sửa đổi vận đơn.Quyền hạn Người nhận hàng đồng thời là người cầm vận đơn có thể: 1. Yêu cầu sửa đổi vận đơn Bolero. 2. Xuất trình vận đơn cho người chuyên chở hoặc bên xuất trình được chỉ định. 3. Đưa ra chỉ thị về việc chuyển vận đơn thành vận đơn giấy. Người nhận hàng nếu không đồng thời là người cầm vận đơn sẽ không thể thực hiện bất cứ hoạt động nào thông qua hệ thống đăng ký sở hữu.

5. Bên theo lệnh (To Order Party) Là người được ký hậu (endorsee) một vận đơn Bolero có thể chuyển nhượng. Vai trò của bên theo lệnh trong hệ thống đăng ký sở hữu như sau:

Page 28: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

Có thể được đảm nhận bởi Bất kỳ thành viên nào của hệ thống cũng đều có thể được chỉ định là bên theo lệnh (RID của thành viên đó được ghi trong trường “ Bên theo lệnh”).Số lượng Tại một thời điểm chỉ có một RID có thể được chỉ định là bên theo lệnh của một vận đơn Bolero.Tính bắt buộc Việc chỉ định bên theo lệnh là không bắt buộc.Được chỉ định bởi Khi phát hành vận đơn, người chuyên chở có thể chỉ định bên theo lệnh ban đầu (initial To Order Party) (theo các chỉ dẫn của người gửi hàng). Người cầm vận đơn vô danh (Bearer Holder) cũng có thể chỉ định bên theo lệnh bằng một chỉ thị huỷ bỏ trạng thái ký hậu bỏ trống của vận đơn và điền RID của một thành viên vào trường “Bên theo lệnh”.Sau khi được chỉ định, một bên theo lệnh cũng có thể chỉ định một bên theo lệnh tiếp theo thông qua một thủ tục tương tự như thủ tục ký hậu đối với vận đơn truyền thống (sẽ được mô tả cụ thể ở mục… dưới đây).Tính cố định Khi một bên theo lệnh được chỉ định, bên này có bị thay thế theo thủ tục được mô tả trong mục … dưới đây.Quyền hạn Một người sử dụng vừa là bên theo lệnh hiện tại đồng thời là người cầm vận đơn (ví dụ: Holder – To – Order) của một vận đơn Bolero có thể: 1. Chỉ định bên theo lệnh tiếp theo của vận đơn. 2. Chỉ định một người nhận hàng và do đó chuyển vận đơn sang trạng thái không thể chuyển nhượng. 3. Ký hậu để trống vận đơn (do đó khiến cho bản thân bên theo lệnh trở thành người cầm vận đơn vô danh) và sau đó chỉ định một người cầm vận đơn mới, người sẽ trở thành người cầm vận đơn vô danh kế tiếp. 4. Dùng vận đơn làm vật thế chấp bằng cách chỉ định một người cầm vận đơn làm tài sản thế chấp (Pledgee Holder). 5. Xuất trình vận đơn cho người chuyên chở hoặc bên xuất trình được chỉ định để nhận hàng. 6. Đưa ra chỉ thị chuyển từ vận đơn Bolero thành vận đơn trên giấy. Bên theo lệnh không thể thực hiện bất cứ chức năng nào thông qua Hệ thống đăng ký sở hữu nếu bên theo lệnh không đồng thời là người cầm vận đơn.

6. Người cầm vận đơn vô danh (Bearer Holder) Người cầm vận đơn vô danh trong hệ thống Bolero cũng tương tự như người nắm giữ một vận đơn vô danh truyền thống, loại vận đơn có thể được chuyển nhượng một cách đơn giản bằng cách trao tay. Một người cầm vận đơn vô danh mới được chỉ định thông qua thủ tục ký hậu bỏ trống vận đơn và sau đó tuỳ chọn chỉ định một người cầm vận đơn như mô tả trong mục…

Page 29: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

sau đây. Do đó, người nắm giữ vận đơn vô danh có thể được hiểu đơn giản là người cầm vận đơn Bolero được ký hậu bỏ trống.Vai trò của người cầm vận đơn vô danh được thể hiện như sau:Có thể được đảm nhận bởi Bất kỳ thành viên nào của hệ thống cũng đều có thể được chỉ định là người cầm vận đơn vô danh (RID của thành viên đó được ghi trong trường “Người cầm vận đơn vô danh”).Số lượng Tại một thời điểm chỉ có một thành viên có thể được chỉ định là người cầm vận đơn (bao gồm cả người cầm vận đơn vô danh) của một vận đơn Bolero.Tính bắt buộc Người cầm vận đơn vô danh chỉ tồn tại nếu vận đơn Bolero được ký hậu để trống. Việc ký hậu để trống là tuỳ chọn.Được chỉ định bởi Người chuyên chở trong quá trình phát hành vận đơn hoặc người cầm vận đơn theo lệnh hiện thời (current Holder – To – Order) đều có thể ký hậu bỏ trống vận đơn. Những người cầm vận đơn tiếp theo sẽ được chỉ định như mô tả trong mục…. Như đã đề cập ở trên, khi một vận đơn Bolero được ký hậu để trống, việc chỉ định một người cầm vận đơn tương đương với việc chỉ định một người cầm vận đơn vô danh.sTính cố định Người cầm vận đơn vô danh hiện tại có thể chỉ định người kế tiếp bằng cách chỉ định một người sử dụng khác là người cầm giữ vận đơn và giữ nguyên trạng thái ký hậu bỏ trống của vận đơn. Người cầm vận đơn vô danh cũng có thể tự huỷ bỏ vai trò của mình bằng cách thay đổi trạng thái ký hậu bỏ trống của vận đơn và chỉ định một bên theo lệnh hoặc người gửi hàng.Quyền hạn Người cầm vận đơn vô danh có thể: 1. Chỉ định một người cầm vận đơn mới (bằng cách chỉ định một người cầm vận đơn mới của một vận đơn được ký hậu bỏ trống). Tuy nhiên, người cầm vận đơn không thể ký hậu bỏ trống vận đơn vì vận đơn đã ở trạng thái ký hậu bỏ trống. 2. Chỉ định một bên theo lệnh và do đó huỷ bỏ trạng thái ký hậu bỏ trống của vận đơn và đưa vận đơn về trạng thái có thể chuyển nhượng. 3. Chỉ định một người gửi hàng, và do đó chuyển vận đơn sang trạng thái không thể chuyển nhượng. 4. Dùng vận đơn làm vật thế chấp bằng cách chỉ định một người cầm vận đơn làm tài sản thế chấp (Pledgee Holder). 5. Yêu cầu sửa đổi vận đơn. 6. Đưa ra chỉ thị chuyển vận đơn Bolero thành vận đơn giấy.

7. Người nhận thế chấp (Pledgee) Là một tổ chức tài chính (hoặc tổ chức khác) có lợi ích liên quan đến một

Page 30: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

vận đơn Bolero trên cơ sở cung cấp tài chính hoặc đảm bảo thanh toán cho lô hàng được chuyên chở. Vai trò của người nhận thế chấp trong hệ thống đăng ký sở hữu được thể hiện như sau:Có thể được đảm nhận bởi Hiện tại, bất kỳ thành viên nào của hệ thống cũng đều có thể được chỉ định là người nhận thế chấp (RID của thành viên đó được ghi trong trường “Người nhận thế chấp”)Số lượng Tại một thời điểm chỉ có một thành viên có thể được chỉ định là người nhận thế chấp của một vận đơn Bolero.Tính bắt buộc Việc chỉ định người nhận thế chấp là tuỳ chọn.Được chỉ định bởi Người cầm vận đơn theo lệnh hoặc người cầm vận đơn vô danh có thể chỉ định một người nhận thế chấp. Một người nhận thế chấp cũng có thể chỉ định một người khác làm người nhận thế chấp kế tiếp. Khi một người nhận thế chấp được chỉ định, người nhận thế chấp sẽ tự động được chỉ định là người cầm vận đơn Bolero bị thế chấp (pledged Bolero Bill of Lading). Miễn là người nhận thế chấp vẫn giữ vai trò nhận thế chấp, anh ta sẽ vẫn là người cầm vận đơn. Người nhận thế chấp đồng thời là người cầm vận đơn được gọi là “người cầm vận đơn làm tài sản thế chấp” (“Pledgee Holder”).Tính cố định Người nhận thế chấp có thể chỉ định một người nhận thế chấp kế tiếp, hoặc một người cầm vận đơn mới, trong trường hợp này RID của người nhận thế chấp trong trường “người nhận thế chấp” sẽ bị xoá đi.Quyền hạn Người nhận thế chấp vận đơn đồng thời là người cầm vận đơn có thể: 1. Giải chấp bằng cách chỉ định người cầm vận đơn theo lệnh hoặc cầm vận đơn vô danh có trước khi vận đơn bị thế chấp làm người cầm vận đơn. 2. Thực hiện việc nhận thế chấp bằng cách chỉ định chính mình hoặc một người sử dụng khác là người cầm vận đơn, với hệ quả tiếp theo xảy ra là RID của người nhận thế chấp bị xoá khỏi trường “người nhận thế chấp”. Nếu vận đơn không ở trạng thái ký hậu bỏ trống, người nhận thế chấp đồng thời chỉ định chính mình hoặc một người sử dụng khác trở thành bên theo lệnh. 3. Đưa ra chỉ thị chuyển từ vận đơn Bolero sang vận đơn trên giấy. 4. Chỉ định người nhận thế chấp kế tiếp. Như đã đề cập trên đây, việc người nhận thế chấp không phải là người cầm vận đơn chỉ xảy ra trên lý thuyết. Hệ thống đăng ký sở hữu tự động chỉ định người nhận thế chấp là người cầm vận đơn và không cho phép người nhận thế chấp chỉ định một người cầm vận đơn khác mà vẫn giữ nguyên vai trò là người thế chấp.

8. Người cầm vận đơn (Holder)

Page 31: Một số vấn đề với vận đơn đường biển

Là người có quyền nắm giữ vận đơn nếu vận đơn Bolero được chuyển thành vận đơn giấy. Người cần vận đơn có vai trò như sau:Có thể được đảm nhận bởi Bất kỳ thành viên nào của hệ thống cũng đều có thể được chỉ định là người cầm vận đơn (RID của thành viên đó được ghi trong trường “Người cầm vận đơn ”).Số lượng Tại một thời điểm chỉ có một thành viên có thể được chỉ định là người cầm vận đơn của một vận đơn Bolero.Tính bắt buộc Mỗi vận đơn Bolero ở mọi thời điểm kể từ khi được tạo ra cho đến khi được xuất trình đều phải có người cầm vận đơn. Người cầm vận đơn không thể xoá RID của anh ta trong trường “người cầm vận đơn”.Được chỉ định bởi Người cầm vận đơn hiện tại có thể chỉ định một thành viên khac của hệ thống là người cầm vận đơn tiếp theo.Tính cố định Người cầm vận đơn có thể thay đổi miễn là vận đơn còn hiệu lực (từ khi vận đơn được tạo ra cho dến khi nó được xuất trình hoặc chuyển thành vận đơn trên giấy).Quyền hạn Người cầm vận đơn có thể: 1. Chỉ định một người cầm vận đơn. 2. Chỉ định một người cầm vận đơn làm tài sản thế chấp. 3. Đưa ra chỉ thị về việc chuyển vận đơn Bolero sang vận đơn giấy. 4. Yêu cầu sửa đổi vận đơn Bolero. 2.9. Sự kết hợp các vai tròTrong nhiều trường hợp, một người sử dụng cùng lúc phải đóng vai trò của người cầm vận đơn va một vai trò khác để có thể thực hiện được các quyền thông qua hệ thống đăng ký sở hữu. Một số vai trò kép như vậy được gọi bằng các tên riêng và được liệt kê trong bảng dưới đây. Thông thường, thuật ngữ dùng để chỉ một vai trò kép là do kết hợp tên gọi của hai vai trò (người cầm vận đơn và một vai trò khác).Thuật ngữ Người sử dụng đảm nhận cùng lúc các vai trò củaConsignee Holder Người nhận hàng và người cầm vận đơnHolder–to–order Bên theo lệnh và người cầm vận đơnPledgee Holder Người nhận thế chấp và người cầm vận đơnShipper Holder Người gửi hàng và người cầm vận đơn