10
Đối với cộng đồng dân tộc Êđê, Ghế K’pan không những là tài sản của gia chủ mà, là một vật thiêng thể hiện sự sung túc giàu có của mỗi gia đình… còn là niềm tự hào chung của cả Buôn làng. Ghế K’pan biểu tượng sung túc K’pan là một chiếc ghế độc mộc, bằng gỗ nguyên khối dài khoảng 15m, rộng từ 65 đến 85cm, với độ dày 7-8cm kê cao 45- 50cm, hơi cong ở hai đầu tạo nên dáng vẻ vững chắc, mạnh mẽ. Không phải nhà nào cũng được làm K’pan, thường trong buôn chỉ có 1 đến 2 gia đình, còn buôn nào có nhiều người giàu thì cũng chỉ có thêm 3 đến 4 nhà mà thôi. Gia đình nào muốn được cộng đồng ủng hộ cho tổ chức lễ hội làm K’pan thì gia đình đó phải có kinh tế khá giả, có tấm lòng hào hiệp, hay giúp đỡ những người xung quanh. Bên cạnh đó, gia đình được làm K’pan không chỉ phải lo đủ trâu, lợn, gà, rượu, gạo phục vụ cho bà con trong những ngày làm K’pan, mà theo tục lệ còn phải tổ chức được các lễ hiến sinh, cầu sức khỏe, có nhiều cuộc khoản đãi cộng đồng và có nhiều chiêng ché. Để làm được một chiếc K’pan cần phải có sự giúp sức của cả buôn làng, chứ một gia đình khó lòng làm nổi, vì thế K’pan cũng có thể xem là biểu tượng thể hiện tinh thần đoàn kết giữa các gia đình trong cộng đồng buôn làng dân tộc Êđê. Thời gian làm K’pan khoảng một tuần mới có thể hoàn thành. Do đồng bào Êđê theo chế độ mẫu hệ nên việc tìm chặt cây phải được bàn định trước với gia đình bên vợ và cây rừng để làm K’pan phải được người phụ nữ có tiếng nói trong gia đình lựa chọn. Đó là một cây gỗ cổ thụ, cao, to, thẳng, đã được thần linh chứng giám cho phép chặt từ rừng thiêng. Trước khi muốn chặt cây lớn mang về làm K’pan thì chủ nhà phải lấy một mảnh nhỏ vỏ cây mang về cúng thần. Để tránh mọi điều xui xẻo và mang lại nhiều may mắn cho gia chủ K’pan. Khi đi chặt cây gỗ lớn nhà chủ và thầy cúng phải chọn ngày đẹp trời, trong buôn không có đám tang. Dẫn đầu đoàn vào

Mot vai net van hoa tay nguyen

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Mot vai net van hoa tay nguyen

Đối với cộng đồng dân tộc Êđê, Ghế K’pan không những là tài sản của gia chủ mà, là một vật thiêng thể hiện sự sung túc giàu có của mỗi gia đình… còn là niềm tự hào chung của cả Buôn làng.Ghế K’pan biểu tượng sung túcK’pan là một chiếc ghế độc mộc, bằng gỗ nguyên khối dài khoảng 15m, rộng từ 65 đến 85cm, với độ dày 7-8cm kê cao 45-50cm, hơi cong ở hai đầu tạo nên dáng vẻ vững chắc, mạnh mẽ.Không phải nhà nào cũng được làm K’pan, thường trong buôn chỉ có 1 đến 2 gia đình, còn buôn nào có nhiều người giàu thì cũng chỉ có thêm 3 đến 4 nhà mà thôi. Gia đình nào muốn được cộng đồng ủng hộ cho tổ chức lễ hội làm K’pan thì gia đình đó phải có kinh tế khá giả, có tấm lòng hào hiệp, hay giúp đỡ những người xung quanh.Bên cạnh đó, gia đình được làm K’pan không chỉ phải lo đủ trâu, lợn, gà, rượu, gạo phục vụ cho bà con trong những ngày làm K’pan, mà theo tục lệ còn phải tổ chức được các lễ hiến sinh, cầu sức khỏe, có nhiều cuộc khoản đãi cộng đồng và có nhiều chiêng ché.

Để làm được một chiếc K’pan cần phải có sự giúp sức của cả buôn làng, chứ một gia đình khó lòng làm nổi, vì thế K’pan cũng có thể xem là biểu tượng thể hiện tinh thần đoàn kết giữa các gia đình trong cộng đồng buôn làng dân tộc Êđê. Thời gian làm K’pan khoảng một tuần mới có thể hoàn thành.Do đồng bào Êđê theo chế độ mẫu hệ nên việc tìm chặt cây phải được bàn định trước với gia đình bên vợ và cây rừng để làm K’pan phải được người phụ nữ có tiếng nói trong gia đình lựa chọn. Đó là một cây gỗ cổ thụ, cao, to, thẳng, đã được thần linh chứng giám cho phép chặt từ rừng thiêng.Trước khi muốn chặt cây lớn mang về làm K’pan thì chủ nhà phải lấy một mảnh nhỏ vỏ cây mang về cúng thần. Để tránh mọi điều xui xẻo và mang lại nhiều may mắn cho gia chủ K’pan. Khi đi chặt cây gỗ lớn nhà chủ và thầy cúng phải chọn ngày đẹp trời, trong buôn không có đám tang. Dẫn đầu đoàn vào rừng chặt gỗ là người lớn tuổi trong nhà cùng thầy cúng, tiếp đó là 7 người con trai khỏe mạnh mang theo dao, búa, rìu. Đi cuối là dân làng và người nhà mang lương thực phục vụ.Đến chỗ cây lớn đã định, thầy cúng và chủ nhà phải chọn chiều cây đổ dọc theo dòng nước chảy rồi mới cho bổ rìu. Chủ nhà là người bổ nhát rìu đầu tiên rồi sau đó mới đến mọi người. Gỗ để làm K’pan phải chọn loại cây rừng lâu năm, cao, to, thẳng, gỗ tốt. Cây ngả xuống, người ta chặt sạch cành lá. Chủ nhà và thầy cúng đi lên thân cây 7 lần để đuổi tà ma, rồi những người thợ mới được dùng rìu đẽo cây thành chiếc K’pan có hình chiếc thuyền với những đường nét khỏe khoắn.Sau khi thầy cúng cầm rìu bổ nhẹ vào K’pan theo tục lệ, mấy chục trai tráng trong buôn cùng khênh K’pan về buôn, còn những thanh niên nam nữ khác vừa đi theo múa hát, gõ chiêng. Đến đầu buôn, đám rước đặt K’pan xuống cho thầy cúng phủ vải đỏ lên rồi mới đưa về, đặt ở vườn sau của chủ nhà.Các ngày sau đó, những người thợ khéo tay nhất buôn sẽ chạm khắc những hoa văn có tính biểu tượng truyền thống Êđê lên chiếc K’pan và họ được chủ nhà nuôi cơm rượu.

Page 2: Mot vai net van hoa tay nguyen

Khi chiếc K’pan chính thức hoàn thành, mọi người trong buôn tập trung đưa ra cửa trước, đặt một đầu lên sàn nhà. Người chủ ăn mặc đẹp, cầm lấy khiên, kiếm đã được bày sẵn trên chiếu, đi lại 7 lần trên K’pan để xua đuổi điều xấu và không may mắn rồi đặt tên cho K’pan như một sự thông báo chính thức mình là chủ của K’pan. Lúc này, thầy cúng làm lễ khấn báo thần linh rằng, K’pan đã có chủ và cho khiêng vào gian khách, đặt dọc vách phía tây nhà và khi ấy lễ cầu Yang mới chính thức diễn ra.Lễ rước Ghế K’panSau khi hoàn thành ghế K’pan thì tiến hành lễ rước về nhà. Tất cả mọi người tham gia buổi lễ đều mặc trang phục truyền thống của người Êđê. Những Nghệ nhân mang theo các loại nhạc cụ như đinh năm, đinh tút, tù và. Trước khi vào hành lễ, thầy cúng mặc khố, áo truyền thống đi trước, theo sau là một tốp nam thanh niên gồm 14 đến 20 người ghé vai cùng khiêng chiếc K’pan.Tiếp đến là thanh niên nam, nữ đi thành hai hàng dọc, còn các Nghệ nhân thì vừa đi vừa diễn tấu, múa các loại nhạc cụ. Khi rước K’pan về đến nhà, trên sàn nhà đã được trải chiếu và bày sẵn một bát cơm, vòng đồng, áo. Thầy cúng hoặc chủ nhà cầm khiên, kiếm đạp lên đầu ghế K’pan bảy lần hoặc múa khiên, kiếm đi dọc K’pan để “đuổi thần xấu” ra khỏi K’pan. Múa xong, thầy cúng báo cho dân làng và những người đến dự biết tên của K’pan là gì. Ghế K’pan được quay đầu đưa vào nhà và được kê vào đúng vị trí dọc theo vách phía tây tại gian tiếp khách, sát với hàng cột. Khi được kê xong xuôi, thầy cúng bắt đầu cúng báo cho tổ tiên biết ghế K’pan đã được đưa vào nhà.

Lễ vật cúng gồm 5 ché rượu, 5 chén cơm, 5 chén rượu, 5 chén đựng thịt (mỗi thứ một ít), một đầu heo, một miếng lá chuối cắt tròn. Khi lễ vật được bày xong, thầy cúng ngồi trước lễ vật, chủ nhà ngồi bên cạnh, dàn chiêng đánh bài Tông Ngă Yang khoảng 5 đến 10 phút thì dừng lại để thầy cúng khấn. Cúng xong, thầy cúng cầm cần uống rượu trước, sau đó đưa cần cho chủ nhà và những người trong gia đình vừa uống vừa ăn thịt. Khi những người trong nhà uống xong thì mời mọi người dự lễ cùng ăn uống. Tiếng chiêng vang dội khắp buôn làng, những điệu múa nhịp nhàng ngân mãi cho đến khi rượu nhạt thì buổi lễ mới chấm dứt.Theo quan niệm cổ xưa, gia đình nào làm được K’pan, chủ nhà nghỉ 2 ngày không đi làm nhưng đến ngày thứ ba mở một ché rượu ngon mời người thân tới uống mừng sự hoàn thành tốt đẹp của K’pan. Ngày nay, họ không thực hiện nhiều thủ tục kiêng kị như trước, nhưng những bữa liên hoan chúc mừng vẫn diễn ra suốt đêm...Lễ rước K’pan là nghi lễ đặc trưng, mang tính sinh hoạt cộng đồng, thể hiện sự đoàn kết của đồng bào Êđê. Vì thế, việc bảo tồn lễ rước K’pan là cơ hội để đồng bào nhớ lại và gìn giữ những nét đẹp văn hóa đặc trưng của cộng đồng dân tộc mình, đồng thời giáo dục con cháu phải luôn nhớ đến những thể thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng mang bản sắc dân tộc Ê đê.

Page 3: Mot vai net van hoa tay nguyen

Lễ đặt tên cho con là một phong tục truyền thống độc đáo, là một thành tố văn hóa, tôn giáo quan trọng liên quan đến các nghi lễ vòng đời của dân tộc Cơ Ho ở Lâm Đồng.Theo thống kê hiện nay, người Cơ Ho có khoảng hơn 150.000 người tập trung ở các huyện Lạc Dương, Đức Trọng, Di Linh của Lâm Đồng. Người Cơ Ho hiện nay vẫn còn lưu giữ được nhiều phong tục truyền thống độc đáo trong đó có “Lễ đặt tên cho con”.Theo quan niệm của người Cơ Ho, việc làm lễ đặt tên cho con là một trong những nghi lễ rất quan trọng và cần thiết vì đứa trẻ sinh ra cần phải được các Yàng (thần linh) che chở phù hộ trong suốt cuộc đời. Bởi vậy, cứ sau khi sinh được 7 ngày là mọi người trong gia đình phải làm lễ đặt tên cho em bé.Và trong 7 ngày ở cữ của người mẹ, người Cơ Ho cho cắm một cành cây có gai dài khoảng chừng 1m bên ngoài vách nhà nơi gần bếp lửa  - chỗ nằm của hai mẹ con vừa để ngăn ma, quỷ và vừa để báo hiệu trong nhà có người mới sinh không cho khách và người lạ vào nhà.Để chuẩn bị cho nghi lễ đặt tên con, trước đó người cha và mọi người trong gia đình đã phải bỏ thời gian để đan một chiếc gùi hoa nhỏ xinh, cùng với bộ khung dệt vải hoặc rổ xúc cá nếu bà mẹ sinh con gái. Cũng có khi là một cái xà gạt (dao có cán đi rừng đặc trưng của người Tây Nguyên) và một cái ná (cung tên) nhỏ nếu đó là con trai.Địa điểm tổ chức lễ, tại gian chính của nhà ngay trước bàn thờ. Lễ vật dâng cúng thần linh khá đơn giản không quá cầu kỳ, bao gồm: một chóe rượu cần, một con gà sống, một nhánh chuối, một quả trứng gà, một chén cơm và một chén đựng bộ lòng gà, một chén tiết gà (sau khi hiến sinh).Bên cạnh đó, được bày thêm chiếc gùi, bộ khung dệt hoặc chiếc xà gạt, chiếc ná nhỏ đã được chuẩn bị từ trước (đây là những vật tượng trưng) để cầu mong thần linh ban cho con gái thì xinh đẹp, chăm chỉ, khéo tay; con trai thì được “dài chân, dài tay như con vượn, khỏe mạnh như con gấu, con hùm” để chinh phục núi rừng săn bắt thú, giỏi việc nương rẫy.Người được mời tham gia buổi lễ gồm có ông cậu, già làng và bà mụ (bà đỡ), mẹ con mới sinh và bà con bên nội bên ngoại của em bé để làm chứng. Thường bố vợ là người đứng ra làm lễ cúng Yàng. Ông mặc áo, khố truyền thống, đầu đội khăn choàng, tay cầm một chiếc roi làm bằng mây rừng và lục lạc. Ngồi cạnh ông là người mẹ bế con và bà đỡ.Trong lễ cúng, trước khi hiến sinh, người chủ cúng hai tay ôm con gà đưa lên ngang tầm mắt hướng thẳng lên bàn thờ và bắt đầu cầu khấn thần linh phù hộ cho đứa trẻ. Tất cả những người trong gia đình và họ hàng nội ngoại có mặt đều chắp tay và cầu nguyện cho đứa trẻ.Ngay sau khi khấn xong, con gà được cắt tiết cho vào chén, còn lưỡi gà được moi ra, người cúng vừa khấn đọc tên đứa trẻ vừa cầm lưỡi gà nhúng vào rượu cần chọi lên bàn thờ từ 1 đến 3 lần cho đến khi lưỡi gà dính vào bàn thờ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc tên của đứa trẻ cũng đã được thần linh chấp nhận. Sau đó, người ta lấy máu gà trong chén chấm lên trán đứa trẻ xin thần linh ban cho nó luôn mạnh khỏe và tới đây nghi lễ cũng được kết thúc.

Page 4: Mot vai net van hoa tay nguyen

Người Cơ Ho theo chế độ mẫu hệ nên con cái thường được đặt theo họ mẹ. Họ thường chọn tên của những người giỏi giang có tiếng tăm trong dòng họ, buôn làng để đặt tên cho con cháu. Họ cũng kiêng không lấy tên các thần linh để đặt cho con vì họ tin rằng những tên này sẽ mang đến tai họa, điềm dữ cho đứa trẻ trong suốt cuộc đời.Lễ đặt tên cho con là một phong tục truyền thống độc đáo của người Cơ Ho nói riêng và một số tộc người sống ở vùng Tây Nguyên nói chung. Đây cũng là một trong những giá trị văn hóa truyền thống cần được bảo tồn và phát huy.Trong các loại nhạc của người M’nông, kèn Rlet là loại nhạc cụ đặc biệt, có vị trí quan trọng trong đời sống tâm linhNgười M’nông tin rằng, đời sống, sức khoẻ, công việc làm ăn của mọi thành viên trong gia đình, dòng họ phụ thuộc vào ba vị thần: đó là thần Lúa, thần Kuắt (Kuắt là một túi dây rừng) và thần Rlet. Đồng bào tin rằng khi thổi Rlet có thể gọi được thần Lúa về, đuổi ma xấu đi, chính vì thế Kèn Rlet không thể thiếu trong lễ cúng lớn, có vai trò đặc biệt trong đời sống tinh thần, tâm linh của cộng đồng người M’nông.Kèn Rlet được cấu tạo gồm một ống nứa nhỏ đường kính chừng 1,5-1,8cm, dài khoảng 35cm, cắm xuyên qua vỏ một quả bầu khô. Đoạn ống nứa nằm trong thân bầu có một lỗ nhỏ; gắn một lưỡi gà làm bộ phận phát âm; đầu kia của ống nứa được cắm ngang qua một ống nứa lớn có đường kính khoảng 5cm, dài từ 15-20cm, đáy ống có mắt nứa bịt kín, đầu trên vát nhọn...

Khi thổi Rlet người ta đổ nước vào ống này để luồng hơi thổi phải qua ống nước mới ra ngoài, khiến âm thanh của Rlet trở nên trong và ấm hơn. ống của Rlet được khoét 3 lỗ, khi thổi kèn, nghệ nhân tuần tự gác lỗ, kèn Rlet sẽ cho 3 âm thanh có âm vực cách xa nhau tạo thành một phối âm phù hợp với ba chiếc chiêng dẹt của người M’nông.Đồng bào M’nông quan niệm nhà nào có kèn Rlet để trong nhà thổi thời gian từ một tháng đến lâu nhất là ba năm phải cúng một con trâu, cúng trâu xong thì mang kèn Rlet cất trên bàn thờ ông bà, không thổi nữa. Mỗi lần nhà có làm lễ cúng bái đều phải cúng kèn Rlet. Họ cho rằng có kèn Rlet để trên bàn thờ, ma quỷ không dám vào nhà quấy phá gia đình.Ngày làm kèn Rlet phải mời các già làng, cử một số thanh niên đến giúp việc chuẩn bị cho nhà sắp tổ chức lễ. Gia đình nào làm kèn này phải kiêng cữ đủ chuyện: cữ ăn cá lóc, cá trê, cữ ăn thịt trâu bò cúng lễ, khi xuất bán vật nuôi cũng phải cúng bái. Chủ nhà giữ tục kiêng cữ đến khi nào tuốt lúa xong, chém trâu tạ thần linh, bỏ kèn thì mới hết kiêng cữ. Cuối năm đó, dù có thu được vài gùi lúa cũng buộc phải giết trâu hoặc bò cúng trả ơn thần kèn Rlet đã bảo vệ cho rẫy lúa và gia đình trong cả năm.Có ba trường hợp phải làm kèn Rlet: Thứ nhất, thú rừng vào rẫy hoặc bị chết trong rẫy, người ta phải làm kèn để đuổi các thần xấu ấy đi. Trường hợp này họ thổi kèn từ lúc chưa tỉa lúa đến tháng ba năm sau, chém trâu hoặc bò tạ thần linh rồi bỏ; Thứ hai, trong nhà có người đau ốm triền miên, chữa trị không hết phải làm kèn để đuổi ma quỷ quấy phá. Trường hợp này có thể thổi đến ba năm, sau đó chém trâu tạ thần rồi mới bỏ; Thứ ba, làm

Page 5: Mot vai net van hoa tay nguyen

kèn Rlet gọi thần lúa từ trên trời xuống. Trường hợp này, từ ngày làm kèn đến ngày chém trâu tạ thần không quá một tháng thì bỏ, không được sử dụng nữa.Việc thổi kèn Rlet không được tuỳ tiện mà phải theo một quy định đặc biệt, người ta phải làm một cái sạp cho người thổi Rlet (có thể là đàn ông hoặc đàn bà song phải là người đứng đắn, tốt, được bà con hàng xóm yêu mến, công nhận), ngồi để thổi kèn sát cạnh cột buộc trâu.Cùng với đinh tak ta của người Êđê, kèn Rlet của người M’nông cũng được các nhà nghiên cứu, sưu tầm âm nhạc dân gian Tây Nguyên cải tiến, thể nghiệm, sáng tác những bài bản mới dựa trên chất liệu dân gian để đưa vào phục vụ biểu diễn nghệ thuật quần chúng và chuyên nghiệp. Đối với đồng bào M’nông ở Tây Nguyên, lễ vật cúng trong các nghi lễ rất quan trọng vì nó không chỉ thể hiện sự tôn kính, biết ơn các vị thần linh đã che chở, ban cho mưa thuận gió hòa mà còn thể hiện được sự phát triển, đi lên của dân tộc.Đồng bào M’nông ở Tây Nguyên có một hệ thống nghi lễ xung quanh cuộc sống và mỗi nghi lễ đều gắn liền với một vật cúng nhất định. Những nghi lễ truyền thống không chỉ thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của đồng bào đối với các vị thần linh mà còn thể hiện giá trị nhân văn cao cả.Tùy theo ý nghĩa của từng nghi lễ mà đồng bào dâng lễ vật cúng. Lễ vật cúng thường là trâu, bò, heo, dê, gà… Đối với các lễ hội lớn, đặc trưng như: lễ ăn cơm mới, lễ cúng bến nước, lễ mừng thắng lợi, lễ mừng được mùa… thì vật hiến sinh bao giờ cũng là con trâu, nếu không có “ăn trâu” thì chưa được gọi là một lễ quan trọng.Dựa vào sự non, già của con trâu (độ dài và cong của chiếc sừng) để đánh giá lễ hội đó lớn hay nhỏ. Ngày xưa, đồng bào M’nông quan niệm rằng, con trâu càng già, sừng càng dài thì đó mới thực sự là một lễ lớn. Ngày nay, vật hiến sinh cho các nghi lễ truyền thống phụ thuộc vào quy mô, tầm quan trọng của chúng mà đồng bào làm lễ hiến sinh.Theo quan niệm của đồng bào M’nông, con trâu chính là “vật tổ” xa xưa và “hồn trâu” giúp con người gần gũi với thần linh hơn “các hồn” khác như “hồn nhện”, “hồn dế”, “hồn cào cào”… Ở đây, con trâu là con vật nuôi có giá trị kinh tế lớn của gia đình nên khi giết trâu tế thần là thể hiện lòng tôn kính, hiếu thảo cao nhất của con người với thế giới tâm linh. Đồng bào tin rằng “thần trâu”, “hồn trâu” luôn ở bên cạnh sẽ mang lại may mắn cho gia đình và cộng đồng…Mặt khác, “ăn trâu” còn là dịp thể hiện sự hưng thịnh, trù phú của cộng đồng và là sợi dây gắn kết giữa con người với thế giới tâm linh. Con trâu là “linh hồn”, làm cho buổi lễ thêm sinh động, náo nhiệt và như một “sứ giả” chịu trách nhiệm trình lên các vị thần linh những lời thỉnh cầu, biết ơn của đồng bào.Do đó, trước khi bị giết, trâu được chọn thường được chăm sóc, vuốt ve, tắm rửa sạch sẽ để tạo nên sự linh thiêng khác với những con trâu bình thường. Đặc biệt hơn, đồng bào M’nông còn có nghi thức “khóc trâu” để đưa tiễn “linh hồn” trâu về với thế giới tâm linh.

Page 6: Mot vai net van hoa tay nguyen

Đối với đồng bào M’nông, lễ vật cúng trong các nghi lễ rất quan trọng vì nó không chỉ thể hiện sự tôn kính, biết ơn các vị thần linh đã che chở, ban cho mưa thuận gió hòa mà còn thể hiện được sự phát triển, đi lên của dân tộc”. Việc dâng lên các Yàng những tặng phẩm là những bằng chứng của đức tin, lòng biết ơn sâu sắc của bà con dân làng đối với thần linh và các thế lực siêu nhiên. Mỗi khi dâng hiến các lễ vật, chúng tôi cảm thấy yên lòng hơn rất nhiều vì được sự che chở, dẫn dắt của thần linh.Có thể nói, lễ vật cúng trong các nghi lễ truyền thống của đồng bào M’nông nói riêng và các dân tộc Tây Nguyên nói chung là “lá chắn” mang lại sự an toàn, yên vui cho bà con dân làng. Ngày nay, nhịp sống đã thay đổi, nhưng đồng bào M’nông vẫn duy trì được phong tục truyền thống đặc sắc của dân tộc mình.Văn hóa ẩm thực đặc sắc Tây NguyênRượu cần và các món ănĐi cùng với cơm lam là thịt nướng. Có hai loại thịt phổ biến mà đồng bào Tây nguyên thường dùng để nướng là thịt gà và thịt heo. Thịt gà khi nướng thường được mổ banh rồi nướng trực tiếp trên bếp than. Thịt heo thái bản, luồn thành những xâu dài bởi những cây xiên bằng tre nhọn đầu gọi là thịt nướng xâu. Thịt có thể được thái nhỏ gói trong lá chuối rồi vùi vào tro nóng hoặc cho vào ống nứa với muối, ớt rồi nướng như cơm lam gọi là thịt nướng ống. Thịt nướng ống hay thịt gói lá chuối đều được thực hiện trực tiếp trên lửa, tuy nhiên so với thịt nướng xâu, cách chế biến này thường giữ được vị đậm đà, thịt ngọt, mềm và không bị khô, xát.Bên cạnh các món nướng, các loại thức ăn được làm từ rau, bột hoặc thịt sống bóp gỏi cũng là một nét ẩm thực rất đặc trưng. Bột gạo giã chung với các loại rau, quấy thành món canh đặc, đựng trong lá chuối hay lá rừng là một trong những món ăn phổ biến không thể thiếu trong ngày lễ tết của người Tây Nguyên.Ngoài ra, món thịt bóp sống cũng thường được làm để dâng cúng thần linh trong dịp hội lễ. Đây là món được làm từ thịt của những loại gia súc giết mổ để hiến tế. Thịt sống được bóp với phèo non còn nóng của heo, bò, dê mới được giết mổ, tạo thành một món ăn chín tái rất hợp khẩu vị của nam giới. Ngoài các món trên, đồng bào còn có các món đưa men khác dùng để khoản đãi những người đến dự lễ được làm từ phủ tạng của các loài vật trên như món lá sách cuộn gan bò hay tiết canh dê, bò, heo trộn lòng, gan, bao tử… Tuy nhiên các món này chỉ dành cho nam giới hoặc thanh niên uống rượu, trẻ con ít được ăn.Đi kèm với các món ăn trong mùa lễ tết không thể thiếu rượu cần. Rượu Cần được làm từ chính những nguyên liệu có sẵn của núi rừng như gạo, nếp, ngô, kê, sắn… trộn với lá cây rừng ủ thành men. Để ghè rượu cần được ngon, đậm đà hương vị, ngoài các nguyên liệu trên, rượu còn được ủ thêm ớt, mía, gừng hoặc riềng để tăng thêm vị ngọt và cay cho rượu. Rượu ngon là rượu được ủ với gạo nếp, khi chín có màu vàng ươm, cay nồng và đặc sánh.Thông thường những ghè rượu Cần ngon nhất là vật phẩm để dâng cúng thần linh và được dành riêng để tiếp đãi khách quý. Trong lễ tết, những ché rượu Cần được sắp thành những hàng dọc dài hoặc xen kẻ với những gói lá đựng thức ăn để mọi người có thể ngồi đối mặt với nhau, vừa ăn, vừa uống rượu và trò chuyện.

Page 7: Mot vai net van hoa tay nguyen

Rượu Cần là thức uống ngon, dân dã và là loại thức uống truyền thống duy nhất mà đồng bào Tây Nguyên sử dụng trong mùa lễ tết của mình. Cách thức ăn và uống rượu Cần thể hiện tính cộng đồng cao của đồng bào Tây Nguyên trong các mùa hội lễ, đồng thời thể hiện mối quan hệ tình cảm gắn bó giữa con người với thiên nhiên, giữa đất trời và cỏ cây hoa lá.Ngày nay ẩm thực truyền thống mùa lễ tết của người Tây Nguyên đã trở thành đặc sản có sức hấp dẫn, thu hút và mời gọi du khách đến với Cao Nguyên, vùng đất hoang sơ, kỳ vĩ cùng các lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc mỗi dịp xuân về tết đến