Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
5
PHẦN NGHIÊN CỨU
NGHIÊN CỨU GIẢM THÍNH LỰC Ở TRẺ SƠ SINH
NGUY CƠ CAO BẰNG PHƯƠNG PHÁP SÀNG LỌC
ĐIỆN THÍNH GIÁC THÂN NÃO TỰ ĐỘNG
Lê Thị Thu Hà, Khu Thị Khánh Dung
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện tại Khoa Sơ sinh - Bệnh viện Nhi Trung ương nhằm xác định tỷ lệ nghi ngờ giảm thính lực ở trẻ sơ sinh có nguy cơ cao bằng nghiệm pháp đo điện thính giác thân não tự động với phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Trong thời gian từ 1/4/2011- 30/8/2011, 305 trẻ được xác định có nguy cơ cao giảm thính lực theo tiêu chí của Ủy ban hợp nhất về Thính học trẻ em đã được sàng lọc giảm thính lực. Nhóm nghiên cứu gồm 223 trẻ đẻ non (74,4%) và 78 trẻ đủ tháng (25,6%). Kết quả cho thấy tỷ lệ nghi ngờ giảm thính lực ở nhóm trẻ này là 21%. Trong số 64 trẻ được phát hiện có nghi ngờ GTL này, 47 trẻ được làm chẩn đoán xác định và có 39/ 47 trẻ có giảm thính lực thực sự. Giá trị chẩn đoán dương tính của nghiệm pháp sàng lọc là 82,9%. Tuổi sàng lọc trung bình là 28,5 ngày và thời gian sàng lọc trung bình là 6,1 phút. Số trẻ có thời gian sàng lọc < 5 phút chiếm 70,5%. Như vậy, nhóm trẻ sơ sinh nguy cơ cao có tỷ lệ giảm thính lực rất cao và cần được sàng lọc để phát hiện sớm. Nghiệm pháp đo điện thính giác thân não tự động có giá trị và thích hợp làm test sàng lọc cho trẻ sơ sinh.
Từ khóa: Sàng lọc giảm thính lực, điện thính giác thân não tự động.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giảm thính lực (GTL) ở trẻ em có tần suất xuất
hiện khá cao. Trên thế giới, tỷ lệ GTL khoảng 0,1-
0,3 % ở nhóm trẻ sơ sinh thường và 2-4 % ở nhóm
trẻ có nguy cơ cao. GTL nếu phát hiện muộn có
thể dẫn đến tình trạng chậm phát triển về ngôn
ngữ, trí tuệ, biến trẻ thành tàn tật vĩnh viễn. Việc
theo dõi phát hiện và can thiệp sớm GTL có ý
nghĩa quan trọng trong cải thiện chất lượng cuộc
sống cho trẻ, giảm gánh nặng cho cả gia đình
và xã hội [9]. Do đó nhiều nước trên thế giới đã
có chương trình sàng lọc GTL cho toàn bộ trẻ sơ
sinh. Ở Việt Nam, GTL trẻ em trước đây chưa thực
sự được quan tâm và chưa có nhiều nghiên cứu
trong lĩnh vực này. Chính vì vậy chúng tôi thực
hiện nghiên cứu với mục tiêu: Xác định tỷ lệ nghi ngờ giảm thính lực ở trẻ sơ sinh có nguy cơ cao điều trị tại Khoa Sơ sinh - BVNTW bằng nghiệm pháp đo điện thính giác thân não tự động.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân nghiên
cứu: Trẻ được điều trị tại Khoa Sơ sinh - BVNTW
trong giai đoạn từ ngày 01/4/20011 đến ngày
30/8/2011 được xác định là có nguy cơ cao GTL
theo tiêu chí của Ủy ban hợp nhất về thính học trẻ
em Hoa Kỳ [2][3]:
+ Tiền sử gia đình có GTL tiếp nhận vĩnh viễn.
+ Nhiễm trùng TORCH trong tử cung: CMV,
Rubella.
+ Bất thường sọ- mặt, bao gồm cả những bất
thường hình thái vành tai và ống tai.
+ Trẻ ĐN ≤34 tuần và/ hoặc cân nặng thấp
≤1500gr.
+ Ngạt.
+ Vàng da tăng bilirubin tự do với mức cần
thay máu.
+ Trẻ có suy hô hấp (SHH).
+ Nhiễm trùng sơ sinh: Nhiễm khuẩn huyết,
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
6
viêm màng não mủ, viêm phổi, viêm ruột hoại tử,
các nhiễm trùng khác như da, rốn...
+ Trẻ được điều trị bằng kháng sinh nhóm
aminoglycosid.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Trẻ sơ sinh tử vong trước
khi tình trạng cho phép thực hiện sàng lọc.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu mô tả cắt ngang
- Phương tiện nghiên cứu: Máy sàng lọc GTL
điện thính giác thân não tự động (AABR) ALGO 5
của hãng Natus.
- Quy trình sàng lọc: Tất cả trẻ sơ sinh được
chọn nghiên cứu sẽ được sàng lọc GTL bằng
nghiệm pháp AABR.
Nếu kết quả “refer”- nghi ngờ GTL- trẻ sẽ được
kiểm tra lại AABR lần 2.
Nếu kết quả AABR 2 lần “refer” trẻ sẽ được
chuyển đến Trung tâm thính học - BVNTW để xác
định GTL bằng nghiệm pháp ABR chẩn đoán ở
thời điểm 3 - 6 tháng tuổi.
- Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ ngày 01/4/20011- ngày 30/8/2011 có 305 trẻ
sơ sinh nguy cơ cao GTL được đưa vào nghiên cứu.
3.1. Đặc điểm nhóm bệnh nhân nghiên cứu
3.1.1. Tuổi thai và cân nặng của nhóm trẻ
nghiên cứu
- Có 227 trẻ đẻ non (74,4%), số trẻ ĐN dưới 32
tuần tuổi là 128 (41,9%), 78 trẻ đủ tháng (25,6 %).
- Có 242 trẻ có cân nặng khi sinh < 2500gr
(79,3%), số trẻ cân nặng < 1500 gr là 94 (30,5%),
63 trẻ có cân nặng ≥2500gr (20,7%).
3.1.2. Tiền sử gia đình và tiền sử sản khoa liên
quan với tình trạng GTL
- Tiền sử gia đình có người GTL tiếp nhận được
phát hiện ở 5 trẻ (1,6%).
- Tiền sử thai sản của mẹ có thai lưu gặp ở 15
trẻ (4,9%). Có 37 trẻ có mẹ nhiễm virus trong thời
kỳ mang thai (12,9%)
3.1.3. Các yếu tố nguy cơ cao GTL của nhóm trẻ
sơ sinh nghiên cứu
Bảng 1. Các yếu tố nguy cơ GTL
Tổng số trẻ n = 305
Số trẻ %
Vàng da 229 75,1
Vàng da phải thay máu 21 6,9
Nhiễm trùng TORCH bào thai 22 7,2
Nhiễm trùng sơ sinh 167 54,8
Nhiễm trùng huyết 67 21,9
Viêm màng não mủ 08 2,6
Xuất huyết não 24 7,9
Sử dụng kháng sinh nhóm aminoglycosid 250 82,0
Ngạt khi sinh 34 11,1
Suy hô hấp 207 67,9
Điều trị thở máy 153 50,2
Bất thường sọ mặt 09 2,9
7
PHẦN NGHIÊN CỨU
- Trong nhóm nghiên cứu, số trẻ có > 2 yếu tố
nguy cơ chiếm 77,4%, số trẻ có ≤2 yếu tố nguy cơ
là 22,6%. Trong nhóm trẻ đẻ non, số trẻ có > 2 yếu
tố nguy cơ chiếm 86,4%.
3.2. Một số kết quả sàng lọc GTL bằng nghiệm
pháp AABR
3.2.1. Kết quả sàng lọc GTL
Bảng 2. Kết quả AABR ở hai nhóm trẻ đẻ non và đủ tháng
Số trẻ nghiên cứu Trẻ ĐN Trẻ đủ tháng
n % n % n %
Nghi ngờ GTL 64 21 42 18,5 22 28,2
Không nghi ngờ GTL 241 79 185 81,5 56 71,8
Tổng số 305 100 227 100 78 100
3.2.2. Thời gian và tuổi thực hiện nghiệm pháp
sàng lọc AABR
- Tuổi thực hiện sàng lọc trung bình (ngày
tuổi): 28,5± 25,1.
- Thời gian thực hiện sàng lọc trung bình
(phút): 6,1± 7,9.
- Có 215 trẻ (70,5%) có thời gian sàng lọc ≤5
phút, 57 trẻ (18,7%) có thời gian sàng lọc >10 phút.
3.2.3. Theo dõi sau sàng lọc cho những trẻ có kết
quả AABR nghi ngờ GTL
- Trong 64 trẻ kết quả AABR nghi ngờ GTL, 47 trẻ
được làm nghiệm pháp ABR chẩn đoán (73,4%).
- 17 trẻ không được chẩn đoán xác định
(26,56%): 9 trẻ tử vong trước thời điểm tuổi xác
định chẩn đoán, 3 trẻ chưa chẩn đoán xác định
được do kiểm tra có tình trạng viêm tai thanh
dịch, có 5 trẻ cha mẹ không đưa trẻ quay lại bệnh
viện để theo dõi.
- Kết quả nghiệm pháp ABR chẩn đoán:
Bảng 3. Kết quả nghiệm pháp ABR chẩn đoán
Số trẻ AABR nghi ngờ GTL Tỷ lệ %
Có GTL 39 82,9
Không GTL 08 17,1
Tổng số 47 100
4. BÀN LUẬN
4.1. Tỷ lệ nghi ngờ GTL
Trong thời gian từ tháng 4/2011 đến hết tháng
8/2011 chúng tôi đã tiến hành sàng lọc bằng
nghiệm pháp AABR cho 305 trẻ sơ sinh được xác
định có nguy cơ GTL.
Số trẻ có kết quả AABR nghi ngờ GTL là 64,
trong đó có 17 trẻ “refer” 1 tai, 47 trẻ “refer” 2
tai. Tỷ lệ trẻ nghi ngờ GTL trong nghiên cứu của
chúng tôi là 21%, cũng tương tự như nghiên cứu
của Williams & Wilkins (1983) là 24,8% và còn thấp
hơn kết quả nghiên cứu của Sun (2003) 29,03%
[5],[8]. Những kết quả này cao hơn kết quả sàng
lọc GTL cho đối tượng SS nguy cơ cao trong một
số nghiên cứu khác.
Trên thế giới, trong những thập kỷ trước một
số nghiên cứu thực hiện trên đối tượng này cũng
thấy tỷ lệ này khá cao, nhưng thời gian gần đây
hơn tỷ lệ nghi ngờ GTL cũng như tỷ lệ GTL đã
giảm hơn. Nghiên cứu của Meyer ở Đức (1999) có
kết quả nghi ngờ GTL là 5,3% [4], nghiên cứu của
Mohammad Mehdi Taghdiri ở Iran (2005 – 2006)
là 4,05% [6].
Ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào thực hiện
sàng lọc bằng nghiệm pháp AABR và cũng chưa
có nghiên cứu nào thực hiện cho riêng đối tượng
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
8
nguy cơ cao ở trẻ SS nên việc so sánh cũng hạn
chế. Tuy nhiên trong nghiên cứu của Nguyễn Thu
Thủy (2005) sàng lọc cho tất cả trẻ sơ sinh ở BVPS
Hà Nội bằng nghiệm pháp OAE thì thấy tỷ lệ nghi
ngờ GTL cũng rất cao 3,4% [1], cao hơn khoảng 10
lần so với tỷ lệ sàng lọc GTL chung trên thế giới.
Xu hướng chung trên thế giới là tỷ lệ giảm
thính lực ở nhóm trẻ sơ sinh điều trị tại khoa hồi
sức sơ sinh có giảm đi trong những năm gần đây.
Điều này có thể do những tiến bộ trong điều trị,
kiểm soát ngăn ngừa được các yếu tố là nguy cơ
của GTL như kiểm soát nhiễm khuẩn, cải thiện việc
theo dõi cung cấp oxy, kiểm soát nồng độ thuốc
kháng sinh aminoglycosid huyết thanh, cải tiến
giảm độ ồn của các thiết bị y tế sử dụng trong khoa
điều trị. Nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ
lệ GTL vẫn còn rất cao, điều này có thể do đối tượng
nghiên cứu của chúng tôi có những nét khác biệt.
Bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi được
chọn theo đúng tiêu chí, có khá đầy đủ các yếu
tố nguy cơ như những yếu tố nguy cơ GTL được
xác định trong Tuyên bố của JCIH 2000 và 2007
và giống với các nghiên cứu khác về sàng lọc GTL
với đối tượng trẻ sơ sinh có nguy cơ cao.
Tuy nhiên đối tượng của chúng tôi là trẻ sơ
sinh điều trị tại Khoa Sơ sinh BVNTW, là nơi tập
trung những bệnh nhân sơ sinh với tình trạng
bệnh nặng nề, phức tạp nhất của toàn miền Bắc
Việt Nam, nên những nguy cơ cũng nhiều và phức
tạp hơn. Trong nhóm trẻ nghiên cứu, yếu tố nguy
cơ sử dụng kháng sinh nhóm aminoglycosid gặp
nhiều nhất (82%), sau đó đến vàng da tăng
bilirubin tự do (75,1%), nhiễm trùng sơ sinh,
suy hô hấp, điều trị thở máy cũng là những
yếu tố nguy cơ thường gặp. Cũng giống như
nghiên cứu của Vohr [7], yếu tố nguy cơ thường
gặp nhất là sử dụng kháng sinh aminoglycosid
(44,4% số bn có yếu tố nguy cơ này), cân nặng
rất thấp 17,8%, thở máy > 5 ngày 16,4%, điểm
Apgar thấp 13,9%. Với từng yếu tố nguy cơ, tỷ lệ
gặp của chúng tôi cao hơn.
Trong nghiên cứu của Vohr, 32,2% trẻ có 1 yếu
tố nguy cơ, 26,2 % trẻ có ≥2 yếu tố nguy cơ. Nhưng
trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ số trẻ có 1-2
yếu tố nguy cơ không nhiều, số trẻ có 3 hoặc 4
yếu tố nguy cơ lại chiếm đa số 77,4%. Và điều này
đặc biệt thấy rõ ở nhóm trẻ sơ sinh đẻ non: số trẻ
có ≥2 yếu tố nguy cơ chiếm 86,6%. Điều này cũng
cho thấy tính chất nặng nề và phức tạp của nhóm
trẻ nghiên cứu của chúng tôi có thể lý giải cho tỷ
lệ nghi ngờ GTL cao.
4.2. Nghiệm pháp sàng lọc GTL AABR
Chúng tôi lựa chọn nghiệm pháp sàng lọc
AABR trong nghiên cứu này dựa trên Những
nguyên tắc và hướng dẫn chương trình phát hiện
và can thiệp sớm GTL trong Tuyên bố chung của
Ủy ban hợp nhất về Thính học trẻ em 2007, cần
sử dụng AABR để sàng lọc cho những đối tượng
nguy cơ cao. Nghiệm pháp này đã được chứng
minh về độ nhạy, độ đặc hiệu cao, tỷ lệ “refer”
thấp hơn so với OAE, tỷ lệ dương tính giả không
cao nên được sử dụng phổ biến trên toàn thế giới.
Sử dụng máy AABR ALGO 5, nghiên cứu viên
trực tiếp thực hiện đo cho từng bệnh nhân theo
đúng những tiêu chuẩn về quy trình kỹ thuật,
đảm bảo hạn chế tối đa các yếu tố nhiễu xuất
hiện để không có ảnh hưởng đến kết quả đo.
Thời gian làm nghiệm pháp sàng lọc trung
bình ngắn (6,1 ± 7,9 phút). Số trẻ có thời gian
thực hiện nghiệm pháp dưới 5 phút là 70,5%.
Và cuối cùng kết quả chẩn đoán xác định
bằng nghiệm pháp ABR chẩn đoán tại Trung tâm
Thính học đã khẳng định được mức độ tin cậy của
nghiệm pháp AABR trong nghiên cứu của chúng
tôi. Đã có 47 trường hợp được làm nghiệm pháp
xác định chẩn đoán, trong đó có 39 trường hợp
được khẳng định có GTL. Có 17 trẻ AABR refer
không được làm chẩn đoán xác định. Giá trị của
phản ứng dương tính là 82,9%.
Kết quả này tương tự như kết quả trong
nghiên cứu của Meyer là 80,6 % [4] và cao hơn
so với một số nghiên cứu khác. Hạn chế trong
nghiên cứu của chúng tôi là không kiểm tra ABR
chẩn đoán được cho nhóm trẻ có kết quả AABR
“pass”- không nghi ngờ GTL, do đó không xác
định được độ nhạy, độ đặc hiệu, tỷ lệ âm tính giả
của nghiệm pháp sàng lọc này.
5. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu sàng lọc GTL bằng nghiệm
pháp đo điện thính giác thân não tự động AABR
9
PHẦN NGHIÊN CỨU
cho 305 trẻ SS có nguy cơ cao chúng tôi thấy tỷ lệ
nghi ngờ GTL rất cao - 21%. Trong số 64 trẻ được
phát hiện có nghi ngờ GTL này, 47 trẻ được làm
chẩn đoán xác định và có 39/ 47 trẻ có giảm thính
lực thực sự.
Nghiệm pháp AABR có giá trị sàng lọc cao, giá
trị của dự báo dương tính là 82,9%. Thời gian thực
hiện nghiệm pháp AABR ngắn (70,5 % dưới 5 phút),
kỹ thuật thực hiện đơn giản, không đòi hỏi phải có
trình độ chuyên môn về thính học thực hiện, nên
thích hợp để làm nghiệm pháp sàng lọc cho sơ sinh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thu Thủy (2005). “Nghiên cứu giảm
thính lực ở trẻ sơ sinh bằng đo âm ốc tai sàng lọc,
thiết lập chương trình can thiệp sớm phục hồi
chức năng cho trẻ khiếm thính” Luận văn Thạc sĩ
y học, Đại học Y Hà Nội.
2. JCIH (2007). “Clarifi cation for Year 2007 JCIH
Position Statement: 2007 JCIH Position Statement
Update” http://www.jcih.org/ Clarifi cation% 20
Year%202007%20statement.pdf.
3. JCIH. “Year 2000 position statement:
principles and guidelines for early hearing
detection and intervention programs”. Pediatrics;
106 (4):798-817.
4. Meyer C & CS (1999). “Neonatal Screeni ng
for Hearing Disorders in Infants at Risk: Incidence,
Risk Factors, and Follow-up”. Pediatrics; 104(4);
900-904.
5. Sun J.H & CS (2003). “Early detection of
hearing impairment in high risk infant of NICU”.
Zhonghua. Ke. Za. Zhi, 41( 5), p age 357- 359.
6. Taghdiri, Mohammad Mehdi; Eghbalian,
Fatemeh (2008). “Auditory Evaluation of High risk
Newborns by Automated Auditory Brain Stem
Response”. Iran J Peadiatrics , Vol 18(No4); p 330-334.
7. Vohr BR, Widen JE, Cone-Wesson B (2000).
“Identifi cation of neonatal hearing impairment:
characteristics of infants in the neonatal
intensive care unit and well-baby nursery”. Ear
Hear;21:373–82.
8. William & Wilkins (1987). “Hearing Screening
of High Risk Newborns”. Ear & Hearin g; - Volume
8 - Issue 1.
9. Yoshinaga-Itano C & Sedey A (2000).
“Language, Speech and Social-Emotional
Development of Children Who Are Deaf a nd
Hard-of-Hearing: The Early Years”. The Volta
Review,100, 29-52.
SUMMARY
HEARING SCREENING FOR HIGH RISK NEWBORN INFANTS USING AUTOMATED
AUDITORY BRAINSTEM RESPONSE
This cross- secti onal study aimed to determine the refer rate of high-risk newborn using automated
auditory brainstem response hearing screening at National Hospital of Pediatrics. From 1 April 2011
to 30 August 2011, 305 newborn babies treated in Neonatal Department-NHP, classifi ed as high risk of
hearing loss (according to 2000- 2007 Joint Committee on Infant Hearing statement) were screened.
64/305 patients had “refer” results. AABR refer rate was 21%. 47of these 64 infants had confi rm
hearing diagnosis. 39/ 47 had hearing loss. The positive predictive value was 82.9%. Mean age at
screening was 28.5 days and mean screening duration was 6.1 minutes. 70.5% of the studied patients
had screening duration less than 5 minutes. In conclusion, the high risk infant group had a high rate of
hearing loss, so hearing screening should be done for these infants. AABR was realiable and suitable
for newborn hearing screening.
Key words: Hearing screening, automated auditory brainstem response.
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
10
11
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
12
13
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
14
15
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
16
17
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
18
19
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
20
21
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
22
23
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
24
25
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
26
27
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
28
29
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
30
31
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
32
33
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
34
35
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
36
37
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
38
39
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
40
41
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
42
43
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
44
45
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
46
47
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
48
49
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
50
51
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
52
53
PHẦN NGHIÊN CỨU
TẠP CHÍ NHI KHOA 2015, 8, 2
54
55
PHẦN NGHIÊN CỨU