25
1 Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu hướng hoàn thiện : Luận văn ThS. Luật: 60 38 50 / Nguyễn Minh Thắng; Nghd. : GS.TS. Lê Hồng Hạnh MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 3 Chương 1.NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ THẺ TÍN DỤNG .................... 6 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẺ TÍN DỤNG .............................................. 6 1.1.1. Thẻ tín dụng và lịch sử phát triển ............................................................ 6 1.1.1.1. Sự ra đời của Thẻ tín dụng trên thế giới ............................................... 6 1.1.1.2. Sự ra đời của Thẻ tín dụng tại Việt Nam .............................................. 6 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của thẻ tín dụng tại Việt Nam............................. 7 1.1.2.1............................................................................... Khái niệm thẻ tín dụng 7 1.1.2.2.......................................................................... Đặc điểm của thẻ tín dụng 8 1.2. QUAN HỆ PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG ........................................... 8 1.2.1. Các chủ thể liên quan đến việc sử dụng Thẻ tín dụng ở Việt Nam........... 8 1.2.2. Các quan hệ xã hội liên quan đến Thẻ tín dụng ở Việt Nam .................... 9 1.2.2.1............... Nhóm các quan hệ liên quan trực tiếp đến giao dịch thẻ tín dụng 9 1.2.2.2............. Nhóm các quan hệ liên quan gián tiếp đến hoạt động kinh doanh thẻ 10 1.2.3. Sự cần thiết phải có pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến thẻ tín dụng ........................................................................................... 11 Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......... 14 2.1. PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÁC QUAN HỆ XÃ HỘI TRONG PHÁT HÀNH, THANH TOÁN VÀ SỬ DỤNG THẺ TÍN DỤNG........................................................................................................ 14 2.1.1. Quan hệ giữa Chủ thẻ tín dụng và TCPHT ............................................ 14 2.1.1.1. Điều kiện với chủ thẻ tín dụng ........................................................... 14 2.1.1.2. Điều kiện với TCPHT ........................................................................ 14

Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

  • Upload
    lykien

  • View
    216

  • Download
    2

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

1

Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu hướng hoàn thiện : Luận văn ThS. Luật: 60 38 50 / Nguyễn Minh Thắng; Nghd. : GS.TS. Lê Hồng

Hạnh

MỤC LỤC Trang

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 3

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ THẺ TÍN DỤNG .................... 6

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẺ TÍN DỤNG .............................................. 6

1.1.1. Thẻ tín dụng và lịch sử phát triển ............................................................ 6

1.1.1.1. Sự ra đời của Thẻ tín dụng trên thế giới ............................................... 6

1.1.1.2. Sự ra đời của Thẻ tín dụng tại Việt Nam .............................................. 6

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của thẻ tín dụng tại Việt Nam ............................. 7

1.1.2.1. .............................................................................. Khái niệm thẻ tín dụng 7

1.1.2.2. ......................................................................... Đặc điểm của thẻ tín dụng 8

1.2. QUAN HỆ PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG ........................................... 8

1.2.1. Các chủ thể liên quan đến việc sử dụng Thẻ tín dụng ở Việt Nam ........... 8

1.2.2. Các quan hệ xã hội liên quan đến Thẻ tín dụng ở Việt Nam .................... 9

1.2.2.1. .............. Nhóm các quan hệ liên quan trực tiếp đến giao dịch thẻ tín dụng 9

1.2.2.2. ............ Nhóm các quan hệ liên quan gián tiếp đến hoạt động kinh doanh thẻ 10

1.2.3. Sự cần thiết phải có pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến thẻ tín dụng ........................................................................................... 11

Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......... 14

2.1. PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÁC QUAN HỆ XÃ HỘI TRONG PHÁT HÀNH, THANH TOÁN VÀ SỬ DỤNG THẺ TÍN DỤNG........................................................................................................ 14

2.1.1. Quan hệ giữa Chủ thẻ tín dụng và TCPHT ............................................ 14

2.1.1.1. Điều kiện với chủ thẻ tín dụng ........................................................... 14

2.1.1.2. Điều kiện với TCPHT ........................................................................ 14

Page 2: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

2

2.1.1.3. Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng .......................................................... 15

2.1.2. Quan hệ giữa Chủ thẻ tín dụng và ĐVCNT ........................................... 15

2.1.3. Quan hệ giữa ĐVCNT và TCTTT ......................................................... 16

2.1.3.1. ........................................................................ Điều kiện đối với ĐVCNT: 16

2.1.3.2. ......................................................................... Điều kiện đối với TCTTT: 16

2.1.3.3. ................................... Hợp đồng thanh toán thẻ giữa ĐVCNT và TCTTT: 16

2.1.4. Quan hệ giữa Tổ chức thanh toán trung gian với các TCPHT, TCTTT ..... 16

2.1.5. Quan hệ giữa Tổ chức thẻ quốc tế với các TCPHT, TCTTT Việt Nam ...................................................................................................... 17

2.2. PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TÍN DỤNG........................................................................................................ 17

2.2.1. ............. Các quy định về cho vay và bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay 17

2.2.2. ............................................... Các quy định về quản lý hoạt động thanh toán 18

2.2.3. ................................................................. Các quy định về quản lý ngoại hối 18

2.2.4. ............................................................................ Các quy định về cạnh tranh 19

2.2.5. ................................... Các quy định về phòng ngừa gian lận và tội phạm thẻ 19

Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM ..................................................................................... 20

3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG ........................................................................................................ 20

3.2. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CHI PHỐI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG .............................................. 20

3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG........................................................................................ 20

3.3.1.Thống nhất hóa các quy định về phát hành, sử dụng, thanh toán thẻ tín dụng trong một văn bản

3.3.2. .......................................... Về vấn đề xây dựng và chia sẻ thông tin tín dụng 22

3.3.3. ................ Về việc phát huy năng lực hoạt động của các hiệp hội ngành nghề 22

3.3.4. .............................................. Vấn đề phân định trách nhiệm gánh chịu rủi ro 23

3.3.5. .................................................................................. Về vấn đề tội phạm thẻ 23

3.3.6.Xây dựng các quy tắc và tiêu chuẩn an toàn cho các tổ chức kinh doanh dịch vụ thẻ tín dụng

3.3.7. ......... Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thẻ tín dụng 24 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 20

Page 3: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

3

MỞ ĐẦU I. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài

Dịch vụ thẻ tín dụng là một loại hình dịch vụ tương đối đặc biệt, chủ yếu do các Ngân hàng thương mại cung cấp. Tính chất đặc biệt này thể hiện ở việc các tổ chức tín dụng đã kết hợp hai nghiệp vụ cơ bản của mình là hoạt động thanh toán và hoạt động cấp tín dụng vào một loại hình dịch vụ. Tương ứng với sự kết hợp này, chế định pháp luật về thẻ tín dụng cũng phải được chắt lọc từ những quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán và những quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động tín dụng của ngân hàng.

Trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, mặc dù các ngành luật có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng, nhưng giữa chúng luôn tồn tại những mối liên hệ tất yếu. Pháp luật về thẻ tín dụng - một bộ phận của ngành luật ngân hàng – cũng không phải là một ngoại lệ, đặc biệt là trong mối liên hệ với pháp luật dân sự, pháp luật thương mại, pháp luật quản lý hành chính nhà nước, tư pháp quốc tế, pháp luật hình sự...

Không chỉ liên quan đến các ngành luật của hệ thống pháp luật trong nước, pháp luật về thẻ tín dụng còn liên quan mật thiết đến các điều ước quốc tế; liên quan đến những thông lệ, tập quán trong giao dịch quốc tế về thẻ tín dụng và liên quan đến những quy tắc, quy định của các tổ chức thẻ quốc tế. Phần lớn những quy phạm này đã được thừa nhận trên phạm vi toàn cầu và trong điều kiện hội nhập khu vực và thế giới, sự ảnh hưởng của chúng đối với Việt Nam là không thể tránh khỏi.

Như vậy, pháp luật về thẻ tín dụng đòi hỏi một sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố kể trên, tạo thành một khung pháp lý hoàn chỉnh và đầy đủ.

Về mặt thực tế, thẻ tín dụng đã trở thành một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt hữu hiệu nhất của các nền kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam cũng không tránh khỏi quy luật đó. Tuy nhiên, để đáp ứng sự phát triển nhanh chóng của thị trường thẻ tín dụng thì cần phải xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý, bảo đảm khả năng thích ứng với sự biến động của hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng.

Trong khi đó ở Việt Nam hầu như chưa có một công trình luật học nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống về pháp luật liên quan đến thẻ tín dụng.

Vì vậy, việc nghiên cứu để hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh các vấn đề về thẻ tín dụng đang là một nhu cầu cấp bách và cần thiết trong giai đoạn hiện nay. II. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trên thế giới, việc nghiên cứu về thẻ tín dụng không còn là điều xa lạ. Ở Việt Nam, thẻ tín dụng nói riêng và thẻ thanh toán nói chung vẫn còn khá mới mẻ nhưng pháp luật hiện hành cũng đã có quy định về lĩnh vực này, đó là: Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng được ban hành kèm theo Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN của NHNN ngày 15-05-2007.

Bên cạnh đó, các cuộc hội thảo về thẻ thanh toán (bao gồm cả thẻ tín dụng) cũng thường xuyên được tổ chức.

Page 4: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

4

Một số học giả cũng đã đi sâu nghiên cứu về thẻ thanh toán. Một số khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp của các sinh viên Học viện Ngân hàng cũng đề cập tới vấn đề này.

Ngoài ra, cũng có một số bài viết về thẻ thanh toán trên tạp chí, báo chuyên ngành như Tạp chí Ngân hàng, Thời báo Ngân hàng, các Báo điện tử trên mạng Internet...

Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đã nêu phần lớn chỉ xem xét thẻ từ góc độ kinh tế, cụ thể là quan hệ thanh toán, tín dụng… chưa đi sâu nghiên cứu và đưa ra các giải pháp cụ thể về mặt pháp lý. Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu này cũng chỉ tìm hiểu chung về thẻ thanh toán mà chưa đi sâu nghiên cứu thẻ tín dụng. III. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Mục đích của việc nghiên cứu là làm rõ vai trò của thẻ tín dụng trong các giao dịch thanh toán phi tiền mặt, những khía cạnh pháp lý nảy sinh giữa các chủ thể liên quan để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm tạo hành lang pháp lý an toàn cho sự phát triển của thẻ tín dụng trong nền kinh tế ở nước ta.

Để thực hiện mục đích trên, Luận văn đề ra các mục tiêu sau: - Tập hợp, phân loại và phân tích bản chất pháp lý của các mối quan hệ pháp

luật về thẻ tín dụng; - Xem xét bản chất mối quan hệ giữa khách hàng, các chủ thể phát hành thẻ,

các chủ thể thanh toán thẻ và Nhà nước từ các góc độ khác nhau như: từ góc độ pháp luật thương mại, pháp luật dân sự, pháp luật hành chính, pháp luật ngân hàng và tư pháp quốc tế;

- Phân tích những cơ sở pháp lý của mối quan hệ liên quan đến thẻ tín dụng ở Việt Nam, chỉ ra được những khoảng trống và những bất cập trong các văn bản pháp luật hiện hành về vấn đề này;

- Luận văn sẽ đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện những khái niệm cơ bản về thẻ tín dụng.

IV. Phạm vi nghiên cứu đề tài Trong khuôn khổ một bản Luận văn Thạc sĩ với một đề tài mới, với khả năng

nghiên cứu và nguồn tài liệu tham khảo còn hạn chế, công trình nghiên cứu này chưa thể bao quát hết được các vấn đề pháp lý về thẻ tín dụng mà chỉ dừng lại ở những tiếp cận ban đầu và các giải pháp mang tính gợi mở.

Luận văn không nhằm cung cấp tất cả các vấn đề pháp lý liên quan tới thẻ tín dụng mà chỉ nhằm giới thiệu về thẻ tín dụng và nghiên cứu một số vấn đề pháp lý cơ bản cần đặt ra đối với thẻ tín dụng.

Luận văn cũng đưa ra một cách tổng quát về sự phát triển của thẻ tín dụng và thực trạng điều chỉnh pháp luật về thẻ tín dụng ở Việt Nam hiện nay.

Trên cơ sở đó Luận văn cũng đưa ra một số gợi ý và đề xuất một vài vấn đề chủ yếu để hoàn thiện khung pháp luật điều chỉnh về thẻ tín dụng và bảo đảm cho khung pháp luật đó được khả thi trên thực tế. V. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu trên đây, dựa trên nền tảng

Page 5: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

5

phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, chứng minh, so sánh đối chiếu; phương pháp khảo sát thực tiễn, đánh giá, khái quát hoá và hệ thống hóa vấn đề và một số phương pháp nghiên cứu khác. VI. Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, bản Luận văn được thiết kế gồm có 3 chương như sau:

Chương 1: Những vấn đề pháp lý cơ bản về thẻ tín dụng Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về thẻ tín dụng

ở Việt Nam Chương 3: Phương hướng hoàn thiện pháp luật về thẻ tín dụng ở Việt Nam

Page 6: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

6

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ THẺ TÍN DỤNG

Chương I của khóa luận sẽ đi sâu tìm hiểu những vấn đề cơ bản về thẻ tín dụng. Trước hết là những vấn đề về sự hình thành và du nhập thẻ tín dụng vào thị trường Việt Nam, tình hình phát triển kinh doanh của thị trường thẻ tín dụng Việt Nam hiện nay, là sự cần thiết phải có pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến thẻ tín dụng. Một phần quan trọng trong nội dung của Chương I là việc khảo sát các mối quan hệ giữa các chủ thể trong các quy trình giao dịch liên quan đến thẻ tín dụng từ khâu phát hành thẻ, thanh toán thẻ đến khâu sử dụng thẻ tín dụng. 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẺ TÍN DỤNG 1.1.1. Thẻ tín dụng và lịch sử phát triển 1.1.1.1. Sự ra đời của Thẻ tín dụng trên thế giới

Sự ra đời của tiền tệ đã đánh dấu một bước phát triển đột phá của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Qua nhiều giai đoạn phát triển, ngày nay tiền tệ đã đạt đến hình thái biểu hiện cao với chức năng thanh toán không dùng tiền mặt, đó là Tiền điện tử. Thẻ tín dụng chính là một dạng của loại tiền điện tử không dùng tiền mặt đó. Vào những năm giữa thế kỷ 20, kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ kéo theo nhu cầu tiêu dùng cá nhân không ngừng tăng lên. Thêm vào đó, những thành quả của sự phát triển vượt bậc trong khoa học kỹ thuật và công nghệ tin học được ứng dụng vào ngành tài chính – ngân hàng đã làm thay đổi hình thức thanh toán tiêu dùng truyền thống của dân chúng, đồng thời đưa dịch vụ thanh toán điện tử trở thành mũi nhọn kinh doanh của các ngân hàng. Nằm trong dịch vụ thanh toán điện tử này, kết hợp với việc kinh doanh tín dụng truyền thống, thẻ tín dụng ra đời không những làm thay đổi thói quen kinh doanh của ngân hàng mà còn làm thay đổi thói quen tiêu dùng của người dân tại nhiều quốc gia.

Đến thời điểm hiện nay, đã có rất nhiều các tổ chức thẻ quốc tế được thành lập bởi các định chế tài chính khác nhau, làm cho thị trường thẻ ngày càng đa dạng như: American Express (Amex), Diners Club, JCB, EuroCard... Nhưng phát triển mạnh nhất và chiếm lĩnh thị trường nhiều nhất vẫn là VisaCard và Mastercard với hơn 25 triệu Đơn vị chấp nhận thẻ và hơn 1 triệu điểm rút tiền mặt thuộc 230 quốc gia và vùng lãnh thổ trong đó có Việt Nam. 1.1.1.2. Sự ra đời của Thẻ tín dụng tại Việt Nam

Từ trước những năm 90 của thế kỷ 20, mặc dù đã được phổ biến tại nhiều quốc gia, thẻ tín dụng vẫn chưa có chỗ đứng tại Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ sau đó ít lâu, nhờ vào định hướng phát triển kinh tế thị trường và chính sách mở cửa, thẻ tín dụng đã được các nhà đầu tư và khách du lịch nước ngoài mang theo khi nhập cảnh vào Việt Nam. Trong khi việc thanh toán không dùng tiền mặt thông qua thẻ tín dụng đã trở thành thói quen của người nước ngoài, thì tại Việt Nam, họ vẫn phải dùng ngoại tệ mặt hoặc đến ngân hàng tại Việt Nam đổi lấy tiền đồng Việt Nam để chi trả cho hàng hóa, dịch vụ mà họ sử dụng. Với sự chuyển biến tích cực của nền kinh tế, cộng với sự hội nhập sâu rộng của kinh tế xã hội Việt Nam vào khu vực và thế giới, lượng khách nước ngoài đến Việt Nam ngày càng gia tăng dẫn đến áp lực phải chấp nhận phương

Page 7: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

7

thức thanh toán phổ biến này của người nước ngoài. Việc sử dụng thẻ ngân hàng nói chung và thẻ tín dụng nói riêng ở Việt Nam bắt

đầu được triển khai vào những năm 1990 với việc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 74/QĐ-NH về “Thể lệ tạm thời về phát hành và sử dụng thẻ thanh toán” và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép áp dụng thí điểm tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.

Đến năm 1999, NHNN ban hành Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng kèm theo Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN1 ngày 19-10-1999 (sau đây gọi tắt là “Quy chế 371”), đặt ra một khung pháp lý để các ngân hàng phát triển nghiệp vụ thẻ của mình.

Đặc biệt, gần đây nhất, ngày 15-05-2007, Thống đốc NHNN đã ký ban hành Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN kèm theo Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung ứng dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng (sau đây gọi tắt là “Quy chế 20”). 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của thẻ tín dụng tại Việt Nam 1.1.2.1.Khái niệm thẻ tín dụng

Theo các quan điểm kinh tế học, thẻ thanh toán có thể được hiểu là “chìa khóa đa năng để Chủ thẻ kết nối với các chủ thể khác tham gia hệ thống thanh toán thẻ phục vụ quá trình lưu chuyển hàng hóa, tiền tệ được thỏa thuận trước nhằm thực hiện các dịch vụ thỏa mãn nhu cầu của mình”. Thẻ thanh toán “là công cụ thanh toán do TCPHT cấp cho khách hàng sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hoặc rút tiền mặt trong phạm vi số dư của mình ở tài khoản tiền gửi hoặc hạn mức tín dụng được cấp theo hợp đồng ký kết giữa TCPHT và Chủ thẻ”.

Xét từ góc độ luật học, khái niệm thẻ thanh toán đã xuất hiện trong văn bản pháp luật Việt Nam từ năm 1994 mặc dù chưa được định nghĩa chính thức. Tại Điều 24 của Thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt, được ban hành kèm theo Quyết định số 22/QĐ-NH1 ngày 21-02-1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, thẻ thanh toán mới chỉ được giải thích là “do Ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng sử dụng để trả tiền hàng hoá, dịch vụ, các khoản thanh toán khác và rút tiền mặt tại các Ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền mặt tự động.” Cũng tại Điều 24 Thể lệ này, thẻ thanh toán được phân loại gồm thẻ ghi nợ, thẻ ký quỹ thanh toán và thẻ tín dụng. Thẻ tín dụng, mặc dù chưa được định nghĩa trong văn bản này, nhưng cũng đã được mô tả như sau: “Thẻ tín dụng áp dụng đối với khách hàng có đủ điều kiện được Ngân hàng đồng ý cho vay tiền. Khách hàng chỉ được thanh toán số tiền trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được Ngân hàng chấp thuận bằng văn bản.”

Mới đây nhất, năm 2007, khái niệm về các loại thẻ đã được sửa đổi lại trong Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng, được ban hành kèm theo Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15-5-2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Theo đó, không sử dụng khái niệm thẻ thanh toán mà sử dụng khái niệm thẻ ngân hàng và thẻ ngân hàng được hiểu là “phương tiện do tổ chức phát hành thẻ phát hành để thực hiện giao dịch thẻ theo các điều kiện và điều khoản được các bên thỏa thuận”. Thẻ ngân hàng sẽ bao gồm thẻ ghi

Page 8: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

8

nợ, thẻ tín dụng và thẻ trả trước. Khoản 5 Điều 2 Quy chế này có định nghĩa “Thẻ tín dụng (credit card): Là thẻ cho phép Chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ trong phạm vi hạn mức tín dụng được cấp theo thỏa thuận với tổ chức phát hành thẻ”. Trong đó, khái niệm “giao dịch thẻ” được hiểu là “việc sử dụng thẻ để gửi, nạp, rút tiền mặt, thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, sử dụng các dịch vụ khác do tổ chức phát hành thẻ, tổ chức thanh toán thẻ cung ứng”.

Cách tiếp cận của mỗi tác giả nêu trên đều có những hạt nhân cơ bản thể hiện bản chất của thẻ tín dụng. Tuy nhiên theo chúng tôi, thẻ tín dụng cần được định nghĩa sát với bản chất pháp lý của thẻ hơn nữa. Vì lý do đó, chúng tôi đưa ra định nghĩa sau về thẻ tín dụng. “Thẻ tín dụng là phương tiện thanh toán do ngân hàng hoặc tổ chức phi ngân hàng phát hành theo thỏa thuận với Chủ thẻ để đáp ứng các nhu cầu tín dụng, thanh toán trong một hạn mức tiền nhất định thông qua việc xác lập quan hệ thanh toán giữa Chủ thẻ với Đơn vị chấp nhận thẻ, đồng thời cũng xác lập quan hệ vay nợ giữa Chủ thẻ với tổ chức đã phát hành thẻ”.

1.1.2.2. Đặc điểm của thẻ tín dụng Từ định nghĩa như đã nêu trên, Thẻ tín dụng mang những đặc trưng pháp lý như

sau: Thứ nhất, thẻ tín dụng luôn gắn liền với một chủ thể nhất định. Chủ thể này

chính là chủ sở hữu của thẻ tín dụng. Tên, hình ảnh của Chủ thẻ được in ngay trên thẻ và Chủ thẻ cũng phải ký tên lên mặt sau của thẻ ngay khi nhận thẻ trước sự chứng kiến của nhân viên Tổ chức phát hành thẻ (TCPHT).

Thứ hai, thẻ tín dụng được phát hành từ một thỏa thuận giữa Chủ thẻ với TCPHT. Thỏa thuận này có hình thức pháp lý là Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng. Để đi đến ký kết được Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng, Chủ thẻ phải chứng minh được năng lực chủ thể, khả năng tài chính, khả năng trả nợ của mình. Là một đơn vị kinh doanh chuyên nghiệp về trung gian thanh toán và tín dụng, TCPHT sẽ đặt ra các điều kiện để thẩm định các khả năng này của Chủ thẻ.

Thứ ba, thẻ tín dụng luôn gắn liền với một tài khoản ngân hàng nhất định. Đó là tài khoản của chính Chủ thẻ mở tại TCPHT - nếu TCPHT cũng là ngân hàng - hoặc tại một ngân hàng mà TCPHT ủy quyền - nếu TCPHT không phải là ngân hàng.

Thứ tư, Thẻ tín dụng làm phát sinh quan hệ cam kết thanh toán “liên hoàn”. Cam kết thanh toán “liên hoàn” là các cam kết thanh toán của các Tổ chức trung gian cho ĐVCNT.

Thứ năm, Thẻ tín dụng làm phát sinh quan hệ vay nợ giữa Chủ thẻ với TCPHT. 1.2. QUAN HỆ PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG 1.2.1. Các chủ thể liên quan đến việc sử dụng Thẻ tín dụng ở Việt Nam

Chủ thẻ là cá nhân hoặc tổ chức được Tổ chức phát hành thẻ cấp thẻ để sử dụng. Trong trường hợp Tổ chức phát hành thẻ cấp thẻ cho một cá nhân thì cá nhân này vừa là chủ tài khoản thẻ vừa là người trực tiếp sử dụng thẻ. Trong trường hợp Tổ chức phát hành thẻ cấp thẻ cho một tổ chức thì tổ chức này là chủ tài khoản thẻ nhưng phải ủy quyền cho một hoặc nhiều cá nhân trực tiếp sử dụng thẻ.

Page 9: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

9

Tổ chức phát hành thẻ (TCPHT) là đơn vị cấp thẻ tín dụng cho các Chủ thẻ sử dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán, tín dụng liên quan đến thẻ đó.

Tổ chức thanh toán thẻ (TCTTT) là đơn vị cung ứng dịch vụ thanh toán cho Khách hàng của mình là những Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT).

Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT) là tổ chức hoặc cá nhân cung ứng hàng hóa dịch vụ cho người tiêu dùng và có khả năng chấp nhận cho người tiêu dùng thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ bằng thẻ tín dụng.

Tổ chức thanh toán trung gian là đơn vị cung cấp dịch vụ thanh toán qua thẻ tín dụng bao gồm việc trao đổi dữ liệu bằng điện tử hoặc bằng chứng từ và bù trừ các nghĩa vụ tài chính phát sinh từ các giao dịch thẻ cho các TCPHT, TCTTT và ĐVCNT theo thoả thuận bằng văn bản giữa các bên liên quan.

Tổ chức thẻ quốc tế (TCTQT) là một tổ chức hoạt động theo mô hình công ty hoặc Hiệp hội, gồm một hoặc một số các ngân hàng, định chế tài chính hoặc tổ chức phi tài chính gắn với một thương hiệu độc quyền sản phẩm thẻ (như Visa International, Mastercard International, American Express, Diner Club, JCB…).

+ Ngoài các chủ thể chủ yếu nêu trên, còn có các chủ thể liên quan đến quá trình phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ tín dụng như:

Đại lý phát hành thẻ là đơn vị thay mặt cho TCPHT phát hành thẻ cho Chủ thẻ. Người bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Chủ thẻ là cá nhân, tổ chức cầm cố, thế

chấp tài sản của mình hoặc bảo lãnh cho Chủ thẻ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Chủ thẻ đối với TCPHT.

Hội thẻ ngân hàng Việt Nam là một tổ chức do các ngân hàng kinh doanh thẻ thanh toán thành lập để hoạch định chiến lược và định hướng phát triển dịch vụ thẻ trên thị trường Việt Nam, là diễn đàn trao đổi kinh nghiệm, tạo sự hợp tác tương trợ giữa các ngân hàng thành viên..

+ Liên quan đến việc phát hành, sử dụng thanh toán thẻ tín dụng còn một chủ thể đặc biệt là Ngân hàng Nhà nước do các hoạt động của chủ thể này gắn liền với quyền lực nhà nước. 1.2.2. Các quan hệ xã hội liên quan đến Thẻ tín dụng ở Việt Nam

Với việc tham gia của nhiều loại hình chủ thể như đã đề cập ở trên thì các mối quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể này liên quan đến thẻ tín dụng là rất phức tạp. Trong phạm vi công trình nghiên cứu này, chúng tôi chỉ tìm hiểu các mối quan hệ cơ bản và chủ yếu, bao gồm: 1.2.2.1.Nhóm các quan hệ liên quan trực tiếp đến giao dịch thẻ tín dụng

* Quan hệ giữa TCPHT và Chủ thẻ: Quan hệ giữa Chủ thẻ với TCPHT là một trong những quan hệ cơ bản liên quan

đến thẻ tín dụng. Tính chất cơ bản của mối quan hệ này thể hiện ở các yếu tố: Thứ nhất, quan hệ này là cơ sở cho việc phát hành thẻ tín dụng ra thị trường. Thứ hai, quan hệ này bảo đảm năng lực của Chủ thẻ tín dụng. Thứ ba, quan hệ này, với hình thức pháp lý là Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng,

chứa đựng các nội dung cơ bản để thực hiện giao dịch thẻ tín dụng như thanh toán, rút tiền măt, ứng tiền măt, trả nợ …

Page 10: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

10

Thứ tư, quan hệ này liên quan đến hai nghiệp vụ cơ bản của hoạt động ngân hàng là hoạt động thanh toán và hoạt động tín dụng.

* Quan hệ giữa Chủ thẻ với ĐVCNT: Quan hệ giữa Chủ thẻ và ĐVCNT phát sinh khi Chủ thẻ mua, sử dụng hàng hóa,

dịch vụ mà ĐVCNT cung cấp. Thay vì thanh toán bằng tiền mặt, séc… * Quan hệ giữa ĐVCNT với TCTTT: Các tổ chức, cá nhân cung ứng hàng hóa dịch vụ cho người tiêu dùng đều có thể

trở thành ĐVCNT nếu có ký kết Hợp đồng đơn vị chấp nhận thẻ với TCTTT. Do vậy, mối quan hệ giữa ĐVCNT với TCTTT được xác lập, thay đổi và chấm dứt theo các điều kiện có hiệu lực của Hợp đồng này.

* Quan hệ giữa TCPHT và TCTTT: TCPHT và TCTTT đều là các tổ chức kinh doanh dịch vụ thẻ và thông thường

đều phát hành thẻ của riêng mình cũng như có riêng mạng lưới các ĐVCNT. Tuy nhiên, trong quan hệ thanh toán thẻ tín dụng, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của TCPHT và TCTTT là riêng biệt.

* Quan hệ giữa Tổ chức thanh toán trung gian với TCPHT và TCTTT: Trong nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, có rất nhiều các tổ chức cùng

kinh doanh dịch vụ thẻ tín dụng và không phải tất cả các tổ chức này đều ký kết hợp đồng hợp tác thanh toán thẻ tín dụng với nhau. Để việc thanh toán thẻ được tiện dụng, phổ biến và tương thích với thẻ tín dụng quốc tế, trên thị trường xuất hiện các tổ chức trung gian làm đầu mối liên hệ các tổ chức kinh doanh dịch vụ thẻ tín dụng lại thành một mạng lưới. Để thực hiện được việc thanh toán trong mạng lưới này, Hợp đồng ký kết giữa Tổ chức thanh toán trung gian với từng Tổ chức kinh doanh thẻ phải ghi rõ quyền và trách nhiệm khi đóng vai trò TCTTT, ghi rõ quyền và trách nhiệm khi đóng vai trò TCPHT và ghi rõ quyền và trách nhiệm của Tổ chức trung gian thanh toán khi thực hiện giao dịch thanh toán giữa hai bên TCPHT và TCTTT.

* Quan hệ giữa TCPHT, TCTTT nội địa với TCTQT: TCTQT về bản chất cũng là một Tổ chức thanh toán trung gian. Một TCTQT

thông thường là một TCPHT nước ngoài, có uy tín trong việc phát hành, sử dụng và thanh toán một loại thẻ tín dụng như Visacard, MasterCard, DinerClub, Amex, JCB… 1.2.2.2.Nhóm các quan hệ liên quan gián tiếp đến hoạt động kinh doanh thẻ

* Quan hệ giữa Đại lý phát hành thẻ với TCPHT: Quan hệ này phát sinh trên cơ sở hợp đồng đại lý phát hành thẻ. Nhằm phát

triển hơn nữa dịch vụ thẻ của mình trong khi mạng lưới Chi nhánh không đáp ứng được yêu cầu mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, các TCPHT có thể lựa chọn một số cá nhân, tổ chức theo tiêu chuẩn của mình để ủy quyền thực hiện một số công đoạn của nghiệp vụ phát hành như marketing, tiếp nhận thông tin khách hàng, nhận và trả thẻ cho khách hàng…

* Quan hệ giữa Chủ thẻ với Đại lý phát hành thẻ: Quan hệ này phát sinh trên cơ sở khách hàng đến thực hiện thủ tục phát hành

thẻ tại Đại lý phát hành thẻ. Trong quan hệ này thì khách hàng có trách nhiệm cung

Page 11: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

11

cấp thông tin để Đại lý phát hành thẻ thẩm tra điều kiện phát hành và điền đầy đủ thông tin vào hồ sơ yêu cầu phát hành theo hướng dẫn của Đại lý phát hành thẻ. Đại lý phát hành thẻ có trách nhiệm tiếp nhận thông tin và căn cứ vào quy định của TCPHT để thẩm tra điều kiện khách hàng, nếu khách hàng có đủ điều kiện thì Đại lý phát hành thẻ sẽ thông báo chấp nhận và hướng dẫn khách hàng khai báo hồ sơ yêu cầu.

* Quan hệ về bảo đảm tiền vay: Đây là mối quan hệ giữa Người bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Chủ thẻ với

TCPHT. Người bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Chủ thẻ ở đây có thể là chính Chủ thẻ khi chủ thẻ dùng tài sản của chính mình để cầm cố, thế chấp, ký quỹ… bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ đã phát sinh từ việc sử dụng thẻ tín dụng. Người bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Chủ thẻ cũng có thể là người thứ ba bảo lãnh cho chủ thẻ hoặc cầm cố, thế chấp, ký quỹ… tài sản của chính mình để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của chủ thẻ đối với TCPHT.

* Quan hệ giữa Hội thẻ ngân hàng Việt Nam với các thành viên: Xuất phát từ nhu cầu xây dựng và phát triển lành mạnh thị trường thẻ Việt Nam,

vào tháng 8/1996, Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam, trực thuộc Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam ra đời, do 4 TCPHT đầu tiên tại Việt Nam lúc đó sáng lập nên. Năm 2007, khi Việt Nam gia nhập WTO, nhiều ngân hàng nước ngoài sẽ mở chi nhánh tại Việt Nam, vì vậy, chắc chắn, số ngân hàng thành viên tham gia Hội thẻ sẽ tăng lên nhanh chóng.

* Quan hệ giữa Ngân hàng Nhà nước với các chủ thể trên: “Chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng: là chức năng

cơ bản của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. Cũng như đối với hoạt động ngân hàng nói chung, để quản lý, điều tiết, kiểm soát hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng, ngoài việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, NHNN còn trực tiếp can thiệp vào hoạt động của các chủ thể liên quan như: thẩm tra điều kiện, trình tự, thủ tục, cấp và thu hồi giấy phép của các chủ thể phát hành, thanh toán thẻ tín dụng; kiểm tra, thanh tra hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng; kiểm soát tín dụng; xử lý các vi phạm; hỗ trợ các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt; chỉ đạo điều hành các hoạt động nhằm thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của thị trường thẻ tín dụng, hạn chế rủi ro tín dụng trong kinh doanh thẻ tín dụng… 1.2.3. Sự cần thiết phải có pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến thẻ

tín dụng “Sự vận động và phát triển của ngân hàng và hoạt động ngân hàng trong điều

kiện kinh tế thị trường rất cần thiết và không thể thiếu vắng sự can thiệp, quản lý, điều tiết và kiểm soát từ phía nhà nước”Error! Reference source not found.. Thực tế tại Việt Nam, chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng phần lớn lại là các ngân hàng do liên quan chủ yếu đến các hoạt động ngân hàng như: cấp tín dụng, thanh toán, bảo lãnh, ngoại hối… Chính vì vậy, để tạo lập hệ thống các tổ chức phát hành thẻ tín dụng, tổ chức thanh toán thẻ tín dụng… hoạt động an toàn, phát huy vai trò tích cực đối với nền kinh tế và đời sống xã hội đòi hỏi nhà nước phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó có biện pháp sử dụng pháp luật.

Page 12: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

12

Pháp luật được nhà nước sử dụng làm công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực liên quan đến thẻ tín dụng, tạo lập những chuẩn mực cho việc phát hành, sử dụng, thanh toán thẻ tín dụng. Điều đó thể hiện ở các khía cạnh chủ yếu sau:

- Nhà nước sử dụng pháp luật để quản lý hành chính đối với các hoạt động liên quan đến thẻ tín dụng bao gồm: Quản lý, điều tiết và kiểm soát đối với hoạt động của các chủ thể liên quan đến thẻ tín dụng; Quy định nhiệm vụ quyền hạn quản lý nhà nước của Ngân hàng nhà nước Việt Nam đối với hoạt động kinh doanh, lưu hành, sử dụng thẻ tín dụng; Quy định các điều kiện, trình tự, thủ tục, phát hành, sử dụng, thanh toán thẻ tín dụng; Chấp thuận hoạt động nghiệp vụ thanh toán và phát hành thẻ tín dụng quốc tế…;

- Nhà nước sử dụng pháp luật để làm công cụ xây dựng hệ thống thanh toán thẻ tín dụng phù hợp với mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Thực tiễn ở nhiều nước đã chỉ ra rằng, bằng công cụ pháp luật nhà nước đã định hình mô hình tổ chức cho hệ thống thanh toán điện tử, tạo lập những tiền đề, cơ sở pháp lý phù hợp và tăng tính hiệu quả của chính sách tiền tệ quốc gia liên quan đến phương tiện thanh toán, thanh toán bằng tiền mặt và thể thức thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng “nền kinh tế tiền mặt” như ở Việt Nam hiện nay.

- Nhà nước sử dụng pháp luật làm công cụ bảo đảm an toàn cho các hoạt động kinh doanh ngân hàng liên quan đến thẻ tín dụng. Do sự tiềm ẩn nguy cơ rủi ro về tín dụng, khả năng thanh khoản, “tiền mặt hóa” hoặc “đô la hóa” nền kinh tế mà nhà nước phải sử dụng pháp luật làm công cụ kích thích những tác động tích cực, ngăn ngừa và hạn chế những tác động tiêu cực cho lĩnh vực kinh doanh này. Để làm được điều đó, nhà nước sử dụng pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực này theo phương thức riêng. Đó là những quy định hạn chế, giới hạn an toàn cần thiết cũng như các biện pháp kiểm soát chặt chẽ cần thiết đối với các hoạt động kinh doanh của ngân hàng có liên quan đến thẻ tín dụng nhằm bảo đảm an toàn hoạt động cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán, thực thi hiệu quả chính sách quản lý ngoại hối…

- Nhà nước sử dụng pháp luật làm công cụ ngăn ngừa, giải quyết các tranh chấp phát sinh khi vận hành hệ thống thanh toán, sử dụng thẻ tín dụng. Trong quá trình lưu hành, sử dụng thẻ tín dụng, có thể sẽ có các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể liên quan với nhau, với khách hàng hoặc với các cơ quan nhà nước. Các quy định của pháp luật, nếu được xây dựng phù hợp, sẽ có tác dụng giảm thiểu tranh chấp phát sinh và khi có phát sinh thì quy định pháp luật cũng sẽ là căn cứ để giải quyết hiệu quả các tranh chấp đó. Trên nguyên tắc bình đẳng, các quy định của pháp luật sẽ tạo lập hành lang pháp lý cho các chủ thể này giao dịch kinh doanh, sử dụng thẻ tín dụng, bảo đảm được yếu tố cạnh tranh lành mạnh trong khuôn khổ pháp luật, góp phần duy trì trật tự cho hệ thống thanh toán thẻ tín dụng phát triển ổn định trong nền kinh tế.

- Nhà nước sử dụng pháp luật làm công cụ tạo lập sự phù hợp với hoạt động phát hành, sử dụng, thanh toán thẻ tín dụng trên thế giới. Cùng với chính sách hội nhập và mở cửa kinh tế, thẻ tín dụng được sử dụng rộng rãi vượt ra ngoài phạm vi

Page 13: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

13

lãnh thổ một quốc gia. Việc công dân nước ngoài sử dụng thẻ tín dụng tại Việt Nam và công dân Việt Nam sử dụng thẻ tín dụng ở nước ngoài ngày càng trở nên phổ biến. Sự hợp tác giữa các TCPHT, TCTTT của Việt Nam với các ngân hàng nước ngoài, TCTQT cũng ngày càng trở nên sâu rộng. Điều đó tất yếu dẫn đến sự du nhập của các chuẩn mực quốc tế, các quy định của pháp luật nước ngoài, quy định nội bộ của chính TCTQT vào quy định của pháp luật Việt Nam. Điều đó góp phần tháo gỡ các rào cản hội nhập, tạo nên sự phù hợp tương đồng với khu vực và thế giới của không chỉ phương tiện thanh toán điện tử, hệ thống thanh toán điện tử nói riêng mà còn của cả các hoạt động ngân hàng Việt Nam và nền kinh tế Việt Nam nói chung.

Page 14: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

14

Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ

THẺ TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Trên cơ sở khảo sát các quan hệ pháp luật phát sinh liên quan đến thẻ tín dụng,

Chương II của khóa luận đã đi sâu tìm hiểu bản chất của từng giao dịch, từng mối quan hệ liên quan đến thẻ tín dụng, tiếp đó là việc nghiên cứu các quy định của pháp luật liên quan đến các giao dịch, quan hệ đó. Một trong những kết quả nổi bật trong Chương này là đã phân tích làm rõ được bản chất tín dụng và trung gian thanh toán của các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể. Điều đó tạo cơ sở lý luận vững chắc để nghiên cứu và đề xuất các nguyên tắc, phương pháp điều chỉnh của pháp luật với các quan hệ này. 2.1. PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÁC QUAN HỆ XÃ HỘI TRONG PHÁT

HÀNH, THANH TOÁN VÀ SỬ DỤNG THẺ TÍN DỤNG 2.1.1. Quan hệ giữa Chủ thẻ tín dụng và TCPHT 2.1.1.1. Điều kiện với chủ thẻ tín dụng 2.1.1.1.1. Trường hợp chủ thẻ là cá nhân

Trong trường hợp cá nhân là chủ thẻ chính, cá nhân này sẽ là người trực tiếp tham gia mối quan hệ với TCPHT, nên điều kiện quan trọng đầu tiên đối với chủ thẻ chính là phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Điều kiện này trở thành nguyên tắc đối với chủ thẻ cá nhân bởi quan hệ giữa chủ thẻ với các chủ thể khác luôn xoay quanh một khối tài sản. Trong trường hợp cá nhân là chủ thẻ phụ, năng lực hành vi dân sự của cá nhân này có thể không đầy đủ.

Đối với trường hợp chủ thẻ tín dụng là cá nhân, còn một thực tế rất hay gặp trong điều kiện kinh tế hội nhập hiện nay là cá nhân mang quốc tịch nước ngoài có đề nghị TCPHT Việt Nam phát hành thẻ tín dụng. Khi đó, việc xác định “năng lực hành vi dân sự” của chủ thẻ là cá nhân cũng được áp dụng tương tự như đối với công dân Việt Nam bởi cá nhân này xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam (Điều 762, 763 BLDS năm 2005). Nhằm tạo cơ chế thực hiện cũng như tránh rủi ro phát sinh trong trường hợp cá nhân người nước ngoài có đề nghị phát hành thẻ tín dụng, các TCPHT cũng đã tự đặt ra các điều kiện riêng. Như vậy là ngoài điều kiện về năng lực hành vi dân sự, các TCPHT được tự chủ trong việc đặt ra các quy định khác để phát hành thẻ tín dụng đối với cá nhân. 2.1.1.1.2. Trường hợp chủ thẻ là tổ chức

Quy định về chủ thẻ là tổ chức là một quy định mới trong Quy chế 20, tức là trước thời điểm có hiệu lực của Quy chế 20, pháp luật không cho phép TCPHT phát hành thẻ tín dụng cho tổ chức. Việc quy định loại hình chủ thẻ là tổ chức xuất phát từ nhu cầu thực tế sử dụng thẻ tín dụng, các TCPHT nhận được rất nhiều yêu cầu từ các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đề nghị được cấp thẻ tín dụng, nhưng khi chưa có hành lang pháp lý thì việc phát hành thẻ cho tổ chức có thể coi là vi phạm pháp luật. 2.1.1.2. Điều kiện với TCPHT

Theo quy định tại khoản 12 Điều 2 của Quy chế 20 thì TCPHT được hiểu là “ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tín dụng hợp tác, tổ chức khác

Page 15: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

15

không phải là tổ chức tín dụng được phép phát hành thẻ”. Như chúng tôi đã trình bày ở trên, Quy chế 20 đã mở rộng phạm vi các chủ thể được phát hành thẻ. Nếu như trước đây, chỉ các ngân hàng mới được phát hành thẻ, thì nay tổ chức được phát hành thẻ đã bao gồm nhiều loại chủ thể miễn là các chủ thể phải thỏa mãn thêm các điều kiện tại Điều 9 Quy chế 20. Nếu phát hành thẻ tín dụng quốc tế, TCPHT còn phải đáp ứng đủ điều kiện hoạt động ngoại hối do NHNN quy định. 2.1.1.3. Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng

Nếu như trước kia, Quy chế 371 dành hẳn một Điều đề cập đến Hợp đồng sử dụng thẻ và các nội dung chính của Hợp đồng này, thì trong Quy chế 20 hiện hành không còn quy định nữa mà chỉ bắt buộc “việc sử dụng thẻ phải có hợp đồng giữa chủ thẻ và TCPHT” (Khoản 1 Điều 11 Quy chế 20).

Như vậy là các TCPHT có quyền chủ động đưa ra hình thức và nội dung của Hợp đồng, pháp luật về thẻ tín dụng không can thiệp sâu vào quyền tự do thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, quan hệ giữa chủ thẻ và TCPHT vẫn là một quan hệ tài sản thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự, do vậy mối quan hệ này, trước tiên và cơ bản, vẫn phải tuân theo các quy định về giao dịch dân sự và Hợp đồng dân sự trong BLDS.

Bên cạnh đó, quan hệ giữa chủ thẻ với TCPHT cũng có những đặc trưng riêng thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật thương mại và pháp luật ngân hàng.

Thứ nhất, quan hệ giữa chủ thẻ và TCPHT là quan hệ pháp luật về mở và sử dụng tài khoản. Error! Reference source not found..

Thứ hai, quan hệ giữa chủ thẻ và TCPHT là một quan hệ thanh toán không dùng tiền mặt, chịu sự điều chỉnh của chế độ dịch vụ thanh toán/

Thứ ba, quan hệ giữa chủ thẻ và TCPHT là một quan hệ tín dụng ngân hàng. Như vậy, ngoài việc tuân thủ các quy định trong Quy chế 20, việc phát hành,

thanh toán, sử dụng thẻ tín dụng còn chịu sự điều chỉnh của Quy chế cho vay nói trên (Quy chế cho vay 1627). 2.1.2. Quan hệ giữa Chủ thẻ tín dụng và ĐVCNT

Quan hệ giữa chủ thẻ tín dụng và ĐVCNT là quan hệ thương mại thuần túy phát sinh từ hoạt động tiêu dùng mà bản chất là hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc sử dụng, cung ứng dịch vụ. Phần nội dung liên quan đến thẻ tín dụng trong hợp đồng này là nội dung về nghĩa vụ thanh toán của người mua hàng. Theo đó, hai bên thỏa thuận được phương thức thanh toán là sử dụng thẻ tín dụng của người mua hàng. Nghĩa vụ trả tiền, thanh toán được quy định trong cả Bộ Luật dân sự và Luật Thương mại hiện hành. (Điều 438 của BLDS năm 2005 và Điều 50 của Luật Thương mại năm 2005). Tuy nhiên các quy định này chỉ là những nguyên tắc chung. Việc quy định chi tiết cụ thể về nghĩa vụ thanh toán sẽ thuộc sự điều chỉnh của pháp luật ngân hàng về chế độ dịch vụ thanh toán.

Ngoài sự điều chỉnh của các ngành luật đã kể trên, quan hệ giữa chủ thẻ tín dụng và ĐVCNT còn chịu sự điều chỉnh của tư pháp quốc tế nếu giao dịch mua bán và thanh toán của chủ thẻ có yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài ở đây có thể là:

Page 16: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

16

thẻ do một tổ chức phát hành thẻ không có quốc tịch Việt Nam phát hành, chủ thể sử dụng thẻ là người nước ngoài… 2.1.3. Quan hệ giữa ĐVCNT và TCTTT 2.1.3.1.Điều kiện đối với ĐVCNT:

ĐVCNT là đơn vị kinh doanh hàng hóa dịch vụ với mục đích lợi nhuận, do đó ĐVCNT đều là các đơn vị có hoạt động thương mại, hay nói cách khác, ĐVCNT là chính các thương nhân theo quy định của pháp luật thương mại. Mặc dù không có một văn bản pháp luật nào quy định rõ điều kiện đối với ĐVCNT, nhưng xét về tính chất và mục tiêu hoạt động thì ĐVCNT phải là một thương nhân và đây chính là điều kiện đầu tiên với ĐVCNT.

Tuy nhiên, điều kiện thương nhân không phải là điều kiện duy nhất. Để trở thành ĐVCNT, thương nhân đó phải ký kết với TCTTT một Hợp đồng thanh toán thẻ. Hợp đồng này sẽ làm cơ sở cho hoạt động giao dịch thẻ giữa hai bên.

Ngoài hai điều kiện trên, pháp luật cũng đề cập đến một điều kiện như là một chế tài đối với các ĐVCNT. Đó là trường hợp ĐVCNT vi phạm nghĩa vụ không phân biệt đối xử về giá khi chấp nhận thanh toán bằng thẻ tín dụng. Khi đó, ĐVCNT không được phép ký kết hợp đồng thanh toán thẻ với bất kỳ TCTTT nào trong thời hạn một năm; trường hợp ĐVCNT đó tái phạm thì thời hạn không được phép ký kết hợp đồng có thể từ ba đến năm năm. 2.1.3.2.Điều kiện đối với TCTTT:

Theo quy định tại khoản 13 Điều 2 của Quy chế 20 thì TCTTT được hiểu là “ngân hàng, tổ chức khác không phải là ngân hàng được phép thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ”. Như vậy, điều kiện cơ bản của một TCTTT là phải có chức năng và đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thanh toán, một dịch vụ rất đặc thù của ngành ngân hàng. 2.1.3.3.Hợp đồng thanh toán thẻ giữa ĐVCNT và TCTTT: Do Quy chế 20 nói riêng và pháp luật về thanh toán nói chung không quy định nội dung cụ thể của hợp đồng này nên về cơ bản Hợp đồng thanh toán thẻ tuân theo các nguyên tắc cơ bản của pháp luật thương mại và pháp luật dân sự. Ngoài các nội dung cơ bản, các bên sẽ thỏa thuận các nội dung chi tiết của Hợp đồng này và pháp luật tôn trọng cũng như bảo vệ các nội dung thỏa thuận đó. 2.1.4. Quan hệ giữa Tổ chức thanh toán trung gian với các TCPHT, TCTTT

Tổ chức thanh toán trung gian và các TCPHT, TCTTT tạo thành một liên minh các tổ chức thực hiện việc phát hành, thanh toán và sử dụng một số loại thẻ nhất định. Các thành viên thỏa thuận để các đại lý của mình là các ĐVCNT chấp nhận các loại thẻ của các thành viên khác trong liên minh. Thông thường một tổ chức sẽ đóng vai trò là TCPHT với thẻ của mình nhưng sẽ là TCTTT đối với thẻ của thành viên khác. Nguồn gốc hình thành liên minh thường xuất phát từ Tổ chức thanh toán trung gian, với vai trò là một TCPHT đồng thời là TCTTT mạnh nhất, phát hành được nhiều thẻ nhất và phát triển được nhiều ĐVCNT nhất.

Pháp luật không điều chỉnh chi tiết về mối quan hệ hợp đồng này. Tuy nhiên với tính chất là giao dịch mang tính hoạt động thương mại trên cơ sở lợi ích, lợi nhuận,

Page 17: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

17

Hợp đồng này sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật thương mại và pháp luật dân sự. Tính chất của Hợp đồng này sẽ phụ thuộc vào mức độ liên kết giữa các thành viên. Đó có thể là Hợp đồng cung cấp dịch vụ thanh toán, Hợp đồng đại lý, Hợp đồng thuê công nghệ…cho đến các loại hợp đồng như Hợp đồng nhượng quyền thương mại, Hợp đồng li xăng. 2.1.5. Quan hệ giữa Tổ chức thẻ quốc tế với các TCPHT, TCTTT Việt Nam

− Tổ chức thẻ quốc tế là một chủ thể mang quốc tịch nước ngoài, hiện diện thương mại tại Việt Nam thông qua Văn phòng đại diện hoặc thậm chí không có cơ quan đại diện tại Việt Nam nhưng hiện diện tại Việt Nam thông qua việc nhượng quyền sử dụng thương hiệu thẻ tín dụng, nhượng quyền sử dụng cơ sở dữ liệu và hạ tầng công nghệ trong giao dịch thanh toán thẻ tín dụng…. Không chỉ liên quan đến yếu tố chủ thể nước ngoài, quan hệ này còn liên quan đến khối tài sản ở nước ngoài. Đó là số tiền thanh toán bù trừ thông qua các giao dịch thẻ của chủ thẻ nước ngoài ở Việt Nam và chủ thẻ Việt Nam chi tiêu tại nước ngoài. Vì vậy, quan hệ giữa Tổ chức thẻ quốc tế với các TCPHT, TCTTT Việt Nam là quan hệ dân sự mang yếu tố nước ngoài, thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế, bao gồm cả pháp luật dân sự Việt nam, pháp luật thương mại Việt Nam, Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, các tập quán quốc tế có liên quan đến việc sử dụng thẻ tín dụng.

2.2. PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TÍN DỤNG

2.2.1. Các quy định về cho vay và bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay Như phần trên đã trình bày, nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng là một

trong các phương thức cho vay. Do đó, nghiệp vụ này cũng phải tuân theo các quy định của pháp luật về cho vay và bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, phương thức cho vay bằng thẻ tín dụng có những đặc trưng riêng mà việc áp dụng các quy định chung về cho vay dẫn đến những yếu tố không phù hợp.

Thứ nhất, về điều kiện đối với TCPHT: Quy chế cho vay 1627 đã quy định rõ phạm vi điều chỉnh của quy chế là việc cho vay của các tổ chức tín dụng với khách hàng và một trong các phương thức cho vay là phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. Tuy vậy, Quy chế 20 lại không có ràng buộc về điều kiện này với TCPHT vì Quy chế này điều chỉnh chung cho tất cả các loại thẻ thanh toán mà không có quy định riêng cho thẻ tín dụng.

Thứ hai, về mục đích sử dụng vốn và nhu cầu sử dụng vốn: Quy chế cho vay 1627 cũng quy định một trong những nguyên tắc vay vốn là “Sử dụng vốn vay đúng mục đích”. Nhưng với đặc thù của việc thanh toán bằng thẻ tín dụng là chi trả tại ĐVCNT mà không thể xác định cụ thể và chính xác mục đích sử dụng vốn ngay từ đầu trong Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng. Ngoài ra, một trong những điều kiện vay vốn là “mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp” (Điều 7 Quy chế cho vay 1627) và quy định về các nhu cầu vốn không được cho vay (Điều 9) cũng khó có thể bảo đảm.

Page 18: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

18

Thứ ba, về mức lãi suất cho vay: Một trong những đặc thù của lãi suất cho vay bằng thẻ tín dụng là khi chủ thẻ tín dụng không thanh toán đủ số tiền vay trong một thời hạn nhất định thì TCPHT phải áp dụng mức lãi suất cao hơn rất nhiều lãi suất cho vay thông thường. Quy định này vừa là thực tiễn và tập quán áp dụng ở các quốc gia khác, vừa là quy định bắt buộc của TCTQT nên việc điều chỉnh giảm mức lãi suất cho vay để phù hợp với Điều 476 BLDS về mức lãi suất cho vay tối đa không vượt quá 150% lãi suất cơ bản là khó khả thi.

Thứ tư, về việc vay vốn bằng ngoại tệ: Việc vay vốn bằng ngoại tệ phải tuân theo các điều kiện chặt chẽ trong Quy chế cho vay 1627 và Quyết định số 966/2003/QD-NHNN ngày 22-08-2003 của Thống đốc NHNN về cho vay bằng ngoại tệ của TCTD với khách hàng vay là người cư trú. Theo các quy định này thì việc chủ thẻ sử dụng thẻ tín dụng tại nước ngoài không thuộc diện được cho vay bằng ngoại tệ. Tuy nhiên việc sử dụng thẻ tín dụng của công dân Việt Nam tại nước ngoài khi đi du lịch, học tập, công tác, kinh doanh… là không thể hạn chế và đương nhiên số tiền mà TCPHT phải thanh toán cho các ĐVCNT ở nước ngoài được tính bằng ngoại tệ.

Thứ năm, về những trường hợp không được cho vay, cho vay không có tài sản bảo đảm (Điều 77, Điều 78 Luật các tổ chức tín dụng và Điều 19, Điều 20 Quy chế cho vay 1627):

Những quy định như này là rất phù hợp với các phương thức cho vay thông thường. Tuy nhiên, quy định này lại không phù hợp với việc cho vay bằng thẻ tín dụng vì các khoản vay bằng thẻ tín dụng đều là các khoản vay nhỏ, số lượng các đối tượng bị cấm và hạn chế nêu trên không phải là nhiều nên mức độ ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng không phải là lớn.

Thứ sáu, về báo cáo thống kê và thông tin tín dụng: Theo quan điểm của chúng tôi, các khoản vay bằng thẻ tín dụng có đặc điểm là số lượng khách hàng lớn, dư nợ với mỗi khách hàng thường là thấp, thời hạn vay ngắn, thường xuyên phát sinh và biến động. Do đó việc thống kê, báo cáo và cung cấp thông tin về các khoản vay sẽ rất kém hiệu quả nếu vẫn tuân theo trình tự thủ tục như đối với các khoản vay thông thường. 2.2.2. Các quy định về quản lý hoạt động thanh toán

Các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và phương thức thanh toán bằng thẻ tín dụng nói riêng đã góp phần thúc đẩy giao thương hàng hóa, phát triển sản xuất và hạn chế được lưu lượng tiền mặt lưu thông trong nền kinh tế. Nhìn chung, pháp luật đã có những quy định cơ bản để thị trường thẻ vận hành. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề cần có sự điều chỉnh sâu hơn của pháp luật.

Thứ nhất, vấn đề trích lập dự phòng rủi ro đối với nghiệp vụ thanh toán thẻ trong đó có cả thẻ tín dụng. Thứ hai, vấn đề mua bảo hiểm cho nghiệp vụ thẻ tín dụng. Thứ ba, vấn đề xử lý vi phạm trong hoạt động thẻ tín dụng. Thứ tư, vấn đề xử lý tranh chấp. Thứ năm, vấn đề tích hợp hệ thống thanh toán thẻ. Thứ sáu, vấn đề về sự hiện diện của TCTQT ở Việt Nam. 2.2.3. Các quy định về quản lý ngoại hối

Page 19: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

19

Theo Pháp lệnh Ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 và Nghị định số 160/2006/NĐ-CP ngày 28-12-2006 về Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Ngoại hối thì Thẻ thanh toán (trong đó có thẻ tín dụng) được coi là “ngoại hối” và do vậy thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về quản lý ngoại hối.

Tuy nhiên, quá trình phát hành, thanh toán và sử dụng thẻ tín dụng cũng có nhiều tình huống bất cập và rất cần có sự điều chỉnh rõ ràng của pháp luật.

Thứ nhất, khi công dân Việt Nam xuất cảnh qua cửa khẩu mà có mang theo một hoặc nhiều thẻ tín dụng thì không coi là hành vi mang ngoại tệ mặt (vì khái niệm ngoại tệ không bao gồm thẻ thanh toán, thẻ tín dụng).

Thứ hai, hạn mức khai báo hải quan khi mang ngoại tệ xuất cảnh là 7000USD/người, nếu vượt hạn mức này thì ngoài nghĩa vụ khai báo hải quan còn cần có giấy phép mang ngoại tệ khi xuất cảnh.

Thứ ba, khi chủ thẻ sử dụng thẻ tín dụng ở nước ngoài, sẽ phát sinh nghĩa vụ thanh toán bằng ngoại tệ cho chủ thể ở nước ngoài dẫn đến nhu cầu chuyển ngoại tệ qua tài khoản của TCPHT ở trong nước cho tổ chức, cá nhân nước ngoài (ĐVCNT ở nước ngoài). 2.2.4. Các quy định về cạnh tranh

Một trong các chế định của pháp luật cạnh tranh là vấn đề hạn chế cạnh tranh. Xét đến tính đặc thù trong lĩnh vực thẻ tín dụng thì việc ấn định các khoản phí và lãi suất với dịch vụ thẻ tín dụng là tập quán thương mại hoặc là do chính quy định của các TCTQT. Vì vậy, việc coi hành vi này là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các bên để chiếm lĩnh thị trường hay là do yếu tố khác tác động từ bên ngoài vào là rất khó xác định. Còn đối với hành vi “thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh” thì cũng không phải là không có trong thị trường thẻ bị “cát cứ” bởi nhiều liên minh thẻ như hiện nay.

Một trong các chế định khác của pháp luật cạnh tranh có liên quan đến thị trường thẻ là hành vi lạm dụng vị thế thống lĩnh thị trường. Với đặc thù của thị trường thẻ Việt Nam, ngay từ khi ra đời đã tồn tại một số doanh nghiệp thống lĩnh thị trường, thêm vào đó, trong quá trình hội nhập, một số TCTQT đang có vị trí thống lĩnh thị trường thẻ quốc tế cũng triển khai kinh doanh thẻ ở Việt Nam. 2.2.5. Các quy định về phòng ngừa gian lận và tội phạm thẻ

Vấn đề tội phạm thẻ thuộc ngành luật hình sự điều chỉnh. Tuy nhiên, việc tìm hiểu các hành vi gian lận và tội phạm thẻ để nhận định các rủi ro trong hoạt động kinh doanh thẻ, từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa, phân định trách nhiệm các bên và xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp là một nhu cầu cấp thiết.

Mặc dù có khá nhiều các hành vi gian lận và tội phạm trong lĩnh vực thẻ, các quy định về phòng ngừa rủi ro, giải quyết tranh chấp phát sinh lại tương đối hạn chế.

Như vậy, mặc dù các hành vi gian lận và tội phạm thẻ là khá đa dạng thì cơ chế xử lý và giải quyết hậu quả lại chưa rõ ràng, chưa đồng bộ, đồng thời chưa có cả các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu. Nếu việc phân định trách nhiệm được minh bạch và rõ ràng hơn thì khả năng phòng ngừa rủi ro chắc chắn cũng sẽ đạt được hiệu quả cao hơn.

Page 20: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

20

Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VỀ THẺ TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM Chương III, cũng là chương cuối của Luận văn, đã đi sâu phân tích các vấn đề

liên quan đến pháp luật về thẻ tín dụng được đề cập tại Chương II. Việc phân tích được thực hiện trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, với mục đích tìm tòi, gợi mở những phương hướng sửa đổi, bổ sung, thay thế các quy định hiện hành, nhằm hoàn thiện pháp luật về thẻ tín dụng. Để thực hiện được điều đó, phần đầu của chương III đã nhấn mạnh đến các yếu tố cấp thiết phải tiến hành hoàn thiện pháp luật cũng như các nguyên tắc cơ bản chi phối toàn bộ các quy định này. Trên cơ sở những nguyên tắc này, phần còn lại của chương III đưa ra các đề xuất mang tính điển hình và cấp bách. Đề xuất mang tính trọng yếu là việc cần thiết phải ban hành quy định riêng về thẻ tín dụng. 3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG

Thứ nhất, các ngân hàng đang có nhu cầu hoạt động bền vững dựa trên mô hình ngân hàng bán lẻ sản phẩm dịch vụ. Chính vì vậy mà các ngân hàng ráo riết triển khai loại hình kinh doanh thẻ tín dụng. Trong khi thị trường kinh doanh thẻ tín dụng đang có những biến chuyển lớn thì hành lang pháp lý đi kèm cũng phải có những thay đổi tương ứng. Đó chính là nguyên nhân đầu tiên dẫn tới nhu cầu hoàn thiện pháp luật về thẻ tín dụng.

Thứ hai, pháp luật về thẻ tín dụng là chế định pháp luật mới được xây dựng, mới được hình thành chủ yếu từ việc tiếp thu nguyên trạng quy định trong các hệ thống pháp luật khác nên còn nhiều lỗ hổng, nhiều quy định không phù hợp với thực tế vận hành của thị trường thẻ tín dụng Việt Nam.

Thứ ba, áp lực giảm tỷ trọng thanh toán bằng tiền mặt của nền kinh tế ngày một gia tăng. Điều đó, đòi hỏi phải phát triển hơn nữa các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt. Trong số các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, thẻ tín dụng là một công cụ tiện lợi và phổ biến bậc nhất, là công cụ mang tính xã hội hóa cao nhất. .

Thứ tư, rủi ro và tranh chấp khi sử dụng và kinh doanh thẻ tín dụng phát sinh ngày một nhiều. 3.2. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CHI PHỐI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG Thứ nhất, bảo đảm quyền bình đẳng và tự do thỏa thuận giữa các bên. Thứ hai, quản lý rủi ro tín dụng kết hợp với rủi ro thanh toán. Thứ ba, kết hợp giữa cơ quan nhà nước và hiệp hội ngành nghề để quản lý hoạt

động kinh doanh thẻ tín dụng. 3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN

DỤNG 3.3.1. Thống nhất hóa các quy định về phát hành, sử dụng, thanh toán thẻ tín

dụng trong một văn bản

Page 21: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

21

Về vấn đề chủ thẻ tín dụng: các quy định hiện hành về chủ thẻ tín dụng mới đáp ứng được yêu cầu cơ bản mà chưa dự liệu hết các khó khăn phát sinh. Nguyên nhân chủ yếu là vì các quy định này được ban hành để áp dụng chung cho tất cả các loại thẻ chứ không dành riêng cho thẻ tín dụng. Do đó nếu ban hành được một quy định riêng về thẻ tín dụng, pháp luật sẽ có điều kiện đặt ra các tiêu chí để sàng lọc và phân loại chủ thẻ, có cơ chế điều chỉnh khác nhau giữa chủ thẻ Việt Nam và chủ thẻ nước ngoài, giữa chủ thẻ tổ chức và chủ thẻ cá nhân, giữa chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ. Trường hợp người nước ngoài là chủ thẻ tín dụng sử dụng tại Việt Nam cũng cần có quy định cụ thể hơn, đặc biệt là vấn đề xử lý rủi ro sau phát sinh khi chủ thẻ đã xuất cảnh ra nước ngoài. Riêng đối với chủ thẻ là tổ chức, cũng cần có các quy định về cơ chế sử dụng thẻ thông qua người đại diện, vấn đề phân định trách nhiệm của cá nhân sử dụng thẻ với pháp nhân là chủ thẻ, vấn đề bảo đảm an toàn, bảo mật thông tin, vấn đề phân định nghĩa vụ gánh chịu rủi ro giữa các bên. Ngoài ra, còn một vấn đề quan trọng liên quan đến rủi ro tín dụng, đó là điều kiện có năng lực tài chính, có uy tín để được sử dụng thẻ. Theo chúng tôi, pháp luật nên quy định điều kiện để phát hành thẻ tín dụng cho chủ thẻ liên quan đến số lượng tối đa thẻ tín dụng mà chủ thẻ được sử dụng, liên quan đến uy tín trả nợ (số lượng tối đa dư nợ quá hạn của một chủ thẻ trong một thời gian nhất định), liên quan đến nghĩa vụ tuân thủ các quy định của TCPHT và của pháp luật về thẻ tín dụng.

Về một số quy định cho vay bằng thẻ tín dụng: Với những đặc thù riêng, không thể áp dụng các quy định của cho vay thông thường vào hình thức cho vay bằng thẻ tín dụng. Những bất cập lớn trong việc cho vay đã được chúng tôi trình bày ở Chương II. Theo chúng tôi, các quy định về cho vay hiện hành đang tập trung điều chỉnh hoạt động cho vay đầu tư, sản xuất, kinh doanh là chủ yếu. Nếu áp dụng các quy định này vào cho vay tiêu dùng sẽ có nhiều bất cập. Trong tương lai gần, có thể phải tách biệt việc điều chỉnh cho vay kinh doanh riêng và cho vay tiêu dùng riêng. Trước mắt, trong quy định về phát hành, sử dụng, thanh toán thẻ tín dụng sẽ có các nội dung liên quan đến quản lý rủi ro thẻ tín dụng được tiếp thu từ Quy chế cho vay. Khi đó, Quy chế cho vay của NHNN chỉ việc dẫn chiếu đến quy định này là đủ cơ sở áp dụng mà không mâu thuẫn với các điều kiện đặt ra trong Quy chế cho vay. Còn một vấn đề nữa, đó là tình trạng lạm dụng thẻ tín dụng trong tiêu dùng cá nhân. Hiện tượng này đang tăng lên nhanh chóng ở một số nước Châu Á. Ở Việt Nam chưa xảy ra tình trạng này vì thị trường thẻ tín dụng còn quá nhỏ bé, nhưng ở một số nước như Trung Quốc, Thái Lan và đặc biệt là Hàn Quốc, tình trạng phát hành thẻ tín dụng tràn lan cộng với xu thế tiêu dùng xa xỉ của tầng lớp thanh niên đã làm tăng số cá nhân mất khả năng thanh toán. Báo chí Hàn Quốc đã phải lên tiếng cảnh báo về các vụ tự sát trong lớp trẻ do nợ nần chồng chất. Rõ ràng đây là một hiện trạng rất đáng quan tâm trong việc hoạch định chính sách, xây dựng quy định pháp luật về thẻ tín dụng. Để hạn chế phần nào rủi ro này, pháp luật tăng cường vai trò của các quy định về điều kiện phát hành thẻ tín dụng, về các tỷ lệ an toàn, xếp hạng khách hàng, … tránh tình trạng tương tự có thể xảy ra đối với Việt Nam.

Page 22: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

22

Về vấn đề quản lý ngoại hối: Như chúng tôi đã phân tích, việc không kiểm soát được chi tiêu của chủ thẻ tín dụng ở nước ngoài đang làm cản trở mục tiêu quản lý nhà nước về ngoại hối. Chủ thẻ có thể lợi dụng thẻ để chuyển ngoại tệ ra nước ngoài và sẽ dẫn tới tình trạng “chảy máu ngoại tệ”. Để khắc phục tình trạng này, trước hết là quy định về số lượng tối đa số thẻ tín dụng mà chủ thẻ được sở hữu mà chúng tôi đã đề cập ở trên. Sau đó là áp dụng các biện pháp hạn chế trước, quản lý sau như: quy định hạn mức tối đa được rút, chi tiêu bằng ngoại tệ từ thẻ tín dụng quốc tế; quy định hạn mức chi tiêu tối đa trong một thời gian nhất định; kiểm soát số lần và giá trị tối đa của các giao dịch của chủ thẻ tại nước ngoài; yêu cầu các TCPHT báo cáo về các giao dịch không bình thường; đặt ra chế tài xử phạt với người vi phạm

Về vấn đề xử lý vi phạm trong giao dịch thẻ tín dụng: Vấn đề xử lý vi phạm vẫn là kẽ hở của pháp luật hiện hành. Các quy định của pháp luật chỉ là các quy định chung chung, mang tính nguyên tắc. Các quy định cụ thể về cơ chế xử lý vi phạm và các chế tài áp dụng gần như không có. Điều đó sẽ dẫn tới việc khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc xử lý vi phạm, các cơ quan có thẩm quyền có thể vận dụng các quy định khác của pháp luật để xử lý nhưng chế tài đưa ra có thể không tương xứng với mức độ vi phạm.

Về báo cáo thống kê hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng: Cùng với các báo cáo về hoạt động cho vay, Ngân hàng Nhà nước cũng nên xây dựng thêm các chỉ tiêu báo cáo dành riêng cho thẻ tín dụng. Ví dụ như chỉ tiêu báo cáo tổng dư nợ qua thẻ, tổng dư nợ quá hạn, dư nợ không có bảo đảm, số lượng thẻ, tổng hạn mức tín dụng đã phát hành, tỷ lệ tổng dư nợ thực tế trên tổng dư nợ theo hạn mức đã phát hành… 3.3.2. Về vấn đề xây dựng và chia sẻ thông tin tín dụng

Một nhu cầu đặt ra là phải xây dựng cơ sở dữ liệu về các chủ thẻ, trong đó có toàn bộ thông tin về chủ thẻ bao gồm cả năng lực tài chính, lịch sử tín dụng, uy tín trong trả nợ, việc tuân thủ các cam kết và tuân thủ pháp luật. Các ngân hàng trên thế giới đều đã áp dụng các biện pháp phân tích, tính điểm tín dụng khách hàng cá nhân để giảm thiểu rủi ro tín dụng trong kinh doanh thẻ. Mặc dù tính điểm tín dụng với khách hàng cá nhân đơn giản hơn rất nhiều so với các khách hàng doanh nghiệp, các TCPHT Việt Nam vẫn chưa dám làm điều đó vì chưa có kinh nghiệm và quan trọng hơn là chưa có cơ sở pháp lý- kinh tế- xã hội tạo điều kiện cho việc thu thập thông tin tài chính của các khách hàng. Do vậy, trước mắt cần xem xét việc xây dựng cơ sở dữ liệu chủ thẻ tín dụng tại Trung tâm thông tin tín dụng NHNN Việt Nam. . 3.3.3. Về việc phát huy năng lực hoạt động của các hiệp hội ngành nghề

Hiện nay, cạnh tranh trong phát hành và thanh toán thẻ giữa các TCPHT ngày càng gay gắt. Mặc dù đã có Hội thẻ, trong đó các TCPHT, TCTTT phát hành và thanh toán thẻ ở Việt Nam đã cùng nhau thống nhất về quan điểm, chính sách về phí dịch vụ, chia sẻ tận dụng khả năng vốn có của các hệ thống ứng dụng của từng đơn vị, nhưng trong thực tế, việc tuân thủ các nguyên tắc đã thống nhất lại không được thực hiện. Ngân hàng Nhà nước cũng nên khuyến khích các TCPHT, TCTTT tham gia Hội thẻ ngân hàng Việt Nam để hỗ trợ nhau cùng phát triển trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh. Ngân hàng Nhà nước nên trao cho Hội một số quyền lực nhất định trong

Page 23: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

23

việc xử lý các sai phạm, vi phạm trong thanh toán thẻ, ban hành các văn bản có tính pháp lý cao với sự cho phép của Ngân hàng Nhà nước và tổ chức hướng dẫn tập huấn - đào tạo các nhân viên hoạt động kinh doanh thẻ, cùng với các hoạt động quản lý khác. 3.3.4. Vấn đề phân định trách nhiệm gánh chịu rủi ro

Một câu hỏi được đặt ra sau rất nhiều vụ việc tranh chấp liên quan đến thẻ thanh toán, đó là “TCPHT có chịu trách nhiệm với những tổn thất liên quan đến thẻ tín dụng hay không, chịu trách nhiệm trong những trường hợp cụ thể nào và chịu trách nhiệm đến đâu?” Rõ ràng là vấn đề minh bạch hóa trách nhiệm của TCPHT sẽ thể hiện tính bình đẳng, công bằng trong quan hệ giữa TCPHT và khách hàng. Nếu các bên hiểu rõ trách nhiệm của nhau thì các bên sẽ có ý thức hơn trong việc bảo đảm an toàn trong phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ. Có như vậy, người dân cũng sẽ an tâm và tin dùng thẻ tín dụng nhiều hơn.

Bên cạnh đó, cũng nên triển khai sản phẩm bảo hiểm tài sản rủi ro cho các khách hàng sử dụng thẻ tín dụng. Nếu như vậy, các TCPHT sẽ giúp khách hàng san sẻ rủi ro bằng cách tăng phí dịch vụ để trích nộp bảo hiểm. Hiện tại, vấn đề này cũng tương đối khó triển khai vì lượng khách hàng sử dụng còn nhỏ nên khả năng lấy phí từ số đông bù đắp rủi ro cho số ít là không cao. Tuy nhiên, nếu có quy định này, khách hàng chắc chắn sẽ an tâm hơn khi giao dịch với TCPHT, TCTTT. 3.3.5. Về vấn đề tội phạm thẻ

Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, các gian lận về thẻ tín dụng chưa được quy định trong Bộ luật Hình sự. Vì vậy, trên thực tế khi xử lý loại tội phạm này, cơ quan tiến hành tố tụng thường liệt nó vào loại tội phạm chiếm đoạt (tội trộm cắp tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản…) do trên thực tế các cơ quan có thẩm quyền chỉ phát hiện được loại tội phạm này khi đã có hậu quả xảy ra (kẻ phạm tội đã chiếm đoạt được tiền từ tài khoản của người khác).

Nhưng nếu đặt lại vấn đề, cơ quan có thẩm quyền phát hiện được tội phạm khi kẻ phạm tội chưa tiến hành rút được tiền thì việc xử lý ra sao. Rõ ràng, theo quy định hiện hành thì không thể xử lý hình sự được hành vi phạm tội này do không thể liệt nó vào loại tội phạm làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức vì không thỏa mãn cấu thành cần thiết.

Vì vậy, trong thời gian tới cần sửa đổi, bổ sung vào các quy định của pháp luật hiện hành về loại tội phạm này trong nhóm tội phạm công nghệ cao. 3.3.6. Xây dựng các quy tắc và tiêu chuẩn an toàn cho các tổ chức kinh doanh

dịch vụ thẻ tín dụng Một trong những điều kiện tối thiểu để kinh doanh được sản phẩm thẻ tín dụng

là phải có hạ tầng công nghệ phù hợp. Để giải quyết vấn đề này, theo chúng tôi, việc quản lý quy tắc và tiêu chuẩn an toàn đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ thẻ tín dụng phải dựa trên hai cấp độ.

Cấp độ thứ nhất xuất phát từ quy định của pháp luật, được các cơ quan nhà nước giám sát và bảo đảm thực hiện. Pháp luật cần quy định các quy tắc an toàn, tiêu

Page 24: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

24

chuẩn, chuẩn mực tối thiểu mà các tổ chức muốn kinh doanh dịch vụ thẻ phải đáp ứng. Cấp độ thứ hai, nên trao cho hiệp hội ngành nghề được đặt ra tiêu chuẩn về an toàn, về công nghệ cho các thành viên tham gia hiệp hội. 3.3.7. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thẻ tín dụng

Để các quy định của pháp luật được bảo đảm thực hiện trong đời sống xã hội, việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các quy định này cho các đối tượng thích hợp cũng cần được chú trọng.

Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thẻ tín dụng giúp cho người dân nhận thức được bản chất quy trình vận hành và hoạt động của thẻ tín dụng.

Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn giúp cho người dân nâng cao trách nhiệm của mình trong việc sử dụng thẻ thanh toán.

Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với các tổ chức, cơ quan, đơn vị… còn là một giải pháp khai thông thị trường thẻ, bởi chính các cán bộ, nhân viên các cơ quan này là khách hàng sử dụng thẻ tín dụng.

Để thực hiện tốt việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, theo chúng tôi, cần chú trọng tới các nội dung sau:

Thường xuyên tổ chức việc tuyên truyền pháp luật về thẻ tín dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần tập trung vào đối tượng chủ yếu là đông đảo dân chúng và các cơ quan đơn vị hợp tác trong việc quản lý lao động các nhân viên có sử dụng thẻ tín dụng.

Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần được đông đảo các chủ thể cùng tham gia như TCPHT, TCTTT, ĐVCNT, TCTQT, Hiệp hội ngành nghề… chứ không nên dựa chủ yếu vào NHNN như trước.

Ngoài ra, cần tăng cường phổ biến, trao đổi thông tin tại các cuộc hội thảo mang tính chuyên sâu để tìm ra các giải pháp phát triển thẻ tín dụng một cách khoa học và phù hợp thực tiễn.

.

Page 25: Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu ...tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/37792/1/V_L0... · CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

25

KẾT LUẬN Thị trường thẻ tín dụng ở Việt Nam đã thực sự phát triển trong một vài năm trở

lại đây. Trong tương lai không xa, thẻ tín dụng sẽ trở thành phương tiện thanh toán quan trọng và phố biến nhất trong hệ thống các phương tiện thanh toán. Nhìn nhận một cách tổng quát, phát triển thẻ tín dụng sẽ làm giảm đáng kể lượng tiền mặt trong lưu thông, đồng thời là công cụ kích cầu có hiệu quả và ở chừng mực nhất định, có tác dụng kích thích sự phát triển sản xuất, phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ ngân hàng. Bên cạnh đó, thẻ tín dụng còn giúp nhà nước kiểm soát được thu nhập và chi tiêu của dân chúng. Đối với các tổ chức kinh doanh dịch vụ thẻ nói chung và các ngân hàng nói riêng, thu dịch vụ từ thẻ tín dụng sẽ là nguồn thu dịch vụ tương đối cao và ổn định.

Với vai trò quan trọng như vậy thì việc phát triển thẻ tín dụng là quy luật tất yếu. Cùng với nhịp độ phát triển nhanh, thị trường thẻ tín dụng cũng chứa đựng trong nó nhiều rủi ro. Rủi ro với thị trường thẻ tín dụng không chỉ dừng lại ở thiệt hại vật chất giữa các chủ thể kinh doanh và tiêu dùng mà còn có rủi ro mang tính vĩ mô ở phạm vi cả nền kinh tế và trong cả đời sống xã hội. Pháp luật về thẻ tín dụng sẽ là công cụ không thể thiếu để tạo khuôn khổ vận hành của thị trường thẻ tín dụng, để ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro thẻ tín dụng, để phối hợp thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Do vậy mà nhu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẻ tín dụng luôn được đặt ra.

Các mối quan hệ liên quan đến việc phát hành, sử dụng thẻ tín dụng đều thuộc đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Vì vậy, cần phải đi sâu nghiên cứu bản chất mới có thể đề xuất phương hướng xây dựng và áp dụng pháp luật về thẻ tín dụng khi điều chỉnh các quan hệ này. Luận văn đề cập một vấn đề mới, có rất ít các bài viết, các công trình nghiên cứu từ khía cạnh pháp luật. Đồng thời, đây cũng là một đề tài tương đối rộng, đề cập đến nhiều quy định liên quan khác của pháp luật. Do đó, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ có thể trình bày các vấn đề một cách khái quát, mới dừng lại ở mức độ tiếp cận ban đầu và đưa ra các giải pháp mang tính gợi mở. Dù sao tác giả luận văn vẫn hy vọng rằng những nghiên cứu trên đây sẽ có những đóng góp nhất định trong việc nhận thức và hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẻ tín dụng, đáp ứng yêu cầu điều chỉnh của pháp luật về thẻ tín dụng trong giai đoạn tới./.