579
THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ (Tái bản có chỉnh lý, bổ sung) Nguyễn Huệ Chi (Chủ biên) SOẠN THẢO Nguyễn Huệ Chi – Nguyễn Đình Chú – Bùi Văn Cường – Lại Văn Hùng – Trần Quốc Vượng – Trần Đình Hượu – Vũ Đức Phúc – Trần Đình Sử – Trần Thị Băng Thanh – Nguyễn Phạm Hùng – Vũ Thanh – Bùi Thị Xuân – Phạm Tú Châu – Trần Nho Thìn – Đặng Thị Hảo – Phạm Ngọc Lan – N.I. Nikulin – Ngô Ngọc Ngũ Long – Nguyễn Phương Chi – Nguyễn Hữu Sơn – Phạm Xuân Nguyên – Lê Chí Dũng – Tảo Trang – Đức Mậu – Đào Thản – Nguyễn Văn Hoàn – Trần Hải Yến. Sách dùng cho các trường đại học, cao đẳng và phổ thông, do Giáo sư Nguyễn Huệ Chi chủ biên và 26 Giáo sư, nhà nghiên cứu chuyên ngành văn học cổ cận đại Việt Nam cùng cộng tác thực hiện, lần đầu tiên đi sâu vào các phương diện khách nhau trong con người và văn nghiệp nhà thơ tiêu biểu bậc nhất của văn học cận đại Việt Nam: Tam nguyên Yên Đổ, nhằm cố gắng làm sáng tỏ các nhân tố đã tạo nên con người lịch sử Nguyễn Khuyến cũng như con người thơ Nguyễn Khuyến.

THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ

THI HÀO NGUYỄN KHUYẾNĐỜI VÀ THƠ

(Tái bản có chỉnh lý, bổ sung)

Nguyễn Huệ Chi (Chủ biên)

SOẠN THẢO

Nguyễn Huệ Chi – Nguyễn Đình Chú – Bùi Văn Cường – Lại Văn Hùng

– Trần Quốc Vượng – Trần Đình Hượu – Vũ Đức Phúc – Trần Đình Sử –

Trần Thị Băng Thanh – Nguyễn Phạm Hùng – Vũ Thanh – Bùi Thị Xuân –

Phạm Tú Châu – Trần Nho Thìn – Đặng Thị Hảo – Phạm Ngọc Lan – N.I.

Nikulin – Ngô Ngọc Ngũ Long – Nguyễn Phương Chi – Nguyễn Hữu Sơn –

Phạm Xuân Nguyên – Lê Chí Dũng – Tảo Trang – Đức Mậu – Đào Thản –

Nguyễn Văn Hoàn – Trần Hải Yến.

Sách dùng cho các trường đại học, cao đẳng và phổ thông, do Giáo sư

Nguyễn Huệ Chi chủ biên và 26 Giáo sư, nhà nghiên cứu chuyên ngành văn

học cổ cận đại Việt Nam cùng cộng tác thực hiện, lần đầu tiên đi sâu vào các

phương diện khách nhau trong con người và văn nghiệp nhà thơ tiêu biểu

bậc nhất của văn học cận đại Việt Nam: Tam nguyên Yên Đổ, nhằm cố gắng

làm sáng tỏ các nhân tố đã tạo nên con người lịch sử Nguyễn Khuyến cũng

như con người thơ Nguyễn Khuyến.

Ở bình diện thứ nhất, công trình giúp bạn đọc hiểu thêm đôi nét về làng

quê Yên Đổ, về hệ phả dòng họ Yên Đổ và về khí hậu văn hóa xã hội của đời

sống Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX mà Yên Đổ đã chịu ảnh hưởng sâu nặng.

Ở bình diện thứ hai, tập sách giới hạn trong 3 chủ đề:

1. Cái nhìn nghệ thuật về con người của Nguyễn Khuyến bao gồm cả

sự tự thể hiện mình như một nhân vật trữ tình và trào phúng;

Page 2: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

2. Những biến động trong nguyên tắc sáng tác và quan điểm thẩm mỹ,

đã giúp Nguyễn Khuyến tạo nên một mảng thơ “dân tình làng cảnh” đặc sắc

có một;

3. Sự đa dạng trong bút pháp thể hiện biểu hiện ở khả năng chiếm lĩnh

cùng một lúc rất nhiều thể loại văn học.

Nhưng điều đáng nói hơn là cơ sở phương pháp luận của sự trình bày:

đó là hướng phân tích thi pháp tác giả được dụng ý gói ghém trong Chương

khái quát và quán xuyến đó đây trong toàn bộ các chương mục.

CÙNG BẠN ĐỌC

Thi hào Nguyễn Khuyế – Đời và thơ là một trong những công trình

trọng tâm của Viện Văn học trong năm 1992, cũng là một thể nghiệm vận

dụng các thao tác mới một cách hệ thống vào việc nghiên cứu một tác giả,

nhằm góp phần nhìn nhận lại sự nghiệp thi ca của một trong những thi hào

bật nhất trong giai đoạn chuyển tiếp từ trung đại sang cận đại của văn học

Việt Nam.

Do yêu cầu của bạn đọc rộng rãi, nhất là sinh viên và giáo viên, Nhà

xuất bản Giáo dục vui lòng đưa công trình này vào hệ thống sách dùng để

tham khảo trong nhà trường từ phổ thông đến đại học, và vì thế lần này sách

lại có dịp ra mắt bạn đọc. Xin được ghi nhận ở đây sự quan tâm chu đáo của

ông Giám đốc Trần Trâm Phương.

Dựa trên ý kiến đóng góp xa gần, trước khi đưa tái bản, việc chỉnh lý,

bổ sung đã được tiến hành kỹ lưỡng: ở Chương II, cố gắng thêm vào các tài

liệu điền dã mới nhất về phả hệ gia đình bên mẹ Nguyễn Khuyến, để bạn đọc

có dịp nhìn thấy những ảnh hưởng di truyền từ cả hai phía đối nói nhà thơ; ở

Chương III, cái nhìn trào lộng đối với con người của Nguyễn Khuyến được

phân tích chi tiết, thấu đáo hơn, dưới ba loại đối tượng khác nhau; và ở

Chương V, phần đặc điểm thơ Nôm Nguyễn Khuyến cũng được trình bày kỹ

lưỡng và chặt chẽ hơn trước.

Page 3: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Đặc biệt, cuốn sách có bổ sung hẳn một phần Thơ tuyển, là kết quả

khảo cứu trực tiếp từ kho sách Hán Nôm còn lưu trong các thư viện. Bài nào

còn tìm thấy xuất xứ cụ thể đều có in kèm chữ Hán hoặc chữ Nôm.

Tất cả những công việc bổ sung, sửa chữa trên đây đều do người chủ

biên công trình: Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, chịu trách nhiệm. Giúp vào việc

chỉnh lý từng phần còn có các anh Nguyễn Phạm Hùng, Lại Văn Hùng, và vào

việc chọn thơ có Phó giáo sứ Trần Thị Băng Thanh và chị Trần Hải Yến. Việc

thay đổi, thêm bớt ở từng chương mục đều có bàn bạc với từng tác giả và

bản thảo cuối cùng đã được các Giáo sư Vũ Khiêu, Phong Lê, Phó giáo sư

Nguyễn Khắc Phi và Phó tiến sĩ Đinh Thái Hương đọc lại, cũng như phần viết

chữ Hán và chữ Nôm đã được nhà Nho lão thành Lê Xuân Hòa nhiệt tình

giúp đỡ. Các tấm ảnh chụp khung cảnh ngôi nhà cũ của Nguyễn Khuyến và

tượng Phỗng đá là do bác sĩ Nguyễn Thị Thu Hiền, cháu bốn đời nhà thơ

cung cấp Thay mặt tập thể tác giả, chúng tôi xin tỏ lời cảm ơn chân thành.

Một lần nữa, mong được bạn đọc góp ý để những lần in sau, chất

lượng cuốn sách càng được nâng cao hơn.

Hà Nội, ngày 2 tháng Năm năm 1994

VIỆN VĂN HỌC

LỜI NÓI ĐẦU(Lần xuất bản thứ nhất)

Trong bước chuyển mình quan trọng của văn học Việt Nam từ nửa cuối

thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX Nguyễn Khuyến là một trong số những tài

năng hiếm hoi đã chứng tỏ được thiên bẩm nghệ sĩ và bản lĩnh sáng tạo của

mình, bất chấp quy luật đào thải phũ phàng của lịch sử. Ông là nhà thơ mà

tác phẩm có sự phong phú về cung bậc và giọng điệu, và cũng là người mở

đầu cho một trường thơ không còn bị chi phối quá chặt chẽ trong các quan

niệm công thức, ước lệ của văn học cổ truyền.

Page 4: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Thơ ca Nguyễn Khuyến đã được in và phổ biến rộng rãi từ những năm

đầu thế kỷ này và trong khoảng vài chục năm trở lại đây, công việc sưu tầm,

khảo dị đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nhưng việc nghiên cứu thơ

văn Nguyễn Khuyến thì từ khá lâu rồi vẫn dừng lại ở cái mốc của thậ kỷ 60,

với những nhận định chừng mực, thận trọng. Nhiều khám phá quý báu cũng

đã được dư luật nhắc nhở, song tựu trung, đây vẫn là hướng phân tích thơ

văn theo chức năng xã hội – lịch sử, một phương pháp có ý nghĩa đặc trưng

cho một giai đoạn dài trong công tác nghiên cứu văn học Việt Nam. Các công

trình nghiên cứu Nguyễn Khuyến không đi ra ngoài thông lệ, cũng là lẽ

thường.

Cách đây 7 năm, nhân dịp kỷ niệm trọng thể lần thứ 150 ngày sinh

Nguyễn Khuyến (15 – II – 1985), Viện Văn học đã cùng Sở Văn hóa thông tin

Hà Nam Ninh và Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh (nay là Nam Hà) phối

hợp tổ chức Hội nghị khoa học lớn về nhà thơ. Lần đầu tiên, với tư cách một

thi hào, Nguyễn Khuyến đã được đề cập đến một cách tập trung và toàn diện.

70 tham luận, triển khai từ một hệ thống đề tài được xây dựng khá tỷ mỷ, đã

cho phép người tham dự thông qua nhiều mảng tài liệu mới, lấp đi nhiều

khoảng còn trống trong sưu tầm, nghiên cứu, và hội nhập được hình ảnh một

Nguyễn Khuyến sống thực, rất nhiều vẻ nhưng cũng sáng tỏ hơn, nhất quán

hơn.

Việc công bố kết quả Hội thảo khoa học trên đây, dưới hình thức một

tập kỷ yếu đầy đủ, là công việc cần làm. Từ năm 1987, Viện Văn học đã tập

hợp xong tài liệu, biên tập, chỉnh lý sơ bộ và đã chuyển đến Hội Văn học nghệ

thuật Hà Nam Ninh, để tiến hành các bước kế tiếp. Trong khi chờ đợi một

công trình bề thế như vậy có đủ điều kiện ra mắt, thì yêu cầu đổi mới mạnh

mẽ công tác nghiên cứu cũng hàng ngày hàng giờ đặt vấn đề tiếp cận lại

Nguyễn Khuyến, nhằm đáp ứng việc giảng dạy trong các trường học, từ bậc

phổ thông đến bậc đại học. Vì vậy, từ đầu năm 1989, đề tài nghiên cứu về

Nguyễn Khuyến đã dược Viện đề xuất, giao cho Ban văn học Cổ cận đại của

Page 5: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Viện thực hiện. Và đến nay, sau hai năm khẩn trương biên soạn, chuyên khảo

Thi hào Nguyễn Khuyến – đời và từ hoàn thành.

Với 5 chương chính và 1 chương phụ tục, Thi hào Nguyễn Khuyến –

đời và thơ nhằm cố gắng làm sáng tỏ các nhân tố đã tạo nên con người lịch

sử Nguyễn Khuyến cũng như con người thơ Nguyễn Khuyến. Ở bình diện thứ

nhất, tập sách chú ý phác lại một đôi nét khung cảnh vùng quê Yên Đổ, nơi

đã thai nghén tài năng của nhà thi hào, và cái khí hậu văn hóa – xã hội của

đời sống Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX mà Nguyễn Khuyến đã chịu ảnh

hưởng sâu nặng; ngoài ra, còn cố gắng lập một bảng phả hệ Nguyễn Khuyến,

và đi sâu vào quan niệm xuất xứ và tấn bi kịch trong tâm trạng Yên Đổ là hai

mặt có liên quan trực tiếp đến âm hưởng thơ ca Nguyễn Khuyến giai đoạn từ

sau khi ông trở về. Ở bình diện thứ hai – con người thơ, tập sách giới hạn

trong ba chủ đề, cũng là ba mặt thành tựu nổi bật nhất của thơ ca Nguyễn

Khuyến: 1. Cái nhìn nghệ thuật về con người trong thơ ông; bao gồm cả sự tự

thể hiện mình như một nhân vật trữ tình, trào phúng, và “ông say”; 2. Những

biến động trong nguyên tắc sáng tác và quan điểm thẩm mỹ đã giúp Nguyễn

Khuyến tạo nên một mảng thơ “dân tình làng cảnh” có một không hai trong

thơ tiếng Việt; 3. Sự đa dạng trong bút pháp của nhà thơ biểu hiện khả năng

chiếm lĩnh cùng một lúc rất nhiều từ loại, dưới nhiều phương thức tư duy

nghệ thuật khác nhau, qua nghệ thuật ngôn từ điêu luyện và sở trường sáng

tác liên văn bản Việt – Hán hoặc Hán – Việt vốn đã trở thành một đặc điểm

riêng có ở thơ ông.

Góp phần soi Sáng cho nội dung trình bày ở trên còn có hai bảng Niên

biểu và Thư mục Nguyễn Khuyến đặt ở cuối sách. Nhưng điều dáng nói hơn

là cơ sở phương pháp luận của sự trình bày: đó là hướng phân tích thi pháp

tác giả (sự đổi mới tư duy nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về con người, về

thời gian và không gian nghệ thuật trong thơ trữ tình…), được dụng ý gói

ghém trong chương khái quát và quán xuyến đó đây trong các chương mục

sau, ngay cả trong cách sắp xếp trình tự các vấn đề của từng chương mục.

Tất nhiên, phương hướng mới mẻ này chỉ mới được xem như một thể nghiệm

Page 6: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

bước đầu, nên không nhất thiết áp dụng ở tất cả mọi chương mục trong sách,

và cũng không vì thế mà loại bỏ phương pháp tiếp cận nội dung xã hội ở

những trường hợp phương pháp đó còn tỏ ra hữu hiệu.

Công việc tổ chức, chỉ đạo cũng như trực tiếp biên soạn Thi hàn

Nguyễn Khuyến - đời và thơ do Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Trưởng ban Ban

văn học Cổ cận đại, chịu trách nhiệm, từ việc vạch đề cương chi tiết, tổ chức

cộng tác viên, và sửa chữa, bổ sung hoàn chỉnh bản thảo. Trong quá trình

biên tập, còn có thêm Phó giáo sư Phạm Tú Châu, Phó giáo sư Trần Thị

Băng Thanh, các anh chị Vũ Thanh, Đặng Thị Hảo, Phạm Ngọc Lan, Nguyễn

Hữu Sơn, lần lượt tham gia một số việc cụ thể. Do chỗ bản thảo có thừa

hưởng một phần những tham luận trong Hội nghị khoa học đã dẫn, mà tính

đến nay thời gian đã quá lâu, nên để có thể gắn bó với những chương mục

mới trong một kết cấu thống nhất và một chủ đề chung, các tham luận này

cũng đã phải qua nhiều lần thay đổi, cấu tạo lại. Mặt khác, để bớt đi sự bất

nhất trong trích dẫn, tập sách chọn cuốn Nguyễn Khuyến – tác phẩm làm cơ

sở xuất xứ cho thơ văn Nguyễn Khuyến. Trường hợp lời dẫn không có trong

sách này, hoặc cá biệt phải chọn một văn bản khác, sẽ xin ký chú để bạn đọc

tiện tham khảo.

Bản thảo cuối cùng của Thi hào Nguyễn Khuyến - đời và thơ do 27

Giáo sư, nhà nghiên cứu thuộc chuyên ngành văn học cổ cận đại chấp bút.

Sau khi sách hoàn thành, Giáo sư Vũ Khiêu, Phó giáo sư Đỗ Văn Hỷ, Phó

giáo sư Nguyên Văn Hoàn, và nhà nghiên cứu Nguyễn Nghiệp đã đọc lại và

giúp cho nhiều ý kiến.

Rất mong bạn đọc xa gần chỉ bảo để cuốn sách có thể khắc phục các

nhược điểm và chỉnh lý lại tốt hơn trong lần tái bản sau. Đó là ý nguyện chân

thành của tập thể tác giả.

Hà Nội, ngày 15 tháng Ba năm 1992

VIỆN VĂN HỌC

Page 7: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(1). Chẳng hạn công trình Đọc thơ Nguyễn Khuyến của Xuân Diệu in

lần đầu trong Thơ văn Nguyễn Khuyến, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1971, với hệ

thống thuật ngữ “Nhà thơ dân tình, làng cảnh Việt Nam” do ông đưa ra lần

đầu tiên.

(2). Nguyễn Văn Huyền biên soạn. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985.

Phần thứ nhất. NGUYỄN KHUYẾN – TỪ CON NGƯỜI ĐẾN THI CA (CHUYÊN KHẢO)

DẪN LUẬNĐỔI MỚI CÁCH NHÌN NGUYỄN KHUYẾN

Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) là một trong những nhà thơ lớn của Việt

Nam trên chặng đường chuyển tiếp giữa hai thời kỳ văn học: từ trung đại

bước sang cận đại. Trong số ngót 400 bài thơ vừa Nôm và Hán cùng một số

câu đối của ông để lại, có nhiều bài từ lâu đã được lựa chọn đưa vào các bộ

văn tuyển, các sách giáo khoa, sách giảng văn, và hơn thế nữa được lưu

truyền rất rộng rãi trong công chúng, từ lớp người có học, “kẻ sĩ”, đến người

dân bình thường.

Cũng từ ngót một thế kỷ qua, cuộc đời và thơ văn Nguyễn Khuyến đã

từng bước được sách báo xem xét, định vị; gương mặt Nguyễn Khuyến ngày

một sáng tỏ hơn. Nhất là từ hòa bình lập lại (1954) đến nay, việc nghiên cứu

văn học theo quan điểm xã hội – lịch sử được đẩy mạnh, cũng như trường

hợp nhiều nhà văn quá khứ khác, địa vị giai cấp, nguồn gốc xuất thân, thái độ

chính trị, và nội dung xã hội của thơ văn Nguyễn Khuyến đã trở thành một

quan tâm chính đáng của nhiều nhà nghiên cứu chúng ta. Người ta xếp

Nguyễn Khuyến vào dòng văn học trào phúng cùng với Tú Xương, Nguyễn

Thiện Kế, Từ Diễn Đồng… và một lời đánh giá “thoáng đạt” về con người tài

hoa này – nhà thơ trào phúng kiệt xuất – đã nhanh chóng trở thành mỹ tự,

như một định ngữ ước lệ đi hẳn vào các bộ văn học sử, vào các loại sách vở

Page 8: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

dùng trong nhà trường. Cho đến những năm 60 – 70, trên bảng giá trị của văn

học cận đại Việt Nam, Nguyễn Khuyến tưởng chừng đã có một vị trí ổn đáng.

Sự thực, không hẳn đã như vậy. Do nhiều điều kiện cụ thể, khách quan

quy định, mỗi thời đại có ưu thế của riêng mình nhưng đồng thời cũng có

những sở đoản không tránh khỏi trong khi khám phá, nhận diện lịch sử. Vì

thế, nếu như công tác nghiên cứu văn học của mỗi thời có góp phần nâng

cao nhận thức của người đọc lên một bước so với quá khứ, cấp cho họ một

cách lý giải mới mẻ đối với một hiện tượng văn học nào đấy, thì chắc chắn

mặt này mặt khác nó vẫn để tồn tại những dấu hỏi chưa thể nào sáng tỏ,

thậm chí đôi lúc so với trước còn có những suy nghĩ hạn chế, sai lầm. Chặng

đường gần bốn mươi năm nghiên cứu Nguyễn Khuyến vừa dẫn ở trên cũng

không ra ngoài thông lệ này. Trong tình hình cuộc chiến tranh giải phóng dân

tộc nổi lên như một nhiệm vụ cấp bách hàng đầu, chi phối toàn bộ các hoạt

động vật chất, tinh thần của đất nước, và kéo dài gần suốt ba mươi năm

(1946 – 1975), người nghiên cứu văn học nói riêng cũng như người nghiên

cứu khoa học xã hội nói chung trong khi đi sâu vào các đối tượng chuyên biệt

của mình có thể nào thoát ly khỏi các quan điểm thời sự mà cuộc chiến tranh

vệ quốc đặt ra cho cả thời đại? Việc ưu tiên nhấn mạnh khuynh hướng yêu

nước trong các tiến trình vận động khác nhau của văn học dân tộc, chính là vì

lẽ ấy. Việc coi trọng các phương thức chính luận, tuyênl truyền, kêu gọi…

trong các thủ pháp nghệ thuật đa dạng của văn học dân tộc từ cổ chí kim,

cũng là vì lẽ ấy. Nói cách khác, tiêu chí của một chủ nghĩa yêu nước được cụ

thể hóa ở nội dung cũng như hình thức sáng tác, đã đóng vai trò như một hệ

quy chiếu bao trùm mà Nguyễn Khuyến hay bất kỳ hiện tượng văn học nào

được mang ra xem xét, đều phải soi vào đây mà hiểu hiện giá trị.

Lẽ tự nhiên, một tình hình như vậy cũng khiến cho việc xếp Nguyễn

Khuyến vào dòng văn học trào phúng không còn mang đầy đủ ý nghĩa của

một nhận thức khoa học chặt chẽ. Trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn

Khuyến, số lượng thơ trào phúng thật ra chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Nghĩa là

bên cạnh yêu cầu khu biệt về loại hình và phương pháp sáng tác vốn rất cần

Page 9: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

thiết nhưng chưa được mấy ai quan tâm đầy đủ, sự phân loại ở đây thực ra

lại ẩn chứa một tương quan so sánh về giá trị, giữa hai “hạng” nhà văn đương

thời: hạng người có trực tiếp tham gia vào công cuộc Cần vương cứu nước,

thơ văn lấy cảm hứng từ hoạt động cứu nước của mình, và hạng người tự đặt

mình ra “ngoài cuộc”, sống cuộc sống của người dân bình thường, ngòi bút

cũng chỉ đề cập đến các đề tài “thế sự”, đến cuộc sống muôn mặt của “đời

thường”. Đặt Nguyễn Khuyến vào dòng văn học trào phúng không phải không

bao hàm cái mặc cảm cho rằng, dẫu tài năng đến đâu ông cũng không thể

đứng trong số những nhà văn “hạng nhất”. Ông chỉ là một nhà văn “hạng hai”.

Mặc cảm tự ty này đã gần như một thứ tâm lý xã hôi tác động đến quan điểm

của giới nghiên cứu một cách phổ biến và trong một thời gian khá lâu. Đến

nỗi muốn đề cao một cây bút bậc thầy như Tú Xương, người ta cũng bắt buộc

phải nêu giả thuyết về một mối liên hệ ngấm ngầm nào đấy giữa ông Tú thành

Nam và nhà cách mạng Phan Bội Châu, dù rằng chứng cứ quả là ít ỏi. Đó

chính là nỗi khổ tâm của nhà nghiên cứu, cũng là cái “nóc” không thể vượt

qua của một thời kỳ lịch sử.

***

Nhưng với thời gian, lịch sử cũng lần lần hội đủ điều kiện để tháo gỡ

những gì mắc mứu, làm cho vấn đề được đẩy lên. Người nghiên cứu Nguyễn

Khuyến từ dăm năm lại đây đã cố gắng xoá bỏ quyết định luận về một sự

“xếp hạng” bất công đối với nhà thơ. Tất nhiên, xóa bỏ không có nghĩa là cố ý

hạ thấp hay làm lu mờ vai trò của chủ nghĩa yêu nước trong văn học dân tộc.

Vẻ đẹp của tinh thần ái quốc đã chiếu sáng và bồi đắp sinh lực cho văn học

Việt Nam trên nhiều chặng đường lịch sử – đấy là một sự thực hiển nhiên,

không có gì để bàn cãi. Có điều, đề cao vai trò của văn học yêu nước cuối thế

kỷ XIX lại không thể đi đến một thái độ cực đoan, vô hình trung phân lập nó

với các thành tựu của văn học dân tộc nói chung. Khi quy định ranh giới giữa

văn học yêu nước cuối thế kỷ XIX với các bộ phận văn học khác, người ta

thường xem xét ở hai phương diện: cá nhân nhà văn là người tham gia phong

trào cứu nước và đề tài nhà văn lựa chọn là đề tài trung quân ái quốc, là

Page 10: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

nghĩa vụ của kẻ nam nhi đối với xã tắc sơn hà. Phân biệt như thế ngỡ không

còn vấn đề gì chưa thỏa đáng, nhưng trên thực tế vẫn phát sinh những điều

nhầm lẫn. Cái chính là có nhiều cấp độ nhận thức khác nhau ở cả hai phương

diện đã nói, và sự đánh giá không thỏa đáng lại bắt nguồn từ cách hiểu giản

đơn, thô thiển, đối với những cấp độ vốn rất phức tạp này.

Trên cấp độ con người xã hội, người ta thường phân biệt đại khái làm

ba hạng: con người nhập cuộc, con người ở ẩn và con người đầu hàng.

Nhưng đâu phải trường hợp nào xếp vào một trong ba hạng cũng ổn? Bởi

đây là vấn đề con người - con người cụ thể lịch sử, mà ba hạng người được

phân chia theo cách ta quan niệm lại chỉ mới là một sự định lượng mà thôi.

Hãy cứ loại trừ một ít nhân vật kiểu Hoàng Cao Khải, Tôn Thọ Tường,

Nguyễn Thân… ra, thử hỏi trong số những người còn lại, giữa một Hoàng

Diệu, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Cao tuẫn tiết, một Thủ khoa Huân,

Nguyễn Trung Trực bị chém đầu, một Nguyễn Thông nửa đường bỏ về ở ẩn,

một Phan Thanh Giản quyên sinh và một Nguyễn Quang Bích toan tính quyên

sinh… biết ai là người chất nặng hơn ai tâm sự trung vua, báo quốc? Vậy xếp

họ vào đâu cho đúng với thực chất con người họ thật là cả một bài toán gay

go, nan giải.

Trên cấp độ con người lịch sử mà nói, có lẽ sự phân biệt giữa những

con người vừa kể càng ít cần thiết hơn. Trước sau có một cá nhân nào mà

chẳng là sự phản ánh tấn bi kịch tất yếu của cả một thế hệ sĩ phu, trong bước

gấp khúc không tài nào tránh khỏi của vận hội xã tắc? Và trên cấp độ con

người nhà văn mà nói, sự phân biệt cũng chẳng đưa lại bao nhiêu ý nghĩa,

nếu không căn cứ vào sáng tác cụ thể của mỗi người. Có khi người trực tiếp

tham gia chống giặc cứu nước vẫn viết nên những áng văn rất ít giá trị, còn

người ở ẩn lại có thể có những vần thơ lay động được tâm trí mọi người.

Chẳng phải xưa nay văn và người tuy là hai đại lượng thống nhất nhưng có

bao giờ đồng nhất hẳn với nhau? Hơn nữa, văn chương dẫu sao vẫn là câu

chuyện của thiên hướng, nó đòi hỏi không phải chỉ một trái tim rung cảm mà

còn một tài năng bậc thầy!

Page 11: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Trên cấp độ lựa chọn đề tài của nhà văn, vấn đề cũng ít hay nhiều có

chỗ tương tự. Kể cũng khó lòng phân biệt sự hơn kém giữa một đề tài phò

vua giúp nước và một đề tài loại khác, đề tài “thế sự”, đề tài “đời tư”, “đời

thường”. Chẳng lẽ một người cầm bút ca ngợi vẻ đẹp của xứ sở, quê hương,

biết phát hiện ra trong đời sống hàng ngày những dáng nét đặc trưng cho cốt

cách tâm hồn Việt Nam, lại không thể xếp ngang một cây bút chuyên cổ vũ

cho lòng trung quân ái quốc? Cho nên, nếu đẩy tới một cấp độ cao hơn, cấp

độ tính nhân bản của văn học, thì mọi sự phân biệt ở đề tài dường như biến

mất. Sẽ không còn chỗ cho thứ lập luận bám vào những lợi ích gần gũi trước

mắt để biện minh rằng loại đề tài này là sáng giá hơn loại đề tài nọ, vì cái đích

vươn tới xa nhất của văn học giờ đây là con người với vẻ đẹp trần tục của nó,

với niềm tin, khát vọng, cái cao quý cũng như cái tầm thường hèn mọn của

con người. Văn chương yêu nước hay văn chương đời thường đều không thể

lảng tránh mục đích cao sâu này. Nhờ có nó mà nhiều nền văn học hết sức

cách xa nhau trên trái đất đã xích lại gần nhau. Trong văn học cận đại Việt

Nam, thông qua sức mạnh của tinh thần nhân bản, sự ngăn cách giữa một

Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Thông với một Nguyễn Khuyến, một Phan Văn

Trị và một Tú Xương… đã hầu như không còn đáng kể nữa. Sự giải tỏa tâm

lý mặc cảm trong nghiên cứu Nguyễn Khuyến cuối cùng chính là ở đấy.

***

Tuy nhiên, nếu chỉ giải tỏa được Nguyễn Khuyến để đưa ông trở về

sánh ngang với các nhà văn yêu nước trong bối cảnh văn học nửa cuối thế kỷ

XIX thì công việc của chúng ta rốt cuộc cũng chẳng có gì đáng kể. Nguyễn

Khuyến với những cống hiến nổi bật của ông chắc chắn vẫn cứ tồn tại, không

cần đến một sự giải tỏa hình thức kiểu này. Cho nên, về mặt phương pháp

luận, nói đến một bước tiến đáng kể trong quan điểm đánh giá Nguyễn

Khuyến ở đây cũng có nghĩa là nói đến một sự chuẩn bị đầy đủ các dữ kiện lý

luận để khẳng định cái “riêng” của ông, cái lượng giá trị đặc sắc mà ngòi bút

Nguyễn Khuyến tạo nên cho văn học nửa cuối thế kỷ, mà đương thời chưa

Page 12: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

mấy nhà văn đạt được. Đó cũng là một yêu cầu đặt ra cho giới nghiên cứu kể

từ mấy năm nay.

Trước hết, so với các nhà văn khoa bảng khác cùng thời, Nguyễn

Khuyến là một con người có vận động rõ rệt trong tư tưởng. Văn chương của

một số sĩ phu khác có thể có một sự đổi thay về màu sắc, chủ yếu là do sự

thay đổi của đối tượng phản ánh (từ đề tài quan trường, ngâm vịnh chuyển

sang đề tài đánh giặc chẳng hạn), nhưng nội dung chuyển tải của nó vẫn là

nội dung “trung quân ái quốc” không có gì khác trước. Văn chương Nguyễn

Khuyến thì không phải như vậy. Đây là kết quả của một cuộc xáo trộn lớn

trong cuộc đời Yên Đổ, một bước ngoặt “trở về vườn Bùi” vào năm 1884 –

thời điểm Nguyễn Khuyến từ bỏ tư cách ông quan với địa vị phẩm tước cao

sang mà quay về làm một người “chân đất”. Chính bước ngoặt này mở ra một

thế giới mới trong thi ca của ông mà trước kia ông chưa bao giờ có và người

đồng thời với ông cũng không thể có. Không có bước ngoặt này rõ ràng đã

không có nhà thơ Yên Đổ. Vậy, nhân tố mới tạo nên thơ ca Nguyễn Khuyến

là sự vận động đột biến của chủ thể thẩm mỹ – một nhân tố nội tại – trong

quan hệ tương tác nhiều mặt của lịch sử giai đoạn. Hiện tượng này qủa là rất

hiếm hoi trong văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Trong thơ ca của mình,

Nguyễn Khuyến ít nói đến những chuyện đánh giặc, trung vua, ca ngợi “sự

bền vững nghìn đời”, của non sông xã tắc. Đề tài chính thống và truyền thống

khá mờ nhạt trong thơ ông. Trên một ý nghĩa nào đó, có thể đặt câu hỏi: phải

chăng đây là một bước lùi về quan điểm sáng tác so với đương thời? Có lẽ!

Nhưng nếu nhìn trong sự vận động đột biến của chủ thể thẩm mỹ, thì “bước

lùi” trong thơ Nguyễn Khuyến chưa hẳn đã là một sự thụt lùi. Những nhà văn

yêu nước đồng thời với Nguyễn Khuyến nói chung đều đã sáng tác dưới sự

hướng dẫn của quan điểm “văn dĩ tải đạo”. Họ đã viết với tất cả nỗi niềm cảm

xúc, nhưng cũng viết như một thói quen, một khả năng vận dụng lão luyện

mọi từ chương điển cố có sẵn, và sáng tác của họ tuy nồng nàn tinh thần yêu

nước, vẫn không thể nào đem lại một phẩm chất thẩm mỹ mới, trừ những cây

bút thật sự ưu tú, và những áng văn đặc biệt thành công. Phần lớn chúng chỉ

đạt đến cái giá trị từ chương học đơn thuần. Hiển nhiên, trong một phạm vi

Page 13: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

nhất định, chúng có tác dụng tuyên truyền, kêu gọi, tập hợp quần chúng và

lên án những kẻ đầu hàng. Nhưng bình tâm mà xét, trên mặt cắt đồng đại của

văn học nửa cuối thế kỷ XIX, chúng chỉ là những sáng tác về cùng một kiểu

đề tài, quay theo cùng một trục duy nhất: trục vận hành của lịch sử chính trị.

Chúng bị lịch sử quy định chặt chẽ và kết thúc vận mệnh khi lịch sử đã khép

lại. Trong khi đó, Nguyễn Khuyến đã sớm biết chuyển sang những loại đề tài

khác, quay xung quanh một chuỗi những trục lớn nhỏ có nhịp vận hành gián

cách tương đối với trục vận động của lịch sử chính trị. Đó là các trục quay thế

sự. Nhờ đó, ông không bị lịch sử đào thải, trái lại ông tồn tại vượt quá sang

chặng đường sau. Ông vừa là một hiện tượng giao thoa giữa thế kỷ XIX và

thế kỷ XX, lại vừa là một chứng nhân lịch sử. Với linh cảm phi thường của

một nghệ sĩ cỡ lớn, Nguyễn Khuyến đã nhận thức ra giới hạn cuối cùng của

hình tượng con người trung nghĩa, vẻ đẹp não nùng bi tráng của nó, và dấu

hỏi thiêng liêng nhưng vô vọng mà nó đặt ra trước lịch sử (bài Xuân dạ liên

nga). Có thể nói, Nguyễn Khuyến đã phản ánh được trạng thái vận động đến

điểm mút của con người sĩ phu ái quốc trong giai đoạn. Đó là cái nhìn nghệ

thuật về con người rất đáng được xem trọng.

Không phải chỉ có vậy! Từ sự chuyển hướng sang đề tài thế sự,

Nguyễn Khuyến còn tìm được lối thoát cho ngòi bút của mình, ở chỗ xác lập

một lý tưởng thẩm mỹ cách tân so với truyền thống. Táo bạo, tài hoa, không

chút do dự trước sức giằng níu của một quan điểm thẩm mỹ đang phổ biến

trong xã hội kẻ sĩ lúc bấy giờ là cảm hứng về “cái cao cả”, Nguyễn Khuyến đã

nhanh chóng ngả về phía một quan điểm thẩm mỹ đối lập – ông tìm thấy vẻ

đẹp chân thực của “cái thông tục” và dựa vào đó mà xây dựng cho mình một

sự nghiệp sáng tác phong phú, với một trường thơ đặc sắc: trường thơ dân

tình làng cảnh Việt Nam. Và ở cả hai khía cạnh của trường thơ này: sinh hoạt

nông thôn và phong cảnh làng mạc, ông đều có những khám phá đột xuất, tài

tình.

Cũng cần nói, trong tư cách một nhà thơ phong cảnh, Nguyễn Khuyến

đã không lập lại những thành tựu của nghệ thuật phong cảnh truyền thống.

Page 14: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Trong tư cách một nhà thơ thế sự, ông cũng không vay mượn thủ pháp của

các nhà thơ quá khứ, những Nguyễn Bảo (thế kỷ XV), Nguyễn Bỉnh Khiêm

(thế kỷ XVI), Phạm Quý Thích (thế kỷ XVIII), Phạm Phú Thứ (thế kỷ XIX)…

Nguyễn Khuyến đã đưa lại cho bức tranh làng cảnh việt Nam cũng như cho

khung cảnh sinh hoạt của nông thôn Việt Nam hương vị, màu sắc, đường nét,

sức sống… như nó vẫn tồn tại, mà ủ kín trong đó là cái hồn muôn đời của con

người, đất nước Việt Nam. Yếu tố gì khiến cho ngòi bút của ông vượt lên so

với quá khứ? Một lần nữa lại chỉ có thể giải thích bằng sự vận động đột biến

của chủ thể thẩm mỹ; chính sự năng động bên trong đó đã góp phần làm lung

lay ở Nguyễn Khuyến những quan niệm thẩm mỹ cũ và tạo điều kiện cho

những quan niệm thẩm mỹ mới sinh thành. Trong cơn lốc của những biến cố

làm xáo trộn cả cái xã hội cổ điển Việt Nam, Nguyễn Khuyến đã biết trụ lại

theo cách của ông. Ông không bám giữ khư khư những nguyên tắc đã không

còn sức sống mà biết thay đổi, biến hóa, để có thể vượt qua các rào chắn của

lịch sử, tiếp cận được với những phương thức nghệ thuật của một thời đại

mới mà trong tư tưởng, ông vẫn không kém xa lạ. Nguyễn Khuyến là con

người của buổi giao thời đầy mâu thuẫn, nhưng nếu ở trong ông có một phần

là con người quá khứ thì cũng có một phần nữa đã rứt được với quá khứ để

hướng tới hiện đại.

Công trình nghiên cứu này cố gắng ghi nhận những bước đổi thay đáng

kể trong quá trình nhận diễn lại Nguyễn Khuyến, đánh dấu bằng Hội nghị

khoa học lớn về Nguyễn Khuyến năm 1985 nhân kỷ niệm 150 năm ngày sinh

nhà thơ. Với tất cả chỗ được và chưa được, có thể coi đây như một tiếng nói

báo hiệu sự đổi mới đầu tiên trong công tác nghiên cứu văn học quá khứ nà

chắc chắn, các công trình nghiên cứu tiếp theo sẽ giành được những bước

cao hơn.

Page 15: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Chương I. KHÁI QUÁT. NGUYỄN KHUYẾN, MỘT THI TÀI NHIỀU VẺ VÀ DẤU HIỆU CHUYỂN MÌNH SANG HIỆN ĐẠI CỦA THƠ CA DÂN TỘC

1. CON ĐƯỜNG TÌM KIẾM BẢN SẮC THƠ YÊN ĐỔ

1. Thơ văn Nguyễn Khuyến được đăng tải đầu tiên là trên tạp chí Nam

phong vào trước những năm 20 của thế kỷ. Nhưng cũng phải đợi đến gần hai

chục năm sau thì công tác văn học sử trên đường hình thành mới tìm đến

Nguyễn Khuyến. Và với tình hình sưu tầm thơ văn của ông trong buổi đầu,

chủ yếu là thơ Nôm, người ta nhận ra đầu tiên, và cũng là dần dần, một

Nguyễn Khuyến nhà thơ trào phúng xuất sắc. Và quả tình cũng là đúng đắn:

Nguyễn Khuyến đã góp vào kho tàng thơ ca trào phúng dân tộc một tiếng

cười đặc sắc. Tiếng cười đó không dữ dội, sâu cay như tiếng cười của Tú

Xương mà nói chung là rất thâm thúy nhưng cũng hóm nhẹ, trong lành.

Nhưng cả tiếng cười của Tú Xương và tiếng cười của Nguyễn Khuyến, nói

như Giáo sư Đặng Thai Mai, là tiếng cười của một người “biết cười” và một

người “thích cười”, đều là những tiếng cười tâm huyết, tiếng cười trào nước

mắt. Qua giọng cười hài – bi đan quyện vào nhau này có thể thấy được tấm

lòng của họ, nhưng thấp thoáng phía sau còn là bóng dáng của đất nước

trong những ngày đau thương tủi cực của buổi đầu xã hội thực dân nửa

phong kiến. Chế Lan Viên từng xếp thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương, Tú

Xương… vào “dòng lớn” trong lịch sử thơ trào phúng Việt Nam, bằng cách

căn cứ vào sự kết hợp nhuần nhuyễn sâu sắc giữa yếu tố trào phúng, hiện

thực trào phúng, với yếu tố trữ tình của loại thơ gây cười này. Chắc chắn nếu

một sự khu biệt như vậy là chính xác thì Nguyễn Khuyến phải là một trong

những người đứng ở bảng đầu, vì thơ ông chất trữ tình rất đậm.

2. Việc sưu tầm, dịch thuật, giới thiệu thơ văn chữ Hán của Nguyễn

Khuyến chính thức bắt đầu từ năm 1957 mà thành tựu đáng kể là cuốn Thơ

văn Nguyễn Khuyến công bố năm 1971. Kể từ đây, việc nhìn nhận Nguyễn

Khuyến đã mở ra một giai đoạn mới. Một Nguyễn Khuyến nhà thơ yêu nước

Page 16: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

bắt đầu được đề cập đến. Cũng vào khoảng thời gian này, bộ Hợp tuyển thơ

văn yêu nước Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX ra mắt, và Nguyễn Khuyến cũng

có một “chỗ ngồi” không đến nỗi quá khiêm tốn trong bộ sách trên.

Một sự điều chỉnh rõ ràng cần thiết, và tất yếu nữa, đối với cụ Tam

nguyên. Đọc thơ văn Nguyễn Khuyến, nhất là thơ văn chữ Hán, thấy bàng

bạc khắp trong văn chương một nỗi niềm yêu nước sâu nặng mà trước đó,

những người quen gọi ông là nhà thơ trào phúng quả có phần chưa nhận ra.

Trong nội dung yêu nước của Nguyễn Khuyến, dĩ nhiên chưa có cái căm giận

ngút trời, cái khí thế “sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc” của thơ văn Đồ

Chiểu, chưa có tiếng gọi “Anh em ơi xin tuốt gươm ra” của văn thơ Phan Bội

Châu, hay cái phẫn chí đến ứa máu của Nguyễn Cao: “Sống mà chịu trong

vòng dê chó, thà chết đi cùng trời đất đi về”. Nhưng Nguyễn Khuyến có nỗi

đau mất nước, có cái cười giễu mỉa mai, khinh ghét thằng Tây cướp nước

cùng bọn vua quan phong kiến yếu hèn, bất lực; có niềm thương cảm đối với

cuộc đời lầm than tủi cực của người dân sống trong vòng nô lệ; có cả cái khát

vọng đổi đời có lợi cho đất nước, cho dân tộc, cả cái tâm thế khăng khăng

lánh đục về trong không thèm hợp tác với kẻ thù… Ngay đến tiếng cười chảy

nước mất của Nguyễn Khuyến cũng chính là một phương diện biểu hiện lòng

yêu nước của ông. Nhìn chung, lòng yêu nước của Nguyễn Khuyến là thiết

tha nhưng bất lực, bất lực mà vẫn hết sức tha thiết. Ở đây cái buồn, cái bực

với thời thế, dường như trở thành âm điệu chính của thơ ca.

Trong cuộc đời của Nguyễn Khuyến cũng có một đôi điều mà hậu thế

có thể chê trách, ví như việc đến dạy học ở nhà Hoàng Cao Khải, sau đó đưa

con đến thay, hoặc như việc tham gia làm chủ khảo vụ vịnh Kiều do Lê Hoan

khởi xướng ở Hưng Yên. Nhưng thực ra thì từ lâu, những người am hiểu

Nguyễn Khuyến đã hiểu con người thực của ông như thế nào trong những

hành vi ứng xử này, và do đó vẫn dành cho ông sự kính yêu trọn vẹn. Vấn đề

lấn cấn nẩy ra đối với công tác văn học sử nếu có thì lại chính là ở chỗ: khi

coi Nguyễn Khuyến là một tác giả yêu nước thì so với các nhà thơ yêu nước

khác trong lịch sử, vị trí của Nguyễn Khuyến cần được xếp vào đâu cho thỏa

Page 17: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

đáng? Dẫu rằng lòng yêu nước của Nguyễn Khuyến là một thực tế không thể

phủ nhận, rất cần làm sáng tỏ hơn nữa, nhưng địa vị văn học sử của Nguyễn

Khuyến e cũng khó được đặt cao nếu chỉ căn cứ một cách cô lập từ chỉ một

phương diện này. Vậy mà ai cũng biết, trong việc nghiên cứu đánh giá một

nhà văn, điều cần coi trọng là tư tưởng đã đành, nhưng điều còn rất đáng

được coi trọng nữa là cái đặc sắc mang tính tổng hợp tư tưởng và thẩm mỹ

mà nhà văn đó đã cống hiến cho lịch sử văn học. Một nhà thơ đột xuất như

Nguyễn Khuyến lẽ nào lại phải chịu một sự đánh giá hời hợt với mình như

vậy?

3. Từ quan niệm có ý nghĩa phương pháp luận nói trên, nhiều người đã

cố gắng tìm một hướng tiếp cận khác, nói đến một Nguyễn Khuyến, nhà thơ

của “dân tình làng cảnh vệt Nam”. Quả thật đây là một phương diện rất đáng

quan tâm, cũng như tiếngcười thâm trầm đã góp phần làm nên sự bất tử của

Nguyễn Khuyến. Mặt khác, đây cũng là một phương diện thể hiện lòng yêu

nước theo kiểu Nguyễn Khuyến. Trong sáng tác của Nguyễn Khuyến, tự

phương diện này đã tạo ra một bề thế nghệ thuật riêng cho nó. Chúng ta ai

mà không có một quê hương, không yêu quê hương làng cảnh của mình.

Làng cảnh của ta có cảnh trí thiên nhiên, có cuộc sống con người, mà trước

hết là người nông dân gắn bó với ruộng đồng, với thôn xóm. Một câu hỏi thử

đặt ra: văn học Việt Nam truyền thống đã phản ánh được những gì về nét đặc

trưng quê hương làng cảnh đó?. Các nhà văn dân tộc trước Nguyễn Khuyến,

tính từ những gương mặt tài hoa nhất, ai đã viết được gì để lại dấu ấn thật

đậm về quê hương cụ thể của mình? Trong văn học dân gian, bóng dáng của

đồng quê quả có hiện lên phong phú, đậm đà. Nhưng với tính chất phi cá thể

của loại hình văn học này như các nhà phônclo (folklore) học thường nói,

chúng ta lại chưa tìm thấy ở đấy những bức tranh quê mang dấu ấn cá tính

nghệ thuật. Trong văn học viết, không phải là các nhà văn không có cảm

hứng về quê hương, dân tình và làng cảnh nơi mình từng sinh sống hoặc trú

ngụ; chẳng hạn Nguyễn Bảo, Thái Thuận ở thế kỷ XV, Phạm Quý Thích,

Nguyễn Văn Siêu, Phạm Phú Thứ ở thế kỷ XVIII và XIX… Tuy nhiên, ngôn

ngữ chữ Hán, bút pháp công thức, trừu tượng, ước lệ vốn đã trở thành thuộc

Page 18: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

tính của văn học cổ điển cũng đã làm mất đi không ít màu tươi tắn của cảnh

vật. Cho nên, ở phương diện này, quả thật Nguyễn Khuyến là trường hợp

hiếm có. Nguyễn Khuyến đã gắn hồn thơ của mình với quê hương làng cảnh

vùng Hà Nam cũ, đất Bình Lục cũ của ông. Chim chóc, cây cối, hoa lá, con

trâu, con vịt, con gà, con chó, đường làng, ngõ trúc, ao chuôm, khúc sông, bãi

chợ, ngọn núi, đêm trăng…, đặc biệt, cuộc sống và tâm tình người dân quê

đã đi vào thơ ông chân thực và sinh động vô cùng. Bức tranh quê này về đại

thể có hai mảng: cảnh vật của đất trời và cuộc sống của con người. Cảnh đất

trời thì thanh sơ, xinh đẹp, ngắm không biết chán, nhưng lại ẩn chứa một gam

màu buồn bã – cái buồn thời thế và nội tâm của nhà thơ. Còn cuộc sống của

con người thì thân quen như nó đã từng có từ bao nhiêu đời nay, nhưng hình

như cũng đang không giấu được vẻ tiêu điều xơ xác. Nguyễn Khuyến viết về

thiên tai, nhất là nạn lụt, cái lụt đối với vùng đồng chiêm trũng bao giờ cũng

để lại những ấn tượng kinh sợ. Nguyễn Khuyến viết về những tệ nạn xã hội

mà dễ thấy nhất là nạn cho vay nợ lãi. Người nông dân dưới ngòi bút của ông

cần cù, vất vả, quanh năm lao lực, nhưng đói nghèo vẫn là một gánh nặng,

một nỗi ám ảnh luôn luôn đeo đẳng. Đói nghèo, cộng thêm áp lực của những

ba động lịch sử dữ dội, tất nhiên dẫn đến những đảo lộn và tha hóa đối với

cuộc sống và con người. Bao nhiêu nhân cách “dị dạng” được nhà thơ dùng

ngòi bút ký họa tài tình ghi lại, đều là hậu quả xa gần của sự tha hóa không

cưỡng nổi này. Điều cần lưu ý là bút pháp Nguyễn Khuyến đã như một dấu

hiệu quan trọng của sự vận động của văn học Việt Nam trên đường hiện đại

hóa. Sau Nguyễn Khuyến có một Tản Đà cũng gợi lên trong thơ mình cái

hương vị cảnh vật Việt Nam, nhưng thơ Tản Đà vẫn chưa thấm đậm khí hậu

đời sống dân quê được như Nguyễn Khuyến. Có một Đoàn Văn Cừ, một Anh

Thơ, một Bàng Bá Lân, cả một Nguyễn Bính viết về “Bức tranh quê”, có

không ít những khám phá đột xuất về những nét nên thơ, đặc sắc, đáng yêu.

Nhưng tâm huyết mà họ dành cho làng quê, cho thân phận tối tăm cực nhọc

của “người nhà quê” quả thật chưa nhiều.

4. Rõ ràng là công tác văn học sử đang cố gắng từng bước khám phá

sâu vào thế giới tâm hồn thơ của Nguyễn Khuyến và hiện tại, có thể nói đang

Page 19: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

dừng lại ở đó. Để tiến thêm một bước nữa, ngoài việc sưu tầm phát hiện

thêm tài liệu, văn bản mới chắc chắn phải có những cách nhìn mới. Chúng ta

đến với Nguyễn Khuyến hẳn không phải là đến với một nhà cách mạng.

Nguyễn Khuyến chỉ là một người Việt Nam bề ngoài bình thường như nhiều

người Việt Nam khác. Nhưng thực ra lại cũng có thể nói, không dễ bất kỳ ai

đã có những phẩm chất cao quý trong tâm hồn như Nguyễn Khuyến. Vậy thì,

đến với Nguyễn Khuyến, cũng chính là đến với một nhân cách đột xuất, một

nhà thơ của nhân bản Việt Nam. Nhân bản có nghĩa trước hết là đối lập với

phi nhân bản. Nhân bản bao gồm mọi phẩm chất, mọi tính cách, mọi thuộc

tính, mọi tư chất làm nên giá trị cao quý của con người với tư cách là một

động vật cao cấp, một thực thể tồn tại đẹp đẽ nhất, đáng quý trọng của tạo

hóa. Nhà triết học từ góc độ thế giới quan, nhân sinh quan, nhà đạo đức từ

góc độ đạo đức quan, nhà tâm lý học từ góc độ nhân cách học, nhà nghệ

thuật với đủ loại hình nghệ thuật - từ góc độ khám phá cái đẹp ở thế giới con

người, nhà lịch sử từ góc độ nghiên cứu lịch sử xã hội mà con người là chủ

thể sáng tạo… có thể và thực tế đã góp phần làm sáng tỏ những giá trị nhân

bản. Giá trị nhân bản bao gồm những tố chất gì? Các tố chất đó được phân

loại như thế nào? Có lẽ ở phương diện này, về mặt lý thuyết, ngành tâm lý

học nhân cách là đáng tin cậy hơn chăng? Dù vậy thì ngay cả ngành tâm lý

học nhân cách cũng không dễ gì khám phá hết cái đẹp, phong phú, huyền

diệu của thế giới nhân bản. Thông thường, những biểu hiện nhân bản thuộc

phạm trù chính trị, đạo đức gắn với quan điểm lập trường, lý tưởng xã hội –

tuy cũng có sự phức tạp của nó – nhưng nhìn chung vẫn dễ được nhận thức

hơn là những biểu hiện nhân bản thuộc thế giới tình cảm, cảm xúc, đặc biệt là

cảm xúc riêng tư và thuộc những ứng xử bình thường, hàng ngày, trong cuộc

sống của con người, nhất là con người bình thường. Ở đây, điều đơn giản

nhất, nhưng cũng là cơ bản nhất, có thể nói được là: nhân bản bắt nguồn từ

lao động của con người. Nhân bản mang tính xã hội. Nhân bản, trước hết và

luôn luôn là sản phẩm của nhân dân tạo ra trong quá trình đấu tranh thiên

nhiên và đấu tranh xã hội để xây dựng cuộc sống. Nhân bản vừa mang tính

nhân loại vừa mang tính dân tộc. Dân tộc Việt Nam có nhân bản Việt Nam

Page 20: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

được kết tinh và phát triển theo những quy luật nói trên. Văn học Việt Nam

vừa là sản phẩm vừa là hình thức biểu hiện phản ánh nhân bản Việt Nam.

Khoa nghiên cứu văn học có thể dùng khái niệm nhân bản như là một khái

niệm công cụ để tạo ra một hệ quy chiếu có hiệu quả mang tính chất tập trung

trong việc nhận thức các tác gia, tác phẩm văn học, mà Nguyễn Khuyến và thi

phẩm của ông là một trường hợp. Dĩ nhiên, để tránh khuynh hướng xã hội

học dung tục trong công tác nghiên cứu văn học, khi sử dụng hệ quy chiếu

này phải có ý thức đầy đủ về tính chất nhất thể của nghệ thuật, trong việc lý

giải các hiện tượng nghệ thuật.

Trở lại trường hợp Nguyễn Khuyến. Quả thật ông xứng đáng được

mệnh danh là nhà thơ nhân bản Việt Nam. Với ông, thơ văn cũng như con

người đều là những biểu hiện của ứng xử nhân bản. Cả hai phương diện ấy

ngày nay đã quyện lại thành một giá trị không thể tách bạch, một kho báu

không dễ gì trong một lúc đã khám phá được hết.

Chính cái tiếng cười bất hủ, cái điệu sống, hồn thơ gắn bó sâu nặng với

quê hương làng cảnh, tiếng nói nhân tình, dân tình, và cả tấm lòng yêu nước

ở mức Nguyễn Khuyến, theo kiểu Nguyễn Khuyến…, tất cả, quy lại là giá trị

nhân bản Việt Nam đã được kết tinh thành nghệ thuật trong thơ ca Nguyễn

Khuyến và từ lâu đã được trân trọng. Tuy nhiên, đến nay, ý niệm nhân bản

này, nhìn lại ở từng khía cạnh, vẫn có thể thấy rõ thêm những ý nghĩa mới

mẻ. Ví như trong tiếng cười của Nguyễn Khuyến, giá trị không chỉ là chỗ biết

cười cái đáng cười, mà thực ra, qua những tiếng cười cụ thể đó là đạo đức,

tài năng, tâm huyết, là cái cao cả trước cái đê hèn, thậm chí là cái dũng khí

trước cái bạo tàn, gọn lại là cái nhân bản trước cái phi nhân bản. Không cắm

rễ sâu trong lòng dân tộc, không dễ gì có tiếng cười như tiếng cười Nguyễn

Khuyến. Với ý niệm nhân bản Việt Nam, càng đọc thơ Nguyễn Khuyến càng

thấy ánh lên bao nhiêu vẻ đẹp khác biệt lý thú: cái đôn hậu đối lập với cái bạo

tàn; cái chân thành đối lập với cái giả dối; cái tao nhã, tế nhị đối lập với cái

vụng về, thô lậu; cái điềm đạm đối lập với cái hấp tấp; cái nhạy cảm đối lập

với cái trơ cùn; cái sâu lắng đối lập với cái hời hợt; cái vị tha đối lập với cái vị

Page 21: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

kỷ; cái thanh khiết đối lập với cái ô trọc; cái tự trọng đối lập với cái vô liêm sỉ;

cái thủy chung đối lập với cái phụ bạc; cái thông minh đối lập với cái ngu đần;

cái tài năng đối lập với cái kém cỏi… Cũng với ý niệm nhân bản này, đọc thơ

Nguyễn Khuyến, còn có thể phát hiện thêm những nét giá trị đã từng tiềm ẩn

trong những lớp bụi bặm, những hiện tượng ta vẫn quen gọi là tiêu cực và do

đó với một cái nhìn sự vật quá đơn giản, quá thô sơ, quá máy móc, thiếu biện

chứng thì thường dễ phủ định một chiều. Cái buồn của Nguyễn Khuyến

chẳng hạn, đúng là cái buồn ở một con người bất lực. Mà bất lực dĩ nhiên là

tiêu cực, là không nói được gì về giá trị nhân bản. Nhưng ai bảo rằng trong

cái buồn của Nguyễn Khuyến không còn gì là tấm lòng, là tâm huyết, là nhân

cách cao cả của Nguễn Khuyến trước số phận điêu đứng của giống nòi, của

đất nước? Buồn có ba bảy thứ buồn. Buồn trong thơ Nguyễn Khuyến không

phải là loại buồn hạ thấp mình xuống, mà trái lại vẫn có tác dụng nâng mình

lên. Rồi trong thơ say Nguyễn Khuyến nữa. Kể cũng hơi lạ, Nguyễn Khuyến

là người nghiêm túc, mực thước, nhưng chính Nguyễn Khuyến lại say nhiều,

có lẽ là say nhiều nhất trong thơ.

Một cách nghĩ quá đơn giản sẽ khiến người ta phải thắc mắc: đất nước

thuở ấy trầm luân đau khổ thế, sao lại nỡ say? Câu trả lời là thế nào. Không,

say như thế chính là có phần tỉnh, vì trong cái say của Nguyễn Khuyến vẫn

tiềm ẩn một vẻ đẹp một tâm trạng ưu thời mẫn thế:

– Túy ông ý chẳng say vì rượu,

Say vì đâu nước thẳm với non cao.

(Uống rượu ở vườn Bùi)

– Mạc quái bằng song liên nhật túy,

Ngã vi bất túy thục vi tinh?

(Lão Thái)

(Đừng trách bên song say khướt mãi,

Không say thì tỉnh với ai mà).

Page 22: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Thực ra khi nói đến một nhà nhân bản Nguyễn Khuyến thì đã phải đụng

đến một nhà Nho Nguyễn Khuyến mà đạo Nho đã nhồi nhét vào đó không ít

những điều phi nhân bản, một ông quan Nguyễn Khuyến mà bản thân hệ

thống quan lại mang tính chất quan liêu này sao lại không ảnh hưởng ít nhiều

tới tình cảm của cụ Tam Nguyên! Cho nên vấn đề phức tạp chính ở đây. Điều

tạm nói và cũng tin rằng không sai là: hiện thực tâm linh của một cá nhân cá

thể vẫn phong phú huyền diệu hơn mọi lý thuyết mà ta vẫn quen nói về giai

tầng, về ý thức hệ thuộc giai tầng của họ. Và với Nguyễn Khuyến, có thể nói

rằng: giáo lý Nho gia khoa bảng và xiêm áo của triều đình phong kiến đã

không che lấp nổi nhà thơ nhân bản Nguyễn Khuyến, được nuôi dưỡng từ

nhân bản Việt Nam, không vùi lấp được Nguyễn Khuyến,người từng là cậu

học trò quen đánh dậm, có bà vợ “hay lam hay làm”. Chính cái nhân bản này

đã là gốc rễ bền vững cho tài thơ, hồn thơ Nguyễn Khuyến có được cành lá

sum suê rợp bóng và vĩnh viễn rợp bóng với thời gian.

2. SỰ ĐA DẠNG VÀ THỐNG NHẤT TRÊN QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỘNG CỦA MỘT PHONG CÁCH

Con đường nhận thức thơ ca Nguyễn Khuyến không giản đơn một

phần do cách nhìn hạn chế của một thời kỳ lịch sử, nhưng một phần nữa

cũng do Nguyễn Khuyến là một bản sắc thơ không phải nhận diện dễ dàng.

Quả tình ông đã gây nên trong người đọc những ấn tượng khác thường về

một giọng thơ đa phong cách. Với thời gian, thơ ông ngày càng phát hiện

được thêm nhiều thì ấn tượng này ngày càng thêm đậm nét. Và nhìn ở góc

độ nào, sáng tác của Nguyễn Khuyến cũng có thể trở thành những điều luận

bàn lý thú, cũng mở rộng kích thước so với cách nghĩ ban đầu.

Từ lâu ta vẫn cho rằng nhà thơ trào phúng Nguyễn Khuyến có cái cười

mang cốt cách ngôn ngữ riêng; dẫu một đôi khi ngôn ngữ đó có chuyển sang

màu sắc thô hay tục, như trong bài Vũng lội đường Ngang, thì vẫn giữ được

sự chừng mực, đoan trang và đĩnh đạc, không đi quá giới hạn. Nhưng nếu

như khoa văn bản học không đặt lại một vấn đề gì về bộ hợp tuyển Nguyễn

Khuyến – tác phẩm mà mấy năm trước đây chúng ta công bố thì giờ đây, một

Page 23: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

câu hỏi hẳn sẽ đặt ra: phải chăng bên cạnh tiếng nói riêng của mình như

Nguyễn Khuyến vẫn có, ông còn có thể trào phúng bằng tiếng nói của những

người khác nữa, chẳng hạn tiếng nói “kiểu Xuân Hương” trong Gái rửa… bờ

sông, Đề tranh tố nữ, Gái góa than lụt, Bỡn cô tiểu ngủ ngày… hoặc tiếng nói

“kiểu huyện Nẻ” trong bài Tây kỹ! Và như vậy thì đứng về thủ pháp cũng như

về phong cách ngôn ngữ, liệu có thể có một Nguyễn Khuyến như là dấu cộng

của hai, ba Nguyễn Khuyến không cùng tính chất và kiểu loại với nhau? Và

liệu có thể hiểu đấy là sự đa dạng được hay không

Cũng vậy, từ lâu ta vẫn nghĩ Nguyễn Khuyến chủ yếu là nhà thơ trào

phúng mà thôi. Nhưng với những tìm tòi phát hiện dần dà từ hàng chục năm

nay, hóa ra khối lượng thơ trữ tình của Nguyễn Khuyến lại còn nhiều hơn thơ

trào phúng. Không những làm thơ trữ tình, Nguyễn Khuyến còn làm thơ vịnh

sử, nghĩa là loại thơ mà kiểu nhà Nho sách vở thư phòng, nhiều chữ nghĩa

văn chương nhưng ít cảm xúc sống thực, mới thường sính dùng đến. Vậy thì,

trong bản chất thơ ca Nguyễn Khuyến, trữ tình, trào phúng, hay giãi bày đạo

lý, sắp đặt chữ nghĩa, con người nào là quan trọng? Những con người ấy có

dung nạp được nhau trong cùng một kiểu thức sáng tác, hay là bài trừ, chống

đối lẫn nhau? Mặt khác, phải nhận định như thế nào ý nghĩa xã hội trong các

phần sáng tác “ngược dòng” đó của cụ Tam Nguyên? Có phải con người cảm

thông với sử sách là con người chính thống, con người cười cợt là con người

sinh hoạt,và con người trữ tình, tâm trạng, là con người dối diện với chính

mình? Nhưng nếu quả như vậy thì lại phải hiểu tính thống nhất chỉnh thể của

một bản sắc thơ Nguyễn Khuyến ở đây là thế nào, vì làm gì có sự “phân thân”

rành rẽ đến thế giữa những phần đời khác nhau ngay trong cùng một con

người thơ và con người xã hội? Hoặc giả, nếu nhìn trên hình thức ngôn ngữ,

phần thơ Nôm Nguyễn Khuyến chủ yếu là thơ trào phúng, phần thơ Hán là

thơ trữ tình, thơ vịnh sử, thì có thể như một vài ý kiến nào đấy, rằng con

người xã hội Nguyễn Khuyến chủ yếu nằm trong thơ chữ Hán của ông, vì thơ

trào phúng chỉ là thơ chơi, thơ ngông, còn thơ trữ tình, thơ đề vịnh nghĩa là

thơ trình bày chính kiến, mới là thơ nghiêm trang, thơ “thứ thiệt”? Vân vân và

vân vân…

Page 24: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Tất cả những câu hỏi đại loại như trên, và còn rất nhiều điều băn khoăn

nữa, đã dần dần đặt chúng ta trước một yêu cầu cấp bách: phải tìm được một

phương hướng đúng để tiếp cận khối lượng sáng tác vốn không đơn giản của

nhà thơ Yên Đổ. Nếu nói rằng đây là một hiện tượng văn học đa dạng, phong

phú nhất trong giai đoạn thì e chưa hợp lý. So với sáng tác của Nguyễn Du,

Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu… trường thơ Tam nguyên Yên Đổ không

những phải nhường bước về khối lượng, đề tài, thể loại mà cả về biên độ cao

thấp trong cung bậc tình cảm. Nguyễn Khuyến chưa có được nhịp thơ dồi dào

âm vực như những nhà thơ này. Nhưng cũng rõ ràng, đây là một trong những

hiện tượng phong phú của thơ ca Việt Nam. Sự tinh tế của trạng thái tâm hồn,

thông qua con mắt nhìn ngoại cảnh, dễ thường trừ Nguyễn Du ra, cũng chưa

ai vượt được Nguyễn Khuyến. Hơn thế nữa, đây là một hiện tượng văn học

phong phú mà lại không phải là quá phức tạp, và cũng không phải là thuần

nhất, bất biến. Nếu phức tạp là những cái đối nghịch cùng tồn tại đồng thời

trong một thực thể thì Nguyễn Khuyến không có cái phức tạp đó. Nhưng ở

ngòi bút ông có một sự thay đổi dần dà khó cưỡng. Có thể nói đây là một quá

trình vận động. Nguyễn Khuyến với tư cách nhà thơ như ông đã có và như

chúng ta đã ghi nhận về ông, trước hết là một quá trình lâu dài và nỗ lực

chiếm lĩnh hiện thực khách quan của chủ thể thẩm mỹ, tương ứng với một

quá trình chuyển biến khá căn bản con người xã hội ở trong ông: từ ông nghè

Tam nguyên trở thành ông “Tiến sĩ giấy”, từ vị quan hàn lâm trong triều đến

“ông Phỗng đá” trong dinh Hoàng Cao Khải, từ cụ Thượng Và đến một “lão

nông” thực thụ:

– Năm nay cày cấy vẫn chân thua,

Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa…

(Nhà nông than thở)

– Thửa mạ rạch ròi chân xấu tốt…

(Cáo quan về ở nhà)

Page 25: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Và mọi biểu hiện phức tạp, nhiều vẻ, những phương diện khác nhau

của tư tưởng nghệ thuật ngòi bút thơ Yên Đỗ, theo chúng tôi, đều phải được

soi chiếu dưới ánh sáng của sự vận động này. Có như thế, các mặt giá trị đó

mới không hiện ra đơn phương, cô lập với nhau, mà có mối liên quan hữu cơ,

khăng khít. Nếu nhìn đơn phương và cô lập, sẽ dễ có ấn tượng Nguyễn

Khuyến – nhà thơ làng cảnh Việt Năm chỉ đơn thuần là một nhà thơ phong

cảnh. Nhưng nếu nhìn trong liên hệ, trong vận động thì không thể không thừa

nhận trong nhà thơ rất mực hồn nhiên về quê hương, làng cảnh, có con

người trầm tư về đất nước, giày vò với chính mình, và ngược lại. Cũng có

nhìn trong liên hệ, trong vận động chúng ta mới hiểu được sự gắn bó cơ bản,

sâu xa nhất các mảng thơ ca khác nhau của Nguyễn Khuyến, chính là sự gắn

bó bắt nguồn từ một cái nhìn tích cực, một nhân sinh quan khỏe mạnh (không

phải cứ cảm khái về “sơn hà xã tắc” và mong muốn vãn hồi tình thế lại như cũ

thì mới là “khỏe mạnh”), một cách cảm thức sự vật đang từng bước đổi mới,

và qua đó cũng nhận diện rõ hơn cái yếu tố thống nhất, cái làm nên linh hồn

của thơ ca Yên Đổ, dù ở mảng đề tài nào cũng vậy, là sức động tinh tế bên

trong của khách thể, tạo vật, được chưng cất thành thơ.

Mặt nữa, nếu bỏ qua tiến trình vận động trong khi tìm hiểu thơ Yên Đổ,

sẽ không thể hiểu nổi vì đâu có sự kết hợp và chuyển hóa các nhân tố đối lập

trong thơ ca của ông: hài mà bi; trữ tình mà chân biếm; khách thể hóa tâm

trạng đi liền với tâm trọng hóa khách thể; suy tưởng về sự đời mà lại là phản

ánh; ca ngợi, đề cao nhưng chính là hạ giá đối tượng; nói về cảnh làng thôn,

bốn mùa mà kỳ thực là cảm nhận sâu sắc bức tranh xã hội ẩn giấu bên

trong… Có thể nói, Nguyễn Khuyến đã bỏ xa con người đơn nhất trong thơ ca

trung đại – con người chỉ biết tự biểu hiện mình dưới nhiều cự ly – mà hóa

thân vào khách thể, làm cho thế giới nghệ thuật của ông hiện ra lung linh, rực

rỡ, như trong một ống kính vạn hoa nhiều màu. Tất nhiên khi xác nhận rằng

thơ Yên Đổ là đa dạng, thì không hẳn chỉ đề tài, tức đối tượng miêu tả, là cái

làm nên sự đa dạng của thơ ông. Đối với một phong cách nghệ thuật bậc

thầy, đề tài bao giờ cũng là cái phụ, và thay đổi đề tài để kiếm tìm cái mới chỉ

là cách mà một nhà nghệ sĩ non tay mới làm. Nguyễn Khuyến đã không đi

Page 26: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

con đường đó. Thơ ông là loại thơ có đề tài phong phú, nhưng nhìn ở tầm vĩ

mô (cuộc sống làng xã) thì cũng chỉ là đơn điệu. Song đơn điệu mà lại vẫn

không kém đa dạng. Vì sao? Vì trong thơ ông, ta luôn luôn tìm thấy sắc điệu

chuyển hóa của rất nhiều nhân tố đối lập với nhau. Ta không thể dùng cái

nhìn cô lập, phiến diện (ví dụ: trào phúng cô lập với trữ tình) mà hiểu được cụ

Tam nguyên. Mà chính là cái biến thái, cái gam màu chuyển từ trạng thái nọ

sang trạng thái kia mới là một đặc điểm làm cho ngòi bút thơ Nguyễn Khuyến

trở nên lung linh, uyển chuyển, phong phú và muôn phần sinh sắc. Và xét cho

cùng, đây lại cũng chính là một dạng thức phản ánh hiện thực, là sự ánh xạ

tinh vi, kín đáo những chuyển biến giông bão, sự đổi thay như chớp mắt của

đời sống xã hội Việt Nam trong mấy thập niên cuối thế kỷ XIX mà nhà thơ đã

tận mắt chứng kiến. Phải nói, một trong những cảm hứng thẩm mỹ có giá trị

lớn lao trong thơ Nguyễn Khuyến chính là ở đấy.

3. BƯỚC NGOẶT QUYẾT ĐỊNH TẠO NGUỒN CẢM HỨNG CHO THƠ

Ai cũng biết Tam nguyên Yên Đổ sống giữa một thời buổi thật rối ren.

Sinh ngày 15 – II – 1835, khi Nguyễn Khuyến đến tuổi vác lều chõng đi thi thì

tàu chiến của thực dân Pháp đã quanh quẩn ngoài khơi cửa biển Đà Nẵng.

Khi ông đỗ đầu thi Hương thì chúng đã nuốt xong ba tỉnh miền Đông Nam Bộ.

Khi ông đỗ đầu hai kỳ thi nữa thì chúng đang sửa soạn đánh ra Hà Nội, nghĩa

là đã đến sát trước cổng nhà mình. Rồi Nguyễn Khuyến làm quan cùng với

những bước củng cố ách đô hộ của thực dân, và khi chúng đánh Hà Nội lần

thứ hai, chiếm hẳn, lại đánh lan ra các tỉnh Bắc Kỳ, thì cũng là lúc Nguyễn

Khuyến cáo quan về làng. Ông “quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu” này thực tế

đã không có nhiều thời gian để làm quan lâu với nhà Nguyễn.

Điều đáng để ta suy nghĩ là hầu như tất cả những bước thăng trầm của

cái triều đình mà ông gắn bó – cũng là đại diện cho cái xã tắc mà ông có sứ

mệnh “kinh bang tế thế” với tư cách một Nho sĩ – tuyệt không hề thấy Nguyễn

Khuyến trực tiếp nhắc đến, phản ánh lại trong thơ văn. Ông không hề đề cập

đến chuyện “chiến” và “hòa” sôi nổi trong những năm 60, đã từng làm khắc

khoải rất nhiều sĩ phu, làm xuất hiện một Nguyễn Đình Chiểu, một Phan Văn

Page 27: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Trị nổi danh miền Lục tỉnh. Ông cũng không đả động đến chuyện “bình Tây

sát tả”, vốn là con đẻ trực tiếp của đám nhà Nho cực đoan (chứ không phải

nông dân hay các tầng lớp khác đóng vai trò khởi xướng), mà hậu quả của nó

như ta biết, đã gây nên bao nhiêu thảm kịch ở miền Trung, từ Bình Định cho

đến Thanh–nghệ. Ông gần như im hơi lặng tiếng trước con đường mộ binh

đánh giặc của một Phan Đình Phùng, một Nguyễn Xuân Ôn, một phong trào

Ba Đình hay Bãi Sậy, thậm chí một công cuộc kháng Pháp có quy mô của cả

xứ Bắc Kỳ và có chiếu chỉ chính thức của Hàm Nghi như công cuộc chèo

chống trên vùng núi rừng Tây Bắc của “Bắc Kỳ quân vụ đại thần” Nguyễn

Quang Bích… những năm 80. Và giữa lúc chưa ai kịp hiểu tình thế ra sao, thì

đùng một cái, Nguyễn Khuyến từ chối chức Tổng đốc Sơn Tây do Nguyễn

Hữu Độ đề cử mà “trở lại vườn Bùi”.

Một câu hỏi tất nhiên sẽ được đặt ra: vì sao có hiện tượng thờ ơ, khó

hiểu như vậy ở một nhà thơ vào cỡ như Nguyễn Khuyến, và diễn ra trong

hàng chục năm trời? Nhưng trước khi giải đáp câu hỏi đó, lại cũng phải thấy

rằng, kể từ thời điểm trở lại vườn Bùi, con người Yên Đổ đột nhiên có một sự

biến đổi khác hẳn. Nói một cách hình ảnh thì ông đã gạt bỏ quá khứ lại phía

sau mà làm một người khác. Và chính là từ đây, thơ văn Nguyễn Khuyến mới

gắn bó thực sự với con người xã hội, con người tâm trạng của ông. Từ một

ông quan, con người thơ Yên Đổ nay hiện ra trong tâm thế một người dân

thường, sống hồn nhiên hóm hỉnh nữa, trước những niềm vui nỗi khổ của

cuộc sống đời thường. Con người đó cũng hiện ra trong vai trò một trí thức

bình dân tỉnh táo, với tiếng cười nhẹ mà rất sâu, bao dung mà thâm trầm,

nhức nhối, đối với mọi hiện tượng lố lăng kệch kỡm – những mặt đáng chê

trách và cả mặt đáng thương hại – của cuộc sống đang trên đà thực dân hóa

mạnh mẽ. Con người đó cũng không quên nhìn lại mình, tự vấn mình như

một kẻ sĩ chân chính, thầm để cho những giọt nước mắt “chảy vào trong” mà

đành cười nhạo thân phận lơ láo, “tỉnh say say tỉnh” của mình. Đặc biệt, con

người thơ Yên Đổ giai đoạn này còn biết hướng về những tình cảm lớn, biết

đau thương, buồn tủi một cách bột phát trực nhiên, trước tấn thảm kịch đất

nước bị kẻ thù giày xéo, cướp lột, làm cho thay đổi. Đó chính là những tình

Page 28: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

cảm công dân, khác rất xa với tâm sự của một vị “tôi trung” khi nghĩ về “nước

cũ”: “Nước cũ ai là chả nhớ vua” (Từ Diễn Đồng).

Như vậy, khó có thể bác bỏ một hiện tượng tưởng như vô lý là có hai

giai đoạn khác hẳn nhau trong mối quan hệ giữa đời và thơ Yên Đỗ: giai đoạn

trước khi về vườn Bùi và giai đoạn sau khi về vườn Bùi. Hãy trở lại với câu

hỏi đã nêu: vì sao ở giai đoạn trước, Nguyễn Khuyến đã không hề phản ánh

được một sự kiện chống giặc cứu nước nào vào thơ ông? Có phải lúc bấy giờ

ông là người bàng quan tiêu cực? Có lẽ! Tạng nhà Nho trong Nguyễn Khuyến

dường như không đủ mạnh mẽ để dấn thân vào những việc quá dữ dội, quyết

liệt, dù đó là vì mục đích “thủ nghĩa”, và càng không đủ độ sắc sảo để sẵn

sàng làm và ca ngợi những việc sát phạt cực đoan nhằm đánh đổi lấy chữ

trung quân – trên những vấn đề như thế trong ông hình như đã chứa sẵn một

vô thức hoài nghi.

Tuy nhiên, cũng có thể mở rộng câu hỏi đã nêu thành một câu hỏi bao

quát hơn: vì sao bên cạnh chuyện chống giặc cứu nước, tất cả những chuyện

cũng rất quan trọng đối với ông nghè Tam nguyên như chuyện thi cử, chuyện

triều đình, chuyện công vụ… ông đều không xúc cảm thành thơ? Phải chăng

có một câu trả lời đúng đắn ở đây: thời kỳ Nguyễn Khuyến làm quan, chưa hề

thức dậy một con người thơ thật sự. Những bài thơ ông làm giai đoạn này

phần lớn chỉ là công việc mà nhà Nho gọi là “điêu trùng tiểu kỹ” – nghề mọn

khác sâu chạm chữ – một công việc mà người sĩ phu trường ốc nào cũng

làm: Đó là câu chuyện “văn chương chữ nghĩa” của ông Thám, ông Nghè,

một kiểu quan lại phương Đông biết làm thơ và thích thơ phú mà thời đại nào

cũng có. Nó chưa có gì để in hằn dấu son tâm hồn Nguyễn Khuyến, cũng

chưa hiện rõ phong cách ngôn từ Nguyễn Khuyến. Nói cách khác, dường như

với tư cách ông quan, con người thơ Yên Đổ ở giai đoạn lợi danh còn ràng

buộc này không sao có thể buông thả cảm xúc hết mình được. Và dù có cố

gắng bao nhiêu đi nữa, thơ ông vẫn chưa có một đổi mới gì so với văn học

đương thời và quá khứ. Đúng như cách diễn đạt của Xuân Diệu: “Ông Nghè

ông Thám vô mây khói”, hồn thơ Nguyễn Khuyến đã không thể phát lộ trên

Page 29: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

cùng một kênh giao tiếp với Nguyễn Khuyến “con người quan phương”. Sự

ức chế của con người này đối với con người kia trong cùng một con người

cũng là trường hợp tâm lý dễ hiểu mà thôi.

Từ sự suy luận đó, xin hãy quay về với những mạch suy nghĩ chính mà

chúng ta đã đề cập ở phần đầu. Nếu trong hướng tiếp cận quan trọng nhất

đối với Nguyễn Khuyến – nhà thơ người nghiên cứu cần hết sức lưu ý đến

quá trình vận động tự thân, trong mối quan hệ đổi thay tương ứng giữa đời và

thơ của ông, thì càng cần lưu ý đến bước ngoặt có ý nghĩa đổi thay về chất

của quá trình vận động đó, biểu hiện ở cái hành động trở về của Nguyễn

Khuyến: đó là một phương thức ứng xử thấp hơn hành động tựu nghĩa Cần

vương một bậc, xét về dũng khí cá nhân, hoặc tác dụng nêu gương trong

thực tiễn, nhưng xét về thực chất tư tưởng thì hình như lại có ý nghĩa chối bỏ

quá khứ mạnh mẽ hơn. Bởi lẽ, người tựu nghĩa Cần vương thì dù sao vẫn

còn ôm trong lòng hoài bão “trung quân ái quốc” cũng tức là bị quy định chặt

chẽ trong mệnh đề truyền thống đó, còn người trở về như ông già Yên Đổ thì

hầu như không còn gì để mà ôm ấp, không bị một mệnh đề nào ràng buộc,

quy định. Tất nhiên, tình cảm của những con người này trước sau vẫn gắn bó

với những mối liên hệ trong quá khứ của chính họ, là chủ yếu là hai thần

tượng vua và nước, nhưng nó không còn được biểu hiện ra dưới hình thức

“xả thân thủ nghĩa”, “liều chết để đền ơn vua” hoặc chí ít cũng lấy hai chữ

“trung quân” làm tiêu chí cho mọi hành vi ứng xử. Mặt khác, với hành động

trở về, họ còn phải tính đến cái nghịch lý: bị cả hai phía, phía “Cần vương” và

phía “đầu thú” coi là không cùng phe phái, không cùng quan niệm với mình.

Và trên thực tế quả đã diễn ra như vậy. Mới đầu, Nguyễn Khuyến cũng

tưởng có thể thực hiện giấc mộng của một Đào Tiềm. Nhưng rồi ông đã nhận

được bài học cay đắng. Ông đã phải chấp nhận những lời mỉa mai chê trách

dù nặng dù nhẹ của lớp bè bạn Cần vương. Ông cũng đã phải chấp nhận cái

xã hội nhố nhăng thuộc địa nửa phong kiến mà mình vừa là nạn nhân vừa bị

ngờ là đồng lõa. Ông cố sức thanh minh: “Mảnh gương trinh vằng vặc quyết

không nhơ”, song càng thanh minh càng rơi vào tình thế lúng túng khó xử –

Page 30: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

một “phỗng đá” giữa dòng thời cuộc hỗn loạn. Nhưng cũng chính trong tình

thế đầy bi hài đó mà ông càng có dịp nhận ra sự bế tắc đến cùng cực của

tầng lớp Nho sĩ của thời đại, trên tất cả mọi hướng lựa chọn khác nhau, dù là

“xuất” hay “xử”, dù lên rừng tựu nghĩa hay cam tâm ở lại đóng vai một “cẩu

tẩu” của giặc, dù là dương ngọn cờ “tùy thời” làm một ông đồ dạy học trong

dinh Hoàng Cao Khải, hay lui về vườn cũ làm một “mẹ Mốc”: “Tấm hồng nhan

đem bôi lấm xóa nhòa”, một anh mù: “Xem hoa ta chỉ xem bằng mũi”, một anh

“giả điếc”: “Hỏi anh anh cứ ậm à”… Dầu sao, vì phải tiếp xúc hàng ngày với

cái xã hội Pháp–Việt nhố nhăng mà mình buộc phải chấp nhận chứ không

làm gì được nó, nên trong chiều sâu tư tưởng, sự phủ nhận, phản ứng của

nhà thơ đối với kiểu nhà Nho mất gốc, sản phẩm trực tiếp của xã hội này –

những “vua chèo” và “quan chèo”, những ông “tiến sĩ giấy”, “Đốc học Hà

Nam”, những ông huyện “vòi xu”… so với các kiểu nhà Nho khác, có phần

sâu cay, quyết liệt hơn nhiều.

Cho nên, nếu Nguyễn Khuyến chưa tự ý thức được bước ngoặt trở về

của đời mình trong khoảng giữa những năm 80 của thế kỷ XIX, thì về khách

quan, đó vẫn là một biến cố trọng đại làm sáng giá con người Nguyễn

Khuyến, và làm sống dậy hồn thơ Yên Đổ. Ở bước ngoặt đó, Nguyễn Khuyến

không chỉ đơn thuần cởi chiếc áo thụng xanh ra, mà còn cởi theo được nhiều

ràng buộc khác để từng bước nhận thức lại giá trị chân chính của đời sống,

xác định lại ý nghĩa sự sống trên một bình diện mới, cũng tức là tìm thấy lại

bản lĩnh và nhân cách của mình.

4. DẤU HIỆU CHUYỂN MÌNH CỦA TƯ DUY THƠ DÂN TỘC

1. Sự cởi bỏ quan trọng hơn hết trong cuộc trở về mang ý nghĩa hồi

sinh quý giá của con người Nguyễn Khuyến, như ở phần trên đã nhắc, nếu

nhìn từ góc độ Nguyễn Khuyến nhà Nho thì có lẽ cũng chính là tấn bi kịch đau

lòng chi phối suốt cuộc đời nhà thơ: buộc phải thừa nhận tư tưởng “trung

quân” đã mất hết vai trò lịch sử. Tấn bi kịch này chắc đã ngấm ngầm diễn ra

khá lâu trước bước ngoặt trở về của đời và thơ Yên Đổ, nó biểu hiện ở sự né

tránh hết mọi chủ đề “trung quân ái quốc” trong phần sáng tác giai đoạn trước

Page 31: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

của ông. Nhưng từ sau khi về Yên Đổ thì tấn bi kịch mới thực sự bộc lộ gay

gắt như một xung đột bên trong, giữa hai bình diện – quá khứ và hiện tại –

của con người tác giả.

Tuy nhiên, theo ý chúng tôi, vì trong thực chất tư tưởng Nguyễn

Khuyến thì đây là một cuộc đấu tranh có ý nghĩa cởi bỏ chứ không phải mất

mát, nên bi kịch mà lại không phải là bi kịch; tiếng khóc bên trong của Nguyễn

Khuyến chuyển ra ngoài đã trở thành tiếng cười:

Nguyễn Khuyến đã tự trào mình khá chua cay, đã vạch đúng chân

tướng con người bế tắc, thoái chí của mình:

Cờ đang dở cuộc không còn nước,

Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.

(Tự trào)

Mặc dù thế, điều cũng dễ nhận thấy là không ở đâu trong thơ ông, tư

tưởng trung quân còn được trình bày một cách nghiêm trang, hoặc với một

cảm hứng trữ tình khắc khoải bi thương… như thơ văn của phần đông lớp sĩ

phu cùng thế hệ với ông. Sự mờ nhạt rõ rệt của một chủ nghĩa trung quân

trong sáng tác của Nguyễn Khuyến đã góp phần tạo nên sắc thái độc đáo của

ngòi bút thơ Yên Đổ mà cảm hứng chủ đạo không còn là đắm chìm vào mặc

cảm ưu sầu, không quẩn quanh trong những mô – típ “trung nghĩa” “cương

thường” sáo mòn mà các nhà” thơ thế hệ Cần vương vẫn phải dùng làm

phương thức biểu hiện chủ yếu. Mặt khác, nguồn cảm hứng trào lộng như

một nội lực tiềm ẩn trong tâm hồn Nguyễn Khuyến cũng giúp ông không đi lạc

sang âm điệu nỉ non trong “nhịp phách trống chầu” của lớp nhà Nho tài tử

(trong lớp người này bạn thân của ông nào phải hiếm), mà biết hướng thẳng

tới những cảm xúc sống thực, những thanh âm dồi dào, chắc khỏe bắt rễ từ

tầng sâu của đời sống.

Và cứ như thế, thơ ca Nguyễn Khuyến, nhất là phần thơ Nôm, đã tạo

nên trong bức tranh văn học thuở ấy một cái gì thật lạ. Một cái gì như là sự

khủng hoảng, một tâm lý “sụp đổ”, nhưng lại được biểu hiện tinh tế, kín đáo,

Page 32: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

điểm thêm chút sắc thái hài hước mà đến ngay chính người trong cuộc –

người làm thơ và người đọc thơ – cũng không cảm nhận hết được. Một cái gì

như là sự thay đổi môi trường sinh hoạt cho văn học, từ môi trường “trà dư

tửu hậu” của văn chương bác học đến môi trường truyền bá, diễn xướng của

văn học bình dân ở xóm làng. Sự sụp đổ của những chân trời “vĩnh hằng”

trong văn học cũ và sự chuyển dịch môi trường sinh hoạt của văn thơ có tác

dụng đưa thơ ca Nguyễn Khuyến xuống đối diện với cuộc sống bình thường,

ở đó các phạm trù thẩm mỹ về “cái cao cả” bắt đầu nhường chỗ cho những

cảm xúc nẩy ra từ trong những nỗi sướng khổ, buồn vui có thực, gắn liền với

những cảnh đời bình dị nhất, và cũng là tiếng vọng trực tiếp của “thân phận”

đông đảo con người Việt Nam lúc bấy giờ. Và điều đáng nói là ở đó: chính là

từ giữa môi trường hiện thực này, tất cả những hiện tượng tầm thường, nhỏ

nhặt nhưng cũng rất sống động hồn nhiên, vốn xưa kia không có ý nghĩa gì

đối với thột nhà Nho hành đạo, nay bỗng nhiên ùa vào thơ với tất cả sức hấp

dẫn, khiến cho nhà thơ dù muốn chống lại cũng không thể cưỡng. Sự xâm

nhập của những yếu tố đời thường vào thơ ca Nguyễn Khuyến là một bước

chuyển hóa tất yếu đúng quy luật, trên tiến trình vận động của thơ ca Yên Đổ.

Và tổng hợp đầy đủ hình ảnh muôn vẻ của những yếu tố đời thường ấy

lại, kể cả tâm lý chịu thua, chịu nhục, hay là sự cưỡng chống lại những tâm lý

mà mình vẫn mặc cảm là kém cỏi ấy, trong con người nhà thơ, sẽ tạo nên

một thế giới nghệ thuật nhiều sắc diện, nhiều lớp nghĩa, có giá trị mới mẻ về

chất, nó nói lên rằng chính cái phần đời cực nhọc mà vào nửa cuối cuộc đời

Nguyễn Khuyến mới được chứng sống, cái cuộc sống vật lộn với miếng cơm

manh áo của người bình dân nước Việt thuở ấy, đang diễn ra hàng ngày ở

khắp mọi miền đất nước, mới là cái phần thật sự có ý nghĩa thi vị mà trong

chiều sâu của cảm hứng, nhà thơ rõ ràng đã dành hết tâm hồn cho nó. Đó

cũng sẽ là hình ảnh có ý nghĩa tương phản để nhà thơ soi chiếu lại một phần

đời khác, cái phần đã đi vào quá khứ nhưng chưa phải bị gạt bỏ hẳn, cái

phần sống hết sức trừu tượng, bao gồm những kỷ cương, giềng mối, những

trung thần nghĩa sĩ, những danh và lợi… mà có một thời ông Tam nguyên đã

Page 33: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

ngỡ như hết sức trọng đại; vì nó, ông đã bỏ phí tâm lực đến hơn nửa đời

người.

2. Bởi thế, không thể nói như một ý kiến nào trước đây, rằng Nguyễn

Khuyến là một bậc thầy về thơ, nhưng ông không phải là một nhà tư tưởng.

Làm thế nào có thể tách tư tưởng ra khỏi thơ ca, nếu chúng ta coi thơ ca là

một sự tìm kiếm, phát hiện bằng hình thức ngôn từ có sức gợi cảm nhất, bản

chất của sự sống, cao hơn nữa là cảm nhận cái Đạo của vũ trụ, tức là cái bản

thể bí mật tối thượng, mà quan niệm của Hy–lạp cổ đại, cũng như của

phương Đông cổ đại Trung Hoa, Ấn–độ – đều có nhiều chỗ tương đồng.

Nguyễn Khuyến là một bậc thầy thơ Nôm, người mà bản thảo văn chương

lưu lại ở làng quê mãi rất lâu về sau vẫn khiến cho đám quần chúng bình dân

mỗi lần cầm đến đều không ngăn được cảm giác kinh lạ, tưởng như có một

sức mạnh thần kỳ ẩn trong từng câu từng chữ – giồng với trường hợp Truyện

Kiều của Nguyễn Du – hiển nhiên cũng có đầy đủ tư cách của một nhà tư

tưởng, biểu hiện ở khả năng lay động phi thường của những vần thơ do ông

sáng tạo, đối với mọi tầng lớp công chúng thuộc thế hệ cùng thời với ông,

hơn thế nữa, còn biểu hiện ở sức nén trong nội hàm của từng hình tượng;

nhà thơ đã biết làm cho ngay những chi tiết không có mấy ý nghĩa khi đi vào

thơ ông cũng mang dạng thức của một sự suy nghĩ, cũng nhằm chống lại

những khuôn sáo cổ truyền:

Đời có hai điều này đáng sợ,

Sóng chết người, quyền ở trong tay.

(Lời vợ anh phường Chèo)

Đời loạn, đi về như hạc độc

Tuổi già, hình bóng tựa mây côi.

(Gửi bạn)

Chiếc bóng lưng trời am các quạnh,

Mảnh bia thuở trước bể dâu đầy!

Page 34: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(Nhớ núi Đọi, I)

Mấy chùm trước giậu, hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không, ngỗng nước nào?

(Thu Vịnh)

Có tiền việc ấy mà xong nhỉ!

Đời trước làm quan cũng thế à?

(Kiều bán mình)

Phận thua, suy tính càng thêm thiệt,

Tuổi cả, chơi bời, bọn sống lâu.

(Lụt hói thăm bạn)

Và nhà tư tưởng trong nhà thơ Nguyễn Khuyến còn được biểu hiện ở

một cấp độ cao hơn: từ những đổi thay chưa thật tự giác và hệ thống trong hệ

tư tưởng, trong quan điểm xã hội, nhân sinh, trực giác thiên tài đã sớm dẫn

đắt ông đến những đổi thay trong tư tưởng nghệ thuật, góp phần hình thành

nên ở ông những nhận thức vô ngôn về một phương thức tư duy nghệ thuật

mới. Ở bình diện của phạm trù “cái cao cả, cổ thể nói bằng tiếng nói thơ ca,

nhà thơ đã biết tỉnh táo đặt ra những dấu hỏi với mình và với cả thế hệ mình –

như một sự phản tỉnh nghiêm túc và một sự khái quát thẩm mỹ đến mức thâm

thúy, về một hiện thực chưa mất nghĩa nhưng đang đi đến mất nghĩa, chưa

hẳn lỗi thời nhưng đang chuyển hóa sang lỗi thời. Trong khi các nhà Nho

khác chưa mấy người nhìn ra, hay đã nhìn ra nhưng chưa chịu thừa nhận, thì

một mình Nguyễn Khuyến đã nhìn thấy và đã xác nhận một cách đầy truyền

cảm sự bất lực và bế tắc của hầu như tất cả mọi lối thoát của nhà Nho trong

thời đại ông. Ta đã biết, ông giễu cợt không chút nể nang anh nhà Nho ở ẩn

trong ông như thế nào. Ông cũng coi khinh bọn mạt Nho vênh vang đóng bộ

“quan chèo vai nhọ” mà không biết gì sỉ nhục.

Nhưng ông còn băn khoăn, day dứt với ngay cả những hành động Cần

vương phục quốc mà thâm tâm ông rất ngưỡng mộ. Bài thơ Dân xuân thương

Page 35: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

con thiêu thân (Xuân dạ liên nga) vừa bộc lộ niềm cảm phục chân thành của

nhà thơ đối với các chí sĩ Cần vương, lại vừa mang dư vị đau xót của một lời

đánh giá nghiêm chỉnh trước cái chết uổng phí và không kết quả của những

con người ấy:

Tiễn nhĩ tiêm tiêm nhất vũ hàn,

Đầu minh nhi tử, tử nhi an.

Nhược vi thảng thốt lâm nghi dị,

Đáo đắc thoan tuần, biện diệc nan.

Tố phú tri năng do vị dẫn,

Đương tiền danh lợi bất tương quan.

Cô đăng sát nhĩ do liên nhĩ,

Đãi đáo thành hôi, lệ vị can.

(Khen mày là loài cánh bé nhỏ,

Lại biết gieo mình vào chỗ sáng mà chết, chết rồi mới cam

tâm.

Nếu là thảng thốt mà xông vào chỗ chết thì còn dễ,

Nhưng dùng dắng mà quyết chết được, thật khó thay!

Trời phú cho mày có lương tri, lương năng chưa đến nỗi

mất,

Cho nên danh lợi ngay trước mắt cũng không vướng víu gì

Ngọn đèn cô độc tuy giết mày nhưng vẫn thương mày,

Cho đến thành tro mà vẫn chưa khô giọt lệ).

Bài này tương truyền được Nguyễn Khuyến làm ra khi nghe tin người

bạn đồng niên, ông nghè Giao Cù Vũ Hữu Lợi, đứng lên khởi nghĩa, bị Pháp

bắt được và xử chém. Bản thân hình tượng con thiêu thân là biểu tượng của

một sự mù quáng vô nghĩa, nhưng nội dung bài thơ lại muốn khen con thiêu

Page 36: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

thân đã biết đi tìm một sự vô nghĩa mà không mù quáng, cũng đã nói lên dung

lượng suy nghĩ chứa đựng trong những dòng thơ tượng trưng của ông Tam

nguyên. Nhận thức nghệ thuật của Nguyễn Khuyến về người nghĩa sĩ so với

trước, đã bắt đầu có một sự đổi thay cơ bản: hành động cần vương cứu nước

dước con mắt ông vẫn luôn luôn là những hành vi quá khổ và sáng chói,

nhưng giờ đây đã là việc làm vô vọng của những con thiêu thân. Và mặc dù

có thể vẫn có dăm ba con thiêu thân nào đấy còn lởn vởn trong tâm trí mọi

người như những hình ảnh không mù quáng, nhưng không thể nào còn nữa

những con thiêu thân mà lại không vô nghĩa trước yêu cầu của hiện thực đối

sống. Vài chục năm về sau, một nhà chí sĩ tiêu biểu cho thế hệ cứu nước mới

là Phan Bội Chân, khi nhìn lại lớp người Cần vương kháng Pháp ít nhiều

cũng có một nỗi cảm khái giống như Yên Đổ: “Có người quyết chiến với Pháp

mà chết. Có người bị Pháp nã bắt phải chết. Có người giả làm quan với Pháp

để ngầm kết nghĩa đảng, bị người Pháp phát giác ra mà chết. Có người phẫn

nộ quá đầy tâm can, tự tìm cách chết để mà chết. Đáng tiếc anh nhân nghệ sĩ

mấy nghìn năm tinh khí non sông hun đúc nên, gặp phải vận nước không

may, như hoa lan bị khói xông, ngọc quý bị lửa đốt, đều hóa làm ngọc sáng ở

biển Nam mà cuốn đi. Oan uổng thay! Đau đớn thay!”. Không nên xem đây

chỉ là một lời cảm thán bi phẫn nặng âm hưởng ngợi ca, mà quan trọng hơn

đây còn là sự tổng kết chính xác một hành vi lịch sử, một hành vi có ý nghĩa

đặc trưng cho cả một thời đoạn lịch sử. Nguyễn Khuyến trong nghệ thuật thơ

ca của mình cũng đã làm được điều ấy, và đó chính là chỗ lớn của một nhà

thơ lớn. Quan sát một cách tinh vi các dạng thái biểu hiện của con người mất

lý tưởng, bất lực trước lý tưởng, và trở nên vô nghĩa trong sự thực hành lý

tưởng bất chấp hiện thực cay nghiệt quy định và ràng buộc mình, Nguyễn

Khuyến đã giành được một điểm son trong cái nhìn nghệ thuật về con người

so với lớp nhà thơ cùng thế hệ.

3. Mặt khác, cùng với việc phơi bày quá trình mất nghĩa của “cái cao

cả” như sự mờ nhạt tất yếu của một phạm trù thẩm mỹ, sự xuất hiện “yếu tố

đời thường” trong thơ Nguyễn Khuyến lại cũng diễn ra như một quá trình tìm

kiếm và tăng cấp dần dà ý nghĩa thẩm mỹ, là chuyển biến thứ hai, song song

Page 37: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

ngược chiều với chuyển biến thứ nhất, nhưng trên thực tế là sự bổ sung trọn

vẹn quá trình vận động trong tư duy nghệ thuật của nhà thơ. Ở phương diện

thứ hai này, quan niệm mới của Nguyễn Khuyến về con người tuy chưa hình

thành rõ nét và hệ thống, nhưng cũng đã ám ảnh sâu nặng tiềm thức nhà thơ,

đến mức nhiều hình tượng nghệ thuật đột xuất chợt hiện ra dưới ngòi bút của

ông mà chừng như ông cũng chưa dự cảm hết được sức sống phi thường

của chúng. Tập hợp những sáng tạo rải rác của ông về phương diện này sẽ

thấy quan niệm con người trong thơ Nguyễn Khuyến giờ đây đã có một

chuyển biến đáng kể, chủ yếu ở ba cấp độ:

a. Con người xét từ một ý nghĩa nào đấy vốn cũng là một sinh vật tầm

thường, hèn mọn, không phải lúc nào cũng vượt được lên như ý mình muốn,

mà luôn luôn bị giông bão lịch sử dập vùi và hoàn cảnh trớ trêu đưa đẩy.

Nhưng cũng như mọi sinh vật khác, dù hoàn cảnh nào thì dục vọng sống vẫn

giúp con người tìm thấy lý do và phương thức để tồn tại.

b. Con người có trong mình nhiều nét tốt nhưng cũng có tất cả mọi thói

hư tật xấu. Cái tốt, cái xấu không nhất thiết tách con người thành hai loại đối

lập mà thường khi vẫn tồn tại xen lẫn trong cùng một con người. Và cả cái tốt

lẫn cái xấu đều hiện ra thông qua những điều kiện cụ thể của cái môi trường

cụ thể mà con người đang sống: đó là môi trường mưu sinh quẩn quanh, vật

lộn hàng ngày. Vì sự sống vặt vãnh nhưng bức bối đó, con người đâm ra

giành giật, hãm hại lẫn nhau, bon chen, lừa phỉnh, bóp nặn nhau đến ty tiện,

đôi khi khuynh đảo cả quan hệ gia đình (Điền gia tức sự ngâm, Vịnh tuần

đinh, Thiền sư), lục đục bất an trong cộng đồng làng xã (Túy ông ngâm, Xã

nhật cái, Lân cẩu hành). Song ngẫm cho kỹ thì hình như cũng chính tất cả

những chuyện mưu sinh quẩn quanh vặt vãnh ấy mới làm nên sự sống đích

thực, mới làm cho cái tốt, cái lương tri trong con người có dịp trỗi dậy, và đó

mới là cái tốt, cái xấu có thực của thế giới nhân quần, không phải ở đâu trong

sách vở mà hiện diện mọi nơi, mọi lúc giữa cuộc sống hàng ngày. Quan niệm

con người lưỡng phân này đã khác rất xa cách nhìn nhất thể hóa đối với con

người trong thơ ca cổ điển, kể cả đối với Nguyễn Du.

Page 38: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

c. Con người đang bị tha hóa từng bước, đồng thời hoàn cảnh xã hội

cũng đang làm cho các bậc thang giá trị từng bước bị đảo lộn. Vì thế, mọi giá

trị của con người hiện ra trước mắt giờ đây đều trở thành khó hiểu, không

thực, và đầy mâu thuẫn: giữa hình thức bề ngoài và thực chất bên trong, giữa

địa vị, quyền thế, danh vọng và mặt trái của tất cả những thứ ấy, thậm chí

giữa nhu cầu sống, dục vọng sống và ý nghĩa sự sống ở mỗi cá nhân cá thể,

hoặc ở một nhóm người đại diện cho một tầng lớp xã hội nhất định… Ở đây

cũng bắt đầu thấp thoáng hé lộ những cảm nhận sâu sắc của Nguyễn Khuyến

về một kiểu người mà ông gọi là “bậc ăn dưng” – kiểu người thừa: kiểu người

vô vị, mất lý do tồn tại, nhưng vẫn đang sống trong “quán tính” của chút hào

quang và danh vọng xưa kia.

Đối với ba loại quan niệm trên về con người, ngòi bút tài năng của

Nguyễn Khuyến cũng đã tìm thấy một sự thích ứng trong bút pháp thể hiện.

Bút pháp trữ tình vận dụng vào đây rõ ràng không thể nào lột tả được đặc

điểm thẩm mỹ của cả ba con người ấy nữa. Vì thế, bút pháp trào phúng trở

thành phương thức lựa chọn hữu hiệu bậc nhất. Tuy nhiên, xuyên qua ba con

người rất đặc trưng ấy, ta vẫn thấy hiện lên đây đó hình ảnh Nguyễn Khuyến

như một nhân vật tự họa, với những nỗi dằn vặt khắc khoải, một sự chiêm

nghiệm đầy chua xót nhưng cũng vị tha về người đời và tình đời. Cũng do

vậy, bút pháp trào phúng của Nguyễn Khuyến rất chua cay nhưng cũng chứa

đựng một dung lượng triết lý thâm thuý. Ở chỗ này phần nào ông có khác Tú

Xương. Mặt khác, quan niệm con người thay đổi trong đó có con người cá

nhân, cái “tôi” của nhà thơ, nên gắn liền với sự chuyển động của hình ảnh cái

“tôi”, quan niệm về thời gian và không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn

Khuyến cũng bắt đầu có những chuyển động rõ rệt. Có thể nói, những ý niệm

mới trong tư duy về thời gian, không gian nghệ thuật với Nguyễn Khuyến,

từng bước đã hình thành.

4. Trong thơ trữ tình Việt Nam vào thời trung đại, điều dễ nhận thấy là

nghệ thuật biểu hiện thời gian và không gian đều mang tính ước lệ rất cao.

Thời gian trong thơ bị phong bế chặt chẽ bởi đối tượng miêu tả, và đối tượng

Page 39: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

này lại bị quy phạm hóa dưới những công thức nghệ thuật tồn tại từ hàng

trăm năm trước, khó mà phá vỡ ở nhà thơ này hay nhà thơ khác. Vì thế, nếu

đọc tách riêng từng bài thơ vịnh cảnh hay vịnh vật của một tác giả nào đó, đôi

khi sẽ thấy hầu như không còn ý niệm thời gian tồn tại, cũng đúng như

Likhasôp (D. Likhachev) đã nhận xét về nghệ thuật phong cảnh và nghệ thuật

xây dựng chân dung các vị thánh trong văn học và hội họa cổ Nga. Nhưng khi

xếp các bài thơ đó lại thành chuỗi với nhau - mà sự xâu chuỗi này là đặc điểm

tự nhiên của thơ trữ tình phương Đông, trong sáng tạo cũng như trong tiếp

nhận, bởi không ai chỉ đọc và thưởng thức riêng một bài thơ, trái lại phải đọc

trong mối quan hệ liên hoàn của cả thi tập – thì vẫn có một sự vận động thời

gian trong thơ của từng tác giả. Cũng có cả một sự di chuyển không gian

tương ứng, cho thích hợp với cảnh sắc bốn mùa. Chẳng hạn, trong tập thơ

Hồng Đức quốc âm thi tập, cảnh vật được quy ước bằng “xuân hạ thu đông”,

bằng “mười hai tháng”, bằng “năm canh”… và đọc hết bài này đến bài khác,

sẽ thấy cái vòng quay tháng năm đã trở thành hình thức biểu hiện nghệ thuật

của thơ. Vòng quay ấy diễn ra trên bối cảnh một không gian cũng luân chuyển

theo tầm vĩ mô. Tất nhiên, tính ước lệ của cảnh vật trong con mắt nghệ thuật

trung đại bắt buộc nhà thơ không thể đi ra ngoài các đối tượng miêu tả có

sẵn, hoặc vận dụng những chất liệu nghệ thuật khác với chất liệu đã được

quy định. Các loại hoa và cây, những giống vật, những màu sắc tượng trưng

cho mỗi mùa nhất là mối quan hệ ứng xử của người quân tử, khí tiết người

quân tử biểu hiện trong mỗi mùa, là những cái được coi là cố định. Nhà thơ

chỉ cần sắp xếp, vận dụng từ chương học sao cho thuần thục để bài thơ gây

được một cảm hứng thơ – cũng là cảm hứng đạo lý – thật sâu sắc. Bài thơ

như vậy được coi là “tân kỳ”. Rốt cuộc, bài thơ nào về bốn mùa cũng chỉ cần

có chừng ấy: mùa xuân thì có mai và lan, có chim oanh, có ong và bướm, và

có “khí dương hòa” làm “đượm nhuần” tấm lòng người quân tử. Mùa hè thì có

sen, có lựu, có chim cuốc, và tiếng ve gợi nỗi nhớ nhà, “tư quy”, có “cái nóng

nung người” làm “mồ hôi mướt” và “phận liễu bồ” thêm vất vả, nhưng cũng có

“ngọn gió nam huân” khiến người quân tử được “vô sự”, “nhàn tâm”. Mùa thu

thì có hoa cúc vàng buộc người ta nhớ đến ngày trùng cửu, tiết thù du, và

Page 40: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

nhớ đến nhân cách của một Đào Tiềm, có hoa lau trắng, có ngô đồng rụng lá,

có “tiếng thu” xào xạc mà Âu Dương Tu đã từng nhắc nhở, nhưng cũng có

“đám mây vân cẩu” để nghĩ đến “hoạn hải ba đào”. Và cuối cùng là mùa đông

thì có trúc, có tùng, những loài cây quân tử bền gan với sương giá, có ngọn

gió heo may, tuyết phơi đầu bãi, và “tiếng nhạn kêu sương” làm ngẩn ngơ

lòng khách giang hồ, v.v…

Bên cạnh dòng thời gian tượng trưng bằng cảnh vật bốn mùa như trên,

trong thơ trữ tình cổ điển quá khư còn có một dòng chảy thời gian khác: đó là

các biến cố trong đời những con người ôm ấp “chí nam nhi”: những cuộc

phân ly, viễn hành, lữ thứ, những bước chân gắn liền với tráng chí của người

quân tử in trên khắp mọi nẻo đường phận sự (đánh Đông dẹp Bắc, kinh lý, sứ

trình…). Và đến khi cánh chim đã mỏi thì lại có những cuộc hồi trình, quy khứ,

rồi điền viên hoặc mai danh ẩn tích với “u cư”, “độc tọa”… Dòng chảy thời

gian này cũng sẽ gắn chặt với một nghệ thuật biểu hiện không gian riêng.

Trên mọi nẻo viễn trình, nhà nghệ sĩ ẩn trong nhà Nho vẫn luôn luôn tìm thấy

điều kiện để hòa nhập với trời cao biển rộng, để trèo lên những ngọn núi chót

vót mà nhận chân ra lẽ tuần hoàn của con Tạo. Đó chính là lúc “tiểu vũ trụ” ở

trong mỗi người có dịp hòa làm một với “đại vũ trụ” - mỗi cá nhân nhỏ bé thấy

mình hòa tan vào cái mênh mông của trời đất và được trường tồn. “Đăng cao

viễn vọng” để thấu hiểu được càn khôn là vô cùng, kim cổ là vô cùng, được

thu sơn hà vào trong tầm mắt và đồng nhất hoá cái vô cùng của càn khôn với

cái “đạo” mà người quân tử ôm ấp trong lòng, đó là cảm quan tạo nên không

gian nghệ thuật trong thơ trữ tình.

Khỏi phải nói, các mảng thơ bốn mùa và thơ du vịnh trong văn học cổ,

hay cả những trường hợp đột xuất đi nữa, đều chỉ đưa đến sự biểu hiện thời

gian và không gian siêu cá thể mà thôi. Thời gian ở đây được ước lệ hóa rất

cao nên không còn là thời gian của chủ thể thẩm mỹ, cũng không phải là thời

gian khách quan như nó đã diễn ra trong thực tế. Không gian cũng vậy, khi

“đăng cao” thì núi nào chẳng bé nhỏ như nhau, khi nhìn hút tầm mắt thì xóm

làngnào chẳng man mác xa thẳm? Và tất cả cái thế giới tưởng chừng bao la

Page 41: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

ấy thực ra lại không mang một lượng thông báo nào cụ thể ngoài cái chí

trượng phu, tấm lòng hồ hải, không chịu già với thời gian. Cũng có thể nói

thời gian và không gian trong thơ trữ tình trung cổ là thời gian và không gian

đạo lý. Nghệ thuật trung cổ đã mượn các phương thức biểu hiện thời gian và

không gian để “nói chí” hơn là để đặc tả hoàn cảnh và tâm trạng không thể

lặp lại của nhân vật trữ tình.

Phải đến Nguyễn Du mới có một bước đột xuất trong nghệ thuật biểu

hiện thời gian. Dưới ngòi bút của ông, người đọc cảm thấy có một chuỗi ngày

đang triền miên trôi đi trong tuổi tác, bệnh hoạn, và trong nỗi hoài vọng mòn

mỏi của một con người thấy mình không toại chí, thấy mình như một “người

thừa” và xung quanh mình, cuộc sống cũng diễn ra theo một chiều hướng đi

xuống không sao cưỡng nổi…

Thời gian ở đây hằn lên rất đậm mặt chủ quan của nó, là thời gian tâm

trạng của chính tác giả:

Phu tọa nhàn song túy nhãn khai,

Lạc hoa vô số hạ thương đài.

Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,

Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?

Xuân sắc tiệm thiên hoàng điểu khứ,

Niên quang ám trục hạch đầu lai.

Bách kỳ đãn đắc chung triệu túy,

Thế sự phù vân chung khả ai.

(Đối tửu)

(Ngồi tựa bên song mở mắt say,

Hoa rơi lấm tấm thảm rêu dày.

Sống không dốc cạn vài chung rượu,

Chết hỏi ai người rưới mộ đây?

Page 42: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Xuân nhạt dần thôi chim cũng tếch,

Năm trôi gấp khiến tóc phơ gay.

Ước gì suốt sớm say luôn được,

Thế sự buồn tênh thoảng bóng mây)

Nhưng cũng phải nói, trừ những bài thơ về Thăng Long và những bài

có địa danh xác định, ở đó cảnh vật như cũng quyện chặt với tâm trạng và

hiện hình lên giữa những câu tuyệt bút, nói chung, thiên tài nguyễn Du vẫn

chưa tạo được cho thơ mình một không gian cá thể, chỉ riêng có với cách

nhìn ngoại cảnh độc đáo, chất nặng tâm sự của chính ông. Phải đến thơ

Nguyễn Khuyến thì mới có những cách tân thực sự về cả không gian và thời

gian. Bước đổi thay cơ bản trong bút pháp nghệ thuật của Yên Đổ sau khi về

vườn Bùi đã đem lại cho ông một cái nhìn mới về cảnh vật cũng như một ý

niệm khác trước về sự trôi chảy của dòng đời. Sự thực thì trước kia mỗi khi

cầm bút ông Tam nguyên cũng ước lệ như ai, nhưng vừa ra khỏi Kinh đô, mối

quan tâm của ông đối với cảnh vật đã khác hẳn:

Trù trướng kim triêu ngã độc hành,

Tàn vân nhất mạt viễn sơn thanh.

Thu đa thử khí tiên thục,

Vũ thấp sa điền vị khả canh.

Dã đỗ bất tri hà xứ thực?

(Kinh để sơ phát)

(Sớm nay một mình buồn bã, ta ra đi,

Áng mây tàn vừa cuốn thì rặng núi xa đã hiện ra xanh

xanh.

Mùa thu nóng nhiều, lúa đồng chín sớm,

Mưa ẩm, ruộng cát vẫn chưa thể cày.

Cây đỗ đồng quê không biết trồng ở nơi nào?)

Page 43: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Rất dễ hiểu, từ cái bản chất “nông dân” còn tiềm tàng sâu nặng đó, một

thế giới nghệ thuật mới sẽ dần dần sống dậy trong thơ ông. Quan sát con

đường thơ của Nguyễn Khuyến thì có thể thấy, ông đã đi từ một không gian

nghệ thuật muôn thuở, rất sáo cũ đối với nhà thơ nhưng lại là lý tưởng đối với

nhà Nho hành đạo làm thơ, để nhập thân vào một không gian nghệ thuật

khác: cái thế giới tầm thường, quẩn quanh trong làng ngoài ngõ mà không

một nhà Nho hành đạo nào coi là lý tưởng, thậm chí người ở ẩn cũng không

thể lấy đó làm phong vị sống của mình. Nhưng sự thu hẹp ông gian nghệ

thuật lại đã có tác dụng phá vỡ đi ở nhà thơ Nguyễn Khuyến phần lớn những

hệ thống ước lệ nghệ thuật quen thuộc (mà đặt trong hệ thống thì bao giờ

cũng rất khó phá vỡ). Và nghịch lý là ở chỗ: cái tầm thường thay thế cho cái

cao cả lại có tác dụng đẩy lùi sự sáo rỗng, làm nẩy ra những cảm hứng thẩm

mỹ chưa có bao giờ. Nguyễn Khuyến buộc phải vượt lên khỏi sự quẩn quanh,

chật hẹp bằng cái nhìn tinh xác, để tìm lấy linh hồn của sự vật, tìm vẻ đẹp bên

trong không lặp lại giữa khuôn mặt này và khuôn mặt khác, giữa lũy tre này

và lũy tre kia, giữa những cuộc gặp gỡ của ngày hôm qua và ngày hôm nay.

Xu hướng cá thể hóa sự vật bắt đầu nẩy nở ở trong ông. Mối quan hệ giữa

chủ thể và khách thể cũng cho phép ông biểu hiện không gian và thời gian với

màu sắc tâm trạng rõ rệt hơn. So với Cao Bá Quát, Nguyễn Du, Nguyễn Công

Trứ, ông đã tiến được một bước lớn.

Đôi lúc Nguyễn Khuyến cũng chống gậy đi chơi núi An Lão, thăm lại

chùa Đọi… nghĩa là sống lại cảm hứng “đăng cao” của con người cũ. Nhưng

ông lên cao mà không còn tìm thấy một cảm giác hài hòa cùng vũ trụ, “thu

giang sơn vào một túi” như cái cảm giác cần có của một trang nam tử ý thức

được lẽ tồn tại của mình. Ông lên cao chỉ để càng thấy tâm trạng mình lẻ loi

cô độc và trống trải hơn, giữa một thế giới đã hoàn toàn thay đổi; mỗi cảnh

mỗi vật giờ đây có tâm sự riêng, cũng có sự bận bịu riêng của chúng:

Nghĩ lại bực cho dòng nước chảy,

Đi đâu mà chảy cả đêm ngày?

(Nhớ núi Đọi,I)

Page 44: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Mặt nữa, Nguyễn Khuyến cũng làm thơ về phong cảnh bốn mùa,

nhưng sự từ chối ước lệ trong quan niệm nghệ thuật đã giúp ông bỏ xa tính

chất siêu cá thể của trường thơ bốn mùa thời Hồng Đức. Thời gian trong thơ

ông mang rõ cá tính của nhà thơ, là thời gian diễn ra theo cảm hứng của chủ

thể, thời gian của tuổi già, “lên lão”, “Nnhập nhèm bốn mắt tranh mờ tỏ - Hàm

răng chiếc rụng chiếc lung lay”, hoặc “Xuân về ngày loạn càng lơ láo – Người

đến khi cùng cũng ngất ngơ”… Nhưng đây cũng là thời gian được hiện thực

hóa rất cao, vì kết tinh được trong nó những dáng nét, sắc màu, khí vị rất đặc

trưng, và cũng chỉ riêng ông nhìn thấy. Hầu như trong chúng ta, không mấy ai

không thuộc lòng ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến. Nhưng thống nhất với

nhau về vẻ đẹp bất tận của ba bài thơ đó, thực không phải dễ. Vậy thì cái chỗ

khó nói cho cùng trong ba bài thơ mà ai cũng xem là tuyệt diệu kia là do đâu?

Chúng tôi nghĩ, chính là ở điểm giao thoa của nhiều đặc trưng khác biệt cùng

lúc có mặt trong cả ba bài thơ, nó tạo nên một ranh giới mập mờ, kích thích

không cùng trí tưởng tượng của người đọc. Ở đây vừa có tính tượng trưng,

ước lệ rất cao, vừa là sự hình tượng hóa những dáng nét đậm đặc của tâm

trạng, cảm giác như trường thơ ấn tượng chủ nghĩa, lại vừa được điểm xuyết

bằng những nét vẽ tỷ mỹ, chuẩn xác, phối hợp tinh tế giữa đường nét, sắc

màu, tạo nên những quan hệ so sánh giữa gần và xa, cao và rộng, động và

tĩnh, giữa cái mênh mông của tạo vật và nỗi cô tịch của con người… Đó chính

là sự sống chưng cất lên từ hiện thực. Và nếu ta chỉ thiên về một cách nghĩ

nào đấy cũng sẽ gặp những giới hạn không thể vượt qua. Điều đó chứng tỏ ở

mỗi một bài thơ, Nguyễn Khuyến có những điểm nhìn khác nhau: điểm nhìn

của chủ thể thẩm mỹ và điểm nhìn của người trong cuộc – nhiều khi cũng là

chủ thể được khách thể hóa. Thời gian và không gian nghệ thuật trong thơ

Nguyễn Khuyến, do đó, đa dạng hơn thơ cổ điển rất nhiều.

Mà không riêng gì ba bài thơ thu, hiện tượng giao thoa phức hợp này

hầu như đều tìm thấy ở mọi bài thơ nói về mùa xuân, mùa hè, mùa đông và

nhiều bài thơ phong cảnh khác của Nguyễn Khuyến. Trong bài thơ Than mùa

hè của ông có cái không khí một đêm hè oi bức mà người Việt nào ở đồng

quê xứ Bắc cũng đều nếm trải; nhưng lại cũng có một lớp nghĩa thứ hai hiện

Page 45: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

lên sau hình ảnh “Tiếng dế kêu thiết tha – Đàn muỗi bay tơi tả”, là tiếng vọng

mơ hồ của một tâm tình bức bối khắc khoải của riêng Nguyễn Khuyến: “Nỗi

ấy ngỏ cùng ai – Cảnh này buồn cả dạ”. Trong một bài thơ khác – bài Chợ

Đồng – Có phiên chợ Đồng thưa vắng lúc giáp Tết với cái cảnh “Hàng quán

người về nghe xáo xác” và bên tai là tiếng thúc nợ văng vẳng mà chúng ta

cũng có thể cảm thấy như đã gặp trong nhiều phiên chợ quê ảm đạm trước

đây; nhưng hình bóng một vài ông già tóc bạc còn lơ thơ sót lại, ngồi nếm

chén rượu bên tường đình, dưới bầu “trời mưa bụi” lất phất bay, thì đó là hiện

thực và cũng là tâm trạng của Nguyễn Khuyến, về những phiên chợ vùng quê

cuối cùng, một đi không trở lại, trong những năm cuối thế kỷ XIX của xã hội

Việt Nam.

5. Là một thi tài kiệt xuất, Nguyễn Khuyến đã biết chọn lọc ngôn từ

trong cái vốn ngôn ngữ phong phú và dân dã của đời sống hàng ngày, diễn ra

muôn hình nghìn vẻ quanh mình. Thơ ông mộc mạc và chân chất như chính

tiếng nói của đời sống, nhưng lại không hề rơi vào sự thông tục hóa, trái lại,

thường xuyên được ông chắt lọc để nâng lên mức một nghệ thuật tinh diệu.

Đó cũng là thêm một dấu hiệu chứng tỏ sự thắng thế của một quan niệm, một

phương thức tư duy nghệ thuật bước đầu tìm được một định hướng đúng, để

đi nhanh từ ước lệ, công thức đến hòa trộn tài tình bút pháp trữ tình với tả

thực. Phương thức tư duy nghệ thuật do Nguyễn Khuyến khởi xướng chưa

thể nào dẫn tới một sự đảo lộn ghê gớm trong sinh hoạt văn chương cuối thế

kỷ, bởi còn thiếu đi nhiều điều kiện cho cuộc cách mạng của nó. Nhưng nó

cũng đã chứng tỏ một bản lĩnh khác thường nơi ông nghè Yên Đổ, giúp ông

vượt lên trước thời đại khá xa. Nếu như thuở bấy giờ, Tú Xương là cây bút có

một không hai về đời sống xã hội Việt Nam đang thị dân hóa chóng vánh, thì

không phải chỉ riêng thuở ấy mà mãi cho đến nay, Nguyễn Khuyến có lẽ vẫn

là nhà thơ có một không hai về làng thôn, dân tình, cảnh trí Việt Nam, vì ông

đã biết tái hiện bức tranh làng cảnh bằng chính những chất liệu riêng chỉ có

ông mới rút ra được từ bản thân đối tượng, và biết chọn đúng những thời

khắc hội tụ được các chất liệu ấy lại để tạo nên một sự dính kết, toát lên một

tiếng nói bên trong, một vẻ đẹp có hồn. Như một thiên bẩm tự nhiên, Nguyễn

Page 46: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Khuyến đã biết vượt qua khuôn khổ chật hẹp của luật thơ thất ngôn bát cú

bằng nhiều thủ pháp tài hoa, sành điệu. Có khi đấy là sự vận dụng các cụm từ

song âm tiết, nhất là tính từ tượng thanh, tượng hình, đặt chúng rất đúng chỗ

trong các cặp câu đối ngẫu hoặc trong nhiều câu thơ liên tiếp, khiến chúng

bỗng rộn lên âm thanh, chói chang màu sắc của sự sống – cái âm thanh và

mầu sắc không chút cách điệu mà lại đặc trưng đến rõ nét, tưởng chừng

không thể thay bằng một cụm từ nào khác:

Ình ịch đêm qua trống các làng,

Ai ai mà chẳng rước xuân sang!

Trước lũy nhấp nhô cò cụ Tổng,

Cách ao lẹt đẹt pháo thầy Nhang!

(khai bút)

Năm gian nhà cỏ thấp le te,

Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.

(Thu ẩm)

Có khi đấy lại là cách gieo vần tinh tế, gợi nên cả một thế giới mênh

mông quạnh vắng của một con người đang trầm cảm về cái lẻ loi của mình

trước vũ trụ:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tý,

Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo!.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,

Page 47: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo!

(Thu điếu)

Lại có khi đấy là cách sử dụng những hình tượng thật đắt điểm xuyết

vào giữa một bức tranh bình dị, làm bức tranh trở nên linh hoạt hẳn:

Trâu già gốc bụi phì hơi nắng,

Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người.

(Đến chơi nhà bác Đặng)

Mái tóc chòm xanh chòm lốm đốm,

Hàm răng chiếc rụng chiếc lung lay.

Nhập nhèm bốn mắt tranh mờ tỏ,

Khấp khểnh ba chân giở tỉnh say.

(Than già)

Nhưng thông thường thì Nguyễn Khuyến sử dụng cùng lúc tất cả

những thủ pháp nghệ thuật này để chúng trở thành một kết cấu nghệ thuật

phức hợp, trong đó hình tượng, màu sắc, âm thanh… không còn phát huy tác

dụng riêng rẽ, mà gắn bó mật thiết với nhau, gây cho người đọc một ấn tượng

đột xuất hẳn. Những câu thơ về lụt của Nguyễn Khuyến là nét chạm khắc

thần tình tình cảnh lụt ở vùng đồng chiêm trũng.

Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách,

Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà.

(Vịnh lụt)

Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng,

Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi.

(Nước lụt Hà Nam)

Và những bài thơ xuân, hạ, thu, đông của Yên Đổ tuy giá trị cao thấp có

khác nhau song cũng đều là những mẫu mực vô cùng độc đáo của thơ ca cổ

Page 48: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

điển, làm cho cảnh sắc bốn mùa vùng đồng quê Bắc Bộ của đất nước trở nên

bất tử!

Trên con đường dài của nghệ thuật ngôn ngữ thơ ca tiếng Việt, Nguyễn

Khuyến quả thực đã giữ một vị trí khó có ai thay thế. Ông là người đã kế thừa

xứng đáng các tinh hoa nghệ thuật quá khứ như Bà Huyện Thanh Quan, Hồ

Xuân Hương, hay cả người đồng thời như Tú Xương… nhưng không phải ở

chỗ tiếp tục máy móc con đường họ đã đi, mà hình như có phần đảo ngược

lại con đường tìm tòi của họ. Nếu Bà Huyện Thanh Quan đã đưa ngôn ngữ

nghệ thuật đến chỗ sang trọng, đài các, thì công lao của Nguyễn Khuyến lại là

dám thay sự sang trọng, đài các bằng những yếu tố chân chất, mộc mạc mà

giá trị cổ điển của ngôn từ vẫn không chút suy giảm, sức sống của ngôn từ lại

được nâng lên vượt bậc. Nếu Hồ Xuân Hương đưa ngôn ngữ thông tục vào

thơ với khả năng và ý nghĩa biểu tượng cao nhất, làm cho cảm xúc thơ đôi khi

đạt đến độ căng giới hạn, thì Nguyễn Khuyến lại đưa ngôn ngữ thông tục vào

thơ với tất cả vẻ đẹp thanh tao, trang nhã, với những cảm xúc không căng mà

dịu, nhưng dịu mà thấm vào người đọc rất sâu.

Nguyễn Khuyến là người đã sáng tạo nên những áng văn chương điêu

luyện, tuy thế trong thơ ông tuyệt nhiên không thấy dấu vết của sự đẽo gọt

cầu kỳ. Nhiều bài thơ dung dị của Nguyễn Khuyến cho ta cái cảm tưởng nhà

thơ đã thoát ra khỏi cái vỏ vật chất của ngôn từ mà tóm bắt đúng cái thần của

sự sống. Sự sống hiện ra trong thơ cô đúc đến đậm đặc, và thật như chính

nó. Ở đây, Nguyễn Khuyến rõ ràng đã đi sát, thậm chí đôi khi đã vượt qua

vạch ngăn giữa cổ điển và hiện đại. Ông là nhà thơ cổ điển mẫu mực cuối

cùng của thơ ca dân tộc, cũng là một trong những cây bút thơ uyển chuyển

và đa dạng về phong cách, nhưng thơ ông không chỉ có giá trị khép lại một

chặng đường dài của thơ ca cổ điển mà phần nào còn có giá trị mở – gợi nên

nhiều thi hứng mới cũng như cách tư duy mới mẻ, cho bước tiến của thơ ca

giai đoạn sau.

CHÚ THÍCH CHƯƠNG I

Page 49: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(1): Thơ văn Nguyễn Khuyến bắt đầu được đăng trong mục Thơ cụ Yên

Đổ trên Nam Phong các số 4, 5, 6 năm 1917. Xem thêm Thư mục số 28, ở

Chương phụ lục.

(2). Mấy vấn đề về thơ qua tuyển tập. In trong Phê bình văn học. Nxb.

Văn học, Hà Nội, 1962; tr. 132 – 149.

(3). Thơ văn Nguyễn Khuyến. Bộ Giáo dục xb. Xem Thư mục số 25.

(4). Xem Thư mục số 32.

(5). Nxb. Văn học, Hà Nội. 1970, Nguyễn Khuyến được chọn 12 bài.

(6). Trích bài Tự phận ca.

(7). Chữ dùng của Xuân Diệu trong bài đã dẫn (xem Chú thích (1) Lời

nói đầu).

(8). Xem thống kê cụ thể số bài thơ nói về rượu ở Mục 12, Chương III.

(9). Xem Thư mục số 80. Đây là bộ hợp tuyển thơ văn Nguyễn Khuyến

phong phú nhất về số lượng, tính đến nay. Đây cũng là công trình kế thừa

thành quả của nhiều công trình ra đời từ trước.

(10). Tất nhiên, cũng như mọi sự biến từng gây nhiều đảo lộn này khác

trong lịch sử, quần chúng nông dân bao giờ cũng là lực lượng thừa hành

quan trọng, nhưng phải dưới sự chỉ đạo có ý thức của một tầng lớp khác, ở

đây là nhà Nho. Về vấn đề này, quan điểm của chúng tôi có những phần gặp

gỡ Tiến sĩ Yoshiharu Tsuboi người Nhật. Xin xem Nước Đại Năm đối diện với

Pháp và Trung Hoa. Ban KHXH thành phố Hồ Chí Minh xb. 1990.

(11). Nguyễn Khuyến có gửi thư cho Nguyễn Xuân Ôn nhưng là sau khi

ông này đã bị bắt về Huế.

(12). Chẳng hạn bài thơ mở đầu bằng hai câu: “Nhắn nhủ cha con chú

Thượng Và – Con thì đàn áp, bố khề khà…”.

(13). Trừ một vài câu trong bài Trị mệnh mà khi dịch thành thơ Nôm

(chúng tôi không tán thành quan điểm bác bỏ dễ dãi truyền thống vẫn coi

Nguyễn Khuyến là dịch giả bài thơ của chính mình để cố gắng dịch ra những

Page 50: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

bài thơ kém giá trị hơn nhiều mà Nguyễn Khuyến – tác phẩm là hiện tượng

gần đây nhất), Nguyễn Khuyến đã chuyển từ màu sắc trữ tình sang trào

phúng.

(14). Cần chú ý là Phan Đình Phùng, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Duy

Hiệu… trong thơ của họ, đều đã không tránh khỏi mặc cảm ưu sầu, mặc dù

họ rất có bản lĩnh trong tư cách người chiến sĩ.

(15). Trong tư tưởng cổ đại Trung Hoa, “Đạo” được hiểu theo nhiều

nghĩa, nhưng với tư cách một phạm trù triết học tự nhiên thì nó nhằm để chỉ

vừa bản thể của vũ trụ vừa quy luật của vũ trụ, là cái tuyệt đối, trường tồn,

thường vô lại cũng là thường hữu (Lão Tử) mà người ta không thể dùng lý

tính để nhận thức ra được. Chỉ có một phương thức duy nhất giao tiếp được

với cái bí mật, vĩnh hằng đó là trực giác. Và công cụ duy nhất của trực giác

chính là trái tim. Tuân Tử (sống trong khoảng 289 – 238 TCN) từng đặt câu

hỏi: “Người ta lấy gì để biết được Đạo?”. Và ông tự trả lời: “Tâm”, Nhân hà dĩ

tri Đạo? Viết: Tâm – Tuân Tử tập giải; thiên 22. “Giải tế”. Ông lại nói: “Tâm là

chúa tể của Đạo vậy” Tâm dã giả, Đạo chi công tể dã – Như trên). Nhưng vì

Tâm là nơi con người có thể dùng trực để hiểu Đạo, nên Tâm cũng chính là

cánh cửa mở thông ra thế giới bên ngoài, giúp con người có cảm hứng với

ngoại giới. Có thể nói Tâm đứng ở giữa khoảng động và tĩnh, nhất và đa, hư

vô và hiện hữu. Tâm là dĩ tri? Viết: Hư, Nhất nhi Tĩnh. Tâm vị thường bất

Lưỡng dã, nhiên nhi hữu sở vị Nhất, Tâm vị thường bất Động dã, nhiên nhi

hữu sở vị Tĩnh – Tuân Tử tập giải, như trên). Và đó là Khởi nguyên của cảm

hứng văn chương của con người (Lời chú giải Đạo đức kinh của Hà thượng

công vào khoảng đời Hán, đã được Tiêu Thống dẫn lại trong bộ Văn tuyển nổi

tiếng của mình (năm 526) coi Tâm là đầu mối của cảm hứng văn học). Nhưng

cảm hứng đầu tiên phản được tính tới trong văn chương là cảm hứng thơ, vì

“Thơ nói chí” (Thi ngôn chí Kinh thư; thiên “Thuấn điển”, mà Chí là cái ấp ủ ở

con tim: Ở trong lòng là chí, phát ra thành lời là thơ” Tại tâm vi chí, phát ngôn

vi thi – Thi, đại tự. Như vậy, thơ chính là cảm hứng thân diệu của con người

phát lộ ra do sự xung động của Tâm thông qua con đường trực quan mà

Page 51: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

hướng tới Đại đạo. Trong tư tưởng cổ đại Ấn – độ, trái tim như một thực thể

tinh thần sáng láng, cũng là cội nguồn đích thực của thơ (Theo Lixêvits (I.S.

Lissévits): Tư tưởng văn học Trung Quốc trong buổi giao thời giữa cổ đại và

trung cổ; chương II. Maxcơva, 1979). Còn trong tư tưởng cổ đại Hy–lạp thì

thơ là hình thức ngôn từ kết tinh sự sống một cách bản chất nhất, thậm chí

trở thành thần bí. Platông (Platon), trong tác phẩm Đối thoại (Dialogue), mặc

dù có thái độ công kích thơ ca, coi thơ ca không phải là nghệ thuật, cũng

không phải là khoa học, vẫn phải thừa nhận rằng nhà thơ trong khi sáng tạo,

chính là đang dấy lên ở trong mình một cảm hứng thần thánh, bị giày vò bởi

những hoang tưởng, và khi hoang tưởng ngừng lại thì nhà thơ lại mất khả

năng sáng tạo (Le poète l’orsqu’il compose, est soulevé pả l’enthousiasme

divin, en proie à une sorte de délire; l’orsque ce délire cesse, il redevient

incapable de rien faire – Dictionnaire universel des lettres. Laffont – Bompiani.

Paris, 1961; p. 233). Trong Nghệ thuật thơ ca, Arixtôt (Aritote) cũng nói: “Thơ

ca có ý vị triết học và nghiêm chỉnh hơn lịch sử, vì thơ ca nói về cái chung và

lịch sử lại nói về cái cá biệt” (Nxb. Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 1964; tr. 58).

(16). Năm 1984, trong lễ kỷ niệm ngày sinh lần thứ 149 của Nguyễn

Khuyến, tại huyện Bình Lục, nhiều người đã nêu các dẫn chứng về hiện

tượng ngưỡng mộ đến mức thần thánh của nhân dân ở vùng quê Yên Đổ đối

với những giấy tờ có chép thơ của ông. Hiện tượng này cũng đã xảy ra ở

Tiên Điền đối với tác phẩm của Nguyễn Du. Xin xem bài: Nhân dân Tiên Điền

đối với “Truyện Kiều” của Nguyễn Huệ Chi, Tạp chí văn nghệ, số 4 – 1963.

(17). Việt Nam vong quốc sử. Bản dịch của Chu Thiên và Chương

Thâu. Nxb. Văn sử địa, Hà Nội, 1958.

(18). Xem Likhasốp (D.Likhachev). Thi pháp văn học cổ Nga. Nxb.

Khoa học, Maxcơva, 1967. Bản dịch của Phan Ngọc.

(19). Hồng Đức quốc âm thi tập. Bùi Văn Nguyên phiên âm. Nxb. Văn

hóa, Hà Nội, 1962.

Page 52: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Chương II. MỘT ĐỜI THƠ GIỮA HAI THẾ KỶ

5. ĐÔI ĐIỀU VỀ LÀNG QUÊ YÊN ĐỔ

Yên Đổ là một xã lớn nhất của tổng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà

Nam cũ, cho đến tận năm 1945 vẫn còn giữ được cái tên cũ. Xã bao gồm 10

thôn làng, chia làm hai giáp: giáp Ba và giáp Bảy. Giáp Ba gồm 3 thôn: Và

Thượng (Vị Thượng), Và Hạ (Vị Hạ) và Đồng Quan. Giáp Bảy có 7 thôn: thôn

Đổ, thôn Cói, thôn Phú (Đại Phu), thôn Quan (Cao Dương), Sông Nội (Hà

Nội), Sông Ngoại (Hà Ngoại) và thôn Nguyễn.

Đến năm 1947, giáp Ba tách ra khỏi Yên Đổ nhập với xã Duy Dương

thành xã Bình Minh. Bảy thôn giáp Bảy nhập thêm xã Mạnh Chư, xã Phù Tải

thành xã Yên Đổ. Dấn năm xây dựng hợp tác xã cấp cao, xã Bình Minh lại

nhập vào xã Mai Động và Trung Lương thành xã Trung Lương cho đến hây

giờ. Sự thay đổi tên làng xã bất chấp truyền thống lịch sử như thế đã làm

không ít người lầm lẫn và ngạc nhiên: sao nhà thơ Yên Đổ lại không ở

nguyên Yên Đổ mà bỏ về Bình Minh, Trung Lương? Thực ra thì từ xưa, tổ

tiên Nguyễn Khuyến cũng như Nguyễn Khuyến vẫn ở nguyên tại làng Và, xã

Yên Đổ. Cái tên Bình Minh, Trung Lương không phải tên xã cũ của làng Và,

một cái tên thì có trời mới biết lấy ở đâu ra và một cái tên thì mượn của xã

khác.

Tên xã Yên Đổ không những chỉ gắn bó với cuộc đời của nhà thơ

Nguyễn Khuyến mà còn là cái tên kỷ niệm một thời xa xưa khi tổ tiên Nguyễn

Khuyến từ đất Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh) ra sinh cơ lập nghiệp và đã để lại công

đức ở đất này. Cụ tổ Nguyễn Khuyến là Quang lượng hầu làm Đại tướng triều

Mạc. Thuở ấy giặc dã nổi dậy khắp nơi – ở xứ này có bọn giặc cướp tự xưng

là “Cuốc Đen” hoành hành cướp bóc dữ dội. Dân chúng không một ngày yên

ổn. Trên trục đường chính giữa đồng chiêm Bình Lục, có một chiếc cầu gỗ to

đẹp, tiện lợi cho giao thông cả vùng được bắc từ thời cổ xưa ở địa phận gần

thôn Đổ, bấy giờ còn tên thôn “Cầu Gỗ”, bị bọn “Cuốc Đen” phá đổ để ngăn

đường quan quân tiến thảo. Bao năm ròng, cầu đổ không bắc lại được, ấp ấy

Page 53: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

mới có tên ấp Cầu Đổ. Loạn ly, trắc trở, tiếng ta oán, lòng ước mong của dân

vùng này đã thành ca dao:

Bao giờ Cầu đổ lại lành,

Cho yên con đỏ, cho bình “Cuốc Đen”?

Quang lượng hầu là người có công dẹp trừ được giặc “Cuốc Đen”, cứu

nhân dân vùng này khỏi cảnh lầm than cơ cực. Trên đường hành quân,

Quang lượng hầu lâm bệnh và mất tại địa phận làng Chéo (còn tên là Đa

Khiếu, trên ga Bình Lục bây giờ). Nhân dân nhớ công ơn lập đền thờ ngài tại

đấy. Sau đó ngài được truy phong Cao Minh đại vương, nên gọi là đền Cao

Minh đại vương. Đền nay không còn nữa. Riêng phần mộ Quang lượng hầu

thì theo gia phả họ Nguyễn Tông, được táng ở làng Và nhưng đó là mộ “chiêu

hồn chi táng”, tức là mộ giả, còn thi hài không ai biết chôn cất ở đâu.

Sau đó ít lâu, con cháu Quang lượng hầu từ đất Hồng Lĩnh ra tìm thăm

mộ tổ và “chiêm yết truy từ”. Qua vùng này, thấy đất rộng, người thưa, dân

tình lại rất sùng kính Quang lượng hầu và xử sự nồng hậu đối với con cháu

ân nhân của họ, lại vì tình thế loạn ly, đường về quê cũ khó khăn trắc trở nên

đã chọn đất làng Và ký ngụ, sinh cơ lập nghiệp lâu dài. Những người này là tổ

tiên của dòng họ Nguyễn “Hồng Sơn chi ngoại” mà Nguyễn Khuyến là đời thứ

14, 15 rồi!

Cùng với dân xã này, con cháu Quang lượng hầu mới đến đã nỗ lực

đào sông khơi ngòi, đáp đường lập chợ, làm cho xóm thôn trù phú thêm mãi.

Những làng ấp này từ đó có tên Yên Đổ. Vậy tên Yên Đổ có góc từ cái tên

Cầu gỗ, rồi Cầu đổ, rồi Yên Đổ chăng(?).

Nhà thờ họ Nguyễn Tông ở thôn Và, thờ Quang lượng hầu và tổ tiên

Nguyễn Khuyến, những người có công lao với đất này như “ông Phúc Thọ cả

đời siêng năng cày cấy…, ông Phúc Hà giàu có, vốn hiền hữu, cần kiệm nhân

từ, cho vay tiền không lấy lãi, ai khuyên làm việc thiện thì mừng rỡ nghe theo,

dẫu hàng trăm hàng ngàn không tiếc. Ông từng đem tiền của dựng văn chỉ,

cúng tự điền, sửa cầu kiều…”. “Còn ông Phúc Hà (tức thân sinh ra Tiến sĩ

Page 54: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nguyễn Tông Mại) thì dựng nhà tư thục, rước thầy, cấp lương hàng năm để

dạy con em cả ấp. Học trò đói thì cho ăn, rét cho áo, học hành thiếu giấy bút

thì cho tiền… Do việc làm từ tâm ấy mà gia tài dần dần khánh kiệt…”. Những

dòng ghi chép này trong gia phả họ Nguyễn Tông ở làng Và đã được lòng

dân làm chứng. Ngôi nhà thờ họ Nguyễn Tông có mấy chữ “Hồng Sơn cao, Vị

Thủy trường” là “truy từ” của dân chúng cả vùng đối với những người dày

công đức ấy. Hàng năm vào ngày mồng 3 tháng Giêng, các bô lão trong vùng

hương hoa vật phẩm, dong cờ nổi trống kéo đến đây làm lễ rất trọng hậu.

Ngôi nhà thờ này cũng như từ đường Nguyễn Khuyến, nhà ở Nguyễn Khuyến

đều ở mảnh đất vườn Bùi, thôn Và Hạ. Nguyễn Khuyến lớn lên và sau mười

năm làm quan rồi lại trở về “vườn Bùi chốn cũ” cũng chính là nơi đây.

Sao gọi là vườn Bùi? “Bùi” là tiếng Nghệ Tĩnh dùng để gọi cây vối.

Những người xứ Nghệ tổ tiên Nguyễn Khuyến ra đây thuở ấy, thấy mảnh đất

này có một loại cây mà xứ họ gọi là cây bùi nên gọi vườn này là vườn Bùi.

Cũng như dân này thấy vùng đất Vị Thượng, Vị Hạ thuở ấy lắm cây Và, nên

đặt tên đất mình là làng Và vậy thôi.

Vườn Bùi nguyên xưa rộng đến gần mẫu đất, nằm giữa nhà thờ

Nguyễn Tông và từ đường Nguyễn Khuyến, giáp với một mặt thôn, nhìn

thẳng ra khu đất cao dùng để họp chợ Đồng. Nguyễn Khuyến được thừa

hưởng phần đất này từ ông cha để lại, và trước khi mất, ông chia thành 6

phần, cho 6 con trai. Phần có ngôi từ đường là thuộc về Phó bảng Nguyễn

Hoan, người con trai cả. Chính ông Hoan đã cho xây thêm ngôi nhà lớn bằng

gạch để ở, còn “năm gian nhà cỏ thấp le te” của thân phụ thì về sau đã hư

hỏng dần. Đến đời cháu ông Hoan, cả phần đất lại thuộc về Nguyễn Thanh

Đàm (cháu thứ hai, tác giả Thơ Nam quan Tam nguyên Yên Đổ, 1927. Nhưng

ông Đàm về sau bỏ vào Sài Gòn sinh cơ lập nghiệp, nhường toàn bộ quyền

sở hữu lại cho ông Nguyễn Tốn Dự là con trai thứ hai Nguyễn Doãn Đôn (em

ruột Nguyễn Hoan). Sinh thời, Nguyễn Doãn Đôn đã đem gia đình dời ra Hải

Phòng sống bằng nghề thầy thuốc, và Nguyễn Tốn Dự lớn lên ở đây. Nhưng

vốn có tấm lòng mẫn cảm về dòng họ, ông Dự đã mua lại vườn Bùi và cho

Page 55: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

người trở về Yên Đổ chăm sóc mảnh đất của tổ tiên, nhờ đó mà đất đai, nhà

cửa, từ đường được bảo quản hầu như nguyên vẹn. Ông Dự còn được thừa

hưởng ở bố những kỷ vật vô giá của Nguyễn Khuyến: hai bức chân dung nhà

thơ (một bức đen trắng vẽ Nguyễn Khuyến tay cầm chén rượu, có ghi thêm

đôi câu đối của Dương Lâm viếng ông lúc mất, và một bức tranh mầu, mặc

triều phục, do họa sĩ Hàn lâm viện Phạm Văn Lập vẽ), tượng ông Phỗng đá

từng đi vào thơ ông, là tấm sập gụ Nguyễn Khuyến vẫn thường nằm. Những

giai thoại xung quanh các kỷ vật này cũng khá lý thú. Nghe đâu Nguyễn Doãn

Đôn tuy là con người vợ thứ hai, nhưng lại được nhà thi hào đặc biệt yêu

mến, bởi ông là kết quả của một mối tình say đắm, chân thành, không phải do

bố mẹ xếp đặt. Bà vợ hai này tên là Nguyễn Thị Thục, con một ông Cai tổng,

là chị em con chú bác với bà vợ cả, Nguyễn Khuyến quen biết và gắn bó từ

trước khi có vợ. Người thiếu nữ ấy cũng nặng lòng yêu ông. Nhưng suốt một

thời gian dài họ không lấy được nhau vì ông nghèo, lại chưa đỗ đạt gì nên bố

mẹ thiếu nữ không thuận. Tuy vậy, bà vẫn bền lòng chờ đợi cho đến khi ông

đỗ. Ông vừa đỗ xong là bà chủ động đòi hỏi bố mẹ cho mình được về với

ông. Không may, về sau bà lại mất trước người vợ cả. Trong mấy bài thơ

Nguyễn Khuyến khóc vợ, có một bài “Khóc người vợ chôn nơi đất khách” (Lữ

thấn khốc nội) có lẽ là nói về bà này:

Đầu bạc cùng nhau, hẹn đã lầm,

Hơn năm xa cách hóa trăm năm.

Hồn ơi, gọi có về chăng tá?

Mình nhỉ, thương ai phải xót thầm…

Đi đâu mà mới “hơn năm xa cách” đã hóa thành “người thiên cổ”? Ta

chưa rõ. Nhưng ta biết chắc rằng chính mối tình nồng mặn đó là cái duyên

khiến cho các kỷ vật của nhà thi hào được lưu lại ở gia đình Nguyễn Doãn

Đôn và còn hiện diện với chúng ta ngày nay.

Vào đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, ông Nguyễn Tốn Dự và gia

đình trở về hẳn thôn Và Hạ, tham gia Huyện ủy, làm Phó chủ tịch Ủy ban

Page 56: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

kháng chiến hành chính huyện Bình Lục. Cũng vì thế, khi giặc Pháp đến

chiếm đóng Hà Nam, đã cho đốt phá ngôi nhà của ông (cũng là ngôi nhà do

Nguyễn Hoan xây). Cũng may là từ đường Nguyễn Khuyến vẫn an toàn.

Nhưng rồi hòa bình lập lại, phong trào cải cách ruộng đất tràn đến Bình Lục,

ông Dự đi ở tù, vườn tược, nhà thờ càng hoang phế. Cho đến gần cuối

những năm 50, ông Dự được phục hồi, cùng gia đình trở về lại Hải Phòng, thì

vườn Bùi đành nhờ bà Nguyễn Thị Đà (con gái Nguyễn Hoan) coi giữ. Khi bà

Đà sắp mất lại giao lại cho Nguyễn Đức Hùng là con Nguyễn Hữu Tuân (con

trai thứ Nguyễn Hoan) tiếp tục trông nom. Đến nay, người con trai cả ông

Hùng là Nguyễn Thanh Tùng vẫn tiếp tục ở lại vườn Bụi, mặc dù sở hữu

chính thức từ lâu đã thuộc gia đình ông Nguyễn Tốn Dự. Từ đường Nguyễn

Khuyến tuy trải nhiều phong sương, ngày nay vẫn chưa mất hết phong vị cổ

kính. Đôi câu đối sơn son thếp vàng treo ngay mặt trước: Hồng Sơn chi ngoại

uất giai khí – Vị thủy chí kim thành Đại giang (Hồng Sơn đất ngoại kết tụ được

khí tốt – Vị thủy đến nay đã thành sông lớn) là của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn,

bạn đồng niên, đề tặng nhà thơ.

Hẳn có người sẽ hỏi: Vị thủy ở đây là nói đến con sông nào? Xin lưu ý,

Vị Thủy chứ không phải Vị Hoàng. Đây là con sông chảy từ phía sông Sắt qua

đồng làng Và Thượng đến Và Hạ qua trước đình Và, xuôi về phía Cầu Họ.

Thuở Nguyễn Khuyến được Nguyễn Xuân Ôn tặng câu đối “Vị Thủy chí kim

thành đại giang” là thuở sông Vị còn là một con sông tương đối lớn, thuyền

đinh, thuyền buồm chở mắm muối, chở hàng họ còn tấp nập ra vào buôn bán

ở chợ Và – chợ gần sát khu đình Và ngày nay. Chợ Và thì họp ở đấy, nhưng

đến ngày 24 tháng Chạp hàng năm lại kéo ra giữa đồng thuộc khu đất cao

rộng phía trước nhà Nguyễn Khuyến họp lấy may,cầu yên (vì cho là không

họp thì làng xã không yên!). Do đó mà chợ này có tên là chợ Đồng. Chợ Đồng

rất đông vui, hấp dẫn cả vùng Yên Đổ. Trước ngày 24, lều quán được dựng

lên san sát. Cả vùng chuẩn bị hàng họ, cả vùng nô nức sắm sanh đi chợ

Đồng – chợ Tết!

Page 57: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Theo lời truyền lại thì chợ Đồng là phiên chợ họp để tưởng nhớ ngày

Quang lượng hầu hành quân thảo khấu qua đây, nhân dân đã đem quà cáp

lương thực ra úy lạo tướng sĩ.

Nếu điều ấy mà đúng thì chợ Đồng quả là một tục lệ giàu nghĩa tình,

một biểu hiện có tính truyền thống trong đời sống tinh thần của nhân dân

vùng Yêu Đổ. Cùng với tục lệ họp chợ Đồng, nhiều làng ở vùng này còn có

tục lệ đuổi chim cuốc ngày mồng hai, mồng ba Tết. Mồng hai “động hiệu” –

các bô lão cùng một đám dân đinh mang chiêng, cồng ra đánh một chặp báo

hiệu cho cả làng chuẩn bị. Sáng mồng ba chiêng, cồng, trống, mõ nhất tề nổi

lên, náo động, tất cả một người đổ xô ra đồng, nơi có đầm đìa, lùm bụi, bờ ao

chân tre, khua đập, hò hết cho những chú cuốc kinh hoàng rời chỗ ẩn nấp lao

ra. Một chú cuốc, có khi hàng bốn năm chục người thục mạng lao theo, bất kể

ao sâu, đầm rộng. Ai bắt được con đầu tiên trong buổi săn này sẽ được trọng

thưởng. Con đầu tiên ấy gọi là con “chim tiên” hoặc là “tiên cầm”. Lệ làng là

phải bắt cho được ít nhất ba con. Ba con có ba giải nhất, nhì, ba. Chim cuốc

được giữ lại để mồng năm giết thịt cúng thánh. Thịt cuốc được chia đều cho

nam đinh, mỗi người trong bữa cỗ chỉ được một miếng thịt cuốc to không quá

hạt đậu xanh!

Tục đuổi cuốc đem lại cho làng xóm một không khí hào hứng, sôi nổi.

Nó có sức hấp dẫn lớn, đến Nguyễn Khuyến cũng hăm hở vào cuộc:

Tạc nhật văn la phù trượng khởi,

Tiên cầm dĩ dữ ấp nhân khu.

(xuân nhật hữu cảm).

“Tiên cầm” chứ không phải “tiền cầm” và phải dịch là: Hôm qua nghe

hiệu cồng, chống gậy đứng lên, ta đã cùng người làng đi đuổi bắt con “tiên

cầm”, chứ không phải như những nhà làm sách bấy nay vẫn phiên âm và dịch

nghĩa.

Tục săn cuốc phải chăng có nguồn gốc từ việc xưa kia dân vùng này đã

phối hợp cùng binh sĩ của Quang lượng hầu tiễu trừ giặc “Cuốc Đen”? Phải

Page 58: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

chăng nó như một trò diễn để ôn lại chuyện xưa, bồi bổ tình cảm hàm ơn nhớ

nghĩa đối với cha ông?

Tục thi thơ và “nếm rượu tường đền” là một tục lệ khác nữa rất đáng

chú ý của xã Yên Đổ. Trước ngày họp chợ Đồng là ngày tế thánh ở văn chỉ

(nơi thờ Khổng Phu Tử). Văn chỉ nay đã bị phá hủy, chỉ còn trơ nền đất và

dấu vết ở phía Bắc chùa Và. Các bậc văn nhân, sĩ tử cả vùng đều về họp

mặt. Từ khi Nguyễn Khuyến cáo lão về thì ngày này là ngày trang trọng nhất

và ý nghĩa nhất: sau lễ tế thánh, bao giờ cũng có tổ chức cuộc thi thơ và bình

thơ. Những bài thơ được mọi người tán thưởng thì được giải. Những người

được giải còn được thêm cái vinh dự là được mời đi cùng các bô lão và các

bậc khoa mục ra chợ Đồng nếm rượu. Giữa chợ Đồng có một ngôi đền.

Tường đền phía Nam được ưu tiên dành cho những người bán rượu. Họ ngồi

dọc chân tường tránh gió bấc và cũng để đoàn nếm rượu đỡ bị rét, nên mới

gọi là “nếm rượu tường đền”. Người bán rượu và khách nếm rượu đều rất

hào hứng vì hai bên đều “có lợi”. Rượu ai được chọn là rượu ngon nhất, sẽ

được làng xã mua tế thánh đầu xuân và tất nhiên sẽ rất đông khách, rất chạy

hàng. Do đó ai đã có rượu bán ở chợ Đồng, cũng cố làm rượu cho ngon, và

không sợ tốn rượu khi phải tiếp cả một đoàn khách đến nếm! Cho đến những

năm cuối đời Nguyễn Khuyến thì chợ Đồng và tục thi thơ, nếm rượu cũng dần

dần thưa vắng. Câu thơ “Hàng quán người về nghe xáo xác - Nợ nần năm

hết hỏi lung tung” báo cái điềm tan rã của chợ Đồng sau đó, và câu “Nếm

rượu tường đền được mấy ông?” như một lời vọng hởi chua xót, cho thấy cái

cảnh vắng vẻ, tẻ ngắt của đám văn nhân, sĩ tử tham dự cuộc thi thơ trong

những ngày tục lệ này đang đi đến chỗ cùng đồ mạt vận.

Xã Yên Đổ, văn vật nhất vẫn là đất làng Và. Và Hạ có họ Nguyễn Tông

lừng lẫy, có Tiến sĩ Nguyễn Tông Mại, Hoàng giáp Nguyễn Khuyến, Phó bảng

Nguyễn Hoan, Hương cống Nguyễn Tông Hán. Và đã nên kể thêm ấm Thuần

con thứ Nguyễn Khuyến chưa? Ông này học hành thông tuệ hơn Nguyễn

Hoan nhưng không chịu theo đường cử tử mà lại chuộng võ nghệ, giao du với

những khách giang hồ võ hiệp, nên đương thời đã có nhiều tai tiếng. Nghe

Page 59: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

rằng sau theo dư đảng Bãi Sậy, bị bắt rồi chết thế nào chưa ai rõ. Gia đình

cũng không mấy người dám nhắc đến ông vì cái kết cục còn quá lờ mờ của

ông. Cũng lại nghe rằng Nguyễn Khuyến có một bài thơ, nhưng chưa ai sưu

tầm được hoàn chỉnh, trong đó có câu:

Ngô tử như Thuần hiếu hĩ tai!

Nhất niên tam độ khóa binh lai…

(Con tớ như Thuần hiếu lắm thay,

Một năm ba bận lính còng tay).

Khen hay chê đây? Sự thể ra sao còn phải đợi thời gian trả lời.

Và Hạ còn có họ Lê, có Tú tài Lê Xuân Thục, anh rể Nguyễn Khuyến,

có kép nhân Lê Hải Chân, học trò Nguyễn Khuyến rất hay thơ. Trò trẹt chi bay

ngủ cạnh thầy là bài của kép nhân.

Và Hạ còn có những người đáo để như mụ Hậu Cẩm. Từng làm cai

thầu khoán đắp đê ở Thanh Hóa, phu của mụ đánh bạc bị Tri phủ bắt giam,

mụ xui phu đình công và vu cho Tri phủ đánh đập dân phu để ăn tiền. Tri phủ

bị đổi đi nơi khác. Mụ từng lấy chồng có con rồi lấy Tây Cẩm để nuôi cho con

ăn học chữ Tây ra làm Thông phán. Có con trai rồi, vẫn mua hậu để sau khi

chết được thờ cúng ở chùa. Năm mươi tuổi ở nhà quê, mụ vẫn mặc váy đầm,

đi giày cao gót, đội mũ, cầm ba–toong. Dân sợ và quan cũng kiềng mặt mụ,

chẳng kém chi mụ Tư Hồng. Ở làng Nãi Văn, gần quê Yên Đổ, có Bát Soạn

(còn gọi là Hàn Soạn) nhà nghèo, đi mót khoai, ném cát vào mắt người ta để

cướp khoai, bị người ta lùng đánh, bỏ chạy ra thành phố ăn nhờ, ở đợ, cầu

bơ, cầu bất, làm thợ xẻ, rồi một bước nhảy lên làm thầu khoán, chạy được

chân Nghị viên Bắc Kỳ. Nhữnn nhân vật “người hùng” của một thuở bát nháo

như Hậu Cẩm, Tư Hồng, Bát Soạn… đều là những nhân vật đi vào thơ, văn

Nguyễn Khuyến.

Và Thượng cũng là mạch đất văn vật. Ở đây lừng danh có họ Đặng. Họ

Đặng này là dòng dõi của Đặng Ma La, Trạng nguyên (đời Trần), và Đặng

Chất, Đặng Trần Thường (thế kỷ XVIII – XIX). Cô nội Nguyễn Khuyến lấy

Page 60: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Đặng Huy Mật (Và Thượng) làm Huấn đạo Thanh Bình. Bà cô này đã cho

Nguyễn Khuyến 15 quan tiền trong chuyến Nguyễn Khuyến đi thi rồi đậu

Hoàng giáp mà giai thoại đã nhắc đến.

Nguyễn Khuyến học hành được cũng phải kể đến sự giúp đỡ, bù trì của

bà cô, ông chú và những người anh em con cô con cậu họ Đặng này. Đặng

Tự Ý là con Đặng Huy Mật, và là em con cô con cậu với Nguyễn Khuyến, vốn

là một thầy đồ nổi tiếng. Chống gậy lên nhà bác Đặng chơi là nói về ông này.

Họ Đặng còn nhiều ông đồ, nhiều người học hành giỏi.

Hiếu học và tôn sư trọng đạo là một truyền thống của đất này và của cả

Bình Lục nói chung, xưa đã vậy mà nay cũng vậy.

6. PHẢ HỆ NGUYỄN KHUYẾN

Bên cạnh những nét chính về làng quê Yên Đổ, nơi thi hào từng gắn bó

và sáng tác thơ văn, thiết tưởng cũng cần có một vài thuyết minh bước đầu

về phả hệ của ông. Việc làm này, một mặt hy vọng bổ sung thêm đôi điều cụ

thể cho những công trình về Nguyễn Khuyến trước nay như: Tam nguyên

Yên Đổ của Hoàng Ý Viên, Sài Gòn, 1957; Nguyễn Khuyến, nhà thơ Việt Nam

kiệt xuất của Văn Tân, Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, 1959 và Thơ văn Nguyễn

Khuyến, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội (in hai lần 1971 và 1979)… Mặt khác,

qua việc trình bày bảng thế thứ này chúng tôi cũng muốn điều chỉnh lại một

quan niệm tồn tại đã lâu nay khi nghiên cứu về một tác giả nào đó thường

quá nhấn mạnh đến thành phần giai cấp, thành phần xuất thân của tác giả đó

mà ngược lại, xem nhẹ một yếu tố cũng không kém phần quan trọng là tính

truyền thống, sự nối tiếp về dòng dõi, tông tộc, huyết thống mà nhiều khi

chính nó mới đóng vai trò quyết định…

***

Trước hết, nói về họ nội Nguyễn Khuyến.

Ở đây, cứ liệu gần như duy nhất của chúng tôi là cuốn Nguyễn tộc tiểu

tông phả. Cuốn phả chép hoàn toàn bằng chữ Hán và đầu sách có hai lời tựa.

Lời tựa thứ nhất do con cháu họ Nguyễn là Giáo thụ phủ Hà Trung Nguyễn

Page 61: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Tông Kính viết vào năm Gia Long thứ 11, tức năm 1812 (Gia Long thập nhất

niên… nhĩ tôn Hà Trung phủ Giáo thụ An bình tử Nguyễn Tông Kính cẩn tự).

Lời tựa thứ hai do chính Nguyễn Khuyến viết vào năm đầu tiên của niên hiệu

Thành Thái, tức năm 1889 (Thành Thái nguyên niên, thập nguyệt, thập ngũ

nhật, huyền tôn Tân mùi khoa Nhị giáp tiến sĩ tam nguyên, nguyên Quang lộc

tự khanh quyền lý Sơn–hưng–Tuyên Tổng đốc Nguyễn Khuyến tự). Và trong

lời tựa sau này, Nguyễn Khuyến cũng viết rõ: sách có phần chép của Nguyễn

Tông Kính, mà ông đã sao ra từ “cựu phả”, còn lại là phần do ông “tục biên”.

Phần Nguyễn Tông Kính chép tính từ Hồng Nhan công đến Phúc Hà

công như sau:

1– Hồng Nhan công

Ông vốn người Nghệ An, gặp nạn binh hỏa lưu ngụ đến thôn Vị Hạ, xã

Yên Đổ, huyện Bình Lục.

2– Từ Duyên công

Ông làm quan triều Mạc, được phong Quang lượng hầu. Sau khi mất,

lại được phong là Cao Minh đại vương, dân có lập đền thờ.

3– Chính Đức

Vợ họ Nguyễn, hiệu là Từ Thuận. Từ ông Chính Đức trở lên phả chép

tên 6 vị “liệt tổ” nhưng cũng chua thêm là: “vị tường”, tức chưa rõ (cả về hành

trạng lẫn ngày, tháng, năm mất), cũng chưa thể biết được các vị này là mấy

đời.

4– Trực Tính

Con ông Chính Đức. Mất ngày 3 tháng Tám.

5– Vô Sự

Mất ngày 27 tháng Mười. Vợ họ Đoàn, hiệu Từ Tại, mất ngày 2 tháng

Mười.

6– Phúc Thọ

Page 62: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Con ông Vô Sự. Mất ngày 16 tháng Năm. Vợ họ Lê, hiệu là Từ Ninh,

mất ngày 25 tháng Tám.

7– Phúc Hà

Con ông Phúc Thọ, hiệu là Chân Đức, phả chép là tiên tổ của chi thứ

họ Nguyễn, mất ngày 28 tháng Tám. Ông có ba vợ: bà vợ cả họ Tô, mất ngày

22 tháng Ba; 2 bà vợ thứ: một bà họ Trần, hiệu là Diệu Toàn, mất ngày 16

tháng Giêng và một bà họ Nguyễn, hiệu là Từ Quang, sinh được 5 người con

là: Công Kiêm, Cụ Xã, Đình Tướng, Viết Khuê.

Đến đây là hết phần Nguyễn Tông Kính chép. Phần tiếp theo Nguyễn

Khuyến chép nối từ ông Phúc Hà như sau:

8– Công Kiêm

Con ông Phúc Hà. Ông Công Kiêm được tính là “Ất chi đệ nhất thế

khảo”. Ông sinh được 3 người con trai là: Tông Hán, Tông Mại, Bá Phấn và 1

con gái: Nguyễn Thị Hồ.

9– Tông Mại

Được ghi là: “Đệ nhị thế” hiệu là Thận Trực, thụy là Trung Chính. Ông

đỗ Tiến sĩ đời Lê (khoảng niên hiệu Vĩnh Hưu, 1735 – 1740), làm quan đến

Hiến sát sứ Thanh Hóa, được tặng Hàn lâm viện thị độc Lỵ phương bá.

Sinh được 4 con trai là: Tôn Khuông, Tôn Thiệu, Tông Tích, Tôn Thế và

3 con gái.

10– Tông Tích

Ông là con trai thứ 3 của ông Tông Mại, được coi là “Đệ tam thế”. Năm

Thành Thái thứ 7 được tặng phong: “Triều liệt đại phu Hàn lâm viện thị giảng

học sĩ”. Sinh được 1 trai là Tông Khởi và 5 gái.

11– Tông Khởi

Con ông Tông Tích, “Đệ tứ thế”, hiệu là Thản Tề, thụy Ôn Tĩnh. Hành

trạng của ông được chép kỹ lưỡng hơn cả. Ông sinh năm Bính thìn (1796), đi

học, đi thi đỗ 3 khoa Tú tài vào các năm Minh Mệnh thứ 6 (1825), Thiệu Trị

Page 63: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

thứ nhất (1841) và Tự Đức thứ 5 (1852). Sau lần đỗ cuối cùng chỉ một năm,

ông bị thương hàn và mất (1853). Năm Tự Đức 34 (1881) được phong tặng

Hàn lâm viện thị độc và năm Thành Thái thứ 6 (1894) lại được tặng phong là

Trung nghị đại phu thái bộc tự khanh. Kết duyên cùng bà Trần Thị Thoan ở

làng Ngòi (Văn Khê, Ý Yên) năm Bính tý (1816), sinh ra Nguyễn Khuyến và 5

con gái.

12– Nguyễn Khuyến

Từ Nguyễn Khuyến trở lên, cộng được cả thảy khoảng hơn 10 đời. Các

năm sinh, năm mất của các đời đều không thấy ghi, mà chỉ ghi được ngày,

tháng mất kể từ đời ông Trực Tính. Qua cuốn phả, người đọc cũng thấy tình

cảm đặc biệt của Nguyễn Khuyến đối với cha mẹ. Nhất là với người mẹ –

người đóng vai trò quyết định trên con đường khoa cử, công danh của ông.

Cũng qua phần chép về cha, mẹ ông mà có thể khôi phục được một số tư liệu

cần thiết như: cuốn gia phả nói đến việc hiếu của mẹ Nguyễn Khuyến đối với

bố chồng vào năm Gia Long thứ 16, tức cũng cho ta biết được năm mất của

Thị giảng Nguyễn Tông Tích là năm 1817; hay ông bác Nguyễn Khuyến –

người chép lời tựa đầu của cuốn phả chính là thầy dạy của Tế tửu Vũ Lý

v.v… Từ đó có thể suy ra: Nguyễn Tông Kính là người đồng hàng với Nguyễn

Tông Khởi và cả hai đều là thế hệ sau của Nguyễn Tông Tích.

Tuy thế, bản sao cuốn phả rất cần được đối chiếu lại với bản chính và

cũng cần có sự giám định về mặt chuyên môn để có được độ tin cậy cao hơn.

Hơn nữa, các thế hệ tạm được dựng lại như trên cũng đòi hỏi sự bổ khuyết

rất nhiều để người đọc ít ra cũng có thể thấy các thế hệ đó được tiếp nối một

cách liên tục như thế nào?

Phần tiếp theo dưới đây, được dựng lại từ bản chép tay bằng chữ quốc

ngữ của ông Nguyễn Đức Hùng - cháu gọi Nguyễn Khuyến là cụ nội. Bản này

chép bắt đầu từ Phó bảng Nguyễn Hoan, mục đích là để con cháu nhớ ngày

giỗ:

13– Nguyễn Hoan

Page 64: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Con trai cả Nguyễn Khuyến, sinh năn Mậu ngọ (1858), mất năm Mậu

thân (1908), đỗ Phó bảng, làm Tri huyện Nam Xang. Cùng thế hệ với ông còn

có: Nguyễn Thuần, Nguyễn Thị Duy, Nguyễn Hữu Lộc (Nguyễn Điềm?),

Nguyễn Thị Búp, Nguyễn Doãn Đôn, Nguyễn Khắc, Nguyễn Cát.

14– Nguyễn Hữu Tuân

Con thứ 4 của Nguyễn Hoan, vì các anh ông là Nguyễn Du, Nguyễn

Thanh Đàm hoặc không có con trai, hoặc không có con nên ông được thừa

tự. Cùng thế hệ này còn có các bà Nguyễn Thị Đà, Nguyễn Thị Sửu.

15– Nguyễn Đức Hùng

Con thứ 2 của ông Nguyễn Hữu Tuân, người thờ phụng Nguyễn

Khuyến trong nhiều năm, mất năm 1989. Trên ông là bà Nguyễn Thị Trâm,

mất năm 1982.

16– Nguyễn Thanh Tùng

Con cả ông Nguyễn Đức Hùng, sinh năm 1944. Hiện ông đã về nghỉ

hưu và trông nom toàn bộ khu Từ đường Nguyễn Khuyến đã được nhà nước

xếp hạng.

Chúng tôi tạm đưa ra một bảng phả hệ sau đây:

Hồng Nhan phủ quân

Từ Duyên công Quang lượng hầu

Chính Đức phủ quân

Trực Tính phủ quân

Vô Sự phủ quân

Page 65: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Phúc thọ phủ quân

Phúc Hà công

Cụ Xã Đình Tướng Công Kiêm Viết Khuê

Tông Hán Tông Mại Bá Phấn

Tôn Khuông Tôn Thiệu Tông Tích Tôn Thế

Tông Khởi

Nguyễn Khuyến

Nguyễn Thuần Nguyễn Hoan Nguyễn Doãn Đôn

Nguyễn Hữu Tuân Nguyễn Tốn Dự

Nguyễn Đức Hùng

Nguyễn Thanh Tùng

***

Nhưng sẽ là thiếu sót khi chỉ nhắc đến họ nội của ông. Như trên đã nói,

Nguyễn Khuyến đặc biệt yêu kính và biết ơn bà mẹ của mình, vậy dòng phả

của họ mẹ ông ra sao? Tuy phần về bà Trần Thị Thoan được chép tương đối

kỹ, nhưng phần chép về họ ngoại trong Nguyễn tộc tiểu tông phả, lại khá sơ

lược. Người ta chỉ biết được bà Thoan là con gái thứ 4 của một ông sinh đồ

Page 66: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

triều Lê tên là Tập mà thôi! Ngày 29 tháng IV năm 1994, tại làng Ngòi, thôn

Văn Khê, xã Yên Trung, huyện Ý Yên (Nam Hà), chúng tôi may mắn gặp

được hai nhân chứng quan trọng là: 1– Ông Trần Văn Phúc, tuổi Sửu (sinh:

1937) là trưởng tộc họ Trần và hiện đang trông nom từ đường của họ này,

cũng như ông Nguyễn Thanh Tùng bên họ nội Nguyễn Khuyến; 2– Ông Trần

Văn Tăng, cũng tuổi Sửu (sinh: 1925), là chú họ của ông Phúc người đang

biên chép gia phả của các chi. Đặc biệt, chúng tôi có dịp được sao dập

nguyên văn một tấm bia với nhan đề Trần tộc bi ký. Tấm bia đá này khổ 40cm

x 76cm được gắn ở tường hồi phải nhà từ đường. Bia do ông Trần Đình Siêu

và vợ là bà Lê Thị Viễn cùng trưởng tộc Trần Văn Triệu tạo dựng năm Bảo

Đại thứ 2 (Đinh mão, 1927). Tiếp xúc với văn bia và hai nhân chứng trên đây,

chúng tôi tạm thời khôi phục lại một thế thứ bên họ ngoại của Nguyễn Khuyến

như sau:

1. Đời thứ nhất: Văn bia ghi “Cao cao tổ khảo” Trần Hữu Thành, thụy

Nghĩa An, mất ngày 25 tháng Giêng. Đỗ đệ tam giáp Tiến sĩ triều Lê, làm

quan với nhà Mạc, chức Đề hình giám sát ngự sử. Ông vốn quê ở làng An

Hạ, huyện Đại An (nay là xã Yên Đồng, huyện Ý Yên), sau chuyển tới làng

Đùng (nay thuộc xã Liêm Sơn, huyện Thanh Liêm, Nam Hà). Đến đây, lấy bà

Tô Thị Tu và sinh được 2 người con là Trần Hữu Thực, Trần Phúc Khánh.

2. Đời thứ 2: Trần Hữu Thực (ông này ở lại làng Đùng và là tổ của họ

Trần ở đó). Còn ông Trần Phúc Khánh, vợ họ Nguyễn, hiệu Từ Lượng, theo

cha sang làng Ngòi (Văn Khê, Hoàng Xá, tức xã Yên Trung hiện nay) và trở

thành tổ họ Trần ở đây.

3. Đời thứ 3: Các con của ông Trần Phúc Khánh là: Trần Công Trạch

(vợ họ Nguyễn, hiệu Từ Thanh), Trần Công Trạc (ông này không có con thừa

tự) và Trần Phúc Thuận (ông Thuận chuyển sang làng Phường, tức làng

Phương Hưng cạnh Văn Khê).

4. Đời thứ 4: Trần Hữu Tốt, tự Đức Quang, vợ họ Nguyễn, hiệu: Từ

Liêm (con ông Công Trạch). Ông Phúc Thuận sang làng Phường có 2 con là

Page 67: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Hữu Chiêu và Hữu Tập. Ông Hữu Tập từ làng Phường về lại làng Ngòi để

hưởng thừa tự ông Công Trạc và sinh bà Trần Thị Thoan ở đây.

5. Đời thứ 5: Các ông Trần Hữu Can, Trần Ngọc Chấn (tự Trung Hậu),

Trần Văn Tuyên (đều là con ông Hữu Tốt), riêng ông Ngọc Chấn trước có tên

là Hữu Thời; 3 bà con gái và 2 ông: Trần Thố, Trần Vĩ cùng bà Trần Thị

Thoan là con ông Hữu Tập.

6. Đời thứ 6: Các ông Trần Ngọc Trác, Trần Hữu Thiềng, Trần Ngọc

Thanh, Trần Đình Trung (con ông Ngọc Chấn). Ông Trần Phiên (con ông Trần

Vĩ).

7. Đời thứ 7: Trần Văn Đoán (con ông Ngọc Trác); Trần Ngọc Thăng,

Trần Ngọc Suốt, Trần Ngọc Đỉnh, Trần Đình Siêu (người cùng vợ lập tấm bia

năm Bảo Đại thứ 2) đều là con ông Đình Trung.

8. Đời thứ 8: Trần Văn Triệu (con ông Văn Đoán, là trưởng tộc mà ông

Đình Siêu lập bia như đã nói); Trần Văn Tặng (mất: 1954, con ông Ngọc

Thăng); Trần Kim Kính (con ông Đình Siêu, mất: 1951, có đi thi Hương đời

Thành Thái).

9. Đời thứ 9: Trần Văn Phả (con ông Văn Triệu); Trần Văn Tăng (con

ông Văn Tặng, là 1 trong 2 nhân chứng).

10. Đời thứ 10: Trần Văn Phúc (con ông Văn Phả, là 1 trong 2 nhân

chứng).

Cũng như với họ nội Nguyễn Khuyến, chúng tôi tạm đưa ra một phả hệ

sau với họ ngoại của ông, và không coi đó là những bảng phả hệ cuối cùng.

Rất hy vọng những bảng phả hệ đó sẽ được làm sáng tỏ hơn trong các lần tái

bản sau này.

Từ các phả hệ trên về họ nội và họ ngoại của nhà thi hào có thể đưa ra

một phả hệ rút gọn như sau:

Page 68: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

7. NGUYỄN KHUYẾN TRONG BỐI CẢNH VĂN HÓA XÃ HỘI VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XIX – ĐẦU THẾ KỶ XX

Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến là bậc đại Nho, đại quan triều Tự

Đức ở cuối mùa quân chủ – Nho giáo Việt Nam. Ông cáo quan – hay từ quan

– và về “hưu non” giữa tuổi 49 tại làng quê cha miền chiêm trũng xứ Sơn

Nam ở đầu mùa thực dân – đô hộ Pháp. Như một người đều biết, ông là một

bậc thi bá của Tao đàn Việt Nam (cả Hán cả Nôm), một nhà thơ lớn giàu lòng

yêu nước, phẩm chất cao quý, bảo trọng khí tiết mà cam chịu sống nghèo, rất

cận nhân tình và là nhà thơ của dân tình, nhà thơ của làng cảnh đồng quê

tam giác châu Bắc Bộ, của sắc thu, tiếng thu đất Việt, một nhân cách thi sĩ

bản lĩnh tuyệt vời với một bản sắc thơ độc đáo, hội hòa kỳ lạ chất bác học với

chất dân gian.

Gia tộc Nguyễn Khuyến vốn gốc xứ Nghệ di cư ra miền chiêm trũng xứ

Sơn Nam Hạ. Vùng quê nghèo, mà gia cảnh cũng nghèo.

Đấy là một gia đình có dòng dõi Nho học, ít nhất là 5 đời: ông tổ bốn

đời đậu Tiến sĩ, cha là ông đồ – ông tú mền; mẹ là con gái cụ sinh đồ, bản

thân ông theo học Nho từ tấm bé, rồi vừa dạy Nho vừa học Nho, thi đi thi lại

rồi đậu tới Tam nguyên, con trai ông cũng còn học Nho, đậu Phó bảng. Nhìn

chung, cả hai bên nội ngoại là nhà Nho nghèo. Đó là cội rễ. Nguyễn Khuyến:

uy thế tinh thần ở trên Dân (nông dân) – vì là Sĩ, tầng lớp sĩ phu – nhưng mà

sống không xa Dân mà gần Dân, thân Dân, mức sống như dân cày nghèo

nhưng lối sống (thi tửu) thì là của nhà Nho… Hơn ba mươi năm đầu đời ông,

hơn hai mươi năm cuối đời ông, mức sống và lối sống là như thế. Khoảng

giữa đời, hơn chục năm làm quan trong triều, ngoài tỉnh thì mức sống có khá

hơn, lối sống phải theo quan cách nhưng chắc rằng dù đã từng mặc triều

phục đại quân, ông chưa bao giờ có tác phong quan dạng. Ông có bức chân

dung mặc triều phục, còn lưu lại, nhưng bức ảnh phổ biến của ông trên mọi

sách vở mấy chục năm nay thì mới đích thực là ông, trong khăn áo nhà Nho,

tay trái cầm chén rượu hạt mít. Ông thuận tay trái, đó là điều xưa nay chưa ai

viết ra…

Page 69: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Thử đem bản tử vi của ông, với giờ ngày tháng năm sinh do chính ông

viết trong Gia phả (giờ Tý ngày 18 tháng Giêng năm Ất mùi, 1835) đối chiếu

với ảnh chân dung ông và với cuộc đời ông, sẽ thấy có nhiều điều phù hợp:

người đẹp, dong dỏng cao, dáng vẻ đàng hoàng, tài hoa – phong nhã hào

hoa – có phần ốm yếu, cũng có chút sơ cuồng; vợ con nhiều, bè bạn nhiều,

mà vẫn cô đơn…

Ông sinh ra dưới triều Minh Mạng, một thời quân chủ độc chuyên, Nho

giáo độc tôn. Có thể mô hình hóa cái chế độ quân chủ – Nho giáo ấy như sau:

Ngôi vua cha truyền con nối, có vẻ là đấng chí tôn. Nhưng vua cũng có

thể từ dân mà ra, theo cái kiểu “Được làm VUA, thua làm GIẶC”. Thời Minh

Mạng đã từng có “VUA” như thế ở xứ Sơn Nam Hạ:

Trên trời có ông sao tua,

Ở dưới hạ giới có vua Ba Vành

Quan từ Dân mà ra, như quan văn thì chủ yếu qua các kỳ thi cử Nho

giáo, ai đậu sẽ được làm Quan, ai hỏng vẫn là Dân, dù đứng đầu Tứ Dân (là

Sĩ). Mất Quan thì trở lại làm Dân, mặc dầu cáo quan về làng như Tam nguyên

Yên Đổ thì, như ông nói: Quan chẳng quan thì dân. Lối sống từ ngàn xưa của

dân Việt là: SỐNG Ở LÀNG. Đỗ đạt ra làm quan, như Nguyễn Khuyến, thì

sau đó: SANG Ở NƯỚC, nhưng khi mất quan hay cáo quan về hưu (trí sĩ) thì

lại quay về “sống ở làng”.

Làng Việt đã được nhiều học giả trong, ngoài nước để tâm nghiên cứu,

đặc biệt gần đây Trần Từ đã lên mô hình cấu trúc tổ chức, có phân hai giai

tầng, giàu nghèo, sang hèn, song sự phân hóa chưa bao giờ triệt để. Chỉ ở

miền Nam Bộ “đất mới” mới xuất hiện hẳn hoi một tầng lớp đại điền chủ.

Nhưng bấy giờ đã ở cuối mùa quân chủ, đầu mùa thực dân! Ở đồng bằng

Bắc Bộ đất trồng ít, người rất đông, nên chỉ có một ít tiểu địa chủ mà vẫn

sống lối sống tiểu nông và sự chuyển hóa địa chủ – nông dân là rất thường

xảy ra trong phạm vi vài đời (sáu, bảy chục năm):

Ai giầu ba họ,

Page 70: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Ai khó ba dời.

Trong cái biển làng xóm tiểu nông của người Việt ấy, được khuôn vào

mô hình Quân chủ – Nho giáo, ngoài quan hệ họ hàng (nguyên lý: cùng dòng

máu) còn có quan hệ hàng xóm láng giềng (nguyên lý: cùng chỗ cư trú). Theo

nguyên lý cùng quyền lợi (vật chất, tinh thần) có tổ chức Phe (tư văn/ tư võ),

Phường(phường thợ, phường chèo)… có một tổ chức nổi trội là Giáp, vốn có

gốc gác cùng địa vực và là hội đàn ông, sau đã chuyển thành tổ chức thuần

túy theo lớp tuổi, theo nguyên lý trọng xỉ (tuổi tác) mà lớp cao nhất là lão.

Làng Vị Hạ quê ông Tam nguyên, 60 tuổi lên lão nhưng 55 tuổi đã vào

ban lão. Mà lên lão thì cũng ra lão, “xuất lão vô sự” theo chữ của Tam nguyên

Yên Đổ là thuộc “bậc ăn dưng”. Chuyện hàng giáp (làng ông có 2 giáp Đông/

Đoài, người giáp nọ gọi giáp kia là “giáp bên người”) là do lớp tuổi kề dưới lão

phụ trách (lềnh, trưởng). Một vế câu đối Thú quê của Yên Đổ viết:

Quan chẳng quan thì dân, chiếu trung đình ngất ngưởng ngồi trên, nào

lềnh, nào trưởng, nào bàn ba, tiền làm sao, đóng góp làm sao, một năm mười

hai tháng thảnh thơi, cái thủ lợn nhín thầy đà nhẵn mặt.

Dưới (hay cuối) chế độ quân chủ – Nho giáo, ở làng quê Việt, bên

nguyên lý trọng xỉ thì do sự can thiệp liên tục của triều đình trung ương từ thời

Lê, đến Nguyễn, đã xuất hiện và ở thế đối lập với nó là nguyên tắc trong

tước: “Chưa đỗ ông Nghè, đã đe hàng tổng”. Nguyễn Khuyến đã đỗ ông

Nghè, được vua Tự Đức ban cờ biển “Tam nguyên” “ân tứ vinh quy”, ông phải

được cả hàng tổng đi đón rước, làm nhà, ông có quyền “chiếu trung đình ngất

ngưởng ngồi trên”, có quyền ăn “thủ lợn”, “miếng giữa làng”…

Giữa vùng chiêm trũng quê nghèo mà nhà ông có “chín sào vườn”, “ao

nửa mẫu” thì, so với dân làng, đã thuộc loại “mát mặt”… Ở cái xã hội làng quê

Việt cổ truyền như quê ông, trong đám dân làng thường nổi bật lên ba nhân

vật:

– Ông Nghè (hay ông Cử, ông Tú) đứng đầu phe Tư văn, có uy thế tinh

thần với dân làng (dân quê kính trọng người “hay chữ”, hay đến “xin chữ” các

Page 71: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

cụ, cho con cái “kiếm dăm bảy chữ thánh hiền”, xin câu đối, xin chữ cất nóc

nhà v.v… và có uy quyền xã hội với đám cường hào trong làng (đứng đầu Hội

đồng kỳ mục (tiên, thứ chỉ), có danh vọng liên làng (một vùng) và siêu làng

(cả tỉnh, cả nước).

– Ông bá, ông chánh (đại diện đám cường hào) thực sự có “ruộng cả

ao liền”, bóc lột và trấn áp dân lành.

– Ông lý kẻ đương chức, thường trực Hội đồng kỳ mục, điều hành công

việc làng, nhưng thường xuất thân trung nông, đứng giữa các phe phái

cường hào trong làng, là kẻ đóng vai trò “thầy dùi”, “đâm bị thóc chọc bị gạo”

để “tồn tại” và phát huy uy quyền, dù vẫn bị cảnh “trên đe dưới búa” (nhân vật

trung gian giữa Quan và Dân).

Cáo quan về quê, “cụ Tam” (Tam nguyên), cụ “Hoàng Và” (Hoàng giáp

làng Và) không – hoặc rất ít – sử dụng uy quyền cụ Nghè – đại quan mà lại

sống gần Dân, đi lại thăm hỏi Dân, trò chuyện với Dân, dạy học cho con cái

Dân dù bản thân vẫn có quan hệ thông gia với Cai tổng (một vợ của cụ là con

Cai tổng). Đó là một trường hợp đặc biệt, một Cụ Nghè cáo quan về ở quê,

đặc biệt cụ đóng vai trò “phỗng đá”, “giả điếc”, “mù lòa”, “mẹ Mốc”, “gái goá”,

”rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”…

Tam nguyên Yên Đổ “tắm nhân dân” và mệnh cụ có “Thiên lương” (Bon

Sens) và sao “Văn xương”, “Văn tinh” chiếu (khiếu văn chương thiên bẩm)

đều đạt đến nơi đến chốn. Cái đó khiến cụ trở thành Nhà thơ Nôm kiệt xuất,

chữ nghĩa là những viên ngọc dũa mài trong sáng…

Trong xã hội tiểu nông Việt mà nguyên lý tối cao và tột cùng là khuynh

hướng Duy Hòa (Extrême tendance au Compromis), HÒA CẢ LÀNG, thì dù

Lê Thánh Tông hay Nguyễn Minh Mạng có ý định và tuyên bố độc tôn Nho

giáo, bản sắc tư tưởng Việt Nam vẫn là sự dung hòa tam giáo, khoan dung

tôn giáo. Triều đình và sĩ phu cực đoan có chuyện kỳ thị Công giáo, coi Thiên

chúa giáo là “tà (tả) đạo”. và có chuyện đàn áp, “sát tả” (cả Đình nguyên Tiến

sĩ Phan Đình Phùng) và đáng tiếc thay, nó lại tạo điều kiện thuận lợi cho thực

dân lợi dụng, sử dụng giáo sĩ và giáo dân trong công cuộc chinh phục thực

Page 72: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

dân, đô hộ thực dân. Nhưng ở làng xóm Việt, đình Nho, văn chỉ Nho vẫn song

song tồn tại cùng chùa Phật, quán Đạo, đền Mẫu và biết bao miếu đền khác

của tín ngưỡng dân gian…

Nguyễn Khuyến là bậc đại Nho nhưng vẫn chống gậy nhiều lần tới

thăm chùa Đọi, chùa An Lão, chùa Non Nước… (di tích cũng đồng thời là

danh thắng), hỏi chuyện sư, làm thơ vịnh sư, đọc sách Chu Dịch, với nhiều

bài thơ thấm đẫm tinh thần Lão – Trang…

Ba bài Vịnh thu của Nguyễn Khuyến là biểu tượng của sự Hòa điệu –

nhân hòa, thiên hòa – là cái “Hương xưa”, là cái “Thanh bình mong manh”,

“thanh bình như bóng trưa đơn sơ” của làng quê đất Việt…

Đó là cái Tình, cũng là cái Trì trệ của Văn hóa xóm làng. Nhưng cái

Động làm nên bản sắc của thời đại Nguyễn Khuyến lại là công cuộc chinh

phục/ chống chinh phục thực dân, đô hộ/ chống đô hộ thực dân, làm rung

động cả chế độ vua – quan cả nước, cơ cấu “hòa cả làng” của xóm quê cả

nước… Đấy là một thời bi đát, bi kịch của cả làng – cả nước, bắt đầu một thời

kỳ chính trị – văn hóa quá độ, mà ta có thể mô hình hóa như sau:

TRUYỀN THỐNG VUA QUAN NGHÌN XƯA VĂN HIẾN

ĐÔ HỘ

THỰC

DÂN

KHỞI NGHĨA

CÁCH MẠNG

GIAO THOA

ĐÔNG TÂY

HỘI NHẬP

ĐỔI MỚI

CHÍNH TRỊ VĂN HÓA

Page 73: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Về chính trị, ở thời đại Nguyễn Khuyến “vấn đề hàng đầu là sự tồn

vong của đất nước”. Triều đình, tổ tiên ta đã để mất nước cho thực dân Pháp.

Có vua “chủ hòa” và vua “yêu nước” có “hòa ước” và có chiếu “Cần vương”.

Có “đầu hàng” và có “xướng nghĩa”, “kiến nghĩa bất vi vô dũng dã”. Có “Việt

gian” và có, “anh hùng”. Nhưng hiệu quả cuối cùng là… THẤT BẠI.

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa!

(Mượn lời Đặng Dung đầu thế kỷ XV)

Từ sau Hàm Nghi (1885), mọi vua là bù nhìn, giữ ngôi hư vị. Mọi quan

là bù nhìn, tay sai (Đây là xét về chức năng và cơ cấu, còn về mặt cá nhân

bấy giờ và sau này vẫn có vua yêu nước, quan yêu nước).

Về thái độ chính trị, có nhiều ông Nghè, đại quan (Phan Đình Phùng,

Tán Thuật, Nguyễn Quang Bích, Tôn Thất Thuyết, ông Nghè Giao Cù Vũ Hữu

Lợi…) tạo ra cả một phong trào Cần vương chống Pháp; một số khác

(Nguyễn Thân, Nguyễn Hữu Độ, Hoàng Cao Khải, Vũ Văn Báo) theo Tây,

chống khởi nghĩa. Nguyễn Khuyến không tham gia phong trào Cần vương

nhưng cũng không ở lại ngôi quan cao. Ông chọn một thái độ thứ ba: TỪ

QUAN – VỀ QUÊ.

Với nhiều day dứt nội tâm, cố nhiên. Và hiển lộ ra bằng thơ (Quế Sơn

thi tập nhiều nhất là ở giai đoạn này, 1885–1905). Không hợp tác với giặc, đã

là yêu nước. Nhưng vẫn có mặc cảm tội lỗi, và mặc cảm ấy được giải tỏa

bằng THƠ, bằng RƯỢU (và nói cho hết lẽ, bằng cả ĐÀN BÀ nữa (Nguyễn

Khuyến 5 vợ). Giải tỏa mặc cảm, ông trở thành một nhà thơ châm biếm lớn.

Cười mình, cười người. Dùng tiếng cười châm biếm để phủ định, đưa ma CÁI

CŨ.

Thời đại Nguyễn Khuyến là một thời đại khủng hoảng toàn diện. Trước

hết và chủ yếu là khủng hoảng về hệ tư tưởng – văn hóa.

Không phải chỉ vì bởi cuộc xâm lăng của thực dân, mà còn bởi sự biến

loạn trong lòng dân tộc. Sự sụp đổ của một hệ tư tưởng, một hệ vũ trụ quan,

nhân sinh quan và ứng xử văn hóa dựng xây tự mấy mươi đời. Không phải

Page 74: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

chỉ cuộc đô hộ đã giết dần nền Hán học. Trước đó – thậm chí rất lâu nữa–

tinh thần Nho giáo đã suy đồi. Điều này chính bậc đại Nho Lê Quý Đôn đã nói,

đã phê phán từ trong ra – sự phê bình nội quan. Bởi cụ Bảng nhãn Lê Quý

Đôn cũng như cụ Hoàng giáp Nguyễn Khuyến là những đại biểu xuất sắc của

Nho gia nhưng cũng là đại biểu của tinh thần dân tộc. Đây, hình ảnh sự xuống

dốc liên tục của Nho giáo, hệ tư tưởng bệ đỡ của nền quân chủ Việt Nam:

“Từ năm Đoan Khánh (1505–1509 trở về sau; lời bàn luận sáng suốt bẵng đi,

thói cầu cạnh mỗi ngày một thịnh, người có chức vị ít giữ được phong độ

thanh liêm nhún nhường, trong triều đình không nghe có lời can gián, gặp có

việc thì rụt rè cẩu thả, thấy lúc nguy thì bán nước để toàn thân, dầu người gọi

là bậc danh nho, cũng đều yên tâm nhận sủng vinh phi nghĩa, rồi nào thơ nào

ca trao đổi, khoe khoang tán tụng lẫn nhau, tập tục sĩ phu thối nát đến thế là

cùng, tệ hại biến đổi lần này không thể nào nói cho xiết được.

Mở quốc sử trong khoảng trên dưới một trăm năm mà tìm lấy những

người gọi là cao sĩ, chỉ thấy được […] mấy người. Cao phong khí tiết lèo tèo ít

ỏi như thế, đáng cảm khái biết là chừng nào!”.

Đầu thời Nguyễn, Nho học có vẻ được phục hưng, nhưng cũng chỉ là

ánh sáng bừng lên lần cuối của ngọn đèn sắp tắt. Nho giáo và nền quân chủ

– mà nó là một biện chính về lý luận và đạo đức – đều đã ở cuối đường, cuối

mùa, nếu không phải quá mùa…

Nền đô hộ thực dân đã là một “công cụ vô thức của lịch sử” (Lời

K.Marx) nện nhát búa cuối cùng vào một con bệnh đang đợi giờ tắt nghỉ. Sự

sụp đổ của một hệ thống tư tưởng đã tạo ra một cuộc khủng hoảng:

Văn minh Đông Á trời thu sạch,

Này lúc cương thường đảo ngược ru?

(TẢN ĐÀ)

Khi Nguyễn Khuyến còn trẻ, vẫn còn đang mải miết theo nghiệp văn

chương cử tử, ở thập kỷ 60 của thế kỷ XIX, đã có nhiều nhà trí thức – mà tiêu

biểu là Nguyễn Trường Tộ – đã bao lần gửi “điều trần” lên vua và triều đình

Page 75: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Huế xin cải cách, đổi mới, nhằm biến một xã hội bế quan truyền thống với sự

độc tôn Nho giáo dần dần thành một xã hội khai phóng, nhằm cập nhật hoá

đất nước, thích ứng với xu thế phát triển của thị trường thế giới tư sản đương

thời. Nhưng vua Tự Đức già của Việt Nam đã không phải là vua Minh Trị trẻ

của Nhật Bản.

Sự đổi mới đã không diễn ra. Và kết quả là mất nước. Ông Nghè biểu

tượng của nền văn hóa giáo dục cũ, sau ba mươi năm cùng các đám dân quê

khởi nghĩa, Cần vương chống Pháp, đã hoặc bị hủy diệt, hoặc xuôi tay bất

lực, không kể một số ít “đầu hàng” Tây.

Phó bảng Trần Tán Bình của khoa Kỷ mùi, 1895 đã “tức sự” có phần ai

oán:

Đem thân khoa bảng làm tôi Pháp,

Cũng tại nhà Nho học chữ Tàu.

Tam nguyên Yên Đổ – một trong những chứng nhân, cũng lại là nạn

nhân, mà cũng có mặc cảm phạm nhân, đã đem cái danh vị hão của mình và

của giới trí thức cũ ra châm biếm bằng ẩn dụ:

Cũng cờ, cũng biển cũng cân đai,

Cũng gọi ông Nghè có kém ai.

… Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi!

Sự phê phán – và tự phê phán – từ bên trong – cái chế độ quân chủ –

Nho giáo quá mùa ấy của Tam nguyên Yên Đổ đã được đẩy lên cao:

Vua chèo còn chẳng ra gì,

Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề!

Chúng ta hiểu ngay là Nam triều từ thời Đồng Khánh trở đi chỉ uy quyền

lên giấy má, uy quyền của bù nhìn.

Page 76: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Thời ấy vẫn còn thi Nho giáo, vẫn còn ông Nghè, vẫn còn vinh quy

nhưng mà… dưới cái nhìn châm biếm và thiên tài thẩm ngữ của Nguyễn

Khuyến, thì nó ra thế này đây:

Ân tứ dám đâu coi rẻ rúng,

Vinh quy ắt hẳn rước tùng xòe.

Hạ một chữ tùng xòe, là cho đi đời cả một thể chế trang trọng ngày

xưa! Cuối cùng, ngày tàn lụi của nó phải đến, năm 1915 ở Bắc Kỳ và 1918 ở

Trung Kỳ:

Nào có ra gì cái chữ Nho,

Ông Nghè ông Cống cũng nằm co.

Đấy là sự bật gốc (déculturation) của giáo dục – văn hóa cổ truyền.

Cái mới ra đời từ những đô thị thuộc địa – là những nhân tố văn hóa

ngoại lai, ngoại sinh đang giao thoa với những nhân tố cổ truyền. Mọi giao

thoa văn hóa – ngôn ngữ ban đầu đều ít nhiều lố lăng so với cái cổ truyền đã

được tinh tế hóa. Thế là những la–ga (nhà ga), mét–xì (cám ơn), những sâm

banh, sữa bò, những hội Tây, cẩm, cò, me Tây v.v… được châm biếm hóa

qua thơ Tú Xương, Yên Đổ…

Một thời “nhăng nhố” mới – cũ với thơ mà trong đó tiếng cười nghẹn

ngào trong tiếng khóc:

Nùng Lĩnh phù vân kim cổ sắc,

Nhị Hà lưu thủy khấp ca thanh.

(Thành Thái)

(Núi Nùng mây nổi màu kim cổ,

Sông Nhị dòng trôi tiếng khóc ca).

Phải chờ đến đầu thế kỷ XX mới xuất hiện một xu hướng văn hóa –

giáo dục mới của các nhà Nho cải cách mà tiêu biểu là Phó bảng Phan Châu

Trinh, Cử nhân Lương Văn Can và nhà trường Đông kinh nghĩa thục, kể cả

Page 77: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

các nghĩa sĩ của phong trào Đông du. Yên Đổ cười cái cũ. Phan Tây Hồ cũng

tự phản tỉnh để rồi gay gắt phê phán giới Nho học cuối mùa:

Vạn dân nô lệ cường quyền hạ,

Bát cổ văn chương túy mộng trung.

(Chí thành thông thánh)

(Trong khi muôn dân làm nô lệ dưới cường quyền,

Mà giới sĩ phu cứ còn mê đắm trong văn chương sáo cổ)

Cảnh tinh để đổi mới, cụ Phan và các nhà Nho mới cắt cái búi tó cổ

truyền, được cho là biểu tượng của phong tục lạc hậu, cắt tóc ngắn như

người phương Tây, để biểu thị sự canh tân:

Phen này cắt tóc đi tu,

Tụng kinh độc lập ở chùa duy tân.

(NGUYỄN QUYỀN – Bài ca cắt tóc)

Đó là xu hướng muốn giao thoa văn hóa Đông – Tây tự nguyện, bên

cạnh các đô thị, các nhà trường Pháp – Việt… đang ở trong quá trình giao

thoa văn hóa Đông – Tây cưỡng bức.

Tam nguyên Yên Đổ vẫn còn sống đến lúc này. Nhưng ông đã già, đã

gần như ở lì tại quê hương còn chưa có gì thay đổi. Thơ Vịnh Kiều của ông

vẫn là những con chữ thần bút, nói rất ít mà hiểu đến chỗ sâu thẳm:

Có tiền việc ấy mà xong nhỉ,

Đời trước làm quan cũng thế a?

Tuy nhiên, càng ngày cuộc đời ông càng buồn bã, buồn bã như chiều

chiều uống rượu và khóc cùng Phỗng đá… Và năm Kỷ dậu, 1909, ông đã về

cõi thọ với bài thơ Di chúc nổi tiếng. Ông để lại thi tập Quế Sơn như một pho

sử tâm tư, một dấu nối trữ tình bất hủ của hai dòng văn hóa tiêu biểu cho hai

thế kỷ.

Page 78: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

8. VẤN ĐỀ XUẤT XỬ

Nói cho đúng vấn đề xuất xử ở Nguyễn Khuyến không đặt ra một cách

nôn nóng ồn ào như ở Nguyễn Công Trứ, cũng không đặt ra day dứt như ở

Nguyễn Trãi. Nguyễn Khuyến không như Nguyễn Công Trứ sống vào lúc nhà

Nguyễn mới lên, không như Nguyễn Công Trứ thị tài tin ở một sự nghiệp lẫy

lừng mà mình cầm chắc sẽ thực hiện được. Nguyễn Khuyến cũng không như

Nguyễn Trãi không đành lòng dứt áo ra về vì đằng sau còn để lại cả một sự

nghiệp to lớn đang dở dang. Nguyễn Khuyến sống vào lúc nề nếp của triều

đình nhà Nguyễn ổn định. Kẻ sĩ không có gì phải lựa chọn: trước mắt đã vạch

sẵn một con đường là học – thi đỗ – làm quan. Nguyễn Khuyến có chí quyết

khoa, đậu đến Tam nguyên nhưng hoạn lộ của ông bằng phẳng, không mấy

hiển hách. Mười hai năm làm quan thì có đến sáu năm làm ở Sử quán, một

thứ nhàn quan. Không được giao trọng trách nên ông cũng không phải trực

tiếp vật lộn đi các vấn đề gay cấn của tình trạng giặc Tây, giặc Khách, đê vỡ,

mùa mất… của thời Tự Đức. Thế rồi tình hình chuyển thành nguy kịch, Pháp

chiếm lấy Bắc Bộ. Pháp chiếm Kinh thành. Tự Đức chết. Triều đình lộn xộn,

Nguyễn Khuyến lấy cớ ốm đau, xin cáo quan về. Vấn đề đối với ông không

phải là xuất xử mà là hành chỉ. Ông đã giải quyết vấn đề đó một cách nhanh

gọn. Ông tự cho mình như thế là dũng thoái, ra về dứt khoát, nhẹ nhàng

không dùng dằng, mất nhiều thì giờ. Chọn con đường rút lui, Nguyễn Khuyến

cũng có cân nhắc, suy nghĩ nhưng vấn đề đặt ra để tính toán là tình thế và

sức lực, là mình với kẻ khác, là bản thân với gia đình:

Mười mấy năm qua ấn với thao,

Thân này nong dược đức vua yêu.

Việc nhiều, hay ốm, đành hưu vậy,

Ngày ngột lần ăn, chửa nỗi nào.

Giúp nước, bạn bè còn lại đó,

Về nhà, con cháu chắc hiền đâu?

Từ đây ngất ngưởng ngồi nâng chén,

Page 79: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Lại sợ làm nhơ sử sách sao?

(Cảm tác)

Bạn bè còn ở lại và họ chèo kéo cùng ở lại nhưng theo ông đã già lại

đau ốm, không đủ tài đủ sức để chống giặc, cứ bám lấy một chức quan là

tham lam:

Vô tài cự khả khinh đầu bút,

Hữu dục an năng bất sỉ bào?

(Bắc quy lưu giản tại Kinh chư đồng chí)

(Bất tài há dám xem nhẹ việc vứt bút theo quân,

Còn ham muốn, sao cho khỏi thẹn với tấm áo?)

Chưa chắc con cháu đã hoan nghênh việc cáo quan, nhưng lẽ nào lại

có thể để thẹn với áo xiêm, để nhơ với sử sách?

Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là

Ông có cớ để nói với mọi người, hơn thế có cớ để nói với lương tâm,

cho nên cũng có cớ để xin vua:

Nguyện phóng Uyên Minh tam kính hoàn

(Sơ chí Đà Tấn phụng tông đường sự chư quân)

(Xin tha cho Uyên Minh về với ba luống cúc)

Không phải thiếu ơn tri ngộ. Cũng không phải gặp vua hôn ám, tôi gian

nịnh. Nhưng thời thế loạn, không hành được thì tàng. Lẽ xuất sử của thánh

hiền cho phép ông yên tâm làm Đèo Tiềm “trồng ba rặng cúc”, ngắm “năm

cây liễu”. Nguyễn Khuyến tự coi mình theo gương người xưa làm người ẩn

dật.

Cảnh về nhà có pha chút ngậm ngùi, không thật hồ hởi, náo nức như

trong Quy khứ lai từ nhưng cũng khá vui vẻ, đầm ấm:

Cổng reo trẻ đón: ông về đó,

Page 80: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Gậy chống già chào: bác đấy a?

(Hoàn gia tác)

Cho đến năm, sáu năm sau khi đã về quê, Nguyễn Khuyến hình như

vẫn yên tâm. Ông nói về thú ẩn dật rất đắc ý:

Ta về năm, sáu năm nay,

Bảy gian nhà ở tháng ngày ung dung.

Tây nam có lạch nước trong.

Cúi xem đàn cá vẫy vùng sớm trưa.

Đông bắc tre mọc đầy bờ,

Rạng ngày hơi mát thoáng đưa song đào.

Nào khi chống gậy ra vào,

Khi ngồi tựa ghế, thấp cao mặc lòng.

Khi vui chuốc chén rượu nồng,

Có khi hào hứng mươi chung chẳng từ.

Lại thêm gạo mới ngọt lừ,

Lại thêm rau hái vườn nhà thơm tho.

Gọi con giở sách bi bô,

Xa xôi nhớ đến đời vua Toại, Hoàng.

(Hạ nhật ngẫu thành)

“Gò núi quê ta thật đẹp thay” (Vũ hậu xuân túy cảm thành). Chưa cần

không gian rộng rãi đến thế, chỉ cái vườn nhỏ cũng đã cung cấp cho nhà thơ

ẩn dật biết bao thú vui!

Nguyễn Khuyến thường nói đến thú uống rượu. Nhà thơ nói “chỉ có

rượu là thích”, say sưa suốt ngày, say đến nói lảm nhảm, quên cả đầu đuôi,

say khướt rồi lại ngâm thơ, ngâm chán rồi lại say, say cho đến thấy “nhật ảnh

hy vi nhất dạng hoàng” (ánh nắng lờ mờ chỉ một sắc vàng). Khi hào hứng

Page 81: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

uống liền mười chén, và còn muốn uống cả ba trăm chén như ông tiên Lý

Bạch, nhưng trong thơ Nguyễn Khuyến không có cái giọng say sưa của Lý

Bạch. Nhiều khi nhà thơ thiếu rượu, nhiều khi ngồi uống một mình, nhà thơ

thấy mất cả vui. Nguyễn Khuyến không dùng chén rượu phát tiết cái hào

hùng, cuồng phóng mà nhà thơ dùng nó như một phương tiện “áp muộn, bài

ưu” (dẹp lo, nén buồn). Nhà thơ ước có được thứ rượu Trung Sơn, uống say

tít để:

Tỉnh ra hỏi đã thái bình chưa?

(Thoại cựu)

Thú vui của người ẩn dật không phải ở say hay nhờ say mà quên. Thú

vui của họ là sống thích chí, tự do, không cần quan tâm, không bị ràng buộc.

Muốn thế cần có cuộc sống vắng vẻ, cần sự cô độc. Cô độc không thể thành

cái thú, nhưng cô độc đem lại tự do và tự do đem lại thú vui. Ngày xưa chỉ

cần ra khỏi con đường công danh – dầu là ở triều đình hay ảnh trẻ – thì đã có

sự vắng vẻ. Nông thôn vốn lặng lẽ, ít không khí bon chen danh lợi, ít giao tiếp

lễ nghi phiền phức; không cần tìm đến non quạnh, rừng sâu cũng đã vắng vẻ.

Trong bài Gửi bạn Nguyễn Khuyến viết:

Nước non man mác về đâu tá,

Bè bạn lơ thơ mấy người.

Đời loạn đi về như hạc độc,

Tuổi già hình bóng tựa mây côi.

Vắng vẻ, cô độc và buồn chứ không vui. Không vui vì thiếu bè bạn,

thiếu bè bạn chứ không phải vắng người. Trong bài Túy ông ngâm, Nguyễn

Khuyến kể chuyện một ông lão say hầm hầm đến, nói toàn giọng say nhè

nhưng cái chỗ mất mối lợi thì nói rất tỉnh. Nhà thơ giải thích khuyên can thế

nào cũng không nghe và không chịu về đi cho! Nguyễn Khuyến kết thúc bài

thơ:

Phân hào chi lợi vị túy đắc,

Page 82: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Thế đạo nhân tâm chân khả ai!

Thỉnh ông tự ngôn, ngã tự ẩm,

Ông khứ, ngã túy, thùy tương sai!

(Việc lợi dù chỉ một phân, một ly cũng không say [quên] được,

Lòng người, thói đời thật đáng thương!

Vậy xin ông cứ nói, ta cứ uống,

Đến khi ông đi thì ta đã vay, không ai trách ai nữa).

Tiếp xúc với người không phải là đồng đạo, là tri kỷ – những kẻ không

say được với những cái lợi có thể là to hơn mớ rau con cá – thật là mệt. Nhà

thơ tự nói:

Lão hưu mạc hận thân bằng thiểu,

Bành Trạch tương tri chỉ tố cầm.

(Xuân nhật)

(Tuổi già về nghỉ chớ phàn nàn về chỗ ít bè bạn,

Ông bành trạch xưa chỉ thân với một cây đàn không dây).

Đàn không dây! Tiếng đàn còn tránh huống chi tiếng người! Người ẩn

dật tìm sự cô độc nhưng với ý thức coi sự cô độc là thú vui. Nhiều người tìm

thú vui ở thiên nhiên, làm bạn với khe suối, với cây thông, hòn đá. Những vật

vô tri ấy, đối với họ mới là bè bạn hữu tình, thân thiết. Nguyễn Khuyến, như

chính nhà thơ nói, bình sinh cũng đã đi du ngoạn nhiều, nhưng oại thơ núi

non, sông hồ của ông ít ý vị ấy đắm. Lúc đã về hưu, sống ở quê nhà phần vì

già yếu, phần vì loạn lạc, đi lại nhiều phiền phức, cuộc sống ẩn dật của ông

thu hẹp lại trong lóm làng.

Nguyễn Khuyến làm rất nhiều thơ về nông thôn. Sống lâu, quen thuộc

và sống hết mình nên nhà thơ phát hiện ra nhiều nét sâu sắc của cảnh thú

nông thôn, từ cảnh đồng ruộng, xóm thôn đến tình nghĩa họ hàng, làng nước.

Page 83: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Ông hòa mình vào cuộc sống đó sâu sắc đến mức nhìn thấy cả bông hoa

thập thò hé nở, hạt lúa mẩy thêm khi đón giọt mưa. Và cũng trong cuộc sống

như vậy, người ẩn dật trong ông phát lộ đầy đủ:

Là là mặt đất lớp sương sa,

Ánh sáng ban mai vẫn mập mờ.

Hạt quất ngoài vườn chờ nứt vỏ,

Giò tiên trong chậu chửa bung hoa.

Đầm đìa lệ sớm, cành tre rủ,

Lạc lõng canh khuya, tiếng hạc qua.

Ấm chỗ chẳng buồn tung áo dậy,

Cửa ngoài vẫn mở, khách chừng thưa.

(Xuân nhật)

Trời còn rét. Ban mai cũng chỉ mới bắt đầu. Người đã tỉnh nhưng còn

tiếc rẻ, ngại rời chỗ ấm. Không chỉ người mà cả hạt quất dưới đất, giò hoa

trong chậu, hạt móc đầu cành – cả muôn vật - đều đang trong trạng thái tiếc

rẻ, lười nhác. Tất cả im lìm, tạo thành một khối ngưng đọng. Khách không có

và cổng cũng đã mở sẵn, khỏi phải lo mở cửa, đón khách. Chả còn gì có thể

phá được cái thú vắng vẻ, nhàn rỗi, lười nhác ấy nữa.

Người ẩn dật đổi tất cả công danh lợi lộc chỉ mong có được chút thoải

mái tự do của riêng mình. Đào Tiềm không muốn để tâm làm tôi tớ cho thân.

Nguyễn Khuyến ca tụng cái thú tùy thích, chính là đi tìm cái tự do như vậy.

***

Nguyễn Khuyến theo gương Đào Tiềm làm người ẩn dật và sống sâu

sắc cái thú của người ẩn dật nhưng ông không vui mãi được cái thú của Đào

Tiềm. Muốn sống cái vui đó cần đến sự yên tĩnh, sự yên tâm mà cả hai điều

đó, dần dần Nguyễn Khuyến thấy mình đều thiếu.

Page 84: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nguyễn Khuyến ẩn dật trong một hoàn cảnh không bình thường. Điều

kiện không giống như trước. Nước loạn là vì quân giặc cướp và chiếm đất

nước. Quan lại nhiều người hoặc vì không tỉnh táo dứt dây hoặc vì tham lam,

hèn nhát mà ở lại; họ tiếp tục làm việc cho giặc. Nhưng không ít những người

khác bỏ về, dựng cờ khởi nghĩa, chống quân xâm lược. Họ đã lấy cái chết để

giữ đạo nghĩa. Đào Tiềm chỉ giữ một chức Huyện lệnh, ơn vua không dày

nặng là bao. Còn bản thân ông đậu đến Tam nguyên, ơn tri ngộ là vào loại

đặc biệt. Trước trách nhiệm tựu nghĩa, ông không chọn “đầu bút” mà chọn

“dũng thoái”. Nhưng ra về không hợp tác với giặc, không để danh lợi vướng

víu cũng là nghĩa. Hành động như thế không phải là không có chỗ để so sánh

với những người liều chết:

Nhược vi thảng thốt lâm nghi dị,

Đáo đắc thoan tuần biện diệc nan.

(xuân dạ liên nga)

(Nếu như thảng thốt mà xông vào chỗ chết thì còn dễ,

Nhưng dùng dắng mà quyết chết được thực là khó).

Phong trào kháng chiến của những người Cần vương nhanh chóng tan

vỡ nhưng cuộc sống của đất nước lại phát triển khác với cách ông tưởng.

Thực dân Pháp ổn định được tình hình. Vua mới được lập. Nhà Nguyễn vẫn

tồn tại. Nề nếp học hành, thi cử được khôi phục nhanh chóng: Chính quyền

của thực dân bất đầu khai thác thuộc địa: mở mang buôn bán, làm đường

giao thông, xây dựng đô thị… Những bọn hãnh tiến giàu sang bốc lên. Xã hội

thích nghi với cuộc sống mới.

Trong giới khoa bảng – tiêu biểu cho Đạo học và cũng là môi trường

quen thuộc mà nhà thơ có nhiều bạn bè – bày ra một cảnh hỗn độn, xô bồ.

Những người chống Pháp hoặc đã bị giết hoặc đã bị tù. Những người ở lại

cộng tác với giặc nghênh ngang võng lọng mà vẫn không mất danh nghĩa.

Trước là bạn ông, nay họ vẫn tự coi là bạn ông. Họ rủ rê, biếu xén quà cáp,

lôi kéo ông ra làm với họ. Ông không phải là người chống Pháp, giữa ông và

Page 85: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

họ chỉ khác một bên về hưu và một bên chưa về hưu. Lẽ xuất xử của ông

thành ra không minh bạch, “chim âu trắng” vẫn có chỗ để nghi ngờ, chê cười.

Với chính quyền mới, kinh tế hàng hóa, đô thị phát triển,nhiều người

xuất thân từ tầng lớp cặn bã của xã hội ngang nhiên thành kẻ thượng lưu. Họ

cũng tìm đến ông. Họ nhờ ông dạy học, xin ông cho chữ. Trong con mắt mọi

người, Tam nguyên Yên Đổ là bậc hưu quan hay chữ. Họ không ngần ngại gì

mà không nhờ ông viết văn bia ca tụng người cộng tác với giặc. Chữ cũng đã

thành hàng mua bán, có đắt có rẻ, có mặc cả cò kè. Tất cả quấy rối ông như

đàn muỗi:

Ta say vừa buồn ngủ,

Muối quay không cho nằm.

Gió quạt xua lại đến,

Bên tai réo ầm ầm.

(Văn)

Dù hết sức bực bội, ông cũng không có cách gì tìm ra mảnh đất yên

tĩnh, xa lánh được họ. Sợi dây của chính quyền thực dân xiết chặt chứ không

lỏng lẻo như của vua quan. Nhà thơ mỉa mai:

Pháp mật vị văn oa cổ cấm,

Phú phiền do hạnh túy hương khoan.

Ức gia nhi)

(Pháp luật tuy nghiêm mật, vẫn chưa nghe nói cấm ếch

kêu,

Thuế tuy nhiều thứ, may còn tha cho làng say).

Không cấm được ếch kêu chứ người thì chịu nhiều trói buộc. Không

đánh thuế người uống rượu chứ thuế thân, thuế chợ, thuế ruộng, thuế trâu thì

nặng nề. Nguyễn Khuyến thấy rõ cảnh nghèo túng. Khi ra về ông nói chỉ cần

một bữa cơm nên dầu mất bổng lộc cũng khó khăn gì. Nhưng về sống ở một

Page 86: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

vùng thôn quê hay hạn, lụt, mất mùa lại chịu sưu thuế nặng, dăm bảy sào

ruộng khó lòng chu cấp đủ. Không những “rặng cúc cười cái hũ không” mà

cuộc sống thực sự là eo hẹp:

Sớm trưa muối cho qua bữa,

Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.

(Chốn quê)

Không còn là nền kinh tế tự túc, tự nhiên như xưa để thiên hạ dễ an

bần lạc đạo. Nền kinh tế hàng hóa tăng nhanh sự cách biệt giàu và nghèo làm

con người mất thuần phác. Cảnh yên lặng của xóm làng bị xáo động. Chính

quyền thực dân, kinh tế hàng hóa không bỏ sót một mảnh đất nào cho nhà

thơ sống đời Toại Hoàng. Nguyễn Khuyến không yên thân mà cũng không

yên tâm được.

Không yên thân được quả là khổ, mà không yên tâm được lại còn khổ

hơn. Trước sự quấy rầy của ngoại cảnh, nhà thơ đã đối phó bằng cách “Đắp

tai ngoảnh mặt làm ngơ – Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây” (Mẹ Mốc),

thậm chí với cả thủ đoạn giả điếc “sáng tai họ, điếc tai cày” (Anh giả điếc).

Nhiều trường hợp ông chống đối, tự bộc lộ một cách ngang nhiên, có khi khá

thách thức.

Ta không thấy đầy đủ tâm tư của Nguyễn Khuyến khi nghĩ đến những

người kháng chiến. Trong một số bài ít ỏi như Độc La Ngạn Đỗ Đình nguyên

từ Bắc phiên thư hay Văn tế Lã Xuân Oai, ngoài chuyện công nhiên tụng việc

chống Pháp, hình như ta còn bắt gặp một chút thảng thốt của tác giả. Nói

chung ta không thấy tác giả hối hận về sự lựa chọn ẩn dật.

Nhà thơ cười với cái nghèo, nói một cách thú vị về công việc dạy con,

đọc sách và làm thơ. Ông sống những thú vui của người xưa và tự hào thấy

mình giữ được như người xưa.

Nhưng sau đó, chắc là không lâu, không những bạn bè ra làm quan mà

con ông – người con mà qua nhiều bài thơ ta biết ông rất yêu thương – cũng

đi thi, đậu đại khoa và ra làm quan. Con học giỏi và đậu đại khoa là điều

Page 87: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nguyễn Khuyến mừng và tự hào – mừng và tự hào như mọi nhà Nho. Nhưng

làm quan thì ông không vui. Ông nói với con những lời chí tình.:

Ngã dĩ từ quan nhĩ tố quan.

(Xuân nhật thi tử Hoan)

(Ta đã từ quan, con lại ra làm quan)

Ông khuyên con có vì nghèo mà làm quan thì cũng đừng quá hăng hái,

đừng tham lợi, phải chú ý nới tay với dân, đừng mong làm quan to. Nhưng

con ông cũng thành một ông quan như mọi ông quan khác chứ có nghe ông

đâu. Không ai vui lòng làm Bá Di cả (Thiên hạ nguyên vô song Bá Di), cả con

ông cũng vậy. Nhà thơ thấy buồn và xấu hổ:.

Tự kiến nhi lang năng tác quận,

Toại linh thử lão bất đề thi.

(Ngẫu tác)

(Từ khi thấy cậu con lên làm chức quận,

Khiến cho già này không làm thơ nữa).

Không phải Nguyễn Khuyến bỏ việc làm thơ nhưng có một loại thơ nào

đó đối với ông quả khó lòng hạ bút.

Đọc sách cũng là một thú vui của ông, Đạo học, lời dạy thánh hiền,

gương cổ nhân là chỗ dựa tinh thần của nhà thơ. Đối với nó tuy từ lâu ông

cũng đã thấy không ích gì cho thời cuộc, nhưng ông vẫn đọc và khuyên con

học. Đó là nghiệp nhà không thể bỏ. Khi về hưu Nguyễn Khuyến thường tự

chế giễu mình là đồ vô dụng, bất lực, là ông lão ăn dưng, không làm được

tích sự gì, chỉ chờ có cỗ thì chống gậy ra đánh chén. Thế nhưng ông vẫn đọc

sách thánh hiền, tự chế giễu là ngoan cố nhưng không bỏ. Nhưng rồi cả việc

đó cũng làm ông xấu hổ:

Không có lịch, biết đâu mà ghi được Giáp Tý?

Kẻ thù còn đó, chưa dám đọc kinh Xuân thu.

Page 88: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(Xuân nguyên hữu cảm)

Trước kẻ thù đã không theo được nghĩa Xuân thu thà báo thù, lại cũng

không có cách biểu lộ thái độ bất khuất không thừa nhận. Ông tâm sự với

Dương Khuê, người bạn thân của mình:

Tôi biết bác vì cha mẹ, phải làm quan kiếm tấm lụa,

Bác biết tôi nghèo phải làm quan kiếm đấu gạo.

Cái chí tầm thường chỉ cốt đủ no ấm,

Sao dám cao giọng bàn chuyện người xưa.

(Ký phỏng Dương Thượng thư)

Nhà thơ ước ao làm hòn đá trơ vì còn lương tâm thì còn khổ. Lương

tâm, cái làm mình tự hào, người bênh vực cho hành vi của mình lại thành cái

vướng. thành người chê trách mình. Không yên tâm được nên cũng không

làm Đào Tiềm được. Trước cảnh trời thu lồng lộng, có đủ trăng trong, gió mát,

có đủ hoa chim, mây khói, nhà thơ chứa chan thi hứng, nhưng không dám cất

bút đề thơ vì lòng thẹn với người ẩn dật, thẹn với ông Đào.

Ẩn dật theo lẽ xuất xử hai đường là cách lựa chọn thái độ sống của nhà

Nho. Lựa chọn theo cách đó phải có tiền đề là một thể chế chính trị – xã hội

cho phép con người quan niệm mình không có trách nhiệm với xã hội – hoặc

trách nhiệm đó thuộc về vua, hoặc cá nhân là cứu cánh – đồng thời có hoàn

cảnh kinh tế tự túc, có thể sống biệt lập, ít có liên quan với kẻ khác. Trong

hoàn cảnh đất nước bị xâm lược, người dân không thể cho trách nhiệm mình

nhẹ đến thế; nền kinh tế hàng hóa càng phát triển thì sống biệt lập là không

được. Nguyễn Khuyến sống dằn vặt là vì thực tế đã đổi khác, không còn

giống như thời các ẩn sĩ xưa.

Xuất hay xử là lý thuyết của Nho giáo. Nhưng với người ẩn dật, lý luận

Nho giáo không cung cấp đủ thức ăn tinh thần. Nho giáo không cho họ triết lý

để sống cô độc, không cho họ nhìn ra cái đẹp của tự nhiên mà vui thú, nhìn ra

cái vô nghĩa của cuộc đời để xa lánh, thây kệ, yên tâm hưởng an nhàn.

Page 89: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Những người ẩn dật thường tìm những chỗ thiếu thốn đó ở Trang Tử.

Nguyễn Khuyến cũng dùng nhiều câu chữ rút từ Trang Tử, có khi khen Trang

Tử nói đúng:

Trang đồ khởi thị hoang đường ngữ,

Thả khán “Tiêu dao” đệ nhất thiên.

(Ngẫu thành, I)

(Sách Trang đâu phải hoang đường cả,

Hãy đọc “Tiêu dao” đệ nhất thiên).

Thế nhưng chỉ có Tiêu dao du thì vẫn chưa gỡ được ràng buộc của

cuộc đời. Mà Nguyễn Khuyến thì không những gắn bó với cuộc đời mà còn

chưa dứt được cả đạo lý nhà Nho:

Muốn bỏ Thi Thư học Lão Trang,

Cha ông truyền thống bỏ sao đang.

(U sầu)

Không quên Thi Thư vì gắn bó với đời, vì gắn bó với cuộc sống. Đó là

chỗ làm ông day dứt, khổ sở. Đó cũng chính là chỗ làm thơ ông có hơi thở

của cuộc sống và tạo nên giá trị bất hủ của thơ ông.

***

Vấn đề xuất xử chính là cái dằn vặt Nguyễn Khuyến, dai dẳng gần ba

mươi năm cuối đời. Từ trong nhà tù, Nguyễn Xuân Ôn viết cho Nguyễn

Khuyến:

Thế lộ vị bình, phu tử tại

(Đường đời chưa bằng phẳng, phu tử còn lại đó)

Chỉ còn lại đó thôi nhưng là có quan hệ đến đất nước, đến Nho phong,

sĩ khí. Một lời nói, một hành động của ông đều có ảnh hưởng lớn. Cho nên

những cái làm cho ông thành ra không minh bạch so với lẽ xuất xử đã khiến

ông hết sức khổ tâm. Lẽ xuất xử là cái ông dùng để nhìn người và nhìn mình.

Page 90: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nếu như chúng ta nhìn ra được nhiều nét về tâm hồn ông thì chính là do sự

dằn vặt trước lẽ xuất xử như vậy.

9. MỘT TÂM TRẠNG BI KỊCH

Tính bi kịch trong thơ trữ tình không chỉ là sự buồn thảm. Các nhà thơ

xưa kia, nhất là những nhà thơ lãng mạn, thường hay nói về nỗi đau khổ,

tuyệt vọng trong tình yêu, về sự chán đời, hoặc sự bất lực của tuổi già, sự

sầu muộn trước cái chết mà không một ai tránh khỏi… Nhưng thơ ca chỉ thật

sự có tính bi kịch khi nó thể hiện một mâu thuẫn lớn trong tâm trạng nhà thơ,

một mâu thuẫn không tài nào khắc phục nổi khiến cho cảnh ngộ của nhà thơ

lâm vào bi đát. Và khi bi kịch ấy không đơn thuần là bi kịch cá nhân, bi kịch

của một người chỉ nghĩ đến mình, mà là xuất phát từ mối quan tâm sâu sắc

của nhà thơ đối với cuộc đời thì ý nghĩa xã hội của bi kịch lại càng rất lớn, tạo

nên giá trị chủ yếu trong tác phẩm của các nhà thơ vĩ đại như Đantê (Dante

Alighieri), Đỗ Phủ, Nguyễn Du, Cao Bá Quát…Tất nhiên, giới hạn trong phạm

vi một chương mục nói về tiểu sử Tam nguyên Yên Đổ, ở đây chúng ta chưa

chú ý nhiều đến ý nghĩa thẩm mỹ của giọng điệu bi kịch trong thơ Nguyễn

Khuyến mà trước hết hãy dùng thơ Nguyễn Khuyến để soi rọi cho tấn bi kịch

trong cuộc đời nhà thơ.

Vậy bi kịch trong cuộc đời Nguyễn Khuyến qua hành trạng và thơ ca

hiện ra như thế nào?

Có thể nói, cho đến lúc thi đỗ rồi làm quan, cuộc sống của ông Tam

nguyên làng Và này còn có mục đích, mặc dầu ông cũng chẳng tha thiết gì

lắm với việc làm quan:

Đẩu mễ, quân tri ngã chi bần,

Tầm thường sở chí tại ôn báo.

Hà cảm dao dao đàm cổ nhân!

(Ký phỏng Dương Thượng thư)

(Bác biết tôi nghèo, phải làm quan kiếm đấu gạo,

Page 91: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Cái chí tầm thường chỉ cốt đủ no ấm.

Đâu dám cao giọng bàn chuyện người xưa!)

Nhưng tuy không tha thiết, ông vẫn coi đây là một con đường lập thân

nghiêm chỉnh, có lý tưởng, chứ hoàn toàn không có ý định lợi dụng địa vị để

vinh thân phì gia. Đấu gạo mà ông kiếm được phải là đấu gạo trong sạch. Thế

mà khi đã có thể dễ dàng lên tới đỉnh cao của vinh sủng cá nhân, nghĩa là làm

đến hàng Tổng đốc, thì ông lại quày quả xin cáo quan trở về. Bi kịch bắt đầu

từ đây. Vì sao như vậy?

Trước hết có lẽ là tình thế rối ren trong nội bộ triều đình nhà Nguyễn.

Cho đến khi vua Tự Đức chết (1883), nguy cơ mất nước đã là một ám ảnh

nặng nề, song dẫu sao cũng chưa thành sự thật. Trong một phạm vi nào đó,

triều đình còn giữ được chủ quyền. Nhưng rồi kế ngay sau cái chết của Tự

Đức là một loạt những thay đổi, phế lập triền miên. Dục Đức bị truống, những

tưởng Hiệp Hòa lên kế vị là người có chí bài Pháp, thì vừa lên ngôi, Hiệp Hòa

lại quay lại mạt sát Tự Đức, không cho phát tang, mặt khác giũ hết trách

nhiệm thua giặc cho các quan và tướng ở chiến trường đang cầm cự với giặc.

Tình hình trở nên căng thẳng và khó xử đối với các quan “cố mệnh”, khiến

Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường lại phải hạ bệ Hiệp Hòa, đưa Kiến

Phúc lên ngôi. Không khí chính trị trong triều vốn đã nặng nề, càng thêm căng

thẳng. Không khí đó sẽ tác động vào tâm lý khắp hàng ngũ quan lại, không

trừ một ai. Nhưng với những người gắn bó với ân sùng triều đình chưa phải

là nhiều, lại vốn không coi làm quan là cứu cánh duy nhất, thì tự tác động hẳn

có phần sâu sắc. Đối với Thuyết và Tường, Nguyễn Khuyến vẫn được tin cậy,

bằng chứng là ông đã được đề cử làm Phó sứ sang nhà Thanh cáo tang và

xin phong Kiến Phúc, bên cạnh viên Chánh sứ Lã Xuân Oai, Tuần phủ Cao

Bằng – Lạng Sơn. Nhưng hai vị quan cố mệnh này cũng không thể biết đích

xác trong lòng cụ Tam nguyên đang nghĩ gì. Đùng một cái, do dự phản bội

của Tuy lý vương và phe đảng của ông ta, thông tin cho phía Pháp, nên Pháp

đã can thiệp và cuộc đi sứ bị bãi bỏ. Lấy cớ ấy, Nguyễn Khuyến về quê nghỉ.

Page 92: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Thế rồi, năm 1884, Pháp chiếm Hưng Hóa. Viên đại thần ở Bắc Kỳ là

Nguyễn Hữu Độ đề cử luôn Nguyễn Khuyến làm Tổng đốc Sơn Tây. Nguyễn

Hữu Độ là tay chân đắc lực của Pháp nên Thuyết và Tường tuy bắt buộc phải

cho Độ làm Tổng đốc Hà – Ninh nhưng đã hạ y xuống hàm quan lại hạng bét

tức là “tòng cửu phẩm”. Sắc phong cho Độ có ghi rằng: “Nguyễn Hữu Độ,

tòng cửu phẩm, lĩnh Hà – Ninh Tổng đốc”. Trong tình hình đó, nếu Nguyễn

Khuyến nhận làm Tổng đốc thì có khác gì tự nguyện làm việc cho Pháp, thậm

chí làm tay sai cho Độ? Dễ hiểu ông đã không nhận chức và lại vào Kinh. Tuy

nhiên lúc bay giờ, tâm trạng kẻ sĩ ở Kinh đô lại còn phân hóa dữ dội hơn so

với lúc Nguyễn Khuyến ra đi. Hiệp ước Patơnốt (Patenôtre) đã ký kết vào

tháng VI–1884, triều đình cơ hồ không còn một chút thực quyền nào cả. Mặt

khác, sự bất đồng đã làm cho một vài chí sĩ hăng hái nhất như Nguyễn Xuân

Ôn, Phan Đình Phùng… kẻ trước người sau đều bị lột bỏ chức tước mà trở

về quê cũ. Nguyễn Khuyến tự xét thấy cũng không thể nán lại thêm một ngày

nào. Nhưng ông lại không thể chọn con đường đầu quân chống giặc, hay nuôi

chí đợi thời để chống giặc như nhiều sĩ phu thuở ấy. Trước mắt ông chỉ có

một lối thoát: đó là trở về đúng theo nghĩa đen của hai từ đó – nghĩa là trở lại

cảnh sống của một thư sinh chân yếu tay mềm hệt như khi còn mang nợ sách

đèn. Không hề có những giấc mộng “múa kiếm dưới trăng” và cũng không vò

xé lòng mình đến tái tê như Nguyễn Thượng Hiền khi về biệt thư Na Sơn ở

ẩn, thế nhưng ở Nguyễn Khuyến rõ ràng có chứa đựng tất cả cái mặc cảm

của sự thất bại, một tấn kịch không có giông bão, song cũng vì thế mà càng

chua chát ngậm ngùi.

Tất nhiên, bi kịch của cụ Tam nguyên không phải đã dừng ở đây. Nó

còn diễn tiến dưới nhiều hình thức và cung bậc khác. Phong trào Cần vương

được nhóm lên sôi nổi ở miền Trung, miền Bắc sau khi Nguyễn Khuyến trở về

ít lâu, rốt cuộc, đã bị dập tắt. Chính quyền do Pháp dựng lên, dần dần được

củng cố vững chắc. Một đám tay chân sừng sỏ như Hoàng Cao Khải được

lệnh tìm mọi cách lôi kéo trí thức, trước hết là những người đỗ đạt, có uy tín

trong dân. Phải công nhận rằng Hoàng Cao Khải là một nhân vật khôn khéo

về chính trị. Y ra sức mua chuộc, khuyên dỗ mọi người, kể cả một số người

Page 93: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

trước kia đã theo Phan Đình Phùng. Các vị lúc trước còn ra vẻ bất hợp tác,

“trùm chăn”, nay lục tục ra hàng. Tư tưởng bán nước giờ đây được Hoàng

Cao Khải ngụy trang bằng nước sơn trung quân ái quốc. Nguyễn Khuyến đã

không thể làm một anh hùng cứu nước vì tự biết khả năng mình có hạn.

Nhưng ông chủ trương giữ đến cùng tư cách ở ẩn, không dính dáng đến

chính quyền thực dân. Thì bộ máy thuộc địa Đông Dương, để củng cố sức

mạnh của mình, cũng quyết tâm không để cho những trí thức quan lại như

ông được đứng ung dung ngoài cuộc. Vị Tam nguyên Yên Đổ lại lừng lẫy

tiếng tăm nên “to đầu khó lọt”. Hoàng Cao Khải đã dùng một thủ đoạn nhã

nhặn và tinh vi là mời Nguyễn Khuyến đến làm gia sư để dạy con mình.

Nguyễn Khuyến không có cách gì từ chối, vì dạy học vốn chẳng phải là việc gì

xấu, mặc dầu ông thừa biết, mỗi bước chân của cụ Tam nguyên đến gần dinh

quan Bắc Kỳ Kinh lược sinh đã phải chịu bao nhiêu mũi tên dư luận nhắm

thẳng vào mình. Bởi vì, từ việc Khải mời ông dạy học, y có thể dần dà thuyết

phục ông làm quan đến Án sát, Tuần phủ, Tổng đốc… Đối với Nguyễn

Khuyến, đây quả là điều đau xót không biết ngỏ cùng ai, chỉ có thể tự mình

gánh chịu. Ta đều biết, sau khi Nguyễn Khuyến đến làm gia sư cho nhà Khải

ít lâu, Tuần phủ Hưng Hóa là Nguyễn Đình Quang đã gửi cho ông bài thơ

Nôm có ngụ ý khiêu khích sau đây:

Ngất ngưởng kìa ai đội mũ ni,

Rắp ranh nhưng cũng chửa qua thì.

Chuyện đời đã muốn hai tai lấp,

Nợ nước còn mong chín khúc ghi.

Bể bạc biết bao kề bến đậu,

Lồng son hồ dễ kiếm đường đi.

Mấy lời kính hỏi thăm quan cụ,

Thong thả rồi ra gặp có khi.

Page 94: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Ông Tảo Trang trong bài Góp thêm một số tài liệu về Nguyễn Khuyến

đã phát hiện ra bài này lần đầu tiên và có so sánh với bản dịch ra chữ Hán

của chính Yên Đổ. Ông có nhận xét là bài thơ “không rõ nghĩa lắm, có lẽ viên

Tổng đốc này cũng muốn dùng lời văn chấp chửng để mời Nguyễn Khuyến ra

làm quan chăng”. Nhưng nếu đặt bài thơ vào hoàn cảnh lúc Nguyễn Khuyến

mới ra làm gia sư cho nhà Hoàng Cao Khải thì ý nghĩa hết sức rõ ràng.

Nguyễn Đình Quang rất hiểu tâm sự Nguyễn Khuyến nhưng cho rằng Nguyễn

Khuyến đã vào “lồng son” rồi, làm sao mà thoát được. Hai câu cuối có giọng

đùa cợt, hàm ý rằng: quan cụ rồi cũng đến như chúng tôi thôi, chúng ta sẽ lại

gặp nhau.

Nguyễn Khuyến rất cảm ơn bài thơ cảnh cáo của Nguyễn Đình Quang,

không giận dữ gì. Chứng cớ là ông dịch bài thơ ấy a chữ Hán để đáp lại

Nguyễn Đình Quang. Nhưng khi biến nó thành thơ của mình theo cách đó,

ông có chỉnh lý lại đôi chút, đặc biệt câu thứ sáu “Lồng son hồ dễ kiếm đường

đi”, ông dịch là “Tuyệt thiểu chu lung chấn vũ hàn” nghĩa là: “Rất ít người có

thể giương lông cánh trong cái lồng son”. “Rất ít” có nghĩa là vẫn có loại

người ấy, và nếu như không “kiếm đường đi” được thì vẫn có thể “Giương

lông cánh”… Dù sao thì “xù lông cánh” nhưng vẫn bắt buộc phải ở “lồng son”,

cho nên câu thơ không phải là để tự hào mà là thể hiện một tâm trạng bi kịch.

Sĩ phu Bắc Hà rất hiểu thái độ của Nguyễn Khuyến khi ở nhà Hoàng Cao

Khải, cho nên Phan Văn Ái mới viết để ca ngợi ông:

Gan lì già sóc,

Há non chi mà sợ cóc chi ai.

(Họa lại bài “Ông Phỗng đá” của Yên Đổ)

Đến việc phải cho con ra làm quan cũng là một tâm sự ứa máu của

Nguyễn Khuyến. Khi đến chơi nhà người bạn, đồng thời là ân nhân của mình,

đã giúp mình ăn học, lúc ấy đang làm Tổng đốc Nam Định là Vũ Văn Báo,

Nguyễn Khuyến gặp một viên Công sứ Pháp. Y chất vấn ông tại sao không ra

làm quan, ông liền trả lời: “Đã có con tôi ra làm quan thay cho tôi rồi”. Rồi ông

đọc cho Vũ Văn Báo nghe hai câu thơ:

Page 95: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Hốt đáo nhĩ môn phùng nhĩ cẩu.

Cấp tương ngô tử thế ngô thân.

(Chợt đến cửa nhà anh, gặp con chó của anh,

Tôi vội vàng đưa con tôi ra để thế cho thân tôi).

Không hiểu tại sao hai câu thơ vô cùng đau xót này lại không được in

trong Thơ văn Nguyễn Khuyến?

Nguyễn Khuyến không bao giờ “ừ” một tiếng để thỏa mãn sự thuyết

phục và chờ đợi của Hoàng Cao Khải. Bài Ông Phỗng đá thể hiện rõ tâm sự

ấy:

Thanh sơn tự tiếu dầu tương hạc,

Thương hải thùy tri ngã diệc âu.

Hai câu thơ này được Thơ văn Nguyễn Khuyến cũng như Nguyễn

Khuyến – tác phẩm dịch là: “Ta tự cười đầu đã bạc phơ như đầu chim hạc

trong chốn núi xanh – Ai có hay đâu ta cũng như con chim âu ung dung nơi

biển xanh”. Đưa thêm đi chữ “ung dung” vào trong câu thơ dịch như thế là có

ý tô vẽ làm cho người đọc hiểu lầm rằng Nguyễn Khuyến rất tự hào về mình,

do đó cũng làm cho hai câu thơ trở nên mâu thuẫn: đã “tự cười mình” lại còn

khoe khoang rằng mình “ung dung” thế nào được? Thực ra câu trên chỉ có

nghĩa thú nhận mình đã già cả, về ở non xanh, không còn làm được điều gì

khác hay hơn. Câu dưới có nghĩa là: “Ai biết đâu ta như con âu nơi biển

xanh” hàm ý nói mình cố giữ cho mình một chút tự do và trong sạch, không

vướng mắc gì ở giữa cái đám người đang hành lạc này. Hai câu thơ nhất

quán với toàn bộ bài hát nói, đau xót mà cao cả, thể hiện một tâm trạng hết

sức cô độc, ngay trong một yến tiệc vui vẻ mà mọi người đều để mắt đến

mình. Hai câu chữ Hán chứa đựng cả một niềm tâm sự, nằm giữa một chuỗi

những câu thơ Nôm có tính chất đưa đẩy, giống như một cái hòm đóng kín.

Trong thơ ca Việt Nam rất hiếm những bài có khả năng gây được sự xúc

động sâu sắc như Ông Phỗng đá.

Page 96: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Tất nhiên, cũng phải nói, trong mối quan hệ lâu dài với đám bạn bè

“đồng sàng dị mộng” mấy chục năm cuối đời, Nguyễn Khuyến cũng từng có

lúc lầm lẫn. Đó là điều bình thường. Ông đã chơi thân với Vũ Văn Báo, vì lẽ

Báo là con thầy học của mình. Ông đã tặng thơ cho Dương Danh Lập, khen

ông ta là người có khí tiết (Ký Khắc Niệm Dương niên ông), trong khi trên

thực tế, Lập là kẻ nịnh hót Hoàng Cao Khải và không kém tham tàn. Sự lầm

lẫn không tránh khỏi này càng hằn thêm chất bi kịch lên cuộc đời vốn dĩ thanh

sạch và luôn luôn giữ sao cho không hoen ố của ông Tam nguyên.

Trở lại với ý định của Yên Đổ là không muốn ra làm quan. Không muốn

ra làm quan chỉ mới là “tỵ thế”, nhưng những khủng hoảng về lý tưởng, sự

sụp đổ của cả một hệ tư tưởng đã từng nâng đỡ tầng lớp trí thức Nho sĩ trong

bao nhiêu đời thì biết tránh bằng cách nào đây? Quả tình, dưới cái vẻ ngoài

vô sự, nhàn tản, Nguyễn Khuyến đã phải chống chọi với một nỗi đau ngấm

ngầm về sự bơ vơ, mất phương hướng, nó giày vò ông luôn đêm ngày:

Nhân cùng, thiên vị định,

Đạo táng, ngã an quy?

(Ký Châu Giang Bùi Ân Niên)

(Người đã cùng rồi mà cơ trời vẫn chưa biết ra sao,

Đạo học mất rồi, ta biết đi về đâu?)

Quả năng tỵ thế, thế an tỵ?

(Ký Bài Nhiễm Vũ niên ông)

(Đành rằng có thể tránh đời, nhưng đời đâu có tránh

được?)

Nguyễn Khuyến đã lấy rượu làm khuây, để tìm trong cái say một sự

quên lãng, nhất là quên đi tất cả những mối hận: hận đời, hận mình:

Khổ hận sở cầu thiên nhật túy

(Ký Khắc Niệm Dương niên ông)

Page 97: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(Uất hận lắm chỉ muốn say luôn một nghìn ngày)

Nhưng ông không thú vị gì về việc uống rượu, bởi ông biết đó chỉ là

một giải pháp tự hủy hoại, một cách tự hạ giá nhân cách của mình, tự đánh

đồng mình với một hạng người tháp kém hơn:

Túy hương dị dữ phàm nhân tịnh

(Ký Khắc Niệm Dương niên ông)

(Trong làng say, dễ sánh ngang hàng với kẻ tầm thường)

Con đường duy nhất có thể sống được mà không phiền muộn là con

đường làm một người dân bình thường, một người dân quê với tất cả mọi nỗi

lo lắng hàng ngày như đói rách, hạn hán, bão lụt, mất mùa, sưu cao thuế

nặng. Nguyễn Khuyến đành sông như vậy, và sự nhập thân kỳ diệu của một

tài năng thiên bẩm đã đưa ông đến những thành tựu ít ai ngờ tới: trở thành

người phát ngôn đặc sắc cho tiếng nói của dân quê, người mô tả thần tình

bức tranh sinh hoạt nông thôn đất Việt trước thế kỷ XX. Nhưng nhập thân

không có nghĩa là lúc nào cũng quên được mình đi. Giữa ông quan đại thần

cáo hưu, không muốn nhận chức Tổng đốc, và người dân chất phác của làng

Và mà ông chú ý khắc họa bằng ngòi bút thần tình, vẫn có một khoảng cách.

Đó là nỗi đau khổ không lời vẫn cứ sừng sững hiện ra, nỗi đau dành riêng cho

ông, chứ không phải cho đối tượng mà ông miêu tả:

Phần giao thặng chúc tằng xan vị?

(Hung niên, I)

(Cháo thừa ở bãi tha ma đã từng ăn chưa?)

Đến đây thì không thể nói bi kịch của Nguyễn Khuyến chỉ quanh quẩn

trong phạm vi đời sống tinh thần được nữa. Cuộc sống hàng ngày với miếng

cơm manh áo cũng đã giằng xé tâm trạng ông Tam nguyên. Nó cũng chính là

kết quả của một mâu thuẫn đương nhiên mà tình thế bắt ông phải lựa chọn:

một bên là một tiếng “ừ” với quan Kinh lược sứ và một bên là sự cưỡng lại, là

bảo toàn danh tiết bằng cảnh sống nghèo hèn. Cho nên, bi kịch vật chất

Page 98: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

nhưng thực tế cũng chỉ là sự tiếp nối và đẩy tới của bi kịch tinh thần. Sắc thái

của tâm trạng tuy có phân đôi song nguồn gốc vẫn chỉ là một. Hiện tượng

phức hợp này được thể hiện rõ nhất trong bài Nhân tặng nhục. Có người đi

ăn cỗ đám ma về, đưa biếu ông miếng thịt. Gặp hồi đói kém, người cho thịt lại

có ý rất ân cần, nên ông không phải là không thích:

Tử ý nhất hà ân,

Dư tâm nguyên bất dục.

Nhưng vừa thích đấy lại chợt nghĩ đến mình trong tư cách người nhận,

ông thấy xấu hổ vì rõ ràng mình đã bị liệt vào một loại người “phải được thông

cảm”– một loại người hèn. Ông cố sức đem bao nhiêu điển cố ra để thanh

minh, nào Công Tây Xích học trò Khổng Tử xưa kia cũng từng phải xin ba hũ

thóc; nào Phạm Lãi phong nhã là thế cũng từng phải nuôi trâu dê làm kế sinh

sống; nào Đào Tiềm phải trồng vài luống cúc độ thân; nào Bạch Cư Dị khi bị

biếm trích phải lo lắng dựng ba gian lều tranh… Nhưng nói gì thì nói, rốt cuộc

vẫn phải nhìn thẳng vào tình cảnh của mình hiện tại, và sự ươn hèn của con

người mình:

Ta dư bệnh nhi bần,

Phong trần thái lục lục.

(Than ôi! ta ốm đau, nghèo túng,

Gặp lúc phong trần, lại càng ươn hèn hơn ai).

Và bỗng nhiên, trong một lúc cảm thán nhất, ông hiểu ra tất cả cái thế

“lưỡng đao” của mình khi ấy: nhận hay không nhận chỉ là đường ranh giới giả

tạo chia cắt hai nỗi đau có thực, luôn luôn bám riết lấy cuộc đời ở ẩn của ông,

mà ông không có cách gì cùng một lúc chối bỏ cả hai: một bên là cái nhục vì

lụy người, và một bên là cái nghèo. Tưởng như cái tiếng “ừ” mời mọc trong

quan hệ với Hoàng Cao Khải hồi nào lại được nhà thơ tái hiện một cách nghệ

thuật trong bài thơ này. Miếng thịt ở đây đã trở thành một biểu tượng đa

nghĩa, một sức cám dỗ với cả hai phương diện đều rất nguy hiểm của nó:

Page 99: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Bất thực linh nhân cơ,

Thực chi linh nhân nhục.

Bất thực linh nhân bì,

Thực chi linh nhân tục.

(Không ăn thì người bị đói,

Ăn vào thì người bị nhục.

Không ăn thì người bị gầy,

Ăn vào thì thành con người tục).

Cuối cùng, ta hãy nói tới một bài thơ vẫn được bàn cãi nhiều là bài Trị

mệnh. Xưa nay người ta vẫn gọi bài này là Di chúc. Cách hiểu nghĩa câu đầu

bài thơ hiện còn chưa ngã ngũ:

Ngã niên trị bát bát

Nguyễn Khuyến – tác phẩm có chú thích rằng: “Theo Từ hải, “bát bát”

còn được phiên âm là “ba ba” để gọi những người tuổi tác theo cách gọi của

các tộc người phía Nam Trung Quốc”. Và cuốn sách khẳng định: “Tác giả

dùng chữ ấy và cũng để đối với chữ “cửu cửu” ở câu dưới”. Tuy nhiên, nếu

Nguyễn Khuyến dùng từ bát bát theo cái nghĩa không xác định của Từ hảo thì

về ngữ pháp, câu “Ngã niên trị bát bát” phải hiểu như thế nào? Vì chữ trị có

nghĩa là vừa vặn, vừa đúng, nên “Ngã niên trị bát bát” chỉ có thể hiểu là: tuổi

ta vừa chẵn bát bát. Như thế bát bát là con số xác định hẳn hoi, để đối với

chữ “cửu cửu” ở câu dưới, cũng là con số. Cho nên, có lẽ chỉ có hai cách hiểu

bát bát là sáu mươi tư hay tám mươi tám, như nhiều người trước nay vẫn

hiểu, ngoài ra không còn cách hiểu nào khác phù hợp với văn cảnh câu thơ

trong bài này. Cũng có thể, vì là một bài thơ được viết lúc còn tỉnh – “Trị

mệnh” – nên Nguyễn Khuyến đã sáng tác khá lâu trước lúc chết chứ không

nhất thiết lúc gần đất xa trời ông mới viết ra. Vả chăng, cần nhớ rằng đây là

một bài thơ – một sáng tạo nghệ thuật – gói ghém trong nó tinh thần di chúc

của Nguyễn Khuyến, mà không phải là di chúc thật (di chúc thật hẳn đã viết

Page 100: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

bằng văn xuôi, với những lời căn dặn cụ thể, chi tiết và không thiếu được về

việc phân chia ruộng đất, tài sản, cũng không pha phách một chút âm hưởng

trào phúng khinh mạn như bài thơ này), do đó nhu cầu thưởng thức phải xem

là nhu cầu thứ nhất ở đây, còn nhu cầu trối trăng lại không nổi lên như một

nhu cầu bức bách.

Nhưng có phần chắc bát bát tức là sáu mươi tư. Nếu bát bát là tám

mươi tám thì phải nghĩ đến một thủ pháp cách điệu bất chấp cả sự thật,

nhưng đó lại không phải là phong cách của nhà thơ. Sáu mươi tư, theo cách

tính tuổi ta thường thêm một tuổi vào tuổi thực, thì bài thơ được viết vào

khoảng năm 1898. Trước đó một năm, năm 1897, có một sự kiện cũng gây

chấn động trong giới sĩ phu, trí thức: Nha kinh lược Bắc Kỳ bị bãi bỏ, chức

năng của Nha kinh lược chuyển hẳn sang tay viên Thống sứ Pháp. Như vậy

là bộ máy quan lại Nam triều hoàn toàn trở thành tay sai của bọn giặc cướp

nước, cả trên danh nghĩa. Cái bóng của chủ quyền cũng không còn. Chắc

chắn điều đó có làm cho Yên Đổ tuyệt vọng. Ông viết bài Trị mệnh ghi rõ tuổi

mình, coi như mình sắp mất. Cho nên bài thơ có tính bi kịch rất cao. Dù

không phải là do sự kiện nói trên thì cũng phải có một sự kiện nào đó khiến

nhà thơ tuyệt vọng. Cảm hứng toát lên từ bài Trị mệnh rõ ràng là sự bế tắc

cùng đường, chứ không liên quan gì đến đức tính giản dị xuềnh xoàng của

Nguyễn Khuyến. Những lời căn dặn khẩn thiết, y như khẩu lệnh, được dùng

như một điệp từ láy đi láy lại:

Bất khả tả chúc văn,

Bất khả vi đối cú.

Bất khả thiết minh tinh,

Bất khả đề thần chủ.

Bất khả đạt môn sinh,

Bất khả phó liêu hữu.

Tân khách bất khả nhiêu,

Page 101: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Phúng điếu bất khả thụ.

(Không được viết tế văn,

Không được làm câu đối.

Không được đặt minh tinh,

Không được đề thần chủ.

Không được đặt giấy báo học trò,

Không được cáo phó với bè bạn, đồng liêu.

Khách khứa không được mời,

Phúng viếng không được nhận).

Toàn bộ sự nghiệp của cuộc đời mình, tất cả văn chương chữ nghĩa,

Nguyễn Khuyến đều sổ toẹt hết. Ngay việc thi đỗ cao ông cũng cho là do tổ

tiên để phúc đức lại chứ bản thân ông “học lực nông cạn” chúng ra gì. Ông tự

phủ nhận mình, cũng phủ nhận luôn cả học trò, bè bạn, khách khứa, coi

thường hết thảy mọi lễ tiết mà truyền thống vẫn bắt tuân thủ, không chấp

nhận ngay cả sự kính trọng của người sống đối với mình. Điều uất hận gì đã

khiến Nguyễn Khuyến có một thái độ cực đoan như thế nếu chẳng phải là sự

tuyệt vọng cùng cực và sâu xa trong nhận thức của nhà thơ về sự sụp đổ của

“xã tắc”? Có thể nói bài Trị mệnh đánh dấu cái bi kịch ở con người Nguyễn

Khuyến lên đến đỉnh cao nhất.

CHÍ THÍCH CHƯƠNG II

(1). Xem Thư mục số 27.

(2). Đoạn này bổ sung theo Bác sĩ Nguyễn Thị Thu Hiền (N.B.S).

(3). Tức là người Pháp làm ở Sở cẩm (Sở mật thám: Commissaire de

police).

(4) Bản sao, hiện lưu trữ tại Từ đường Nguyễn Khuyến, do người cháu

đời thứ 5 của Nguyễn Khuyến là Nguyễn Thanh Tùng trông nom. Bản chính

lưu tại Sở Văn hóa thông tin Nam Hà.

Page 102: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(5). Đầu sách cũng ghi: “Ngã tộc Nghệ An nhân dã, lưu ngụ ngã ấp

thập ngũ lục thế”.

(6). Đây là tên 4 người con thứ, còn người con trưởng thì bản sao gia

phả bỏ trống (có thể do không chép, hoặc do bị mọt nát).

(7) Xin tham khảo phần trích dịch Gia phả Nguyễn Khuyến của Nguễn

Văn Huyền trong Nguyễn Khuyến–tác phẩm, Thư mục số 30. Về nhân vật

này, bản dịch của ông Huyền có đoạn ghi rõ tên húy là Liễn.

(8). Cũng do ông Nguyễn Thanh Tùng giữ.

(9). Theo Gia phả của chi nhánh ông Nguyễn Doãn Đôn, lưu tại nhà

con trai là Nguyễn Tốn Dự, thì trong hàng con Nguyễn Khuyến còn có Nguyễn

Điềm, đứng dưới Nguyễn Thuần và không có ai là Nguyễn Hữu Lộc cả.

Nguyên Nguyễn Khuyến có 7 con trai, nhưng một con chết lúc còn bé, không

nhớ tên.

(10). Hoặc: Ở làng Minh Giám.

(11). Khởi nghĩa Phan Bá Vành, 1826.

(12). Xem Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở đồng bằng Bắc Bộ.

Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984.

(13). Theo Thơ văn Nguyễn Khuyến, Thư mục số 32. Trong Nguyễn

Khuyến – tác phẩm, Thư mục số 30, đầu đề đôi câu đối này là Cảnh về vườn.

(14). Lê Quý Đôn. Kiến văn tiểu lục; chương “Tài phẩm”. Bản dịch của

Phạm Trọng Điềm. Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962; tr.306.

(15). Thơ Tản Đà. Nxb. Văn học, Hà Nội, 1982.

(16). Theo Thơ văn Nguyễn Khuyến, Thư mục số 32. Nguyễn Khuyến –

tác phẩm, Thư mục số 30, không chép bài này.

(17). Nghiên cứu văn học, số 10– 1962.

(18). Thư mục số 32.

(19), (20). Thư mục số 30; tr 564.

Page 103: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Chương III. BẢN LĨNH NGHỆ SĨ VÀ CÁI NHÌN NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI

10. QUAN NIỆM CON NGƯỜI TRONG SÁNG TÁC NGUYỄN KHUYẾN

Sáng tác của một nhà thơ không chỉ có mặt tâm sự, tư tưởng, mặt phản

ánh hiện thực, mà còn có cách tư duy về đời sống, có một quan niệm thẩm

mỹ về con người và cuộc đời. Nghiên cứu thơ văn Nguyễn Khuyến trước nay

chủ yếu chỉ tập trung tìm hiểu tâm tình, hồn thơ, tiếng cười, nội dung phản

ánh hiện thực, từ đó khẳng định Nguyễn Khuyến – nhà thơ trào phúng, nhà

thơ hiện thực, nhà thơ yêu nước, nhà thơ của dân tình làng cảnh Việt Nam…

Tìm hiểu quan niệm con người trong thơ Nguyễn Khuyến sẽ cho thấy vị trí

của nhà thơ trong quá trình phát triển tư duy thơ cổ điển Việt Nam.

Sau tiếng súng xâm lăng của thực dân Pháp, Nguyễn Khuyến rất sớm

nhận ra thực chất con người phong kiến dưới triều đại nhà Nguyễn. Nếu đến

đầu thế kỷ này, thơ văn Đông du, Đông Kinh nghĩa thục, cất tiếng đau đớn hú

hồn dân tộc Việt, kêu gọi đồng tâm, tự cường thì hàng chục năm trước

Nguyễn Khuyến đã nhận ra trạng thái thất hồn, trống rỗng, bất tài, vô vị của

người đương thời. Nếu các nhà cách mạng sau này phê phán “hủ Nho” thì

Nguyễn Khuyến là người đầu tiên nhận ra sự lỗi thời ấy trong thơ ông. Dĩ

nhiên, Nguyễn Khuyến chưa thể có quan niệm rành rọt về con người xã hội.

Ông chỉ có thể hình dung một con người “đứng trong trời đất” như các nhà

Nho, phân biệt người làm theo chuẩn mực và người bất cập chuẩn mực. Thế

kỷ XX sẽ làm rõ quan niệm con người dòng giống, quốc gia, con người giai

cấp, con người từ nhân dân mà ra. Nhưng chỗ hơn người của Nguyễn

Khuyến là trong khi chưa tiếp xúc với ánh sáng của “tân thư”, chưa thấy chân

trời mới, chưa rõ mối hiểm họa của thời đại thực dân đế quốc, chỉ hoàn toàn

với thế giới quan nhà Nho cổ xưa, ông đã dự cảm thấy điều mà chỉ những

người được vũ trang một tư tưởng mới mới nhìn rõ được. Hiển nhiên Nguyễn

Khuyến còn đứng cách xa phong trào yêu nước chống ngoại xâm sôi sục

Page 104: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

đương thời trong triều cũng như ở làng quê và điều đó không khỏi hạn chế

cách quan niệm con người của ông, nhưng thơ văn ông ghi lại được bộ mặt

một thời tàn tạ trong đó con người hiện lên vô bản sắc. Bị cầm tù trong thế

giới quan cũ, Nguyễn Khuyến chưa hề có cái sốt ruột hồn chồn trước sự

ngưng đọng cổ lỗ của đất nước, nhưng ông đã thấy sự trống rỗng, vô nghĩa

của một thời đại thiếu lý tưởng – lý tưởng cũ đang hết thời, lý tưởng mới

chưa có.

Trước khi về lại quê, thì Nguyễn Khuyến, nhà dẫu nghèo, vẫn là người

nuôi chí hăm hở làm việc lớn:

Vốn lăm chí xông pha trời thẳm,

Đâu phải là điều én, sẻ hay.

(Vân ngoại bằng đoàn)

Thơ ông rạo rực những ước mơ:

Những ước được thời, cơn gió cả,

Chút vui thôi cũng vượt muôn trùng.

(Hý thủy thanh đình)

Những bài vịnh sử cho biết ông hâm mộ biết bao công nghiệp của các

bậc anh hùng, hiền nhân trong quá khứ. Các bài nhàn vịnh cho biết ông đã

thấy bản thân đang rơi vào thân phận “người thừa”, nhưng tấm lòng “mưu ích

cho nước” vẫn càn canh cánh. Trong con mắt nhà thơ còn đầy sách vở ấy,

con người vẫn mang một nội dung cụ thể, chắc nịch. Nhãn quan ấy đã ánh

lên khí sắc ngay cả trong những khi bi đát: than nợ, giễu mình chưa đỗ…

Nhưng từ sau khi về lại Yên Đổ, sáng tác Nguyễn Khuyến nổi lên cái

nhìn khác về con người. Rất có thể là trong hơn mười năm ở chốn quan

trường, nhà thơ đã có dịp hiểu rõ những người mà ông hằng khát khao phục

vụ. Rất có thể là sự xâm lược của thực dân Pháp đã cho ông thấy được sự

vô dụng bất lực của vốn học vấn tinh túy nước nhà. Trong bài Cảm sự, ông

viết:

Page 105: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Khói tuôn mặt nước tàu lao vút,

Đá lở sườn non pháo nổ tung.

Đời có thi thư thành vật bỏ,

Trời sinh nước lửa được người dùng!

Rõ ràng không phải người ôm hận vì “hoài tài bất ngộ”, mà chỉ là người

nhận chân giá trị của “tài”:

Sách vở ích gì cho buổi ấy,

Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.

(Ngày xuân dặn các con)

Chiến tranh dẫu ngắn hay dài đều là sự thử thách lớn lao đối với sức

mạnh tinh thần và vật chất của một quốc gia, dân tộc. Chiến tranh là sự phát

hiện về con người. Hẳn nó đã cho nhà thơ một dịp nhìn thấu tận đáy con

người thời Nguyễn mạt.

Trời là đấng tối cao trong thơ văn người Vệt, là người nắm giữ then

máy tạo hóa, là kẻ chứng giám các giá trị tinh thần. Ông trời trong thơ Nguyễn

Khuyến, trái lại, thật là vô tích sự:

Chót vót trên này có một tao,

Nào tao có muốn nói đâu nào.

(Trời nói)

Ông trời hoàn toàn “ngoại hóa”, chẳng có gì bí ẩn:

Da tao xanh ngắt pha đen trắng,

Chỉ tại dì Oa vá váy vào.

(Trời nói)

Và trời cũng tầm thường như một người khác:

Ngửa mặt ông kia chơi mới khỏe,

Suốt hôm một sáo thổi lưng trời.

Page 106: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(Đến chơi nhà bác Đặng)

Thậm chí ông trời còn kém thua cả vợ! (Nhất vợ nhì trời). Phải chăng

các hình ảnh đó có mang dấu ấn các “đấng bề trên tự nhiên” nhà thơ chưa

từng biết? Không phải vô cớ mà trong thời kỳ này cơ hồ vắng hẳn hình bóng

nhà vua trong thơ ông, ngoại trừ hình ảnh “vua chèo còn chẳng ra gì” (Lời vợ

anh phường chèo). Mấy lần nhà thơ nghĩ đến thời hồng hoang là lúc không

có vua (U sầu, Độc dịch).

Nhà sư từng là đối tượng chế giễu trong thơ văn, nhưng thường đó là

sư phá giới, sư hổ mang. Nguyễn Khuyến chế giễu ngay tư thế sư nghiêm

chỉnh:

Đầu trọc lốc bình vôi,

Nhảy tót lên chùa ngồi.

Y a kinh một bộ,

Lóc cóc mõ ba hồi.

Cơm chẳng cần cá thịt,

Ăn rặt oản chuối xôi.

Không biết câu tình dục,

Đành chịu tiếng bồ côi.

(Vịnh sư)

Đúng là ông sư, nhưng đã mất hết hào quang linh thiêng và chiều sâu

trí tuệ. Nếu có khi nào tỏ thiện cảm, thì đó là lúc sư mang hình ảnh người ẩn

dật (Sư cụ năm chung nới khói mây).

Trong mắt Nguyễn Khuyến, quan và dân đều là người ngây dại trước

cuộc xâm lăng của thực dân Pháp, chỉ biết thỏa thích với những trò vô nó

nghĩa, những hành động ngốc nghếch một thời:

– Ân tứ dám đâu coi rẻ rúng.

Vinh quy ắt hẳn rước tùng xòe.

Page 107: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(Mừng ông Nghè mới đỗ)

– Bà quan tênh nghếch xem bơi chải,

Thằng bé lom khom nghé hát chèo.

Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,

Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.

(Hội Tây)

Đọc thơ, ngỡ như bắt gặp cái nhìn của Lỗ Tấn trong bài Thị chúng.

Cuộc chiến tranh Nha phiến năm 1840 của đế quốc Anh đã phơi bày thực

chất văn minh tinh thần trung Quốc mà mãi sau Đại chiến thế giới 1914 –

1918 với hòa ước Vecxây (Verseille) (1919) mới nhận chân qua ý thức Lỗ

Tấn, một người thông hiểu văn hóa Âu Tây. Thế mà cụ già mắt lòa đồng

chủng của ta đã “thị chúng” rất sớm qua những gương mặt ấy. Ông nhìn rõ

trách nhiệm chính là ở bọn vua quan. Thân phận “Vua là tượng gỗ, dân là

thân trâu” thì mãi mãi sau này (Đề tỉnh quốc dân ca, 1906) mới ý thức rõ rệt,

nhưng Nguyễn Khuyến đã sớm đem “quan” ra trưng bày như một giống vật lạ

của xứ thuộc địa trong cuộc đấu xảo:

Xứ tôi xoàng xĩnh không gì khéo,

Tượng gỗ cân đai tạm góp phần.

(Đấu xảo ký văn)

Con người trong thơ trước Nguyễn Khuyến dầu là ở các động tác tầm

thường nhất, vẫn được cảm nhận trong viễn cảnh đầy chí khí (“Giơ tay với

thử trời cao thấp – Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài”; “Ba vạn anh hùng đè

xuống dưới – Chín lần thiên tử đội lên trên”…). Ở Nguyễn Khuyến con người

hiện lên trần trụi với tất cả vẻ tầm thường hàng ngày. Con rể phúng bố vợ thì:

Khi ông sống, ông đẻ anh, ông đẻ chị, ông để vợ tôi, nay được

sáu tuần thêm tám lẻ;

Giờ ông chết, ông bỏ cửa, ông bỏ nhà, ông bỏ bà lão, ai ngờ một

phút hóa trăm năm.

Page 108: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Mừng ông lên lão bảy mươi thì:

Tính ông hay, hay tửu hay tăm, hay nước chè đặc, hay nằm ngủ

trưa, dù đã bảy mươi còn khoẻ mạnh;

Nhà ông có, có bầu có bạn, có ván cơm xôi, có nồi cơm nếp, mở

ra một tiệc thấy linh đình.

Dù cố ý mượn ca dao, đồng dao thì một đời dài sáu, bảy mươi năm, rút

lại chỉ chừng ấy việc đáng nói. Quan tâm thể hiện đời thường là một điều rất

mới so với con mắt quen nhìn “hành trạng” của “khanh tướng”, “anh hùng”.

Nguyễn Khuyến là nhà thơ đã góp phần quan trọng đưa cái không gian từ “vũ

trụ” cao siêu, nhàn dật, xa xôi với cúc, tùng, hoa, điểu xuống gần với không

gian sinh hoạt làng quê, nhờ thế “dân cư” trong thơ ông không chỉ có một

mình nhà thơ “độc chước”, “độc tọa”, “độc túy”, “độc tỉnh”, mà còn có bè bạn,

họ mạc, xóm giềng. Tuy nhiên, với tất cả tình thân xóm mạc, nhà thơ vẫn

không hề mỹ hóa cái trống rỗng ở bên trong. Lẽ nào ta không thấy ở đây

bóng dáng cái người “Ông này bác mẹ sinh ra – Lọt lòng ông khóc oa oa…”

mà truyện dân gian chế giễu đó sao? Có điều, trong truyện dân gian người kia

có vẻ cá biệt, mà trong thơ Tam nguyên cái trống rỗng lại là tình trạng phổ

biến.

Cả bài thơ Khóc Dương Khuê thiết tha, réo rắt đến thế mà cuộc đời

người bạn rút lại có gì? Và cả đời Nguyễn Khuyến rút lại có gì? Một bài Di

chúc hầu như chỉ là kể việc, không một mảy may lý tưởng hóa bản thân và

phụ thân. Ông chỉ đề nghị ghi có một câu: “Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã

lâu!”. Khi làm câu đối khóc người thợ nhuộm, người hàng thịt, cô đầu… nhà

thơ thường tìm các dấu hiệu bề ngoài có tính chất trang trí như tím, đỏ, xanh,

vàng, tía, thắm… hay xương, thịt, ruột, gan, đầu, kép, tang tình… Vẫn biết thi

pháp cổ điển hay dùng các chi tiết nghệ thuật mang tính chất trang trí, nhưng

không thể không thấy ở đây, các nội dung tinh thần phần nhiều không còn là

nguồn cảm hứng sâu xa nữa. Con người chỉ hiện lên qua các thuộc tính rất

vật chất. Đó là những người bình thường. Nói chi đến hạng Tư Hồng, Hậu

Cẩm, gái thời loạn, chỉ còn tàn tán, bàn độc, biển, cờ… vật chất quan phương

Page 109: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

hay váy, máy âm dương, cửa càn khôn… hết sức trần trụi. Nói chi đến bọn

“quan Tuần mất cướp”, “chú Huyện Thanh Liêm”…

Khi vịnh các nhân vật Truyện Kiều, một kiệt tác mang nhiều giá trị tinh

thần truyền thống, Chu Mạnh Trinh đã viết với một tấm lòng đồng tình tha

thiết nhất, trái lại, Nguyễn Khuyến đã tước bỏ hết mọi màu sắc cảm xúc mà

văn chương truyền thống và nhất là văn chương Nguyễn Du đã phủ trùm lên

nhân vật, để lộ ra các quan hệ vật chất trần trụi, chẳng có vì là “tiết liệt”, “tình

ái” cả:

Muốn êm phải biện ba trăm lạng,

Khéo xếp nên liều một chiếc thoa.

(Kiều bán mình).

Con ở ngẩn ngơ nhìn mặt chủ,

Nhà thầy tưng hửng mất đồ chơi.

(Mắc tay Hoạn Thư)

Có thể nói trong hầu hết các hạng người, đâu đâu nhà thơ cũng nhìn

thấy một con người trống rỗng, không tinh thần, vô bản sắc. Điều này cũng

thể hiện rõ trong những người trí thức, những bậc khoa cử, rường cột của

nước nhà.

Trong thơ ca cổ điển Việt Nam, có thể nhận thấy cả một lịch sử phát

triển của hình tượng nhà Nho. Bao giờ họ cũng được miêu tả trong quan hệ

trung – nịnh, chính – tà, xuất – xử. Bao giờ chân Nho cũng là hiện thân cho

đạo đức, tri thức, văn hóa. Có lẽ Nguyễn Khuyến là lớp người đầu tiên ý thức

sự trống rỗng nhẹ tâng của Nho học:

Rõ chú hoa man khéo vẽ trò,

Bỡn ông mà lại dứ thằng cu.

(Vịnh Tiến sĩ giấy,I)

Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe,

Page 110: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi.

(Vịnh Tiến sĩ giấy,II)

Trong khi, ở khoa thi Canh tý (1900), Tú Xương còn cay cú về nỗi hỏng

thi (Đau quá đòn hằn, rát hơn lửa bỏng”, và chỉ chế giễu những kẻ bất tài thi

đỗ, thì Nguyễn Khuyến, đứng ở tuyệt đỉnh vinh quang của khoa cử và đỗ do

thực tài hẳn hoi, lại thấy danh vị là vô nghĩa, thấy cái Tiến sĩ đang giễu mình

(“bỡn ông”) và nhử lớp trẻ (“dứ thằng cu”), thấy mình đã lầm khi đem chí bình

sinh đặt nơi khoa hoạn. (“Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!”). Không phải ngẫu

nhiên mà khác Tú Xương, thơ Yên Đổ không có nhu cầu chê người dốt thi đỗ.

Mãi năm 1939, trong tiểu thuyết Lều chõng Ngô Tất Tố mới vạch rõ cái vô vị

của chế độ khoa cử đã “đưa nước Việt đến cõi diệt vong”, ấy thế mà gần nửa

thế kỷ trước, Nguyễn Khuyến đã thấy cái trống rỗng của nó. Ông thấy thình là

“hủ Nho” (Xuân bệnh,I), “thiếu tài thực để giúp đời suy” (Cận thuật), và vỡ lẽ

ra về bài học thiết thực (Ngày xuân dạy con). Nếu thế kỷ XIX có biết bao nhà

Nho khoe tài và xót xa vì “hoài tài bất ngộ”, thì Yên Đổ, qua những lời tự

khiêm, tự giễu như trên, đã thẹn cho cái “tài” của mình. Ông thẹn con đường

đã qua, “sợ ngủ gặp giấc mơ trước”, thậm chí “Đêm buồn ngại nghe con đọc

bài” (Xuân bệnh,II). Rút lại chỉ “còn có lòng son” và tự thấy nên dũng cảm rút

khỏi hoạn lộ (Vũ hậu xuân túy cảm thành).

Nhận thức trên đây đã quy định cái nhìn đối với con người nhà Nho

trong thơ Nguyễn Khuyến. Như mọi nhà Nho xuất thế ở ẩn luôn tạo cho mình

hình ảnh “khác tục”, Nguyễn Khuyến cũng luôn nói tới “say”, “ngu”, “gàn”,

“điếc”, “dại”. Mọi nhà Nho ở ẩn đều tự tại thanh cao, cô cao ngạo thế, tự ví với

tùng cô, hạc độc, mây côi, cao sơn, lưu thủy. Mọi nhà Nho bất đắc chí đều

xưng “già”, “bệnh”, “tóc bạc”… như đó là dấu hiệu tri thiên mệnh, trải đời hoặc

“lão giả an chi”. Các ẩn sĩ đều tạo cho mình một thú điền viên tao nhã.

Nguyễn Khuyến cũng nói nhiều đến các thứ đó, nhất là con mắt lòa, thân già

yếu của ông. Nhưng nếu tất cả các hình ảnh đó ở người xưa đều mang một

vẻ cao xa, thâm thúy, chí thú, thì ở Nguyễn Khuyến, trái lại vẻ cao thâm ấy

hầu như không còn mấy, nhất là ở trong văn thơ Nôm. Ông Đồ Cự Lộc giả

Page 111: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

điếc mà vẫn không giấu cái vẻ “ban đêm leo trèo nhanh như chú khỉ”, không

giấu vẻ “tay ngoáy cám, mồm húp tương”. Còn tác giả, tuy cũng “hạc độc”,

“mây côi” nhưng chẳng bay đi đâu hết và không giấu vẻ chán ngắt “đi đâu giở

những cối cùng chày”.

Các tư tưởng tiêu biểu của nhà Nho cũng mất vẻ cao xa thâm thúy:

Nhà hướng Bắc, nền cao, cửa rộng, chưa ai rét thì mình đã rét,

chưa ai bức thì mình đã bức, mới gọi là “tiên thiên hạ chi ưu nhi

ưu”.

(Câu đối dán nhà)

Danh ngôn của nhà Nho Phạm Trọng Yêm nay chỉ còn mang nội dung

sinh hoạt!

Việc nuôi thầy dạy con nghiêm túc cũng là “mổ bụng con nhét chữ” và

“bổ đầu bố lấy tiền”. Cao sơn, lưu thủy của Nguyễn Khuyến lắm khi không

còn là nơi ký thác nữa:

Li ti nghìn xóm quanh ba mặt,

Lố nhố muôn ông lẻ một thầy.

Nghĩ lại bực cho dòng nước chảy,

Đi đâu mà chảy cả đêm ngày!

(Nhớ núi Đọi,I)

Cả một thế giới cổ xưa hàng nghìn năm đang mất hết vẻ uẩn súc, cao

cả trong thơ Nguyễn Khuyến. Nhà thơ thừa sức làm thơ sơn thủy điền viên để

sánh với mọi danh sĩ ngàn xưa. Nhưng ông không ham:

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

(Thu vịnh)

Page 112: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Hiển nhiên là nhà thơ không thẹn về tài họa, tài thơ, và về sự bỏ quan.

Có lẽ thẹn vì không thể làm ông Đào ở nước Việt lúc ấy. Ông Đào có cả một

“đào nguyên” của mình, còn Nguyễn Khuyến thì ẩn vào đâu?

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không ngỗng nước nào!

(Thu Vịnh)

Lại thêm ngọn gió Tây,

Vật gì chẳng tàn tạ…

Giếng không phải không trong,

Uống vào mồ hôi vã.

Cơm không phải không canh,

Ăn vào nuốt chẳng đã.

(Nhâm dần hạ nhật – 1902)

Đào Tiềm không nói lo thuế má, còn Nguyễn Khuyến thì:

Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,

Nửa công đứa ở, nửa thuê bò…

(Nhà nông than thở)

Ông Đào chí thú tự nhiên còn Nguyễn Khuyến thì chẳng lấy gì làm thú:

Loanh quanh ba vạn sáu nghìn ngày, cái thủ lợn nhìn thầy đà

nhẵn mặt;

Đằng đẵng một năm mười hai tháng, con mắt gà đeo kính đã

mòn tai.

(Cảnh về vườn)

Nhà Nho xưa thường tự lý tưởng hóa mình, tự vận với các bậc danh sĩ

quá khứ. Nguyễn Khuyến bước sang giai đoạn tự trào, tự phủ nhận.

Page 113: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nguyên Du lo đời không tri kỷ, Nguyễn Công Trứ phát phẫn nguyện

“chớ làm người”, nhưng cả hai đều còn tin chắc vào giá trị của bản thân.

Nguyễn Khuyến trái lại cảm thấy mờ mịt về mình:

Trăm chén hình tặng ảnh,

Nghìn năm ta là ai!

(Đề ảnh)

Một giấc hoàng lương thôi cũng mộng,

Nghìn năm bay hạc, tớ là ai?

(Bài muộn,II)

Nguyễn Khuyến không bước vào thế giới thành thị của Tú Xương,

không bước sang thế giới “tân thư” của các chí sĩ cách mạng. Nguyễn

Khuyến trước sau chỉ biết có mỗi thế giới cổ điển gắn bó với lối sống làng

quê. Nhưng ông là nhà thơ cổ điển đầu tiên thấy cái rỗng không của con

người lý tưởng truyền thống, là nhà thơ mở đầu sự đổi thay các ý nghĩa

tượng trưng của hệ thống thi pháp cổ xưa.

11. NHÂN VẬT TRỮ TÌNH TRONG THƠ CHỮ HÁN

Nguyễn Khuyến sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm, nhưng số

lượng tác phẩm Nôm chỉ chiếm một phần, ba phần còn lại được viết bằng

chữ Hán. Tuy nhiên, lâu nay trong đời sống văn học, cụ Tam Nguyên Yên Đổ

nổi tiếng chủ yếu ở thơ Nôm. Quả thật thơ Nôm Nguyễn Khuyến về thiên

nhiên, phong cảnh là những vần thơ kiệt xuất. Có điều dường như trong thơ

Nôm của ông chỉ thấp thoáng “ngụ” tình ở những bức tranh phong cảnh đó.

Phần còn lại, ông luôn luôn hướng đến cộng đồng làng xóm thân thuộc và

đông đảo với tinh thần cởi mở, hòa đồng. Buồn vui, lo lắng, ghét giận, yêu

thương, khen chê, trách móc, ít nhiều ông đều muốn chia sẻ, đối thoại, giao

lưu. Vậy mà, trong thơ chữ Hán, Nguyễn Khuyến dường như lại chỉ dành

riêng cho những nỗi niềm của chính mình mà thôi. hình ảnh một ông già xuề

xòa giữa cộng đồng dân dã ở đây đã lùi lại phía sau, nhường chỗ cho một

Page 114: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

hình ảnh khác: một người trí thức ý thức rõ rệt về bản lĩnh và nhân cách, về

trách nhiệm kẻ sĩ trước những xáo động dữ dội của thời cuộc. Đây chính là

một dang nhân vật đặc sắc và không kém quan trọng trong thơ Nguyễn

Khuyến, có quan hệ mật thiết với con người tác giả, nhưng không hoàn toàn

đồng nhất với tác giả. Có thể gọi đây là một nhân vật trữ tình. Vẻ đẹp hướng

nội làm cho nhân vật ấy sống động lên, như là một người anh em sinh đôi với

Nguyễn Khuyến; và chính con người nghệ thuật này đã thống nhất anh đồ

Nho, ông quan Tam nguyên và ông già Yên Đổ ẩn cư trong Nguyễn Khuyến

lại làm một.

Cũng vì vậy, mặc dầu như đã nói ở những phần trên, sau bước ngoặt

trở về vườn Bùi cá tính nghệ thuật trong thơ Nguyễn Khuyến mới có điều kiện

để thật sự nổi bật, việc xem xét nhân vật trữ tình trong thơ chữ Hán Nguyễn

Khuyến vẫn phải được trình bày liền mạch, trên suốt các chặng hành trình

không mấy êm ả của cụ Tam ngguyên, kể cả những chặng tưởng chừng

bằng lặng nhất, và sáng tác cũng chiếm một vị trí khiêm nhường hơn.

1. Chí hướng và ước nguyện lúc vào đời.

Tiếp tục truyền thống gia đình, theo đòi đường cử nghiệp, Nguyễn

Khuyến đã trải qua một cuộc lựa chọn: gánh nặng cơm áo đành trút lên vai

mẹ già. Quyết định như thế cũng có nghĩa là ông đã dấn thân gánh vác trách

nhiệm “kinh bang tế thế”, một trách nhiệm mà Nho sĩ đời nào cũng xem trọng.

Có thể nói bài văn sách thi Đình năm 1871 đã thể hiện rõ chí hướng của ông.

Đây không phải một bài “trả thi” theo kiểu học trò, chỉ cốt thể hiện kiến thức

sách vở uyên bác mà là một bản kiến nghị thực sự, những đề xuất của một trí

thức trước hiện tình đất nước. Với bài văn sách thi Đình, Nguyễn Khuyến

không những chứng tỏ tầm hiểu biết của mình về thực tế chính trị, xã hội mà

còn thể hiện bản lĩnh cứng cỏi của kẻ sĩ. Ông đã đáp ứng yêu cầu cuả vua Tự

Đức, bàn những điều “thiết thực”, “không phù phiếm” (việc thuế khóa, đê điều,

binh lính, bộ máy…) và đưa ra những biện pháp sửa chữa “có công hiệu”,

nhưng đồng thời ông cũng yêu cầu nhà vua giữ “chữ tín”, coi đó là điều kiện

tối quan trọng để “muôn việc nên, trị công thành”. Vua Tự Đức đánh giá cao

Page 115: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

những đề xuất của Nguyễn Khuyến, lấy ông đậu Đình nguyên. Thế là từ một

thư sinh áo vải ông đã bước vào chính trường, nhưng cũng chỉ làm quan đến

năm 1884 thì xin về nghỉ. Nếu tính từ năm mười tám tuổi, đi thi Hương khoa

đầu tiên (1852), cho đến lúc quyết định xin về, Nguyễn Khuyến đã có khoảng

hơn ba mươi năm theo đuổi hoài bão, chí hướng. Trong suốt thời kỳ tráng

niên tràn trề sinh lực ấy, Nguyễn Khuyến cũng đã làm thơ, và số lượng không

phải là ít. Nhưng chưa thể nói đây đã là một chặng đường thơ đột xuất, vì âm

hưởng trữ tình còn đơn điệu, câu thơ chưa đủ trọng lượng của một ngôn ngữ

nghệ thuật chín mùi. Duy có một điều lạ: ông rất ít tuyên ngôn, nói một cách

khác thơ ông nhạt màu “ngôn chí”. Mặt khác, có thể thấy rõ tình yêu đất nước

của ông qua chùm thơ Vịnh sử. Ông đã viết những câu thơ hào khí ca ngợi

các anh hùng cứu nước: Phù Đổng Thiên Vương, Hai Bà Trưng, Trần Hưng

Đạo, Nguyễn Trãi, Đặng Tất… Có lẽ từ trong không khí của thời đại mà

Nguyễn Khuyến cũng như mọi nhà Nho khác lúc bấy giờ đang khát khao

những tài năng kiệt xuất như Trần Hưng Đạo:

Xắn áo đỡ trời ôm chí lớn,

Vung tay phá giặc trổ tài cao.

Bể Đông sóng lặng uy dường ấy,

Cõi Việt bia ghi công xiết bao!

(Vịnh Trần Hưng Đạo)

Và những trí tuệ đủ sức chống trời như Nguyên Trãi:

Rắp đem mưu lược lui quân Bắc,

Thu lại giang sơn rạng giống Hồng.

Dậy đất, thanh danh lừng cõi giặc

Chống trời, sự nghiệp nức non sông.

(Vịnh Nguyễn Hành khiển)

Ông cũng trân trọng và mong mỏi có những tấm lòng trung kiên như

một Tô Hiến Thành, những nhân cách cứng cỏi, tiết tháo như một Chu Văn

Page 116: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

An. Và không biết có phải cũng từ những gợi ý của hoàn cảnh đất nước

đương thời mà Nguyễn Khuyến đã viết về Trần Hậu Chủ bằng những vần thơ

hết sức ngậm ngùi? Ông không chỉ phê phán Trần chúa ham mê tửu sắc mà

còn trách hận cả giới “hiệp khách, văn chương” đã đưa nhà vua đến chốn sa

đọa để rồi bỏ mặc nhà vua trong cảnh mất nước nhà tan. Từ cảm hứng phê

phán đối với người và việc của lịch sử, bài thơ đưa ta đến những nỗi niềm

thương cảm đối với một “cố quốc thê lương”:

Kinh doanh lâu các lãm sơn hồ,

Đạt đán hàm ca hứng bất cô.

Đương nhật nguyệt hoa lâm kết ỷ,

Hà thời mi lộc đáo Cô Tô?

Trường Giang khoảnh khắc nhân phi độ,

Cố quốc thê lương cảnh dĩ thù.

Khả hận nhất thân táng tỉnh khứ,

Từ chương, hiệp khách khẳng tòng vô?

(Vịnh Trần Hận Chủ)

(Xây dựng lầu gác, muốn thâu tóm cả cảnh núi

non sông hồ,

Rượu hát say sưa suốt đêm đến sáng không chán.

Ngày đó trăng hoa lên lầu kết ỷ,

Bao giờ hươu nai sẽ đến đài Cô Tô?

Quân giặc đã bay qua sông Trường Giang trong phút chốc,

Cảnh vật đã biến đổi nước cũ thê lương.

Đáng giận một thân vùi dưới giếng,

Nào bậc hiệp khách, nào bạn văn chương có ai chịu theo?)

Page 117: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Ngoài ra, cũng có thể thấy chí hướng của Nguyễn Khuyến kín đáo bày

tỏ qua một số bài vịnh cảnh, vịnh vật. Miêu tả chim ưng “mất như chớp, móng

như dao” nhưng là để nói: “Những bậc anh hào xưa nay chí không có gì khác

nhau – Gặp thời đâu chịu khuất trong cũi lồng” (Kim cổ anh hào vô dị chí -

Đắc thời minh khởi khuất lung lao – Thu ưng); ca ngợi cánh chim bằng ngoài

mây nhưng cũng ý nhị phân biệt cái chí giữa kẻ tiểu nhân và người quân tử

“Vượt lên tất cả tự mình có chí ngang mây – Đâu phải là bọn cú, sẻ trong nhà

biết được” (Siêu nhân tự hữu ngang tiêu chí – Đường nội nguyên phi yến

tước tri – Vân ngoại bằng đoàn).

Đọc những tác phẩm được viết trong giai đoạn “trước khi trở lại vườn

Bùi” quả không thấy ở Nguyễn Khuyến cái khí thế hăm hở “quyết ra tay chèo

lái trận cuồng phong” của một Nguyễn Công Trứ, cũng không thấy tấm lòng

gắn bó sâu nặng với vương triều mà mình phục vụ như Nguyễn Trãi, Nguyễn

Bỉnh Khiêm, thậm chí cả Nguyễn Quang Bích, người đồng thời với ông.

Nguyễn Khuyến không đặt quá cao nghĩa vụ báo đáp ơn vua nhưng ông coi

trọng trách nhiệm và danh dự kẻ sĩ. Có thể xem bài Phong Doanh lộ thượng

là sự bộc lộ chân thành và ngẫu hứng ý nghĩ của ông về mối quan hệ giữa

ước muốn cá nhân bình thường và ý thức trách nhiệm:

Hiểu mai thiên lý dịch,

Vãn thụ cố viên tình.

Khởi bất dục cao ngọa,

Hoài an thực bại danh.

Hoa mai buổi sáng là đường trạm nghìn dặm,

Cây buổi chiều gợi tình nhớ quê nhà.

Há không muốn nằm khểnh nghỉ ngơi,

Nhưng nếu chỉ cốt cầu an thì thật cũng mất cả thanh

danh).

Page 118: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nguyễn Khuyến không hăng hái trên hoạn lộ, nhưng dẫu sao, dường

như những năm tuổi trẻ và những ngày mới bước vào chính trường ông cũng

có chút hứng khởi. Có thể do niềm vui trong công việc, niềm tin ở tài trí mình

mà Nguyễn Khuyến có cái nhìn trong trẻo, đầm ấm đối với cảnh vật và con

người. Cũng là một khung cảnh gợi buồn, một cánh buồm về bến trong chiều

tà, một ngọn núi mù sương đối diện với ánh lửa chài cô quạnh trong đêm,

nhưng trong cách nhìn của ông vẫn là một phong cảnh tuyệt đẹp “không bút

nào tả hết…, muôn thuở vẫn là mây khói cỏ cây bằng lặng” (Miêu Tứ sơn),

“sông hồ nơi nào cũng đầy thú vị cả – Tạm mượn cảnh Tiêu Tương để nói

cảnh đẹp này” (Vãn phố quy phàm). Những đêm đóng quân ở Mông Sơn,

những buổi đi chùa Hang, lên núi Ngũ Hành dù có khó khăn, vất vả, vẫn

mang lại cho ông niềm vui và ít nhiều hào khí. Ngay cả bóng hoa trên dòng

sông xuân mong manh, vắng vẻ cũng xốn xang, tình tứ:

Duyên khê hoa lạn chính xuân thâm,

Tối ái ba gian ảnh bất trầm.

Đạm đạm tàn hồng phong diệc động,

Thâm thâm nộn bạch thủy nan xâm.

Cận lâm thác ngạc khiên ngư nhỡn,

Viễn khán tân phân loạn điệp tâm.

Thử cảnh, thử tình miêu bất tận,

Liêu bằng hoa bút sách thi ngâm.

(Xuân khê hoa ảnh)

(Xuân về đã lâu, hoa ven suối rực rỡ,

Yêu biết mấy, giữa lòng sóng bóng hoa vẫn không chìm.

Sắc hồng nhàn nhạt, gió cũng lay động,

Màu trắng nõn nà, nước khó lấn tới.

Page 119: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Đến gần, bóng hoa chen nhau rối rít khiến cá phải quyến

luyến,

Từ xa, trông rườm rà tốt tươi, bướm cũng xốn xang.

Cảnh ấy, tình này vẽ sao cho hết,

Tạm nhờ bút hoa, tìm thơ ca ngợi).

Những cảnh sắc tươi non, tâm trạng yêu đời trong sáng ấy chỉ ít lâu

sau, nhất là từ sau khi “trở lại vườn Bùi” Nguyễn Khuyến sẽ không thể nào

còn tìm lại được nữa.

2. Những day dứt, bất an trên con đường làm quan.

Nguyễn Khuyến bước vào chính trường được hơn một năm thì thực

dân Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất. Cuộc tấn công ấy đã hoàn toàn phá vỡ

thế yên bình tạm bợ mà triều Nguyễn cố sức trì kéo. Khắp nơi khói lửa, loạn

lạc, lại thêm nỗi hạn lụt khiến dân tình đói khó. Bước đầu con đường làm

quan của Nguyễn Khuyến đã không suôn sẻ. Hoài bão đưa nước nhà trở lại

thời thịnh trị đã vấp phải thực tại gay gắt mà tài năng, tâm huyết của ông cũng

không tác động được gì nhiều. Tình hình đó khiến cho Nguyễn Khuyến có cái

nhìn khác với thuở ông viết bài văn sách thi Đình.

Ông thấu hiểu nỗi nhục của kẻ sĩ nếu phải chịu thua kẻ thù: “Tứ giao đa

lũy, thử khanh đại phu chi nhục dã” (Nghĩa là: Đồn giặc đóng khắp bốn ngoại

vi kinh thành, đó là cái nhục của khanh đại phu – Lễ ký. Nhưng ông còn phải

chịu một điều day dứt có lẽ lớn hơn, ấy là đang bị thực tế loại dần ra, vô hình

trung trở thành người “ngoài cuộc”:

Thuật nghiệp vô tha lãn thả dung,

Án nhiên nhất thất vũ hoàn trung.

Dĩ ưng bất khí thiên tâm hậu,

Hà hạnh vô thu thánh lượng hồng.

Tài tiểu nan phân đa lũy nhục,

Page 120: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Vị ty hề bổ tứ thời công.

Vị vong nhất điểm thương sinh niệm,

Hảo hướng Nam Dương khởi Ngọa long.

(Nhàn vịnh)

(Công nghiệp thuật theo người xưa không có gì khác là lười và

rỗi,

Được yên ổn trong một ngôi nhà giữa cõi nhân gian.

Đã không bỏ tấm lòng trung hậu trời phú cho,

May mắn sao lại không nhận ơn lớn vua ban.

Tài kém không thể chia sẻ nỗi nhục bốn cõi đầy đồn giặc,

Chức quan thấp bổ ích gì cho công việc bốn mùa?

Chưa quên được nỗi niềm đối với người dân mọn,

Hãy hướng về đất Nam Dương gọi con rồng đang ngủ).

Đang trong thời tại chức, và giữa một tình thế nước sôi lửa bỏng khắp

từ Bắc chí Nam, vậy mà quan Tam nguyên lại có đến 10 bài Nhàn vịnh. Ông

trở đi trở lại mấy tứ thơ: vụng, kém tài, việc nhàn, vô vị, chỉ còn cách di dưỡng

lấy bản chất của mình, mong sẽ có lúc được phát huy tài năng. Nhưng càng

về sau ý mong chờ được đắc dụng càng nhạt dần, Nguyễn Khuyến bắt đầu

có tư tưởng “muốn trở về vườn cũ”. Ông đạt nhiều câu hỏi về ý nghĩa của

cuộc đời, của sự nghiệp: “Sự nghiệp bá vương qua nghìn năm” cũng chẳng

còn gì, “chỉ thấy quả núi Dạ, khói cây man mác” (Dạ Sơn miếu); “Người ta

như hạt bụi nhỏ lẩn vẩn giữa núi sông – Cái thân trăm năm sừng sững hỏi

được việc gì? – Bá Di chết vì danh, Đạo Chích chết vì lợi, nắm xương khô

đều không còn nữa – Đông Phương Sóc thiếu, anh hề lùn thừa mà lộc nước

vẫn bằng nhau!” (Ngẫu thành, II). Trong ông đã xẩy ra một cuộc đấu tranh

giằng co: một đằng là ơn vua, là tấm lòng thương dân lo đời khiến ông đau

buồn mà chưa thể rứt ra khỏi “một chức quan”, nhưng đằng khác ông lại cũng

rất tỉnh táo để thấy rằng chí của thuở tráng niên chỉ làm cho hai mái tóc thêm

Page 121: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

bạc, còn Đạo học thì đã đi vào hồi cuối, văn chương đã rớt xuống hàng hạ

đẳng rồi. (Thượng hữu nhân tâm tê nhất điểm – Khả vô thế cục lệ tam thăng

– Thủy niên ý chí quy song mấn – Mạt học văn chương nhập hạ tằng – Hữu

cảm). Nguyễn Khuyến đã chán cảnh làm quan, ông coi mười năm ở chốn

quan trường là một việc “lặn lội” vất vả, ông tự thấy cảm “thương mình nửa

đời chịu lênh đênh trong cõi phù thế” (Bắc quy, lưu giản tại kinh chư đồng chí,

I). Nhìn chung lại Nguyễn Khuyến coi cuộc đời là giấc mộng lớn, trong đó

hoạn đồ chỉ là “mộng trong mộng” mà thôi (Hoàng lương nhất chẩm mộng

phục mộng – Ngẫu thành, I).

Dẫu vậy, cuộc đấu tranh giữa “ở và về” vẫn chưa ngã ngũ và Nguyễn

Khuyến vẫn trong tâm trạng phân đôi:

Tiêu dao độc tiễn lăng phong dịch,

Bán thượng trùng tiêu bán lạc trần.

(Ngẫu thành. I)

(Thèm được như khúc sáo “Tiêu dao” vượt lên trong gió.

Nửa vút tầng mây, nửa rơi xuống cõi trần).

Hòa ước Hacmăng (Harmand) 1884 đã giúp Nguyễn Khuyến chấm dứt

tình trạng không dứt khoát ấy. Ông kiên quyết không nhận chức Tổng đốc

Sơn Tây mà vào tận Kinh đô để chờ xin bằng được chiếu chỉ vua cho về nghỉ,

mặc dù lúc đó ông mới năm mươi tuổi, theo chế độ làm việc của triều đình

còn có thể làm quan 15 năm nữa. Việc quyết định rút lui khỏi chính trường

nhanh chóng và quyết liệt như vậy tỏ rõ một thái độ. Có thể ông không tán

thành sự chấp nhận quyền cai trị của thực dân Pháp, ông vẫn chờ đợi những

người “giúp sự nghiệp trung hưng” (Đương niên khởi phạp trung hưng tá? –

Sơ chí Đà Tấn phụng tống đương sự chư quân). Ông tin trong triều không

đến nỗi thiếu những bậc phù tá và ông gửi gắm trách nhiệm đó cho đồng sự:

“Kiếp sống thừa bây giờ chỉ muốn về chốn núi rừng – Cứu vãn thời thế chỉ

còn mong chư công góp sức” (Họa đáp Hoàng Tham tri họa hồi nguyên vận).

Vứt bỏ một chức quan đối với Nguyễn Khuyến là một việc nhẹ nhàng nhưng

Page 122: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

trên con đường trở về nhà tâm trạng ông lại không hoàn toàn thanh thản, vừa

ảm đạm vừa phân mang. Ở ông có cái cảm giác “tủi phận” vì đau yếu mắt

mờ, phải bỏ dở nghiệp lớn, cũng có sự kinh hãi vì cuộc đời dâu bể, đất nước

loạn ly, hoạn đồ hiểm trở; cũng có nỗi buồn của sự chia xa bè bạn và cả tâm

lý hoang mang, “không tin chắc gì” sẽ có được thú nhàn dật khi trở lại quê

nhà:

Mặc thụ đồng chương thập nhị niên,

Thử thân nhật vọng thánh triều liên.

Bệnh nhân đa sự thả hưu hĩ,

Phúc hữu nhất xan do khả nhiên.

Khứ quốc khởi vô bằng bối tại,

Quy gia vị tất tử tôn hiền.

Mông lung bả trản tòng kim sự,

Chỉ khủng di ô đáo giản biên.

(Cảm tác)

(Dây thao đen, ấn đồng đã mười hai năm,

Thân này ngày ngày mong được thánh triều thương.

Ốm đau vì nhiều việc, thôi hãy nghỉ,

Dù chỉ một bữa ăn bụng vẫn còn no.

Bỏ nước mà đi nhưng bạn bè vẫn còn lại đó,

Về nhà chưa chắc đã có cháu con hiền.

Nâng chén say tít là việc của ta từ nay,

Chỉ e lại làm nhơ đến sử sách).

Bài Cảm tác trên đây có thể xem như lời tỏ bày đầy đủ và thực chất con

người Nguyễn Khuyến khi “hoàn gia”. Ở vào giờ phút rẽ ngoặt của đời mình,

con người này đã bỏ rơi mất cả thói quen thi vị hóa hoàn cảnh để che giấu nỗi

Page 123: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

lòng. Nhưng chính đó lại là sự nhen nhóm của một âm hưởng trữ tình mới

mẻ, nó toát lên một ý nghĩa thẩm mỹ mới. Những sắc thái tương phản trong

tình cảm Nguyễn Khuyến cho thấy ông đang ở vào một hoàn cảnh tàn nhẫn,

một lối thoát bất đắc dĩ, dù cố giấu cũng không thể được nữa, và từ nay ông

sẽ thẳng thắn đối diện với nó. Có lẽ đấy cũng là lý do chính, bên cạnh ý khiêm

nhường, để Nguyễn Khuyến “thẹn với ông Đào” khi cầm bút viết về hoa cúc,

mùa thu sau này.

3. Tâm trạng cô đơn, thất vọng trong những năm đã về nghỉ.

Tâm trạng cô đơn, lời độc thoại là một nét nổi trong thơ chữ Hán

Nguyễn Khuyến. Ngay từ tuổi trẻ, khi đang còn rong ruổi trên con đường sự

nghiệp, Nguyễn Khuyến đã có những đêm thu một mình:

Sơn hà liêu lạc tứ vô thanh,

Độc tọa thư đường khán nguyệt minh.

Hà xứ thu phong xuy nhất diệp,

Dẫn lai vô hạn cố viên tình.

(Thu dạ hữu cảm)

(Bốn mặt non sông phẳng lặng tờ,

Phòng văn tựa ghế ngắm gương Nga.

Lá thu một chiếc bay trong gió,

Khêu gợi bao nhiêu nỗi nhớ nhà).

Tâm trạng này đặc biệt trở nên sâu sắc sau khi ông từ quan. Chẳng

những ông “một mình” khi ở nơi đất khách mà còn “một mình” ngay trong ngôi

chùa quen thuộc ở quê hương:

Vị biện sắc không giới,

Đãn cầu nhân thế liên.

Hà xứ tiểu phong dẫn,

Ngạch thủ chuyên sàng miên.

Page 124: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nhất chung khấu tàn mộng,

Quy lai minh nguyệt thiên.

(Thanh Giang tự tỵ thử)

(Không, sắc chửa phân biệt,

Tình người mong sẻ chia.

Từ đâu gió thoảng tới,

Gốc gạch ngủ bên hè.

Chuông giục khua tàn mộng,

Trăng mênh mang đường về)

Một mình than thở, một mình uống rượu, tỉnh và say cũng một mình;

ngồi, đứng, đi dạo một mình; ngắm trăng, ngắm hoa một mình… Đến cả khi

gửi thư cho bạn hay căn dặn các con, Nguyễn Khuyến cũng không tránh

được tâm trạng cô đơn” “Non sông tan tác biết ở nơi nào – Bạn bè hao mòn

lấy ai cùng họp mặt” (Ký hữu).

Nhìn chung âm điệu chủ yếu trong thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến là

buồn, nhưng càng ở những bài viết vào những năm cuối đời, âm điệu ấy càng

trở nên da diết, thâm trầm, khắc khoải. Trong thơ, ông bày tỏ nguyên nhân

dẫn đến nỗi niềm ưu uất của mình. Đất nước đã rơi vào tay bọn “Tây di”,

người trung nghĩa bỏ mình và giang sơn cơ đồ thì biến đổi đến dồn dập, phũ

phàng. Những nơi chốn lại qua quen thuộc hầu thành thân thiết xưa kia, nay

đều bị “ngoại nhân” thay thế làm cho lạ lẫm: xóm nhà tre, cổng chống đã bị

thay bằng lâu đài, tiếng đàn, tiếng sáo bị thay bằng tiếng kèn đồng, tiếng súng

(Hoàn Kiếm hồ); những nơi thiêng liêng, tiêu biểu cho Đạo học của nước nhà

đã bị phế bỏ, trở nên hoang lương: lầu Khuê Văn chỉ có tiếng chuông đêm,

dòng Bích Thủy chỉ có trăng rọi hàng bia cũ đứng trơ, ban đêm một ông già

lặng lẽ chống gậy đi đi lại lại (Hà Nội Văn Miếu hữu cảm)…

Đất nước loạn lạc, lẽ ra đó là thời của các ông – “trai thời loạn”, theo

quan niệm truyền thống về chủ nghĩa anh hùng phong kiến. Nhưng tầng lớp

Page 125: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

kẻ sĩ đã không hoàn thành trách nhiệm của mình. Nguyễn Khuyến cảm nhận

được sự lỗi thời, cái vô nghĩa của “Đạo học” và sự phân hóa của tầng lớp

ông. Nhiều nhà Nho đã cộng tác với ngoại bang. Họ có thể sử dụng mối quan

hệ bạn bè, đồng liêu, đồng học và cả quan hệ thầy trò để ép những người

đang ẩn lánh phải từ bỏ ý chí của mình, thậm chí họ không ngần ngại cả việc

bắt bớ, giết hại bạn bè. Nguyễn Khuyến chua chát rút ra kết luận: đời này

chẳng còn Bá Di, Thúc Tề và văn chương đã trở thành vô dụng. “Người đã

cùng mà trời chưa định – Đạo học mất rồi biết đi về đâu? Bốn bể đang mở ra

phong hội mới – Trên nghìn non rau quyết, rau vi cũng bỏ già thôi!” (Ký Châu

Giang Bùi Ân Niên); “Văn chương thời nay còn dùng làm gì nữa – Áo xiêm về

già đáng hổ thẹn nhiều” (Xuân nhật thị chư nhi,II).

Có lẽ Nguyễn Khuyến là người sớm có một cái nhìn, một cách nghĩ tỉnh

táo về vai trò của hệ tư tưởng Nho gia. Có thể nói từ niềm tin còn sót lại một

cách yếu ớt “ngày nay hẳn không thiếu những bậc phò tá việc trung hưng”

(sơ chí Đà Tấn phụng tống đương sự) trong tư tưởng của Nguyễn Khuyến đã

dần dần xảy ra một sự biến chuyển gay gắt để rốt cuộc đi đến chỗ nhận rõ sự

việc bất lực, lỗi thời của mình và của cả một lớp người như mình. Ý nghĩ đó là

sự tự phủ nhận vai trò rường cột của tầng lớp kẻ sĩ, phủ định lý tưởng kinh

bang tế thế của Đạo học mà ông đã suốt đời theo đuổi. Dẫu rằng đây mới chỉ

là sự cảm nhận, chưa phải là một nhận thức rõ rệt, có lý luận nhưng Nguyễn

Khuyến quả đã nhìn ra cái điều mà không phải bất cứ nhà Nho đương thời

nào cũng nhìn thấy. Cho nên cùng với việc tự rút lui, Nguyễn Khuyến còn tự

phán xét mình. Ông chưa bao giờ lấy việc đi ở ẩn, từ quan để chứng tỏ nhân

cách cao khiết, ý chí cứng cỏi của mình và nhân đó mà cao ngạo với đời.

Trước sau ông chỉ xem đây là một hành động “chạy làng”, bỏ cuộc của một

người biết mình không còn một kế sách nào dùng được. Cũng vì vậy nhiều

lần ông nói đến sự “gánh vác” của “đàn sau”: “Trên hội phong vân cha đang

trước tuổi già - Ngày ngày mong con sẽ cùng đời rong ruổi” (Tứ tử Hoan Hội

thí trúng Phó bảng); “Anh về lão gửi đến các người quen thuộc – Rằng:

Huyền Án tiên sinh đã bạc đầu rồi” (Tiễn môn đệ Nghĩa định sứ quân Lê Như

Bạch nhân ký kinh thành chư môn đệ,II).

Page 126: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Tuy nhiên chính Nguyễn Khuyến lại cũng biết rõ rằng các thế hệ kế tiếp

vẫn chưa tìm ra một phương hướng nào sáng sủa hơn. Học trò ông ra đi

trong khung cảnh mùa thu tiêu điều:

Minh triêu hựu thị giang kiều lộ,

Bại nhứ tàn vân thất nguyệt thiên.

(Tiễn môn đệ Nghĩa định sứ quân Lê Như

Bạch nhân ký kinh thành chư môn đệ,I)

(Sớm mai anh lại lên đường qua sông qua cầu,

Giữa tiết tháng Bảy mây tan, bông bay xơ xác).

Theo Nguyễn Khuyến, con trai đã đỗ đạt cũng chỉ nên làm chức quan

giữ cửa, cố gắng khoan dung cho dân được phần nào hay phần ấy:

Ngã dĩ từ quan, nhĩ tố quan,

Tố quan năng hội tố quan nan.

Danh cư quá mãn ưu lăng tiết,

Sở hữu nhân bần thả bão quan.

Đương nhật sự tùy đương nhật ứng,

Nhất phần tứ thị, nhất phần khoan.

Hành tai, liêu tá xuân phong tặng,

Đương nhĩ hư hòa thích táo đan.

(Xuân nhật thị tử Hoan)

(Ta đã từ quan, con lại ra làm quan,

Làm quan phải biết rằng làm quan là khó.

Danh tiếng lừng lẫy quá e lẫn mất khí tiết,

Làm quan vì nghèo thì hãy làm chức giữ cửa.

Việc ngày nào thì ứng phó tùy theo ngày ấy,

Page 127: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Khoan dung một phần là dân được nhờ ơn một phần.

Con đi thôi! Cha hãy mượn gió xuân làm quà,

Coi như một bài thuốc “thổi hơi hòa xua hơi nắng” tặng

con).

Tiễn học trò, tiễn con đi làm quan mà Nguyễn Khuyến ưu sầu, bất đắc

dĩ đến thế! Nỗi đau mất nước, lòng thương dân cùng với sự lo lắng cho cuộc

sống thực tế hàng ngày, sự bực dọc vì những hiện tượng bất như ý đã đưa

Nguyễn Khuyến đến tâm trạng bế tắc, chán nản. Nhiều lần ông nghĩ đến cái

chết, coi bước đột biến này như một cách giải thoát nhẹ nhàng: “Một giấc

ngon lành chết hóa xong” (Tự trào). Và cũng chỉ nhân sự kiện này may chi

ông mới có thể khẳng định cùng mai hậu về tấm lòng của mình đối với đất

nước, với dân tộc:

Đề vào mấy chữ trong bia,

Rằng: quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu!

(Trị mệnh)

Thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến phong phú. Người đọc có thể tìm ở đây

tấm lòng nhân hậu, chí tình của một người cha, một người chồng, một ông

quan già, một người bạn; cũng có thể tìm thấy những bức tranh thiên nhiên

đặc sắc, tươi đẹp, một bút pháp bình dị, tự nhiên… Tuy nhiên, đậm nét hơn

cả vẫn là cái “tôi” trữ tình khắc khoải, là nỗi ưu tư lớn lao đến trở thành u uất

về hiện tình đất nước và về sự vô dụng của tầng lớp mình.

Bản thân điều đó đã mang ý nghĩa xã hội rộng lớn và sức cuốn hút

nghệ thuật vô cùng sâu sắc, bởi lẽ đó không chỉ là tấn bi kịch của một mình

Nguyễn Khuyến mà còn của cả một tầng lớp trí thức cùng thời với ông. Ít hay

nhiều nó cũng là sự phủ định ngấm ngầm đối với một lý tưởng đang sụp đổ.

Page 128: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

12. THÁI ĐỘ TRÀO LỘNG ĐỐI VỚI CON NGƯỜI VÀ CÁC HÌNH THÁI BIỂU HIỆN CỦA NHÂN VẬT TRÀO LỘNG

Trong tác phẩm của Nguyễn Khuyến có hai mảng sáng tác quan trọng,

là kết quả của hai nguồn cảm hứng chính: trữ tình và trào lộng. Hai nguồn

cảm hứng này, khi thì trùng khớp nhau, khi lại phân rẽ thành các hướng, diễn

tả những sắc thái khác nhau trong đời sống tâm hồn tác giả.

Một số người nghiên cứu thơ văn trào phúng Nguyễn Khuyến thường

quy bộ phận sáng tác này về loại “văn học phê phán, tố cáo xã hội” như nói

chung các loại văn học “hài” mà chúng ta dễ gặp, cũng như khi tìm hiểu tâm

trạng Nguyễn Khuyến thường quy về “tâm trạng yêu nước” và đi tới xác định

Nguyễn Khuyến là một “nhà thơ yêu nước”. Xét từ ngôn bản tác phẩm, điều

này rõ ràng cần phải nhận thức lại.

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 420 đơn vị tác phẩm của Nguyễn

Khuyến, thì có tới 128 tác phẩm trào phúng, chiếm 34% tổng số thơ văn của

ông. Cũng như mọi bộ sáng tác khác, thơ văn trào phúng Nguyễn Khuyến

gắn liền với những biến động lớn nhỏ của cuộc đời nhà thơ, phản ánh trực

tiếp tâm tư, tình cảm của ông, thái độ thẩm mỹ của ông đối với con người và

cuộc sống.

Về thơ Nôm, trước khi về Yên Đổ, ông có 23 bài, thì có tới 20 bài thơ

trào phúng, chiếm 87%; sau khi về Yên Đổ, ông có 63 bài, thì có tới 41 bài

thơ trào phúng, chiếm 65%. Về thơ chữ Hán, trước khi về Yên Đổ, ông có 186

bài, chỉ có 14 bài thơ trào phúng. Về câu đối, trong số 47 câu đối Nôm, có tới

41 câu đối trào phúng, chiếm 87% trong số 20 câu đối chữ Hán có tới 10 câu

đối trào phúng chiếm tỷ lệ 50%. Các số liệu này là bằng chứng quan trọng để

chúng ta có sơ sở, nhận thức tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Khuyến thông

qua cái nhìn trào lộng đối với con người của ông.

Người ta có thể tiếp cận thơ văn trào phúng Nguyễn Khuyến ở các

phương diện khác nhau như: đề tài trào phúng, nội dung trào phúng, cách

thức tổ chức trào phúng… Ở đây, chúng tôi chú ý tới đối tượng trào phúng

Page 129: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

của Nguyễn Khuyến. Qua các đối tượng trào phúng khác nhau, chúng tôi

khảo sát các cấp độ trào lộng khác nhau, và đi tới xác định các dạng thái trào

lộng khác nhau của Nguyễn Khuyến đối với con người.

Đối tượng trào lộng của Nguyễn Khuyến có hai loại: loại đối tượng

khách thể và loại đối tượng chủ thể. “Trò diễn” trào lộng của Nguyễn Khuyến

chủ yếu xoay quanh hai loại đối tượng này. Nhưng trong sáng tác của

Nguyễn Khuyến có một bộ phận tác phẩm không kém độc đáo, đó là “thơ say”

– một khía cạnh khác của thơ tự trào Nguyễn Khuyến – bộc lộ một sắc thái

riêng trong tâm hồn hài hước của nhà thơ. Đây cũng là “chủ thể” nhưng lại

mang một nét đặc trưng có phần khu biệt. Vì thế trong mục này, chúng tôi tìm

hiểu thái độ trào lộng của Nguyễn Khuyến đối với con người trên ba bình

diện, cũng là tìm hiểu ba dạng thức biểu hiện của nhân vật trào phúng trong

thơ Nguyễn Khuyến: a– Tiếng cười trước đối tượng khách thể; b– Tiếng cười

trước đối tượng chủ thể; c– Thêm một Túy Ông.

Từ định hướng trên, chúng tôi nhận thấy: trong thơ Nôm trào phúng

trước khi Nguyễn Khuyến về Yên Đổ, 85% tác phẩm có đối tượng khách thể,

15% tác phẩm có đối tượng chủ thể. Trong thơ Nôm trào phúng sau khi

Nguyễn Khuyến về Yên Đổ, 76% tác phẩm có đối tượng khách thể, 24% có

đối tượng chủ thể. Trong thơ chữ Hán trào phúng trước khi ông về Yên Đổ,

chỉ có đối tượng khách thể; sau khi ông về Yên Đổ, 57% có đối tượng khách

thể, 43% có đối tượng chủ thể. Trong câu đối chữ Nôm, loại có đối tượng

khách thể chiếm 71%, loại có đối tượng chủ thể chiếm 29%. Trong câu đối

chữ Hán, chỉ có loại có đối tượng khách thể.

Xét về tổng thể, tác phẩm trào phúng có đối tượng khách thể chiếm

75%, tác phẩm có đối tượng chủ thể chiếm 25%. Song giá trị nghệ thuật của

các tác phẩm trào phúng không chỉ phụ thuộc vào số lượng, mà phụ thuộc

vào các yếu tố khác nữa, vào các sắc độ của tiếng cười, và vào việc thể hiện

sâu sắc thái độ thẩm mỹ của tác giả trước mỗi loại đối tượng trào lộng.

I. TIẾNG CƯỜI TRƯỚC ĐỐI TƯỢNG KHÁCH THỂ

Page 130: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Xét theo thời gian, tiếng cười Nguyễn Khuyến có thể chia làm hai thời

kỳ: trước khi ông về Yên Đổ và sau khi ông về Yên Đổ, biểu hiện hai sắc thái

tình cảm khác nhau. Trước khi ông về Yên Đổ, đó là tiếng cười tự tin, vui vẻ,

lạc quan yêu đời, tiếng cười khẳng định. Sau khi về Yên Đổ, đó là tiếng cười

bi quan, đau buồn, chán nản, là tiếng cười phê phán, phủ định.

Nhưng nếu xem thơ văn trào phúng Nguyễn Khuyến là một bộ phận

sáng tác có nhiều nét chung liên kết thành một chỉnh thể nghệ thuật tương đối

chặt chẽ, thì chúng ta lại có thể nghiên cứu tác phẩm trào phúng của ông trên

các cấp độ, các sắc độ trào tiếu khác nhau, thể hiện trực tiếp những tâm trạng

khác nhau của nhà thơ trước những đối tượng khác nhau.

Hơn nữa, nó tránh cho chúng ta khỏi phải lặp lại nhiều lần khi phân tích

những giọng điệu tiếng cười ở hai giai đoạn chính trong cuộc đời ông. Bởi vì,

xét một cách chặt chẽ, tiếng cười phủ định không phải chưa từng xuất hiện

trong thơ văn Nguyễn Khuyến trước khi ông về Yên Đổ, và tiếng cười khẳng

định, tự tin không phải không trở lại nhiều lần trong thơ văn Nguyễn Khuyến ở

chặng đời sau khi ông đã về Yên Đổ.

Ngoài ra, một mặt, sáng tác của Nguyễn Khuyến không hề tĩnh tại,

đứng im, mà luôn luôn vận động, phát triển, theo sát số phận và tâm trạng

nhà thơ, mặt khác, nó lại cũng thể hiện tính thống nhất, nhất quán trong bút

pháp, trong tư tưởng nghệ thuật của tác giả, một nhân cách không dễ đổi thay

trước bao biến cố của cuộc đời. Bất kỳ lúc nào, cái tốt đẹp vẫn được ông tin

yêu, trân trọng, khẳng định và cái xấu xa, hèn kém… đều bị ông căm ghét,

phê phán, phủ định.

Chính vì những lẽ trên, ở phương diện trào lộng này, chúng tôi chọn

cách tiếp cận tiếng cười Nguyễn Khuyến từ các thái độ trào lộng khác nhau

của ông, đi tới xác định các tâm trạng khác nhau của ông trước con người và

cuộc sống.

1. Thái độ bao dung, tin yêu và nhân hậu.

Page 131: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nguyễn Khuyến hay dùng các biện pháp tu từ nhằm tạo nên xung đột

gây cười. Biện pháp nghệ thuật này được lặp đi, lặp lại nhiều lần, tạo nên nét

riêng trong tiếng cười Nguyễn Khuyến, một kiểu tiếng cười nhẹ nhàng, bộc lộ

một thái độ bao dung, tin yêu và nhân hậu đối với con người và cuộc sống.

Có thể nói đây là bộ phận tác phẩm trào phúng quan trọng của Nguyễn

Khuyến. Thơ Nôm trào phúng thuộc loại đối tượng khách thể trước khi ông về

Yên Đổ có 17 bài, thì có tới 13 bài thuộc cấp độ này. Sau khi ông về Yên Đổ

có 31 bài, thì có 8 bài thuộc cấp độ này. Giọng điệu cười loại này rõ ràng

thường trực trong thơ văn ông, theo suốt cuộc đời ông. Đó là tiếng cười vô tư,

sảng khoái, có khi rất suồng sã, thân tình. Tiếng cười cất lên trước cảnh “Gái

rửa… bờ sông”: “Thu vén giang sơn một Cắp tròn”; trước “Ảnh Tố nữ”:

“Người xinh cái bóng tình tinh cũng…”; trước “Cô tiểu ngủ ngày” khiến:

Cá khe lắng kệ, đầu hi hóp,

Chim núi nghe kinh, cổ gật gù,

(Bỡn cô tiểu ngủ ngày)

trước “Lão ăn mày”: “Ăn mày chớ có ăn tao nhé” v.v…Tiếng cười cất lên sôi

nổi trong hàng loạt bài thơ như: Khuyên trợ cả, Nhất vợ nhì giời, Bạn đến

chơi nhà, Lụt hỏi thăm bạn, Mừng ông hàng thịt, Không chồng trông lông

bông v.v…đều góp phần bộc lộ thái độ này.

Thái độ trào tiếu này còn thể hiện rất rõ trong loại hình câu đối. Câu đối

Nguyễn Khuyến đề cập đến rất nhiều khía cạnh của cuộc sống hàng ngày. Ở

đâu ông cũng tìm được những từ ngữ tạo tình huống gây cười. Đứng về

không gian, kích cỡ, câu đối yêu cầu rất hẹp; đứng về thời gian (cả thời gian

sáng tạo và thời gian thưởng thức), nó yêu cầu rất ngắn. Hơn nữa, hạt nhân

nghệ thuật của câu đối là tính đối xứng (đối lập, đối chọi), còn hạt nhân của

nghệ thuật trào lộng là sự xung đột, mâu thuẫn. Nguyễn Khuyến đã hết sức

lợi dụng cái lợi thế này của câu đối để gây cười, để tạo nên những xung đột

gây cười rất hoạt, rất sắc, rất trẻ. Các đối tượng và hoàn cảnh trào tiếu trong

câu đối Nguyễn Khuyến thật phong phú: trêu gái, say rượu, nghèo hèn, làm

Page 132: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

quan, về vườn, người sinh, người chết, người sang, kẻ hèn, người giỏi, kẻ

dốt v.v… Cũng cần thấy một điều, rằng Nguyễn Khuyến là một trong những

nhà thơ đã thực hiện quá trình thông tục hóa mạnh mẽ, nhất là nội dung và

hình thức câu đối – một loại hình nghệ thuật quen thuộc trong đời sống văn

hóa, văn học trung cổ, có ý nghĩa trang trọng, thường dùng các loại ngôn ngữ

thuộc phong cách cao, và thường được treo, dán ở những nơi trang nghiêm,

thành kính.

Tiếng cười của Nguyễn Khuyến thể hiện rõ thái độ của ông đối với con

người. Qua tiếng cười nhẹ nhàng vô hại, Nguyễn Khuyến bày tỏ một tình cảm

thân mật, tin yêu, một thái độ chân thành, nồng hậu, và một tinh thần dân chủ

nhất định mà thời đại ông cho phép. Con người trong tiếng cười của ông ở

cấp độ này là những con người gần gũi, gắn bó thân thiết trong cuộc sống

của ông. Đó là vợ con, anh em, bạn bè, láng giềng, những người cùng cảnh

ngộ, gần gũi bên ông từ khi ông còn trai trẻ, hàn vi, đến khi đã thành đạt, đã

già nua tuổi tác. Họ hiện ra trong tiếng cười bao dung, yêu thương, đùm bọc

của ông.

2. Thái độ phê phán nhẹ nhàng và xót xa thông cảm.

Tiếng cười loại này không mang thái độ phê phán, phủ nhận quyết liệt

đối tượng, cũng không phải là thái độ suồng sã, thân mật, như ta thấy ở trên.

Nó nằm giữa hai loại thái độ đó. Nó không quá thân mật, cũng không quá lạnh

lùng. Nó vừa chê bai, giễu cợt, lại vừa như có phần cảm thông, tha thứ.

Ở đây, tác giả tiếp tục sử dụng các biện pháp tu từ để tạo xung đột gây

cười, đồng thời bắt đầu chú ý tới việc xây dựng những mâu thuẫn có tính hài

giữa bản chất yếu kém và hình thức sang trọng của đối tượng trào lộng.

Nếu ở trên, tác giả luôn luôn tỏ thái độ thân mật với đối tượng trào lộng,

thì ở đây, ông lại tỏ thái độ chê bai, chế giễu. Ông không còn đứng gần hay

ngang hàng với đối tượng mà tách ra khỏi đối tượng, trong chiều hướng đứng

trên đối tượng về phẩm chất và nhân cách. Vì thế mà tiếng cười vừa như phê

phán, cũng vừa có nét cảm thông, an ủi chân tình. Nhà thơ chế giễu quan

Tuần phủ mất cướp:

Page 133: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Bây giờ mới sẽ sầy da trán,

Ngày trước đi đâu mất mảy lông.

(Hỏi thăm quan Tuần một cướp)

Song lại cũng rất thương xót, thông cảm với “thân già, da cóc” của

quan bị bọn cướp “lấy của”; “lèn”, “đánh”, và đem “bỏ giữa đồng”…

Nhà thơ chế giễu “thầy đồ ve gái góa”, nhưng cũng thông cảm với tình

cảnh “thầy yêu mẹ cháu”, vì nỗi “dạy cháu rồi nên mẹ cháu ngây”…

Nhà thơ chế giễu ông sư:

Đầu trọc lốc bình vôi,

Nhảy tót lên chùa ngồi.

(Vịnh sư)

nhưng cũng lại tỏ ra thương hại, cảm thông kín đáo kẻ phải nhịn nhục trong

ăn uống và “bồ côi” về “tình dục” v.v…

Giọng điệu chế giễu cất lên trong hàng loạt bài thơ, câu đối khác: Vu

sử, Đao thất đạo, Vũ phu đôi, Mừng ông Nghè mới đỗ, Đồng cốt, Tặng ông

Bảng Long, Bà già lấy chồng, Tặng sư móm tiểu ngọng v.v… là để bộc lộ thái

độ trên.

Trong thơ Nguyễn Khuyến, những con người đáng cười, đáng chế giễu

ở đây không phải là những người hoàn toàn xấu, còn những cái xấu ở đây

cũng không phải là những cái hoàn toàn không thể chấp nhận và thay đổi

được. Đó vẫn là những con người với những nét xấu mà người ta có thể bắt

gặp ở mọi thời đại. Đó là những kẻ ký cóp đến bủn xỉn, là kẻ vênh vang hãnh

tiến, kẻ đạo đức giả, kẻ phong tình, người thích chơi trống bỏi, v.v… cùng

hàng loạt các thói xấu và thói đời khác của con người tồn tại đã từ rất lâu và

sẽ còn rất lâu.

Nguyễn Khuyến cất lên tiếng cười ở đây là để tỏ rõ thái độ phê phán

những điểm, những nét còn yếu kém, xấu xa của con người. Ông yêu cầu

Page 134: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

sửa chữa những cái xấu đó trong một tinh thần nhân hậu, vị tha, có phần còn

thương xót nữa.

3. Thái độ phủ nhận và đả kích

Trước khi về Yên Đổ, thái độ trào phúng loại này ít. Nó tập trung nhất

trong thơ Nguyễn Khuyến sau khi ông về Yên Đổ. Lý do vì sao, điều này

chúng ta đã rõ. Trong số 31 bài thơ Nôm trào phúng trước đối tượng khách

thể, tiếng cười loại này chiếm tới 16 bài. Đây là tiếng cười có ý nghĩa xã hội

trong thơ Nguyễn Khuyến, thể hiện tinh thần phê phán, phủ định quyết liệt đối

tượng trào lộng. Với loại tiếng cười này, tác giả không quan tâm lắm tới các

biện pháp tu từ gây cười, mà chủ yếu tập trung tạo ra những xung đột, những

mâu thuẫn gây cười khi vạch trần bản chất xấuxa, hèn kém, trống rỗng của

đối tượng trào lộng, được khoác những bộ áo sang trọng. Tác giả không lộ

liễu can thiệp vào tiếng cười, mà để cho đối tượng tự bộc lộ sự đáng cười.

Nếu như Tú Xương ghi lại một cách đa dạng, phong phú hình ảnh bọn

quan lại xấu xa, hèn kém, ích kỷ, tham lam, những cậu ấm cô chiêu, những

me Tây gái điếm, ông Đốc ông Cò, ông Cai ông Ký, những chồng vợ, con cái

của một thứ “gia đình kiểu mới”, nhằm dựng lên một loạt những “con người

mới”, con đẻ của chế độ thực dân phong kiến ở thành thị Việt Nam lúc đó,

bằng nghệ thuật trào tiếu của riêng mình, thì Nguyễn Khuyến cũng vậy. Trong

thơ trào phúng ở cấp độ này của Nguyễn Khuyến cũng hiện lên đông đảo

những “con người với” cùng loại, gắn chặt với nông thôn Việt Nam đầu thời kỳ

thuộc Pháp. Nhân vật trào lộng trong thơ Tú Xương chủ yếu do chế độ mới

đẻ ra, còn trong thơ Nguyễn Khuyến, nó chủ yếu là con người phong kiến cũ

vừa bị tha hóa. Vì sao vậy? Vì quá trình thực dân hóa vốn diễn ra mạnh mẽ ở

thành thị chứ không phải ở nông thôn, cho nên thơ trào phúng Tú Xương là

sự khái quát nghệ thuật hình ảnh những “con người mới” đặt trong một không

gian có phần pha tạp của thành thị Việt Nam, trong một thời gian có phần gấp

gáp, nhiều biến động của thị trường Việt Nam. Trái lại, thơ văn trào phúng

Nguyễn Khuyến là sự khái quát nghệ thuật hình ảnh những “con người mới”

còn mang dáng vẻ quen thuộc của quá khứ trong một không gian có phần còn

Page 135: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

khép kín của những ngôi làng cổ, trong một nhịp độ vẫn chậm rãi đủng đỉnh

của nông nghiệp Việt Nam.

Nhưng giá trị phê phán, phủ nhận trong thơ Nguyễn Khuyến không kém

phần quyết hệt. Con người trào lộng trong tiếng cười Nguyễn Khuyến hiện ra

trong sự căng thẳng của các xung đột trào lộng. Đó là ông Đốc học, nhưng

không phải là người chăm lo cho sự học của nhân dân, mà là:

Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt,

Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen.

(Tặng Đốc học Hà Nam)

Đó là ông Tiến sĩ, cũng đủ cả cờ biển, áo mũ vua ban, những tưởng có

tài kinh bang tế thế, mà lại chỉ là thứ đồ chơi (Vịnh Tiến sĩ giấy). Đó là những

cô “gái ngoan”, nhưng là “ngoan” trong việc “ẩu chiến với Tây quan” (Lấy

Tây).

Đó là cô Tư Hồng mệnh phụ có hàm sắc phong “Tứ phẩm cung nhân”,

nhưng là vì làm đĩ “có tàn có tán”. Đó là ông vua, uy nghi đường bệ, “cũng hò,

cũng hét, cũng i uông”, nhưng là “vua chèo” (Lời vợ anh phường chèo), là thứ

đồ trưng bày như “pho tượng gỗ đủ cả áo mũ” (quan thường mộc ngẫu nhân).

Đó là ngày “hội thăng bình” mọi người háo hức, nô nức trong cảnh “pháo reo”,

“cờ kéo, đèn treo”, “bơi chải”, “hát chèo”, “đánh đu”, “leo cột mỡ”… nhưng

thực chất là ngày hội “nhục” (Hội Tây) v.v…

Đây là tiếng cười phê phán, đả kích không khoan nhượng của Nguyễn

Khuyến, thể hiện thái độ phủ nhận dứt khoát đối với các đối tượng trào lộng.

Nhân vật trào lộng loại này là những kẻ xấu xa, hèn kém mà tác giả vẫn

thường gặp, những kẻ ông không thể chấp nhận, tha thứ, không thể điều hòa.

Trong tiếng cười loại này, Nguyễn Khuyến hoàn toàn đứng trên đối tượng

trào lộng để phê phán, phủ định. Tư tưởng nghệ thuật cơ bản của ông toát ra

từ đây không phải là “phê phán, tố cáo xã hội” chung chung mà là phủ nhận

thiết chế xã hội hiện thời, trên phương diện phủ nhận những đại diện “chính

Page 136: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

thức xã hội” tiêu biểu nhất của nó, từ vua chúa, quan lại, đến các “sản phẩm

mới” khác của xã hội thực dân, phong kiến.

II. TIẾNG CƯỜI TRƯỚC ĐỐI TƯỢNG CHỦ THỂ

Nguyễn Khuyến không chỉ viết về người khác, cười cợt phê phán người

khác, mà ông còn viết khá nhiều về mình và tự cười mình cũng nhiều. Ngoài

những bài tác giả nói rõ mục đích trào phúng ở ngay đầu đề (Tự trào, Than

nghèo, Than nợ, Tự giễu mình…) còn trong đa số các bài khác, tính chất tự

trào cũng lúc đậm, lúc nhạt, man mác khắp tác phẩm. Đây là loại tác phẩm lấy

đối tượng trào lộng là chủ thể. Ở mặt khách thể hóa bản thân, bộ phận thơ

văn trào phúng này có giá trị xã hội sâu sắc.

Nhưng về cơ bản, giá trị tư tưởng nghệ thuật lớn nhất ở đây là sự phản

ánh sâu sắc tâm trạng trữ tình của tác giả qua từng chặng đường đời, qua

những cảnh ngộ của cuộc sống, những biến đổi của thời cuộc, và sự trưởng

thành của nhận thức nhà thơ, từ tin tưởng, chờ mong, đến gan lỳ, chai sạn,

từ hy vọng lạc quan đến thất vọng đau khổ, từ khẳng định nhiệt tình đến hoàn

toàn phủ định.

Chính vì thế mà ở mảng sáng tác này, người ta không tìm thấy giá trị

“phê phán, tố cáo xã hội” chung chung mà thấy rõ đời sống tâm hồn tác giả,

những nhận thức, đánh giá của ông về vai trò lịch sử của bản thân ông và giai

cấp phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ.

Thơ tự trào Nguyễn Khuyến chiếm 25% tổng số tác phẩm trào phúng,

tập trung thể hiện hai giọng điệu trào lộng tiêu biểu, thể hiện hai loại thái độ

tiêu biểu đối với bản thân.

1. Thái độ tự tin vào bản thân.

Bộ phận sáng tác này có 24 tác phẩm, chiếm 77% tác phẩm tự trào.

Cũng như trong tiếng cười trước đối tượng khách thể, ở loại này, người ta

không những chú ý tới tính chất “vô hại” mà còn đặc biệt chú ý tới tính chất

“tự tin”, “khẳng định” của tiếng cười.

Page 137: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Lúc còn là anh khóa Thắng lều chõng đi thi, tuy nợ nần đến mức “lãi

mẹ, lãi con, sinh đẻ mãi” (Than nợ), và nghèo đến mức chỉ còn cái “danh giá”

là chưa đem đi bán: “Danh giá dường này không nhẽ bán” (Than nghèo),

nhưng anh khóa vẫn hăm hở với đời. Nợ thật, nghèo thật, nhưng cái ý chí của

anh khóa mới là cái thật đáng trân trọng. Anh quyết vượt qua mọi khó khăn

vật chất tầm thường để giành lấy vinh quang. Cho nên dù nợ đìa, anh vẫn:

Quyết chí phen này trang trải sạch,

Cho đời rõ mặt cái thằng tao.

(Than nợ)

Chỉ có “cái thằng tao”, “quyết chí” và đầy sức mạnh, đối diện với cái “nợ

đời” tầm thường, vô nghĩa.

Nếu như Tú Xương cay cú và thiếu tự tin bao nhiêu vì những lần bị

trượt, thì anh khóa Thắng, trái lại. Với anh, dẫn cho:

Bốn khoa Hương thí không đâu cả,

Một mảnh vườn hoang bán sạch rồi.

(Giễu mình chưa đỗ)

Nhưng anh vẫn là một anh khóa “tầm cỡ”: “văn chương lừng vũ trụ”. Vì

thế, dù anh có lúc “nghĩ tôi, tôi gớm cái mình tôi” (Giễu mình chưa đỗ), nhưng

nhiều lúc, anh vẫn có những giấc mơ bay bổng:

Gặp hội rồng mây cao chót vót,

Đã lên, lên bổng tít bao chừng.

(Cá chép vượt đăng)

Và như “cánh chim bằng vượt ngoài mây” (Vân ngoại bằng đoàn), anh

thả hồn tới những niềm hi vọng, lạc quan tươi sáng và lớn lao.

Cái tiếng cười trẻ trung, lạc quan, trong sáng ấy không hề mất đi, mà

theo suốt cả đời thơ Nguyễn Khuyến, thấm đậm vào trong từng cái nhìn cuộc

sống của ông. Trong hàng loạt các câu đối dán nhà, dán cổng, dán tết, tự

Page 138: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

vịnh, tự thuật… giọng cười đùa vui, hóm hỉnh của ông vẫn sôi nổi, chan chứa

ân tình.

Cũng cảm hứng về tuổi tác, Nguyễn Trãi, khi “ngoại ngũ tuần” đã viết

về mình thật đáng thương:

Vừa sáu mươi, dư tám chín thu,

Lưng gầy, da sỉ, tướng lù khù.

(Thơ Nôm, số 15)

Còn Nguyễn Khuyến, cảm hứng về tuổi tác ấy, cũng ở tuổi tác ấy, đã

viết về mình thật “lạ”:

Một năm một tuổi, trời cho tớ,

Tuổi tớ trời cho, tớ lại càng…

(Khai bút)

và:

Ông chẳng hay ông tuổi đã già,

Năm mươi, ông cũng lão đây mà…

Bây giờ đến bậc ăn dưng nhỉ,

Có rượu, thời ông chống gậy ra…

(Lên lão)

Hàng loạt tác phẩm của Nguyễn Khuyến đã cất lên tiếng cười tự trào tự

tin đó. Bằng tiếng cười này, nhà thơ tự động viên mình, khẳng định mình;

khẳng định phẩm chất, năng lực, quyết tâm của mình, muốn vượt lên trên mọi

hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc sống, từ lúc mới bước vào đời, cho đến lúc

mãn chiều xế bóng, như nghèo đói, nợ nần, hỏng thi, thất bại, già lão, cô

đơn… Đọc những vần thơ này, người ta thấy gần gũi, yêu mến nhà thơ hơn.

Con người nhà thơ hiện lên đầy tự tin, giàu sức trẻ, trong sáng và ấm áp tình

người.

2. Từ nghi ngờ dấn tự phủ định

Page 139: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Thật có lý khi cho rằng tiếng cười phê phán phủ định trong thơ tự trào

Nguyễn Khuyến chủ yếu cất lên từ giai đoạn ông ra làm quan, và nhất là sau

khi ông về Yên Đổ. Ở giai đoạn sau này, tiếng cười tự tin, khẳng định vẫn

không tắt đi, nhưng bên cạnh đó đã xuất hiện hàng loạt tiếng cười đau đớn,

xót xa, cười ra nước mắt, tiếng cười từ nghi ngờ đến nhạo báng với chính

mình, phủ nhận chính mình.

Bên cạnh giọng cười yêu đời, tin tưởng, bắt đầu một giọng cười như

ngang ngạnh, gàn dở, say mèm:

Ta cũng chẳng giàu, cũng chẳng sang,

Chẳng gầy, chẳng béo, chỉ làng nhàng.

Mở miệng nói ra gàn bát sách,

Mềm môi chén mãi tít cung thang…

(Tự trào)

Đó là hàng loạt những hình ảnh Tự họa mà lại rất xa lạ với chính tác

giả. Cái xa lạ đó chính là biểu hiện của sự tha hóa của con người trước hoàn

cảnh mới, sự khuất phục của con người trước những điều kiện sống mới, mà

trực tiếp nhất ở đây là con người tác giả, một hình tượng nghệ thuật độc đáo,

đặc sắc mang đậm tính bi kịch.

Thay cho một ông quan Tổng đốc là một ông già giả câm, giả điếc

“khéo ngơ ngơ, ngác ngác, ngỡ là ngây”. Thay cho ý thức “trí quân, trạch dân”

là thái độ:

Đắp tai, ngoảnh một làm ngơ,

Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây…

Vì sao vậy? Vì sao trong thơ tự trào Nguyễn Khuyến, tiếng cười phê

phán lại chĩa vào chính tác giả, người đã được chế độ phong kiến giành cho

những vinh quang tột đỉnh? Bởi vì, chính ông, vị đại biểu xuất sắc của chế độ

phong kiến đó (và cả những giá trị vật chất và tinh thần truyền thống) đã trở

Page 140: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

thành trò cười trong tấn tuồng hài của chế độ phong kiến Việt Nam, trước sự

xâm lăng như vũ bão về mọi mặt của thực dân Pháp.

Trong thơ ông, sự phủ định mang tính chất tự phủ định. Nguyễn

Khuyến tự trào, là để trào lộng bản thân, còn là để trào lộng cả một tầng lớp

xã hội tiêu biểu nhất lúc đó, đã mất hết vai trò lịch sử:

Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ,

Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.

(Tự trào)

Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi

(Vịnh Tiến sĩ giấy)

Tâm trạng thấy mình là “con người thừa”, con người đứng ngoài cuộc,

có lẽ phải đến Nguyễn Khuyến mới thật rõ nét. Chu Văn An, Nguyễn Trãi,

Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du…khi xưa dù có cáo quan về ở ẩn, cũng

chưa hề có cảm giác bất lực như Nguyễn Khuyến. Ông cảm thấy mình là một

kẻ “hủ nho” (Xuân bệnh, I), có danh hão hơn đứa ăn mày, và “thực tài kém

thằng đi ở”. Ông cảm thấy tủi hổ về sự trống rỗng và vô vị của cái “tài” của

mình. Cái tài “thông kim bác cổ” ấy đã trở nên vô nghĩa, đã không đủ sức

chống đỡ và ứng xử trong một tình thế hoàn toàn mới của xã hội thực dân

phong kiến.

Về mặt này, rõ ràng, Nguyễn Khuyến là một trong những người tỉnh táo

nhất của giai cấp ông. Ông nhìn thấy sự vô nghĩa của bản thân và giai cấp

ông trước những yêu cầu mới của lịch sử. Điều đó là nguyên nhân của những

bi kịch dằng dai trong lòng ông. Tính bi kịch càng cao khi con người lỗi thời ấy

đã cố công đi tìm một cái gì mới mẻ để thoát khỏi tình trạng tù túng, nhưng

cuối cùng vẫn vô vọng. Và cuối cùng, theo truyền thống của nhà Nho, ông chỉ

tìm thấy một con đường duy nhất, đó là trốn khỏi cái xã hội nhố nhăng ấy, để

tìm về làng quê, tắm mình vào thiên nhiên, hòa mình vào những quan hệ giản

dị mà còn nhiều chân chất của quê hương bản quán, theo một phương châm

sống có phần tiêu cực nhưng vạn toàn. Đó là “độc thiện kỳ thân”!

Page 141: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nhưng lòng ông nào có yên. Mặc cảm về sự vô trách nhiệm đối với đất

nước luôn giày vò, trăn trở, đè nặng trong ông:

Cờ đang dở cuộc không còn nước,

Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.

(Tự trào)

Trong hàng loạt bài thơ: Ông Phỗng đá, Anh giả điếc, Mẹ Mốc, Vịnh

Thạch lão, Ủy Thạch lão… Nguyễn Khuyến đã kín đáo phê phán (và tự phê

phán) không kém phần gay gắt những kẻ “giả ngây giả điếc” trốn tránh trách

nhiệm và nghĩa vụ của mình trước cảnh “non nước đầy vơi”. Đó là Ông

Phỗng đá:

– Người đâu tên họ là gì,

Hỏi ra chích chích, chi chi, nực cười…

– Đêm ngày gìn giữ cho ai đó,

Non nước đầy vơi có biết không?

Đó là Anh giả điếc:

Trong thiên hạ có anh giả điếc,

Khéo ngơ ngơ, ngác ngác ngỡ là ngây

Đó là bà Mẹ Mốc:

Tấm hồng nhan đem bôi lấm, xóa nhòa,

Làm thế để cho qua mắt tục…

Đối tượng trào phúng của nhà thơ vừa là mọi kẻ trốn tránh, vô trách

nhiệm khác, lại vừa chính là bản thân ông. Ông trách Ông Phỗng đá, Anh giả

điếc, Mẹ Mốc… là ông tự trách mình. Ông châm chích Lão Đá “muốn dan tay

vào hội lạc”, cũng là châm chích chính mình, vì ông cũng từng có mặt giữa

bàn tiệc tại nhà Hoàng Cao Khải. Ông mượn lời người khác khuyên Lão Đá

hãy mặc kệ sơn hà, xã tắc đang điên đảo, hãy lao vào cuộc hành lạc trước

Page 142: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

mắt. Lời chỉ trích ngấm ngầm Lão Đá chính là lời tự chỉ trích. Vì Lão Đá và

ông, “tuy hai mà một”:

Thôi cũng đừng nghĩ chuyện đâu đâu,

Túi vũ trụ mặc đàn sau gánh vác.

Duyên hội ngộ là duyên tuổi tác,

Chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác,

Cuộc tỉnh say, say tỉnh một vài câu.

Nên chăng Đá cũng gật đầu!

Trong thơ tự trào, hình ảnh Nguyễn Khuyến hiện lên dưới nhiều góc độ

khác nhau: khi là Ông say, khi là Ông lòa, khi là Anh giả điếc, khi lại là Lão

Đá, khi là thứ Đồ chơi, khi lại là Mẹ Mốc… Nhìn chung, đó là con người yếu

đuối về sức lực, nhếch nhác về hình hài, cam chịu và buông thả, bế tắc và

tuyệt vọng v.v… Đó là con người bị chính ông phê phán, phủ nhận.

Những lời thơ tự trào đó bộc lộ rõ tâm trạng bối rối của nhà thơ trước

thời cuộc. Nhưng đồng thời, nó giúp cho chúng ta nhìn thấy, nghe thấy,

chứng kiến một cuộc đối thoại và một cuộc tự đối thoại của nhà thơ với chính

mình. Bên cạnh những tiếng nói mà ta đã nghe ở trên, có tính phủ định ấy, có

một tiếng nói khác, một tiếng nói phản tỉnh, hay nói như Bakhtin (B.Bakhtine)

một lời nói “nhại lại”, một “phản ngôn từ” để khẳng định tiếng nói của chính

nhà thơ, luôn hướng tới cái tốt đẹp, cái cao cả, cái ý thức trách nhiệm của

bản thân ông, của tầng lớp trí thức như ông, của bất kỳ một con người Việt

Nam nào, trước vận nước lâm nguy, và trước yêu cầu mới của lịch sử. Trong

chiều sâu của tiếng nói ấy ít nhiều ta lại nhận thấy cái mặt tự tin và tự hào của

nó. Nguyễn Khuyến không đủ khả năng làm một con thiêu thân lao mình vào

lửa, thì ông làm một tiếng chuông cảnh tỉnh con người.

III. THÊM MỘT TÚY ÔNG

Đời trước thánh hiền đều vắng vẻ,

Có người say rượu tiếng còn nay;

Page 143: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Cho nên say, say khướt cả ngày,

Say mà chẳng biết rằng say ngã đùng.

(Uống rượu ở vườn Bùi)

Một “túy ông” ngất ngưởng cứ hiện diện đây đó đó đây trong thơ nhà

Nho Nguyễn Khuyến thâm trầm và mực thước. Đây “túy ông” chẳng cần biết

đến trời, cũng chẳng cần biết đến người:

Khi vui chén rượu say không biết,

Ngửa mặt lờ mờ ngọn núi xa.

(Cáo quan về ở nhà)

Đây “túy ông bay bổng, thanh thoát và cao khiết”:

Bắc song độc chước đồi nhiên túy,

Nhất dục xuyên hài thượng thúy vi

(Xuân nhật, III)

Song bắc mình ta say túy lúy,

Những toan xỏ dép vượt non xanh.

Và đây nữa “túy ông” đau đớn giày vò:

Mạc quái bằng song liên nhật túy,

Ngã vi bất túy thục vi tinh.

(Lão thái)

(Đừng trách bên song say khướt mãi,

Không say, thì tỉnh với ai mà).

Nguyễn Khuyến có phải là người ưa chén tạc chén thù hay không?

Rượu, đối với Nguyễn Khuyến có phải là một khoái lạc hay không? Ông đã

bao nhiêu lần ôm vò rượu mà ngủ khoèo ở trước song phía Bắc? Ông đã bao

nhiêu lần say khướt, ngâm tràn (kịch túy, cuồng ngâm; đại túy, cuồng ca…)?

Mà cũng lạ. Rượu ông đâu có nhiều:

Page 144: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Bầu rượu thường để không, bị hoa cúc vàng cười giễu

(Tự thuật, II)

Tửu lượng của ông đâu có lớn:

Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy,

Độ dăm ba chén đã say nhè.

(Uống rượu mùa thu)

Ông đâu có nhiều lần thù tạc “chén chú, chén anh, chén tôi chén bác”

mà hầu như bao giờ cũng “độc tọa”, “độc túy”, “độc hữu dư”, “độc tự liên”,

“tửu hứng cô”… Ấy vậy mà trong 432 bài thơ của ông có đến 100 bài nói về

rượu: uống rượu, say rượu, tỉnh rượu, nhớ rượu, thèm rượu, khát rượu…

Một con số không phải là nhỏ. Cao Bá Quát người tự coi là “ngôi sao rượu”

chỉ có 22 trong 156 bài… Nguyễn Công Trứ người cho “làng say mới rộng lớn

còn nhân gian là nhỏ hẹp” chỉ có 17 trong 60 bài… Thi sĩ – “tửu đồ” Tản Đà

“Trăm năm thơ túi rượu vò” chỉ có 22 trong 424 bài… Và Tú Xương “nạn

nhân” của “ba cái lăng nhăng” chỉ có 6 trong 151 bài…

Lạ vì thơ ông có nhiều trang dành cho rượu!

Lạ hơn nữa là ông có say đâu!

Nguyễn Khuyến không say! Xưa nay ít người say tự nhận mình say còn

những người tự xưng là uống rượu, say rượu để mà nói chuyện đời, chuyện

người thì tỉnh, tỉnh lắm:

Say rồi, uống nữa càng say lắm,

Ngẩng mặt tựa song nhìn cao xanh.

(Kỷ sửu cửu nguyệt liên dạ phong vũ…)

Say trong tư thế tư lự ấy, kể cũng khác thường.

Nguyễn Khuyến cứ thế, không say nhiều nhưng cứ nhắc đến rượu, cứ

khắc thật đậm nét, thật sinh động, một “túy ông” trong trơ mình:

Dục tri túy ông lỗi lạc chi kỳ tài,

Page 145: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Dã tu nhất ẩm tam bách bôi.

Hữu thời thổ mạt tác vân vũ,

Diệc hoặc tranh nhỡn vi phong lôi.

Lý Bạch bộ kình sự phi đản,

Bành Trạch Thái cúc tầm bất quai.

Thế gian dục túy, túy bất đắc,

Toán lai vạn sự câu trần ai.

(Túy ngâm)

(Muốn hay túy ông có lỗi lạc kỳ tài,

Một lèo cạn ba trăm chén ngay.

Có khi nhổ bọt mây mưa giả,

Trợn mắt làm gió sấm ngang trời.

Lý Bạch bắt kình sự không lạ,

Bành Trạch hái cúc lòng chẳng sai.

Thế gian muốn say say chẳng được,

Tỉnh ra vạn sự như trần ai).

Say, nên tưởng như bạ gì nói nấy. Say nên khác thường, khác thường

đến mức ngông nghênh, ngạo đời:

Có khi nhổ bọt mây mưa giả,

Trợn mắt làm gió sấm ngang trời.

(Túy ngâm)

Ma men khiến cho con người tưởng như có một sức mạnh mới, tái tạo

được vũ trụ. Ma men khiến cho con người như đã ở gần, rất gần với Lý Bạch

“khách cưỡi cá kình trên bể”, với Đào Tiềm “ở ẩn với ba luống cúc”:

Thế gian muốn say…

Page 146: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Say, để đưa con người tới tư thế con người – vũ trụ; say, để đưa con

người tới tầm những bậc hiền triết, thánh nhân. Nhưng, không phải thế gian

say, thế gian chìm trong cơn say, thế gian mê mệt trong cơn say… mà “thế

gian muốn say”. Bao nhiêu túy lúy, bao nhiêu ngật ngưỡng, bao nhiêu ngông

nghênh của một “túy ông” trên kia thoắt tỉnh hẳn trong một chữ “muốn”. “Muốn

say” nghĩa là chưa say, nghĩa là còn tỉnh, nghĩa là vì đang tỉnh. “Muốn”, chủ

động chứ không bị động chút nào! Cho nên “say chẳng được”, cho nên lại

phải “tỉnh ra”, cho nên vạn sự như trần như ai giữa chốn trần ai.

***

Túy ông ý chẳng say vì rượu,

Say vì đâu nước thẳm với non cao…

(Uống rượu ở vườn Bùi)

Sách Thế thuyết nói: Vương Tốn hỏi Vương Thầm rằng: “Nguyễn Tịch

trong lòng chồng chất những khối, cho nên cần có rượu để tưới cho tan đi”.

“Những khối” – ý nói những sự bất bình trong dạ. “Những khối” ấy, những lo

toan đau đớn, những buồn bã chán nản ấy cụ Tam nguyên Yên Đổ gửi trong

rượu, trong say, tinh tế lắm, thâm trầm lắm, thấm thía lắm. Dùng một cái nhìn

hời hợt khó có thể thấy thấu đáo.

Nói rằng xã hội nhiễu nhương, bụi bặm, người đời xu thời hãnh tiến, cụ

đơn độc và buồn bã, cụ giải sầu trong rượu. Điều đó đúng. Chính cụ đã từng

tâm sự:

Khổ hận sở cầu thiên nhật túy

Nhưng thử hỏi đã có bao nhiêu nhà Nho yêu nước, ngay lúc bấy giờ,

cả trước đó và sau đó tỏ thái độ phản ứng xã hội? Xã hội phong kiến, ngay

trên đoạn đường hưng thịnh vẫn không khỏi chật hẹp, gò bó, độc tài. Từng có

một Nguyễn Du bơ vơ, một Nguyễn Công Trứ chán ngán, một Cao Bá Quát

ấm ức… “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”, “Nghĩ đời mà ngán cho đời”…

Tâm sự ấy đâu có riêng Nguyễn Khuyến, đâu của riêng cụ Tam nguyên!

Page 147: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Tại sao cũng sầu, cũng đau trong rượu mà cái sầu cái đau trong rượu

của Nguyễn Khuyến lại cá biệt như vậy, tuyệt đích như vậy, tưởng không một

ai đạt đến như vậy?

Núi sông mưa gió, sắp trùng dương,

Nghèo, ốm: về hưu, rượu lắm: cuồng.

(Kỷ sửu cửu nguyệt liên dạ phong vũ…)

Ta không quên Nguyễn Khuyến từ quan khi được cất nhắc làm Tổng

đốc Tam Tuyên. Chính sự “vinh hiển” của nhà Nho và thời cuộc bấy giờ đã

đặt nhà Nho vào một “thế đau đời” khác hẳn những nhà Nho khác. Cái đau

khác. Cái dằn vặt khác. Cái vật vã khác. Rất riêng, chỉ ở Nguyễn Khuyến, chỉ

cụ Tam nguyên Yên Đổ mà thôi.

Nguyễn Khuyến là một nhà Nho hiển đạt, có làm quan. Từ quan về, cụ

không có cái ấm ức, cái uất, cái bực bội của Tú Xương mà có cái bải hoải, cái

hối tiếc của câu ca dao nọ:

Tưởng nước giếng sâu anh nối sợi gầu dài,

Ai ngờ nước giếng cạn anh tiếc hoài sợi dây.

Thu gầu về rồi… mà có tiếc sợi dây thì nào đã để làm gì? Tiếc mà

không tiếc. Không tiếc mà tiếc. Tiếc vì một đoạn đời mình đã đi nhầm trên một

quãng đường đời. Thôi, thì trở về… “Cờ đương dở cuộc”… “bạc chửa thâu

canh”… Giữ mình cho trọn, lánh đục, thoát tục… Đã đành là thế. Nhưng, để

làm gì?

Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ!

Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng!

(Tự trào)

“Bia xanh”, “bảng vàng” để mà khoanh tay ư? Để chỉ biết “Ngoái nhìn

sông núi xiết buồn đau” ư? Nguyễn Khuyến bế tắc, bế tắc gần đến tột đỉnh.

Ông tìm thanh thản trong rượu, trong say. Phần lớn thơ say, thơ rượu ông

viết khi đã “treo ấn từ quan”. Đã bao nhiêu lần Nguyễn Khuyến coi mình là

Page 148: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

“siêu ông” trong làng say (“Huề đồ độc thử túy trung tiên – Chỉ có lão đeo bầu

trong làng say này thực là tiên); thế mà cảm giác đơn độc, cảm giác cô lẻ vẫn

sừng sững! Lý Bạch xưa đã từng “nguyệt hạ độc chước” – một mình uống

rượu dưới trăng:

Cất chén mời trăng sáng,

Mình với bóng là ba.

Cô lẻ đến không biết nhìn vào đâu nữa, nhìn trăng, nhìn bóng mình “là

ba” – nhưng chỉ là một, chỉ làm tăng thêm cảm giác đơn độc. Nguyễn Khuyến

cũng vậy. Rượu ở Nguyễn Khuyến không hoàn toàn là hành lạc trong bất cứ

bài nào. Bài “thơ say” nào, dòng thơ say nào cũng thấm đẫm những chua xót,

đầy ắp những nỗi niềm. Nguyễn Công Trứ say sưa, cũng có nhu cầu tâm cự,

nhu cầu giải sầu, cũng biểu hiện một phong độ:

Giắt lỏng giang sơn vào nửa túi,

Rót nghiêng phong nguyệt cạn lưng bầu.

(Hành tàng)

nhưng thấp thoáng đó đây, nhu cầu hưởng lạc vẫn trỗi dậy:

Nhân sinh bất hành lạc,

Thiên tuế diệc vi thương.

(Đánh thức người đời)

(Người đời không hưởng thú vui,

Dù sống ngàn năm cũng chết yểu).

Rượu ở Tản Đà cũng thể hiện một phong độ, một tâm sự:

Bạc tiền gió thoảng thơ đầy túi,

Danh lợi bèo trôi rượu nặng nai.

(Thơ tự vịnh)

Nhưng cũng không phải không thể hiện một thú vui thù tạc:

Page 149: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Thánh hiền thân hậu do thiên cổ,

Phong nguyệt thành trung thả nhất siêu.

(chưa say)

Việc trở nên thánh hiền là cái việc thuộc về sau, đời mình đã khuất đi

rồi, còn là cái việc ở mãi mãi về nghìn xưa hay chửa cần lo đến vội. Ở trong

cái thành giăng gió ta hãy chơi cho thỏa thích đi đã, một đêm giăng gió hãy

cho qua trọn cái thú giăng gió đi đã:

Khi vui, vui lấy kẻo già,

Cơn men dốc cả giang hà chưa say.

(Chưa say)

Có thấy thế mới càng thương cho ông già Yên Đổ ngậm chén trầm

ngâm một mình ở trước song phía Bắc! Cũng có khi ngất ngơ ngất ngưởng:

Lúc hứng đánh thêm dăm chén rượu,

Khi buồn ngâm láo một câu thơ.

(Đại lão)

Cũng có khi dở dở ương ương:

Câu thơ được chửa, thưa rằng được,

Chén rượu say rồi, nói chửa say.

(Tự thuật)

Nhưng khi nào cũng đau, khi nào cũng dằn vặt:

Kẻ ở trên đời lo lắng cả,

Nghĩ ra ông sợ cái ông này.

(Tự thuật)

Khi nào cũng buồn, khi nào cũng cô lẻ:

Đời loạn đi về như hạc độc,

Page 150: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Tuổi già hình bóng tựa mây côi.

(Gửi bạn)

Giữ cho thiên lương không bị hoen ố. “Đắp tai cài trốc” trước xã hội

nhiễu nhương. Đau nỗi đau của kẻ có lương tri mà bất lực. Đúng là “nỗi riêng

lớp lớp sóng dồi” mà “lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng”!

Tiếc thay trong giá trắng ngần,

Đến phong trần cũng phong trần như ai.

(Kiều)

Thương cho cái “trong giá trắng ngần” ấy phải “phong trần” trong rượu,

trong say! Và may mắn cho chúng ta, qua bao phong trần lận đận cái “trong

giá trắng ngần” của một hồn thơ cao khiết lại càng “trong giá trắng ngần”!

Huề đồ độc thử túy trung tiên.

Chỉ có lão đeo bầu trong làng say này mới thực là tiên! Nguyễn Khuyến

đúng là một ông tiên không chỉ trong làng say mà cả ở ngoài đời, bất chấp

thời gian và thử thách. Ông là một “túy ông” bất tử.

13. HAI LOẠI CHÂN DUNG PHỤ NỮ

Trong số hơn 300 bài thơ, bài văn bằng chữ Hán và Nôm của nhà thơ

Yên Đổ có tới hơn 50 bài nói về phụ nữ. Đối với các nhà thơ xưa khi “thi ngôn

chí” là tiêu chuẩn sáng tác, thì số lượng thơ đó thật không phải nhỏ. Số lượng

đó càng có ý nghĩa khi nhà thơ Yên Đổ không chỉ dành tình cảm của mình

cho những người thân trong gia đình là mẹ, vợ, con gái… như thơ văn thông

thường của nhà Nho, mà mở rộng lòng mình với nhiều tầng lớp người trong

xã hội. Với quan hệ và mối đồng cảm rộng mở đó, mảng thơ văn về phụ nữ là

một hướng không kém phần lý thú giúp chúng ta tìm hiểu tư tưởng, tình cảm

với sắc thái và cung bậc đa dạng của nhà thơ Nguyễn Khuyến.

Nhưng, trước khi đi sâu phân tích mảng thơ văn phong phú này, chúng

tôi thấy cần có sự phân loại, căn cứ chủ yếu vào thủ pháp biểu hiện của tác

giả.

Page 151: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Có một loại bài, người phụ nữ trong đó không phải là đối tượng trữ tình,

miêu tả của nhà thơ mà chỉ là một cái cớ nhà thơ mượn để biểu hiện, tự bày

tỏ một cách khéo léo, sinh động ý chí và chính kiến của mình, như những bài

Ly phụ hành (Lời gái góa), hoặc Ưu phụ từ (Lời người vợ phường chèo)…

Đây là một thủ pháp quen dùng của các tác giả xưa nay khi không tiện nói

thẳng ý kiến của mình. Bởi vậy, tuy nhân vật trong loại bài này là người phụ

nữ nhưng thực ra lại ở ngoài mảng thơ văn nói về phụ nữ mà chúng tôi muốn

đề cập.

Lại có một loại bài thơ hoặc câu đối ở đó nhân vật phụ nữ được đặt

trong tình huống giả định khá đặc biệt, hóc hiểm để tác giả và bạn bè có dịp

trổ tài hoặc thử tài nhau về nghệ thuật dùng từ, Hán hoặc Nôm trong những

lúc đùa vui. Có khi tiếng cười vui đó lan tới cả ni, vãi là những người đã giũ

bỏ bụi trần nương nhờ cửa Phật, thậm chí tới cả Thánh mẫu linh thiêng trên

điện thờ. Đó là những bài Không chồng trông lông bông, Thơ thánh mẫu,

Khóc chồng con là thợ bát âm, Vợ hàng thịt khóc chồng, Con dâu viếng bố

chồng cũ, Vợ người thợ nhuộm khóc chồng, v.v… Qua loạt bài thơ này,

chúng ta có thể thấy nghệ thuật dùng từ, tính hóm hỉnh trào lộng cùng sự

thông minh của tác giả… Có lẽ chỉ nên dừng lại ở đó, không nên coi những

tác phẩm này là chứng cớ để phân tích, nhận định về tư tưởng, tình cảm

người viết, bởi lẽ cũng cần phân biệt những lời đùa vui và những tác phẩm

nhà thơ thực sự gửi gắm tâm tình.

***

Trong mảng thơ văn Nguyễn Khuyến thực sự dành cho đám nữ nhi, có

thể thấy rất rõ hai mạch cảm hứng chính.

1. Những gương mặt yêu thương.

Nguyễn Khuyến hầu như không làm “thơ tình”, ngoại trừ hai bài gửi cho

cô Nguyễn Thị Thục con gái ông Cai tổng ở xóm Đông. Bài thứ nhất là một lời

hẹn hò đinh ninh của anh Khóa Thắng, khi đó mới chừng 16, 17 tuổi:

Đôi ta giao ước với tơ hồng

Page 152: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Vàng đá đinh ninh đã quyết lòng.

Chén dặn trên soi lời nhật nguyệt,

Lời nguyền dưới xét có non sông.

Liễu đào đông cựu lai như nhất,

Mai trúc xuân tân nối chữ đồng.

Một bức tờ này lời gắn bó,

Gìn vàng giữ ngọc để cam công.

Việc mừng trong mùa xuân mới đã không đến, bởi lẽ ông cai đặt một

điều kiện khá khắt khe: cậu khóa phải thi đỗ ông mới gả con gái. Khoa thi

hương liền đó, Nhâm tý (1852), Khóa Thắng theo cha đi thi bị loại ngay từ

trường đệ nhất. Chuyện làm rể ông Tổng xóm Đông đã trở nên xa vời! Vì gia

cảnh, vì lề thói và còn vì những lý do nào khác nữa, năm ấy Nguyễn Khuyến

đã cưới vợ – một cô gái quê “hay lam hay làm”. Yên bề gia thất, Nguyễn

Khuyến tiếp tục học, kiếm sống và đi thi. Sau “Bốn khoa hương thí không đâu

cả” đến khoa thứ năm Giáp tý (1864), Nguyễn Khuyến “đậu cử nhân, đứng

đầu bảng”. Nhưng rồi cũng phải bốn khoa nữa, Tân mùi (1871), ông mới đỗ

Hoàng giáp – “thi hội, thi đình đều đứng đầu bảng, được ban cờ biển, cờ có

đính chữ “Tam nguyên” để vinh quy” – Trong khoảng thời gian hai mươi năm

đó, cô Nguyễn Thị Thục vẫn chưa lấy chồng! Có một lần Nguyễn Khuyến lại

gửi thơ cho người cũ:

Mượn gió đưa thư tới xóm Đông,

Hỏi người thục nữ muốn chồng không?

Rắp mong chờ đợi người quân tử,

Hay sắp đèo bồng kẻ phú nông?

Hay muốn đem thân nơi đài các,

Hay buồn phận bạc hóa long đong?

Tình trong yểu điệu đà nên gái,

Page 153: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Đấng bậc, coi chừng muốn lấy ông?

(Gửi người con gái xóm Đông)

Bài thơ trên thuộc loại khó giải mã. Đây là những lời bày tỏ sự quan

tâm của nhà thơ trước tình cảnh muộn màng của người cũ chăng? Hay một

lời nhắn nhủ rằng năm tháng không chờ đợi, hãy đừng quá so đo kén chọn?

Hay lúc này Nguyễn Khuyến đã thi đỗ, ông muốn nhắc người xưa về lời ước

cũ? Theo bác sĩ Nguyễn Thị Thu Hiền, chắt đời thứ tư của nhà thơ thì bà

Nguyễn Thị Thục sau khi biết tin Nguyễn Khuyến sắp “cờ biển vinh quy” liền

xin cha thực hiện lời hứa cũ, cho phép bà về Vị Hạ lo tiệc khao cho chồng

mặc dù bà chưa có một danh phận gì chính thức. Thế là Nguyễn Khuyến có

thêm bà thứ nhưng thực ra là sự chấp nối “mối duyên đầu”. Có thể nói nhờ

lòng kiên trinh và mối tình sâu nặng của bà Thục mà lời ước cũ của hai người

không bị bẽ bàng. Dẫu sao, ngoài những vần thơ “Gửi người con gái xóm

Đông”, trong thơ Nguyễn Khuyến không có bóng dáng người tình. Giữa

đường gặp ni sư mà ông gọi là “người cũ” – có lẽ cũng là nói vui – chẳng có

chút xao xuyến nào ngoài một câu đùa: A di đà phật! Chị mình dư! (Gặp sư

ni). Những đêm ở xóm bình khang cùng Dương Khuê ông chỉ coi là thú vui

thoáng chốc:

Có khi từng gác cheo leo,

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.

(Khóc bạn)

Trong thơ Nguyễn Khuyến cũng khôngcó bóng dáng giai nhân. Chỉ có

đám “đàn bà con gái” vùng đồng chiêm Hà Nam hồn nhiên, chất phác và lam

lũ. Họ, khi đi qua Vũng lội đường Ngang, chỉ vì mải lo tấm váy ướt và quên cả

giữ lễ với ông Cuội. Ở trường hợp ấy ngòi bút nhà thơ thật là độ lượng:

Ông Cuội ngồi trông mỉm miệng cười,

“Cái gì trông trắng như con cúi?”

Vội vàng khép nép đứng liền thưa:

Page 154: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

“Trót dại hở hang xin xá tội!”

Ông rằng: “Mày cũng chẳng tội gì!…”

Đó là lúc vui. Cũng có thể kể đến một trường hợp nhà thơ vui và phấn

chấn nữa, ấy là khi ông nghĩ về hai nữ anh hùng dân tộc Hai Bà Trưng:

Giang sơn cánh vị yêu kiều tráng,

Thương hải do linh quắc thước tàm.

Đồng trụ bất thành nhi nữ điếm,

Anh hùng lẫm liệt mãn Thiên Nam.

(Dáng kiều, non nước thêm tươi vẻ,

Biển biếc, thân già thẹn luống mang.

Đâu dễ cột đồng nhơ gái giỏi,

Trời Nam lẫm liệt mãi ngời gương).

Song những dáng vẻ nhi nữ tươi tắn ngời sáng ấy không nhiều trong

thơ Nguyễn Khuyến. Số phận những nhân vật đàn bà mà ông dành cho tình

cảm thương mến phần lớn đều là những người bất hạnh, vất vả. Họ là nàng

Kiều, nạn nhân của tệ tham quan lại nhũng:

Muốn êm phải biện ba trăm lạng,

Khéo xếp nên liều một chiếc thoa.

Đón khách mượn sầu son phấn mụ,

Đem thân chuộc lấy tội tình cha.

(Kiều bán mình)

Họ cũng là nàng họ Vũ, nạn nhân của sự ghen tuông thô bạo và của

những lề thói khắc nghiệt. Nhưng đông đảo hơn là những người đàn bà cùng

thời, cùng quê với Nguyễn Khuyến. Mỗi người một cảnh ngộ, nhưng nhìn

chung họ nghèo túng, chìm nổi. Dẫu rằng chịu thương chịu khó, làm lụng giỏi

giang nhưng lúc nào cũng bị cái cảnh mất mùa đe dọa. Vợ chồng người nông

Page 155: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

phu tên Nhiễm là hai con người phiêu bạt, cho mãi đến lúc bạc đầu mới được

làm vợ làm chồng lại gặp phải năm đói kém, chưa kịp hưởng niềm vui thì nỗi

lo đã ập đến! Những người đàn bà làm vợ, làm dâu, rồi làm mẹ, lúc nào cũng

chỉ những lo toan:

Nhờ tiên ấm sẵn nền phú hữu, nghĩ phận gái giầu ăn khó chịu,

không tham phận bạc tiền đồng;

Theo nghiêm quân hết dạ hiếu thành, thờ bề trên sớm viếng tối

thăm, chẳng quản mùa đông tháng giá.

Sớm khuya chăm việc cấy cầy,

Kim chỉ đủ đường may vá.

(Văn tế mẹ – Làm hộ người cùng xã)

Đọc mảng thơ về đề tài này của Nguyễn Khuyến cứ có cảm giác như

tiếng tiếc. Chẳng hiểu Yên Đổ vô tình với tài sắc ở đời hay không muốn chia

sẻ cùng nhân thế, nhưng dẫu sao ông đã không để tâm đến loại thơ tình. Chỉ

có mấy bài thơ về vợ, Khuyên vợ cả đừng ghen:

Mọi việc cửa nhà là việc nó,

Mấy con trai gái cũng con ta.

Thôi đừng nghĩ sự chi chi cả,

Chẳng chữ gì hơn chữ thuận hòa!

Khóc vợ hai đã mất ở đất khách, nhà thơ không kịp gặp mặt; khóc cô tư

chết trẻ không con và khóc bà cả đã năm mươi năm gánh vác việc nhà. Ở

những bài thơ ấy, nhà thơ rất đau buồn: Tình cảm ông chân thật, sâu sắc.

Dẫu rằng đã vào cái tuổi “hạt lệ như sương” nhưng ông vẫn khóc, khóc nức

nở, nước mắt rơi lã chã. Tuy nhiên những bài thơ ấy không có gì mới so với

dòng thơ tình đã rất phong phú và đặc sắc ở thế kỷ XVIII. Nguyễn Khuyến sẽ

bị lãng quên trong lĩnh vực này nếu ông không đem đến cho văn học một

chân dung Người vợ cả thật độc đáo và có lẽ chưa tìm thấy một bức thứ hai

trước Nguyễn Khuyến:

Page 156: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nhà chỉn cũng nghèo thay! Nhờ được bà hay lam hay làm, thắt

lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tả chân đăm đá chân chiêu,

vì lão đỡ đần trong mọi việc;

Bà đi đâu vội bấy! Để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành,

buông quần lá tọa, gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể

chuyện trăm năm.

Cứ như cách khắc họa của Nguyễn Khuyến thì bà Nghè, bà Bố ấy

không có một chút gì vẻ đài các, quý phái của các “bà lớn”, mà thật sự quê

mùa, lam lũ, vất vả. Với cái “hay lam hay làm”, cái dáng đi “tất tả”, và cách

thắt lưng, xắn váy như thế, bà đúng là “một mụ nhà quê”, có khi còn “xấu xí”

nữa! Ở đất đồng chiêm vùng Hà Nam có một câu ca dao rằng:

Một ngày hai bữa cơm đèn,

Còn gì má phấn răng đen hỡi chàng!

Bà Tam nguyên chắc khó có thể là một ngoại lệ của lời tổng kết khắc

nghiệt ấy. Vả chăng ở quanh vùng Yên Đổ cũng còn truyền lại một giai thoại:

bà Tam nguyên là người rất quê mùa. Bà không quen giao tiếp và cũng chẳng

biết gì đến võng lọng. Ngày ông Tam nguyên vinh quy, cả làng cả huyện kéo

nhau đi đón rước linh đình, riêng bà vẫn cặm cụi làm cỏ lúa ở cánh đồng xa.

Người ta phải đi tìm bà về, giúp mặc áo, đi dép, đặt ngồi trên võng đi đón ông.

Nhưng bà vất vả với công việc đồng áng bao nhiêu thì lại còn vất vả hơn thế

với giầy dép, võng lọng… Không rõ giai thoại đã “hư cấu” đến đâu nhưng rõ

ràng về hình thức, hai bức chân dung bà Nghè quả thật có chỗ tương đồng.

Giai thoại cũng còn kể rằng: cụ Tam được nhờ cái đức của vợ. Và điều này

thì nhà thơ đã hoàn toàn xác nhận. Người vợ lam lũ của ông đã suốt một đời

tất tả để “đỡ đần” ông “trong mọi việc”. Bà mới chính là trụ cột gia đình và là

chỗ dựa của cả ông nữa. Vì vậy, khi bà mất đi, nhà thơ như bị hụt hẫng, ông

không chỉ cô đơn mà dường như cuộc sống cũng không còn ổn định. Thiếu

bà, ông như đứa trẻ thơ không người chăm sóc, áo quần trễ nải, ăn uống thất

thường “vất vơ vất vưởng”…

Page 157: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Cái tài của Nguyễn Khuyến là chỉ có 68 chữ, chẳng những ông đã cho

chúng ta chân dung “người vợ tấm mẳn” của ông mà còn bộc bạch được cả

nỗi lòng của ông đối với bà. Khóc bà, ông không tỏ ra nuối tiếc xót xa nhưng

tình cảm của ông sâu nặng làm sao! Bất chấp tất cả những thăng trầm trong

cuộc sống, những thay đổi của tháng năm, bà Tam nguyên vẫn chỉ tồn tại

trong ông một nguyên mẫu: chịu thương chịu khó, tận tụy với chồng con, cho

đến tận lúc chết vẫn như chưa xong phận sự! Còn ông, cũng bất chấp mọi

hoàn cảnh, mọi khoảng cách cho đến tận lúc kẻ khuất người còn, vẫn trân

trọng bà và biết ơn bà! “Nhân tình trai yêu thiếp mọn”, huống nữa vào thời ấy

xã hội đã có biết bao biến động bao chuyện lố lăng, vậy mà Nguyễn Khuyến

vẫn chung thủy được với quan niệm “tao khang chi thê bất khả hạ đường”. Đỗ

cao, quan lớn vẫn không truất người vợ thuở hàn vi xuống nhà dưới. Nguyễn

Khuyến đã chứng tỏ tấm lòng đôn hậu và đạo đức cao đẹp của ông.

2. Những vai nữ lệch

Nếu như thơ Nguyễn Khuyến một mặt đã vắng bóng giai nhân thì mặt

khác ở đây lại có đủ các hạng con gái xấu xa nhơ nhuốc. Đó là các loại đĩ

điếm me Tây, nổi tiếng thì như mụ Hậu Cẩm, cô Tư Hồng, ngoài ra là vô số

những “gái ngoan” đã “quyết lòng ẩu chiến với Tây quan” khác. Nguyễn

Khuyến không miệt thị những con gái nhà lành vì hoàn cảnh bắt buộc phải

dấn thân vào chốn bình khang. Ông chẳng những thương mà còn hiểu nỗi

đau của họ:

Phận tủi nỉ non đàn bạc mệnh,

Duyên may dun dủi lưới Tiền Đường!

Mười lăm năm ấy người trong mộng,

Há những là đây mới đoạn trường!

(Khuyên Từ Hải hàng)

Nhưng Nguyễn Khuyến đặc biệt khinh ghét bọn me Tây. Ông đã gom

tất cả những lời chửi chua ngoa nhất trong dân dã để vạch rõ bản chất bọn

ấy. Đó là một bọn đĩ đủ các loại: “Đĩ gặp thời”, “đĩ bao tử”, “đĩ mười phương

Page 158: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

chơi cho đủ chín, còn một phương nhịn để lấy chồng”, đĩ “vợ bợm chồng

quan…, ngày giỗ có văn Nôm”. Hai, ba lần ông còn gọi đích danh cô Tư

Hồng, mụ Hậu Cẩm để đả kích và đến một lúc đích đáng nhà thơ cũng sẵn

sàng buông một câu chửi rất độc:

Cha đời con đĩ cầu Nôm.

(Đĩ cầu Nôm)

Nguyễn Khuyến vốn nhân hậu, không phải ông căm ghét gì những

người đàn bà, nhưng ở đây, theo nhà thơ và cũng là quan niệm của khá

nhiều người đương thời, họ không được tính là đàn bà nước Nam. Họ là

những kẻ bám vào “quân Tây” dựa thần thế “bọn Lãng – sa” để vênh vang với

đời, làm nhơ nhuốc non sông, làm đồi phong bại tục. Thời ấy dân làng không

hợp tác với bọn họ. Cô Tư Hồng nhờ thế lực của chồng Tây và sự ranh khôn

đã được triều đình phong “Tứ phẩm phu nhân” và bố cô cũng được tặng

phong hàm “Hàn lâm thị độc”. Có tiền, có danh, cô muốn làm ơn cho làng,

nhưng đã bị dân làng “tẩy chay”. Lần thứ nhất cô xin bắc một chiếc cầu,

nhưng làng không cho. Lần thứ hai “Cụ hàn” qua đời, để báo hiếu cha, cô làm

mấy trăm mâm cỗ “vạ đường”. Cỗ bày trong các quán bên đường, ai đi qua

hoặc đến viếng, đi đưa “cụ cố” cứ việc vào ăn. Nhưng dân làng không đi đưa,

cũng không ăn cỗ; cuối cùng cô Tư phải sai lính đào hố chôn cỗ… Nguyễn

Khuyến chia sẻ tình cảm ấy của người dân quê ông, nghèo nhưng tự trọng,

quê mùa nhưng thanh sạch và biết lễ nghĩa. Điều đó giúp ta hiểu được tại sao

một nhà thơ thâm trầm và tinh tế, tác giả của những bài thơ thu, chùa Đọi,…

lại có những vần thơ ngoa ngoắt đến như Đĩ cầu Nôm. Hơn nữa thái độ rạch

ròi, quyết hệt “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ” cũng là một nét khá tiêu

biểu trong tính cách nhà Nho.

Ngoài ra, Nguyễn Khuyến cũng còn chê trách những tật xấu mà theo

quan niệm phong kiến đàn bà con gái không được mắc. Ví như: đã già lại còn

đi lấy chồng, đi lễ lại lăng nhăng với sư (Bà già lấy chồng, Vãi thủ hộ viếng

sư); con gái ngủ ngày đã có lỗi, huống hồ đã đi tu mà cũng ngủ ngày lại còn

Page 159: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

hớ hênh lỏng lẻo (Bỡn cô tiểu ngủ ngày)… Song trong những trường hợp

này, ngòi bút của ông thường nhẹ nhàng, nhiều khi chỉ hóm hỉnh cười vui.

***

Nguyễn Khuyến góp thêm một tiếng nói cho phần văn thơ viết về phụ

nữ. Nhưng nếu các nhà thơ trước ông thành công vì nét tài hoa, lãng mạn,

đắm say thì Nguyễn Khuyến lại thu hút người đọc vì tình cảm chân thực mộc

mạc, sắc thái dân dã, đôn hậu và bên cạnh đó cả vì thái độ khinh ghét rõ

ràng, đôi khi cả cách nói chua cay, ngoa ngoắt.

CHÚ THÍCH CHƯƠNG III

(1) Theo Thơ văn Nguyễn Khuyến, Thư mục số 32. Trong Nguyễn

Khuyến – tác phẩm, Thư mục số 30, không có bài này.

(2, 4). Xem thêm cách lý giải câu thơ “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” ở

Mục 8, Chương II.

(3). Những chữ trong dấu nháy ở đoạn này đều trích từ bài Văn sách thi

Đình, Nguyễn Khuyến – tác phẩm, Sđd; tr.625 – 633.

(5). Huyền Án: tên thụy của Hoàng Phủ Bậc, một ẩn sĩ đời Tấn.

(6). Các tỷ lệ trên đây đều dựa vào khối lượng thơ được tập hợp trong

Nguyễn Khuyến – tác phẩm, Thư mục số 30.

(7). Nguyễn Trãi toàn tập. Đào Duy Anh biên soạn. Nxb.

Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976.

(8). Tương truyền bài hát nói Ông phỗng đá Nguyễn Khuyến làm trong

buổi tiệc do Hoàng Cao Khải tổ chức tại nhà ông ta, bấy giờ Nguyễn Khuyến

đang làm gia sư tại đây và cũng được mời dự tiệc.

(9). M. Bakhtin (Baktine): Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki. Nxb.

Giáo dục, Hà Nội, 1993.

(10). Thơ chữ Hán Cao Bá Quát. Nxb. Văn học, Hà Nội, 1976.

(11). Thơ văn Nguyễn Công Trứ. Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1958.

Page 160: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(12). Thơ Tản Đà, sđd. Xem chú thích (15), Chương II.

(13). Thơ văn Trần Tế Xương. Nxb Văn học, Hà Nội, 1970.

(14). Trước đây theo sách vở, chúng tôi phỏng đoán mối tình giữa bà

Nguyễn Thị Thục và nhà thơ không thành, điều ấy để lại trong tâm trạng ông

những cảm nghĩ nặng nề. Gần đây được gặp bác sĩ Nguyễn Thị Thu Hiền,

chắt của Nguyễn Khuyến chúng tôi mới biết bà Nguyễn Thị Thục đã khước từ

mọi đám mai mối một lòng chờ đợi Nguyễn Khuyến, mặc dù có thể đó là sự

chờ đợi vô vọng bởi “học tài thi phận”, ai dám nói chắc điều gì. May thay kết

cục của sự việc tốt đẹp bà Thục sau đã có con trai cháu chắt đông đúc, được

Nguyễn Khuyến rất mực yêu thương. Sự kiện ấy giúp cho chúng tôi hiểu

chính xác hơn mấy bài thơ Gửi người con gái xóm Đông. Vì thế xin đính

chính lại và xin gửi lời cảm ơn bác sĩ Thu Hiền. Xem thêm Mục 5, Chương II.

(15). Nguyễn Khuyến từng làm Bố chánh Quảng Ngãi.

Chương IV. NHÀ THƠ LÀNG CẢNH VIỆT NAM

14. TỪ NHỮNG BIẾN ĐỘNG TRONG NGUYÊN TẮC PHẢN ÁNH THỰC TẠI CỦA VĂN CHƯƠNG NHÀ NHO ĐẾN BỨC TRANH SINH HOẠT NÔNG THÔN TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN

Việc Nguyễn Khuyến từ bỏ vị trí, tư cách nhà Nho để trở về làm một

người dân bình thường, sống chan hòa trong làng xã quê hương, đã đem lại

sắc thái mới mẻ cho thơ văn ông. Như chính ông đã viết:

Vậy treo xe làng cũ nghỉ ngơi;

Có khi đình đám vui cười,

Có khi vườn ruộng dâu gai nói bàn.

(Mừng cụ Đặng Tự Ý bảy mươi tuổi)

Với tư thế bình dân, phi Nho của mình, Nguyễn Khuyến có lẽ là người

đầu tiên trong lịch sử văn học Nôm dân tộc phản ánh được một cách khá cụ

Page 161: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

thể, sinh động bức tranh sinh hoạt hàng ngày của làng quê vào trong thơ ông.

Không đứng ở vị trí bên ngoài hay bên trên để quan sát nữa, cụ Tam nguyên

Yên Đổ đã là người có mặt thật sự, hiện diện thường trực trong cuộc sống

hàng ngày ấy. Điều đó dẫn tới một sự hoán chuyển ngấm ngầm các mối quan

hệ giữa chủ thể và khách thể, có tác dụng bổ sung hoặc điều chỉnh quan niệm

thẩm mỹ của tác giả. Đây là buổi nhà thơ đến thăm gian nhà lá mới dựng của

ông hương sinh họ Nguyễn với những cảnh thật đầm ấm:

Cháu trai đứng xán lấy ông,

Xóm giềng thấy khách, cửa thông sang chào.

(Hạ nhật thư hương sinh Nguyễn thị trang)

Các nhà nghiên cứu đã nói nhiều tới những bài thơ trong đó Nguyễn

Khuyến kể lại các hình thức sinh hoạt có tính chất văn hóa ở nông thôn: cảnh

các ông lên lão năm mươi, cảnh chợ Đồng ngày giáp Tết nguyên đán, đêm

giao thừa… Những bài thơ này có sức diễn tả không khí, sắc màu, âm thanh

của cuộc sống văn hóa độc đáo ở nông thôn, rõ nét và tưởng như chính xác

đến lạ lùng:

Anh em làng xóm xin mời cả,

Giò bánh, trâu heo, cũng gọi là.

Chú Đáo bên làng lên với tớ

Ông Từ ngõ chợ lễ cùng ta.

(Lên lão)

Tháng Tư chơm chớm đã oi nồng,

Chim hót lùm xanh tiếng lảnh trong.

Con gái chăn tằm lo gió máy,

Người già phơi thóc chạy cơn giông.

Ruộng lầy tham buổi người về muộn,

Vầng nhật rèm mây ánh vẫn hồng.

Page 162: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(Hạ nhật vãn diếu)

Đi vào thơ Nguyễn Khuyến, đời thường có khi là những cái tầm

thường, nhỏ mọn nhất và được ông đón nhận thật thân ái. Đây là cảnh các bà

chửi tục và kia là nỗi lòng của bác trai góa vợ:

Lưng trời gió vút diều ngân vẳng,

khắp chốn cành cao chim ríu ran.

Ầm xóm, gái già văng cãi tục,

Rộn lòng, trai góa ngủ không an.

(Sơ hạ)

Ta càng thêm hiểu vì sao Nguyễn Khuyến viết nhiều câu đối mừng cưới

hay phúng viếng đám tang. Chẳng phải đơn thuần mượn cớ để trổ tài chữ

nghĩa văn chương, những dịp làm câu đối ấy thường là những giây phút để

ông “hòa đồng”, “sống” – tức là tự thực hiện mình trọn vẹn – trong đời sống

văn hóa thường ngày của làng quê.

Tất nhiên, bản thân việc miêu tà, phản ánh sinh hoạt thường ngày của

nhân dân chưa phải là chủ nghĩa hiện thực. Hơn nữa, phải nhận rằng Nguyễn

Khuyến vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi công thức của văn học nhà Nho, thứ

văn học vốn sử dụng tài liệu thực tại như một công cụ để biểu đạt các tư

tưởng chính trị – đạo đức chủ quan chứ không miêu tả thực tại nhằm đào sâu

vào hiểu biết thực tại ấy. Cuối mỗi bài thơ miêu tả cuộc sống thường ngày,

Nguyễn Khuyến vẫn tuân theo lối kết cấu truyền thống của văn thơ nhà Nho

mà hoài cảm, mà ngụ ý, mà triết lý. Nhưng lại cũng phải thừa nhận rằng việc

miêu tả cuộc sống thường ngày là một dấu hiệu quan trọng đánh dấu sự

chuyển mình trong nguyên tắc nhìn nhận và phản ánh thực tại của văn

chương Nho học. Muốn nhận thức cuộc sống xã hội, không thể bỏ qua việc

quan sát, mô tả có tính chất trực tiếp, cụ thể đời sống hàng ngày, nơi cung

cấp các tài liệu cần thiết cho sự nhận thức. Vả lại, đi vào cuộc sống hàng

ngày là một hướng có khả năng khắc phục được tính chất công thức, khắc

phục định kiến trong lối cảm thụ thực tại thường thấy của nhà Nho. Từ đây

Page 163: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

mới có thể nói tới con đường đi tới chủ nghĩa hiện thực của văn học dân tộc

được.

Công thức phân tích xã hội của nhà Nho thường dẫn đến việc phân

chia tách bạch, rạch ròi xã hội thành hai tầng lớp (quan và dân…), thành hai

loại người (thiện – ác, chính – tà…). Dù nhà Nho có viết nhiều về cuộc sống

của nhân dân lao động thì vẫn không phải họ quan tâm đến cái hàng ngày,

cái đời thường. Cuộc sống của nhân dân bao giờ cũng chỉ là cái cớ để nhà

Nho dựa vào đấy thuyết minh quan điểm đạo đức, tư tưởng chính trị xã hội

của mình. Nhấn mạnh sắc thái này hay sắc thái khác của cuộc sống mà mình

đề cập bao giờ cũng bao hàm sắc thái đánh giá chính trị, bao hàm xu hướng

quy kết trách nhiệm cho vua chúa thống trị. Vì thế mà kết thúc bài Sở kiến

hành, Nguyễn Du viết:

Thùy nhân tả thử đồ,

Trì dĩ phụng quân vương?

(Ai vẽ bức tranh này,

Dâng lên nhà vua rõ?)

Lối lý giải cuộc sống như vậy là mô hình đã hình thành từ lâu trước

Nguyễn Du. Ở Trung Quốc, trước kia đã có Đỗ Phủ, và trước Đỗ Phủ rất lâu

đã có Mạnh Tử… Đã nói tới cuộc sống của nhân dân, nhà Nho bao giờ cũng

có thói quen hướng về quy kết trách nhiệm, đánh giá chính tích cũng như đạo

đức của vua chúa, quan lại. Công thức này cũng xuất hiện ở Nguyễn Khuyến,

chỉ có điều đối tượng quy kết, đánh giá, lên án về chính sự của ông giờ đây

đã chuyển sang thực dân Pháp và lũ cẩu tẩu của chúng. Tuy nhiên, chỗ đáng

nói, là bên cạnh những bài thơ mang cái nhìn công thức ấy, những bài thơ đi

vào quang cảnh sinh hoạt hàng ngày đã tạo nên một hấp lực khác, khiến cho

cái nhìn xã hội của ông dịu bớt đi, thoát ra được tính chất công thức nói trên.

Cũng do đi vào đời thường, vào cuộc sống hàng ngày, mà Nguyễn

Khuyến đã nhìn ra được những đối tượng xã hội mang tính chất trung gian,

chuyển tiếp, là những đối tượng mà văn học nhà Nho hầu như chưa ai biết

Page 164: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

đến. Với nhà Nho, chỉ có người tốt và người xấu, chỉ có nhân vật chính diện

và phản diện. Nhà Nho khẳng định sự đối lập triệt để giữa hai loại đối tượng

này bằng cả thái độ, tình cảm chủ quan lẫn hệ thống các thủ pháp miêu tả

riêng dành cho mỗi loại.

Không phải Nguyễn Khuyến đã tuyệt đối tránh được cách nhìn con

người theo hướng quy kết giản đơn thành hai loại: thống trị và bị trị, thiện và

ác, chính và tà… của nhà Nho. Nhưng trong thơ ông chúng ta được chứng

kiến những mẫu người trung gian khó mà xếp vào phía nào theo công thức

phân loại đã nói. Bên cạnh những đối tượng đả kích có dáng dấp truyền

thống như cô Tư Hồng, bà Hậu Cẩm, Đốc học Hà Nam, ta còn thấy có ông

quan Tuần mất cướp, bác Châu Cầu, có ông Nghè tháng Tám (Tiến sĩ giấy),

có những người nhẹ dạ chơi hội Tây, có cả thầy đồ ve gái góa. Nếu các đối

tượng đả kích truyền thống là loại đối tượng trái với lý tưởng của tác giả, bị

tác giả phủ định thì đối tượng trào phúng lại là những người chỉ có một vài

khía cạnh nào đó đáng phê phán thôi. Họ chưa thể là người tốt vì còn có một

số khuyết tật lớn nhỏ nào đó, song cũng không tuyệt đối xấu đến mức đáng bị

sổ toẹt. Đối với những mặt xấu, cái dở của họ, Nguyễn Khuyến cười giễu

không kém sâu cay nhưng vẫn có mức độ, vẫn độ lượng, nhắc nhủ một cách

ân tình. Ông quan Tuần mất cướp nọ vốn tính keo kiệt, thích làm giàu,

Nguyễn Khuyến chế giễu và khuyên:

Thôi cũng đừng nên ky cóp nữa,

Kẻo mang tiếng dại với phường ngông.

(Hỏi thăm quan Tuần mất cướp)

Trước cảnh hội Tây, những anh cả chị hai nào đó nỡ đem thân ra làm

trò vui cho ngày hội của giặc, Nguyễn Khuyến cười chê họ nhưng rồi như tự

cảm thán:

Khen ai khéo vẽ trò vui thế,

Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!

(Hội Tây)

Page 165: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Việc xuất hiện những đối tượng trung gian như vậy báo hiệu cho xu

hướng văn chương bắt đầu thực sự đi vào quan sát tìm hiểu cuộc sống để

nắm bất được tính chất bề bộn phức tạp không dễ gì chịu khuôn vào khuôn

này mẫu nọ được.

Do sống chan hòa với sinh hoạt của người dân trong làng ngoài xóm,

Nguyễn Khuyến đã có những biểu hiện từ bỏ lối cảm thụ thế giới mang tính

chất công thức để đi tới thụ cảm hiện thực. Chúng ta rất tán thành phát hiện

của nhà thơ Xuân Diệu về tính cách đồng quê Bắc Bộ khá cụ thể, sống động

trong ba bài thơ mùa thu của Nguyễn Khuyến. Nhưng nói tới sự biến chuyển

trong cảm quan thời gian, cảm quan thiên nhiên của Nguyễn Khuyến mà chỉ

giới hạn trong thơ mùa thu thì quả thật chưa đủ. Trong thơ nhà Nho phương

Đông, xét về mặt tần số xuất hiện thì mùa thu và mùa xuân là hai mùa thống

trị, còn mùa hè và mùa đông thì tần số xuất hiện thấp hơn. Một nhà nghiên

cứu Xô – viết, Krapsôva (M. E. Kravchova) đã nhận ra hiện tượng mùa xuân

và mùa thu chiếm tỷ lệ áp đảo so với mùa đông và mùa hè trong thơ ca của

nhà thơ Trưng Quốc Thẩm Ước (441 – 513). Tác giả quan sát thấy ở đây, về

mùa xuân con người thường hay có tâm trạng cô đơn, còn mùa thu tiêu biểu

cho cái gì xa vắng, cho sự đi xa, tâm trạng tha hương. Thơ ca cổ điển dân

tộc, do những đặc điểm riêng về môi trường nghệ thuật và tâm lý sáng tác

nên không bị công thức này trói buộc hoàn toàn, nhưng ít nhiều cũng có chịu

ảnh hưởng. Chỉ cần mở Truyện Kiều và thơ chữ Hán Nguyễn Du ra thống kê

sơ bộ đã thấy ngay điều đó.

Phải nói rằng cảm thụ thế giới theo một công thức ước lệ về bốn mùa

như thế thì nhà Nho không thể gọi được là nhà văn hiện thực.

Viết nhiều về mùa thu mà đã thoát được công thức tả mùa thu để trở lại

với mùa thu của nông thôn Việc Nam, đó là một cái mới trong thơ Nguyễn

Khuyến. Điều đáng chú ý hơn là trong thơ ông, mùa hè đã xuất hiện với một

tần số đáng kể. Sơ bộ thống kê căn cứ vào những bài thơ mà nhan đề cho

biết viết về mùa nào, có thể thấy trong Nguyễn Khuyến – tác phẩm có 14 bài

viết về mùa thu và 12 bài viết về mùa hè. Tỷ lệ gần ngang nhau! Điều đó có ý

Page 166: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

nghĩa quan trọng. Chính việc từ bỏ tư thế nhà Nho, nhập thân vào khung

cảnh sinh hoạt làng quê, đã giúp Nguyễn Khuyến thoát được áp lực của công

thức thụ cảm thế giới của nhà Nho để hướng tới cái hiện thực cụ thể của thế

giới quanh mình. Mùa hè có những tác động hệ trọng đến sản xuất nông

nghiệp và cả chính bản thân cơ thể con người, nó không thể thiếu được trong

một bức tranh hiện thực về nông thôn Việt Nam! Một số bài thơ viết về đời

sống sinh hoạt, sản xuất vào mùa hè của Nguyễn Khuyến đã dẫn ở trên đủ

cho ta hình dung sự biến động trong cách thụ cảm thế giới của văn chương

nhà Nho ở giai đoạn cuối thế kỷ XIX.

Việc tìm hiểu cái nhìn xã hội của Nguyễn Khuyến cho phép kết luận

như sau:

1. Nếu tiêu chuẩn cốt yếu của chủ nghĩa hiện thực là cảm hứng nghiên

cứu, phân tích thực tại xã hội thì thơ văn Nguyễn Khuyến đã có những dấu

hiệu đáng kể vươn về phía chủ nghĩa hiện thực. Đi vào đời thường, quan sát

cuộc sống xã hội và tự nhiên, nhà thơ đã bước đầu thoát được tính chất công

sức của lối thụ cảm thế giới khách quan của nhà Nho để phản ánh được cái

cụ thể, cái bề bộn, đa dạng, phức tạp trong thực tại ấy. Cố nhiên, xét trên

toàn thể, cảm hứng trữ tình chính trị – đạo đức vẫn là cảm hứng nổi bật của

thơ ca ông. Ông vẫn chưa đoạn tuyệt được với cái nhìn đạo đức của nhà

Nho, tức chưa đoạn tuyệt được với nguyên tắc chỉ lựa chọn những hiện

tượng đời sống có liên quan với triết lý chính trị – đạo đức của nhà Nho.

Nhưng việc ông từ bỏ tư thế nhà Nho để sống với tư thế một người bình

thường và do đó đã phản ánh được cái thường ngày của đời sống trong thơ

đã báo hiệu bước chuyển biến quan trọng của văn chương nhà Nho ở cuối

thế kỷ XIX hướng về phía phản ánh thực tại khách quan.

2. Xét về mối quan hệ giữa thế giới quan, tư tưởng và nguyên tắc phản

ánh thực tại, ta thấy rõ ràng chỉ có sự rạn nứt của tư tưởng Nho giáo mới mở

đường cho văn chương nhà Nho đi tới chủ nghĩa hiện thực. Và sức mạnh tạo

ra sự rạn nứt này thuộc về thế giới khoa học. Chúng ta hiểu vì sao Nguyễn

Khuyến đã ý thức về sự vô dụng của cái học thi thư và vì sao đến đầu thế kỷ

Page 167: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

XX, phong trào Đông Kinh nghĩa thục đã lớn tiếng phê phán những hạn chế

về mặt tri thức luận, nhận thức luận của cái học thi thư lễ nghĩa. Đó là nhận

thức tất yếu phải có khi tiếp xúc với khoa học kỹ thuật của thế giới phương

Tây.

15. ĐỀ TÀI THIÊN NHIÊN VÀ QUAN ĐIỂM THẪM MỸ

1. Có lẽ thiên nhiên đã bước vào hầu khắp các sáng tác nghệ thuật

ngay từ khởi thủy của những bộ môn này và đã thực sự trở thành một nhân tố

không thể thiếu được trong việc hình thành và phát triển của các loại hình

nghệ thuật phương Đông cũng như phương Tây. Riêng trong thơ cổ điển Việt

Nam, trước nay có rất nhiều câu thơ – nhiều bức tranh phong cảnh bằng

ngôn ngữ – đã từng để lại những dấu ấn khó phai trong đời sống văn học

nước nhà. Tuy ngày nay nhìn lại, số nhà thơ có ý thức dành toàn bộ sự

nghiệp sáng tác của mình cho riêng một đề tài thiên nhiên thì thật hiếm, song

về số lượng người có những đóng góp đáng kể cho thể tài này tới mức có thể

xem như là những nhà thơ phong cảnh thực thụ thì lại khá phổ biến. Trường

hợp Nguyễn Khuyến cũng vậy, thơ thiên nhiên chỉ chiếm một phần ba trong

tổng số hơn 400 bài thơ ông để lại, nhưng những cống hiến quan trọng của

nhà thơ trên phương diện này đã đưa ông lên vị trí những thi sĩ – danh họa

tầm cỡ của thơ ca cổ điển Việt Nam. Mảng thơ phong cảnh được viết bằng cả

hai thứ chữ Hán, Việt của ông là những sắc thái khác nhau của cùng một

phong cách nghệ thuật thống nhất – phong cách Yên Đổ – góp phần vào việc

khẳng định khả năng biểu hiện kỳ diệu của thơ thiên nhiên trước mọi vấn đề

của đời sống xã hội, đời sống tinh thần, tình cảm của con người.

2. Về hình thức, thơ Nguyễn Khuyến dường như không có gì cách tân

lắm so với quá khứ mặc dù việc đổi mới, ý thức cải tiến các thể thơ dân tộc

cũng như thơ Đường luật đã sẵn có trong suốt quá trình vận động đi lên của

thi ca Việt Nam. Thậm chí thơ Nôm Nguyễn Khuyến hầu như chỉ khuôn trong

hai thể thơ thất ngôn bát cú và thất ngôn tứ tuyệt, trong khi thơ Nôm trong lịch

sử lại rất phong phú cả về hình thức lẫn thể loại tính từ thời Hồng Đức hoặc

còn sớm hơn thế, kể từ Nguyễn Trãi. Hơn nữa, ngay ở hai mảng thơ này (bát

Page 168: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

cú và tứ tuyệt) thì phần thơ thiên nhiên với những cảnh vật như một mảnh trời

thu, một sức nắng hè, một làn mưa bụi, mấy chồi cây non, những cành mai,

khóm cúc, chiếc lá rụng, chiếc thuyền nan… cũng đã từng có mặt trước Yên

Đổ rất lâu. Vậy mà khi những cảnh sắc ấy bước vào thơ Yên Đổ lại trở thành

những bức tranh phong cảnh có một đời sống riêng và mang một khí vị thật

đặc biệt. Những bức tranh thơ Yên Đổ đã kế thừa thật uyển chuyển tinh hoa

của cả một chặng đường dài cấp cận và thể hiện thiên nhiên trong thơ trung

đại Việt Nam. Nhà thơ phát triển yếu tố “đời thường” vừa chợt manh nha

trong thơ Nguyễn Trãi, nhưng cũng có khác với tính chất sang trọng quý phái

vốn đã trở mẫu mực ở những bức tranh phong cảnh trong thơ nhóm Hồng

Đức, thơ Bà Huyện Thanh Quan. Một mặt ông tiếp thu nghệ thuật biểu cảm

cao độ của Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân Hương; mặt khác, ông lại từ chối lối

miêu tả cường điệu, phóng đại của họ. Yên Đổ không vay mượn hình ảnh từ

sách vở nên ta ít thấy xuất hiện ở thơ ông những cái tên Tiêu Tương, Động

Đình, Tần Sở hay một bông tuyết, một cánh nhạn, một rặng liễu chung chung.

Đi vào thơ ông là những địa danh, những tên đất, tên làng Việt Nam: vườn

Bùi, cầu Nôm, sông Châu, hồ Hoàn Kiếm… là cây xoan, khóm trúc, “mấy

chùm trước giậu”. Những cây cải, cây cà, lảnh mùng tơi ngày nào Nguyễn

Trãi đưa vào thơ còn gian nan là thế thì đến Nguyễn Khuyến chúng đã trở

nên thật quen thuộc, thân thiết. Thời gian không gian, ngay cả những vật thể

khó xác định như một bầu trời, một cánh đồng, qua ngòi bút nghệ thuật của

ông đều có tên gọi cụ thể, chính xác và trở nên rất Việt Nam. Nếu như các thi

sĩ Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Phạm

Thái… đã thành công xuất sắc trong việc thể hiện thời gian tâm lý thông qua

những bức tranh phong cảnh tuyệt tác, và ở đó, người đọc được thả lỏng

tưởng tượng trong cái cảm giác triền miên, không xác định, như thực như hư,

của những từ phiếm chỉ “mấy xuân”, “ba thu”, “hoàng hôn thôi lại hôn hoàng”,

“thuở lâm hành oanh chưa bén liễu, hỏi ngày về ước nẻo quyên ca”… thì

những tiếng “năm ngoái”, “năm nay”, “xuân này”, “mười chín năm nay”, “bốn

mươi năm” v.v… trong thơ Nguyễn Khuyến dường như lại chứa đựng một

lượng thông báo cụ thể, trực tiếp đến mức khiến ta không thể đọc lướt qua.

Page 169: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Tất nhiên bản thân những từ ngữ ấy không chỉ dừng lại ở những thông báo

thuần túy thời gian: cái đã vĩnh viễn trôi qua và cái đang đến trước mắt, mà

sâu hơn, bao hàm trong đó còn là những kết cục thật đau xót của một quang

cảnh:

– Mười chín năm nay lại cát bồi

– Vườn Bùi chốn cũ,

Bốn mươi năm lụ khụ lại về đây.

3. Nhà thơ tái hiện thiên nhiên bằng một bút pháp nghệ thuật điêu

luyện, bằng khiếu quan sát tinh tường, một trực cảm nhạy bén trước vẻ đẹp

đa dạng của thiên nhiên, cùng với một tình yêu quê hương hồn nhiên mà sâu

sắc. Dường như không phút nào nhà thơ ngừng theo dõi và tái hiện những

bức tranh thiên nhiên sôi động quanh mình. Ông quan sát thiên nhiên, tắm

mình trong thế giới muôn ngàn màu sắc đó với niềm thích thú đặc biệt. Cho

nên, đứng trước một hiện tượng thiên nhiên, Yên Đổ có thể sáng tác hai, ba

thơ, mà khi đọc, ta vẫn tìm thấy những phát hiện mới mẻ, nho nhỏ của người

viết. Chẳng hạn qua thơ Nôm, ông đặt ba bức tranh thu trước chúng ta và cả

ba cùng có vị trí riêng, bình đẳng và không thể thay thế. Mùa thu, mùa xuân,

ngày tết, cảnh chợ quê… thường trở đi trở lại trong thơ ông, tự nhiên, chân

thực, không công thức, không sáo mòn. Về núi Đọi, chừng như đã viết bài thơ

chữ Hán vẫn chưa thỏa mãn, Yên Đổ còn tự dịch sang tiếng Việt, mà thực

chất, bản dịch là công trình sáng tạo mới trong việc sử dụng ngôn ngữ dân

tộc. Chừng như phải nhờ đến tiếng Việt - thứ ngôn ngữ vào giai đoạn đạt đến

độ chuẩn mực và có đủ khả năng biểu đạt những xúc cảm tinh vi, những vấn

đề trừu tượng – mới thỏa mãn nổi những cảm xúc của thi sĩ trước một đối

tượng như cảnh sắc Long Đội sơn:

Cận lai suy bệnh bất tham thiền,

Hồi ức tiền du diệc sảng nhiên.

Cổ tự tứ lân duy mộc thạch,

Hàn tăng nhất tháp cộng vân yên.

Page 170: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Kỷ tằng trúc ảnh nghi vô lộ,

Hữu khách tang gian lập đãi thuyền.

Dã lão vị tri chung hưởng ngọ,

Phóng ngưu sơn lộc ngọa tùng miên.

(Ức Long Đội sơn, I)

(Già yếu xa xôi bấy đến nay,

Làng chơi loáng thoáng lại buồn thay.

Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá,

Sư cụ nằm chung với khói mây.

Dặm thế ngõ đâu tầng trúc ấy,

Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?

Chuông xưa, vẳng tiếng người không biết,

Trâu thả sườn non ngủ gốc cây).

Những từ “lẫn”, “chung”, “đâu”, “ai”, “không biết” mang vào bài thơ bầu

không khí hư ảo, khó xác định, tất cả đều như trễ nải, lẫn lộn, nhưng đằng

sau cái vẻ bề ngoài ấy, một khung cảnh sống động vẫn hiện ra thật gần gũi

khiến ta cảm giác như có thể cầm nắm được.

4. Trước đây do những quy ước truyền chống, rất nhiều thi sĩ cổ trung

đại có danh cho dù tư duy thơ có thể không rào khép ở rất nhiều phương

diện, nhiều thể loại, song mỗi khi hạ bút viết một bài thơ thuộc loại thơ thù tạc,

thơ đề vịnh, thơ “ngôn chí” – gửi gắm tâm sự riêng hoặc bàn luận, phát biểu

những vấn đề cao xa như đạo đức luân lý, quan niệm về cái đẹp, cái cao

thượng, về hiền nhân quân tử… thì tự nhiên ngòi bút đều trở nên trang

nghiêm, mực thước và dầu không muốn cũng rất ít người không khỏi bị gò

vào tượng trưng ước lệ với lối nói gián tiếp chủ yếu bằng biểu tượng. Có thể

nói, suốt trong một thời gian dài của lịch sử phát triển thơ ca cổ trung đại

“biểu tượng đã trở thành một phương tiện đơn thuần để làm ta nhận thức nội

Page 171: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

dung”. Người đọc trước khi tiếp xúc với tác phẩm phải có sẵn những quy ước

và phải hiểu sâu sắc phương thức biểu đạt này mới cảm thụ hết thâm ý – nội

dung ý nghĩa đích thực của tác phẩm. Thơ vịnh cảnh của Nguyễn Khuyến

mặc dù chưa dứt bỏ hẳn hình thức tượng trưng ước lệ của cổ nhân, vẫn bộc

lộ rõ sự cố gắng xa rời lối biểu đạt này khiến ta có cảm giác như trong thơ

ông có sự giằng co giữa một hình thức nghệ thuật còn nhiều ước lệ với việc

miêu tả chân xác hơn, giản dị hơn những sự vật, hiện tượng cùng những tư

tưởng tình cảm của người viết để cho mỗi đối tượng khi được nghệ thuật tái

hiện lại không còn khoảng cách với tác giả, với người tiếp nhận – một vấn đề

mà từ Nguyễn Trãi, Ngô Chi Lan, thế kỷ XV cũng như hầu khắp các tác giả cổ

cận đại Việt Nam đã từng thể nghiệm. Vì thế, nhiều bức tranh thiên nhiên của

ông đã mang những dấu hiệu gần gũi với bút hiện thực, với cách quan sát,

miêu tả của chủ nghĩa hiện thực. Và phải chăng quan niệm về cái đẹp của

nghệ thuật ở Nguyễn Khuyến phần nào đã gần với quan niệm hiện đại: đẹp là

giản dị. Hơn nữa, việc thể hiện đối tượng nghệ thuật một cách chính xác, cụ

thể hình như còn giúp ông tiến tới xóa nhòa ranh giới giữa chủ thể thẩm mỹ

và đối tượng thẩm mỹ (thậm chí ngay cả giữa chủ thể thẩm mỹ và chủ thể

tiếp nhận) mà sau này chủ nghĩa hiện thực gọi là “hóa thân” – hóa thân vào

đối tượng thơ, để cho những bức tranh thơ không chỉ mang vẽ đẹp nguyên

sơ thuần khiết của tự nhiên mà còn in bóng nội tâm tác giả – điều mà Hêghen

(Hégel) đã đúc kết: “Tình cảm trở thành trung tâm, từ nó cái vùng xung quanh

giàu có ngời sáng lên. Tình cảm hút các vùng xung quanh về phía nó, vận

dụng cái kia tô điểm cho mình, nó làm xung quanh sống dậy và tự nó cảm

thấy khoái trá trong cái trò đi đi lại lại ấy, trong việc tự mình hoàn toàn đồng

nhất hóa làm một với biểu tượng”. Có thể nói, thiên nhiên trong thơ Nguyễn

Khuyến đã thật sự trở thành một phạm trù thẩm mỹ.

Với Nguyễn Khuyến, chặng mốc quan trọng cuối cùng trên con đường

đi đến hiện đại của thi ca cổ điển Việt Nam đã được xác nhận.

Page 172: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

16. NHỮNG VẦN THƠ XUÂN

Từ bao đời nay, mùa xuân tươi đẹp giàu sức sống không phải chỉ làm

say đắm lòng người mà còn là đề tài bất tận của thơ ca. Mùa xuân cũng đã

từng thức dậy ở Nguyễn Khuyến nguồn thi hứng dồi dào; và trong toàn bộ

sáng tác Nôm và Hán của ông, chúng ta tìm thấy một số lượng thơ xuân đáng

kể. Nếu chỉ căn cứ vào các đầu đề Xuân khê hoa ảnh, Xuân hứng, Xuân nhật

hữu cảm, Xuân bệnh… cũng đã có tới hơn 20 bài thơ xuân viết bằng chữ

Hán. Ngoài ra, chúng ta còn gặp một số bài thơ xuân viết bằng chữ Nôm như

các bài Khai bút, Chợ Đồng, Nguyên đán ngẫu vịnh, Ngày xuân dặn các

con… Đó là chưa kể một số lượng khá nhiều câu đối mừng xuân đón tết mà

trong bài viết này chúng tôi không có ý đi sâu tìm hiểu. Như vậy, nguyên sự

giàu có những phương tiện biểu hiện cũng đã làm cho thơ xuân Nguyễn

Khuyến thêm phong phú những sắc thái khác nhau của cùng một hồn thơ.

Trước Nguyễn Khuyến, trong văn học Việt Nam, chúng ta gặp không ít

những bài thơ xuân sâu sắc ý tình. Mỗi một tác giả, mỗi một giai đoạn văn

học lại có một phong vị, một sắc thái thơ xuân riêng, biểu hiện cốt cách tinh

thần của nhà thơ và thời đại mình. Nhìn chung, thơ xuân từ thế kỷ X đến thế

kỷ XV là thơ xuân của một thời kỳ lịch sử rực rỡ những chiến công oanh liệt

chống ngoại xâm và bước đi ban đầu xây dựng nền độc lập tự chủ. Cảm

hứng hào mại, tươi sáng trở thành cảm hứng chủ đạo trong thơ nói chung và

thơ xuân nói riêng của thời kỳ này. Đó là niềm lạc quan yêu đời trong thơ

xuân của các thiền sư đời Lý:

Khô mộc phùng xuân hoa cạnh phát,

Phong xuy thiên lý phức thần phương.

(Lời kệ của thiền sư Viên Chiếu)

(Cây héo vào xuân hoa nở dậy,

Gió đưa ngàn dặm nức hương thần).

hay phong thái “ngất ngưởng”:

Page 173: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Sinh bình đảm khí luân khuân tại,

Giải đảo đông phong phú nhất thi.

(Xuân nhật hữu cảm)

(Đảm khí ngày nào rày vẫn đó,

Đè nghiêng ngọn gió đọc thơ chơi).

trong thơ Trần Quang Khải đời Trần. Đến Nguyễn Trãi, thơ xuân vẫn là những

vần thơ tươi mát, yêu đời:

Nhàn trung tận nhật bế thư trai,

Môn ngoại toàn vô tục khách lai.

Đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão,

Nhất đình, sơ vũ luyện hoa khai.

(Mộ xuân tức sự)

(Trọn ngày thong thả khép phòng văn,

Khách tục bên ngoài chẳng bén chân.

Giục giã cuốc kêu xuân đã hết,

Hoa xoan, mưa nhẹ, nở đầy sân).

Có thể nói, một Phạm Sư Mạnh muốn “lấy cả dòng sông xuân làm

nghiên mực”, một Trần Nhân Tông chợt hiểu mùa xuân đã về qua vẻ quyến

luyến của một đôi bướm trắng, một Chu An nhìn cuộc sống mùa xuân đang

vươn lên với phong thái an nhiên của một ẩn sĩ cao khiết… đều cho thấy tinh

thần vui sống cởi mở, lành mạnh trong thời cực thịnh của xã hội quân chủ

Việt Nam. Sang thế kỷ XVIII, mùa xuân đã bước vào thơ với tư cách là tiếng

nói tượng trưng cho vẻ đẹp, sức sống, tình yêu và những khát khao hạnh

phúc. Đó là mùa xuân xanh tươi qua cái nhìn của cô gái đang yêu trong thơ

Phạm Đình Hổ, mùa xuân trong nỗi khắc khoải chờ đợi của người chinh phụ

(Chinh phụ ngâm), mùa xuân của những gặp gỡ giữa Lương sinh, Dao Tiên

(Hoa tiên), giữa Thúy Kiều – Kim Trọng (Kiều) giữa Phạm Thái – Trương

Page 174: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Quỳnh Như (Sơ kính tân trang)… hay mùa xuân buồn tủi, uất ức trong thơ Hồ

Xuân Hương:

Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con.

Sang nửa thế kỷ XIX – một thế kỷ quật cường, đau thương trong lịch

sử dân tộc – bên cạnh những cảm xúc trước mùa xuân tươi đẹp, thơ xuân

của Nguyễn Khuyến đã có thêm nỗi cám cảnh cho thân phận nhà Nho dưới

thời thực dân Pháp đô hộ, có nỗi day dứt triền miên trước vận mệnh đất nước

và vận mệnh người trí thức mất nước:

Tân tuế phương lai cựu tuế chu,

Quần phương giai uyển ngã hà khô.

… Vô lịch ná tri thư Giáp tý,

Hữu cừu vị cảm độc Xuân thu

(Xuân nguyên hữu cảm)

(Năm mới đương đến, năm cũ đã qua,

Mọi hoa đều tươi, sao riêng ta héo?

… Không có lịch, biết đâu mà ghi được Giáp tý,

Kẻ thù còn đó không dám đọc kinh Xuân thu).

Khi nhà thơ trở về Yên Đổ với tâm trạng day dứt “Nghĩ đến bút nghiên

tràn nước mắt – Chạnh nhìn sông núi xiết buồn đau”, thì cũng là khi nhà thơ

không giấu được nỗi buồn khổ, thất vọng về mình. Ông chua xót tự đánh giá

bản thân:

Nhiễu nhiều phong trần nhất hủ Nho,

Nhàn lai ngô tự kiến chân ngô.

Phù danh hữu hạnh do tiên cái,

Thực lực phi tài thượng nhượng nô.

Page 175: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(Xuân bệnh, I)

(Chỉ là một hủ Nho trong cảnh nhiễu nhương gió bụi,

Rảnh rỗi ta mới thực hiểu thêm mình.

Chỉ có chút danh hão, may ra hơn đứa ăn mày,

Chẳng có tài cán thực sự, còn kém cả thằng đi ở).

Những dằn vặt trăn trở sâu sắc cứ từng lúc trở đi, trở lại trong thơ xuân

viết bằng chữ Hán của Nguyễn Khuyến, khiến cho mỗi bài thơ như là một lời

tự phê phán. Có lẽ vì vậy, quán xuyến trong những bài thơ trực tiếp nói về

mình, nói với người ấy, thường là những sắc thái cô đơn man mác và phảng

phất một nụ cười buồn chua chát. Cảnh trong thơ, từ một ngọn núi đứng trơ

vơ trong ngày xuân mưa gió, một tiếng hạc lẻ kêu trong đêm như không biết

bay về đâu, một bầu trời nửa mưa, nửa u ám, đến một bầu rượu đã cạn,

những bông hoa muốn tàn, và giọt đồng hồ nước nhỏ trong đêm cuối năm…

đều gợi lên một cái gì buồn bã, day dứt, khắc khoải. Giữa cái nền của khung

cảnh mùa xuân ảm đạm hiển hiện lên hình ảnh một cụ già Yên Đổ tóc bạc

“răng lợi khủng khỉnh như hai phe giáp”, khi thì một mình chống gậy đi chơi

lang thang, khi thì tìm đến chén rượu giải sầu hoặc buông thả mình trong

cảnh lười biếng, trễ nải:

Bán chẩm quan không thiên địa khoát,

Nhất song cao ngọa tính tình cô.

Sầu miên lãn dục thôi lâm khởi,

Sương áp thần quang dạm nhược vô.

(Xuân bệnh, I)

(Gối đầu trên nửa gối, ngó thấy trời đất bao la,

Nằm khểnh bên cửa sổ, tính tình trở nên cô độc.

Qua giấc ngủ phiền não, lười không muốn tung chăn vùng dậy,

Sương lấn át ánh sáng ban mai thoang thoảng như không).

Page 176: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Tưởng ẩn mình trong cuộc sống dân dã, xa lánh thời cuộc nhưng thực

ra tâm hồn nhà thơ vẫn thầm kín rung lên trước những vang động của đời

sống. Thơ xuân Nguyễn Khuyến có buồn lớn lao cũng là vì thế. Một bóng hoa

dưới dòng suối xuân có thể làm rung lên trong lòng anh khóa Thắng còn hăm

hở mộng công danh những vần thơ phơi phới (Xuân khê hoa ảnh), một không

khí êm ả thanh bình trong ngày đầu năm ở nhà khách có thể khiến quan Tam

nguyên có một tứ thơ xuân thanh nhã mơ màng (Khách xá nguyên đán),

nhưng ở ông già Yên Đổ bây giờ, mùa xuân chỉ càng gợi dậy thực chất đau

xót vì đất nước loạn ly:

Xuân về ngày loạn càng lơ láo,

Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ.

Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng,

Sao con đàn hát vẫn say sưa.

(Ngày xuân dặn các con)

Rõ ràng với ý nghĩa là ánh phản quang của thời đại và con người tác

giả, thơ xuân Nguyễn Khuyến đã không có chất lạc quan của thơ xuân Lý –

Trần, cũng không có niềm say sưa của những tình cảm yêu đương hay sắc

thái cô đơn mà vẫn tự tin của thơ xuân thế kỷ trước. Thơ xuân của ông đã là

tiếng nói day dứt về nỗi đau nước mất, mà bản thân mình thì bất lực, vô dụng.

Đó cũng là một nét mới mà Nguyễn Khuyến đã đem vào trong nền thơ xuân

dân tộc.

***

Vượt ra khỏi tính chất của những bài thơ đề vịnh thiên nhiên đơn thuần,

thơ xuân của Nguyễn Khuyến, nhất là thơ Nôm còn có những đổi mới đáng

kể trong phương thức tư duy nghệ thuật. Nó không phải chỉ có ý nghĩa xã hội

sâu sắc mà còn là những bức tranh xuân vừa chân thực, sinh động, vừa

mang đậm màu sắc và phong vị làng quê. Ở Nguyễn Khuyến, cảnh vật trong

thơ không phải đã hết ước lệ nhưng rất nhiều hình ảnh bình dị mà sinh sắc,

như nó vốn có, đã được đưa vào thơ. Từ tiếng trẻ con học bài, tiếng trống

Page 177: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

thúc đêm giao thừa, tiếng pháo nổ ngày đầu năm đến “Một khóm thủy tiên

năm bảy cụm – Xanh xanh như sắp thập thò hoa” và ngay cả hàm răng lung

lay, mái tóc trên đầu… đều trở thành những chi tiết rất đắt, có giá trị làm nổi

bật các tứ thơ, tăng thêm sức biểu cảm thẩm mỹ. Có khi nhà thơ vẽ một bức

tranh thiên nhiên:

Tiểu cúc tân tài lộ vị can.

Hà xứ cô hồng thê dã thụ,

Vô cùng thủy tháo nhập giang can.

Âm vân vị áp thiên sơn họa,

(Xuân hứng)

(Khóm cúc nhỏ mới trồng, sương hãy chưa khô.

Con chim hồng lẻ loi ở chốn nào về, đậu trên cây ngoài nội,

Cỏ xanh mơn mởn ngút mắt trải tới tận bờ sông,

Mây mù chưa lấp được đường nét như vẽ của ngàn núi

non).

Có khi nhà thơ tả cái vui ríu rít của một cảnh tết ở trong làng:

Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng,

Ngoài ngõ bi bô rủ chung thịt.

(Cảnh Tết)

Cũng có khi là một bức tranh “gia cảnh” nhuốm màu tâm sự:

Tân thiều đán đán mãn thiên sương,

Thán tức nhân cùng tuế tựu hoang.

Dược vị thục thời tiên hữu khí,

Hoa tương lạc xứ thả lưu hương.

Sầu đa dạ lãn thính nhi độc,

Tửu quý xuân nan hoán khách thường.

Page 178: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Chỉ hữu tác tiêu phùng tiểu vũ,

Bệnh trung tài đắc nhất phân cường.

(Xuân bệnh, II)

(Mới sang xuân, sớm sớm trời đầy sương,

Than nỗi người đã nghèo mà mùa lại mất.

Thuốc sắc chưa chín mà mùi thuốc đã bay lên,

Hoa sắp rụng rồi mà mùi hương còn phảng phất.

Buồn quá ngại nghe con đọc sách,

Rượu đắt khó có thể mời khách thưởng xuân.

May có tối qua được trận mưa nhỏ,

Bệnh tật cũng đỡ được đôi phần).

Dường như có sự phân định khá rõ thơ xuân của Nguyễn Khuyến

thành hai mảng: thơ chữ Hán, như ở Phần đầu đã nói, thường là những bài

thơ có ý nghĩa tượng trưng, trực tiếp bộc bạch tâm sự, hoặc những lời ân cần

khuyên con; thơ chữ Nôm thường hướng vào việc miêu tả xác thực khung

cảnh mùa xuân ở nông thôn với không khí của hội làng, hội xuân và những

sinh hoạt nông thôn cổ truyền. Chính mảng thơ thứ hai đã hội tụ những nét

đặc sắc của thơ xuân Nguyễn Khuyến và cũng ở đó, ngòi bút tài hoa của ông

đã có lúc tiến gần đến phương thức biểu đạt hiện đại của dòng thơ tả thực

trong trào lưu Thơ mới sau này. Phải chăng năng lực tinh tường của nhà thơ

trong cảm nhận sự vật chỉ được biểu hiện đến hết cung bậc ở những câu thơ

chắt lọc từ ngôn ngữ nghệ thuật dân tộc? Hay là khi tìm về với ngôn ngữ dân

tộc thì nhà thơ càng có điều kiện để tâm hồn xao xuyến trước vẻ đẹp bình dị

thân thuộc của quê hương? Như muốn che giấu tâm trạng náo nức trước

không khí sôi nổi, nhộn nhịp của ngày Tết cổ truyền, bằng nét bút hài hước

quen thuộc, Nguyễn Khuyến đưa chúng ta về với những phong tục tập quán

đã trở thành nếp sống tinh thần lâu đời của người Việt:

Ình ịch đêm qua trống các làng,

Page 179: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Ai ai mà chẳng rước xuân sang.

Rượu ngon nhấp giọng đưa vài chén,

Bút mới xô tay thử một hàng.

Trước lũy, nhấp nhô cò cụ Tổng,

Cách ao, lẹt đẹt pháo thầy Nhang.

Mỗi năm một tuổi trời cho tớ,

Tuổi tớ trời cho, tớ lại càng…

(Khai bút)

Ở một chỗ khác, rất nhạy cảm với nỗi đau của quê hương đói nghèo,

lam lũ, nhà thơ lại miêu tả một cách cực kỳ tinh tế cái xao xác đượm buồn

của phiên chợ Đồng ngày giáp tết trung những năm đói kém:

Tháng Chạp hai mươi bốn chợ Đồng,

Năm nay chợ họp có đông không?

Dở trời mưa bụi còn hơi rét,

Nếm rượu tường đền được mấy ông?

Hàng quán người về nghe xáo xác,

Nợ nần năm hết hỏi lung tung.

Dăm ba ngày nữa tin xuân tới,

Pháo trúc nhà ai một tiếng dùng.

(chợ Đồng)

Bài thơ chỉ đơn sơ như một lời nói thường, một lời kể buồn buồn, gợi

nhớ, nhưng đã cho thấy đầy đủ không gian, thời gian, khung cảnh, thời tiết,

phong tục và tâm lý của cả một xã hội, một thời đại. Bức tranh chợ Đồng quả

là sống động và có phần gần gũi với cảnh Chợ tết trong thơ Đoàn Văn Cừ

cách đây mới mấy chục năm. Có lẽ chính tấm lòng và tài năng của nhà nghệ

sĩ lớn đã kéo thật gần lại cái khoảng cách giữa Nguyễn Khuyến với đời sau.

Page 180: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Dù mở lòng đón nhận những niềm vui ấm áp hồn hậu hay khi lắng sâu

trong những nỗi dằn vặt trăn trở, bao giờ ở Nguyễn Khuyến cũng có sự gắn

bó chân thực với cuộc đời. Hai mảng thơ xuân chữ Hán và chữ Nôm của

Nguyễn Khuyến tuy biểu hiện những sắc thái, những khía cạnh khác nhau,

nhưng lại là hai mặt thống nhất của cùng một tâm hồn thiết tha gắn bó với

thiên nhiên và vận mệnh của đất nước. Thơ xuân Nguyễn Khuyến, một khía

cạnh của hồn thơ Nguyễn Khuyến, rõ ràng đã đóng góp một tiếng nói trữ tình

mới mẻ vào nền thơ dân tộc.

17. BÀI THƠ THAN MÙA HÈ

Như các chương mục trên đã đề cập, đặc điểm chủ yếu của thơ

Nguyễn Khuyến là sự hạ thấp mức độ tính ước lệ, sự từ bỏ dần dần nhưng

không gay gắt các quy phạm truyền thống. Nhưng đúng như Xuân Diệu nói,

đặc điểm này cũng chính là một biểu hiện của xu hướng “dân tộc hóa” thơ ca

mà Nguyễn Khuyến là một hiện tượng tiêu biểu. Trong khi phân tích ba bài

thơ tả cảnh thu, Xuân Diệu đã đi đến một kết luận dứt khoát, trong đó chỉ ra

đồng thời cả tính phù hợp dân tộc, những dấu hiệu của vũ trụ dân tộc, của

thiên nhiên Việt Nam gắn bó với nhà thơ, cả tính chất dân tộc về hình thức

ngôn từ. Ông nói: “Ba bài thơ của Nguyễn Khuyến nhìn gộp chung lại là thành

công tốt đẹp của quá trình dân tộc hóa nội dung mùa thu cho thật là thu Việt

Nam, trên đất nước ta, và dân tộc hóa hình thức lời thơ, câu thơ cho thật

Nôm, là Việt Nam, mà ở đây dân tộc hóa cũng thống nhất với quần chúng

hóa”.

Bước ngoặt quyết định hướng đến những hiện tượng của đời sống

mang sắc thái dân tộc, sự hòa quyện tài tình chúng lại với nhau, đó là nét tiêu

biểu cho thơ Nguyễn Khuyến; đồng thời cuộc sống Việt Nam ùa vào thơ ông

qua những đường kênh cuộc đời riêng, qua kinh nghiệm sống của bản thân

nhà thơ, chứ không chỉ qua những tri thức sách vở, mà những tri thức đó ở

ông, cũng đã được mở rộng và làm phong phú thêm - điều này có thể xác

nhận qua việc ông nhắc đến các nhà thơ cổ điển Trung Quốc và các điển cố

trong thơ mình. Đó là mối liên hệ với truyền thống mà Nguyễn Khuyến đã

Page 181: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

được đào tạo và chủ quan ông tin theo, như mọi nhà Nho khác. Nhưng ông

còn trung thành với tiếng nói của cuộc sống, thiết tha yêu mến nó, yêu mến

vẻ đẹp riêng của quê hương đất nước mình mà ông suốt đời gắn bó và thuộc

lòng hơn cả sách vở. Và ông vẫn giữ nguyên “tình yêu thứ nhất” của mình đối

với quê hương xứ sở, qua mọi đau khổ, hoạn nạn, vào những lúc cay nghiệt

nặng nề.

Vì thế, chúng tôi nghĩ, cần phải mở rộng việc tìm hiểu xu hướng và

thành tựu dân tộc hóa mỹ mãn của Nguyễn Khuyến không phải chỉ trong thơ

mùa thu của ông mà cả trong thơ ông viết về mùa xuân, và mùa hè. Liên

quan đến điều này, ta có thể đặc biệt nhắc tới bài thơ Than mùa hè của

Nguyễn Khuyến, và so sánh nó với 16 dòng đầu bài thơ Buổi tối mùa đông

của Puskin (A. S. Pouchkine). Không cần phải giải thích rằng đây là hai nhà

thơ rất khác nhau, thuộc hai thời đại và hai nền văn học khác nhau; rằng đối

với nước Việt Nam nhiệt đới thì cái nóng oi bức mùa hạ là điển hình, còn đối

với miền Bắc nước Nga là cái lạnh giá của mùa đông. Như vậy, ở đây có một

sự đối lập: hai đất nước một hàn đới, một nhiệt đới, nơi này là băng tuyết, nơi

kia lại nóng nung. Nhưng đáng ngạc nhiên là sự gần gũi của cảm xúc trữ tình,

sự thống nhất kỳ lạ về tính dân tộc đã làm nên cái thần của cả hai tác phẩm.

Dưới đây là 8 câu thơ của Nguyễn Khuyến:

Tháng Tư đầu mùa hạ,

Tiết trời thật oi ả.

Tiếng dế kêu thiết tha,

Đàn muỗi bay tơi tả.

Nỗi ấy ngỏ cùng ai?

Cảnh này buồn cả dạ.

Biếng nhắp năm canh chầy,

Gà đà sớm giục giã.

Page 182: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Cảnh mất ngủ khổ sở vào những đêm hè nhiệt đới ngột ngạt oi bức rất

quen thuộc với mỗi người Việt Nam, kể cả với những du khách đã từng sống

qua ở Việt Nam trong điều kiện giản dị vào mấy tháng hè. Âm thanh của tiếng

dế và sự quấy rầy của đàn muỗi là hai nét chấm phá điển hình, cực tả được

cái oi ngột vừa ngoại cảnh vừa nội tâm ấy. Chúng ta nhớ lại đoạn tách từ tiểu

thuyết Lều chõng của Ngô Tất Tố: “Đêm qua, trời lại nực hơn mấy đêm trước,

Vân Hạc không thể ngồi yên xem sách. Với một chiếc gối và một chiếc chiếu,

chàng lủng củng đổi chỗ khắp cả khu vực trong nhà để tìm một nơi mát mẻ”.

Nhân vật của cuốn tiểu thuyết không thể tìm thấy cho mình một chỗ nào ngõ

hầu thoát khỏi cái oi nồng đang hành hạ anh; anh ta đành phải chạy ra vườn,

định nằm ngủ cạnh ao, nhưng “liền thấy hơi nóng như ở gầm chiếu bốc lên,

lại phải cuốn chiếu cắp gối chạy đi nơi khác, y như một người hóa dại”. “Mãi

đến gà gáy canh hai trời mới hơi dịu”. Sau khi trải qua một đêm khó chịu vì

nóng nực như vậy, Vân Hạc nhận được lá thư của bạn là Nguyễn Khắc Mẫn

mô tả một thiên nhiên đầy vẻ lý tưởng hóa. Quang cảnh đêm hè ở Nguyễn

Khuyến và Ngô Tất Tố là thiên nhiên sống thực của Việt Nam, còn ở Nguyễn

Khắc Mẫn, kẻ học đòi thơ ca cổ, là một sự ước lệ quy phạm lý tưởng hóa mà

trong khung cảnh của tiểu thuyết Lều chõng thì bị xem như một quang cảnh

khôi hài vô tích sự.

Kết cấu bài thơ của Nguyễn Khuyến vẫn được xây dựng theo những

chuẩn mực của thơ ca cổ điển (thừa, thực, luận, kết - toàn bộ bài thơ là dồn

đến cái kết). Nhưng nhìn trong toàn thể thì bài thơ đã xuất phát từ cuộc sống

thực với các hiện tượng có thực của nó. Và âm hưởng của bài thơ nhằm nói

lên những sự khó chịu về thể chất và tinh thần của nhân vật trữ tình, nhân vật

này có lẽ gần gũi với hình tượng của chính nhà thơ.

Cũng có người cho bài thơ Than mùa hè không phải là thơ của Nguyễn

Khuyến. Nhưng nếu quả như vậy thì ta lại có thể tìm đến một bài thơ khác,

một bài thơ chữ Hán có mặt trong cuốn Nguyễn Khuyến – tác phẩm: bài

Nhâm dần hạ nhật:

Kim hạ khổ khái nhiệt,

Page 183: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Thảo khô trạch diệc kiệt.

Ích chi dĩ Tây phong,

Hà vật bất mỹ diệt.

Thẩn dư bệnh dĩ bần,

Hành niên cận khâu huyệt.

Tỉnh phi vô thanh tuyền,

Ẩm chi đồ hãn huyết.

Phạm chi vô canh hoàn,

Thực chi bất khả yết.

Khỏa trình như bất cung

Cô lập nhược khổ tiết.

Ta thử bách ly phùng,

Hồ vi hựu thiết thiết!

Dịch giả Lê Tư Thực đã dịch rất hay bài thơ này, khiến cho ta như nhìn

ra ở đó hình ảnh một người anh em sinh đôi với bài thơ Than mùa hè:

Hè này nóng khổ quá!

Cỏ khô, đầm cạn cả.

Lại thêm ngọn gió Tây,

Vật gì chẳng tàn tạ?

Huống ta ốm lại nghèo,

Tuổi gần kề bên mả.

Giếng không phải không trong,

Uống vào mồ hôi vã.

Cơm không phải không canh,

Ăn vào nuốt chẳng đã.

Page 184: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Đứng lẻ những trơ vơ,

Cởi trần e khiếm nhã.

Than ôi, khổ trăm chiều,

Sao lại còn nghiệt ngã?

Khỏi phải nói, nhân vật trữ tình trong cả hai bài cùng có chung một tâm

trạng, và tâm trạng đó là của ai nếu không phải của cùng một tác giả, hoặc

chí ít cũng là một lớp tác giả đồng chí hướng? Về mặt này, bài Than mùa hè

và bài Nhâm dần hạ nhật đều có những nét tương đồng với bài thơ của

Puskin – Buổi tối mùa đông:

Bão tố mịt mờ trời đất,

Gió lốc tuyết bụi quay tròn.

Khi gầm lên như mãnh thú,

Khi òa lên như trẻ con.

Khi trên mái nhà rách nát,

Bỗng rào rào thổi cọng rơm.

Khi như bộ hành lỡ bước,

Gõ cửa ghé nhờ qua đêm.

Căn nhà của ta tiều tụy,

Vừa buồn lại vừa tối tăm.

Già ơi, bên khung cửa sổ,

Sao người bỗng lại lặng im?

Phải chăng bão dông gầm rú,

Làm người mệt mỏi bần thần?

Hay tiếng rù rì xa chỉ,

Ru người say một giấc tiên?

Page 185: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Bài thơ Than mùa hè cũng như bài thơ chữ Hán Nhâm dần hạ nhật rõ

ràng có chứa đựng một sự ngột ngạt của tâm trạng, sự ngột ngạt “vô ngôn”,

nó làm thành tầng nghĩa ẩn đi suốt các câu thơ. Trong lời chú thích cho bài

thơ Than mùa hè ở cuốn Thơ văn Nguyễn Khuyến, người biên soạn viết rằng:

nhà thơ đã sáng tác trong tâm trạng ưu uất, buồn phiền vì cảnh nước nhà bị

bọn thực dân thống trị. Có đúng vậy không? Nói chung là đúng, vì nếu đối

chiếu với bài Nhâm dần hạ nhật sẽ thấy ngay một biểu tượng có tính cách ẩn

dụ:

Lại thêm ngọn gió Tây,

Vật gì chẳng tàn tạ?

Chính Puskin cũng đã viết Buổi tối mùa đông không phải trong tâm

trạng vui vẻ. Bài thơ của ông nói lên nỗi buồn bã, sầu não, toát lên cái lạnh

lẽo bao phủ khắp nơi, cái cảm giác hoang vắng gần như tuyệt vọng trong tâm

hồn Nga lúc bấy giờ. Vâng, người biên soạn tập thơ Nguyễn Khuyến đã nói

được một chân lý hiển nhiên. Thế nhưng, thực chất các bài thơ của Nguyễn

Khuyến còn sâu hơn, khái quát hơn, rộng lớn hơn nhiều, nó cũng giống như

bài thơ của Puskin đã động đến tâm hồn, tình cảm, tư tưởng của mỗi con

người yêu thơ ca, và thường cảm nhận thơ ca một cách độc lập, tách rời mối

liên hệ với hoàn cảnh lịch sử, dù những mối liên hệ như vậy là điều có thực.

Đấy mới chính là sự bí ẩn của thơ ca. Nó nằm trong sâu và độ chính xác của

cảm xúc trữ tình mà hai nhà thơ vĩ đại, nhà thơ Nga và nhà thơ Việt Nam, đã

truyền đạt lại theo cách riêng của mỗi người.

18. BA BÀI THƠ THU

1. Là thi sĩ của cảnh quê, là thi sĩ của các mùa ở nông thôn, Nguyễn

Khuyến đã làm nhiều bài thơ về ngày xuân, về mùa hạ, nhưng ông vẫn nổi

tiếng nhất với ba bài tả cảnh mùa thu. Bên cạnh những chiếc lá ngô đồng,

tiếng chày đập vải công thức xa lạ trong thơ thu chữ Hán của ông, ba bài thơ

Nôm hiện ra như một đối tượng tuyệt vời. Dường như ba bài thơ này là tập

trung tất cả những gì kỳ diệu nhất của phong cảnh thiên nhiên, dường như tất

Page 186: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

cả hồn thơ của Nguyễn Khuyến đã được kết tinh lại ở đây trong ba bức tranh

thu này. Đó là cảnh một đêm thu với bóng tối sâu thẳm và những chấm lửa

lập lòe:

Năm gian nhà cỏ thấp le te,

Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.

(Thu ẩm)

Một vài cọng khói quẩn quanh lưng giậu:

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt.

Từ màu lam nhạt của khói nước hoàng hôn, vầng trăng lên cao lóe

sáng trên mặt ao. Bóng trăng rung động được ghi lại một cách thần tình làm

người đọc có cảm giác như cả mảnh ao bỗng chốc lóe sáng, và ánh sáng

càng lúc càng dãn rộng ra, lung linh hơn, làm xao động cả mặt nước. Dường

như cả ánh trăng và mặt ao đã quyện thành một, vì chúng cùng phản chiếu

lẫn nhau, cùng làm nổi bật vẻ đẹp cho nhau. Và ở cuối bài thơ, chợt hạ xuống

như một câu hỏi ngạc nhiên, vừa như một lời tâm sự kín đáo:

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,

Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.

Da trời không ai nhuộm mà xanh. Đúng là màu trời thu Việt Nam bao

giờ cũng trong sáng đẹp đẽ như vậy đấy. Màu trời ấy lồng ánh qua tâm hồn

rất mực hữu tình của Nguyễn Khuyến càng xanh biếc, càng đẹp như một sắc

ngọc lưu ly.

Nhưng còn màu mắt đỏ hoe thì có thật là “không ai vầy” không? Câu

thơ như một giọt lệ còn đọng lưng tròng, giọt lệ như sương hiếm hoi của tuổi

già, giọt lệ buồn đau âm ỉ và khó quên.

2. Cảnh thứ hai cũng được mở ra bằng một màu xanh, một màu xanh

trong veo phẳng lặng của mặt nước hồ thu. Hình như có cái gì vừa phảng

phất mơ hồ, vừa quạnh quẽ tịch liêu trong bầu không khí lắng đọng này:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Page 187: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(Thu điếu)

Làn nước trong xanh và lạnh lẽo, lạnh vì tiết thu đang độ cuối mùa.

Nhưng cái lạnh ở đây còn gợi một cảm giác cô quạnh lạ lùng, và trên cái màu

xanh yên lặng đó, một vệt xám rất nhỏ, một chiếc thuyền con xuất hiện:

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Câu thơ chỉ nói cảnh, chưa nói đến người, nhưng chính là nhà thơ

đang thu mình lại, càng bé hơn trên chiếc thuyền câu bé tẻo teo ấy. Cảnh và

người dường như đã hòa chung thành một khối bất động. Một nỗi im lặng

mênh mông đang trải ra, để rồi trong cái yên lặng ấy, chợt phào qua một làn

gió nhẹ khẽ gợn trên làn sóng biếc:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Một làn gió thoảng nhẹ làm rung động mặt nước, thêm một sắc xanh

cho nền trời xanh. Nhưng màu xanh biếc của sóng không phải là màu xanh

của mây trời; màu biếc là màu xanh trong của ngọc, là sự hòa hợp giữa cái

trong veo của nước, cái xanh ngắt của trời và ánh nắng long lanh dịu nhẹ của

mùa thu… Mặt hồ gờn gợn theo làn gió thoảng. “Theo làn”, từ ngữ vừa gợi

hình vừa gợi cảm, như hướng cái nhìn của người đọc theo từng làn gió nhẹ

lướt trên mặt ao.

Rồi đột nhiên trên làn sóng xanh gờn gợn ấy, một chiếc lá vàng không

biết từ đâu bay chếch xuống:

Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo

Chỉ nghe một tiếng “vèo” vút qua, chiếc lá vàng đã nằm lửng trên sóng

biếc, âm thanh chợt khua lên rồi mất hút, càng làm tăng thêm cái cô tịch,

quạnh quẽ của cảnh vật. Câu thơ lên đến đỉnh điểm của sự hòa hợp giữa âm

thanh và màu sắc.

Màu trong veo của nước và sắc biếc của sóng trên mặt ao chỉ là sự

phản chiếu qua ánh nắng của màu trời. Qua nửa bài thơ, màu sắc chính mới

bắt đầu xuất hiện:

Page 188: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Trời xanh ngắt – một màu xanh, rất xanh – có tác dụng nâng bầu trời

lên cao hơn, rộng hơn. Bầu trời như được phân làm hai lớp: phần trên là màu

xanh rộng rãi bao la, phần dưới nhỏ hơn màu trắng đục. Cả hai màu sắc hòa

hợp bên nhau, làm nổi bật cho nhau, tạo nên những đường nét thật trong

sáng nhưng đồng thời cũng gợi một nỗi buồn xa vắng:

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Trên là trời xanh bát ngát, dưới là ngõ trúc trầm mặc quạnh quẽ. Hai

chữ “quanh co” như một nét vẽ linh hoạt tạo nên một đường uốn lượn chuyển

động, đồng thời cũng gây một cảm giác heo hút cô đơn… “Khách vắng teo”

càng tăng thêm sự tĩnh mịch tột cùng của cảnh: không một bóng người,

không một tiếng động. Cảnh vật như lặng thinh, thời gian như ngưng đọng

nhường chỗ cho một ý thu mênh mông bát ngát.

Giữa trời nước bao la, con người chừng như từ lâu đã hòa nhập vào

trong cảnh. Trên chiếc thuyền “tẻo teo” giữa dòng, trong cái im lặng tột càng,

người đi câu gần như đã trở thành một trong những đường nét bất động của

cảnh:

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Ôm cần để câu nhưng chưa hẳn ông đã ý thức được việc mình đang

làm – nhà thơ gần như rơi vào một thế giới trầm tư khác. Dù cảnh trời trong

sáng, không nhuộm một chút thê lương, nhưng từ trong màu sắc tươi sáng

ấy, người đọc vẫn cảm nghe một nỗi quạnh hiu, rười rượi trong tâm hồn thi

nhân. Quả thực, cả sáu câu đầu ta không nghe nhà thơ nhắc gì đến việc đi

câu, dù đó là tứ thơ chính của bài. Chỉ thấy ở đây, xung quanh nhà thơ là làn

nước trong veo, mây trôi lững lờ, lá vàng chếch bay trên sóng biếc… Cảnh

đẹp như vậy mà người đi câu lại chẳng phải là một ông câu thực thụ, thì trách

chi chiếc cần hình như đã lâu lắm vẫn còn nằm yên trong tư thế bất động.

Thời gian, không gian chợt như ngưng lại, rơi lặng lẽ vào vùng suy tưởng

Page 189: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

miên man… và cũng khó biết vị Tam nguyên còn ngồi trầm mặc như thế đến

bao giờ nếu không có tiếng động - dù rất nhỏ – dưới chân bèo kia:

Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Tiếng động rất khẽ, ở bên ngoài mà cũng chính là từ trong vùng tiềm

thức bật ra, đủ cắt đứt dòng tư tưởng của nhà thơ. “Cá đâu”? Một câu hỏi

dường như còn thoáng vẻ ngạc nhiên. Dưới chân bèo có tiếng “đớp động”,

hai chữ “đớp động” mang thanh trắc đi liền nhau gây một ấn tượng như có

sức nặng kéo trì xuống. Tiếng động khẽ quá nghe như một tiếng “tách” khuấy

vào nước thật nhanh rồi lặng im ngay; tiếng động chỉ vừa đủ đánh thức nhà

thơ mà không xé tan được bầu không khí quá tĩnh mịch ấy. Cảnh vật ngay từ

đầu đã chìm trong lặng lẽ, mà tiếng động chỉ càng làm khơi dậy trong lòng

người nỗi hiu quạnh. Từ trong cái im lặng tột cùng, câu thơ chợt vang lên một

tiếng khẽ rồi tan biến, và cảnh lại rơi vào sự yên tĩnh triền miên…

3. Đến bài Thu vịnh, bức tranh thu trong thơ Nguyễn Khuyến càng trở

nên hoàn chỉnh. Bài thơ được mở ra cũng vẫn bằng cái màu trời xanh ngắt

đó. Màu xanh xuất hiện ba lần như một nỗi ám ảnh trong ba bài thơ thu,

nhưng hình như mỗi màu xanh trong mỗi cảnh thu vẫn có những nét riêng

của nó. Màu xanh ngắt trong bài Thu ẩm dường như pha một chút ngạc nhiên

đau đớn; màu xanh của “Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt” là màu xanh phân

vân trước cái cao rộng của bầu trời, còn màu xanh trong bài Thu vịnh là cái

nền xanh sâu lắng vừa cao rộng vừa chồng lên nhau bằng những tầng lớp

xanh ngắt. Cùng một màu xanh mà vẫn thấy được tầng tầng lớp lớp của màu

trời. Tầng tầng lớp lớp mà vẫn chan hòa với nhau để tạo thành một vòm trời

vừa cao rộng vừa sâu lắng:

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao

Và trên nền mênh mông sâu thẳm đó là vài nét thật mỏng manh của cái

cần trúc lơ phơ trước gió:

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu

Page 190: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Cái vẻ “lơ phơ” của trúc còn gợi lên một nét gì rất tỉ mỉ như những nét

bút lông của họa sĩ. “Gió hắt hiu” gợi đúng cái gió heo may se lạnh của miền

Bắc. Giữa trúc và gió dường như có sự chan hòa, thấm quyện vào nhau.

Những lá trúc mong manh trong gió còn gợi trong lòng người đọc một nỗi

rung động, thầm kín tế nhị…:

Nước biếc trông như tầng khói phủ

Màu trong như ngọc của nước mùa thu ở đây không còn nét trong trẻo,

tươi sáng của “ao thu lạnh lẽo” trên kia nữa. Cảnh thu như chìm lẫn trong

màn sương mờ ảo của buổi chiều.

Nước vẫn trong, nhưng màu trong xanh bây giờ dường như đã trộn lẫn

với màu nhàn nhạt của sương chiều. Màu chiều xuống thấp đọng trên làn

sương nhẹ bay là trên mặt nước tạo nên một ảo giác kỳ lạ khó phân biệt

được ranh giới giữa làn nước xanh và màu sương nhạt.

Chữ tầng gợi một hình ảnh có độ dày và chiều sâu. Cho nên giữa khói

và nước ở đây dường như chìm lẫn, chan hòa vào nhau như một thể thống

nhất…:

Song thưa để mặc bóng trăng vào

Có sự chuyển động rất nhẹ của thời gian, và bóng trăng bước vào

trong tranh như một người bạn thân quen. Có thể khi trăng lên, bầu trời vẫn

còn xanh và tầng khói mờ ảo xa kia vẫn còn in đọng trên mặt nước, nhưng

hẳn là cảnh đang mờ dần, mờ dần… Có một sự thay đổi màu sắc theo bước

đi của thời gian, một sự chuyển động không gây một tiếng động nào – dù rất

khẽ – nhưng người đọc vẫn cảm nhận được điều đó. “Song thưa” là cửa sổ

có vài chấn song thưa thớt – một khung cửa mở rộng hay một tâm hồn mở

rộng? – Và sao lại “để mặc”? “Để mặc” là hàm ý của sự mời vào, của thênh

thang rộng mở. Câu thơ thể hiện tâm hồn phóng khoáng, an nhiên tự tại, một

phong cách mang ý nghĩa triết học phương Đông. Đó cũng là phong cách của

nhiều nhà thơ xưa nay. Trăng bước vào song cửa rất lặng lẽ, người và trăng

Page 191: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

như ùa vào nhau, chan hòa lẫn nhau. Cảnh như chứa một chiều sâu, vừa tĩnh

mịch vừa khoáng đạt lạ thường.

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái

Dưới bóng trăng “mấy chùm hoa trước giậu” bước vào cảnh như một

nỗi gợi nhớ, nhắc nhở; tác giả nhắc đến hoa, nhưng không phải để tả cảnh

nên hoa không có màu sắc, hoa chỉ là để làm chứng cho sự chuyển động

tuần hoàn của năm tháng, nên chi hoa chỉ có màu sắc của thời gian… Giữa

thực và hư không có ranh giới nhất định, cho nên chùm hoa trước giậu bỗng

nhiên mang bóng dáng của “chùm hoa năm ngoái”… Thời gian chợt dừng lại

trong suy tưởng nhà thơ, và hiện tại đột ngột quay về quá khứ, vì quá khứ

chính là nỗi hoài vọng khôn nguôi trong lòng nhà thơ.

Hoa năm xưa là biểu tượng cho những ngày tháng cũ, là hình ảnh tươi

đẹp, bình yên của đất nước khi chưa có bóng bọn thực dân xâm lược. Nên

chi nỗi nhớ hoa cũng là nỗi niềm cố quốc:

Một tiếng trên không ngỗng nước nào

Cả hai câu 5 – 6 cùng mang mạch tư tưởng liền nhau: chùm hoa xưa

gợi nhớ nỗi nhớ nước; tiếng chim kêu càng làm tăng thêm tâm trạng u hoài.

Giữa bầu trời cao rộng, im vắng, chợt vang lên một tiếng thê thảm của một

con ngỗng lạc bầy. Trong khoảnh khắc, âm thanh dường như xé cả không

gian rồi chìm đắm mất hút… Cảnh lại càng cô tịch hơn, để lại trong lòng và

thơ một âm vang kéo dài… Ngỗng trời là loại di điểu bay xa, mỗi cuối thu, trời

sắp lập đông, chim phải rời miền Bắc để xuôi về Nam trốn lạnh… Và con chim

lẻ bầy đã bay qua vùng trời Việt Nam cất tiếng kêu gọi bầy. Đó là lẽ tự nhiên,

nhưng sao nhà thơ lại bỗng dưng hỏi: “ngỗng nước nào?”. Câu hỏi không cần

được trả lời, vì mọi câu trả lời chính xác đều không có ý nghĩa gì đối với tâm

trạng nhà thơ hiện tại. Hỏi “ngỗng nước nào” là cảm thấy hình như vùng trời

này không còn là của đất nước mình nữa. Nhớ chùm hoa năm ngoái và đau

xót khi nhìn lại đất nước mình hiện tại. Tứ thơ vừa thâm trầm vừa không kém

phần day dứt. Tả cảnh mùa thu, tả cảnh thiên nhiên của quê mình, Nguyễn

Khuyến không chỉ tả cảnh. Ở ông, cảnh bao giờ cũng chan chứa tình người,

Page 192: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

chan chứa tâm sự. Tâm sự đó dù ông nói ra hay không nói ra, ta vẫn hiểu. Ở

cuối bài Thu vịnh, Nguyễn Khuyến viết:

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

Nói là “toan cất bút” nhưng chính ra nhà thơ đã cất bút rồi. Bài thơ đã

hoàn thành mà chứa đựng ý chưa thành. Thực pha lẫn với hư làm người đọc

khó nhận định chính xác về cái “thẹn” của nhà thơ. Có khá nhiều ý kiến xung

quanh vấn đề này. Trước hết, theo nhận định của Xuân Diệu thì ông cho rằng

Nguyễn Khuyến thẹn với Đào Uyên Minh: “Sao ta còn buộc chân ở đây, còn

sa lầy trong vòng danh lợi phi nghĩa này…”. Với nhận định này, Xuân Diệu đã

khẳng định thời điểm sáng tác của bài thơ: nghĩa là bài thơ được làm trước

khi tác giả cáo quan về – khoảng 1883 – 1884. Nhận định này có lẽ không

được chính xác, vì qua cái thần của bài thơ, người đọc khó thể tin rằng giữa

vòng danh lợi của chế độ phong kiến sắp rã nát mà một vị quan Bố chánh vẫn

có thể bình tâm làm được một bài thơ Nôm tuyệt tác như thế. Vả lại, mạch bài

thơ cùng một trục với hai bài Thu điếu, Thu ẩm thì với nhận định trên, ta giải

thích thế nào về hình ảnh của ông câu giữa làn ao lạnh lẽo miền Hà Nam và

những “gian nhà cỏ”, “ngõ trúc quanh” của làng quê Việt Nam trong bài thơ.

Nhận định thứ hai là của Thạch Trung Giả – Giáo sư đại học Vạn Hạnh

Sài Gòn cho rằng Nguyễn Khuyến chịu ảnh hưởng nhiều ở tư tưởng cũng

như nghệ thuật tả cảnh của Đào Tiềm. Vì thế, câu kết của bài thơ là rút từ ý

“Đào Tiềm có lần ôm cây đàn không dây mà bảo rằng những bài thơ hay nhất

là những bài thơ không viết được nên lời… nhưng thơ đã làm, vậy bài này là

để khêu gợi cái không lời, không nói được”. Ý kiến này mới nghe qua xem

chừng có phần sâu sắc, vì nó bao hàm triết lý “sắc không” của nhà Phật…

Nhưng xét cho cùng, thì luận cứ ấy vẫn còn mơ hồ, nếu không muốn nói rằng

nó nặng tính chất suy diễn, không có một chứng minh xác đáng.

Thế thì ta hiểu thế nào về nỗi thẹn của nhà thơ đối với Đào Tiềm? Khi

tự so sánh với Đào Tiềm Nguyễn Khuyến cũng đã thấy được những nét

tương đồng giữa mình và người xưa.

Page 193: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Cả hai đều cáo quan trở về, nhưng nếu xét về chức vị thì Nguyễn

Khuyến còn có phần nổi bật hơn, bởi Đào Tiềm khi trở về chỉ giữ chức Huyện

lệnh thì làm sao so được chức “quyền Tổng đốc Sơn Hưng – Tuyên” của một

vị Tam nguyên đang trên con đường hiển đạt như Nguyễn Khuyến. Vậy mà

nhà thơ vẫn cảm thấy buồn thấy thẹn? Có phải là điều khó hiểu không?

Không. Nói là đau lòng với chính mình thì đúng hơn. Bởi chung nếu so với sự

dứt khoát của Đào Uyên Minh thì chính những lần phải xốc áo đến nhà họ

Hoàng, những lần phải ra mặt họa thơ thù tạc với đám người quy phụ ngoại

bang mới là những vết đau khó lành lặn trong lòng nhà thơ.

Nói cho đúng, thì vấn đề ở đây cũng có một sự pha trộn mơ hồ giữa hai

nghĩa thực và hư. Bởi nói là chưa làm thơ –nhưng đã làm; gọi là thẹn với ông

Đào nhưng là không thẹn, chưa hẳn là đã thẹn. Vì sao? Trước hết là do ở

tính chất mập mờ hư thực của tứ thơ; thứ hai là ở đây ta nên hiểu như là một

dấu than thầm, một nỗi buồn rất nhẹ của nhà thơ hơn là hiểu theo ý nghĩa

chính xác (thẹn: là ngượng ngùng, cảm thấy không bằng lòng).

Đó là một cách nói của thơ, một cách nói nửa hư nửa thực… Tuy là

giấu ý nhưng đồng thời là biểu lộ tâm trạng mình qua điều không nói nên lời

ấy. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi một con người trong sạch như Nguyễn Khuyến,

một người đã có lúc “cấp lưu dũng thoái” theo cách nói của người xưa – như

thế, thì sao lại phải thẹn với Đào Tiềm? Chính ra phải gọi là tri kỷ.

4. Với cảnh thu, một đề tài gợi cảm muôn đời của thơ văn, thơ Nôm

của Nguyễn Khuyến đã thoát ra cái khuôn đúc sẵn của cổ thi mà từ xưa hầu

hết các thi sĩ đều vướng phải… Có thể nói Nguyễn Khuyến chính là nhà thơ

đầu tiên đã tái tạo mùa thu bằng chính màu sắc quê hương của mình. “Thi

trung hữu họa”, nếu người xưa đã đặt mẫu mực này cho thơ thiên nhiên, thì

hơn ai hết, với ba bài thơ thu, Nguyễn Khuyến đã đạt đến một trình độ chuẩn

mực. Cảnh thu được vẽ bằng nét bút của một họa sĩ ẩn giấu trong một tâm

hồn thi sĩ, cho nên “đọc thơ Nguyễn Khuyến, người ta có cảm tưởng như vừa

xem tranh thủy mặc vừa nghe thơ Đường”. Thật vậy, nét vẽ trong thơ Nguyễn

Khuyến có chịu ảnh hưởng của nghệ thuật thủy mặc, đó là những nét đơn sơ

Page 194: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

nhưng dịu dàng linh động. Một sự tương phản đầy nghệ thuật giữa bầu trời

mênh mông vô tận với vài nét khắc họa nhỏ bé mỏng manh của tạo vật: một

vài nét cây, một túp lều, một ngọn núi cao vút, một cánh nhạn lẻ roi hay chiếc

thuyền con cô quạnh… Tranh được cấu trúc bằng nghệ thuật đưa cái nền thật

lớn vào một đối tượng thật nhỏ in lên đó để gây hiệu lực khiến người đọc chú

ý đến cái mông mênh của bầu trời, nhưng cũng có khi ngược lại. Mang vóc

dáng của những bức thuỷ mặc tuyệt tác, cảnh làng quê Việt Nam được pha

loãng bởi một lớp sương nhạt, màu sắc thường nghiêng về màu lạnh, mờ ảo,

thanh đạm và lặng lẽ, một sự yên lặng tế nhị thâm trầm của nhà Nho… Nhà

thơ không biểu hiện tâm trạng, không nói nhiều đến mình trong thơ tả cảnh,

nhưng người đọc vẫn cảm thấy trong cái cao nhẹ lâng lâng của mùa thu hình

như có sự cảm thông, sâu lắng giữa người và cảnh. Cảnh thu là “cảnh tâm

hồn thơ”, là chất lắng đọng trong tâm hồn nhà thơ. Đặc biệt, ngôn ngữ thơ

Nguyễn Khuyến rất tinh xác, chọn lọc, bình dị và dễ hiểu. Tự nhiên, chân thật

chính là đặc điểm nổi bật nhất trong thơ ông; hầu hết những chữ dùng đều là

Nôm và rất linh động, gợi cảm, lời thơ chảy tuôn giống như lời nói bình

thường mà lại súc tích thâm trầm. Mùa thu Nguyễn Khuyến là mùa thu của

màu xanh, một mùa thu gợi cảm với nhiều từ lấp láy gợi hình, những chữ

dùng đạm bạc thuần phác nhưng lại ý vị và tinh xác đến độ không thể thay thế

bằng một từ ngữ nào khác hơn…

CHÚ THÍCH CHƯƠNG IV

(1). Xem M. E. Kravchova. Thế giới trong thơ ca của Thẩm Ước (441 –

513). In trong Văn học các nước Viễn Đông. Nxb. Khoa học, Maxcơva, 1979.

Cơ sở tư liệu là 175 bài thơ của Thẩm Ứớc trong cuốn Toàn Hán, Ngụy, Tấn,

Nam Bắc triều thi, tập II. Thượng Hải, 1957.

(2). Xin xem thêm luận văn tốt nghiệp đại học ngành ngữ văn của sinh

viên tại chức Nghiêm Thủy Nông, khóa IX, đề tài Tìm hiểu thời gian nghệ

thuật trong thơ chữ Hán Nguyễn Du (Phòng tư liệu khoa Ngữ văn, Trường đại

học Tổng hợp, Hà Nội).

Page 195: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(3). Thật ra, trong văn học cổ vệt Nam có nhiều người làm thơ về mùa

hè, thậm chí làm thơ về mùa hè nhiều hơn thơ Về mùa thu. Chẳng hạn thơ ca

đời Trần. Cho nên vấn đề nêu trên chỉ mới là một gợi ý; khi áp dụng chúng

cho thơ thiên nhiên Việt Nam còn cần phải nghiên cứu kỹ càng những nhân tố

khác nhau đã chi phối đối với từng nhà thơ cụ thể và đối với từng giai đoạn

văn học cụ thể (N.B.S).

(4). G. W. F. Hégel. Mỹ học. Tài liệu in rônêô, Viện Văn học, Hà Nội,

1978, tập IV Ai; tr. 60 và 71.

(5). Theo số lượng tác phẩm hiện sưu tầm được trong Nguyễn Khuyến

– tác phẩm, sđd.

(6). Rút từ Thơ văn Lý – Trần, tập I. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,

1977.

(7). Rút từ Thơ văn Lý – Trần, tập II. quyển thượng. Nxb. Khoa học xã

hội, Hà Nội 1989.

(8). Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd. Xem Chú thích (7), Chương III.

(9). Theo Thơ văn Nguyễn Khuyến, Thư mục số 32, Nguyễn Khuyến –

tác phẩm, Thư mục số 30, không có bài này.

(10). Xuân Diệu. Đọc thơ Nguyễn Khuyến, trong Thơ văn Nguyễn

Khuyến, Thư mục số 32.

(11). Ngô Tất Tố tác phẩm, tập II. Nxb. Văn học, Hà Nội, 1977, tr. 330.

(12). Chúng tôi nêu nghi vấn này vì bài thơ tuyệt tác Than mùa hè đã

không được đưa vàn sách Nguyễn Khuyến – tác phẩm, Thư mục số 30. Có lý

do gì để gạt ra ngoài chăng? (N.B.S).

(13). Thư mục số 30.

(14).Puskin (A. S. Pouchkine). Thơ. Maxcơva, 1972; tr. 109.

(15). Thư mục số 32.

Page 196: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(16). Thạch Trung Giả. Văn học phân tích toàn thư. Nxb. Lá bối, Sài

gòn, 1973; tr. 132–133.

(17). Xem thêm Mục 8, Chương II và các Mục 10, 11, Chương III, với

những cấp độ so sánh khác giữa Nguyễn Khuyến và Đào Tiềm.

(18). Văn thơ Nguyễn Khuyến. Phần tiểu luận của Lê Trí Viễn. Nxb.

Giáo dục, Hà Nội, 1957; tr. 27.

Chương V. MỘT BÚT PHÁP ĐA DẠNG

19. NGÒI BÚT TẢ THỰC ĐỘT XUẤT

Theo quan niệm của nhà Nho, văn chương hay phải là thứ văn chương

có nội dung đạo lý và hình thức cân đối, hài hòa, trang nhã, nhiều điển cố.

Văn chương kỵ cái mộc, cái thô. Nhà Nho – cũng như chúng ta – đều chống

cái phù phiếm, giả tạp, phản đối cái hư, đề cao cái thực. Nhưng cái thực mà

nhà Nho quan niệm hoàn toàn không phải là thực tại khách quan, mà là cái

thực đã bị khuôn vào trong đạo lý cương thường. Nguyễn Du tự ý thức rằng

Truyện Kiều không phải là thứ “văn dĩ tải đạo” mà chỉ là “Lời quê góp nhặt

dông dài – Mua vui cũng được một vài trống canh”. Đối với nhà Nho, thơ – dù

là ngôn chí, cảm hoài hay vịnh cảnh, vịnh vật thì cũng để bộc bạch, gửi gắm

tâm sự – tâm sự đó không phải là cái “tôi” cá thể mà là cái “ta” (tức là phần

đạo lý trong mỗi con người). Khi nhà thơ viết:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,

Cỏ cây chen lá, đá chen hoa.

(Qua đèo Ngang – BÀ HUYỆN THANH QUAN)

rõ ràng chưa nói được một cái gì cụ thể, chỉ là một buổi chiều ước lệ,

thiếu vắng những chi tiết cá thể sinh động của đời sống, nó chưa phải là buổi

chiều này mà chỉ là buổi chiều trừu tượng, một buổi chiều chưa được cá thể

hóa.

Page 197: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Một thiên tài cỡ Nguyễn Du vẫn tả nàng Kiều theo kiểu:

Làn thu thủy nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Nếu vượt ra khỏi những quy ước của thủ pháp nghệ thuật quá khứ mà

nhìn thì tả như vậy thực chất là chưa tả gì cả.

Khi tỏ ý khen một cô gái nào, các cụ ta thường ví “đẹp như nàng Kiều”

nhưng sẽ không ai biết rõ nàng Kiều đẹp như thế nào; trong khi đó ta có thể

hình dung rất dễ dàng một công tước phu nhân nhỏ nhắn trong Chiến tranh

và hòa bình hoặc một Anna Karênina trong tiểu thuyết cùng tên của Tônxtôi

(L.Tolstoi).

Vấn đề không phải là Nguyễn Du bất tài hoặc kém tài Tônxtôi mà do

quan niệm văn học, do phương pháp sáng tác của họ hoàn toàn khác nhau.

Dù sao, quan niệm văn học phong kiến cũng đã hạn chế sức sáng tạo của

nghệ sĩ, ngăn cản nghệ sĩ tìm hiểu, khám phá thực tại khách quan theo

hướng phơi bày thật đúng các dạng thức tồn tại như nó có. Để tả một buổi

chiều, các nhà văn hiện thực chủ nghĩa chắc chắn phải quan sát, ghi chép tỷ

mỹ, phải dùng chính những hình thức của đời sống để thể hiện, và vấn đề cốt

tử của nhà văn hiện thực ở đây là phải cá thể hóa, điển hình hóa chứ không

phải là mô tả một cách chung chung ước lệ.

Nguyễn Khuyến là một nhà Nho – hơn nữa là một nhà Nho đỗ đại khoa,

làm đến Tổng đốc. Ông sáng tác dưới ánh sáng của quan niệm “văn dĩ tải

đạo”, “thi ngôn chí” và hoàn toàn thấy thoải mái trong quan niệm đó. Tuy vậy,

nhiều lúc ông đã “xé rào”, phá vỡ những luật lệ gò bó của quan niệm “văn dĩ

tải đạo”, “thi ngôn chí”. Văn thơ ông, nhiều bài không còn đơn thuần giáo hóa,

truyền đạt đạo lý thánh hiền nữa mà hướng vào mô tả hiện thực khách quan.

Đây là một đặc điểm của tài năng Nguyễn Khuyến.

Ông viết về những sự vật – theo quan niệm của nhà Nho là tầm thường

– những chuyện thường nhật của đời sống con người. Ông không ngần ngại

bộc bạch tâm sự riêng tư của mình, rằng ông phải đấu tranh rất nhiều với

Page 198: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

chính bản thân mình – từ việc nhỏ nhặt như nhận hay không nhận một miếng

thịt:

Không ăn thì người bị đói

Ăn vào thì người bị nhục.

Không ăn thì người bị gầy,

Ăn vào thì ra con người tục.

(Nhân tặng nhục)

Ông mạnh dạn đưa lời ăn tiếng nói, đưa khẩu ngữ hàng ngày vào thơ.

Ông đã mô tả cuộc đời như nó có. Nhiều chỗ, nhà thơ đã đạt đến cái mà ta

vẫn gọi là tả thực:

Đầu đường ngang có một chỗ lội,

Có miếu ông Cuội cao vòi vọi.

Đàn bà đến đó vén quần lên,

Chỗ thời đến háng, chỗ đến gối.

Ông Cuội ngồi trông mỉm miệng cười.

Vội vàng khép nép đứng liền thưa,

Chót dại hở hang xin xá tội.

(Đống ông Cuội)

Bản lĩnh của ông quan Tổng đốc Nguyễn Khuyến ghê gớm thật! Ông

cứ ngang nhiên cho lên giấy trắng mực đen những điều cấm kỵ, bất chấp

“văn dĩ tải đạo”. Ông yêu cuộc đời trần tục và cố gắng tả thực nó – “Đàn bà

đến đó vén quần lên – Chỗ thời đến háng, chỗ đến gối”. Nếu xét ở khía cạnh

quan niệm văn học, phương pháp sáng tác thì đây là những câu thơ mới, rất

táo bạo thời đó. Ông đã cố gắng mô tả hiện thực khách quan bằng những chi

tiết cụ thể mà mình tóm bắt, cảm nhận được, đúng như nó có. Nguyễn Trãi,

Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm không thể “tả thực” như vậy. Nguyễn

Page 199: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Khuyến đã nới rộng, đã phá vỡ những quy định ngặt nghèo của quan niệm

văn học phong kiến. Ông đưa vào thơ đủ chuyện, nào chuyện thầy đồ ve gái

góa, chuyện trộm cắp, đĩ thõa… Chính vì thế thơ ông rất phong phú, đa dạng.

Đề tài, phạm vi phản ánh thật rộng. Khi không bị câu thúc bởi những quan

niệm sáng tác của Nho gia, Nguyễn Khuyến thật hào hứng. Có những bài thơ

của ông rất hiện đại, nói rặt chuyện hàng ngày, bằng khẩu ngữ, một thứ thơ

báo chí:

Dân giận mới trách thần:

“Không dân thần tựa ai?

Không mưa sao chẳng tâu,

Khiến dân vất vả đói?”

Thần rằng: “Dân ơi lại đây ta bảo,

Việc ấy ta không được biết gì;

Ta chỉ thích ăn uống thôi,

Còn mưa thì ta không làm được”.

(Đảo Vũ)

Nhà thơ đùa ông đồ Cự Lộc rất “ác”, khẩu khí khác hẳn ngôn ngữ các

nhà Nho:

Vẻ thầy như vẻ con tôm,

Vẻ tay ngoáy cám, vẻ mồm húp tương.

(Chế ông đồ Cự Lộc)

Với cặp mắt quan sát sắc sảo, tinh tế, ông bắt được những cảnh điển

hình mà bất cứ nhà văn hiện đại nào cũng phải ghen tỵ:

Bà quan tênh nghếch xem bơi chải,

Thằng bé lom khom nghé hát chèo.

(Hội Tây)

Page 200: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nguyễn Khuyến là nhà thơ lớn và độc đáo. Chỗ độc đáo, hơn người

của ông là mảng thơ viết về nông thôn, bao gồm những bài thơ về con người,

cảnh vật thiên nhiên, về phong tục tập quán. Về phương diện này, chưa có

nhà thơ nào, kể cả Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… sánh được cùng ông. Và cũng

chính ở mảng thơ này ông “xé rào” nhiều nhất, nhiều lần phá vỡ những quy

phạm của quan niệm văn học phong kiến. Ta có thể lấy ví dụ những bài thơ

thu của Nguyễn Khuyến:

Năm gian nhà cỏ thấp le te,

Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,

Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.

Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy,

Độ dăm ba chén đã say nhè.

(Thu ẩm)

Bài thơ đã vượt khỏi khuôn sáo nghìn xưa của những bài vịnh cảnh,

vịnh vật. Không còn những chữ mòn sáo, những ước lệ văn hoa, điển tích

“rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” nữa. Những chữ “thấp le te”, “đóm

lập lòe”, “phất phơ màu khói nhạt”, “bóng trăng loe” v.v… là ngôn ngữ miêu tả.

Nó là kết quả của sự quan sát hiện thực khách quan một cách lâu dài và tinh

xác, đúng với hiện thực ngay trong từng chi tiết chứ không đơn thuần là một

bài thơ vịnh mượn cảnh nói tình, nói chí theo quan niệm thơ đề vịnh của nhà

Nho. Đây là mùa thu đã được cá thể hóa. Không phải mùa thu Nam Bộ,

không phải mùa thu Trung Bộ, càng không phải mùa thu nước ngoài, mà chỉ

có thể là mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ mà thôi.

Ở một bài thơ thu khác, bài Thu điếu, tác giả đã đạt được cái mà ngày

nay ta vẫn gọi là điển hình hóa. Nhà thơ Xuân Diệu bình như sau: “Có về

Page 201: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

thăm vườn Bùi (quê Nguyễn Khuyến)… mới hiểu rõ bài Ao thu lạnh lẽo nước

trong veo. Sao mà lắm ao thế… Nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền

câu cũng theo đó mà bé tẻo teo. Sóng biếc gợn rất nhẹ. Khung ao tuy hẹp

nhưng làng cảnh cũng không thiếu không gian… trời thu xanh cao, đám mây

đọng lơ lửng… các lối đi trong làng hai bên tre biếc mọc sầm uất, chạy ngoắt

ngoéo cho đến lúc tưởng như tre đã kín lại…”.

Thông qua quan sát, miêu tả, nhà thơ đã tái tạo lại một mùa thu như nó

có với những chi tiết xác thực, những hình ảnh thực – tồn tại khách quan chứ

không phải là cái “thực” bị khuôn vào đạo lý cương thường như Nho gia quan

niệm.

Trong rất nhiều bài thơ viết về nông thôn, Nguyễn Khuyến không hề

dùng một điển tích nào, trái lại ông có ý thức đưa lời ăn tiếng nói hàng ngày,

đưa ca dao, dân ca, thành ngữ, tục ngữ vào thơ, làm cho một số bài thơ trở

nên gần gũi, có một sức sống mới. Hình ảnh bà vợ Nguyễn Khuyến và hình

ảnh chính nhà thơ được cá thể hóa sâu sắc “thắt lưng bó que, xắn váy quai

cồng, tất tả chân đăm đá chân chiêu”, “búi tóc củ hành, buông quần lá tọa, gật

gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm”.

Trong bài Đĩ cầu Nôm, Nguyễn Khuyến không ngần ngại chửi thẳng

vào các thứ dì Tư, cô Tư Hồng…:

Cha đời con đĩ cầu Nôm

Ông hỏi thăm bạn với giọng điệu duyên dáng và thực thà của người

đàn bà quê mùa:

Mấy ổ lợn con, rày lớn bé?

Vài gian nếp cái, ngập nông sâu?

Em cũng chẳng no mà chẳng đói.

Thung thăng chiếc lá, rượu lưng bầu.

(Lụt hỏi thăm bạn)

Page 202: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Ông quan Tổng đốc Sơn Tây, đỗ đại khoa, tự cúi xuống, tự xưng là

“em”, thật là thân tình, thắm thiết. Bài thơ vì vậy mất hẳn tính quan cách mà

gần gụi với cuộc đời hơn, thực hơn.

Ca dao có câu:

Khi buồn cái tỉnh tình tinh cũng buồn

Nguyễn Khuyến viết:

Tỉnh tinh rồi lại nực cười…

Và ta còn có thể kể ra rất nhiều ví dụ về việc Nguyễn Khuyến đã đưa

thơ xích lại gần đời sống như thế nào…

Như trên đã nói, Nguyễn Khuyến sáng tác dưới ánh sáng của quan

niệm văn học phong kiến. Tuy nhiên, là một nghệ sĩ lớn nên nhiều lúc ông đã

có những sáng tạo mới mẻ. Về phương diện bút pháp, ông mới hơn, độc đáo

hơn bất kỳ nhà Nho đương thời nào (trừ Tú Xương). Do thời đại, do sự vận

động của bản thân nền văn học, Nguyễn Khuyến chưa và không phải là nhà

văn hiện thực chủ nghĩa; tuy vậy ông đã sử dụng bút pháp hiện thực, đặc biệt

là khi sáng tác về đề tài nông thôn. Và có lẽ điều này đã làm cho ông trở

thành một nhà thơ cổ điển viết về nông thôn lớn nhất.

20. SỰ KẾT HỢP PHỨC ĐIỆU TRÀO PHÚNG VỚI TRỮ TÌNH

1. Khẳng định Nguyễn Khuyến, nhà thơ Việt Nam kiệt xuất, rất đúng.

Nhưng người nhấn mạnh sắc thái trữ tình trong thơ Nguyễn Khuyến thì coi đó

là nhà thơ yêu nước, nhà thơ của “dân tình” và “làng cảnh Việt Nam”; còn

người nhấn mạnh sắc thái trào phúng lại gọi Nguyễn Khuyến là nhà thơ trào

phúng, rõ hơn nhà thơ trào phúng – hiện thực; người khác đặt vấn đề nghiên

cứu trên bình diện mối quan hệ giữa thơ trữ tình và thơ trào phúng… Thực

chất, đó chỉ là sự khác nhau trong phương hướng tiếp cận và việc khai thác

những khía cạnh phong phú trong thơ Nguyễn Khuyến mà thôi. Điều cơ bản

là, trong khi nhìn nhận diện mạo dòng văn học trào phúng Việt Nam cổ trung

đại, mọi người đều dễ thống nhất coi Nguyễn Khuyến là một trong những đại

Page 203: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

biểu xuất sắc của làng thơ trào phúng, bên cạnh Hồ Xuân Hương, Tú

Xương…

Thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến, mặc dù mức độ đả kích sâu cay

và tính tập trung, cô đọng có khác nhau, song xét trên phương diện lý tưởng

thẩm mỹ và đặc trưng nghệ thuật, phải nói đã tạo nên một giọng điệu riêng

hết sức độc đáo. Thơ trào phúng đó có khi là sự đùa vui, châm biếm nhẹ

nhàng, bỡn cợt hóm hỉnh: Gặp sư ni, Khuyên vợ cả, Bạn đến chơi nhà, Lụt

hỏi thăm bạn…; có khi nhà thơ đả kích trực diện những lối sống rởm đời,

những kẻ làm tay sai cho giặc: Tặng bà Hận Cẩm, Đĩ cầu Nôm, Tiến sĩ giấy,

Hỏi thăm quan Tuần mất cướp, Tặng Đốc học Hà Nam… Khi khác là tiếng nói

cảm thán thương thân và xót xa trước cả một thời đại: Uống rượu ở vườn

Bùi, Cuốc kêu cảm hứng, Hoài cổ, Hội Tây… Chính sự đan xen giữa sắc thái

trữ tình và trào phúng theo nhiều cung bậc như trên sẽ dẫn tới việc người tiếp

nhận, thưởng thức, nghiên cứu có những nhận định khác nhau, thậm chí đối

lập nhau. Vấn đề đặt ra ở đây là cần xác định mạch cảm hứng chủ đạo của

nhà thơ, các đặc điểm và cách thức, sự chuyển hóa các sắc thái thẩm mỹ để

xem chúng đã diễn ra theo những chiều hướng nào. Và mặc nhiên, sự chia

tách về mặt đề tài như đã nêu cũng chỉ có tính lâm thời, quy ước mà thôi. Còn

trong sáng tác của Nguyễn Khuyến, tính chất và mức độ các biện pháp kết

hợp các sắc thái trữ tình – trào phúng lại hết sức uyển chuyển, sinh động.

2. Trong dòng thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến nói chung có thể xác

định được một bộ phận mà tính chất trào phúng dừng lại ở mức độ đùa vui

hóm hỉnh. Loại bài thơ này chủ yếu thể hiện cái nhìn tinh nghịch, pha trò,

nhiều khi vô thưởng vô phạt. Ở đây cảm hứng sáng tạo của nhà thơ không

xuất phát từ góc độ phê phán một cách có ý thức mà chủ yếu chỉ là những

hứng khởi bột phát. Bài thơ Gặp sư ni là một ví dụ:

Giữa đường nay gặp gánh tương tư,

Nửa ngỡ là quen, nữa lại ngờ.

Mở nón hóa ra người cũ thực,

Page 204: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

A di đà Phật! Chị mình dư?

Những bài thơ kiểu này ở Nguyễn Khuyến rất ít, thơ ông chủ yếu

hướng tới những tình cảm mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nhưng nguy ở cả

những bài có tính chất đùa vui này, ẩn sau tiếng nói trào phúng vẫn là những

sắc thái trữ tình nổi bật. Hai yếu tố ấy không độc lập với nhau mà gắn bó mật

thiết, cái này phần nào là hệ quả của cái kia. Chất trữ tình khiến cho hình

tượng trào phúng có chiều sâu, và chất trào phúng ở trong nhiều tác phẩm,

nhất là những bài thể hiện những tình cảm đau thương mất mát lại làm nhẹ đi

phần ai oán, nặng nề của những tình cảm đó, hướng cái nhìn của con người

về thực tại, gây dựng lại niềm tin yêu cuộc sống. Hãy lấy đôi câu đối Vợ thợ

nhuộm khóc chồng làm ví dụ:

Thiếp kể từ lá thắm xe duyên, khi vận tía lúc cơn đen, điều dại

điều khôn nhờ bố đỏ;

Chàng ở dưới suối vàng nghĩ lại, vợ má hồng con răng trắng, tím

gan tím ruột với ông xanh.

Rõ ràng đằng sau tấn bi kịch đau đớn kia là một nụ cười nhân hậu, yêu

đời. Đó là cái nhìn nhân bản, khiến cho con người trong khổ đau vẫn thấy cần

phải tồn tại, phải sống cho những ngày tới.

Nguyễn Khuyến còn luôn luôn tự nhận thức và phát hiện những tì vết,

những khiếm khuyết nho nhỏ của người thân quanh mình và chính bản thân

mình (như: Khuyên vợ cả, Lụt hỏi thăm bạn…). Ở những đối tượng cần phải

nêu ra để phê phán này, cố nhiên thái độ của Nguyễn Khuyến vẫn là lòng

nhân hậu, là tình cảm phân đôi thương mà giận, giận mà thương…

Như vậy, chính cái nhìn lành mạnh, cái nét đôn hậu trong nụ cười ý vị

về cuộc sống đã hình thành một đặc điểm trong thơ trào phúng của Nguyễn

Khuyến: tính mực thước, hài hòa giữa sắc thái trữ tình và sắc thái trào phúng.

3. Nhận thức ra sự bất lực của chính bản thân và cả lớp người cùng

thế hệ, Nguyễn Khuyến châm biếm, phê phán, chê trách những mặt hạn chế

của lớp người đó. Vì thế mà trong đối tượng bị phê phán kia có chính hình

Page 205: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

bóng con người nhà thơ. Khi Nguyễn Khuyến chỉ trích ông phỗng đá bất lực,

ngơ ngác trước cuộc đời thì liền đó nhà thơ có sự đồng cảm “Duyên hội ngộ

là duyên tuổi tác – Chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác” (Ông Phỗng đá);

khi nêu rõ mâu thuẫn nội tâm đến thành xót xa của anh giả điếc thì đồng thời

nhà thơ khẳng định “Lối điếc ấy sau này em muốn học”, lại còn khao khát và

tự hào nữa “Điếc như thế ai không muốn điếc! – Điếc như anh dễ bắt chiếc ru

mà” (Anh giả điếc); khi châm biếm sâu cay các vị khoa bảng hư danh “Nghĩ

rằng đồ thật hóa đồ chơi” (Tiến sĩ giấy) thì tác giả liên tưởng sâu sắc tới bản

thân mình “Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ – Thế cũng bia xanh cũng bảng

vàng!” (Tự trào); còn khi Nguyễn Khuyến coi bọn vua quan như một lũ

phường chèo qua Lời vợ anh phường chèo thì cũng là lúc nhà thơ chua chát

nhận chân về danh phận mình “Sách vở ích gì cho buổi ấy – Áo xiêm nghĩ lại

thẹn thân già” (Ngày xuân dặn các con). Từ đây có thể thấy rằng chính mối

liên hệ và đồng cảm giữa tác giả với các đối tượng nghệ thuật, rõ hơn là sự

tự nhận thức và khách thể hóa bản thân mình như một đối tượng trào phúng,

đã có tác dụng làm cho thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến trở nên chân thực

hơn song cũng gửi gắm vào đó tất cả nỗi buồn thương và niềm tâm sự riêng.

Điều này cũng có nghĩa là sắc thái trữ tình, mà biểu hiện cao nhất ở đây là sự

bộc lộ cái “tôi” trữ tình tác giả, đã thực sự góp phần tạo cho thơ trào phúng

của Nguyễn Khuyến có bản sắc độc đáo. Và cũng chính từ tấn bi kịch ấy đã

hướng sự bộc lộ nội tâm ở Nguyễn Khuyến lên tới một điểm cao của dòng

thơ trào phúng: những bài thơ tự trào và cảm thán thời thế ra đời.

4. Rõ ràng là khi cái “tôi” trữ tình tác giả tham dự và được nhận thức,

được trình bày như là đối tượng của sự sáng tạo thì nó không chỉ quy định về

mặt nội dung tư tưởng mà còn thấm sâu vào trong phương thức tư duy, các

thủ pháp nghệ thuật, nguồn cảm hứng và cả cách thức khai thác nội dung

hiện thực nữa. Vì lẽ trong dòng thơ trào phúng nói chung, cái “tôi” tác giả

thường rất ít hiện diện – đúng hơn là hiện diện cách quãng, gián tiếp – cho

nên khi nó đã lộ diện thì chúng ta dễ có điều kiện so sánh, nhận ra các đặc

điểm của chúng. Tất nhiên mức độ tham gia của tình cảm và sự bộc lộ cái

“tôi” trữ tình tác giả có rất nhiều hình thức khác nhau. Điều đó làm cho các

Page 206: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

sắc thái thẩm mỹ trở nên đa dạng, sinh động và cũng thể hiện rất rõ ở bộ

phận thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến.

Ở bài Gửi ông Đốc học Ngũ sơn, Nguyễn Khuyến có ý châm biếm bạn,

coi chức Đốc học của bạn như một thứ “mõ làng”. Nhưng rồi đến câu kết, nhà

thơ như chợt nhận ra tấn hài kịch kia còn có nguyên nhân bởi thời buổi loạn

lạc và bởi sự xô đẩy của tình thế. Nguyễn Khuyến vừa muốn khích bác vừa

không đành lòng nên phải buông lời cảm thán và buồn cho thế sự:

Cũng muốn ra chơi, chơi chửa dược!

Gió thu hiu hắt đượm màu sương.

Trong một bài thơ chữ Hán, Nguyễn Khuyến kể lại câu chuyện về một

gia đình lục đục, vợ chồng con cái đánh lộn nhau. Bài thơ có 28 câu tập trung

ghi lại hoạt cảnh hài hước kia và cuối cùng tác giả mới bộc lộ suy nghĩ của

mình qua lời bình:

Ai tai nhất gia trung

Hà dĩ chí như thử?

Phụ tử, phu phụ gian

Khởi bất thức luân lý.

Chỉ vị y thực mưu,

Sở dĩ sinh đố kỵ.

(Điền gia tức sự ngâm)

(Thương thay trong một nhà!

Làm sao lại đến nỗi thế?

Giữa cha con, vợ chồng,

Há không biết gì đạo lý.

Chỉ vì chuyện áo cơm,

Mà sinh ra ghét bỏ nhau).

Page 207: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Như thế, chính sự xuất hiện và xâm nhập mạnh mẽ các yếu tố trữ tình

vào mảng thơ trào phúng chứng tỏ nỗi lòng của Nguyễn Khuyến: khi càng

thấy rõ mặt trái của cuộc đời, càng khinh ghét nó thì đồng thời ông càng đau

buồn hơn, nhất là khi nhà thơ thấy bất lực trước xu thế xã hội ngày càng trở

nên đen bạc, trớ trêu. Nguyễn Khuyến tỏ ra vừa thương vừa giận thói đời,

bọn người đời (trong đó bao gồm cả chính mình) đã không còn giữ được bản

tính chân – thiện – mỹ nữa. Tâm trạng phân đôi, vừa giận vừa thương ấy trở

thành lối suy nghĩ thể hiện trong hầu hết các bài thơ và câu đối trào phúng

của Nguyễn Khuyến. Có thể mượn đôi câu đối Tặng người học trò cũ đi làm

cho Tây để nói lên tâm tình Nguyễn Khuyến:

Hay thật là hay đáo để! Bảo một đàng quàng một nẻo,

Thôi thế thời thôi cũng được! Phi đằng nọ tắc đằng kia.

Châm biếm, trào phúng mà sao tác giả còn độ lượng quá, nhân ái quá!

Và phải chăng Nguyễn Khuyến sinh ra vốn để làm một nhà nghệ sĩ gắn bó,

yêu thương con người và để trở thành nhà thơ trữ tình chỉ muốn hát những

lời êm đềm, dịu ngọt. Nhưng cuộc đời đâu có chiều lòng Nguyễn Khuyến!

Trước cảnh nhiễu nhương của xã hội, dòng thơ trữ tình Nguyễn Khuyến

không thể không cuồn cuộn nổi lên những con sóng giận dữ. Nỗi khổ tâm của

Nguyễn Khuyến là có giận dữ nhưng lại thấy không đành lòng. Phẩm chất

nhân bản trữ tình vẫn như một lực hướng tâm quy tụ mọi nguồn cảm hứng

của Nguyễn Khuyến về một mối. Và có lẽ chính tấm lòng đôn hậu, yêu

thương con người như thế đã làm cho thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến

dẫu chưa thật sắc nhọn, đích đáng, chưa đập mạnh, đập vỗ mặt như lối thơ

trào phúng của Hồ Xuân Hương, Tú Xương nhưng vẫn đúng hướng và tạo

nên giá trị nhân bản, giá trị truyền cảm da diết, lâu bền.

Đến đây cũng cần chú ý tới một hướng đi ngược chiều – tuy không

thành mạch cảm xúc phổ biến, cơ bản – là ảnh hưởng trở lại của phong cách

trào phúng trong dòng thơ trữ tình.

Xin dẫn bài Hung niên I làm ví dụ:

Page 208: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Vũ đả hàn song bán nhất khai,

Thôi khâm khởi tọa trướng nhiên hoài.

Đãn văn lân phụ kỳ tân mạch,

Bất kiến thôn ông tống cựu bồi.

Cố quốc sơn hà chân thảm dạm,

Tha hương hồng nhạn tối bi ai!

Niên cơ, khước quái thi thi giả,

Hà xứ phần gian yếm túc lai?

(Mưa tạt vào cửa sổ lạnh lẽo, hé mở nửa chừng,

Tung chăn ngồi dậy, dạ những bồi hồi.

Chỉ nghe tiếng mụ hàng xóm cầu đảo lúa mới,

Không thấy ông lão trong làng đưa thứ rượu cũ đến.

Trông vời non sông nước cũ thật là thảm đạm,

Lũ chim hồng nhạn lạc loài nơi tha hương, rất đỗi đau

thương.

Năm đói, nhưng lạ thay có kẻ nét mặt vẫn hớn hở,

Chẳng biết no nê từ nơi cồn mả nào mà đến?)

Rõ ràng bài thơ có một sự kết hợp đồng thời cũng là sự chuyển đổi

giữa các sắc thái trữ tình và trào phúng. Âm hưởng chung của bài thơ là sự

bộc lộ nỗi lòng nhà thơ trước tình cảnh quê hương đất nước. Song khi cảm

nhận về đối tượng đó, nhà thơ đã bắt gặp những chi tiết điển hình và tương

phản với đời sống nhân dân trong thực tại: giữa khung cảnh đất nước trầm

luân, trăm họ lầm than mà vẫn có bọn người no đủ hả hê, mãn nguyện. Sắc

thái trào phúng thực đã đạt đến độ sâu cay trong cái nhìn tỉnh táo, nghiêm

khắc về hiện thực.

Page 209: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

5. Như đã nêu trên, trong dòng thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến

chắc chắn đã có sự xuất hiện cả cái “tôi” tác giả và có sự tham dự của các

yếu tố trữ tình. Đặc điểm này thể hiện rõ cả trong hình thức biểu hiện; cách

thức diễn đạt, cách sử dụng từ để nói lên mối quan hệ nghệ thuật giữa tác giả

và đối tượng bị phê phán: do có sự hiện diện của cái “tôi” tác giả nên Nguyễn

Khuyến đã thể hiện một cách xác định mối tương quan giữa chủ thể và khách

thể, giữa suy nghĩ của cá nhân mình với thế giới các nhân vật trữ tình. Nhà

thơ biểu hiện các quan hệ nghệ thuật đó như là quan hệ gia đình, bạn bè thân

tình: anh – em, tôi – bác (Anh giả điếc, Ông Phỗng đá), tôi - ông (Gửi Đốc học

Hà Nam, Hỏi thăm quan Tuần mất cướp). Và cách đặt mình ở ngôi thứ nhất

có phần buông tuồng, dễ dãi: ông này, mình ông, cái mình tôi, ta, lũ ta, tớ, lũ

tớ… (Lên lão, Tiễn người quen, Nói chuyện với bạn). Cách nói nhẹ nhàng,

nửa đùa nửa thật ấy làm cho mức độ phê phán có phần nào giảm nhẹ đi:

Thấy Lão Đá lạ lùng muốn hỏi,

Cớ làm sao len lỏi đến chi đây?

(Ông Phỗng đá)

Anh mừng cho chú đỗ ông Nghè,

Chẳng đỗ thì trời cũng chẳng nghe!

(Mừng ông Nghè mới đỗ)

Cho đến lời kết thúc, nhiều khi Nguyễn Khuyến nửa chừng rời bỏ đối

tượng, không để cho tiếng nói đả kích đi đến điểm tận cùng. Ở đây nhà thơ

trở lại tự suy nghiệm, tự cảm thán thời thế hơn là bày tỏ thái độ phê phán của

mình trước đối tượng:

Nghĩ càng thêm ngán trai thời loạn,

Cái gái đời này gái mới ngoan.

(Lấy Tây)

Khen ai khéo vẽ trò vui thế!

Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!

Page 210: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(Hội Tây)

Thôi thôi đến thế thời thôi nhỉ,

Mây trắng về đâu nước chảy xuôi!

(Hòai cổ)

Cần khẳng định rằng sắc thái trữ tình đã có ảnh hưởng và chi phối

mạnh mẽ dòng thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến. Điều này có cơ sở trước

hết bởi Nguyễn Khuyến vốn thuộc về một tâm hồn nhân hậu, một tiếng nói

thương yêu, độ lượng. Tính chất đó luôn luôn bộc lộ khiến cho ngòi bút của

nhà nghệ sĩ khó có thể đi đến tận cùng của sự phê phán đồng thời góp phần

tạo nên tính đa diện, trầm lắng, xót xa đầy tính bi kịch ở ngay trong dòng thơ

trào phúng. Mặt khác, và đây là điều cơ bản, do sự tham dự của cái “tôi” trữ

tình ở một tâm hồn vốn nhạy cảm, tâm hồn luôn hướng về cái chân – thiện –

mỹ, đã tiếp tục làm chuyển hóa mạnh mẽ các sắc thái trào phúng và tạo nên

một giọng điệu riêng, bút pháp riêng: bút pháp trào phúng – trữ tình. Đóng

góp của Nguyễn Khuyến, tính độc đáo ở dòng thơ trào phúng của Nguyễn

Khuyến cũng chính là ở đây.

21. VÀI ĐẶC ĐIỂM THƠ NÔM

Thơ Nôm Nguyễn Khuyến thể hiện rất rõ sự khác biệt so với thơ Nôm

trước đó và đồng thời với nó. Trong những dị biệt đậm nhạt khác nhau ấy,

chúng ta có thể thấy phần nào bút pháp, hay cũng có thể nói là thi pháp

Nguyễn Khuyến. Đặc điểm nghệ thuật thơ Nôm Nguyễn Khuyến chính là thể

hiện một phương diện của thi pháp thơ ông.

Việc xác định một cách rành mạch đặc điểm thơ Nôm Nguyễn Khuyến

đòi hỏi chúng ta phải có những thao tác phân tích loại hình học thật sự

nghiêm túc. Không thể chỉ dựa trên những cảm nhận và ấn tượng. Song, nếu

như những phân tích lý trí giúp chúng ta những căn cứ vật chất để xác định

đặc điểm nghệ thuật, thì không thể chối cãi rằng những cảm nhận và ấn

tượng lại giúp chúng ta gọi tên cho những đặc điểm nghệ thuật đó.

Page 211: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Vậy thơ Nôm Nguyễn Khuyến có những đặc điểm gì?

1. Tính chất lưỡng phân của nghệ thuật biểu hiện:

Đây là tính chất phân đôi tư tưởng, tình cảm của ông quan Tam nguyên

nay đang ngả về hướng nhân dân, là tính chất hai mặt của một nhà Nho đang

từng bước (vô tình hay hữu ý) đứng ra ngoài làng Nho trước tình hình mới.

Tính chất lưỡng phân này là cơ sở của thi pháp Nguyễn Khuyến mà chúng tôi

tạm gọi là sự lưỡng phân thật–giả. Đó là cái cách Nguyễn Khuyến tạo tình thế

nghệ thuật trong thơ Nôm: cái thật nhiều khi là giả, và cái giả có khi lại là rất

thật. Sự lưỡng phân thật – giả này quán xuyến các bài thơ Nôm của Nguyễn

Khuyến dưới nhiều sắc thái khác nhau, phản ánh những tư tưởng khác nhau

của tác giả: phủ định mà khẳng định, khẳng định mà phủ định, hài hước mà

cay đắng, cay đắng lại cợt cười, say mà tỉnh, tỉnh mà say, ngông nghênh mà

rất nhu mì, trang nghiêm mà đùa bỡn… Các sắc thái thi pháp đó phối hợp với

nhau theo nhiều cách, tạo nên cái mà chúng tôi gọi là sự lưỡng phân thật –

giả ở trên. Bài thơ Vịnh Tiến sĩ giấy của ông là một điển hình của loại thi pháp

này. Ông Tiến sĩ thật Nguyễn Khuyến đùa ông Tiến sĩ giả bằng giấy, bởi vì

hai ông Tiến sĩ ấy rất giống nhau (nên chú ý tới từ cũng):

Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,

Cũng gọi ông Nghè có kém ai.

Đấy là trạng thái thật của ông Tiến sĩ giả, cũng lại là trạng thái giả của

ông Tiến sĩ thật, khi nhà thơ nhận xét về ngoại hình của nhân vật. Còn khi

ông đánh giá về phẩm chất, tư cách của nhân vật (nên chú ý tới từ nghĩ):

Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,

Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi.

thì đây lại là trạng thái giả của ông Tiến sĩ thật, nhưng cũng lại là trạng thái

thật của ông Tiến sĩ giả. Thật giả lẫn lộn tưởng chừng không phân biệt nổi.

Sự hoán giao thật giả ở đây vừa là một vấn đề thi pháp, vừa là một vấn

đề tư tưởng. Đó là sự đảo lộn của các giá trị trong thời buổi đảo điên, cũng là

Page 212: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

sự đảo lộn của lòng người trước các giá trị luôn thay đổi. Ông Tiến sĩ giấy đó

là giả, được tô vẽ cho giống thật. Nhưng giống thật đến đâu thì nó vẫn là giả.

Thế nhưng cái thứ giả đó lại là hiện hình thực chất của bao ông Tiến sĩ thật.

Trong bài thơ, câu nào cũng hàm đủ hai nghĩa thật – giả, và cái hay là ở chỗ,

người ta không thể và không nên bóc tách hai yếu tố thật – giả đó ra khỏi hình

tượng một cách cơ học.

Có thể nói tính chất lưỡng phân thật – giả trong thơ Nôm Nguyễn

Khuyến hoàn toàn khác với tính nhất nhất thể của thơ Nôm trước đó. Trước

Nguyễn Khuyến, từ Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, đến

Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan… đều cơ bản thể hiện tính chất nhất

thể này. Hoặc là thật, hoặc là giả, không có sự lưỡng phân. Điều này thể hiện

cả trong thi pháp lẫn trong tư tưởng. Các nhà Nho trước đó không có nhu cầu

tự đối lập với mình, tự phủ định mình, tự tách mình ra khỏi làng Nho, do yêu

cầu của lịch sử. Và cách này hay cách khác, về cơ bản, nghệ thuật của họ

bảo tồn tính nhất thể này.

Còn với Tú Xương thì sao? Tú Xương có điểm giống và khác Nguyễn

Khuyến. Trong tư tưởng của Tú Xương có thể hiện sự lưỡng phân thật – giả.

Tú Xương có nhu cầu tự đối lập với mình, đối thoại với mình, tự phủ định

mình, phủ định con người nhà Nho của mình và tách mình ra khỏi làng Nho,

với một tinh thần quả quyết không kém gì Nguyễn Khuyến. Nhưng điểm khác

là, trong nghệ thuật phản ánh của Tú Xương, về cơ bản, không rõ sự lưỡng

phân thật – giả. Ông nói phủ định là phủ định, khẳng định là khẳng định. Ông

công khai khẳng định mình và cũng công khai phủ định mình. Nhưng trước sự

đảo điên, thay đổi của các giá trị, Tú Xương rõ ràng là rành mạch hơn, dứt

khoát hơn, quả quyết hơn nhiều (ấy là so với Nguyễn Khuyến). Tất nhiên,

không thể không thấy thơ ông chứa đầy những dằn vặt, đau khổ, nhưng theo

một cách khác, với tính chất và mức độ cũng khác Nguyễn Khuyến.

2. Tính chất khách thể hóa trong nghệ thuật tự biểu hiện của chủ thể trữ tình:

Page 213: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Ở đây, Nguyễn Khuyến đã khách quan hóa bản thân mình, biến mình

thành khách thể được miêu tả, trong những bài thơ có tính tự biểu hiện như:

Tự trào, Tự thuật, Lên lão, Than già, Đại lão, v.v…

Tác giả đã miêu tả mình giống như một đối tượng khách quan. Tác giả

giữ một khoảng cách nhất định đối với bản thân, để nhận thức và phản ánh.

Cho nên, trong những hình tượng thơ loại này, không chỉ là sự tự bộc lộ, tự

phản ánh một cách chủ quan, mà còn có cả sự tự đánh giá, tự xét đoán, tự

phẩm bình và tự lựa chọn, có tính khách quan tương đối.

Chủ thể trữ tình trong thơ Nôm trước Nguyễn Khuyến thường bộc lộ

mình một cách trực tiếp, trực diện, và luôn luôn mang tính chủ quan tuyệt đối,

hoặc là khẳng định hăng hái, hoặc là thất vọng tràn trề, hoặc là hào hứng

phấn khởi, hoặc là đau đớn xót xa (một biểu hiện của tính nhất thể). Trong

thơ Nôm trước Nguyễn Khuyến, về cơ bản không có sự lưỡng phân, không

có sự lựa chọn, không có cơ hội cho tiếng nói khác, mà chỉ có một tiếng nói,

đơn thanh, chỉ có độc thoại.

Sự lưỡng phân trong thơ Nguyễn Khuyến cũng như sự xuất hiện của

tiếng nói khác không phải là hiện tượng duy nhất, riêng biệt ở Nguyễn

Khuyến. Nó là phổ biến trong nghệ thuật hiện đại. Đương thời, trong thơ Tú

Xương cũng thể hiện rõ điều này. Đó là tính cộng đồng loại hình của nghệ

thuật phản ánh thời đại Nguyễn Khuyến, Tú Xương. Trong thơ Nôm Tú

Xương, tính chất khách thể hóa bản thân cũng luôn luôn được thực hiện như

một biện pháp hữu hiệu để bộc lộ tâm trạng nhà thơ.

Nguyễn Khuyến thường nhìn mình bằng con mắt khác:

– Mở miệng nói ra gàn bát sách,

Mềm môi chén mãi tít cung thang…

– Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng…

thì Tú Xương cũng tự nhìn mình bằng con mắt khác, kiểu đó:

– Bài bạc, kiệu cờ cao nhất xứ,

Page 214: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Rượu chè, trai gái đủ tam khoanh…

– Bốn con làm lính, bố làm quan…

Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ v.v…

Trong thơ của các ông, bên cạnh tiếng nói khẳng định, hoặc phủ định

mình một cách chủ quan, bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều, một tiếng nói

khác có tính khách quan, đòi xét đoán bản thân nhà thơ. Bên cạnh việc tự thể

hiện phẩm chất và tư cách nhà thơ, là yêu cầu được đánh giá, xác định, phân

loại, lựa chọn bản thân nhà thơ một cách khách quan và công bằng. Vì thế

mà thơ Nguyễn Khuyến không chỉ nói về mình như một tấm gương, một mẫu

mực, một khối tâm sự ưu thời mẫn tục, mà còn như một kẻ gàn dở, tự phụ,

một kẻ vô trách nhiệm và vô tích sự nữa, cần được đối thoại.

3. Tính chất lưỡng trị của hình tượng nghệ thuật.

Trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến có một bộ phận tác phẩm độc đáo, làm

nên nét độc đáo trong thi pháp của ông, đó là việc nhà thơ đã tạo nên một

loạt nhân vật riêng biệt, khác lạ, mang đậm dấu ấn cá nhân. Đó là các nhân

vật thơ trong các bài Ông Phỗng đá, Anh giả điếc, Mẹ Mốc, Lời gái góa, Lời

vợ anh phường chèo… Đây là sự hình tượng hóa nghệ thuật các phẩm chất,

nhân cách, tư tưởng, quan niệm sống… chứ không phải sự miêu tả nhân vật

khách thể. Các phẩm chất, nhân cách, các phương châm sống ấy được tác

giả vật chất hóa thành các hình tượng nhân vật, vừa có tính khách thể, vừa

có tính chủ thể, và những giá trị của hình tượng nghệ thuật ấy không ngả

riêng về bên nào. Tính lưỡng trị các giá trị của loại hình tượng này làm thành

một nét mới mẻ trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến. Đó là tính lưỡng trị của sự

phê phán và tự phê phán, của sự phủ định và tự phủ định, của sự cười cợt,

mỉa mai và tự tiếu tự trào v.v…

Một mặt, chúng ta thấy Nguyễn Khuyến nhập thân, hóa thân có ý thức

vào những nhân vật “nhân tạo” này. Ông chính là Anh giả điếc:

Khéo ngơ ngơ, ngác ngác, ngỡ là ngây

Ông là Ông Phỗng đá:

Page 215: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Hỏi ra chích chích, chi chi nực cười…

Ông là bà Mẹ Mốc:

Tấm hồng nhan đem bôi lấm, xóa nhòa,

Làm thế để cho qua mắt tục.

Ông là Anh phường chèo.

Quan chèo vai nhọ khác chi thàng hề…

Đây chính là mặt chủ quan, tự đánh giá của nhà thơ, có tính chất tự

phê phán, tự phủ định, như một nửa giá trị không thể thiếu của hình tượng

nghệ thuật.

Và mặt khác, chúng ta còn thấy đây là sự hình tượng hóa những lối

sống, thái độ sống, quan niệm sống… của con người nói chung, trước thực tế

xã hội, thành những nhân vật “nhân tạo” Đó là những kẻ vô trách nhiệm với

đất nước, cầu an hưởng lạc, quay lưng lại cảnh “non nước đầy vơi”:

Đắp tai, ngoảnh mặt làm ngơ,

Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây…

Đây chính là mặt khách quan, mặt xét đoán của tác giả với con người

khách thể, có tính phê phán, phủ định quyết liệt, như một nửa giá trị còn lại

không thể thiếu của hình tượng nghệ thuật loại này.

4. Những yếu tế có tính chất “tiểu thuyết” của nghệ thuật phản ánh.

Nguyễn Khuyến là một nhà thơ cổ điển, sáng tác tuân theo thi pháp cổ,

ngôn ngữ và thể loại cổ. Đây đó, trong sáng tác của Nguyễn Khuyến, thi pháp

cổ có bị rạn nứt trong khi tác giả đi tìm những phương thức phản ánh mới.

Nhưng về cơ bản, ông chưa thoát ra ngoài nền nghệ thuật Việt Nam cổ

truyền. Tuy vậy, khác với trước, thơ Nôm Nguyễn Khuyến đã thể hiện sự

phong phú, đa dạng của các sắc thái biểu hiện, trước những đối tượng phản

ánh khác nhau.

Page 216: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Thơ Nôm trước Nguyễn Khuyến thường đơn nhất. Nguyễn Trãi thiên về

tâm sự ưu thời mẫn tục, Lê Thánh Tông thiên về tán tụng vương quyền,

Nguyễn Bỉnh Khiêm thiên về giáo huấn, răn đời, Hồ Xuân Hương thiên về trào

tiếu có tính nhục cảm, Bà Huyện Thanh Quan thiên về hoài cổ, v.v… So với

họ, thơ Nôm Nguyễn Khuyến quả thật là một sự phong phú, vì nó bắt đầu

hướng tới những bình diện bộn bề của đời sống, vận dụng một nghệ thuật

biến hóa theo sự đổi thay của đối tượng. Một trong những yếu tố làm nên tính

đa dạng, phong phú của nghệ thuật thơ Nôm Nguyễn Khuyến, theo chúng tôi,

đó là yếu tố có “tính chất tiểu thuyết”.

Trước Nguyễn Khuyến, người ta có nói tới tính thông tục trong thơ

Nôm. Nhưng phải đến Nguyễn Khuyến, thơ Nôm mới thực sự được thông tục

hóa mạnh mẽ. Quá trình thông tục hóa này cùng với sự xâm nhập ồ ạt của

đời thường vào thơ Nôm Nguyễn Khuyến làm cho ta phải chú ý tới một khía

cạnh mới lạ của thi pháp Nguyễn Khuyến, đó là những dấu hiệu có “tính tiểu

thuyết”. Yếu tố “tiểu thuyết” này bộc lộ trong sự lựa chọn, từ ngôn ngữ văn

học đến các loại đề tài. nhân vật chủ đề phản ánh có tính bình dân và dân

chủ.

Thơ Nôm Nguyễn Khuyến rất chú ý tới tính chi tiết, tính lịch sử, và đôi

khi còn chú ý tới cả tính hư cấu, tính chất câu chuyện (Ưu phụ từ, Ông phỗng

đá…) vốn cũng là những phẩm chất của tiểu thuyết. Nhà thơ có ý thức đưa

vào trong thơ Nôm những nhân vật mới, những đề tài và chủ đề mới, những

thông tin mới, những tiếng nói đối thoại mới, so với thơ Nôm trữ tình trước đó

Yếu tố “tiểu thuyết” đã góp phần làm cho thơ Nôm, vốn là một thể loại

có ảnh hưởng Đường thi, có hạn chế và phong bế trong phản ánh, đến

Nguyễn Khuyến đã mở rộng được khả năng phản ánh hơn, giúp nó có thể đi

vào nhiều lĩnh vực của đời sống con người. Biên giới nghệ thuật của thơ Nôm

Nguyễn Khuyến, do đó cũng đã nới rộng hơn. Điều này cũng thấy cả trong

thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến.

Chiều hướng thay đổi khả năng phản ánh trong thơ Nôm thế kỷ XIX

còn có thể thấy trong sáng tác của Tú Xương. Nghệ thuật phản ánh của hai

Page 217: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

nhà thơ lớn đồng thời ấy có nhiều điểm gần nhau. Song, bản sắc thơ Tú

Xương là khác, do chỗ không gian nghệ thuật mà ông quan tâm phản ánh chủ

yếu là ở thành thị Việt Nam, còn Nguyễn Khuyến, trái lại, chủ yếu là ở nông

thôn Việt Nam.

22. SÁNG TẠO TRONG THƠ LUẬT ĐƯỜNG

Trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến, về mặt thể tài, nhà thơ thành công cả

trong thơ luật Đường, cả trong thơ lục bát, song thất lục bát, hát nói và câu

đối, nhưng thơ luật Đường quả có vị trí nổi bật xét về phương diện đặc trưng

cho phong cách của ông cũng như mặt thống kê định lượng.

1. Thơ Đường là thể thơ trang trọng, đã từng có lịch sử huy hoàng với

những tên tuổi chói sáng. Đọc nó, tưởng như tất cả mọi vấn đề – cả nội dung

lẫn hình thức – đã được giữ quyết xong. Nhưng cần phải mang lại cho nó cái

mới. Trong quan hệ này, ngay một người Trung Quốc hiện đại, tác giả một

tập thơ và từ khá nổi tiếng vào những năm 1960 cũng đã phải thừa nhận là

thể tài thơ cũ “gò bó tư tưởng”. Đó là sự gò bó của một hệ thống niêm luật

chặt chẽ, sự gò bó đối với các thế hệ những nhà thơ làm thơ Đường luật, một

mặt khiến cho những nhà thơ này chỉ được coi là thợ thơ, mặt khác, kích

thích sự phát huy sáng tạo của cá tính đối với những nhà thơ khác - những

nhà thơ bậc thầy. Nguyễn Khuyến thuộc loại những nhà thơ bậc thầy.

Chúng tôi coi bài thơ Tạ người cho hoa trà như một trong những bài

thơ tiêu biểu cho đặc trưng của phong cách Nguyễn Khuyến. Cái gò bó cũng

là cái đặc sắc của thơ Đường luật là ở chỗ, trong những bài thơ thất ngôn bát

cú hoặc tứ tuyệt, hai câu cuối hoặc câu cuối phải “mã hóa” được nội dung của

toàn bài. Nguyễn Khuyến đã vượt qua đòi hỏi khắt khe ấy với hai câu thơ thật

độc đáo:

Xem hoa ta chỉ xem bằng mũi,

Đếch thấy mùi hương một tiếng khà.

Hai câu kết này hô ứng chặt chẽ với câu đầu: “Tết đến người cho một

chậu trà” làm thành bộ khung vững chắc của bài thơ và, có thể nói bài thơ coi

Page 218: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

như đã hoàn thành. Đó là cái đặc thù nghiêm ngặt của thơ Đường luật mà

Nguyễn Khuyến đã nắm được cái thần của nó. Công việc còn lại là lấp đầy

vào khung những “cấu tứ” của một chỉnh thể gồm 56 tiếng, theo trật tự chặt

chẽ của niêm luật Đường thi, để nén chặt, làm tăng sức mạnh của hai câu

cuối, xoáy vào chủ đề tư tưởng của bài thơ, khiến cho bài thơ vững chắc

không thể phá vỡ được. Đến lượt mình, độc giả phải “giải mã”. Và độc giả,

trái với sự “thôi xao” của tác giả hướng trước hết vào câu cuối, lại phải đi từ

tiếng thứ nhất cho đến tiếng thứ 56 của bài thơ để nắm cho được chủ ý của

nhà thơ. Độc giả đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.

Tết đến người cho một chậu trà,

Đang say ta chẳng biết rằng hoa.

Thoạt nhìn, tưởng như câu phá, và câu thừa là hai câu trần thuật, đơn

giản thông tin hai sự kiện: người ta tặng cho nhà thơ hoa trà, nhưng ông đang

say nên không thể nhận biết. Nhưng chữ “ta” ở câu dưới làm độc giả giật

mình, nghi ngờ cách hiểu của mình, buộc phải khám phá lại chữ “người” ở

câu trên:… “người” được hiểu theo lớp nghĩa mới – đại từ ngôi thứ hai. Thì ra,

Nguyễn Khuyến đang “hội thoại” với người cho hoa trà. Nhà thơ mới trịch

thượng làm sao! Ông “đang say” mà rất tỉnh, vì thế nên mới có câu:

Tết đến người cho một chậu trà

Người đọc xét đoán bằng lôgic chặt chẽ, trong quan hệ đó, quyết rằng

Nguyễn Khuyến trông thấy hoa trà. Song:

Da mồi, tóc bạc ta già nhỉ,

Áo tía, đai vàng bác đó a?

Chữ “bác” làm người đọc choáng váng vì biết rằng mình đã bị nhà thơ

“đánh bẫy” với cặp từ đăng đối “người – ta” đa nghĩa: “người” ngôi thứ ba và

“người” ngôi thứ hai, chưa kể sắc thái ngữ nghĩa tinh tế của cặp từ này của

tiếng Việt. Cái thú vị là ở chỗ đó. Độc giả kết luận: hai câu đầu là hai câu trần

thuật; hai câu vừa dẫn mới là hai câu “hội thoại”. Hội thoại đơn phương.

Chính vì vậy cứ kích thích tính tò mò, trí tưởng tượng của độc giả. Hơn thế

Page 219: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

nữa, ở trên độc giả đã bị đánh lừa, nên bây giờ anh ta đâm ra cảnh giác và

hoài nghi: “Vị tất đây đã là hai câu hội thoại trong cái vỏ bề ngoài rất hội thoại

của nó”.

Sự cảnh giác, hoài nghi của độc giả bắt gặp và đồng cảm với sự cảnh

giác, lo âu cua nhà thơ về những thói đời hiểm độc, lắt léo:

Mưa nhỏ những kinh phường xỏ lá,

Gió to luống sợ lúc rơi già.

Cả độc giả, cả nhà thơ đều dồn chú ý vào tặng vật và kẻ đưa tặng vật ở

đằng sau nó, và cùng tỏ thái độ phủ định, sự phủ định kiểu Nguyễn Khuyến:

Xem hoa ta chỉ xem bằng mũi

Đếch thấy mùi hương một tiếng khà.

Đến đây, độc giả hiểu sự hiểm độc lắt léo của đối phương và càng hiểu

sự “đánh trả” thâm thúy của nhà thơ. Đối phương của nhà thơ và nhà thơ đều

hiểu rõ nhau, đều chấp nhận những miếng đòn của nhau, trong im lặng. Cả

bài thơ là những dòng trần thuật trầm tĩnh, những trữ tình ngoại đề sâu sắc.

Đối phương của Nguyễn Khuyến không nói một lời. Nguyễn Khuyến cũng

không nói một lời. Nhưng do cấu trúc đăng đối của thơ Đường luật và tính

chất tiền định trong sự mã hóa nội dung của nó, Nguyễn Khuyến đã gây cho

người đọc cảm giác nhà thơ đang hỏi địch thủ của mình:

Da mồi, tóc bạc ta già nhỉ,

Áo tía, đai vàng bác đó a?

Lần đầu, nhờ tính đa nghĩa của cặp từ người – ta của tiếng Việt,

Nguyễn Khuyến đã gây ra được tiếng động giả. Lần này, nhà thơ lại gây ra

được tiếng động giả nhờ nương theo một cách nghiêm ngặt nghệ thuật đăng

đối của thơ Đường. Kết quả là, sau những lần gây tiếng động giả như vậy,

giọng thơ trần thuật trầm tĩnh càng được độc giả cảm nhận rõ ràng hơn, tinh

tế hơn. Trong bài thơ, chỉ có một tiếng động đích thực – tiếng “khà” của

Page 220: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nguyễn Khuyến. Trọng lực của bài thơ dồn vào tiếng “khà” ấy. Và như vậy ý

nghĩa phủ định được nhấn mạnh ở tiếng “khà” ấy.

Ở bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Chừa rượu, câu cuối “Chừa được nhưng

mà cũng chẳng chừa” thể hiện tính cách ương gàn của Nguyễn Khuyến –

cùng với câu đầu “Những lúc say sưa cũng muốn chừa” tạo nên thế tương

phản thống nhất không thể chia cắt được của bài thơ. Ở câu phá, nhờ từ láy

“say sưa” và sự lặp vần trong cấu trúc “sưa – chừa” gây ra âm hưởng du

dương, nhịp điệu của sự chao đảo nhè nhẹ; vì thế, độc giả không tỉnh táo

nhận ra ngay cái lôgic kỳ quặc của Nguyễn Khuyến:

Những lúc say sưa cũng muốn chừa

Tiếp theo, ngoài những vần chân, là những vần nối của câu này với

phần đầu của câu kia bằng biện pháp dùng từ trùng điệp và láy vần trong mỗi

câu. Hơn nữa, ba câu sau là sự điệp ý mở rộng. Toàn bài thơ, như vậy là sự

ngân nga thích thú nhẹ nhàng, là cảm giác về sự chuyển bậc khoan thai từ

tốn từ thấp lên cao hoặc ngược lại:

Những lúc say sưa cũng muốn chừa,

Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa.

Hay ưa nên nỗi không chừa được,

Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa.

Có thể rút ra kết luận: Nguyễn Khuyến ương gàn qua cái bề ngoài hiền

lành, lặng lẽ. Nhưng người đọc cần phải đi xa hơn, cần biết rằng trong thơ

Đường luật, nhờ lý trí, thế giới khách quan và thế giới bên trong của con

người được tỉnh lược cô đặc lại, nhưng trong cái vẻ bề ngoài của nó lại

dường như thiếu cái lôgic của lý trí. Thơ Đường để những khoảng trống dành

cho suy tư; chính vì vậy Nguyễn Khuyến viết:

Những lúc say sưa cũng muốn chừa

Khoảng trống trong câu thơ này dành cho chữ “tỉnh” hiểu ngầm, có

trong thơ tất cả các thế hệ nhà Nho – ẩn sĩ. Sự độc đáo thi vị của bài thơ

Page 221: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Chừa rượu của Nguyễn Khuyến là ở chỗ, chữ “tỉnh” đó được đục bỏ khỏi văn

bản. Nhưng còn có thể đi xa hơn nữa khi độc giả liên hệ bài thơ này với bài

thơ dân gian:

Con kiến mà leo cành đa,

Leo phải cành cộc leo ra leo vào.

Con kiến mà leo cành đào,

Leo phải cành cộc, leo vào leo ra.

để hiểu thêm sự ương gàn của Nguyễn Khuyến trong một tình thế như thế

nào. Bài thơ Chừa rượu chính là bi kịch lộn trái, là sự lộn trái của:

Ngọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm khăn,

Tính thương hải tang điền qua mấy lớp.

(Trở về vườn cũ).

Sự phong phú, tính đa nghĩa của nội dung trong sự thống nhất chặt chẽ

với hình thức nghệ thuật, sự phong phú, đa nghĩa tới mức đòi hỏi độc giả phu

suy tư một cách lao lung, nhận thức nhiều lần, bóc các lớp nghĩa, thống nhất

chúng lại, tưởng tượng phỏng đoán, để nắm được chủ ý của độc giả – đó

chính là đặc trưng của thơ Nguyễn Khuyến nói chung, thơ Nôm Đường luật

của ông nói riêng.

2. “Thi trung hữu họa” là quan niệm và thực tế không phải duy nhất

nhưng nổi tiếng của thơ phương Đông.

Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ,

Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong

(Độc “Thiên gia thi” hữu cảm – HỒ CHÍ MINH)

Thiên nhiên trong thơ Đường luật là thiên nhiên thống nhất với con

người, với nhà thơ. Trong thơ Đường luật, thiên nhiên và con người – hoặc là

những gì mang tính chất con người, soi vào nhau, hòa vào nhau, đồng hóa

lẫn nhau. Thiên nhiên táo tợn và nhiều màu sắc trong thơ Hồ Xuân Hương,

Page 222: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

thiên nhiên trang nghiêm, u hoài trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đều có cái

thần ấy của thơ Đường luật.

Trong mối liên hệ đó, thiên nhiên trong thơ Đường luật là những tương

quan về mặt quảng tính hoặc về mặt tính cách giữa thế giới và con người.

Những tùng, cúc, trúc, mai đầy rẫy trong thơ các nhà Nho là dựa trên những

đồng hóa các tương quan về tính cách. Trước khi xuất hiện tập thơ Ngục

trung nhật ký (1943), “mai khôi hoa” (hoa hồng) không có vị trí trong thơ

Đường luật, nhưng với bài thơ Vãn cảnh của tập thơ này thì hương hoa hồng

đã “hướng tại lung nhân tố bất bình”. Điều đó có nghĩa là trong sự hòa đồng

thế giới giữa thiên nhiên và con người, một tương quan mới đã được khám

phá. Nó không phá vỡ thi tứ của thơ Đường luật, trái lại, làm phong phú thêm

thể tài này bằng sự chiếu sáng thẩm mỹ mới.

Như thế, trong cái vẻ chặt chẽ và hoàn thiện của thơ Đường luật có

những chỗ trống kích thích sự tìm tòi sáng tạo của nhà thơ. Vấn đề là ở chỗ

tìm những chỗ trống trong dẫy hằng số của nó.

Có thể nhận thấy điều ấy trong thơ Nôm Đường luật về thiên nhiên của

Nguyễn Khuyến.

Trong trường hợp bài Vịnh núi An Lão, Nguyễn Khuyến dường như đã

gặp khó khăn, tương tự như Lý Bạch đứng trước bài thơ của Thôi Hiệu

Hoàng Hạc lâu. Thật vậy, trước Nguyễn Khuyến, nhà thơ Vương Chi Hoán đã

làm bài Đăng Quán Tước lâu – mô tả độ cao của ngôi lầu trong sự hòa đồng

của bề cao và bề rộng:

Dục cùng thiên lý mục,

Cánh thướng nhất tằng lâu.

(Muốn nhìn hết tầm mắt ngàn dặm,

Hãy lên cao thêm một tầng lầu).

Đọc câu thơ đầu của Nguyễn Khuyến:

Mặt nước mênh mông nổi một hòn

Page 223: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

độc giả thất vọng, vì tưởng rằng Nguyễn Khuyến đã lắp lại tầm thường tứ thơ

của Vương Chi Hoán. Những câu tiếp theo của Tam nguyên Yên Đổ càng

làm độc giả thất vọng. Nhưng đến hai câu luận thì tứ thơ lạ vút bay lên, bất

ngờ, thú vị:

Một lá về đâu xa thăm thẳm,

Nghìn làng trông xuống bé con con.

Con thuyền trôi về vô định chỉ còn như chiếc lá, những ngôi nhà ở dưới

chân núi “bé con con”. Độ bé của con thuyền khi nhà thơ phóng tầm mắt về

phía “xa thăm thẳm” và độ bé của những ngôi nhà khi nhà thơ “trông xuống”

để nhìn thấy được chúng – tất cả chuẩn bị cho sự xuất hiện một chữ trong

câu kết:

Dẫu già đã hẳn hơn ta chửa?

Chống gậy lên cao gối chẳng chồn!

Thì ra Nguyễn Khuyến đã gợi cho độc giả tưởng tượng độ cao của núi

bằng cách hòa đồng độ cao. Đó là khác biệt so với Vương Chi Hoán hòa

đồng lầu cao với sông Hoàng bao la, dài tít tắp; còn Nguyễn Khuyến thì đồng

nhất lòng yêu đời, sức khỏe của mình với núi cao. Kinh nghiệm nghệ thuật

của Nguyễn Khuyến thật là lớn lao đã giúp ông tìm ra cái mới, không lắp lại

được. Chữ nghĩa của nhà thơ “tiền hô, hậu ủng”, sắp xếp theo thế trận liên

hoàn, biến hóa khôn lường. Hãy đi ngược lại những dòng đầu:

Mặt nước mênh mông nổi một hòn,

Núi già nhưng tiếng vẫn còn non.

Mảng cây thưa thớt đầu như trọc,

Ghềnh đá long nay ngấn chửa mòn.

Ở đây là sự hòa đồng những mâu thuẫn ngay trong bản thân một đối

tượng, tương quan với ở dưới mô tả sự hài hòa của tuổi tác cao và tình yêu

cuộc sống của nhà thơ.

Chống gậy lên cao gối chẳng chồn!

Page 224: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Cái hay ngấm sâu vào lòng người đọc.

Trong thơ Đường luật còn có sự hài hòa của cái tĩnh và cái động. Có

thể coi bài thơ của Trương Kế Phong kiều dạ bạc đặc trưng cho sự hài hòa

đó:

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,

Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.

Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự,

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

(Trăng xế, quạ kêu, sương đầy trời,

Khách nằm ngủ trước cảnh buồn của đèn chài và lùm

phong bên sông.

Tiếng chuông chùa Hàn Sơn ngoài thành Cô Tô,

Nửa đêm vọng đến thuyền khách).

Bài thơ của Nguyễn Khuyến Thu vịnh cũng chứa đựng sự hài hòa của

cái tĩnh và cái động. Cái hay, cái độc đáo của Trương Kế và Nguyễn Khuyến

trước hết là ở chỗ mỗi nhà thơ đều mô tả cảnh sắc của quê hương mình, mặc

dù nghệ thuật của thơ Đường luật là nghệ thuật xếp đặt những tương quan

để hình dung thế giới đã được lược bỏ đi rất nhiều những đường nét sắc màu

của hiện thực thiên nhiên. Nhưng bức tranh thiên nhiên của nhà thơ Việt Nam

quả có cụ thể hơn, phong phú hơn không chỉ do số lượng nhiều hơn những

động từ, tính từ, từ so sánh, mà còn do sự hiện diện của nhiều loại tính từ

cùng một lúc – không phải tính từ chỉ những quan hệ của màu sắc, mà còn

chỉ sắc thái của một mùa, trong những câu thơ sau:

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Nước biếc trông như từng khói phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào.

Page 225: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Ở đây, những từ trời thu xanh ngắt tương liên với nước biếc mà câu

thơ bảy chữ Đường luật không ngăn cản được độc giả đặt chúng vào tổ hợp

nước thu xanh biếc, làm cho bức tranh của Nguyễn Khuyến đầy tràn màu

xanh gây ấn tượng thị giác, màu xanh hai sắc thái đậm nhạt, làm nền cho

“Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” – rất Đường thi trong quan hệ với “Song thưa để

mặc bóng trăng vào”. Có thể nghĩ rằng, tuân thủ thi luật, Nguyễn Khuyến đã

lược bỏ những từ mà ông dự kiến độc giả sẽ nhờ vào khả năng ngôn ngữ và

thói quen sử dụng nó, khôi phục lại. Tài nghệ của nhà thơ là ở chỗ đó.

Mặt khác, cảnh sắc của Trương Kế được trải theo chiều rộng, còn

Nguyễn Khuyến thì mô tả thiên nhiên từ bầu trời xuống mặt đất và ngược lại:

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái

Một tiếng trên không ngỗng nước nào?

Có sự trùng hợp của quá khứ và hiện tại. Nhưng không còn sự yên ả

bền vững, vĩnh hằng. Đằng sau câu hỏi có vẻ bâng quơ, ngẫu nhiên là sự

thao thức, dằn vặt, không chỉ của nhà thơ, mà còn của cả những người Việt

Nam bị mất nước vào cuối thế kỷ trước – đầu thế kỷ này. Bởi vậy:

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào!

Thiên nhiên khúc xạ vào trong thơ Nguyễn Khuyến “cảnh tâm hồn”.

Tâm hồn nhà thơ gắn bó với quê hương đất nước mình, nên những kiểu họa

của ông, điển hình là Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm mang một số nét đặc trưng

của thiên nhiên vùng đồng chiêm trũng tỉnh Hà Nam cũ.

3. Như vậy, sức mạnh của Nguyễn Khuyến không chỉ ở khả năng nhìn

và củng cố những cái nhìn được trong những hình tượng mang tính chất thị

giác, mà còn ở khả năng nghe, khả năng thẩm âm tinh tế. Ở đây không phải

chỉ là sự thông báo tiếng động như trong Đường thi, cũng không chỉ mang

vào thơ những âm thanh trùng hợp với tên sự vật như Bà Huyện Thanh Quan

đã làm mà còn là sự mô tả trực tiếp âm thanh bằng cách mô phỏng. Thế giới

âm thanh của Nguyễn Khuyến thật là phong phú: một tiếng khà, nghe xao

Page 226: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

xác, sẽ đưa vèo, sẽ thổi phào, ình ịch trống các làng, i a kinh một bộ, lóc cóc

mõ đôi hồi, quyên đã gọi hè quang quác quác, gà từng gáy sáng tẻ tè te v.v…

Thật là kỳ thú mỗi khi người đọc phát hiện được sự sắp xếp những tính

từ tượng hình trong thế đăng đối với những tính từ tượng thanh:

– Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách,

Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà.

– Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng,

Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi.

Nhà thơ muốn khám phá sự phong phú của ý nghĩa ngôn từ thể hiện

tính nhiều vẻ của thế giới; muốn đặt chúng trong những tương quan so sánh

khác nhau, làm cho thế giới ấy được nhận thức ở chiều sâu và từ nhiều phía.

Mặt khác nhà thơ nhìn và nghe, thậm chí ngửi, nếm, cảm giác và cố gắng hết

sức mình ghi lại cho thật vừa ý tất cả những gì lĩnh hội được không chỉ ở thế

giới bên ngoài:

– Nghênh ngang võng lọng nhờ ông Sứ,

Ngọng nghẹo văn chương giở giọng ngô.

(Bồ tiên thi)

– Le te nghìn xóm quanh ba mặt,

Lố nhố muôn ông lẩn một thầy.

(Chơi núi Long Đội)

– Chồi quế sân sau muốn thập thò

(Dựng nhà tế đường)

– Hương khói nhà ai cũng ngạt ngào.

(Ngày xuân gửi cho bạn,I)

– Chén rượu đồ tô hẳn ngọt ngào.

(Ngày xuân gửi cho bạn, II)

Page 227: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

mà còn là ở thế giới bên trong – tâm hồn ông:

Tí tẻo lòng trần vẫn chửa nguôi

(Núi Lão huyện ta)

Người đọc có ấn tượng mạnh mẽ là Nguyễn Khuyến muốn khám phá

không hẳn những quan hệ của các sự vật trong thế giới, mà là ông muốn mô

tả chân thật những sắc thái, muốn khu biệt những sắc thái của những hiện

tượng khác nhau và của cùng một loại hiện tượng của cuộc sống:

Bà quan tênh nghếch xem bơi chải

Thằng bé lom khom nghé hát chèo…

(Hội Tây)

Tất cả những điều nói trên không những chỉ khiến cho nhà thơ khai

thác kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ, cải tạo chúng lại trong cơ cấu của

thơ Đường luật, đồng thời làm cho thơ Đường luật mất cái vẻ đường bệ trang

trọng của mình (điều đó thấy rõ ở những bài Muốn lấy chồng, Thầy đồ ve gái,

Phú đắc, Bà già đã bẩy mươi tư, ngồi trong cửa sổ viết thư lấy chồng), khai

thác những từ có âm vang, những cấu trúc tính – trạng từ (xanh ngắt, trong

veo, bé tẻo teo…); động – trạng từ (nghe xáo xác, sẽ đưa vèo, long bong vỗ,

thổi phào…); những cấu trúc đảo ngữ (Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, làn

ao lóng lánh bóng trăng loe; xanh xanh như sắp thập thò hoa…); những cấu

trúc cân đối toàn vẹn:

Ba vuông phấp phới cờ bay dọc,

Một bức tung hoành váy xắn ngang.

(Lấp Tây)

Nhiều khi, phải biết tuân thủ quy luật và lối tư duy của Đường thi, cũng

như cấu trúc của tiếng Việt và những cấu trúc như thách đố kinh nghiệm đời,

kinh nghiệm ngôn ngữ của độc giả để phát hiện sự cân đối của nó:

Vẫn tưởng có chồng như có cánh,

Page 228: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông.

(Không chồng trông lông bông)

hoặc lại phải biết lấp chỗ trống bằng những từ thích hợp:

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao

Nước biếc trông như từng khói phủ

(Thu vịnh)

để hoàn thiện bức tranh thiên nhiên bằng cách phá vỡ sự cân bằng về số

lượng âm tiết mà thi luật cho phép rồi tạo ra sự cân bằng mới – sự cân bằng

về ngữ nghĩa.

Trong những bài thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Khuyến tỷ lệ bài thơ

sử dụng từ láy rất lớn: 69 bài/87 bài. Những từ láy và những từ mô phỏng âm

vang láy quả thực đã giúp nhà thơ tạo dựng những hình tượng có tính chất thị

giác, không hiếm những trường hợp đã giúp ông viết những câu thơ có nhạc

điệu:

– Đôi gót phong trần vẫn khỏe khoe

– Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng,

Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi.

Nguyễn Khuyến có ý thức không chỉ dùng những từ láy sẵn có mà còn

sáng tạo những từ láy rất độc đáo:

Quyên đã gọi hè quang quác quác,

Gà từng gáy sáng tẻ tè te.

Với Trần Tế Xương, thơ Nôm Đường luật đã phản ánh cuộc sống bình

thường, hàng ngày trong buổi giao thời cuối thế kỷ. Ông là người xuất khẩu

thành chương và có thể làm thơ thất niêm.

Cùng thời với Tú Xương và cùng đứng ở đỉnh cao của sự sáng tạo

nghệ thuật, Nguyễn Khuyến đã mang lại cho thơ Nôm Đường luật cảnh sắc

Page 229: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

của quê hương nhà thơ, sự khu biệt về sắc thái của sự vật và của tâm hồn.

Tài năng của Nguyễn Khuyến là ở chỗ ông chiếm lĩnh được thơ Đường luật,

chiếm lĩnh được quan niệm “thi trung hữu họa”, chiếm lĩnh được khả năng đạt

tới đỉnh cao trong sự hòa trộn tài tình hình ảnh sự vật khách quan và tình cảm

gắn bó với quê hương, đất nước.

23. NHÀ THƠ “KÉP” HÁN – VIỆT

1. Đối với những người từng làm quen với thứ văn chương cả Việt lẫn

Hán, thích thú đầu tiên và trội hơn đó là được đọc những bài thơ liên kết của

Nguyễn Khuyến qua hai dạng Hán và Nôm. Qua hai bản, người đọc không hề

cảm thấy có sự nhàm chán, mặc dầu có sự lặp lại cả tình lẫn cảnh.

Bài Trở về vườn cũ đi đôi với bài chữ Hán Bùi viên cựu trạch ca. Cả hai

bài Nôm và Hán đều theo thể ca trù, hai giọng thơ khoáng đạt, có niềm vui

được về chốn vườn cũ ở quê hương, tuy vẫn phảng phất sự buồn nản đối với

thời cuộc.

Bản chữ Hán mở đầu bằng 4 câu:

Bùi viên ngô cựu trạch,

Tứ thập niên kim nhật phú quy lai.

Tùng tùng, cúc cúc, mai mai,

Phiêu nhiên hữu khâu hác lâm tuyền chi lạc thú.

(Vườn Bùi nơi nhà cũ của ta,

Bốn mươi năm, nay mới ngâm ngợi bài thơ “quay về”.

Đây tùng, đây cúc, đây mai,

Phơi phới thú ẩn dật nơi núi khe rừng suối).

Bản tiếng Việt giọng văn khác:

Vườn Bùi chốn cũ,

Bốn mươi năm lụ khụ lại về đây.

Page 230: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Trông ngoài sân đua nở mấy chồi cây,

Thú khâu hác lâm tuyền âu cũng thế.

Ở câu thứ hai, từ lấp láy “lụ khụ” gợi hình tượng già nua, chậm chạp.

Một bản khác chép “lẩn thẩn” cũng gợi ý già lão, nhưng nhấn mạnh về tinh

thần, tính dớ dẩn thiếu sáng suốt của tuổi già. Sang tiếng Việt, không cần

dùng điển tích, không cần nhắc tới bài Quy khứ lai từ, không cần những hình

tượng ước lệ “tùng, cúc, mai”, nhưng lại có nhiều điều thú vị khác. Đây là văn

tả thực, “mấy chồi cây” đúng với cảnh trước mắt. Vườn Bùi sau bốn mươi

năm nhà thơ trở về không thể có tùng, cúc, mai là những loại cây đòi hỏi sự

chăm sóc của con người. Cái hay của giọng chữ Hán là chải chuốt, hàm súc,

gợi nhiều hình ảnh đẹp của những áng văn cũ. Bản tiếng Việt với từ ghép gợi

cảm, phác thực và sinh động, tả tuổi già mệt mỏi, buồn nản nay được vui về

chốn cũ của gia đình, cây cối xanh tươi tạo thành một cảnh yên tĩnh ẩn dật lý

tưởng.

Không thể khẳng định bản Việt dịch từ bản Hán. Nếu không phải là

ngược lại: bản Hán là dịch từ bản Nôm, thì chí ít cũng phải nói cả hai bản đều

xuất phát từ một nguồn cảm nghĩ, đều có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Và tác

giả đã thành công ở cả hai bản, gây được hứng thú sâu đậm trong việc

thưởng thức cả văn Việt lẫn văn Hán.

Một ví dụ khác, trong bài thơ liên kết Đến chơi nhà bác Đặng -Hạ nhật,

phỏng biểu huynh Đặng thai quy tác, có câu:

Trâu già gốc bụi phì hơi nắng,

Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người.

Ngọa thụ bì ngưu khư thử khí,

Cách trì tiểu khuyển phệ nhân thanh.

Đúng là cảnh thực. Bức tranh qua hai bản, nếu vẽ ra, chỉ là một. Có đôi

chút khác “trâu mệt mỏi” (“bì ngưu”) và “trâu già”; “nằm gốc cây” (“ngọa thụ”)

và “gốc bụi”; “cách ao” (“cách trì”) và “bên ao”. Nhưng xét kỹ, những chỗ khác

Page 231: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

biệt không đáng kể, có thể cơi như không có. Ở cả hai bản, cảnh vật đều rất

sinh động, và rất thân quen với nông thôn.

Những câu tả cảnh trong thơ liên kết Việt Hán của Nguyễn Khuyến khá

nhiều, nhưng không phải lúc nào hai bản cũng thật ăn khớp nhau như trường

hợp vừa trình bày. Trong bài thơ liên kết Vịnh mùa hè – Hạ nhật ngẫu hứng ở

câu 5 và 6:

Cá vượt khóm rau lên mặt nước,

Bướm len lá trúc lượn rèm thưa.

Phú chiểu lục tần khiêu nhất lý,

Đường môn thúy trúc vũ song hồ.

Cảnh thôn dã thật thân quen. Câu thơ Việt, tả cá dưới ao nhảy vọt,

vượt khóm rau phủ mặt nước, bướm bay qua lá trúc, lượn quanh rèm. Câu

Hán cũng có cá, có bướm, có rau, có trúc, nhưng thêm ý: một chép và đôi

bướm; và thêm màu: rau tần biếc, bụi tre xanh. Hai dạng câu, mỗi dạng đẹp

một vẻ. Câu thơ chữ Hán dành 4 chữ đầu để tả cảnh tĩnh: rau tần biếc phủ

trên ao, lá trúc xanh trước cửa. Cảnh tĩnh và có màu sắc, để làm nổi cảnh

động: một chép nhảy và đôi bướm múa lượn. Cảnh thật đẹp và thật “hữu

tình”. Bản Việt cũng những cảnh đó nhưng lược bỏ “lục tần” và “thúy trúc” là

những chữ đã xói mòn trong văn cổ (“thanh tùng thúy trúc”, “thúy trúc hoàng

hoa”…). Gạt bỏ những thứ mòn cũ đó để làm nổi bật cái động ở nơi cá và

bướm:

Cá vượt khóm rau lên mặt nước,

Bướm len lá trúc lượn rèm thưa.

Bốn động từ: vượt và lên, len và lượn, với ba thanh nhập ở câu trên:

vượt, mặt, nước đặt sát nhau, tả động tác nhảy vọt bất thần của cá, và ba

thanh êm nhẹ ở câu dưới: len, lá, lượn, tả động tác nhịp nhàng của bướm;

câu thơ đầy hình ảnh và nhạc điệu, cảnh thật đẹp và nên thơ.

Page 232: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Về tả cảnh, không thể không kể đến hai bài thơ nổi tiếng về núi và chùa

Long Đội: Chơi núi Long Đội – Ức Long Đội sơn, I và Nhớ cảnh chùa Đọi –

Ức Long Đội sơn, II. Bài thứ nhất nói về cảnh chùa và núi Long Đội. Chùa

trên núi cao, bên cạnh sông, ba mặt là làng mạc. Chùa có nhiều tượng, cảnh

thanh vắng chỉ có một vị sư trụ trì. Mọi chi tiết đều được tả ở hai dạng Hán và

Việt trong bài thơ liên kết.

Bình không tĩnh phạn dao tinh nhật,

Lịch đại tàn bi chứng hải tang.

Bình dã thiên thôn tam diện hợp,

Không sơn vạn Phật nhất tăng tàng.

(Chùa yên tĩnh, cao ngất lưng trời, làm rung động tinh tú,

Bia tàn qua bao triều đại chứng tỏ bể dâu.

Nghìn thôn xóm chốn đồng bằng, ba mặt hội họp,

Muôn vị Phật trên núi vắng, ẩn náu một nhà sư)

Chiếc bóng lưng trời am các quạnh,

Mảnh bia thuở trước bể dâu đầy.

Le te nghìn xóm quanh ba mặt,

Lố nhố muôn ông lẩn một thầy.

Cũng một cảnh, cách nhìn ở mỗi bài không thật giống nhau. Bản Hán

nhấn mạnh tầm cao của chùa, làm rung động cả mặt trời và các vì sao. Bản

Việt nhấn mạnh mặt vắng quạnh, chùa cao in bóng lưng trời càng làm tăng

thêm vẻ hiu quạnh đó.

Trong bốn câu trên, ở hai dạng Hán và Việt, hai câu trước tả cảnh chùa

theo chiều cao của trời và chiều sâu của quá khứ càng làm tăng vẻ vắng lặng

của chùa, hai câu sau tả cảnh chùa theo chiều rộng, xung quanh ba mặt là

làng xóm, giữa là chùa với rất nhiều tượng Phật, làm tăng vẻ cô đơn của nhà

sư. Cùng một cảnh, nhưng giọng văn bản Hán vẫn trang nghiêm hơn, bản

Page 233: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Việt giọng hơi bông đùa, biểu hiện thái độ thường thấy của nhiều bài văn thơ

Nôm.

Bên cạnh những bài thơ tả cảnh, những bài thơ tả tình trong mảng thơ

liên kết Việt – Hán dồi dào hơn, và cũng biểu lộ ở nhà thơ một kỹ thuật vững

chắc, khiến cả hai bài thường có giá trị ngang nhau “mỗi bên một vẻ, mười

phân vẹn mười”.

Có thể lấy ví dụ ở bài Ngày xuân dặn các con – Xuân nhật thị chư nhi,

II. Bài chữ Hán, 4 câu giữa:

Đương thế thi thư hà sử dụng,

Lão lai quan đối thượng đa tàm.

Loạn ly xuân sắc chân vô lại,

Ưu khổ nhân tình cửu bất kham.

(Đời nay, văn chương còn dùng làm gì,

Tuổi già mũ đai càng đáng thẹn.

Trong cảnh loạn, sắc xuân thật trơ trẽn,

Lòng người đau khổ đã lâu không chịu được).

Bản Nôm giữ lại đầy đủ mọi ý của bản chữ Hán, giọng tha thiết và đau

xót, với những từ lấp láy có sức gợi cảm mạnh mẽ:

Sách vở ích gì cho buổi ấy,

Áo xiên nghĩ lại thẹn thân già.

Xuân về ngày loạn càng lơ láo,

Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ.

Cả hai bài có giọng bi tráng khi nói về thời thế và cách ứng xử, câu kết

là một lời nhắc nhở tha thiết và cũng là một bản án nghiêm khắc:

Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng

Sao con đàn hát vẫn say sưa?

Page 234: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Đối thử quang âm hà dĩ úy,

Chư nhi do tự tửu ca hàm?

Nói tới thơ tình cảm ở dạng liên kết Hán – Việt của Nguyễn Khuyến

không thể không nhắc tới bài Vãn đồng niên Vân Đình Tiến sĩ Dương Thượng

thư mà bài tiếng Vệt có phần chắc là bài làm sau, lấy đầu đề giản dị là Khóc

bạn.

Hai câu đầu:

Dĩ hĩ Dương đại niên,

Vân thụ tâm huyền huyền.

(Thôi thế là xong, bác Dương cao tuổi,

Nhìn trời mây cây cối, lòng những bùi ngùi).

Đại niên (bậc cao niên) là lời tôn xưng, tuy Dương Khuê kém tuổi

Nguyễn Khuyến; vân thụ (trời mây cây cối) là điển mộ vân xuân thụ (mây

chiều cây xuân) rút từ thơ Đỗ Phủ nhớ Lý Bạch, thường dùng để tả tình bạn

mong nhớ nhau. Chuyển sang tiếng Việt:

Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

câu thơ đã có một sức truyền cảm mới. Không kể “Bác Dương” nghe thân

mật hơn “Dương đại niên”, hai chữ “thôi” nhắc đi nhắc lại, những từ lấp láy

“man mác”, “ngậm ngùi” gợi cảm, nhất là vứt bỏ điển cũ “vân thụ” chuyển

thành “nước mây man mác”, cảnh “sông dài trời rộng” hay “biển rộng trời cao”

– hình tượng nỗi đau buồn vô hạn khi mất bạn thân. Nhiều đoạn khác cũng

tương tự:

Hữu thời đối quân ẩm,

Thái bạch phù bát diên.

(Có lúc cùng nhau uống rượu,

Chén rượu lớn tràn đầy tám phương).

Page 235: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Chuyển sang tiếng Việt:

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,

Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.

Câu tiếng Việt nhiều ý hơn, hay hơn. Rượu ngon cùng nhắp, nhắp hình

tượng và trang nhã hơn ẩm. Rượu ngon, quỳnh tương, bầu xuân, ăm ắp:

thức uống thật ngon và quý, tình cảm cũng thật đẹp và quý. Uống rượu và

uống cả hơi mạnh của trời xuân, trong đó có tình bạn thân thiết.

2. Những bài thơ liên kết Hán – Việt còn hỗ trợ cho nhau để giải quyết

những chỗ khó hiểu, giúp người đọc hiểu ý thơ sâu sắc và đầy đủ. Điều này

có thể thấy ở bài Hạ nhật ngẫu hứng với hai câu:

Uyên Minh ngâm hứng đa quy tửu,

Tử Hậu hoàn khê tẫn vị ngu.

(Hứng thơ của Uyên Minh phần lớn do rượu mà có,

Khe suối quanh nhà Tử Hậu cũng mang tiếng ngu).

Dựa trên bản chữ Hán, câu thơ Nôm:

Thơ Đào cửa miệng đưa câu rượu,

Xóm Liễu quanh khe chịu tiếng khờ

(Vịnh mùa hè)

làm ý nghĩa sáng rõ thêm: tác giả tự ví mình như Đào Tiềm, câu thơ ngâm ra

miệng đều do rượu mà có (hoặc đượm mùi rượu). Và như Liễu Tử Hậu, gọi

khe suối vòng quanh chỗ ở là “suối khờ”

Một ví dụ khác có thể thấy ở bài thơ liên kết Cáo quan về nhà – Mạn

hứng. Bài Mạn hứng:

Bố ương nô láo tri hòa cước,

Địch cốc nhân hồi dẫn đẩu niên.

(Người đi cấy biết thành thạo chân lúa,

Page 236: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Kẻ bán thóc về, luận bàn tuổi đấu).

Đây là trường hợp mà nếu không có bản Nôm, khó mà hiểu nổi. Hòa

cước (chân lúa), đấu niên (tuổi đấu) không thể tìm thấy nghĩa trong từ điển.

Bản Nôm mách chúng ta:

Thửa ruộng rạch ròi chân xấu tốt,

Đấu lương đo đắn tuổi non già.

Ở đây “hòa cước” – chân lúa – có nghĩa “chân ruộng lúa”, chỉ độ phì

nhiêu và năng suất của đất; “đẩu niên” – “tuổi đấu” – tức dung lượng tính

bằng bát, mỗi bát là một tuổi. Như vậy bằng phương thức thể thơ liên kết Việt

– Hán, nhà thơ đã có dịp sáng tạo nhiều từ mới trong thơ Hán. Ngoài hai từ

“hòa cước”, “đẩu niên”, còn có từ “thiền sư” – “thiền” có nghĩa “con ve sầu” để

gọi thầy đồ ve gái.

3. Ở một số trường hợp đặc biệt, việc so sánh hai bản Hán và Nôm

trong bài thơ liên kết có tác dụng giúp cho việc phiên âm chữ Nôm được

chính xác hơn. Bài Trở về vườn cũ:

Bành Trạch cầm xoang ngâm trước ghế.

Ôn công rượu nhạt chuốc chiều xuân.

Hai câu này tương ứng với hai câu trong Bùi viên cựu trạch ca:

Bành Trạch tố cầm ngâm cựu cú,

Ôn công tôn tửu lạc dư xuân.

(Bành Trạch – tức Đào Tiềm – gảy tố cầm, ngâm câu thơ

cũ,

Ôn công – tức Tư Mã Quang – nhắp chén rượu, vui thú

xuân thừa).

“Tố cầm” có nghĩa là “đàn không dây” hoặc “đàn mộc mạc, không trang

sức”. Như vậy “cầm xoang” phải phiên âm là “cầm suông”, dịch chữ “tố cầm”,

để đối với “rượu nhạt” ở câu sau.

Page 237: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Một trường hợp khác, bài Tiễn người quen:

Bến Tầm Dương đọc câu “giang thượng”,

Thơ Kiếm Nam còn thoảng làm chi?

Hai câu này tương ứng với hai câu trong bài Dữ bản huyện Doãn

Nguyễn, nguyên doãn Trần đồng ẩm, tức tịch thư tiễn:

Tống khách trùng ngâm “giang thượng” cú.

Ưu thời nan bổ “Kiếm Nam” thiên.

(Đưa khách lại một lần ngâm câu “giang thượng”,

Lo đời khó nối tiếp tập thơ Kiếm Nam).

Câu trên nhắc tới bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, mở đầu bằng câu:

Tầm Dương giang đầu dạ tống khách. Câu sau nhắc tới tập thơ Kiếm Nam

của Lục Du, có nhiều bài cảm khái đối với thời vận suy bại đương thời của

nhà Tống. Dựa trên bản chữ Hán, chữ “thoảng” có lẽ phiên âm sai. Đúng ra

phải đọc: “Thơ Kiếm Nam còn thổng làm chi?”. Thổng có nghĩa câu thơ cuối

bài hát, câu thơ nối tiếp bài thơ trước, đây chỉ việc làm thơ nối tiếp sau.

Hai câu 5 – 6 ở bản chữ Hán:

Tầm thường tế vũ kinh xuyên diệp,

Tiêu sắt thần phong oán lạc dà

(Mưa nhỏ tầm thường kinh xuyên tầng lá

Gió sớm hiu hắt oán làm rụng đài hoa).

Bài này, trong tập Tam nguyên Yên Đổ thi ca, bản in Liễu văn đường,

Khải Định thứ 10 (1925) ghi Bài thơ đưa quan Án sát Chu Mạnh Trinh, chép

hai câu Hán và Nôm hơi khác.

Bản chữ Hán:

Triêu phong chỉ khủng xuyên kiều diệp,

Mộ vũ thiên nghi lạc lục dà.

Page 238: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(Gió sớm chỉ sợ xuyên qua lá mởn,

Mưa chiều riêng hãi làm rụng đài xanh).

Bản chữ Nôm:

Gió sớm chỉ e phường xỏ lá,

Mưa chiều luống sợ lũ dơi già.

Chữ Nôm “dơi” (viết bộ “tràng” bên chữ “giai”), chỉ con dơi. Trước kia

đã từng có những cụ nhà Nho giải thích “xỏ lá” và “rơi già”, coi như có hai

nghĩa: xuyên diệp là xỏ lá (có nghĩa đen và nghĩa bóng), còn “rơi già” có

nghĩa “rụng đài, rụng cuống” và cũng là “dơi già”, lấy ý dơi là loài vật “phi cầm

phi thú”, nhận là thú là chim đều được, lại chỉ xuất hiện về đêm, nó tượng

trưng cho bọn hiểm độc, ăn ở hai lòng.

***

Tóm lại, dùng cách sáng tác song hành Việt – Hán hoặc Hán – Việt,

nhà thơ đã tự cho mình một phương tiện đầy hiệu lực để biểu hiện ý nghĩa

tâm hồn mình qua hai thứ tiếng, đảm bảo kết quả hoàn chỉnh hơn. Cách làm

này cũng đạt nhiều hiệu quả đối với diện người học được mở rộng, thỏa mãn

cùng một lúc nhiều đối tượng, những người biết hay không biết chữ Hán,

những người biết chữ Hán nhưng coi thường chữ Nôm, những người thích cả

Nôm lẫn Hán.

Chính do sự tiếp xúc hàng ngày với quần chúng thôn dã, sự đồng cảm

với những lo âu về đời sống của đại chúng cũng như những day dứt về thời

vận của đất nước, mà nhà thơ Nguyễn Khuyến trong sáng tác đã kết hợp tài

tình vốn tri thức tinh hoa của văn chương bác học chữ Hán với kho tàng

phong phú của tâm hồn dân Việt, cả về mặt nội dung và hình thức biểu hiện

giàu đẹp của nó, để có được những bài thơ liên kết Hán – Việt, một mảng đặc

thù và cũng rất đặc sắc trong nền văn học Việt Nam.

Page 239: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

24. NÉT RIÊNG TRONG HÁT NÓI

Qua một thời kỳ phát triển, văn học Việt nam mới có những thể loại

thuần túy dân tộc như ngâm khúc, truyện Nôm và hát nới. Nhiều tác giả đã sử

dụng những thể loại đó và làm rạng rỡ văn học dân tộc như Nguyễn Gia

Thiều (Cung oán ngâm khúc), Đoàn Thị Điểm (Chinh phụ ngâm), Nguyễn Du

(Truyện Kiều), Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát (tác giả của nhiều bài hát nói

nổi tiếng). Riêng hát nói có lịch sử phát triển dài hơn ngâm khúc và truyện

Nôm. Nếu tính từ lúc manh nha đến Tản Đà thì hát nói có năm thế kỷ tồn tại

(từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XX). Điều đáng chú ý là để đáp ứng những nhu cầu

lịch sử, các thể loại văn học dân tộc nói trên đã châu tuần xung quanh những

vấn đề lớn của chủ nghĩa nhân đạo: đòi hỏi hạnh phúc và tự do. Ở ngâm khúc

và truyện Nôm, với việc sử dụng phương tiện nghệ thuật tổng hợp, có lợi thế

về mặt nội dung, đặt ra được những vấn đề của cuộc sống trên bình diện

rộng thông qua những cuộc đời, những số phận cụ thể. Trong hát nói, các tác

giả trực tiếp đặt vấn đề tình yêu, hạnh phúc và tự do dưới những tiếng nói:

“tình trái” (nợ tình), “nợ tang bồng”, “nợ trần ai”, “nợ phong lưu”… khi thể hiện

cái tài bằng cách biểu hiện trực tiếp những trạng thái ngông nghênh và cái

tình tài tử – giai nhân ngoài lễ giáo, thể loại hát nói đã bộc lộ ưu thế của nó.

Những nét tính cách đó thích hợp với hình thức thể hiện năng động, phóng

túng tự do của hát nói, nghĩa là một hình thức đáp ứng yêu cầu thể hiện một

nội dung nhất định. Thế nhưng nhiều người muốn phổ cập hóa hát nói trên

nhiều đề tài, nhiều vấn đề khác, và đưa lại những kết quả khác nhau như

Nguyễn Công Trứ với Nhân tình thế thái, Vịnh tiền, Dương Khuê với Nói hớt,

Tản Đà với Cảm hoài “An Nam tạp chí” lại ra đời, Bài hát chúc báo sống,

Ngày xuân chúc quốc dân và đặc biệt là Nguyễn Khuyến, với 11 bài, đều đã

thành công trên mảnh đất lạ ấy

Không phải là một thể loại thích ứng với mọi đề tài, mọi vấn đề, nhưng

những vấn đề, đề tài Nguyễn Khuyến đưa vào hát nói vẫn làm cho người đọc

bị cuốn hút, hấp dẫn. Ranh giới giữa sự thích ứng và không thích ứng, ở đó,

đã nhạt nhòa đi. Sự đóng góp của Nguyễn Khuyến đối với hát nói không phải

Page 240: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

là sự mở rộng nội dung thể hiện vì sự mở rộng đó đã bắt đầu từ Nguyễn

Công Trứ và đến sau này, khi nhiều người dừng hát nói để tuyên truyền, cổ

vũ tinh thần yêu nước, và cách mạng… thì hát nói vẫn chưa chứng tỏ ưu thế

thể loại trên các hướng mở ấy. Sự thành công về thể tài hát nói của Nguyễn

Khuyến trên những đề tài ấy, vì thế, đã chứng tỏ một nết riêng, một sự độc

đáo. Với Nguyễn Khuyến, việc sử dụng câu chữ, ngôn từ, vần điệu đã làm

cho hát nói của ông linh hoạt trên các đề tài, chủ đề. Khi sử dụng hát nói để

chuyển dịch bài thơ chữ Hán (Bùi viên cựu trạch ca, Bùi viên đối ẩm trích cú

ca) những bài thơ có nội dung gửi gắm tâm sự của một người về ở ẩn,

Nguyễn Khuyến không tỏ ra lúng túng khi tạo ra một sự hấp dẫn, thu hút mới.

Khảo sát toàn bộ 11 bài thơ hát nói của Nguyễn Khuyến, về mặt cấu

trúc, gieo vần, có thể nói rằng hát nói của ông mang tính quy phạm. Nguyễn

Khuyến sử dụng cước vận trắc để mở đầu và triệt để sử dụng yêu vận (vần

lưng) một cách thoải mái, tự nhiên. Hát nói của Nguyễn Khuyến chỉ có đủ khổ

(11 câu) hoặc đôi khổ (trên 11 câu) và ít câu “văn xuôi” như thường thấy trong

hát nói của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát. Bao giờ Nguyễn Khuyến cũng

vẫn bảo đảm nguyên tắc dùng câu sáu chữ để kết thúc bài hát nói.

Với số lượng bài không nhiều nhưng có thể chia hát nói Nguyễn

Khuyến làm ba mạch chính:

1. Những bài tác giả trực tiếp bộc lộ, giãi bày tâm sự của mình trước

thời cuộc (Trở về vườn cũ, Uống rượu ở vườn Bùi), hoặc mượn chân dung

(Mẹ Mốc, Anh giả điếc), gửi gắm một phần thái độ xã hội của mình, hoặc tự

họa chân dung của mình (Ông Phỗng đá)… đều không có nét phóng khoáng.

Những bài hát nói Nguyễn Khuyến dùng để gửi gấm tâm sự thường buồn, nỗi

buồn thấm vào âm điệu, câu chữ. Khi là một nỗi buồn của người không an

tâm trên đường đi của mình phải “đắp tai cài trốc”, “vắt tay ngoảnh mặt” trước

“thương hải tang điền qua mấy lớp” và “Lỗ hầu chẳng phải gặp”, khi thì “mong

mỏi bạn tri âm” không biết “cùng ai ngâm họa”. Mang âm điệu buồn ấy, những

bài hát nói này tất nhiên sẽ không thể có cái hào mại, phóng túng trong hát

nói của các nhà Nho tài tử như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương

Page 241: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Khuê, Tản Đà. Nếu như ở những bài tác giả trực tiếp bộc lộ tâm sự có cái âm

điệu trầm lắng ưu tư thì ở những bài tác giả mượn chân dung (Mẹ Mốc, Anh

giả điếc) để tỏ thái độ của mình lại có sự thách thức với dư luận, với số đông.

Trong những bài đó, kể cả bài Ông Phỗng đá bộc lộ một Nguyễn Khuyến cố

thủ, kiên định nên không có cái ngang tàng kiểu Nguyễn Công Trứ, Cao Bá

Quát, ngang bướng góc cạnh của Phan Văn Ái, ngông nghênh của Tản Đà.

Mặc dù trong bài số câu dài ngắn không hạn định nhưng câu kết thúc

hát nói bao giờ cũng phải là câu sáu chữ. Về âm điệu, trong cấu trúc bài hát

nói, đó là một điểm dừng nhưng âm hưởng vẫn tiếp tục một đoạn hành trình

không lời. Nguyễn Khuyến sử dụng những điểm dừng như vậy của hát nói để

xoáy vào mô tả sự dồn nén hay sự lơ lửng của trạng thái tinh thần, của thái

độ tác giả đến với xã hội. Những bài kể trên thường kết thúc bằng câu hỏi

“Nên chăng đá cũng gật đầu” (Ông Phỗng đá), “Muốn về sao chẳng về đi”

(Trở về vườn cũ) “Khôn em dễ bán dại này” (Mẹ Mốc) là những lối kết thúc

mà chưa kết thúc, độc giả phải tự tìm lời giải đáp về tác giả ở đằng sau đó.

2. Nguyễn Khuyến dùng hát nói làm phương tiện trào phúng (Đĩ cầu

Nôm, Chế ông đồ Cự Lộc). Về phương diện này, như đã nói, không phải bắt

đầu từ Nguyễn Khuyến mà đã có từ Nguyễn Công Trứ. Nét khác ở đây là đối

tượng miêu tả: một đồ Nho phá giới không còn mang chức năng giáo hóa,

gương mẫu trong phong cách sống (Chế ông đồ Cự Lộc) và một tiếng cười

lồng vào, vận vào, nhằm chính vào một cặp đối tượng, một mẫu môn hệ mới,

mẫu vợ chồng mới: “vợ bợm – chồng quan”, con đĩ “bạn với kẻ anh hùng”.

Cũng phải nói rằng cấp độ tiếng cười ở đây đã khác hơn, cụ thể, chi tiết và

đứng trên quan điểm cái thuần phong mỹ tục ổn định cười cái mới nhiễu

nhương, thay đổi. Nhằm vào “típ” người, “típ” tính cách như trên là nhằm vào

cái phổ biến khó chấp nhận – sản phẩm của xã hội bắt đầu thành thị hóa,

thực dân hóa. Một nội dung, một chủ đề như thế chi phối cấu trúc bài hát nói

đặc biệt là sự vắng mặt có lý của hai câu thơ chữ Hán giữa bài. Nếu như ở

hai bài hát nói trên không có hai câu thơ chữ Hán thì cũng không phải là nét

mới của hát nói Nguyễn Khuyến vì Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đã có

Page 242: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

những bài như thế. Nhưng trong hát nói, hai câu thơ chữ Hán có vị trí như

một trục đối xứng trong nền đối xứng của toàn bài và nó nghiêng về tính hài

hòa, trang trọng. Ở đây, sự vắng mặt hai câu thơ chữ Hán đó chủ yếu là do

yêu cầu thích ứng với nội dung, với cái “được biểu đạt”.

3. Một giọng điệu khác với hai dòng chủ đề trên, nó phóng khoáng hơn,

mềm mại hơn như trong các bài Duyên nợ, Chơi Tây hồ. Thế nhưng trong cái

nét thoáng đãng giữa trời nước mênh mang:

Thuyền lan nhè nhẹ,

Một con thuyền đủng đỉnh dạo hồ Tây,

Sóng dập dìu sắc nước lẫn chiều mây,

Bát ngát nhẽ, ghẹo người du lãm.

(Chơi Tây hồ)

còn có độ lắng của tâm trạng cô đơn có thực của con người:

Rượu lưng bầu mong mỏi bạn tri âm.

Xuân vắng vẻ biết cùng ai ngâm họa?

(Chơi Tây hồ)

Cũng vậy, duyên nợ tài tử – giai nhân đã nhuốm chút bâng khuâng

trong âm điệu của những câu:

Giai nhân nan tái đắc,

Mười ba năm một giấc bâng khuâng;

Động hơi thu chợt nhớ đến vầng trăng,

Chén non nước tưởng chừng đâu bữa nọ.

(Duyên nợ)

Tuy đã thanh thoát hơn nhưng dấu ấn của tính cách Nguyễn Khuyến in

đậm nét trong hát nói của ông vẫn làm thành nét riêng, không lẫn và cũng

không có cái hay của sự phóng túng, hào mại mà hát nói vốn có. Bài Bóng đè

Page 243: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

cũng nằm trong dòng phong cách ấy nhưng nụ cười tinh nghịch, dí dỏm, tươi

vui trong đó đem lại thêm cho sắc điệu hát nói Nguyễn Khuyến. Cô đào Sen

người Thi Liệu mơ thấy bóng đè nhưng “bóng người hay bóng ta”, hư hay

thực, “thực người hay giấc chiêm bao”, bấy nhiêu nghi vấn là bấy nhiêu nụ

cười kín đáo. Lại thêm một cách giải thích cũng ẩn chứa một nụ cười nghiêm

trang, dí dỏm mà bao dung:

Cố diệc hữu thân vi ngoại vật,

Khán lai đô thị mộng trung nhân.

(Bóng đè)

(Ở đời phàm những cái gì ta có đều là vật ở ngoài thân ta

cả,

Và ngẫm lại, người đời đều trong giấc mộng).

Nụ cười ấy, trong hát nói, chỉ Nguyễn Khuyến mới có.

Trên ba mạch chính đó của hát nói Nguyễn Khuyến cho phép đi đến

một nhận định: Nguyễn Khuyến đã sử dụng hát nói như một thể loại năng

động trên các đề tài mà vẫn rất tự nhiên, không khiên cưỡng. Số lượng hát

nói của Nguyễn Khuyến không nhiều nhưng sự uyển chuyển linh hoạt khi ông

sử dụng thể loại vào việc thể hiện những chủ đề khác nhau chứng tỏ ông nắm

vững, nhuần nhuyễn các biện pháp nghệ thuật, triệt để sử dụng ưu thế thể

loại. Nguyễn Khuyến đã làm phong phú, đa dạng “gia sản” hát nói bằng cách

riêng của mình.

25. TÀI CHƠI CHỮ

1. Một thực tế khá bất ngờ đối với chúng ta là ở một bậc đại khoa như

Nguyễn Khuyến, văn tài chữ Hán lại đi đôi với tài thơ Nôm, còn nói riêng về

chơi chữ thì cái biệt tài này lại thể hiện chủ yếu ở thơ Nôm chứ không phải ở

thơ chữ Hán.

Page 244: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Chơi chữ đối với Nguyễn Khuyến là việc hàng ngày hàng giờ. Vì ông là

người bất cứ lúc nào cũng có thể đề chữ, làm thơ, viết câu đối, đáp ứng yêu

cầu của bà con làng xóm:

Kiếm một cơi trầu thưa với cụ,

Xin đôi câu đối để thờ ông.

(Cho hàng xóm xin câu đối tết)

Chất liệu của câu đối, của chữ nghĩa, – tuy nói rộng ra là chất liệu của

văn chương, nghệ thuật – bao giờ cũng có ngay, có sẵn ở trong bản thân

cuộc sống, cứ gì phải tìm đâu xa? Kể cả cái “chày đứng” hóm hỉnh còn tương

truyền đến ngày nay cũng chỉ có thể là sản phẩm của một nghệ sĩ nhân dân

thiên tài, giàu mẫn cảm với chữ nghĩa tiếng Việt, với sự vận dụng nhuần

nhuyễn ngôn ngữ dân tộc.

Câu đối làm cho vợ người thợ nhuộm khóc chồng là một sáng tạo độc

đáo trong cách chơi chữ. Tác giả huy động được cả một trường từ vựng

phong phú gồm hầu hết các đơn vị biểu thị màu sắc của tiếng Việt để tập

trung thể hiện một chủ đề. Câu đối do đó đã triệt để sử dụng một đội từ ngữ,

triệt để khai thác các phương tiện biểu đạt nhằm liên kết, ngữ nghĩa hóa mọi

yếu tố đồng âm với các yếu tố khác, tạo thành một cơ cấu văn bản chặt chẽ,

hoàn chỉnh, có tính nghệ thuật cao. Tác dụng của phép chơi chữ ở đây làm

cho hình thức diễn đạt và nội dung tư tưởng, tình cảm quyện chặt với nhau,

quy định lẫn nhau như một tất yếu, tưởng như không thể có cách thể hiện nào

khác nó được, hơn nó được.

Giá trị của những câu đối về thợ rèn, hàng thịt… cũng là tương tự.

Không có một năng khiếu đặc biệt về tiếng Việt, một năng lực mạnh mẽ trong

liên tưởng và tạo tác nghệ thuật thì quyết không thể nào dùng lại, điều khiển

nổi cái khối lượng ngôn ngữ kia, để có được từng văn bản mang nội dung

ngữ nghĩa tập trung và cô đọng đến dường ấy.

Page 245: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Thật ra, nếu chỉ xét về mặt hình thức thuần túy thì những câu đối này

chưa thật chỉnh. Trong hai vế đối quan trọng nhất của đôi câu đối Vợ thợ

nhuộm khóc chồng:

Điều dại điều khôn nhờ bố đỏ,

Tím gan tím ruột với ông xanh.

Điều và tím chỉ đối được về bằng trắc và về một nét nghĩa: cùng là tín

hiệu chỉ màu chọi nhau. Còn chỗ không đối được – có thể là cái lỗi rất cơ bản

của câu đối này – là đã không có được sự đối xứng về từ loại, về chức năng

ngữ pháp của hai tổ hợp điều dại điều khôn và tím gan tím ruột.

Tuy nhiên người thưởng thức câu đối hàng trăm năm nay đã chẳng lấy

làm điều, đã bỏ qua, coi như không hề có lỗi ấy. Bởi vì chúng ta cùng tâm đắc

với nhà thơ rằng, đối chẳng qua chỉ là hình thức, cái mà Nguyễn Khuyến

quan tâm đạt tới mà cũng là cái mà các thế hệ chịu tài ông, đó là nội dung.

Chơi chữ của Nguyễn Khuyến luôn luôn nhằm mục đích nội dung; nó có thể

hy sinh hình thức đối chọi chứ không bao giờ hy sinh nội dung được.

Giàu có thiếu chi tiền…

Sang không thì cũng bạc…

(Mừng đám cưới)

Ai dám bảo đây không phải là câu đối chỉnh: giàu đối với sang, có đối

với không, tiền đối với bạc. Nhưng chỉ cần đến thế là đủ, để không cho ai có

thể nghĩ rằng đây chưa phải là câu đối; còn cái chính, cái đáng coi trọng hơn

tất cả, là nội dung chữ nghĩa của toàn văn. Ai hơi đâu ngồi bắt bẻ rằng giàu

có sao lại có thể đối với sang không, tiền là tiền của sao lại đối với bạc là bạc

bẽo. Chính ra ở đây mới càng thấy rõ tài chơi chữ của Nguyễn Khuyến: ông

cố ý tạo ra một hình thức đối giả, nhưng lại thể hiện được một nội dung thực,

rất hiện thực và rất thực tình. Cũng như ở một câu đối khác, chỉ cần đem

“hàm cụ lớn” đối với “của bà to” là đạt được sự sảng khoái trong mục đích.

Nhờ phát huy được thế mạnh của lối chơi chữ đồng âm, nhờ sức thuyết phục

và áp đảo của nội dung biểu đạt mà yêu cầu đối chọi trở nên thứ yếu, mờ

Page 246: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

nhạt đến mức có thể bỏ qua chính ngay thể loại câu đối là thể loại gò bó nhất

về hình thức chữ nghĩa. Câu đối của Nguyễn Khuyến do đó có thể ví với

những bức danh họa, trong đó tưởng như không cần sự chính xác đến các

chi tiết, tiểu tiết, song về toàn cục thì lại đạt được thành tựu tuyệt vời.

2. Nguyên tắc của chơi chữ nói chung là lợi dụng tính hai mặt nhập

nhằng của các tín hiệu đồng âm. Đó là một thủ pháp nghệ thuật có tính chất

truyền thống, chứng tỏ óc thông minh linh hoạt của con người và đặc sắc của

tiếng nói.

Nghệ thuật hài hước coi chơi chữ là một hiện pháp lợi hại nhất trong

văn chương, kể cũng không có gì là quá đáng.

Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,

Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.

(Hội Tây)

Để vạch ra cái rởm đời, kệch cỡm giữa ngày “hội thăng bình” của thực

dân, tác giả chỉ cần những câu như thế. Cứ tưởng ở đây chỉ là hai câu thơ tả

cảnh với lời lẽ hiển hiện sáng rõ mà không kém phần thanh nhã, chẳng có

chút gì chơi chữ lắt léo, nhưng kỳ thực những ai tinh ý sẽ thấy, qua biện pháp

nói lái, bao nhiêu tiếng tục tằn có thể dùng để ném vào mặt bọn cướp nước

và tay sai, coi như một thứ vũ khí cần thiết và thích hợp trong những hoàn

cảnh nhất định. Tuy nhiên, đối với Nguyễn Khuyến, chơi chữ không phải bao

giờ cũng chỉ hài hước:

Ăn mày chớ có ăn tao nhé

(Ăn mày)

Câu thơ này là nghĩa thế nào? Nguyễn Khuyến luôn luôn xoáy vào chữ

nghĩa tiếng Việt, bao giờ cũng băn khoăn thắc mắc đặt câu hỏi với các định

danh của sự vật, với tính lý do của tên gọi, của tín hiệu ngôn ngữ nói chung.

Tại sao lại có tên là làng Quanh, làng Dóng, làng Vậy? Tại sao lại gọi cái con

người như thế kia là ăn mày? Để rồi tự mình suy nghĩ, phát hiện, tìm tòi, tự

Page 247: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

mình tìm cách giải đáp. Nhưng không phải chỉ để phát hiện cái khía cạnh chơi

chữ thuần tuý hình thức, nhằm thỏa mãn thị hiếu hoặc gây một tiếng cười, mà

luôn luôn biết cách ngữ nghĩa hóa để biểu đạt nội dung tư tưởng, để nói lên

tình cảm, tâm tư. Đây chính là thao tác sáng tạo văn chương, mà cũng chính

là đặc trưng bản chất của văn chương tiếng Việt.

Sự khám phá ra quan hệ đối lập mày, tao trong tiếng “ăn mày” thật sự

có một giá trị nội dung, đáng làm cho nhiều người sửng sốt. Bởi vì thoạt tiên

có thể nghĩ rằng, đây chỉ là một câu đùa ngẫu nhiên, thậm chí lẩm cẩm nữa:

ăn mày hay ăn tao, mày và tao, nói ăn mày thì cũng có thể nói ăn tao, giữa

mày và tao có khác gì nhau? Hóa ra câu thơ lẩm cẩm đó lại cùng một dòng

suy nghĩ, tư tưởng, cùng một niềm tâm sự với câu ca dao:

Ăn mày là ai, ăn mày là ta,

Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày.

Và với câu thơ của Tú Xương:

Người đói, ta dây cũng chẳng no,

Cha thằng nào có tiếc không cho…

(Nói với ăn mày)

Từ cái danh từ tiếng Việt gồm hai âm tiết “ăn mày” biện pháp chơi chữ

đã bắc một cái cầu quan hệ, đã đặt được mối liên hệ giữa “ăn mày” với thân

phận nhà thơ.

Chơi chữ như vậy về thực chất không còn là một biện pháp tiểu xảo

hình thức, một việc làm tỉa tót chữ nghĩa vô bổ để đùa chơi, mà là một cách

thể hiện nghệ thuật kín đáo và sắc sảo, một sự tiếp cận đối tượng có căn cứ,

có xuất phát điểm của nó. Chữ nghĩa hình thức ở đây được xem như là cái

cửa ngõ đầu tiên để thâm nhập vào nội dung, và biện pháp chơi chữ đã thật

sự trở thành thột phương pháp biểu hiện, phản ánh cuộc sống, phản ánh thực

tế. Từ những yếu tố có tính chất tình cờ, ngẫu nhiên về hình thức mà đi được

vào bản chất của sự vật, hiện tượng, đó là kỳ công trong phép chơi chữ của

Page 248: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nguyễn Khuyến nói riêng và các nhà thơ Việt Nam nói chung. Nó gây được

ấn tượng sâu sắc, cho thấy hình thức và nội dung luôn luôn quy định lẫn

nhau, gắn bó máu thịt với nhau trong một thể thống nhất.

3. Những trường hợp chơi chữ thông thường khác trong thơ Nguyễn

Khuyến cũng có điểm đáng chú ý. Các tín hiệu đồng âm hoặc trái ngược

được liên kết lại thành chuỗi, tạo ra một sự luyến láy về hình thức, có giá trị

như một điểm xoáy, một cơn lốc nhỏ về âm điệu, ngữ điệu. Hình thức luyến

láy này tưởng đâu như là một chỗ rối chập về chữ nghĩa, có thể gây mơ hồ

khó hiểu, thậm chí có khi như là cả một sự đánh đố câu chữ, mà kỳ thực vẫn

rất minh bạch về ngữ pháp và nội dung ngữ nghĩa. Đây cũng chính là đặc

điểm của ngôn ngữ thơ tiếng Việt, do người Việt sáng tạo và cảm thụ, thường

khó có thể chuyển sang các ngôn ngữ khác một cách hoàn toàn. Những câu

như:

– Bác Dương thôi đã thôi rồi

– Biết thôi thôi thế thì thôi mới là…

– Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua

Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,

Viết đưa ai ai biết mà đưa…

Lối chơi chữ như vậy không phải là hiếm trong thơ của các tác giả hiệu

đại. Song điều đáng nói là ở chỗ, Nguyễn Khuyến đã sử dụng thật nhuần

nhuyễn cái lắt léo của tiếng mẹ đẻ, của các phương tiện ngôn ngữ để diễn đạt

cái thực tế éo le trong các quan hệ phức tạp, oái ăm của tình cảm và của

cuộc đời. Chỗ rối chập tơ vò về hình thức ấy một khi được phân tích tháo gỡ

để bộc lộ nội dung thì hiệu quả đem lại sẽ càng lớn: nó cũng gây được ấn

tượng mạnh về mối quan hệ hữu cơ tất yếu giữa hình thức với nội dung,

đồng thời đáp ứng được một đòi hỏi quan trọng đối với tính nhạc của ngôn

ngữ thơ.

Page 249: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến, có khi có một khía cạnh chơi chữ rất

nhỏ len vào trong cách diễn đạt như một thao tác của ngôn ngữ nghệ thuật

hết sức tinh tế, nhưng lại có thể là điểm trọng tâm để lý giải toàn bộ ngữ

nghĩa của bài. Hãy đọc lại bài thơ Bạn đến chơi nhà, chú ý hai câu cuối với ba

từ cuối “ta với ta”:

Đầu trò tiếp khách trầu không có

Bác đến chơi đây, ta với ta!

Bài thơ còn có những tên khác được ghi trong phần khảo dị là “Suông

tình”, “Gặp bạn ngồi chơi suông”, “Gặp bạn đến chơi nhà ngồi suông”. Một

quan hệ bạn bè thuần túy cao đẹp, không mảy may bợn chút vụ lợi, vật chất.

Bạn tìm đến ta đâu phải vì cơm gà cá gỏi, vì một ly rượu chén trà. Ta tiếp

bạn, đến cả miếng trầu đưa chuyện cũng không có nốt. Nhưng chính thế lại

hóa hay. Tình bạn như vậy mới là tình bạn đích thực, trong suốt; giữa “ta với

ta” chỉ còn là hai tâm hồn, tuy hai mà một. Đó là tầng ngữ nghĩa thứ nhất. Còn

có một tầng ngữ nghĩa khác cũng nảy sinh trên cơ sở xoáy sâu vào lý giải tại

sao lại dùng cách nói “ta với ta”: chẳng mấy khi đến chơi, bác là khách quý;

nhưng bác lại đến chơi trong cảnh ngặt nghèo, khan hiếm mọi thứ, đến nỗi đã

từ lâu ở nhà này “Chợ búa trầu chè chẳng đám mua”. Cái đơn sơ tối thiểu mở

đầu cho phép thù tiếp là miếng trầu, cũng không có. Vì không có trầu cho nên

không thể coi bác là khách nữa. Vì không có trầu cho nên không có sự phân

biệt chủ khách nữa, chỉ còn là ta với ta. Một cách nói vừa là để tạ tội với

khách, rất chân tình, mong được thông cảm, vừa là để tự an ủi, làm cho tự

mình bớt nỗi áy náy, băn khoăn. Chỉ là vài câu nhẹ nhõm thế thôi, nhưng lại

có khả năng gợi ra những suy ngẫm khái quát. Bình thường khách đến nhà

thì có miếng trầu là thủ tục hình thức để duy trì quan hệ chủ khách; bây giờ

thiếu miếng trầu, thiếu hẳn yếu tố hình thức thì quan hệ ấy làm sao còn có thể

được duy trì? Bây giờ thiếu miếng trầu, tất cả chỉ còn là ta với ta. Chỉ vì sự

thiếu thốn mà có thể thay đổi đảo lộn cả mối quan hệ giữa người với người

ư? Chữ nghĩa của Nguyễn Khuyên có thể có chiều sâu như vậy không,

Nguyễn Khuyến có muốn nói lớn đến như vậy không, thiết nghĩ câu trả lời

Page 250: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

không thể chỉ từ góc độ nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật, lại càng không thể

chỉ từ việc nghiên cứu về chơi chữ còn phiến diện, như đã trình bày. Điều

khẳng định duy nhất của chúng tôi cho đến đây vẫn chỉ là: lối chơi chữ của

Nguyễn Khuyến; dù sao cũng không dừng lại ở giới hạn hình thức thuần túy,

mà rõ ràng là đã trở thành một trong những biện pháp biểu hiện nội dung đặc

sắc.

4. Trong phần chú thích thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến, Nguyễn Văn

Huyền cho biết: “Thơ Nguyễn Khuyến thường hay dùng lối song quan, một từ

có hai tầng ý nghĩa, có nghĩa mặt chữ và nghĩa bóng, nghĩa ngầm”. Ví dụ

được nêu ở bài Khóc vợ, nhà thơ dùng hai từ “khấp huyền” có thể hiểu theo

hai cách khác nhau. Đặc biệt ở bài Mất con ba ba, nhà thơ đặt tên chữ Hán là

“thất tam tam”. “Tam tam” không phải là từ tiếng Hán chỉ con ba ba, mà là một

từ nhà Phật dùng để chỉ việc tu hành đã đắc đạo; “thất tam tam” do đó còn

ngụ một ý là “mất sự cực lạc”. Bài Có người cho thịt (Nhân tặng nhục), chữ

nhục cũng được cố ý dùng với nghĩa là nhục nhã. Những ví dụ này chứng tỏ

chơi chữ còn là một nét thuộc về phong cách riêng của nhà thơ, bao trùm tất

cả các thể loại thơ. Tuy nhiên như trên đã nói, biệt tài chơi chữ của Nguyễn

Khuyến thể hiện tập trung và nổi bật hơn cả vẫn là trong thơ tiếng Việt, bởi vì

dù là một nhà Nho uyên bác để lại nhiều bài thơ chữ Hán có giá trị đến mấy,

trước sau Nguyễn Khuyến vẫn là một nhà thơ Việt Nam.

CHÚ THÍCH CHƯƠNG V

1. Thơ văn Nguyễn Khuyến, Thư mục số 32; tr. 44.

2. Xin tạm gọi là liên kết Hán – Việt hay Việt – Hán. Tùy trường hợp mà

có thể gọi cách này hay cách kia, tất nhiên vẫn chưa phủ đã dựa trên những

tiêu chí ổn định (N.B.S)

3. Đầu đề bài Nôm này chúng tôi theo Thơ văn Nguyễn Khuyến, Thư

mục số 32, vừa quen thuộc, vừa tiện phân biệt. Nguyễn Khuyến - tác phẩm,

Thư mục số 30, đều dùng Nhớ núi Đọi, I và II.

Page 251: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

4. Nhiều người vẫn cho ba bài Nghĩ hộ tám giáp làm giải thưởng hát ả

đào, Hưu kỳ thiên tải hạ, Nhị nguyệt nguyên hòa tiết của Lê Đức Mao (1462 –

1529) là có nhiều yếu tố báo hiệu thể loại hát nói.

5. Tham khảo John Lyon. Semantics, Vok. X; Cambrige – London –

New York – Melbourne; Cambridge University Press, 1979 (Có bản lược thuật

của Hoàng Phê, phần Lời nói đầu – Một số thuật ngữ và khái niệm cơ bản)

6. Nguyễn Khuyến – tác phẩm, Thư mục số 30; tr. 373.

THAY LỜI BẠT

ĐỊA VỊ NGUYỄN KHUYẾN TRONG LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAM

Để xác định địa vị của Nguyễn Khuyến trong quá trình phát triển của

lịch sử văn học Việt Nam, trước khi suy ngẫm đến ý nghĩa lâu dài của thơ văn

ông, cần xét xem bộ phận thơ văn đó đã đáp ứng như thế nào trách nhiệm

mà lịch sử đã đặt ra cho văn học của dân tộc trong giai đoạn.

Thời Nguyễn Khuyến, lịch sử dân tộc Việt Nam đi vào một bước ngoặt

nghiêm trọng. Lần đầu tiên đất nước “nghìn năm phong kiến phải đối diện với

một lực lượng xâm lược hoàn toàn mới, đến từ phương Tây, và chưa hề nằm

trong phạm vi thông tin của triều đình nhà Nguyễn. Vũ khí, chiến lược, chiến

thuật, văn hóa, ngôn ngữ của họ hoàn toàn vượt ra ngoài tầm hiểu biết của

một nước Việt Nam vốn chỉ biết có “Thiên triều”, còn lại là biệt lập và bế quan

tỏa cảng. Một cuộc đọ sức rất chênh lệch đã diễn ra. Tấn bi kịch không phải

chỉ ở chỗ chiến bại quá thảm hại, mà còn ở chỗ vua quan nhà Nguyễn không

có lấy chút hiểu biết tối thiểu về kẻ thù. Họ đã tổ chức phòng vệ không phải

không hết sức mình. Nhưng cho đến khi sức cùng lực kiệt rồi mà nhận thức

về “lũ bạch quỷ”, “rợ Tây dương” vẫn không có bao nhiêu thay đổi. Họ cũng

đã tính đến kế sách muôn thuở là chạy sang cầu cứu “Thiên triều” khi “môi hở

răng lạnh”. Nhưng họ đâu có biết, chính “Thiên triều cũng đang bị bọn “bạch

quỷ” xâu xé đến thất điên bát đảo. Những ông Nghè ông Cống thời Nguyễn

Khuyến, dù có đọc hết thiên kinh vạn quyển của thánh hiền Khổng Mạnh vẫn

Page 252: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

hầu như không biết tý gì về các biến cố đang xảy ra ở các nước láng giềng,

như vụ “Nha phiến chiến tranh” dẫn đến việc “Bát quốc liên quân” vào Bắc

Kinh và kết cục là “Thiên triều” đã phải cúi đầu ký vào hàng loạt hiệp ước

“quốc sĩ”. Hoặc như một sự kiện còn đáng kể hơn là công cuộc duy tân của

vua Minh Trị ở Nhật Bản, rồi đây sẽ nhanh chóng đưa nước Nhật vượt lên,

sánh vai với các liệt cường. Họ càng không biết gì về đại cục thế giới, về nguy

cơ của tất cả các nước phương Đông trước sự phát triển của chủ nghĩa tư

bản phương Tây đang cần thị trường, nhân công và nguyên liệu.

Trước tình thế thiên nan vạn nan đó, Nguyễn Khuyến và các bạn đồng

liêu của ông đã ứng xử như thế nào? Không nói đến hành động nghĩa liệt của

các sĩ phu ở tận miền cực Nam xa xôi như Đồ Chiểu, Cử Trị, Thủ khoa

Huân… mà với điều kiện thông tin liên lạc thời bấy giờ, chưa chắc Nguyễn

Khuyến đã biết thật kịp thời và đầy đủ. Hãy chỉ nhắc đến vài ba tấm gương

trung liệt ở ngay vùng quê Nguyễn Khuyến như ông Nghè Giao Cù Vũ Hữu

Lợi, ông Đốc học Hoàng giáp Phạm Văn Nghị, ông Tam nguyên Trần Bích

San, Ông Hoàng giáp Nguyễn Quang Bích, là những người đã biểu thị, bằng

thái độ hoặc bằng hành động, tinh thần dứt khoát đứng về phe chủ chiến

ngay từ lúc chiến cuộc mở màn. Một thủ lĩnh Cần vương ở Nghệ An – ông

Nghè Nguyễn Xuân ôn – sau ngày bị bắt về Kinh, làm thơ họa lại Nguyễn

Khuyến, có ý thanh minh việc mình thất bại mà không tuẫn tiết, cũng bộc bạch

tâm sự:

Chủ nhục, dân sầu, cảm tự ninh?

(Chúa nhục dân sầu, há ở yên?)

“Quốc gia hữu sự, thất phu hữu trách”, Nguyễn Khuyến sẽ không dám

ở yên. Nhưng Nguyễn Khuyến chưa có cái khí phách “đầu bút tòng nhung” có

tính cách “cập nhật” của những người đồng hương nổi tiếng của mình.

Nguyễn Khuyến cũng không có cái vinh dự tuẫn tiết vì nước của các bậc

đồng liêu tiền bối như Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu. Tất nhiên Nguyễn

Khuyến dứt khoát không đi theo vết chân của bọn gọi là “hợp tác với tân

triều”, kỳ thực là làm tay sai, tiếp tay cho bọn cướp nước, trong số này có cả

Page 253: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

những người vốn là bạn thân của ông. Qua thơ văn chúng ta thấy, đối với họ,

Nguyễn Khuyến vẫn giữ quan hệ giao thủy chung, nhưng về hành động ứng

xử, Nguyễn Khuyến không theo chân họ. Trước bước ngoặt của lịch sử dân

tộc, Nguyễn Khuyến đã quyết định cho mình một sử lựa chọn, một sự lựa

chọn dứt khoát: treo ấn từ quan, về làng ở ẩn. Lúc đầu Nguyễn Khuyến gọi đó

là “dũng thoái” (rút lui một cách dũng cảm – Bài Vũ hậu xuân túy cảm thành).

Nhưng rồi dần dà chính Nguyễn Khuyến cũng không còn đánh giá quá cao

hành động đó của mình. Ông tự giễu mình:

Cờ đang giở cuộc không còn nước,

Bạc chửa thâu canh đã chạy làng!

(Tư trào)

“Chạy làng”! Nguyễn Khuyến đã thú nhận cái bất lực của bản thân, và

qua đó, bộc lộ cả cái bất lực của một giai tầng, Nguyễn Khuyến còn cảm nhận

được cái vô dụng trong sở học của mình:

Sách vở ích gì cho buổi ấy,

Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già!

(Ngày xuân dặn các con)

Bao nhiêu giả thuyết đã đặt ra và luận bàn lý thú xung quanh những

sáng tác có tính chất “tự bạch” với nhiều lớp nghĩa khá phức hợp này.

Nhưng cũng có thể nghĩ rằng: thái độ “xuất xử” của Nguyễn Khuyến

trước hết biểu hiện một sự bất lực, bế tác, cái bất lực của một nhà Nho vốn

quen với văn chương sách vở hơn là quen ứng phó với tình thế thực tiễn, mặt

khác cũng đã bước đầu nhận thức được dù chỉ mới từ trong tiềm thức cái bất

lực của một giai tầng sắp kết thúc vai trò lịch sử. Tuy nhiên hành động từ

quan, đi ở ẩn, dứt khoát không cộng tác với quân cướp nước của Nguyễn

Khuyến cũng biểu thị một tiết tháo yêu nước, một lương tâm trong sạch, một

nhân cách cao đẹp. Và đó chính là ánh sáng tâm linh đã chiếu sáng thơ văn

Nguyễn Khuyến.

Page 254: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

***

Thời Nguyễn Khuyến, nếu như lịch sử chính trị của dân tộc đã chuyển

sang một trang mới, thì trái lại, lịch sử văn học vẫn nằm trong phạm trù văn

học cũ, phạm trù văn học trung đại: về nội dung tư tưởng vẫn là ý thức hệ

phong kiến; về lợi khí văn tự vẫn là chữ Hán, chữ Nôm; về thể loại văn

chương vẫn là thơ, phú, hịch, văn tế, câu đối… Nhưng tình thế mới, Tổ quốc

lâm nguy, đã đem đến cho văn học một nội dung mới, một yêu cầu thời sự

mới: đánh giặc, cứu nước. Chưa bao giờ văn học Vệt Nam đứng trước một

nhiệm vụ cấp bách như vậy, một sứ mệnh lịch sử nặng nề như vậy. Các sĩ

phu Cần vương sẽ lên đường tranh đấu. Lên đường với tất cả tâm huyết, khí

tiết của họ. Dù không thành công cũng thành nhân… Lên đường với cái vốn

tri thức Tứ thư, Ngũ kinh và văn chương cử tử. Ngày họ đứng dưới lá cờ

phấn nghĩa Cần vương phục quốc cũng là ngày họ bắt đầu ghi tên vào tao

đàn dân tộc. Tác phẩm của họ sẽ là hịch hiệu triệu chiến đấu, là văn tế các

nghĩa sĩ hy sinh vì nước, là thơ điếu, thơ tuyệt mệnh.

Đối với Nguyễn Khuyến thì khác. Ngày ông từ bỏ quan trường rút lui về

ở ẩn, cũng là ngày ông gia nhập thi đàn dân tộc. Có thể xem bài Trở về vườn

cũ như bài thơ mào đầu, khơi nguồn thi hứng của Nguyễn Khuyến, đồng thời

là bản tuyên ngôn về thái độ sống của Nguyễn Khuyến trước cuộc “bể dâu”

lịch sử.

Sinh ra và lớn lên ở nông thôn trong thân phận hàn sĩ, sau mười lăm

năm làm quan thanh liêm, Nguyễn Khuyến lại trở về “vườn Bùi chốn cũ” với

cuộc sống thanh bần. “Quan Hoàng Và” đã trở lại làm dân, làm “cụ Tam”, một

nhà Nho già nơi thôn quê hẻo lánh. Người xưa có câu: “Quan dân lễ cách”,

“kẻ làm quan nhất tự cách trùng” – “Cụ Tam” đã vượt qua được những cách

bức đó, sống giản dị, chan hoà giữa lòng bà con quê cũ, cùng chia sẻ với họ

nỗi lo, nỗi buồn và niềm hy vọng. Đây là một điểm đáng quý khác trong nhân

cách Nguyễn Khuyến, một bí quyết làm nên giá trị thơ văn Nguyễn Khuyến.

Tách khỏi cuộc đấu tranh chính trị, vũ trang của dân tộc, Nguyễn Khuyến lại

tham dự vào trung tâm cuộc sống dân dã nơi quê hương, cuộc sống làm ăn

Page 255: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

một nắng hai sương, lao động cực nhục để sống còn, cuộc sống bình dị

thường ngày, với nạn cho vay nặng lãi, nạn “thuế quan Tây”, nạn lụt lội, nạn

tham nhũng, cùng những hội hè, giỗ tết, đình đám chốn đình trung. Và thơ

văn Nguyễn Khuyến sẽ chiếm lĩnh một phạm vi đề tài riêng, với một phong

cách, một cá tính độc đáo.

Nếu lấy năm công bố Chiếu dời đô (1010) làm mốc xuất phát thì đến

thời Nguyễn Khuyến, nền văn học viết của nước ta đã trải qua một lịch sử

gần chín thế kỷ. Trước mắt Nguyễn Khuyến đã sừng sững những thành tựu

của các bậc tiền bối, những nhà thơ bậc thầy. Trong thể thơ Đường mà

Nguyễn Khuyến quen sử dụng, về dòng chữ Hán đã có hai tên tuổi chói lọi là

Nguyễn Du và Cao Bá Quát, còn bên dòng thơ Nôm đã có hai tài nữ nổi tiếng

là Thanh Quan và Hồ Xuân Hương. Viết về đề tài ẩn dật, vui với tùng cúc, đã

có Nguyễn Trái, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Khuyến không phải là người

khai sơn phá thạch, cũng không phải là người tập đại thành những truyền

thống của văn học dân tộc. Những truyền thống đó đã đạt được tới khuôn

mẫu cổ điển từ giữa thế kỷ XVIII, trước thời Nguyễn Khuyến. Nhưng Nguyễn

Khuyến vẫn có phần đóng góp riêng của mình không ai có thể thay thế được.

Nguyễn Khuyến sẽ tiếp tục phát triển, hoàn chỉnh con đường, khuynh hướng

mà ngày nay chúng ta gọi là “dân tộc hóa” thơ văn. Đó là một sự nghiệp lâu

dài, gian khổ của nhiều thế hệ đã sống qua nhiều thời đại, đã cố vun đắp,

chăm chút, xây dựng nên nền văn học dân tộc. Nền văn học đó – như một

người đã biết và thừa nhận – bao gồm hai dòng văn tự Hán và Nôm. Nguyễn

Khuyến cũng như hai tác giả tiền bối là Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và một tác

giả thuộc thế hệ sau là Phan Bội Châu, sử dụng thành thạo cả chữ Hán lẫn

chữ Nôm và đã có cống hiến quan trọng vào sự phát triển của cả hai dòng

văn học. Kiểm điểm lại di sản thơ văn Nguyễn Khuyến hiện còn lưu truyền thì

phần Hán vẫn nhiều hơn phần Nôm. Ở Nguyễn Khuyến còn có hiện tượng

đặc biệt là có một số bài vừa có văn bản Hán, vừa có văn bản Nôm. Có thể

suy đoán rằng: Nguyễn Khuyến đã sáng tác bằng chữ Hán rồi tự mình lại dịch

ra chữ Nôm, nhưng cũng không loại trừ có bài được sáng tác trước bằng chữ

Nôm, rồi dịch thoát ra chữ Hán. Hiện tượng này chứng tỏ nhà thơ thành thạo

Page 256: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

trong việc sử dụng cả hai lợi khí văn tự. Phần thơ Hán và Nôm bổ sung cho

nhau, thể hiện sáng rõ cá tính, cốt cách con người Nguyễn Khuyến cũng như

nhiều nhà thơ xưa, mặc dầu đã vượt qua thành kiến coi thường chữ Nôm –

“nôm na mách qué” – nhưng vẫn rập theo thói quen, khi muốn ký thác, bộc

bạch một cái gì nghiêm túc, thầm kín thì lại sử dụng chữ Hán. Cho nên qua

thơ chữ Hán ta thu thập được nhiều hơn những chi tiết cụ thể về hành trạng

và tâm sự Nguyễn Khuyến. Có thể xem thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến

như một tập nhật ký được ghi chép đều đặn hơn, rõ ràng hơn là thơ Nôm.

Trong hàng chục thế kỷ, chữ Hán với cách đọc riêng, thích nghi với hệ thống

ngữ âm tiếng Việt, đã được sử dụng như là một văn tự chính thức và đã có

ảnh hưởng tích cực đối với việc xây dựng nền văn học dân tộc Việt Nam. Tuy

vậy, khách quan mà xét, giữa chữ Hán và đông đảo công chúng Việt Nam

vẫn có một khoảng cách khó có thể dễ dàng xóa bỏ. Người Việt Nam chỉ

dùng chữ Hán để viết chứ không phải để nói, nghĩa là gần như sử dụng một

tử ngữ, và khi một văn tự bị tách rời với ngôn ngữ tương ứng với nó, tách rời

với hoạt động nói, hoạt động giao tiếp sống động, dễ biến đổi nhất của một

ngôn ngữ, thì văn tự đó có nguy cơ bị ngưng đọng, không phát triển nữa,

hoặc là phát triển rất chậm. Người sáng tác là người Việt, hàng ngày nói tiếng

Việt nhưng lại phải viết bằng chữ Hán, cũng không phải là dễ dàng, thoải mái

trong việc phô diễn một sắc thái tinh tế của tâm tư, tình cảm của mình. Điều

chắc chắn là khó tìm được sự thưởng thức, đồng cảm trong đông đảo công

chúng Việt Nam, vốn chỉ nói tiếng Việt mà rất ít người đọc được chữ Hán

phức tạp. Tóm lại, với chữ Hán, cái quy trình giao lưu khép kín giữa “tác giả –

tác phẩm – công chúng” sẽ bị hạn chế. Nhưng với dòng văn học chữ Nôm,

văn học tiếng Việt, thì không thế. Bộ phận thơ văn của Nguyễn Khuyến có

khả năng đi thẳng vào công chúng, chính là bộ phận thơ văn chữ Nôm, thơ

văn tiếng Việt. Chính bộ phận văn học này sẽ tạo nên sự bất tử cho thơ văn

Nguyễn Khuyến. Khuynh hướng “dân tộc hóa” trong thơ văn của Nguyễn

Khuyến cũng sẽ biểu hiện rõ nhất trong thơ Nôm, cả về đề tài, thể loại, ngôn

ngữ, thi tứ.

Page 257: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Đề tài trong thơ Nguyễn Khuyến trước hết là phong cảnh đồng quê,

sinh hoạt nông thôn. Đó là cảnh làm ăn thất bát, cảnh vỡ đê lụt lội. Đó là lời

thăm hỏi ân cần, hoặc châm chọc, giễu cợt ông bạn bị lụt, bị mất cướp, là lời

than nợ, than già, than bệnh. Loại đề tài đó rút ra từ một hiện thực mà

Nguyễn Khuyến đã quá quen thuộc. Đó là cuộc đời của chính bản thân ông.

Nhưng cái chính là ông đã nói với một tấm lòng chân thực, với sự xúc cảm

chân thành. Thơ đề vịnh của Nguyễn Khuyến cũng đã vượt qua được những

sáo mòn “tuyết nguyệt phong hoa” của thi ca cổ để mô tả những cảnh thực,

tình thực, những hình ảnh cụ thể, hiện thực của cảnh sắc Việt Nam: ao cá, bờ

tre, ngõ trúc, vườn cà, vườn cải… Điều đặc biệt ở đây, Nguyễn Khuyến đã

phát hiện, khám phá và truyền cho người đọc cái thi vị, cái kỳ thú của những

sự việc bình thường vẫn diễn ra trong cuộc sống ngày thường quanh ta.

Ngòi bút Nguyễn Khuyến đã vận dụng khá nhiều thể thơ, từ thể thơ dân

tộc như lục bát, song thất lục bát cho đến những thể thơ Trung Quốc như cổ

phong, tứ tuyệt, thất ngôn bát cú luật Đường. Nhưng thể thơ được Nguyễn

Khuyến sử dụng nhiều và thành công hơn cả là thất ngôn bát cú. Dưới ngọn

bút của Nguyễn Khuyến, các thể thơ đều trở nên mềm mại, uyển chuyển,

thuần thục. Những thể thơ dân tộc của Nguyễn Khuyến đậm đà phong vị dân

ca, trong lúc đó thơ Đường luật của Nguyễn Khuyến đối ngẫu, niêm luật vẫn

chỉnh mà lại có phong thái tự nhiên, linh hoạt, thanh thoát một cách lạ, thậm

chí có khi ta có cảm giác như nó đang tiến về phía văn xuôi (Bài Đại lão).

Sở dĩ như thế là nhờ biệt tài vận dụng ngôn ngữ. Vốn là một tay cự

phách của trường văn chương cử tử, Nguyễn Khuyến đã thi đậu đến Tam

nguyên, nhưng nhà Nho “hay chữ” đó lại không sính “khoe chữ”. Ông rất ít

dùng từ ngữ Hán và điển tích Trung Quốc, mà mạnh dạn sử dụng tục ngữ,

thành ngữ, lời ăn tiếng nói của dân gian vào thơ. Nhờ tài dùng chữ chính xác,

nhờ khéo tận dụng khả năng tạo hình và gợi cảm của những từ kép nên trong

thơ Nguyễn Khuyến cảnh và người hiện lên như vẽ: một bà vợ đảm “thắt lưng

bó que, xắn váy quai cồng”, một ông chồng “búi tóc củ hành, buông quần lá

tọa”, một ngôi chùa cổ “ở lẫn cùng cây, đá”…

Page 258: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nguyễn Khuyến cũng giống như các nhà thơ Việt Nam xưa, ngoài ngọn

nguồn văn học dân gian, văn học dân tộc, còn học hỏi kinh nghiệm sáng tác

trong vườn thơ mênh mông và rực rỡ của Trung Quốc. Trong thơ chữ Hán,

hàng chục lần Nguyễn Khuyến nhắc đến Đào Tiềm, cảm phục Lục Du, nhưng

về phong cách, khuynh hướng, Nguyễn Khuyến gần với Đỗ Phủ hơn Lý Bạch.

Điều này cũng giống với nhiều nhà thơ Việt Nam xưa. Phong cách lãng mạn,

bay bổng của lý Bạch hình như chỉ thấy phần nào ở Cao Bá Quát. Còn

Nguyễn Khuyến sống một cuộc đời nghèo túng, đạm bạc giữa lòng nhân dân

trong một thời tao loạn, Nguyễn Khuyến rất gần gũi với cảnh ngộ và tâm tình

Đỗ Phủ. Nhưng cũng rất hiển nhiên là Nguyễn Khuyến có bản sắc dân tộc,

phong cách cá nhân, cá tính riêng độc đáo. Mùa thu của Nguyễn Khuyến

không có sương mù ảm đạm, cỏ cây tiêu sái như trong thơ Đỗ Phủ, mà có

bầu trời cao xanh, màu sắc tươi thắm.

Bài Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến có thể có chịu ảnh hưởng thi

tứ của bài Khách chí của Đỗ Phủ, nhưng sáng tác của Nguyễn Khuyến vẫn có

cái đặc sắc, độc đáo là đã diễn tả một cách tự nhiên, giản dị tình và cảnh Việt

Nam. Ở đây trước cả vấn đề kỹ thuật văn chương là vấn đề tình cảm, tâm

hồn. Nói thơ Nguyễn Khuyến có khuynh hướng dân tộc hóa cũng là nói thơ

Nguyễn Khuyến đã khắc phục được một bước khuynh hướng ước lệ cố hữu

của thơ ca cổ để vươn tới khuynh hướng hiện thực.

Bàn tới địa vị Nguyễn Khuyến trong làng thơ Việt Nam không thể không

nhắc đến một nhà thơ đồng hương, đồng thời với Nguyễn Khuyến là Trần Tế

Xương. Hai nhà thơ, một già, một trẻ, đỗ đạt cao thấp khác nhau, sinh khác

thời, chết gần đồng thời, người ẩn cư nơi xóm làng thanh vắng, kẻ sống giữa

kẻ chợ xô bồ, người tâm tình đôn hậu, kẻ góc cạnh sắc sảo, cùng thích châm

biếm trào lộng, là một cặp ngẫu nhiên và lý thú của văn học Việt Nam. Nối

sau Thanh Quan, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương là hai

nhà thơ xuất sắc, độc đáo cuối cùng của dòng thơ Nôm Đường luật. Sau

Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương, nhiều người vẫn còn say sưa chắp vần,

Page 259: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

xếp chữ, gò gẫm niêm luật, nhưng không còn thơ Nôm Đường luật có duyên,

có hồn nữa!

Trong quá trình phát sinh, phát triển lâu dài, kỳ khu gian khổ của dòng

thơ tiếng Việt, Nguyễn Khuyến là ngôi sao sáng cuối cùng của nền văn học

trung đại Việt Nam và ít hay nhiều, cũng là một hiện tượng giao thoa giữa hai

thế kỷ, để hướng tới hiện đại.

CHÚ THÍCH LỜI BẠT

1. Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn. Nxb. Văn học, Hà Nội, 1977; tr. 236.

2. Cách xưng hô của dân làng quê hương đối với Nguyễn Khuyến.

Phần thứ hai. NGUYỄN KHUYẾN THƠ TUYỂN

LỜI DẪN

Từ trước đến nay đã có nhiều người bỏ công sưu tầm, tuyển chọn, giới

thiệu thơ văn Nguyễn Khuyến, nhưng công phu và đầy đủ nhất phải nói đến

hai tập Thơ văn Nguyễn Khuyến (TVNK) của Nhà xuất bản Văn học in năm

1971 (tái bản 1979) và Nguyễn Khuyến – Tác phẩm (NKTP) do Nguyễn Văn

Huyền phụ trách, Nhà xuất bản Khoa học xã hội in năm 1984; đặc biệt là cuốn

thứ hai được khảo sát kỹ lưỡng trên các văn bản Hán Nôm và được chú dẫn

khá đầy đủ.

Việc tuyển chọn lần này của chúng tôi trước hết nhằm đáp ứng yêu cầu

học tập và giảng dạy Nguyễn Khuyến trong nhà trường, vì vậy phạm vi tác

phẩm được tuyển chọn chỉ giới hạn trong phần thơ là phần cốt yếu đã tạo nên

nhà thơ Nguyễn Khuyến. Hơn nữa do điều kiện thời gian, chúng tôi chưa thể

khảo sát, đối chiếu toàn bộ các văn bản hiện có về thơ văn Nguyễn Khuyến.

Chỉ xin tạm chọn một số văn bản có độ tin cậy tương đối cao và có số lượng

thơ văn Nguyễn Khuyến nhiều hơn, đó là:

– Quế Sơn Tam nguyên thi tập (ký hiệu A.3160)

– Quế Sơn thi tập (ký hiệu A.469)

Page 260: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

– Tam nguyên Yên Đổ thi ca (ký hiệu VNb.46)

– Yên Đổ Tiến sĩ thi tập (ký hiệu VHv.1864)

– Quốc văn tùng ký (ký hiệu AB.383)

– Nam âm thảo (ký hiệu VHv.2381)

– Đối liên tạp lục (ký hiệu VNv.151)

– Hải Vân am thi tập (ký hiệu A.1515).

Trong số thơ được tuyển chọn, phần bản gốc thơ Nôm tìm thấy đủ,

nhưng phần thơ chữ Hán thì có một vài bài chỉ có ở TVNK hoặc NKTP.

Những trường hợp đó chúng tôi xin được dựa vào hai tuyển tập này để chép

hoặc khôi phục chữ Hán. Ngay trong phần thơ Nôm thì văn bản do chúng tôi

tìm ra cũng có những chữ, hoặc không quen thuộc với các văn bản vẫn lưu

hành hoặc tối nghĩa, trường hợp cần thiết, chúng tôi cũng dựa vào hai bộ

tuyển tập nói trên để ký chú dị bản.

Số bài tuyển chọn sẽ được chia thành hai phần Hán và Nôm (những

bài tự giả tự dịch chúng tôi đặt ngay sau bài thơ chữ Hán). Trong từng phần,

các bài lại được xếp theo trật tự thời gian thành 2 cụm lớn: trước khi về Yên

Đổ và sau khi về Yên Đổ. Tuy nhiên ở từng cụm, do có nhiều bài rất khó xác

định chính xác thời điểm sáng tác nên chúng tôi dùng thêm tiêu chí đề tài để

sắp xếp thứ tự.

Nguyễn Khuyến là một trong những tác giả được công chúng yêu thích,

truyền tụng thơ văn nhiều nhất, do vậy tình trạng “tam sao thất bản” cho đến

nay vẫn là trở ngại lớn cho việc khảo sát văn bản. Và công việc của chúng tôi

chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Hy vọng sẽ được bạn dọc đóng góp

nhũng ý kiến quý báu.

THƠ CHỮ HÁN

1.

THU DẠ HỮU CẢM

Page 261: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Sơn hà liêu lạc tứ vô thanh,

Độc tọa thư đường khán nguyệt minh.

Hà xứ thu phong xuy nhất diệp,

Dẫn lai vô hạn cố viên tình.

(TVNK)

Dịch nghĩa:

MỐI CẢM ĐÊM THU

Non sông bốn mặt lặng như tờ,

Một mình ngồi nơi nhà học ngắm trăng sáng.

Gió thu từ đâu thổi bay tới một chiếc lá,

Gợi lên biết bao nỗi niềm nhớ quê hương.

Dịch thơ:

Bốn mặt non sông phẳng lặng tờ,

Phòng văn tựa ghế ngắm gương nga.

Lá thu một chiếc bay trong gió,

Khêu gợi bao nhiêu nỗi nhớ nhà.

HOÀNG TẠO dịch.

2.

THU SƠN TIÊU VỌNG

Bát diện thôn khư nhất đính cô,

Tài đăng vạn tượng nhập trung đô.

Phong khinh vân lộng Thường Nga ảnh,

Vụ tễ thiên cao Bắc Đẩu khu.

Phẩm vật nhất thiên kim thế giới,

Page 262: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Giang sơn tứ cố ngọc dư đồ.

Sương minh hà xứ thu thanh đáp,

Hoán khởi Âu Dương tảo tứ tô.

(VHv.1864)

Dịch nghĩa:

ĐÊM THU TRÊN NÚI NGẮM CẢNH

Giữa tám mặt xóm làng, một ngọn núi đứng trơ trọi,

Vừa leo lên thấy muôn vàn hình tượng hướng về chính

giữa.

Gió nhẹ, mây giỡn bóng Hằng Nga,

Mù tan, trục Bắc Đẩu nhô cao trên vòm trời.

Đầy trời phẩm vật như một thế giới vàng,

Bốn mặt giang sơn như bản địa đồ ngọc.

Sương rơi thánh thót, tiếng thu ở đâu đáp lại,

Gợi dậy tứ văn đẹp đẽ của Âu Dương.

Dịch thơ:

Chon von một ngọn đứng bên làng,

Tầm mắt thu đầy cảnh tám phương.

Mây giỡn bóng Nga cơn gió thoảng,

Mù tan, sao Đẩu đỉnh trời quang.

Non sông khắp phía long lanh ngọc,

Cảnh vật đầy trời rực rỡ vàng.

Hiu hắt hơi thu, sương thánh thót,

Cảnh tình gợi lại phú Âu Dương.

NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

Page 263: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Chú thích:

(1) Tức Âu Dương Tu người Lư Lăng nhà Tống, có bài phú Thu thanh

nổi tiếng.

3.

DỤC THÚY SƠN

Vạn cổ thanh sơn tại,

Hà niên Dục Thúy danh.

Cô thành thiên nhẫn lạc,

Nhất tự bán giang bình.

Tuệ Viễn kim hà xứ?

Thăng Am thượng hữu minh.

Tà dương hoài cổ ý,

Tam lưỡng mộ cầm thanh.

(A.1515)

Dịch nghĩa:

NÚI DỤC THÚY

Non xanh có từ muôn thuở xưa,

Tên Dục Thúy năm nào mới đặt?

Tòa thành đứng trơ vơ trên cao ngàn thước,

Một ngôi chùa nhô ra giữa dòng sông.

Nhà sư Tuệ Viễn nay ở đâu?

Ông Thăng Phủ vẫn còn bia khắc đó.

Bóng tà gợi lên những ý tình hoài cổ,

Thánh thót đôi ba tiếng chim chiều.

Dịch thơ:

Page 264: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Núi xanh từ vạn thuở,

Dục Thúy, tên năm nào.

Mé nước, chùa soi bóng,

Đầu non, thành đứng cao.

Đâu rồi sư Tuệ Viễn,

Còn đó bia Hán Siêu.

Bóng chếch lòng hoài cổ,

Chim chiều khắc khoải kêu.

BĂNG THANH dịch

Chú thích:

(1) Dục Thúy: tên một ngọn núi gần thị xã Ninh Bình. Nguyên tên là

Băng Sơn, đến đời Trần, Trương Hán Siêu mới đổi là Dục Thúy Sơn, có

nghĩa là con chim trả tắm. Theo lời truyền, vì núi này mọc từ đất nhô ra giữa

dòng sông, trông như hình con chim trả sà xuống nước nên đặt tên như vậy.

Chân núi còn có một ngôi chùa gọi là chùa Non Nước.

(2) Tuệ Viễn: một vị cao tăng, từng tu ở chùa Non Nước.

(3) Thăng Phủ: tên tự của Trương Hán Siêu, người Ninh Bình. Đời Trần

Anh Tông làm đến chức Thái phó, trấn thủ Hóa Châu, từng du ngoạn, đề thơ

tại núi này. Hiện trên vách núi vẫn còn bài bia Dục Thúy sơn Linh Tế tháp ký

của ông.

4.

TRẠM PHU

Mộ khứ triêu hoàn vị tức kiên,

Võng phu tình huống tuyệt kham liên.

Bất tri thừa võng trung nhân giả,

Nhất tẩu phong trần nhị thập niên.

Page 265: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(TVNK)

Dịch nghĩa:

PHU TRẠM

Chiều đi, sớm về không hề nghỉ vai,

Tình cảnh anh phu cáng thực đáng ái ngại.

Có biết đâu chính người ngồi trong cáng,

Cũng long đong trong gió bụi đã hai mươi năm.

Dịch thơ:

Sớm đến, chiều đi chẳng nghỉ vai,

Tình anh phu cáng thật bi ai.

Hay đâu chính kẻ ngồi trong cáng,

Hai chục năm qua tắm bụi đời!

HOÀNG TẠO dịch

Chú thích:

(1) Phu trạm: những người phục vụ việc chuyển vận (kể cả đánh xe,

khiêng cáng) ở các trạm trên đường cái quan ngày trước.

5.

BÙI VIÊN CỰU TRẠCH CA

Bùi viên ngô cựu trạch,

Tứ thập niên kim nhật phú quy lai.

Tùng tùng, cúc cúc, mai mai,

Phiêu nhiên hữu khâu hác lâm tuyền chi dật thú.

Bành Trạch tố cầm ngâm cựu cú,

Ôn Công tôn tửu lạc dư xuân.

Đông phong hồi thủ lệ triêm cân,

Page 266: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Diểu mang tế, thương hải tang điền kinh kỷ độ.

Quân mạc thán Lỗ hầu chi bất ngộ,

Bằng lăng bạch phát phục hà vi?

Quy khứ lai hề, hồ bất quy!

(VHv.1864, A.469,. A.3160)

Dịch nghĩa:

BÀI CA NHÀ CŨ Ở VƯỜN BÙI

Vườn Bùi, nơi nhà cũ của ta.

Đã bốn mươi năm, ngày nay mới được trở về.

Tùng tùng, cúc cúc, mai mai,

Phơi phới có thú vui nhàn dật nơi núi, khe, rừng, suối.

Bành Trạch gảy cây đàn không dây, ngâm câu thơ cũ,

Ôn Công nâng chén rượn vui với ngày xuân còn lại.

Ngoảnh đầu nhìn gió đông, giọt lệ đầm khăn.

Trong khoảng mênh mông trải bao cuộc nương dâu bãi bể.

Anh đừng than không gặp được Lỗ hầu,

Tóc bạc bù xù còn biết làm gì được?

Đi về thôi, sao không về đi?

Tác giả tự dịch:

TRỞ VỀ LÀNG CŨ

Vườn Bùi chốn cũ,

Bốn mươi năm lụ khụ lại về đây

Trông ngoài sân đua nở mấy chồi cây,

Thú khâu hác lâm tuyền âu cũng thế.

Page 267: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Bành Trạch cầm xoang ngâm trước ghế,

Ôn Công rượu nhạt chuốc chiều xuân.

Ngọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm khăn,

Tính thương hải tang điền qua mấy lớp.

Ngươi chớ giận Lỗ hầu chẳng gặp

Như lơ phơ tóc trắng lại làm chi.

Muốn về sao chẳng về đi.

(A.3160, A.469)

Khảo dị

a. A.3160: Bùi viên ca

b. A.3160: Ngũ

c. A.469: trúc trúc

d. A.3160: Phiêu diêu khâu hác lâm tuyền

đ. A.469: Như bằng tăch bạch phát hậu hà vi

A.3160: Như bằng tăng thạch dĩ thành ban

Chú thích:

1. Vườn Bùi: tức thôn Vị Hạ, xã Yên Đổ, nay là xã trung Lương, huyện

Bình Lục (Nam Hà), quê hương Nguyễn Khuyến.

2. Nguyễn Khuyến nói về những năm xa quê, kể cả đi học, dạy học và

làm quan.

3. Bành Trạch: tên một huyện cũ thuộc tỉnh Giang Tây (Trung Quốc).

Đào Tiềm tên tự là Uyên Minh đỗ Tiến sĩ, làm Huyện lệnh Bành trạch, khi treo

ấn từ quan có làm bài Quy khứ lai từ. Chỗ ông ngồi thường treo cây đàn mộc

không dây, diễn tả ý nghĩa triết học: sự thô phác, không lời mới đạt tới cái

chân, cái bản thể.

Page 268: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

4. Ôn Công: tức Tư Mã Quang, khi cáo quan về ở ẩn chỉ uống rượu giải

buồn.

5. Nguyên văn: thương hải tang điền. Theo Thần tiên truyện ma cô tiên

nữ nói như sau: “Dĩ kiến Đông hải tam vi tang điền” (Ta đã ba lần thấy biển

Đông hóa thành nương dâu). Trong Văn chương sau thường dùng thành ngữ

này để diễn tả sự biến thiên trong cuộc đời.

6. Lỗ hầu: tức Lỗ Bình Công. Sách cũ nói Mạnh Tử không gặp được Lỗ

Bình Công để có cơ hội giúp dân trị nước cũng là do mệnh trời, không có gì

đáng ân hận. Câu thơ ngầm ý: nhà thơ phải cáo quan cũng là do thời thế xui

nên mà thôi

7. Cầu này tác giả trích từ câu đầu bài Quy khứ lai từ của Đào Uyên

Minh: “Quy khứ lai hề, điền viên tương vu, hồ bất quy” (Về đi thôi, ruộng vườn

sắp hoang vu, sao chẳng về?).

6.

BÙI VIÊN ĐỐI ẨM TRÍCH CÚ CA

Túy ông chi ý bất tại tửu,

Nhi tại hồ sơn thủy chi gian.

Sơn mịch mịch, thủy sàn sàn,

Ngô dữ tử chi sở cộng thích.

Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch,

Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh.

Sở dĩ chung nhật túy, đồi nhiên ngọa tiền doanh,

Chu Bá Nhân độ giang, tam nhật tỉnh, bất vi thiểu.

Mạc khiếu, mạc khiếu,

Hà tự đương sơ mạc tiếu.

Tửu hàm bạt kiếm chước địa ca: “Mạc ai!

Page 269: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Khuyến quân cánh tận nhất bôi”.

(VHv. 1864, A.469, A.3160)

Dịch nghĩa:

BÀI CA ĐỐI ẨM Ở VƯỜN BÙI

(Trích thơ cổ)

Ý ông say không ở rượu,

Mà ở trong chốn nước non.

Núi lặng lẽ, nước dạt dào,

Ta cùng ngươi cùng vui thích.

Thánh hiền từ xưa đều vắng lặng,

Chỉ có kẻ uống rượu là lưu lại tiếng tăm.

Cho nên suốt ngày say khướt, nằm lăn ở hiên ngoài,

Chu Bá Nhân qua sông chỉ có ba ngày tỉnh, ta không coi là

ít.

Đừng kêu, đừng kêu!

Chi bằng trước kia đừng cười.

Rượu say, tuốt gươm chém đất hát: “Đừng buồn…!

Mời anh hãy uống thêm một chén nữa!”

Tác giả tự dịch:

UỐNG RƯỢU Ở VƯỜN BÙI

Túy ông ý chẳng say vì rượu,

Sau vì đâu, nước thẳm với non cao.

Non lặng ngắt, nước tuôn ào.

Tôi với bác xưa nay cùng thích thế.

Đời trước thánh hiền đều vắng vẻ,

Page 270: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Có người say rượu tiếng còn nay.

Cho nên say khướt cả ngày,

Say mà chẳng biết rằng say.

Chu Bá Nhân thuở trước sang sông,

Chỉ tỉnh rượu ba ngày không phải ít.

Kêu gào thế, cười chi cho mệt,

Chớ buồn chi nghe tiếng hát làng say.

Xin ngươi gắng cạn chén này.

(A.469)

Khảo dị:

a. A.3160: Túy ông ca

VHv.1864: Bùi viên đối ẩm ca

b. A.3160: Sơn tịch tịch

VHv.1864:Sơn thanh thanh, vân mịch mịch

c. A.469: Tự cổ

d. Từ câu này trở xuống VHv.1864 chép:

Ẩm phục túy, túy phục tinh,

Hồi thủ tứ thập niên tiền như nhất mộng.

Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng,

Vương lang cam tửu bạt chước địa ca. “Mạc ai!

Khuyến quân cánh ẩm tam bôi”.

đ. A.469: ham mê

e. A.469: Phóng đãng

g. TVNK, NKTP: Cho nên say, say…

Page 271: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

h. TVNK, NKTP: Say mà chẳng biết rằng say ngã đùng

Chú thích:

1. Trích ở bài Túy ông đình ký (Bài ký đình ông say) của Âu Dương Tu,

đời Tống.

2. Chưa rõ xuất xứ.

3. Trích ở Tiền Xích Bích phú của Tô Đông Pha, đời Tống.

4. Trích Tương tiến tửu (Sắp mời rượu) của Lý Bạch đời Đường.

5. Trích Xuân nhật túy khởi ngôn chí (Ngày xuân tỉnh rượu nói chí

mình) của Lý Bạch đời Đường

6. Lấy ý trong thư của Trần Tuyên đời Lương gửi cho con người anh,

nguyên văn: “Tích Chu Bá Nhân độ giang, duy tam nhật tinh, ngô bất dĩ vi

thiểu” (Ngày xưa Chu Bá Nhân qua sông, chỉ có ba ngày tỉnh, ta không cho là

ít).

7. Tống sử: vua Chân Tông tuổi đã cao, chưa có hoàng tử, làm lễ cầu

tự. Thượng đế hỏi quần tiên ai muốn giáng sinh, các tiên đều im lặng, duy

Xích Cước đại tiên nhoẻn cười, Thượng đế liền cho giáng sinh làm con vua

Chân Tông. Khi mới sinh ra, hoàng tử khóc suốt ngày đêm không nín, có

người đạo sĩ nói có thể chữa được cho hoàng tử khỏi khóc, vua vời vào. Đạo

sĩ chỉ đọc “Hà tự đương sơ mạc tiếu” lập tức hoàng tử thôi khóc.

8. Trích bài Đoản ca hành tặng Vương lang Tư trực (Bài hát ngắn tặng

chàng họ Vương làm chức Tư trực) của Đỗ Phủ đời Đường.

9. Trích bài Vị thành khúc (Khúc ca Vị thành) của Vương Duy đời

Đường.

7.

TÚY HẬU

Ngũ thập hưu ông, bán mẫu đường,

Bắc song cao ngọa, bán thanh lương.

Page 272: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Phì nê thủy chức hà y mật,

U kính phong khiên thảo đới trường.

Tạp cú bất tu nhân cộng thưởng,

Nhàn tình duy hữu tửu tương đương.

Tàn xuân, bệnh nhãn vô phân biệt,

Nhật ảnh hy vi nhất dạng hoàng.

(A.469)

Dịch nghĩa:

SAU KHI SAY

Ông lão về hưu năm mươi tuổi với cái ao nửa mẫu,

Nằm khểnh trước song phía Bắc, được đôi chút thảnh thơi mát

mẻ.

Ao nhiều bùn, mặt nước dệt áo lá sen dầy đặc,

Trên lối đi vắng, gió kéo ngọn cỏ thành dải lưng dài.

Câu thơ vặt, chẳng cần mọi người cùng thưởng thức,

Lúc nhàn rỗi, chỉ có rượu là sánh được cùng nhau.

Cảnh xuân đã tàn, mắt đau không nhìn rõ vật gì,

Chỉ thấy bóng mặt trời lờ mờ một sắc vàng.

Dịch thơ:

Ao hơn nửa mẫu, tuổi năm mươi,

Nằm khểnh bên song cũng thảnh thơi

Bùn nhẫy,nước giăng sen lợp áo,

Lối râm, gió bện cỏ thành đai.

Câu xoàng chẳng muốn ai ngâm thưởng,

Nhàn rỗi duy còn rượu sánh đôi.

Page 273: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Xuân muộn, mắt đau nhìn chẳng thấy

Lờ mờ, ánh nắng nhuộm vàng trời.

HUỆ CHI dịch

8.

MẠN HỨNG

Đô môn nhất xuất toại quy điền,

Bần bệnh niên lai độc tự liên.

Song nhật ám di hồng ảnh cận,

Trúc phong bất nhượng bạch đầu tiên.

Bố ương nô lão tri hòa cước,

Địch cốc nhân hồi dẫn đẩu niên.

Thừa hứng chỉ duy tôn tửu thích,

Nam sơn bằng diếu chính du nhiên.

(A.469)

Dịch nghĩa:

MẠN HỨNG

Vừa ra khỏi cửa kinh đô liền trở về đồng ruộng,

Mấy năm nay đã nghèo lại ốm, mình riêng tự thương mình.

Trước cửa sổ, mặt trời lặng lẽ đưa bóng nắng lại gần,

Trên ngọn tre, làn gió không nhường cho đầu bạc trước.

Người lão nông gieo mạ biết chân ruộng tốt xấu,

Kẻ đong thóc về kể tuổi đấu non hay già.

Lúc hứng chỉ có chén rượu là thỏa ý,

Ngồi nhìn núi Nam sơn lòng dường phơi phới.

Page 274: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Tác giả tự dịch:

NHÀN CƯ

Ngần ấy năm nay vẫn ở nlà,

Nghĩ ta, ta lại chỉ thương ta.

Bóng hiên thêm ngán hơi nồng nhỉ,

Ngọn gió không nhường tóc bạc a!

Thửa mạ rạch ròi chân xấu tốt,

Đấu lương đo đắn tuổi non già.

Khi vui chén rượu say không biết,

Ngửa mặt lờ mờ ngọn núi xa.

(AB.383, VHv.2381, A.469)

Khảo dị:

a. TVNK, NKTP: Cáo quan về ở nhà

b. VHv.2381: thương

c. A.469: buồn

Chú thích:

1. Chân ruộng tốt xấu: nguyên văn là chân lúa, chân mạ, ở đây chỉ

ruộng, khi nói về ruộng xấu, ruộng tốt.

2. Tuổi đấu non hay già: cách nói dân dã về chuyện đấu đủ hay thiếu số

lượng theo quy định của dân mỗi vùng về các cụ đo lường, như bơ, đấu,

thùng, thăng…

9.

XUÂN DẠ LIÊN NGA

Tiễn nhĩ tiêm tiêm nhất vũ hàn,

Đầu minh nhi tử, tử nhi an.

Page 275: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nhược vi thảng thốt lâm nghi dị,

Đáo đắc thoan tuần biện diệc nan.

Tố phú tri năng do vị dẫn,

Đương tiền danh lợi bất tương quan.

Cô đăng sát nhĩ, do liên nhĩ,

Đáo đắc thành hôi lệ vị can.

(A.469)

Dịch nghĩa:

ĐÊM XUÂN THƯƠNG CON THIÊU THÂN

Khen mày là loài có đôi cánh bé nhỏ,

Gieo mình vào chỗ sáng mà chết, chết thế mới an lòng.

Nếu là thảng thốt mà sa vào cái chết thì còn dễ,

Nhưng thong thả mà quyết chết được mới thực là khó

Lương tri, lương năng trời phú cho còn chưa mất,

Nên danh lợi ngay trước mắt cũng không vướng víu gì.

Ngọn đèn cô quạnh giết mày nhưng cũng thương mày,

Cho đến lúc thành tro mà lệ vẫn chưa khô.

Dịch thơ:

Khen cho lông cánh yếu mềm thôi,

Chọn chỗ quang minh chết mới nguôi.

Thảng thốt sa chân, đành một nhẽ,

Thung dung mà chết, được bao người?

Tri năng trời phú chưa mai một,

Danh lợi kề bên chẳng đoái hoài.

Page 276: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Đèn quạnh giết ngươi lòng vẫn xót,

Thành tro, ngấn lệ vẫn chưa vơi.

HUỆ CHI dịch

Chú thích:

1. Lương tri: hiểu biết tự nhiên; lương năng: khả năng tự nhiên, chữ

của Mạnh Tử, ông nói: điều người ta không phải nghĩ mà biết, đó là lương tri;

điều người ta không phải học mà làm được, đó là lương năng. Lương năng

và lương tri là một cặp khái niệm mà Mạnh Tử hay nhắc tới.

2. Tác giả lấy tứ từ trong một câu thơ Đường: “Lạp cự thành hôi lệ thủy

can” nghĩa là: ngọn nến đã thành tro rồi nước mắt mới khô.

Có người nói bài thơ này tác giả làm khi nghe tin ông Nghè Giao Cù bị

giặc Pháp giết, nhân lúc đó có con thiêu thân sa vào đọi đèn trên án, nên

mượn sự việc ấy để ngụ ý.

Ông Nghè Giao Cù tức Vũ Hữu Lợi người làng Giao Cù huyện Nam

Trực, tỉnh Nam Định (nay thuộc Nam Hà) đậu Tiến sĩ khoa Ất hợi đời Tự Đức

(1875). Pháp đánh chiếm Nam Định, ông mưu khôi phục, việc bị lộ, bị bắt và

bị xử chém tại tỉnh lỵ Nam Định.

10.

GIÁP THÂN TRUNG THU NGỤ HÀ NỘI HỮU CẢM KÝ ĐỒNG NIÊN CỬ NHÂN NGÔ (KIM CỔ NHÂN)

Thập niên thử địa, thử Trung thu,

Thành quách y y cảnh dĩ thù.

Bạch trúc hồng đăng mê viễn cận,

Tố quan thanh cái tạp thùy ngô.

Tô giang hữu hận đào thanh cấp,

Nùng lĩnh vô tình dạ nguyệt cô.

Dạ cấm cận văn nghiêm túc thậm,

Page 277: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Thi ông tằng ức cựu du phầu?

(A.469)

Dịch nghĩa:

CẢM NGHĨ NHÂN DỊP TRUNG THU NĂM GIÁP THÂN (1884) Ở HÀ NỘI, VIẾT GỬI CHO BẠN ĐỒNG NIÊN LÀ ÔNG CỬ HỌ NGÔ (NGƯỜI KIM CỔ)

Mười năm về trước ta ở nơi đây, cũng tết Trung thu này,

Thành quách còn y nguyên, nhưng cảnh đã khác.

Nến trắng, đèn đỏ, lấp loáng như gần như xa,

Mũ trắng, dù xanh, lẫn lộn ta với người.

Sông Tô như giận, tiếng sóng vỗ dồn dập,

Núi Nùng vô tình, mảnh trăng đêm lẻ loi.

Lệnh cấm đi đêm, gần đây nghe nói gắt gao lắm,

Nhà thơ có còn nhớ cuộc chơi trước kia không?

Dịch thơ:

Nơi này thu trước, chục năm qua,

Thành quách còn nguyên, cảnh khác xa.

Nến bạch đèn hồng soi lấp loáng,

Dù xanh mũ trắng lẫn Tây ta.

Tô giang sóng dậy hờn sôi sục,

Nùng lĩnh trăng treo bóng lững lờ.

Lệnh cấm đi đêm nghe ngặt lắm,

Nhớ chăng chốn cũ thú đề thơ?

NGUYỄN VĂN TÚ dịch

Chú thích:

Page 278: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

1. Tức ông Ngô Văn Dạng, người làng Kim Cổ, huyện Thọ Xương, đỗ

Cử nhân đồng khoa với Nguyễn Khuyến.

11.

ĐỘC LA NGẠN ĐỖ ĐÌNH NGUYÊN TỪ BẮC PHIÊN THƯ

An Định chế đài hồi triều, thiểm vãng yết kiến, nhân thị La Ngạn Đỗ

Đình nguyên từ Bắc phiên thư, tái tam độc ngoạn, bất giác hỉ dược viết. “Ngô

đạo kỳ vị cùng da? Dân di kỳ vị dẫn da? Nhân mậu vi bình duyệt, tái hý ngâm

nhất luật. Lương cửu ngâm tư: “Đỗ quân chi văn, quả vi thị da? Ngô chi bình

duyệt, quả vi định da? Vệ Luật chi tỉ Tô Tử Khanh, Mộng Viêm chi tù Văn

Tống Thụy, vãng sự thành khả úy dã. Tuy nhiên, thiên địa chi kinh, quân thần

chi nghĩa, phụ sư chi sở thụ, tử đệ chi sở học, kỳ khả hốt hồ?”. Triếp cụ dĩ

bạch, huynh ông chính yên.

Độc quá quân thư vạn khoảnh lăng,

Bất tri hà dĩ sử nhân tăng?

Nghiên, suy, tang, bĩ, phi ngô định,

Ưu, lạc, vinh, khô, tự cổ tằng.

Thượng hữu nhân tâm tê nhất điểm,

Khả vô thế cục lệ tam thăng.

Bệnh phu thiển kiến chỉ như thử,

Vị quả Đông minh hữu đại bằng.

(TVNK, NKTP)

Dịch nghĩa:

ĐỌC BỨC THƯ TỪ CHỐI CHỨC BỐ CHÍNH BẮC NINH CỦA ĐÌNH NGUYÊN HỌ ĐỖ Ở LA NGẠN

Tổng đốc An Định (Vũ Báo) về triều, tôi đến yết kiến, nhân đó ông cho

xem bức thư của Đỗ Đình nguyên, người làng La Ngạn, từ chối chức Bố

chính Bắc Ninh. Tôi đọc đi đọc lại hai ba lần, bất ngờ mừng quá mà thốt ra

Page 279: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

rằng: “Đạo ta có lẽ chưa cùng chăng? Luân thường có lẽ chưa mất chăng?”.

Nhân lạm bình duyệt, lại đùa ngâm một bài thơ. Giờ lâu ngẫm nghĩ: “Văn của

bác Đỗ quả là đúng chăng? Lời bình duyệt của ta quả là chuẩn xác chăng?

Vệ Luật đày Tô Tử Khanh, Mộng Viêm cầm tù Văn Tống Thụy, việc trước quả

thật đáng sợ! Tuy nhiên, đạo trời đất, nghĩa vua tôi, bậc cha, bậc thầy đã

truyền, con em, học trò đã học, lẽ nào có thể coi thường được chăng?” Bèn

chép ra đệ trình, xin huynh ông phủ chính cho:

Đọc xong bức thư của bác, lòng như có muôn vạn đợt sóng

cuộn,

Chẳng biết tại sao lại khiến cho người ta ghét.

Tốt, xấu, hay, dở, chẳng phải do ta định,

Lo, vui, tươi, khô, từ xưa đã từng như thế.

Lòng người còn có một điểm thông suốt như sừng con tê,

Há không nhỏ ba thưng nước mắt đối với thế cuộc.

Ý kiến nông cạn của kẻ ốm yếu này chỉ như thế,

Chưa hẳn là biển Đông có chim đại bằng.

Dịch thơ:

Thư đọc, như ngàn lớp sóng dâng,

Thế mà người ghét biết đâu chừng?

Hay, hèn, tốt, xấu, ta chưa quyết,

Tươi, héo, buồn, vui trước đã từng.

Còn có khiếu thiêng, tâm một điểm,

Khôn cầm cuộc thế, lệ ba thưng.

Già này chỉ biết qua như thế,

Chưa chắc vùng Đông có đại bằng.

NGUYỄN VĂN TÚ dịch

Page 280: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Chú thích:

1. Đình nguyên họ Đỗ: Đỗ Huy Liêu, người làng La Ngạn, huyện Đại

An, tinh Nam Định (nay thuộc xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, Nam Hà), đỗ Đình

nguyên khoa Kỷ mão (1879), đời Tự Đức, làm đến chức Hồng lô thiếu khanh,

tham biện nội các, khi Pháp xâm lược, ông từ chức về nhà. Pháp bổ ông làm

chức Bố chính Bắc Ninh, ông gửi thư từ chối.

2. Vệ Luật: người đời Hán Vũ Đế sang sứ Hung Nô rồi đầu hàng và ở

lại; Tô Tử Khanh: Tô Vũ, Tử Khanh là tên tự, cũng sang sứ Hung Nô, không

chịu nghe lời khuyên của Vệ Luật đầu hàng, bị Vệ Luật xui vua Hung Nô đầy

đi chăn dê.

3. Mộng Viêm: Lưu Mộng Viêm, bầy tôi nhà Tống, đầu hàng nhà

Nguyên. Văn Tống Thụy: Văn Thiên Tường, tên tự là Tống Thụy, hiệu là Văn

Sơn, đỗ Trạng nguyên đời Lý Tông nhà Tống, làm chức An phủ sứ ở Giang

Tây. Khi quân Nguyên đánh Tống, Thiên Tường chống cự, thua trận và bị bắt.

Vua Nguyên muốn thu dùng, nhưng ông từ chối, và nói: “Nếu được tha thì xin

về quê hương làm một đạo sĩ”. Lưu Mộng Viêm xui vua Nguyên không nên

tha, vì thế ông bị giữ lại trong tù và sau bị giết.

4. Sừng con linh tê, giữa có lỗ thông suốt từ đầu nọ sang đầu kia, được

ví với sự cảm thông trong tâm con người. Thơ Lý Thương Ẩn đời Đường có

câu: “Tâm hữu linh tê nhất điểm thông” (Trong tâm có một điểm thông suốt

như sừng con linh tê).

5. Đại bằng: xuất phát từ sách Trang Tử, là một loài chim lớn, nương

gió xoáy bay cao chín vạn dặm…, sau chim bằng thường tượng trưng cho

người có chí lớn, những nhân cách vĩ đại, hào hùng.

12.

HẠ NHẬT NGẪU THÀNH

Dư quy ngũ lục tải,

Sở cư thất gian đường.

Page 281: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Tây nam trì thủy thanh,

Phủ kiến ngư dương dương.

Đông bắc ngư trúc đa,

Song khai thần khí lương.

Phù cùng tứ xuất nhập,

Bằng kỷ tùy đê ngang.

Thừa hứng triếp túng ẩm,

Nhất ẩm lũy thập trường.

Thẩn thử tân cốc cam,

Kiêm chi viên thái hương.

Mệnh nhi thủ thư độc,

Du du tư Toại, Hoàng.

(VHv.1864, A.469)

Dịch nghĩa:

NGÀY HÈ, NGẪU THÀNH

Ta về nghỉ đã năm sáu năm,

Nơi ở có ngôi nhà bảy gian.

Phía Tây nam có ao nước trong,

Cúi nhìn cá bơi lội tung tăng.

Phía Đông bắc có bờ tre rậm,

Mở cửa sổ ra, khí trời buổi sáng mát mẻ.

Chống gậy tha hồ đi ra đi vào.

Tựa ghế ngồi, muốn thấp muốn cao tùy ý.

Cao hứng lên rót rượu uống tràn,

Page 282: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Mỗi lần uống hàng mấy chục chén.

Phương chi gạo mới ngon cơm,

Lại thêm rau vườn thơm tho.

Sai con lấy sách ra đọc,

Xa xôi lại nghĩ đến đời Toại Nhân, Hoàng Đế.

Dịch thơ:

Ta về năm sáu năm nay,

Bảy gian nhà ở tháng ngày ung dung.

Tây nam có lạch nước trong,

Cúi xem đàn cá vẫy vùng sớm trưa.

Đông bắc tre mọc đầy bờ,

Rạng ngày hơi mát thoáng đưa song đào.

Nào khi chống gậy ra vào,

Khi ngồi tựa ghế, thấp cao mặc lòng.

Khi vui chuốc chén rượu nồng,

Có khi nào hứng mười chung chẳng từ.

Lại thêm gạo mới ngọt lừ,

Lại thêm rau hái vườn nhà thơm tho.

Gọi con giở sách bi bô,

Xa xôi nhớ đến đời vua Toại, Hoàng.

VŨ MỘNG HÙNG dịch

Chú thích:

1. Toại Nhân và Hoàng Đế là hai vua thời thượng cổ ở Trung Quốc tiêu

biểu cho đời thuần phác.

13.

Page 283: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

SƠ HẠ

Tạc dạ trì biên sinh nộn hà,

Thần song bất giác hạ sơ qua.

Bán không phong dẫn diên ngâm địch,

Kỷ xứ chi tàng ương lộng ca.

Ấp phụ tương tranh ngôn ngữ tục,

Lân quan bất mị tính tình đa.

Du nhiên phù trượng dục thừa hứng,

Mãn nhãn trần nại nhĩ hà?

(A.469)

Dịch nghĩa:

ĐẦU MÙA HẠ

Đêm qua, bên ao búp sen đã nhú,

Buổi sáng bên cửa sổ, không biết đã chớm sang hè.

Lưng trời, gió đưa tiếng sáo diều vẳng tới,

Đây đó, khuất trong cành cây chim chóc ríu ran.

Mấy bà nhà quê cãi nhau, lời qua tiếng lại tục tĩu,

Bác hàng xóm góa vợ không ngủ được, trong lòng bao nỗi ngổn

ngang.

Muốn nhân hứng lâng lâng chống gậy dạo chơi,

Nhưng đầy mắt là bụi bặm, biết làm sao được?

Dịch thơ:

Sen nõn bên ao đêm trước nhú,

Song mai thoắt đã chớm hè sang.

Lưng trời gió vút diều ngân vẳng,

Page 284: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Khắp chốn cành cao chim ríu ran.

Ầm xóm, gái già văng cãi tục,

Rộn lòng trai góa ngủ không an.

Cũng toan chống gậy lần theo hứng,

Trước mắt buồn sao, bụi ngập tràn!

NGÔ LINH NGỌC dịch

14.

HẠ NHẬT TÂN TÌNH

Hỷ đắc tân tình nhất khải phi,

Vân gian dung dự xuất hoàng y.

Lão tàm ái táo, miên tương khởi,

Tân cốc hàm huyên, phúc tiệm phì.

Mục thụ hoành tiên khu độc quá,

Lân ông phù trượng khán điền quy.

Bắt song độc tọa thiêm bôi tửu,

Hà xứ hàn nha triệt đỗ phi.

(A.3160)

Dịch nghĩa:

NGÀY HÈ HỬNG NẮNG

Mừng được trời mới hửng nắng, vội mở cửa ra xem.

Thấy trên mây lững thững hiện ra bóng áo vàng.

Tằm già thích khô ráo, đương ngủ sắp trở dậy,

Lúa mới ngậm hơi ấm, đòng đòng dần dần mẫm ra.

Chú bé chăn trâu cầm ngang chiếc roi xua nghé đi qua,

Page 285: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Ông già bên xóm chống gậy đi thăm ruộng trở về.

Một mình ngồi bên cửa sổ hướng Bắc, lại thêm chén rượu,

Chỉ thấy chiếc quạ từ nơi nào, tha rễ cây bay qua.

Dịch thơ:

Được hôm trời hửng, ngỏ phên che,

Lấp lánh trong mây, bóng ác lòe.

Lúa mới ngậm đòng, càng mập mạp,

Tằm vừa dẫy giấc, đã ngo ngoe.

Gióng trâu chú bé giơ roi thúc,

Thăm ruộng ông bô chống gậy về.

Ngồi tựa bên song, thêm chén rượu,

Quạ đâu tha rác đã bay kia.

ĐỖ NGỌC TOẠI dịch

Chú thích:

1. Áo vàng: chỉ mặt trời.

2. Quạ tha rễ cây (triệt đỗ): thơ Chi hào trong Kinh Thi có câu: “Đại

thiên chi vị âm vũ, triệt bỉ tang đỗ, trù mâu dũ hộ” (Kịp lúc trời chưa mưa dầm,

nhặt rễ cây dâu để buộc cửa sổ).

15.

HẠ NHẬT VÃN DIẾU

Tứ nguyệt sơ hồi thử khí nùng,

Nhất thanh đề điểu lục âm trung.

Gia nhân sái cốc tranh đào vũ,

Phụ nữ đăng tàm nghĩ hộ phong.

Nguyên trấp tham thiên quy diệc vãn,

Page 286: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Vân âm phú nhật ảnh do hồng.

Bách niên dịch dịch thùy vô sự?

Tán phát thừa lương độc nơi ông.

(NKTP)

Dịch nghĩa:

NGẮM CHIỀU HÈ

Mới đầu tháng Tư khí trời đã nóng nực,

Một tiếng chim hót trong lùm cây xanh.

Người nhà phơi lúa tranh nhau chạy mưa,

Đàn bà nuôi tằm tìm cách chắn gió.

Ruộng lầy, người đi làm tham buổi về muộn,

Bóng mây che mặt trời vẫn còn rạng ánh hồng.

Cuộc đời tất cả đều túi bụi, có ai là người rỗi việc?

Xõa tóc hóng mát, chỉ có độc ông lão này.

Dịch thơ:

Tháng Tư chơm chớm đã oi nồng,

Chim hót lùm xanh tiếng lảnh trong.

Con gái chăn tằm lo gió máy,

Người nhà phơi thóc chạy cơn giông.

Ruộng lầy tham buổi người về muộn,

Vầng nhật rờm mây ánh vẫn hồng.

Túi bụi cuộc đời, ai mấy rỗi?

Hong đầu hóng gió một mình ông.

NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

Page 287: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

16.

HẠ NHẬT PHỎNG BIỂU HUYNH ĐẶNG THAI, QUY TÁC

Huề trượng môn la nhiễu kính hành,

Ngẫu nhiên lai phỏng Đặng gia huynh.

Tương khan tu phát thùy vi lão,

Tằng kiến lư diêm bán vị canh.

Ngọa thụ bì ngưu hư thử khí,

Cách trì tiểu khuyển phệ nhân thanh.

Tiêu dao tiếu chỉ thiên công kiện,

Tận nhật đương không nhất địch hoành.

(A.3160, VHv.1864)

Dịch nghĩa:

NGÀY HÈ THĂM ANH BÊN NGOẠI LÀ BÁC ĐẶNG, KHI TRỞ VỀ LÀM THƠ

Chống gậy theo lùm dây leo trước cổng dạo quanh đường hẹp,

Ngẫu nhiên đến thăm nhà bác Đặng.

Nhìn nhau râu tóc, ai là người già hơn?

Từng thấy xóm làng một nửa chưa thay đổi.

Trâu mệt, nằm dưới gốc cây phì hơi nắng,

Con chó nhỏ bên kia ao sủa tiếng người.

Thủng thỉnh cười chỉ ông trời khỏe:

Suốt ngày một cây sáo lơ lửng giữa tầng không.

Tác giả tự dịch:

ĐẾN CHƠI NHÀ BÁC ĐẶNG

Gậy men cỏ rậm dạo đường quai,

Page 288: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Quá bước lên nhà bác Đặng chơi.

Một lũ tóc râu, ai tuổi tác,

Nửa phần làng xóm đã thay dời.

Trâu già gốc bụi phì hơi nắng,

Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người.

Ngửa mặt ông kia chơi mới khỏe,

Suốt hôm một sáo thổi lưng trời.

(A.316,. AB.383, VHv.2381, VHv.1864)

Khảo dị:

a. TVNK: ngõ trúc

b. TVNK: đều

c. A.3160: Trâu bò gốc bụi phì hơi chủ.

Chú thích:

1. Bác Đặng: Đặng Tự Ý, anh con cậu ruột Nguyễn Khuyến, ở thôn Vị

Thượng (nhà thơ ở thôn Vị Hạ).

2. Thiên công (ông kia) và sáo: lấy ý từ sách Trang Tử, sáo của ông trời

(thiên lại) nghĩa là gió.

17.

ĐIỀN CIA TỰ THUẬT

Thượng hoàng băng nãi lão,

Hất kim lịch ngũ khảo.

Nhàn cư sỉ tố xan,

Nhi thực diệc cầu bão.

Sở dĩ điền nhĩ điền,

Duy thị bảo ngô bảo.

Page 289: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Thâm canh dĩ khởi thổ,

Dị nậu dĩ trừ thảo.

Phấn chi trạch như cao

Vân chi tịch như tảo

Trú dạ bất hoàng hưu,

Tâm lực nô di xảo.

Do lự thiên vũ lâm,

Do lự hà thủy tảo.

Phát bao úy phong nghịch,

Lập miêu khủng hạn cảo.

Hạnh nhi tuế tự điều,

Phương vọng tân cốc hảo.

An tri tân cốc hảo,

Hựu vị thạc thử giảo.

Miễn tai tận đương vi!

Cơ hàn bất khả bảo.

(A.469)

Dịch nghĩa:

NHÀ NÔNG TỰ THUẬT

Vua cha băng hà thì ta cáo lão,

Tới nay đã trải năm lần xét công.

Ở rỗi thì xấu hổ về nỗi ngồi ăn không,

Mà ăn cũng cần được no bụng.

Cho nên ngươi cày ruộng của nhà,

Page 290: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Chỉ là báu cái báu vật của mình.

Cày sâu để xới đất,

Bừa nhẹ để trừ cỏ.

Bón phân cho đất phì nhiêu màu mỡ,

Làm cỏ cho đất sạch như quét.

Ngày đêm không kịp nghỉ ngơi,

Tâm lực khôn khéo bao nhiêu dốc ra hết.

Còn lo nỗi trời mưa dầm,

Còn lo nỗi nước sông lên sớm.

Lúa trổ đòng sợ gặp gió trái,

Khi đâm bông sợ bị nắng khô.

May mà được tiết trời điều hòa,

Mới mong lúa mới được tốt.

Nào hay lúa mới tốt,

Lại bị nạn chuột cắn.

Ôi, cố gắng làm hết phận sự mình,

Vẫn khó mà giữ được khỏi đói rét.

Dịch thơ:

Vua cha mất, ta về,

Đã mười lăm năm trót.

Thẹn ở nể ăn không,

Nhưng cũng cần no ruột.

Nên ruộng ta ta cày,

Mà của ta ta xót.

Page 291: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Cày sâu đất mới tơi,

Bừa kỹ, cỏ không sót.

Bón vào đất thêm màu,

Cào rồi, sạch như chuốt.

Đêm ngày không nghỉ ngơi,

Tâm hao lực cũng sút.

Còn sợ trời mưa dầm,

Còn ghê sông nước lụt.

Trổ đòng ngại gió lay,

Đứng bông e nắng đốt.

Quanh năm may thuận thời,

Mới mong mùa lúa tốt.

Nào ngờ lúa vừa tốt,

Lại mắc ngay nạn chuột.

Việc làm nên gắng lên,

Đói rét chưa hòng thoát!

KHƯƠNG HỮU DỤNG dịch

Chú thích:

1. Nhắc việc vua Kiến Phúc mất (31–VII–1884), cũng năm ấy nhà thơ

về hưu.

2. Năm lần xét công (ngũ khảo): Thiên Thuấn điển trong Kinh Thư nói:

“Tam tải khảo tích, tam khải truất trắc u minh – Chú: Tam khảo cửu tải dã” (Ba

năm một lần xét công bề tôi, ba lần xét, thăng chức người tốt, giáng chức

người xấu). Đây nói năm lần xét công, ý nói mười lăm năm.

18.

Page 292: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

ĐIỀN GIA TỨC SỰ NGÂM

Cách gia điền xá ông,

Gia trung phu, phụ, tử.

Kỳ tử ngai thả si,

Kỳ phụ ngao nhi chí.

Chung nhật vô dụng tâm,

Duy kỳ lợi thị thị.

Kỳ ông lực câu hác,

Dĩ cung phụ, tử nhĩ.

Nhất nhật điền gia hồi,

Phụ nhân bất đắc ý,

Chấp trượng trượng kỳ phu,

Phu cụ tẩu lân lý.

Chấp trượng phụ trục chi,

Đông tây vô bất chí.

Tử kiến tâm mang nhiên,

Đoạt trượng cập mẫu tý.

Mẫu thống vô nại hà,

Xả phu nhi chi tử.

Chấp tử khiên tử quy,

Cáo sư thỉnh sư trị.

Sư chất tận điên mạt,

Đồ tiếu nan phân thị.

Ai tai nhất gia trung!

Page 293: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Hà dĩ chí như thử?

Phụ tử, phu phụ gian,

Khởi bất thức luân lý.

Chỉ vị y thực mưu,

Sở dĩ sinh đố kỵ.

(NKTP)

Dịch nghĩa:

CHUYỆN NHÀ NGƯỜI NÔNG PHU

Hàng xóm có một nhà làm ruộng,

Nhà gồm có chồng, vợ và con.

Con thì vừa ngốc vừa ngây,

Vợ đã lắm mồm lại còn ác.

Cả ngày không chú ý làm ăn,

Chỉ nhăm nhăm vào điều lợi.

Chồng ra sức lặn lội trong lạch ngoài ngòi,

Để kiếm cái ăn cho vợ, cho con.

Một hôm, chồng ở ngoài ruộng về,

Chị vợ có điều không vừa ý,

Liền vác gậy đánh người chồng,

Chồng sợ, chạy sang hàng xóm.

Vợ cầm gậy đuổi theo,

Không đâu là không sục tới.

Con thấy thế, vội vã,

Giật gậy phang vào tay mẹ.

Page 294: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Mẹ đau, không biết làm thế nào,

Buông chồng mà đuổi theo con.

Bắt lấy con dắt về,

Mách với thầy, nhờ thầy trị tội.

Thầy hỏi hết đầu đuôi,

Chỉ cười mà khó bề phân xử.

Thương thay, trong một nhà!

Làm sao lại đến nỗi thế?

Giữa cha con, vợ chồng,

Họ há không biết gì đạo lý,

Chỉ vì chuyện áo cơm,

Mà sinh ra ghét bỏ nhau.

Dịch thơ:

Xóm có nhà nông phu,

Gồm chồng con và vợ.

Con vừa ngốc vừa ngây,

Vợ ác, lắm mồm nữa.

Làm lụng chẳng lo chi,

Chuyên tính chuyện lời lỗ.

Chồng lặn lội kiếm mồi,

Vê nuôi con và vợ.

Một hôm ở đồng về,

Vợ có điều phẫn nộ,

Vác gậy đánh luôn chồng,

Page 295: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Chồng bỏ chạy vì sợ.

Vợ cầm gậy đuổi theo,

Sục tìm khắp mọi chỗ,

Con giằng gậy trên tay,

Đánh mẹ, gỡ cho bố.

Vợ ức thôi tìm chồng,

Quay đuổi con hùng hổ.

Tóm con về mách thầy,

Cà kê nhờ trị hộ,

Thầy hỏi hết đầu đuôi,

Chỉ cười, xử cũng khó!

Thương thay trong một nhà,

Sao đến như thế nọ?

Đâu họ chẳng biết gì,

Nghĩa mẹ con, chồng vợ,

Vì cái mặc, miếng ăn,

Mà sinh ra ghét bỏ.

NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch

19.

ĐẢO VŨ

Nghinh thần dĩ tam nhật,

Bất vũ thần hựu quy.

Tiền giả trương thúy cái,

Hậu giả phụng minh ty.

Page 296: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Dân nộ trách chư thần:

“Thần phi dân hà y?

Bất vũ hà bất cáo,

Sử dân lao thả ky?”

Thần viết: “Lai nhữ dân:

Thử phi ngã sở tri!

Ngô duy thị ẩm thực,

Vũ phi ngô năng vi”.

Thần kim thả như thử,

Ư dân phục hề nghi?

(A.469)

Dịch nghĩa:

CẦU MƯA

Rước thần đến đã ba ngày rồi,

Không thấy mưa lại rước thần về.

Người đàng trước giương lọng xanh,

Kẻ đàng sau đội xôi trắng.

Dân giận mới trách thần rằng:

“Nếu không có dân thì thần nương tựa vào ai?

Không có mưa, sao thần không kêu cầu cho,

Khiến dân vừa vất vả vừa đói?”

Thần rằng: “Dân ơi, lại đây ta bảo:

Việc ấy ta không được biết!

Ta chỉ thích ăn uống thôi,

Page 297: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Còn mưa thì ta không làm được”.

Thần ngày nay còn như thế,

Thì dân khổ còn nghi ngờ gì nữa?

Dịch thơ:

Rước thần đến từ ba hôm trước

Trời không mưa lại rước thần về.

Kẻ hầu người hạ đủ bề,

Trước giương tàn lọng, sau kề mâm xôi.

Dân nổi giận ngỏ lời trách móc:

“Thần không dân, lấy cóc ai thờ!

Không mưa sao cứ hững hờ,

Để dân đói khổ biết nhờ cậy ai?”

- “Này dân hỡi! Lại đây ta nhủ:

Mưa hay không ta có biết đâu!

Việc ta ăn uống là đầu,

Làm mưa, nào có quyền nào ở ta?”

Thần nay mà đến thế a?

Trách nào dân khổ còn ngờ nỗi chi?

NGUYỄN VĂN TÚ dịch

Bản dịch khác:

Ba ngày rước thần đến,

Không mưa lại rước về.

Người trước giương lọng thúy,

Mâm xôi người sau bê.

Page 298: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Dân giận, trách thần hoài:

“Không dân thần dựa ai?

Không mưa sao chẳng giúp

Để dân đói mệt nhoài?”

Thần đáp: “Bớ dân bay!

Việc đó ta nào hay.

Ta chỉ biết ăn nhậu,

Mưa, sức đâu lão này

Thần đời nay là lứa,

Dân khổ ngờ chi nữa!

HUỆ CHI dịch

Chú thích:

1. Cầu mưa: Thời trước, hễ đại hạn thì dân rước các thần đến một nơi,

tế lễ cầu mưa, gọi là đảo vũ.

20.

TIỄN MÔN ĐỆ NGHĨA ĐỊNH SỨ QUÂN LÊ NHƯ BẠCH, NHÂN KÝ KINH THÀNH CHƯ MÔN ĐỆ

I

Biệt tử đô môn kim thất niên,

Quy lai ngã diệc quyển thanh chiên.

Mộng trung thân thế cơ vi điệp,

Loạn hậu văn chương bất trị tiền!

Phong vũ tu đồ năng đáo thử,

Sơn hà vãng sự nhất thê nhiên.

Minh triêu hựu thị giang kiều lộ,

Page 299: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Bại nhứ tàn vân thất nguyệt thiên.

II

Nhất biệt đô môn tuế thất chu,

Phùng quân cánh ức cựu tòng du.

Dao dao quan tái kim hà tịch,

Lạc lạc phong trần các nhất châu.

Bút nghiễn trầm tư ưng hữu lệ,

Sơn hà cử mục bất thăng thu.

Quân quy ký ngữ tương tri giả,

Huyền Án tiên sinh dĩ bạch đầu!

(A.469, A.3160)

Dịch nghĩa:

TIỄN HỌC TRÒ LÀ NGHĨA ĐỊNH SỨ QUÂN LÊ NHƯ BẠCH, NHÂN TIỆN GỬI CÁC HỌC TRÒ Ở KINH THÀNH

I

Từ biệt anh ở cửa kinh thành đến nay đã bảy năm,

Trở về nhà ta cũng cuốn tấm đệm xanh từ đấy.

Nghĩ thân thế chỉ như việc hóa thành con bướm trong giấc mộng,

Xem ra văn chương sau buổi loạn rẻ rúng không đáng tiền.

Đường dài mưa gió, anh đã có thể đến được đây,

Chuyện đã qua của non sông, tất cả đều đáng buồn.

Sớm mai, anh lại lên đường, qua sông qua cầu,

Giữa tiết trời tháng Bảy, mây tan, bông bay xơ xác!

II

Từ biệt cửa kinh đô chốc đã bảy năm,

Page 300: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Gặp anh, lại nhớ những người theo học cũ.

Quan ải xa xăm, ngờ đâu đêm nay lại gặp,

Gió bụi mịt mờ, mỗi người một nơi.

Ngẫm nghĩ đến bút nghiên, đáng tràn nước mắt,

Ngước nhìn sông núi, khôn xiết buồn đau.

Anh về, ta gửi lời tới những người quen biết,

Rằng: Huyền Án tiên sinh đã bạc đầu rồi!

Dịch thơ:

I

Chia tay cửa khuyết bảy năm qua,

Xếp tấm mền xanh lão lại nhà.

Thân thế giấc mơ thành bướm hẳn?

Văn chương thời loạn dáng tiền chưa?

Gió mưa chẳng quản xa xôi đến,

Non nước thêm buồn biến cố xưa.

Mai lại trên đường sông nước cách,

Trời thu tan tác bóng mây thưa!

II

Cửa khuyết xa nhau chốc bảy thu,

Gặp anh nhớ lại bạn tòng du.

Quan sơn nào hẹn ngày gần gũi,

Gió bụi đôi nơi cảnh dãi dầu.

Nghiên bút chạnh lòng dường khóc dở,

Non sông trước mắt có vui đâu?

Page 301: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Ai về nhắn nhủ người quen biết:

Huyền Án tiên sinh đã bạc đầu!

NGUYỄN VĂN TÚ dịch

Khảo dị:

a. A.469: Lê Bạch Như

b. A.3160: nhiên

c. A.3160: tùy

Chú thích:

1. Đệm xanh: theo sách Tấn Thư, Vương Hiến Chi đang đêm thấy trộm

vào nhà vơ vét đồ vật, lấy cả chiếc nệm xanh lâu đời của nhà ông. Ông liền

quát: “Chiếc nệm xanh là vật cũ của nhà ta, để lại cho ta!”. Kẻ trộm sợ, chạy

mất. Ở đây, tác giả dùng điển này để chỉ sự dạy học.

2.Lấy điển ở sách Trang Tử: Trang tử nằm mơ thấy mình hóa ra con

bướm bay lượn nhởn nhơ lấy làm thích, nhưng khi tỉnh dậy lại thấy rõ ràng là

Trang Chu, ông cứ băn nhuận: không biết Chu nằm mơ hóa ra con bướm hay

bướm nằm mơ hóa ra Trang Chu. Dùng điển này tác giả muốn nới cuộc đời là

biến ảo, chỉ như giấc mộng.

3. Hoàng Phủ Bật là ẩn sĩ đời Tấn. Vua Tấn vời ra làm quan nhlều lần

nhưng ông không ra, suốt đời ở ẩn, tự đặt hiệu là Huyền Án tiên sinh. Một

nhà thơ đời Đường đã làm thơ khen ông:

Huyền Án tiên sinh dĩ bạch đầu,

Bất tùy uyên lộ hiệp quần âu.

(Huyền Án tiên sinh đã bạc đầu,

Không theo le vịt, bạn đàn âu).

21.

NGÔ HUYỆN LÃO SƠN

Page 302: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Ngô bình nhật vị thường nhất đăng, xuân tiền Các lão Nguyễn ông ước

dư đồng vãng, nhân dĩ sụ khiên bất quả, thử tôm thù uất uất dã. Quy nhi

phỏng chi, tắc sơn thượng duy hữu nhất thạch, phương như kỳ bàn, hiệu viết

Tiên kỳ, kim mục đồng đa dĩ hu bồ vi hí. Tây bắc hữu nhất tỉnh, hiệu viết Tiên

tỉnh, tưởng truyền thâm chí giang để, chí kim tiệm tắc. Thử ngoại biệt vô kỳ

hoa dị hủy, diệc vô áo quán lương am. Thời phương thịnh hạ, thị dĩ bất cảm

tái đính. Tạc lai phỏng ông, thích kiến Bùi sứ quân thoại vị: sở đắc tân dạng

Dương bố, hậu khả dĩ khước hàn, sơ khả dĩ nghinh lương, thái bất hỗn liệt,

thị hữu văn dã, khoáng bất lộ thể, thị hữu lễ dã; tương chế vi nhị phục dĩ tặng

ngô nhị nhân. Mỗ văn chi triết. “Khoái tai tư y, đăng tư sơn diệc khả dĩ tự thích

hĩ”. Nhân phú thi dĩ trình..

Cử mục giang sơn hứng tự hào,

Du nhiên thần vãng bất tri lao.

Thử trung giai hứng chính kham thưởng,

Nhất nhật trần tâm khước vị đào.

Ly tác kỷ niên sầu độc tọa,

Bồi hồi cựu lộ úy đăng cao.

Chỉ kim thử hứng năng như nguyện,

Vị hữu Bùi quân đính tặng bào.

(A.469, TVNK)

Dịch nghĩa:

NÚI AN LÃO HUYỆN TA

Trước nay ta chưa lên núi lần nào, mùa xuân vừa rồi, ông Các lão họ

Nguyễn hẹn ta cùng đi thăm núi, rồi nhân bận việc không đi được, vẫn áy náy

trong lòng. Khi về hỏi thăm, thì ra trên núi ấy chỉ có một hòn đá vuông như

bàn cờ, gọi là bàn cờ Tiên, ngày nay trẻ chăn trâu thường lấy đó làm chỗ chơi

xúc xắc. Phía Tây bắc có cái giếng gọi là giếng Tiên, tương truyền sâu tới đáy

sông, nay đã bị lấp dần. Ngoài ra không có một thứ hoa boa thơm cỏ lạ nào,

Page 303: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

cũng không có am quán để ngồi ấm hay hóng mát gì cả. Lúc đó đang giữa

mùa hè cho nên không dám hẹn lại một ngày khác. Bữa nọ đến thăm ông,

chợt gặp Bùi sứ quân nói chuyện có kiếm được một thứ vải Tây kiểu mới,

dày, có thể chống rét, thưa, có thể hóng mát, hoa dệt thành hàng rành rọt, đó

là có văn; thoáng mát mà không lộ liễu, đó là có lễ; ông sắp đem may làm hai

cái áo để tặng hai chúng tôi. Tôi nghe chuyện liền nói: “Có áo như thế thật là

khoái! Người mặc để lên núi này có thể thảnh thơi tự thỏa được”. Nhân làm

thơ trình như sau:

Ngước mắt nhìn non sông tự thấy hào hứng,

Tinh thần phơi phới lên chơi chẳng biết mệt.

Trong đó hứng thú tốt lành đáng được thưởng thức,

Chốc lát lòng trần chưa rửa sạch được.

Mấy năm nay xa cách bạn bè riêng buồn ngồi một mình,

Lại chỉ loanh quanh trên con đường cũ, ngại lên cao.

Ngày nay hứng thú ấy được thỏa mãn,

Là vì có bác Bùi hứa hẹn cho áo.

Tác giả tự dịch:

Liếc mắt non xanh hứng chợt đầy,

Hồn chơi phơi phới đã như bay.

Đìu hiu cảnh quạnh dừng nên thưởng,

Tí tẻo lòng trần vẫn chửa khuây.

Người cũ xa xăm thương bóng chiếc,

Bước xưa ngất ngưởng ngại chân giầy.

Cữ này sắm sửa đi chơi được,

Quan Án người toan gửi áo đây.

(A.469,TVNK)

Page 304: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Khảo dị:

a. A.469: không có mấy chữ “hiệu viết Tiên kỳ” và “hiệu viết Tiên tỉnh”

b. A.469: không có chữ này

c. A.469: sơ

d. A.469: không có chữ này.

Đ. NKTP: phiến.

Chú thích:

1. Núi An Lão ở thôn An Lão, xà Quế Sơn thuộc huyện Bình Lục (Hà

Nam, nay là tỉnh Nam Hà). Núi này còn có tên là Quế Sơn.

2. Tức Bùi Văn Dị, hiệu là Ân Niên, người Châu Cầu, bạn thân của tác

giả:

22

ỨC LONG ĐỘI SƠN

I

Nhị thập niên tiền phỏng thượng phương,

Thử thời cảnh sắc vị tương vương.

Bán không tĩnh phạn dao tinh nhật,

Lịch đại tàn bi chứng hải tang.

Bình dã thiên thôn tam diện hợp,

Không sơn vạn Phật nhất tăng tàng.

Chí kim do ức trường giang cấp,

Nhật dạ bôn đào diệc đáo dương.

II

Cận lai suy bệnh bất tham thiền,

Hồi ức tiền du diệc sảng nhiên.

Page 305: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Cổ tự tứ lân duy mộc thạch,

Hàn tăng nhất tháp cộng vân yên.

Kỷ tằng trúc ảnh nghi vô lộ,

Hữu khách tang gian lập đãi thuyền.

Dã lão vị tri chung hưởng ngọ,

Phóng ngưu sơn lộc ngọa tùng miên.

(A.469)

Dịch nghĩa:

NHỚ NÚI LONG ĐỘI

I

Trước đây hai mươi năm, đã từng lên thăm cảnh Phật,

Cảnh sắc lúc ấy nay vẫn chưa quên.

Chùa vắng ở lưng chừng trời, lấp lánh những vì tinh tú,

Bia tàn trải bao triều đại, làm chứng cho cuộc bể dâu.

Nghìn thôn nơi đồng bằng, ba mặt chầu lại,

Muôn vị Phật trên núi vắng, ẩn náu một nhà sư.

Đến nay lòng còn ngậm ngùi về sông dài chảy xiết,

Đêm ngày cuồn cuộn rồi cũng tuôn về bể.

II

Ít lâu nay đau yếu không lên thăm cảnh chùa,

Nhớ lại cuộc chơi trước, lòng cũng bùi ngùi.

Chùa cổ bốn bên chỉ có cây và đá,

Sư nghèo một giường cùng khói với mây.

Mấy tầng bóng tre, tưởng như không có lối đi,

Page 306: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Giữa bãi dâu, khách đứng đợi thuyền.

Ông già quê chưa biết chuông trưa đã đổ,

Thả trâu bên sườn non, nằm ngủ dưới gốc thông.

Tác giả tự dịch:

I

Hai mươi năm cũ đã lên đây,

Phong cảnh nhà chiền vẫn chửa khuây.

Chiếc bóng lưng trời am các quạnh,

Mảnh bia thuở trước bể dâu đầy.

Li ti nghìn xóm quanh ba mặt,

Lố nhố muôn ông lẩn một thầy.

Nghĩ lại bực cho dòng nước chảy,

Đi đâu mà chảy cả đêm ngày?

II

Già yếu xa xôi mấy độ nay,

Làng chơi loáng thoáng lại buồn thay.

Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá,

Sư cụ nằm chung với khói mây.

Dặm thế ngõ đâu tầng trúc ấy,

Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?

Chuông trưa vẳng tiếng người không biết,

Trâu thả sườn non ngủ gốc cây.

(A.469, VHv.2381)

Khảo dị:

Page 307: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

a. TVNK, NKTP: lại

b. VHv.2381, A.469: chạy

Chú thích:

1. Núi Long Đội: núi Đọi, một thắng cảnh ở xã Long Đội, huyện Duy

Tiên, Nam Hà. Trên núi có chùa Đọi, ngôi chùa được xây dựng từ đời Lý, hiện

còn tấm bia Long Đội Sơn tự Sùng Thiện Diên Linh bảo tháp bi, được khắc

năm Tân sửu (1121) đời Lý Nhân Tông. Giặc Minh sang xâm lược, đốt chùa,

lật đổ bia. Năm Quang Thuận thứ 8 (1467), Lê Thánh Tông lên núi chơi có

làm một bài thơ cảm tác khắc vào mặt sau.

TVNK ghi hai đầu đề Nôm của tác giả là Chơi núi Long Đội(I) và Nhớ

núi Đọi (II), nhưng trong nguyên bản chữ Nôm chúng tôi không thấy có hai

đầu đề này.

2. Ý nói tấm bia đã trải qua nhiều năm tháng, bị lật đổ rồi được dựng

lại…, như chứng tích của những cuộc bể dâu.

3. Sông dài chảy xiết: chỉ sông Nhị Hà, chảy qua gần núi Đọi.

23

TRUNG THU VÔ NGUYỆT, TAM NHẬT HẬU HỐT NHIÊN TÌNH, CẢM TÁC

Bình dã dĩ vô sơn thủy du,

Kiêm chi sắt sắt Tây phong sầu.

Bất tri hà xứ ẩn minh nguyệt,

Nãi sử thử ông tao bạch đầu.

Thóa mạ văn chương thành biến nhã,

Tiêu điều cảnh sắc nhập thanh thu.

Hốt nhiên nghiễn xuất âm vân tán,

Trúc ảnh hoành can nhất tiểu chu.

Page 308: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(TVNK, A.3160)

Dịch nghĩa:

TẾT TRUNG THU KHÔNG CÓ TRĂNG, BA NGÀY SAU BỖNG NHIÊN TRỜI TẠNH, CẢM TÁC

Ở đồng bằng đã không có núi sông để du ngoạn,

Lại thêm gió Tây hiu hắt làm cho người ta buồn.

Không biết trăng sáng ẩn náu ở nơi nào,

Khiến cho ông già này chỉ gãi mái đầu bạc.

Văn chương mỉa mai thành ra thể biến nhã,

Cảnh tượng tiêu điều hòa vào sắc thu trong.

Bỗng nhiên mây đen tan đi trời lại sáng,

Trong bóng trúc một con thuyền nhỏ gác ngang cây sào

Dịch thơ:

Đồng quê sông núi có gì dâu,

Heo hắt hơi may lại gợi sầu.

Chẳng biết dì trăng đâu nấp bóng,

Để cho ông lão những vò đầu.

Văn chương mai mỉa đều thay giọng,

Phong cảnh đìu hiu đã nhuốm thu.

Bỗng thấy mây tan trời lại sáng,

Bóng tre thấp thoáng chiếc thuyền câu.

ĐỖ NGỌC TOẠI dịch

Khảo dị:

a. A.3160: kiêm kiêm

b. TVNK: Lai

Page 309: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

c. A.3160: kiến

Chú thích:

1. Biến nhã: nhã là một thể thơ trong Kinh Thi, được dùng với nhạc để

hát trong các buổi lễ hoặc hát cho vua nghe ở triều đình. Nói chung nhã có

nội dung ngợi ca, nhưng từ khi chính sự nhà Chu nhiều sai lầm, các bài thơ

này có nội dung phê phán, tố cáo nên gọi là biến nhã.

24.

HOÀN KIẾM HỒ

Bất đáo Kiếm hồ tam thập niên,

Đương thời cảnh sắc dĩ mang nhiên.

Hành mao hà xứ khởi lâu các,

Già pháo dạ thanh vô quản huyền.

Huyền điểu quy lai mê cựu kính,

Bạch âu mộ hạ túc hàn yên.

Khả liên ngũ bách văn chương địa,

Thượng hữu cô sơn thạch nhất quyền.

(A.3160)

Dịch nghĩa:

HỒ HOÀN KIẾM

Đã ba mươi năm không đến hồ Hoàn Kiếm,

Cảnh sắc thời ấy nay đã mờ mịt.

Những nơi nhà tranh cổng trống đều thành lâu đài,

Ban đêm chỉ nghe tiếng súng, tiếng kèn, không thấy đàn sáo.

Chim én tìm về quên cả lối cũ,

Âu trắng tối đến ngủ trong khói sương.

Page 310: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Đáng thương mảnh đất văn vật năm trăm năm trước.

Chỉ còn một hòn núi đá nhỏ như nắm tay trơ trọi.

Dịch thơ:

Ba chục năm trời cảnh vắng ta,

Hồ Gươm dấu cũ đã phai nhòa.

Tranh tre khắp chốn thành lầu gác,

Kèn súng thâu đêm, bặt trúc tơ.

Chiếc én tìm về quên lối cũ,

Đàn cò tối đậu lẫn sương mờ.

Năm trăm năm cũ nơi văn vật,

Còn sót hòn non một nắm trơ!

LÊ TƯ THỤC, NGUYỄN VĂN TÚ dịch

Chú thích:

1. Câu này có lẽ tác giả muốn nói về thời gian từ khi ông thi Hương ở

trường Hà Nội (1864) đến lúc làm bài thơ này.

2. Câu này có lẽ tác giả chỉ muốn nhắc đến chuyện Lê Lợi trả gươm

trên hồ Hoàn Kiếm (thế kỷ XV).

25.

QUÁ QUẬN CÔNG HỮU ĐỘ SINH TỪ HỮU CẢM

Lâu đài thử địa hà nguy nguy!

Đệ nhất quận công chi sinh từ.

Công tại, tứ thời tập quan đới,

Đắc dự giả hỉ, bất dự bi.

Công khứ, quan đới bất phục tập,

Hương hỏa tịch tịch, hòa ly ly.

Page 311: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Đãn kiến đệ nhị vô danh công,

Triêu tịch huề trượng lai vu ty.

Trần gian hưng phế đẳng nhàn sự,

Bất tri cửu kinh thùy dữ quy?

(A.3160)

Dịch nghĩa:

CẢM NGHĨ LÚC QUA SINH TỪ QUẬN CÔNG [NGUYỄN] HỮU ĐỘ

Lâu đài chốn này nguy nga biết chừng nào!

Đó là sinh từ của ông “thứ nhất quận công”.

Khi ông còn thì áo mũ, cân đai bốn mùa tấp nập,

Kẻ được dự vào đó thì mừng, kẻ không được dự thì buồn.

Sau khi ông mất, không thấy mũ áo xúm xít lại nữa,

Hương lửa vắng tanh, lúa mọc rườm rà.

Chỉ thấy có ông “thứ nhì không tên”,

Sớm sớm chiều chiều chống gậy vào ngôi nhà ấy.

Ở đời có lúc thịnh lúc suy, đó là việc thường,

Không biết dưới chín suối bây giờ ai về cùng ông?

Dịch thơ:

Đền miếu thờ ai lộng lẫy thay!

Thờ ông thứ nhất quận công đây!

Ông còn, mũ áo hàng năm họp,

Không được dự buồn, được dự may.

Ông mất, mũ áo không họp nữa,

Lửa hương lạnh ngắt, lúa mọc đầy.

Page 312: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Có ông “thứ nhì không tên” đến,

Sớm hôm chống gậy vào chốn này.

Trên đời suy thịnh thường như vậy,

Biết nơi chín suối ông theo ai?

NGUYỄN VĂN TÚ dịch

Chú thích:

1. Nguyễn Hữu Độ người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, đỗ Cử nhân

khoa Đinh mão (1867) đời Tự Đức, làm đến chức Khâm sai Bắc Kỳ Kinh lược

đại sứ sung Phụ chính đại thần, cộng tác tích cực với người Pháp khi Pháp

mới xâm lược nước ta.

2,3. Tục ngữ có câu: “Thứ nhất Quận công, thứ nhì không lều”, “không

lều” là người đi ăn xin, ở đây tác giả đổi làm “không tên” để ngụ ý kín đáo.

26.

LỮ THẤN KHỐC NỘI

Tương kỳ giai lão, lão vô duyên,

Nhất biệt du niên, tiện bách niên.

Chiêu nhĩ hồn hề, lai thử tá?

Viết dư đỗng hỹ, vị thùy liên?

Bội, Dung nhi hạ phong tư biến,

Tần, Hán chi gian lễ tắc nhiên.

Văn phó bất thăng suy bệnh cửu,

Lữ phần thanh thảo dĩ thiên thiên.

(A.469)

Dịch nghĩa:

KHÓC VỢ CHÔN NƠI ĐẤT KHÁCH

Page 313: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Hẹn cùng nhau sống đến già, già lại vô duyên,

Xa nhau hơn một năm, mà thành trăm năm.

Chiêu hồn bà về, có về đây chăng?

Ta khóc nức nở, đau xót vì ai?

Từ Bội phong, Dung phong trở xuống, Quốc phong đã biến,

Trong khoảng giữa nhà Tần, nhà Hán, lễ giáo thế thôi.

Đau yếu đã lâu nghe tin buồn khôn xiết,

Nấm mồ đất khách, cỏ đã xanh rì.

Dịch thơ:

Đầu bạc cùng nhau, hẹn đã lầm,

Hơn năm xa cách hóa trăm năm.

Hồn ơi! gọi có về chăng tá?

Mình nhỉ! Thương ai phải xót thầm!

Thơ dưới Bội, Dung, tình đó đổi,

Đời dù Tần, Hán, lễ còn chăm.

Tin buồn dằn vặt thân già ốm,

Nấm mộ quê người bóng cỏ râm.

HOÀNG TẠO dịch

Chú thích:

1. Nguyễn Khuyến có năm vợ, theo NKTP ở đây có lẽ tác giả khóc bà

vợ thứ hai, tức bà Nguyễn Thị Thục.

2. Bội và Dung là hai nước chư hầu đời nhà Chu. Kinh Thi chép: đọc

đến Bội phong, Dung phong thì thấy Quốc phong đã một lần thay đổi.

Page 314: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

3. Nhà Tần đốt sách, chôn học trò, không dùng đạo Nho. Đến nhà Hán,

lễ giáo vẫn chưa được phục hồi như thời trước nhà Tần. Cho nên khoảng

cách giữa Tần và Hán về lễ giáo chưa có gì rõ ràng.

27.

ĐIỆU NỘI

Cân trất truy tùy ngũ thập niên,

Ỷ hòe nhất mộng dĩ thành miên.

Bạch câu hốt hốt hữu như thị,

Thanh trủng luy luy thùy bất nhiên.

Tĩnh thổ an tri phi nhĩ lạc,

Trần đồ vị tất vọng nhân liên.

Nhược giao ngã thọ như Bành Tổ,

Bát bách xuân thu kỷ khấp huyền.

(A,469)

Dịch nghĩa:

KHÓC VỢ

Khăn lược theo nhau đã năm mươi năm,

Một giấc mộng tựa cây hòe đã thành giấc ngủ dài.

Bóng câu trắng vùn vụt, nhanh như thế đó!

Mồ xanh ngổn ngang, ai rồi cũng vậy mà.

Tĩnh thổ, biết đâu chẳng là nơi mình vui,

Đường trần gian chưa chắc đã mong người khác thương.

Nếu để tôi sống lâu được như ông Bành Tổ,

Thì tám trăm năm, biết bao lần phải khóc vợ.

Dịch thơ:

Page 315: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Sống chung năm chục năm trời,

Gốc hòe một giấc, kéo dài ngàn thu.

Bóng câu thấp thoáng thế dư?

Lô nhô đám mộ có chừa riêng ai?

Biết dâu cõi bụt chẳng vui,

Đường trần chi phải mong ai thương mình.

Nếu ta sống tựa ông Bành,

Tám trăm năm ấy, khóc tình bao phen.

ĐỖ NGỌC TOẠI dịch

Chú thích:

1. Căn cứ theo câu này thì đây là bài thơ khóc bà vợ cả, lấy từ năm

mười tám tuổi.

2. Giấc mộng tựa cây hòe: theo sách Nam Kha ký của Lý Công Tá đời

Đường: ở phía Nam nhà Thuần Vu Phần có cây hòe cổ thụ. Một hôm, Phần

uống rượu say nằm dưới gốc hòe ngủ, mơ thấy đi đến nước Hòe An, lấy vợ

là công chúa con vua nước ấy, rồi được làm Thái thú quận nam Kha, sinh

nhiều con, cả nhà vinh hiển. Sau khi đánh giặc bị thua, công chúa chết, Phần

cũng mất chức về nhà. Lúc tỉnh dậy, tìm dưới gốc cây hòe thấy có cái tổ kiến,

mới hiểu rằng quận Nam Kha trong mộng tức là cành hòe phía Nam trên tổ

kiến vậy. Điển này thường dùng đề nói cảnh vinh hoa phú quý ở đời mơ hồ

như giấc mộng.

3. Bóng câu trắng: tức một thoáng chốc.

4. Tĩnh thổ: nơi các vị Phật ở. Ý nói khi chết đi về cõi Phật biết đâu

không phải là cảnh vui.

5. Bành Tổ: người sống tám trăm năm, 49 lần góa vợ (theo Thần tiên

truyện).

Page 316: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

6. Khóc Vợ: nguyên văn “khốc huyền”. Ở đây tác giả dùng chữ “huyền”

là treo, đồng âm với chữ “huyền” là dây đàn trong từ “tục huyền” (lấy vợ kế).

28.

THOẠI TĂNG

Thiếu thời ngã học tử gia biên,

Ngã vị vi quan tử vị Thiền.

Tự tử vân du ngã quan khứ,

Thử gian tiêu tức lưỡng mang nhiên.

Bất tri xa lạp kim hà tịch,

Dĩ thị phong trần nhị thập niên.

Ngã dĩ từ quan hựu cấu tử,

Khán lai câu vị tĩnh trần duyên.

(A.3160. A.469)

Dịch nghĩa:

NÓI CHUYỆN VỚI SƯ

Khi còn trẻ tôi học ở gần nhà anh,

Tôi chưa làm quan, anh cũng chưa học Thiền.

Từ khi anh vân du, tôi cũng đi làm quan,

Trong thời gian đó tin tức về nhau đều mờ mịt.

Chẳng hiểu đêm nay là đêm gì mà kẻ xe người nón được gặp

nhau,

Thấm thoắt trải gió bụi đã hai mươi năm rồi!

Tôi đã từ quan lại gặp anh,

Xem ra cả hai ta đều chưa sạch trần duyên.

Dịch thơ:

Page 317: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Thiếu thời trọ học gần nhà bác,

Bác chửa thành sư, tôi chửa quan.

Tin tức hai bên rồi vắng bặt,

Tôi đường mũ áo, bác mây ngàn.

Đâu ngờ xe nón đêm nay nhỉ,

Thoắt đã phong trần hai chục niên!

Tôi đã từ quan mừng gặp bác,

Xem ra đều chửa dứt trần duyên.

BĂNG THANH dịch

Chú thích:

1. Vân du: chỉ người tu Tiên hay tu Phật thường nay đây mai đó, như

đám mây trôi.

2. Kẻ xe người nón: ý nói người ra làm quan lên ngựa xuống xe, kẻ ở

ẩn mặc áo tơi, đội nón lá; lấy tứ từ câu cổ ngữ: “Quân thừa xa, ngã đới lạp,

tha nhật tương phùng há xa ấp” (Bác ngồi xe, tôi đội nón, ngày khác gặp nhau

xuống xe vái chào).

29.

THOẠI CỰU

Tích nhật tòng sư câu diệu linh,

Chí kim tu phát tận tinh tinh.

Cùng thông để cục tri thùy chủ,

Lão đại hà nhân vi ngã huynh?

Phục chẩm bất thăng kinh tạc mộng,

Hồi đầu dĩ nhược cách tiền sinh.

Ngô sài an đắc Trung Sơn tửu,

Page 318: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nhất túy du nhiên đáo thái bình.

(A.3160, A.469)

Dịch nghĩa:

NÓI CHUYỆN VỚI BẠN

Ngày xưa theo thầy đi học đều còn trẻ tuổi.

Đến nay râu tóc đều đã đốm bạc.

Cuộc cùng thông biết ai làm chủ,

Người nào già cả, đáng làm anh ta?

Tựa gối xiết nỗi kinh sợ về giấc mộng đêm qua,

Ngoảnh đầu nhìn lại, như đã cách kiếp trước.

Ước gì bọn ta có rượu Trung Sơn mà uống,

Say một giấc dài cho đến ngày thái bình.

Tác giả tự dịch:

CHUYỆN CŨ

Theo thầy ngày trước hãy ngây thơ,

Râu tóc bây giờ đã bạc phơ.

Hơn kém cuộc này ai chủ đó,

Già nua mấy kẻ bậc anh ta.

Ngủ đi còn sợ chiêm bao trước,

Nghĩ lại như là chuyện thuở xưa.

Có rượu Trung Sơn cho lũ tớ,

Tỉnh ra hỏi đã thái bình chưa?

(VHv.2381, A.3160)

Khảo dị:

Page 319: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

a. NKTP và TVNK: Nói chuyện với bạn.

VHv.2381: Nói chuyện cũ

A.3160: Du hữu nhân Đặng Ý (Chơi nhà bạn Đặng Ý)

b. NKTP: buổi trước; TVNK: buổi cũ.

c. NKTP: đời

d. AB.383: gọi

Chú thích:

1. Cuộc cùng thông: cuộc xoay vần cùng rồi thông, có nghĩa là cuộc đời

không có gì chắc chắn và bất biến, có lúc quẫn bách, có lúc thịnh đạt. Nhưng

không biết ai làm chủ cuộc vận hành ấy?

2. Rượu Trung Sơn: do điển Lưu Huyền Thạch mua rượu Thiên nhật ở

Trung Sơn, uống một lần say nghìn ngày. Thơ cổ có câu: “An đắc Trung Sơn

thiên nhật tửu, Minh đinh trực đáo thái bình thì” (Làm sao có được “rượu

nghìn ngày” đất Trung Sơn, Say li bì cho đến lúc thái bình).

30.

GIẢ SƠN NGÂM

Hải thượng giả sơn hà xứ lai?

Văn chi xuất tự Ô bách đài.

Sơn thạch thiếu thời ông sở xế,

Sơn mộc thiếu thời ông sở tài.

Chí kim sơn mộc thậm bổn tỗn,

Chí kim sơn thạch câu môi đài.

Ông chi niên dĩ cửu thập nhị,

Nhật dữ thử sơn tương bồi hồi

Nhất triêu vân gian thừa hạc khứ,

Thử sơn ủy ế hồ cao lai.

Page 320: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Tử tôn dục hướng phú gia mại,

Phú gia bất thị chân khả ai.

Ngã tự bệnh hồi hữu nhất hải,

Hữu hải mỗi hận vô sơn bài.

Hốt nhiên thử sơn vọng vọng chí,

Bài chi nghễ thị vô bất giai.

Hưu ông chi thất, hưu ông đắc,

Sơn hải vận hội diệc kỳ tai!

(A.469)

Dịch nghĩa:

BÀI NGÂM VỀ HÒN NON BỘ

Hòn non bộ ở trên bể từ đâu mà đến?

Nghe nói từ tay một vị Ngự sử làm ra.

Đá núi ấy là do ông xây đắp từ lúc trẻ tuổi,

Cây núi ấy cũng do ông trồng từ buổi thiếu thời.

Đến nay cây núi đã tốt um,

Đến nay đá núi đã rêu đầy.

Ông đã chín mươi hai tuổi,

Vẫn hàng ngày quanh quẩn với núi này.

Một buổi kia ông cưỡi hạc đi rồi,

Núi này bị vứt bỏ trong đám cỏ rậm.

Con cháu ông toan bán cho nhà giàu,

Nhà giàu không thích, thật đáng thương.

Ta từ khi ốm về nghỉ vẫn có một cái bể,

Page 321: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Có bể nhưng vẫn hận vì không có núi bày.

Bỗng đâu núi này lù lù đến,

Bày vào bể ngắm xem cái gì cũng xinh.

Một ông già về hưu mất, thì một ông già về hưu khác được,

Vận hội núi bể cũng lạ kỳ thay!

Dịch thơ:

Hòn non bộ từ đâu đến đó,

Nghe từ đời quan Ngự trước đây;

Đá kia chính tự ông xây,

Cây kia, tuổi trẻ, chính tay ông trồng.

Cây tới độ rễ chồng, lá rủ,

Đá tới kỳ mốc phủ rêu dày;

Tuổi ông vừa chín mươi hai,

Quanh cùng non bộ ngày ngày vui chơi.

Bỗng một sớm phương trời mây hạc,

Đá cùng cây phó mặc cỏ lau;

Ngán thay con cháu ông sau,

Muốn đem non bán, bọn giàu không mua!

Ta về nghỉ vốn ưa non bộ,

Có bể không, không có non bày;

Ngờ đâu non bỗng đến tay,

Đặt vào trông cũng hay hay ưa nhìn.

Lạ thay non bể biến thiên,

Kẻ buông người dỡ là duyên hai già.

Page 322: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

NGUYỄN VĂN TÚ dịch

Chú thích:

1. Hòn non bộ: núi giả để làm cảnh chơi.

2. Cưỡi hạc: chỉ việc chết. Trong các truyện thần tiên, người đắc đạo

không chết mà chỉ cưỡi hạc bay về trời, vì thế thường dùng điển này để tránh

nói rõ chữ tử, chết, vong…

31.

ỦY THẠCH LÃO NHÂN

Án thượng thư nhất quyển,

Đồng thượng bút nhất bả.

Vô huyền cầm nhất trương,

Vô phương dược nhất khỏa.

Nhuận khát nhất bình trà,

Khư hàn nhất lô hỏa.

Thạch bồn nhất tiên hoa,

Thổ bát nhất phật quả.

Dữ ngã tương vi ngu,

Diệc hữu thạch lão giả.

Tĩnh tháo thù bất đồng,

Tính tình các tương tả.

Thạch lão vô nhất hiếu,

Nhi ngã vô bất khả.

Ngã tính lãn hiếu ngọa,

Thạch lão chung nhật tọa.

Thạch lão mặc bất ngôn,

Page 323: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nhi ngã hiếu ngâm tả.

Tương hiệp vô tương xai,

Thần giao tín nhân quả.

Dữ hóa vi vãng lai,

An tri tử phi ngã.

(A.469)

Dịch nghĩa:

AN ỦI ÔNG LÃO ĐÁ

Trên bàn, một quyển sách,

Trong ống, một ngọn bút.

Một cây đàn không dây,

Một thang thuốc không đơn.

Giải khát, một bình trà,

Sưởi rét, một lò lửa.

Trong chậu đá, một nhành thủy tiên,

Trong bát sành, một quả phật thủ.

Cùng làm vui với ta,

Còn có cả ông lão đá.

Kẻ bình tĩnh, người nóng nảy không giống nhau,

Tính tình cũng trái ngược.

Lão đá chẳng thích gì,

Mà ta gì cũng thích.

Tính ta lười, thích nằm,

Mà lão đá thì ngồi suốt ngày.

Page 324: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Lão đá im lặng không nói,

Mà ta thì thích ngâm thơ và viết.

Thân thiết nhau, chẳng nghi ngờ nhau,

Bạn thần giao chắc có nhân quả.

Cùng đi lại trong cõi hóa,

Biết đâu ngươi không phải là ta.

Dịch thơ:

Một quyển sách đặt trên yên,

Một ngọn bút cắm ở trên ống này.

Không dây, đàn có một cây,

Không phương thuốc uống có đầy một phong.

Một bình trà nóng thường dùng,

Một lò sưởi đốt để phòng một bên.

Chậu đá một củ thủy tiên,

Một quả phật thủ đặt trên bát sành.

Lấy ai làm bạn cho đành?

Có ông lão đá với mình cùng vui.

Người lặng tiếng, kẻ nhiều lời,

Tính tình cũng chẳng đi đôi mới kỳ!

Lão thì chẳng thích chi chi,

Ta thì trái ngược, cái gì cũng hay.

Ta lười, chỉ thích nằm dài,

Mà lão thì cứ suốt ngày ngồi trơ.

Lão thì lẳng lặng như tờ,

Page 325: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Mà ta thì thích ngâm thơ viết bài.

Riêng tình thân chẳng đơn sai,

Bạn thần giao hẳn duyên trời chi đây.

Đi về cõi hóa có ngày,

Biết đâu lão đấy, ta đây một người.

VŨ MỘNG HÙNG, NGUYỄN VĂN TÚ dịch

Chú thích:

1. Thần giao: lấy tinh thần mà làm bạn cùng nhau, như đối với người

xưa, người ở xa không gặp mặt và đối với cảnh vật thanh cao. Nhân quả: từ

nhà Phật, ý nói một sự việc bây giờ là kết quả của một nguyên nhân từ trước

đồng thời cũng là nguyên nhân của một kết quả sau. Câu thơ ý nói giữa lão

đá và tác giả có mối liên hệ tinh thần và có nhân quả từ trước.

2. Cõi hóa: giới thiên nhiên, sự chuyển hóa của muôn vật. Tạ Phường

Đắc đời Tống có nói: “Vi luân, vi đạn, dữ hóa vãng lai” (Hóa làm bánh xe, hóa

làm viên đạn, cùng cõi hóa, cùng đi lại).

32.

LY PHỤ HÀNH

Quân bất kiến: Lý hữu ly phụ sầu độc túc,

Doanh thực mưu y nhật bất túc.

Lân ảo kiến chi liên cơ hàn,

Thất gia sử dữ thiếu niên tục.

Thiếu niên cường tráng thị dục quảng,

Ly phụ bì bệnh cân lực suy.

Cung cấp sử linh bất tương ứng,

Túng nhiên kiến hợp chung tất ly.

Tái tiếu bản vị cơ hàn mưu,

Page 326: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Bất miễn cơ hàn thị khả sỉ.

Huống phục bất văn phụ mẫu ngôn,

Tư bôn cánh vi lân lý bỉ.

Ta ta lân ảo hà ái ly?

Ái chi tắc thị, mưu tắc phi.

Cơ hàn chỉ ưng túc bố cấp,

Lão đại tái tiếu phi sở nghi.

(VHv.1864, A.469. VHv.2381)

Dịch nghĩa:

BÀI HÀNH LỜI NGƯỜI GÁI GÓA

Chàng chẳng thấy: Trong làng có chị góa chồng buồn bã nằm

một mình,

Lo ăn lo mặc hàng ngày không đủ.

Mụ láng giềng thấy thế thương tình đói rét,

Khuyên chị chắp mối tơ duyên với chàng trẻ tuổi.

Chàng trẻ tuổi khỏe mạnh, ham muốn nhiều,

Chị góa chồng ốm yếu, gân sức mỏi mệt.

Không sao đáp ứng được mọi sự sai khiến đòi hỏi của chàng trẻ

tuổi,

Dù có sum họp thì sau ắt cũng chia lìa.

Tái giá vốn vì chuyện đói rét,

Không tránh khỏi đói rét thì thật đáng xấu hổ.

Huống nữa lại chẳng nghe lời cha mẹ dạy,

Lén lút theo nhau càng làm cho xóm làng khinh bỉ,

Than ôi! Mụ hàng xóm thương chị gái góa làm gì?

Page 327: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Yêu thương thì đúng nhưng lo tính hộ lại sai.

Thương người đói rét chỉ nên cho thóc cho vải,

Chứ người nhiều tuổi tái giá thì không thích hợp.

Tác giả tự dịch:

LỜI GÁI GÓA

Chàng chẳng thấy gái này gái góa,

Buồn nằm suông, suông cả áo cơm.

Thương vay cái mụ tá ơm,

Thấy chàng tuổi trẻ ép làm lứa đôi.

Chàng tuổi trẻ chơi bời quên nhọc,

Gái già này sức vóc được bao.

Muốn sao, chẳng được như sao,

Dẫu rằng sum họp thế nào được lâu.

Lấy chồng vốn nhờ câu ăn mặc,

Thế mà rầy đói rách ủ ê;

Huống nhời cha mẹ chẳng nghe,

Tư bôn lại phải chê người cười.

Mụ hỡi mụ, thương người chi thế,

Thương thì hay, mưu kế chửa hay.

Thương thì gạo vải cho vay,

Lấy chồng thì hẳn gái này xin thôi!

(TVNK,AB. 383)

Khảo dị:

a. A.469: mưu

Page 328: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

b. VHv.2381: lão đại

c. A.469: kiến

d. A.469: hương đảng

đ. A.469:…ái hà vi

e. VHv.2381: kiến liên chỉ ưng cấp mễ bố

g. TVNK: biết

h. TVNK: khéo thay

i. TVNK: đem

k. TVNK: chiều chẳng được sao

l. TVNK: trước tuy sum họp, sau nào được lâu

m. TVNK: chẳng ngờ rằng đói rách hổ ngươi

n. TVNK: vốn xưa cha mẹ dặn lời

o. TVNK: kẻ cười người chê

p. TVNK: thương chi thương thế

q. TVNK: nhưng kế chẳng hay

r. TVNK: lấy chồng thì gái góa này

s. TVNK: van

Chú thích:

1. Để đối phó với phong trào sĩ phu Cần vương và thu phục nhân tâm,

thực dân Pháp thông qua Tổng đốc Nam Định lúc ấy là Vũ Văn Báo, con thày

học cũ của Nguyễn Khuyến, mời ông trở lại làm quan nhưng ông một mực từ

chối. Bài này, ông mượn lời người gái góa để trả lời sự mời mọc đó.

2. Bản dịch này có sách ghi là của Đỗ Huy Liêu, nhưng theo Đỗ Văn Hỷ

(Tạp chí văn học số 1 – 1983) thì dịch giả là Phan Văn Ái. Tác giả đã dẫn lời

ghi chú của Phan Văn Ái trong Phượng minh toàn tập: “Đây là bài viết của

Page 329: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Tam nguyên Yên Đổ họ Nguyễn, nhân vâng mệnh diễn ra quốc âm, chép phụ

ở phần sau”.

3. Mụ tá ơm: chỉ người mối lái.

4. Tư bôn: chỉ việc con gái trốn nhà theo trai.

33.

ƯU PHỤ TỪ

Đông lân gia hữu ưu nhân trú,

Dạ bán ưu nhân ngữ ưu phụ:

“Ngã diệc thời thường tố hảo quan,

Như hà nhân giai bất ngã cụ?”

Ưu phụ đại nộ mạ kỳ phu:

“Nhĩ niên ký lão, hà thái ngu!

Hạnh tai hôn mộ, nhân bất thức,

Nhân hoặc thức chi di thiếp tu.

Thế gian kinh nhân đãn hữu nhị:

Nhất năng sinh nhân, nhất năng tử;

Nhĩ ký bất năng sinh tử nhân,

Như hà nhân nhân giai cụ nhĩ!

Thả dã nhĩ gia bản bần hàn,

Triệu tịch bài ưu cầu nhất xan;

Bài ưu hoàng đế thả bất cụ,

Hà huống nhĩ vi bài ưu quan!”

(VHv.2381)

Dịch nghĩa:

LỜI VỢ ANH PHƯỜNG CHÈO

Page 330: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nhà láng giềng bên Đông có anh phường chèo ở trọ,

Nửa đêm, anh ta bảo vợ rằng:

– “Ta cũng thường hay làm quan to,

Tại sao người đời chẳng ai sợ ta?”

Vợ người phường chèo nổi giận mắng chồng:

– “Anh già đời rồi mà sao ngu đến thế!

May mà đang đêm hôm không ai biết,

Nếu có người biết thì thiếp cũng xấu hổ lây.

Ở đời có hai hạng người khiến ai cũng sợ:

Một có thể cho người ta được sống, một có thể bắt người ta phải

chết.

Anh đã không thể cho được người ta sống hoặc bắt người ta

phải chết,

Thì việc gì mọi người phải sợ anh?

Vả nhà anh vốn đói rét,

Sớm chiều hát chèo kiếm bữa ăn!

Vua phường chèo người ta còn chẳng sợ,

Huống nữa là quan phường chèo như anh”.

Tác giả tự dịch:

LỜI VỢ ANH PHƯỜNG CHÈO

Xóm bên Đông có phường chèo trọ,

Đương nửa đêm gọi vợ chuyện trò

Rằng: “Ta thường làm quan to,

Sao người coi chẳng ra trò trống chi?”

Vợ cả giận mắng đi mắng lại:

Page 331: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

“Tuổi đã già sao dại như ri;

Đêm hôm ai chẳng biết chi,

Người như biết đến thiếp thì hổ thay!

Đời có hai điều này nên sợ:

Sống chết người đều ở trong tay;

Thế mà chàng đã chẳng hay,

Còn ai sợ đến phường này nữa chăng.

Vả chàng vẫn lăng nhăng túng kiết,

Cuộc sinh nhai chèo hát quan thì;

Vua chèo còn chẳng ra gì,

Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”.

(VHv.2381, TVNK, NKTP)

Khảo dị:

a. VHv.2381: đến

b. VHVv.2381: với

c. TVNK và NKTP: Vợ giận lắm mắng đi mắng lại.

d. VHv.2381: người

đ. TVNK: người ta

NKTP: người mà

e. TVNK: Ở đời có hai điều nên sợ.

g. TVNK và NKTP: quyền

h. VHv.2381: Vả chàng nhà đương túng kiết.

i. VHv.2381: Sớm hôm chèo kiếm chác qua thì

k. VHv.2381: tướng

Page 332: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

l. VHv.2381: Huống hồ quan lớn khác chi thằng hề

Chú thích:

1. Tương truyền, lúc làm gia sư ở nhà Hoàng Cao Khải, Nguyễn

Khuyến mắt thấy những kẻ “quyền môn” qua lại cũng giống như các vai vua,

quan trong phường chèo. Do đó nhà thơ tức cảnh làm bài này để chế giễu.

34.

TÚC SỰ

Độc tọa Bắc song thượng,

Nhật vũ hà thê thê.

Hàn đa tân cốc vãn

Vân trọng viễn sơn đê.

Tẩm nhuận tường sinh nhĩ

Oanh vu tửu đáo tề.

Bất tri xuân sắc đạm,

Nhất điểu lược sơn tê (tây).

(A.3160)

Dịch nghĩa:

TỨC SỰ

Ngồi một mình ở cửa sổ phía Bắc,

Ngày nào cũng mưa, lạnh lẽo làm sao.

Rét nhiều nên lúa mới chín muộn,

Mây dầy núi xa như thấp xuống.

Nước mưa ngấm lâu, bức tường đã mọc tai,

Rượu uống vào quanh co xuống đến tận rốn.

Không biết màu xuân đã nhạt,

Page 333: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Một con chim bay vượt qua phía Tây núi.

Dịch thơ:

Một mình dựa song Bắc,

Mưa dầm lạnh lẽo thay.

Lúa nghẹn trong giá rét,

Núi thấp dưới mây dày.

Tường ướt mọc tai nấm,

Rượu ào tràn rốn say.

Nào biết màu xuân lạt,

Chim lẻ vượt non Tây.

NGÔ LINH NGỌC dịch

Chú thích:

1. Tường bị mưa lâu ẩm thấp mọc nấm, mọc mộc nhĩ.

35.

KÝ CHÂU GIANG BÙI ÂN NIÊN

Mãn mục đa tân thức,

Thương tâm cố cựu hy.

Nhân cùng, thiên vị định,

Đạo táng, ngã an quy?

Tứ hải khai phong hội,

Thiên sơn lão quyết vi.

Châu Giang tương ức xứ,

Hoa lạc điếu ngư ky.

(A.3160)

Page 334: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Dịch nghĩa:

GỬI BÙI ÂN NIÊN Ở CHÂU GIANG

Bao nhiêu thể thức mới bày ra đầy trước mắt,

Đau lòng vì bè bạn cũ thưa vắng dần.

Mưu của người đã cùng rồi mà cơ trời còn chưa định,

Đạo học mất rồi, ta biết đi về đâu!

Bốn biển mở ra phong hội mới,

Nghìn non rau quyết rau vi bỏ già!

Nhớ Châu Giang, nơi chúng ta cùng nhau khi trước,

Chắc bến câu hoa đã rụng đầy!

Dịch thơ:

Trước mắt bao điều lạ,

Đau lòng bạn vắng thưa.

Người cùng, trời chửa định,

Đạo mất, ta bơ vơ.

Bốn biển phong hội mới,

Nghìn non vi, quyết già!

Châu Giang, nơi tưởng nhớ,

Hoa rụng bến câu xưa.

BĂNG THANH dịch

Chú thích:

1. Bùi Ân Niên tức Bùi Văn Dị, bạn thân Nguyễn Khuyến, người Châu

Cầu (Hà Nam cũ, nay thuộc thị xã Phú Lý, Nam Hà). Theo nguyên chú đây là

bài thơ Nguyễn Khuyến họa nguyên vận bài của Bùi Ân Niên.

Page 335: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

2. Câu này ý nói thời thế thay đổi, sức người đã kiệt mà mệnh trời cũng

chưa định.

3. Ý nói đạo học thánh hiền đã suy, những trí thức Nho sĩ như tác giả

chưa tìm được hướng đi mới cho mình.

4. Hai câu này ý nói Pháp đã chiếm được nước Nam, đang cổ vũ cho

sự khai hóa, những người trung thành với triều đại cũ, không cộng tác với

ngoại bang, đi ở ẩn không còn mấy. Rau quyết, rau vi: lấy từ điển Bá Di, Thúc

Tề. Hai ông là con vua nước Cô Trúc, chư hầu của nhà Thương, không chịu

thần phục và ăn lộc nhà Chu, trốn lên núi Thú Dương, chỉ ăn rau quyết, rau vi

để sống.

36.

SƠN TRÀ

Xuân lai khách tặng ngã sơn trà,

Túy lý mông lung bất biện hoa.

Bạch phát thương nhan ngô lão hí,

Hồng bào kim đới tử chân da?

Tầm thường tế vũ kinh xuyên diệp,

Tiêu sắt thần phong oán lạc dà.

Cận nhật tương khan duy dĩ tị,

Liễu vô hương khí nhất kha kha!

(VHv.2381, A.3160, A.469)

Dịch nghĩa:

HOA SƠN TRÀ

Xuân đến có người cho ta cây sơn trà,

Trong cơn say mắt lờ mờ chẳng nhận rõ là hoa gì.

Tóc bạc mặt xanh, ta đã già rồi,

Page 336: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Áo đỏ đai vàng, quả thật là ngươi đó a?

Mưa nhỏ tầm thường, cũng sợ xuyên qua lá,

Gió sớm hiu hắt, oán làm rụng mất đài.

Gần đây ta chỉ xem [mọi vật] bằng mũi,

Chẳng có chút hương thơm nào, cười một tiếng khà khà.

Tác giả tự dịch:

TẠ LẠI NGƯỜI CHO HOA TRÀ

Tết đến người cho một chậu trà,

Đương say ta chẳng biết rằng hoa.

Da mồi tóc bạc ta già nhỉ,

Áo tía đai vàng, bác đấy a!

Mưa bụi những kinh phường xỏ lá,

Gió to, lại sơ nó rơi già.

Xem hoa ta vẫn xem bằng mũi,

Chẳng thấy mùi hương, một tiếng khà.

(A.3610, AB.383, VHv.2381)

Khảo dị:

a. A.3160: Khách lai tặng ngã nhất sơn trà

b. A.3160: thức

c. A.3160: Lục bào hoa hốt tử nhiên da

d. A.3160: Khinh khinh tế vũ kinh xuyên tập

đ. A.3160: Táp táp thần phong khủng lạc dà

e. VHv.2381: Tặng hoa trà

A.3160: Tặng sơn trà

Page 337: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

g. A.3160: có khách đưa cho

h. A.3160: Ta say ta chẳng biết là hoa.

i. AB.383: răng long

k. A.469, A.3160: áo đỏ

l. NKTP: nhỏ

m. A.3160: ngại đứa

n. VHv.2381: lâu nay

o. AB.383: chỉ

p. NKTP: Đếch thấy mùi thơm

A.469: Pếch thấy hơi hương

Chú thích:

1. Sơn trà là một loại hoa có sắc không hương. Tương truyền, Chu

Mạnh Trinh khi làm Án sát Hà Nam, nhân ngày tết, có gửi tặng Nguyễn

Khuyến một chậu trà. Lúc này nhà thơ mắt đã lòa, ông cho rằng Chu có ý

“chơi xỏ” mình. Nguyên do là vào năm 1905, trong cuộc thi Vịnh Kiều tại

Hưng Yên, Chu Mạnh Trinh dự thi và được giải nhất về thơ Nôm, lúc đó

Nguyễn Khuyến được mời làm chủ khảo. Khi đọc bài Vịnh Sở Khanh của Chu

có câu:

Làng Nho người cũng coi ra vẻ,

Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay.

Nguyễn Khuyến đã phê:

Rằng hay thì thật là hay,

Nho đối với xỏ lão này không ưa.

Chu Mạnh Trinh không hài lòng; tặng hoa trà, Chu có ý bỉ Nguyễn

Khuyến là đau mắt không thấy được cái đẹp.

Page 338: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Cũng có thuyết nói người tặng hoa trà là Dương Lâm, em Dương Khuê.

Vì Nguyễn Khuyến không ưa Dương lâm nên Dương cố ý tặng một chậu hoa

hữu sắc vô hương để chơi xỏ, ý nói Nguyễn Khuyến không có mắt để nhìn

người.

Có lẽ thuyết trên hợp lý hơn, vì chuyện Nguyễn Khuyến chấm văn và

phê Chu Mạnh Trinh là có thực.

2. Áo tía đai vàng: phẩm phục các quan to trong triều.

3,4. Nguyễn Khuyến đã dịch rất sát ý hai câu thơ chữ Hán song nhà

thơ lại khéo sử dụng từ đồng âm (rơi dà: rụng đài hoa và dơi già: con dơi già,

loài vật vẫn bị khinh rẻ) và tính đa nghĩa của từ (xỏ lá: xuyên qua lá và xỏ lá:

quân đểu cáng) để biểu đạt ý tứ thật sâu cay.

37.

HỮU CẢM

Tích nhật đồng triều bái thánh quân,

Chí kim âm hưởng tuyệt vô văn.

Giang san thác lạc tri hà tại,

Bằng bối điêu linh thục dữ quần?

Loạn thế hành tàng như độc hạc,

Lão lai hình ảnh tự cô vân.

Chỉ duyên hạnh đắc suy đồi thậm,

Nhất điểm linh tê bất thập phần.

(A.3160)

Dịch nghĩa:

CẢM HỨNG

Ngày trước cùng vào chầu bái yết thánh quân,

Đến nay tuyệt nhiên không thấy tin tức gì.

Page 339: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Non sông man mác biết ở nơi đâu,

Bè bạn hao mòn cùng ai họp mặt?

Ở đời loạn ra hay về như con hạc đơn chiếc,

Đến tuổi già,một hình một bóng như đám mây lẻ loi.

Chỉ vì may được suy yếu quá,

Một điểm thông suốt trong lòng như sừng con linh tê, chưa tỏ rõ

được cả mười phần.

Tác giả tự dịch.

CẢM HỨNG

Ngày trước cùng lên lạy cửa trời,

Lâu nay vắng vẻ bặt tăm hơi.

Nước non man mác về đâu tá?

Bè bạn lơ thơ sót mất người.

Đời loạn đi về như hạc độc,

Tuổi gìa hình bóng tựa mây côi.

Đã hay nhờ được hao mòn lắm,

Một thí lòng son chữa rõ mười.

(A.3160)

Chú thích:

1. Câu này ý nói: lúc làm quan, nhà thơ cũng đã cùng với bạn vào chầu

vua ở triều đình.

2. Xem chú thích 4 bài Độc La Ngạn Đỗ Đình nguyên từ Bắc phiên thư,

số 11.

3. Hạc độc: con hạc một mình, không có bạn.

4. Mây côi: đám mây lẻ loi trên không trung.

Page 340: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

5. Một thí: một chút, một mẩu rất bé.

38.

NHÂM DẦN HẠ NHẬT

Kim hạ thổ thái nhiệt,

Thảo khô trạch diệc kiệt.

Ích chi dĩ Tây phong,

Hà vật bất mị diệt.

Thẩn dư bệnh thả bần,

Hành niên cận khâu huyệt.

Tỉnh phi vô thanh tuyền,

Ẩn chi đồ hãn huyết.

Phạn phi vô canh hòa,

Thực chi bất hạ yết.

Khỏa trình như bất cung,

Cô lập nhược khổ tiết.

Ta thử bách ly phùng,

Hồ vi hựu thiết thiết.

(A.3160)

Dịch nghĩa:

MÙA HÈ NĂM NHÂM DẦN

Mùa hè này khổ vì nóng nực quá,

Cỏ khô, ao đầm cũng cạn.

Hơn nữa lại có gió Tây,

Vật gì mà chẳng tàn tạ.

Page 341: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Huống chi ta đã ốm lại nghèo,

Tuổi tác đã gần kề miệng lỗ.

Giếng không phải không có nước trong,

Nhưng uống vào chỉ thêm vã mồ hôi.

Cơm không phải không có canh,

Nhưng ăn vào không nuốt được.

Cởi trần ra thì tưởng như khiếm nhã,

Đứng một mình thì như người giữ khổ tiết.

Than ôi! đã gặp phải lúc rắc rối trăm chiều,

Sao lại còn khe khắt với nhau thế này nữa.

Dịch thơ:

Hè này nóng khổ quá!

Cỏ khô, đầm cạn cả.

Lại thêm ngọn gió Tây,

Vật gì chẳng tàn tạ.

Huống ta ốm lại nghèo,

Tuổi gần kề bên mả.

Giếng không phải không trong,

Uống vào mồ hôi vã.

Cơm không phải không canh,

Ăn vào nuốt chẳng đã.

Đứng lẻ cũng chơ vơ,

Cởi trần e suồng sã.

Than ôi! khổ trăm chiều!

Page 342: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Sao lại còn nghiệt ngã?

LÊ TƯ THỤC dịch

Khảo dị:

a. TVNK và NKTP: khả

Chú thích:

1. Tức năm 1902.

39.

ĐỐI TRƯỚNG PHÁT KHÁCH

Sinh thục văn tự cách,

Tân xuân hựu phát khách

Nhất nguyên chí thập nguyên,

Đa thiểu giá bình địch.

Hữu khách lai mãi chi,

Chỉ dĩ can lang bách.

Ngã văn tuy bất giai,

Khởi bất xứng tam mạch?

Khách mãi giá hà liêm?

Bất xứng ngã bất dịch.

Trì lang khách thả quy,

Bất thụ ngã bất thích.

Khách khứ độc tư ta:

Văn tự hà nhất ách!

(A.469)

Dịch nghĩa:

Page 343: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

BÁN HÀNG ĐỐI TRƯỚNG

Một lối văn tự dở sống dở chín,

Mỗi lần năm mới đến lại đem ra bán.

Từ một đồng đến mười đồng,

Nhiều ít giá phải chăng.

Có khách đến mua câu đối,

Chỉ đưa một trăm miếng cau khô.

Văn của ta tuy chẳng hay,

Há lại không đáng ba tiền?

Khách mua sao trả rẻ thế?

Không đáng giá thì ta không bán.

Thôi khách hãy mang cau về,

Không bán được ta cũng không ngại.

Khách đi rồi ta than một mình:

“- Văn chương chữ nghĩa mà cũng gặp vận ách đến thế!”

Dịch thơ:

Xáo xổi lối văn sẵn,

Tết đến bày hàng bán.

Từ một đến mười đồng,

Nhiều ít đã có hạn.

Có khách đến hỏi mua,

Đem một trăm cau dán.

Văn ta tuy chẳng hay,

Cũng đáng ba tiền chẵn.

Page 344: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Sao trả rẻ thế ư?

Rẻ quá ta không thuận.

Khách hãy mang cau về,

Ế hàng ta chẳng quản.

Khách đi mình ngồi than:

“Chữ nghĩa cũng vận hạn!”

KHƯƠNG HỮU DỤNG dịch

Chú thích:

1. Tiền: Một đơn vị tiền tệ cũ, gồm 60 đồng tiền kẽm hoặc 10 đồng tiền

đồng. Mười tiền là một quan.

2. Cau dán: cau khô long hạt, người bán cau thường lấy hồ dán vào giả

làm cau nguyên. Tuy nhiên người đi mua câu đối cụ Yên Đổ chắc không dùng

cau dán, nguyên tác chỉ nói cau khô.

40.

NHÂN TẶNG NHỤC

Phần gian nhân yếm túc,

Quy lai tặng dư nhục.

Tặng dư phi úy dư,

Liên dư độc khoáng phúc.

Bồi hồi vi sổ từ,

Từ chi yểm diện khốc.

Thích thử loạn ly phùng,

Kiêm chi cùng ngã xúc.

Tử ý nhất hà ân,

Dư tâm nguyên bất dục.

Page 345: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Công Tây ý khinh cừu,

Dữu phủ thả thỉnh túc.

Phạm Lãi thừa khinh châu,

Ngưu dương thả đại súc.

Bành Trạch phương từ quy,

Thả tài tam kính cúc.

Lạc Thiên phương trích cư,

Thả cấu tam gian ốc.

Ta dư bệnh nhi bần,

Phong trần thái lục lục.

Lão hĩ vô năng vi,

Hà dĩ phục bất cốc?

Bất thực linh nhân cơ,

Thực chi linh nhân nhục!

Bất thực linh nhân bì,

Thực chi linh nhân tục!

Cảm tử phi Vương Tôn,

Tri ngã hữu Bão Thúc.

Thủ chi hà thương liêm,

Vô dung thích tha tộc.

Hốt hốt đàm tương vương,

Thanh phong động cô trúc.

(A.469, A.3160)

Dịch nghĩa:

Page 346: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

CÓ NGƯỜI CHO THỊT

Trong đám tế mộ ai nấy đều no nê,

Có người khi về, mang thịt tặng ta.

Tặng ta không phải vì sợ ta,

Mà là thương ta đói bụng.

Ta ngậm ngùi, nói được vài lời,

Cầm lấy miếng thịt, che mặt mà khóc.

Gặp lúc loạn ly như thế này,

Lại thêm sự đói kém bức bách.

Ý người rất ân cần,

Lòng ta không phải là không muốn.

Công Tây mặc áo cừu nhẹ,

Cũng còn phải xin từng hũ, từng chõ thóc.

Phạm Lãi rong thuyền chơi,

Cũng còn nuôi từng đàn trâu dê.

Bành Trạch khi từ quan về,

Cũng còn trồng ba luống cúc.

Lạc Thiên khi bị trích đi nơi xa,

Cũng phải làm ba gian nhà.

Than ôi! Ta đau ốm, nghèo túng,

Gặp lúc phong trần lại càng ươn hèn hơn ai!

Tuổi già không làm được việc gì,

Lấy gì mà chi dùng khi không có bổng lộc?

Không ăn thì người bị đói,

Page 347: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Ăn vào thì người bị nhục!

Không ăn thì người bị gầy,

Ăn vào thì ra con người tục!

Cảm lòng người, ta không được như Vương Tôn,

Biết ta, đời còn có Bão Thúc.

Ta nhận đây, tưởng cũng chẳng hại gì,

Lại không phải đi kêu nài cửa khác.

Chuyện trò chốc lát, hai bên cùng chợt quên đi,

Gió mát làm rung động cây trúc đứng một mình.

Dịch thơ:

Nhà đám gặp bữa no,

Mang thịt về đem cho.

Chẳng phải vì nể sợ,

Chỉ thương ta bụng xo.

Bùi ngùi lời khó thốt,

Nhận thịt che mắt ướt.

Gặp phải thời loạn ly,

Thêm nỗi mùa thất bát.

Ý bác thật ân cần,

Lòng ta há phân vân.

Công Tây mặc áo cừu,

Còn xin hũ thóc ăn.

Phạm Lãi cưỡi thuyền nhẹ,

Dê bò thả sức chăn.

Page 348: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Uyên Minh vừa về ẩn,

Ba luống cúc chuyên cần.

Lạc Thiên mới bị đày,

Ba gian nhà náu thân.

Nghèo, bệnh ta gặp lúc,

Phong trần đến cay cực.

Già rồi làm dược gì,

Không lương lấy chi thực?

Không ăn bụng dày vò,

Ăn vào người bị nhục.

Không ăn xác ốm o,

Ăn vào người hóa tục.

Hàn Tín, chẳng phải ta,

Lòng bác, chính Thúc Nha.

Thanh liêm gì chút thịt,

Còn hơn xin ai mà!

Đàm đạo bỗng quên khuấy

Gió mát động trúc già.

HUỆ CHI dịch

Khảo dị:

a. A.469: hiệu

b. A.469: nan vi từ.

c. A.469: cơ

d. A.469: biển

Page 349: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

đ. A.3160: thán

Chú thích:

1. Công Tây: tức Công Tây Xích, học trò Khổng Tử,làm quan. Khi ông

được đi sứ nước Tề, bạn ông là Nhiễm Hữu xin Khổng Tử cấp thóc cho mẹ

ông. Khổng Tử bảo cho 1 dũ (khoảng 1 hũ). Sau lại xin thêm, Khổng Tử bảo

cho 1 dũ và nói thêm: “Xích kia đi sang Tề, cưỡi ngựa béo, mặc áo cừu nhẹ,

ta giúp người thiếu, chứ không phụ thêm cho kẻ giàu”.

2. Phạm Lãi: người thời Xuân Thu, theo giúp Việt Vương Câu Tiễn hơn

20 năm, cuối cùng diệt được nước Ngô, được phong Thượng tướng quân.

Thấy Câu Tiễn là người khó có thể vui chung trong thắng lợi, Phạm Lãi bỏ đi,

thay đổi tên họ mà đến đất Đào, chuyên việc kinh doanh, trở thành cự phú,

xưng là Đào Chu công.

3. Bành Trạch: Xem chú thích 3 bài Bùi viên cựu trạch ca, số 5.

4. Lạc Thiên: Tên tự của Bạch Cư Dị, đỗ Tiến sĩ, làm quan trong triều,

vì nói thẳng bị vua Đường ghét, đầy ra Giang Châu. Ở đây ông làm ba gian

nhà tranh dưới chân núi Hương Lô trong dẫy Lư Sơn.

5. Vương Tôn: Hàn Tín, đời Hán, khi còn hàn vi, đi câu kiếm ăn. Một lần

bị đói được bà Phiếu mẫu cho cơm ăn. Tín nói: thế nào tôi cũng báo ơn bà.

Bà nói: ta thương Vương Tôn nên mời ăn, có phải mong báo ơn đâu! Sau

Hàn Tín giàu sang tạ ơn bà Phiếu mẫu. 1.000 lạng vàng. Câu này tác giả

muốn nói: ta cảm tạ cái hậu ý của người không được như Hàn Tín cảm tạ

lòng tốt của bà Phiếu mẫu.

6. Bão Thúc: tức Bão Thúc Nha, người đời Xuân Thu, bạn Quản Trọng,

biết Quản Trọng có tài mà nghèo, khi cùng kinh doanh, được lời, thường

nhường Quản Trọng phần hơn. Sau tiến cử Quản Trọng làm tướng quốc cho

Tề Hoàn Công. Quản Trọng thường nói: “Cha mẹ sinh ra ta, nhưng biết ta, chỉ

có Bão Thúc”.

41.

Page 350: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

VÃN ĐỒNG NIÊN VÂN ĐÌNH TIẾN SĨ DƯƠNG THƯỢNG THƯ

Dĩ hĩ Dương đại niên,

Vân thụ tâm huyền huyền.

Hồi ức đăng khoa hậu,

Dữ quân thần tịch liên.

Tương kính thả tương ái,

Tao phùng như túc duyên.

Hữu thời xuất kinh lộ,

Không sơn văn lạc tuyền.

Hữu thời thướng cao các,

Ca nhi minh tố huyền.

Hữu thời đối quân ẩm,

Đại bạch phù bát diên.

Hữu thời dữ luận văn,

Đông bích la giản biên.

Ách vận phùng dương cửu,

Đẩu thăng phi tham thiên.

Dư lão công diệc lão,

Giải tổ quy điền viên.

Vãng lai bất sác đắc,

Nhất ngộ tam niên tiền.

Chấp thủ vấn suy kiện,

Ngữ ngôn thù vị khiên.

Công niên thiểu dư tuế,

Page 351: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Dư bệnh nghi công tiên.

Hốt văn công phó chí,

Kinh khởi hoàng hoàng nhiên.

Dư khởi bất yếm thế,

Nhi công tranh thướng tiên.

Hữu tửu vị thùy mãi,

Bất mãi phi vô tiền.

Hữu thi vị thùy tả,

Bất tả phi vô tiên.

Trần Phồn tháp bất há,

Bá Nha cầm diệc nhiên.

Công ký khí dư khứ,

Dư diệc bất công liên.

Lão nhân khốc vô lệ,

Hà tất cưỡng nhi liên.

(A.469,A.3160, VHv.2381, AB.383)

Dịch nghĩa:

VIẾNG BẠN ĐỒNG KHOA LÀ VÂN ĐÌNH TIẾN SĨ DƯƠNG THƯỢNG THƯ

Thôi thôi bác Dương đã mất rồi,

Mây chiều cây xuân, tình bạn bè nhớ nhau không dứt.

Nhớ lại sau khi thi đỗ,

Sớm tối luôn cùng nhau.

Kính trọng nhau, yêu mến nhau,

Cuộc gặp gỡ như có duyên trời định sẵn.

Page 352: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Có lúc cùng nhau trên con đường lên kinh đô,

Nghe tiếng suối đổ trong núi vắng.

Có lúc cùng nhau lên gác cao,

Nghe con hát gảy đàn.

Có lúc cùng nhau uống rượu,

Chén đại bạch tràn trề tám phương.

Có lúc cùng nhau bàn văn,

Phủ Đông bích bày đầy sách vở.

Vận rủi ro gặp hội dương cửu,

Không tham thưng đấu lộc trời.

Tôi đã già, bác cũng đã già,

Cởi dây ấn về với vườn ruộng.

Không qua lại với nhau luôn được,

Lần gặp trước cách đã ba năm.

Cầm tay hỏi thăm khỏe hay yếu,

Thấy bác nói năng vẫn chưa lẫn cẫn.

Bác ít tuổi hơn tôi,

Mà dường như tôi lại ốm trước bác.

Chợt nghe tin bác qua đời,

Tôi giật mình xiết bao kinh hoàng!

Tôi đâu phải không chán đời,

Mà bác vội tranh lên cõi tiên trước!

Có rượu, mua uống cùng ai?

Không mua, không phải vì không có tiền.

Page 353: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Có thơ, viết cho ai?

Không viết, không phải vì không có giấy

Giường Trần Phồn không hạ xuống,

Đàn Bá Nha cũng đem đốt.

Bác đã bỏ tôi mà đi,

Tôi cũng không thương bác nữa.

Người già khóc không ra nước mắt,

Can chi mà cố gượng cho giàn giụa.

Tác giả tự dịch:

KHÓC BẠN

Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;

Kính yêu từ trước đến sau,

Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời.

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,

Tiếng suối tuôn róc rách lưng đèo;

Có khi tầng gác cheo leo,

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,

Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân;

Có khi bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích điển phần trước sau.

Page 354: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Bước ly loạn nghĩ đâu số lẻ,

Phận đẩu thăng có nhẽ tham trời;

Bác già tôi cũng già rồi,

Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là.

Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,

Trước ba năm gặp bác một lần,

Cầm tay hỏi hết xa gần,

Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can.

Tuổi tôi lại còn hơn tuổi bác,

Mà tôi đấu trước bác mấy ngày;

Ai ngờ bác vội về ngay,

Chợt nghe tôi đã chân tay rụng rời.

Ai chẳng biết chán đời là phải,

Vội vàng chi đã mải lên tiên;

Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua không phải không tiền không mua.

Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,

Viết đưa ai ai biết mà đưa;

Giường kia treo cũng hững hờ,

Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.

Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở,

Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy đôi hàng chứa chan.

Page 355: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(AB.383, VHv.2381, A.3160)

Khảo dị bài Hán:

a. A.3160: Điếu Dương đại nhân

b. A.3160: Sóc tự đăng khoa nhật.

c. A.3160: nhược

d. A.3160: thướng

đ. A.3160: đăng

e. A.3160: Ca nữ

g. A.3160: dữ công

h. A.3160: Thái bạch phù kỷ điên

i. A.3160: cộng

k. A.3160: Thời vận tao dương cửu

l. A.3160: ý

m. A.3160: vi

n. A.3160: Công hà tranh thướng tiên

o. VHv.2381: Quân kim, A.3160: Công kim

p. NKTP: khởi

q. VHv.2381: Hà khổ cưỡng thê liên

Khảo dị bài Nôm:

a. TVNK và NKTP: Khóc Dương Khuê

b. VHv.2381: ngùi

c. VHv.2381: Kể

d. VHv.2381: cùng chơi

đ. TVNK, NKTP: nghe

Page 356: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

e. VHv.2381: tiếng

g. VHv.2381: ôm ấp

h. VHv.2381: trò chuyện

i. VHv.2381: Bước loạn ly cùng nhau cả số

TVNK và NKTP: Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn

k. TVNK và NKTP: chẳng dám

l. VHv.2381: Tôi già bác cũng

m. VHv.2381: Biết đâu

n. TVNK, NKTP: Kể tuổi tôi

o. VHv.2381: còn trước; TVNK, NKTP: Tôi lại đau trước bác

p. VHv.2381: Làm sao gác đã lên tiên

TVNK và NKTP: Làm sao bác vội về ngay

q. TVNK, NKTP: bỗng

r. VHv.2381: mà

TVNK và NKTP: Sao vội vàng đã

s. VHv.2381: vẫn

t. TVNK, NKTP: chuốc.

Chú thích:

1. Dương Thượng thư: Dương Khuê, sinh năm Kỷ hợi (1839), kém

Nguyễn Khuyến 4 tuổi, người làng Vân Đình, huyện Ứng Hòa (Hà Tây ngày

nay), đổ cử nhân cùng khoa với Nguyễn Khuyến, đỗ Tiến sĩ khoa Mậu thìn

(1868), làm quan tới Thượng thư, hàm Tham tá Nha kinh lược Bắc Kỳ, sau

thăng Tổng đốc Nam Định. Ông mất năm 1902.

2. Mây chiều cây xuân: lấy ý từ thơ Đỗ phủ, trong bài nhớ Lý Bạch, Đỗ

phủ viết: Vị bắc xuân thiên thụ – Giang đông nhật mộ vân (Cây mùa xuân

Page 357: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

phía Bắc sông Vị – Mây buổi chiều ở phía Đông Trường Giang). Về sau

thường dùng “vân thụ” để nói bạn hữu nhớ nhau.

3. Chén đại bạch: đại bạch là tên một loại chén uống rượu. Cả câu ý

nói rượu rót tràn đầy chén quý..

4. Phủ đông bích: lấy từ ý câu “Đông bích đồ thư, Tây viên hàn mặc”

(Phủ Đông bích để sách vở, vườn Tây để bút mực). Nguyên Đông bích là biệt

danh của sao Bích tú, một trong nhị thập bát tú, chủ về sách vở, là Phủ “đồ

thư” trong thiên hạ.

5. Hội dương cửu: theo Luật lịch chí thì trong một nguyên có 4.617

năm, 106 năm đầu là hội dương cửu, trong đó có 9 năm bị hạn tai, cũng gọi là

“ách hội”. Ở đây tác giả chỉ lấy ý “vận ách”, không thông đạt.

6. Giường Trần Phồn: Trần Phồn đời Hậu Hán, có người bạn thân là

Từ Trĩ - Phồn dành riêng cho bạn một chiếc giường, khi bạn đến chơi mới hạ

xuống, mời ngồi, lúc bạn về lại treo lên.

7. Đàn Bá Nha: điển Bá Nha và Chung Tử Kỳ, hai bạn tri âm. Mỗi khi

Bá Nha đàn, ý nghĩ đến non cao hay thác đỗ Chung Tử Kỳ đều cảm nhận

được. Chung Tử Kỳ mất, Bá nha không bao giờ chơi đàn nữa.

8. Điển phần: theo bài tựa Kinh Thư, Khổng An Quốc đời Hán có nói:

sách của Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế gọi là Tam phần, nói về đạo lớn;

sách của Thiếu Hiệu, Chuyên Húc, Cao Tân, Đường, Ngu gọi là Ngũ điển, nói

về đạo thường. Ở đây đông bích và điển phần tác giả dùng để nói chung văn

chương sách vở.

9. Ý câu thơ này: Trong lần gặp ba năm về trước, Nguyễn Khuyến thấy

Dương Khuê còn khỏe mạnh, minh mẫn.

42.

DI CHÚC VĂN

Ngã niên trị bát bát,

Ngã số phùng cửu cửu.

Page 358: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Ta tai ngã đức lương!

Thọ kỷ mại tiên khảo.

Ta tai ngã học thiển!

Khôi nhiên chiếm long thủ.

Khởi phi tiên khảo linh,

Lưu dĩ tích nhĩ phụ.

Khởi phi tiên khảo danh,

Bất tố dĩ lưu hậu.

Bình nhật vô thốn công,

Phủ ngưỡng dĩ tàm phụ.

Túc hĩ diệc hà cầu,

Tử táng vật yêm cửu.

Tử hạnh đắc toàn quy,

Táng hạnh đắc thân phụ.

Quan, khâm, bất khả mỹ,

Chỉ dĩ liễm túc thủ.

Cụ soạn bất khả phong,

Chỉ dĩ đáp bôn tẩu.

Bất khả tả chúc văn,

Bất khả vi đối cú.

Bất khả thiết minh tinh,

Bất khả đề thần chủ.

Bất khả đạt môn sinh,

Bất khả phó liêu hữu.

Page 359: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Tân khách bất khả chiêu,

Phúng điếu bất khả thụ.

Thử giai lụy ư sinh,

Tử giả diệc hề hữu.

Duy dĩ trọng ngô quá,

Hiển nhiên chúng đa khẩu.

Duy ư táng chi nhật,

Kỳ biển đạo tiền cữu.

Vu công bát cửu nhân,

Xuy tống liệt tả hữu.

Thảo thảo tử táng hoàn,

Loát ngã dĩ bôi tửu,

Sở đắc tân sắc bằng,

Phong hoàn nạp Sứ phủ.

Viên đề mộ thạch bi:

“Hoàng Nguyễn cố hưu tẩu”.

(VNb.46, VNv.15, TVNK, NKTP)

Dịch nghĩa:

VĂN DI CHÚC

Tuổi ta vừa tám mươi tám,

Số ta gặp vận dương cửu.

Than ôi đức ta kém!

Tuổi thọ lại hơn cha ta.

Than ôi, sức học ta nông cạn

Page 360: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Lại nghiễm nhiên chiếm đầu rồng.

Há chẳng phải tuổi của cha ta,

Lưu lại để cho ta sao?

Há chẳng phải danh của cha ta,

Không thành đạt thì để cho đời sau sao?

Suốt đời ta chẳng có chút công gì,

Cúi nhìn đất, ngửa nhìn trời đã lấy làm hổ thẹn.

Thế là đủ rồi, chẳng còn cầu gì,

Chết thì chôn đừng để lâu.

Chết may được toàn vẹn mà chết,

Chôn may được chôn gần mẹ cha.

Quan tài, khâm liệm, không nên đẹp,

Chỉ đủ gói kín chân tay thì thôi.

Cỗ bàn không nên làm to,

Chỉ để thết đãi người giúp việc.

Không được viết văn tế,

Không được làm câu đối,

Không được đặt minh tinh,

Không được đề thần chủ,

Không được đặt giấy báo cho học trò,

Không được cáo phó với bè bạn,

Không được mời khách khứa,

Không được nhận phúng viếng.

Những cái đó đều làm lụy cho người sống,

Page 361: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Người chết cũng chẳng được gì.

Chỉ làm thêm nặng tội lỗi cho ta,

Ồn ào thêm nhiều miệng tiếng.

Duy có ngày cất đám,

Cờ biển rước đi trước quan tài.

Thợ kèn tám chín người,

Đi hai bên tả hữu thổi kèn đưa tiễn.

Chôn cất qua loa cho xong,

Rót xuống đất cho ta chén rượu.

Bằng sắc mới được ban,

Hãy gói lại đem nộp cho dinh quan Sứ.

Rồi đề bia đá ở mộ rằng:

“Ông già triều nhà Nguyễn về hưu đã lâu”.

Tác giả tự dịch:

Kém hai tuổi xuân đầy chín chục,

Số sinh ra gặp lúc dương cùng;

Đức thầy đã mỏng mòng mong,

Tuổi thầy lại sống hơn ông cụ thầy.

Học chẳng có rằng hay chi cả,

Cưỡi đầu người kể đã ba phen;

Tuổi thầy tuổi của gia tiên,

Cho nên thầy được hưởng niên lâu dày.

Ấy thủa trước ông mày chửa đỗ,

Hóa bây giờ để bố làm xong.

Page 362: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Ơn vua chửa chút đền công.

Cúi trông thẹn đất ngửa trông thẹn trời.

Sống được tiếng trên đời trọn vẹn,

Chết lại gần quê quán hương thôn.

Mới hay trăm sự vuông tròn,

Ăn chơi đã trải chết chôn chớ hề.

Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt,

Kín chân tay đầu gót thì thôi;

Cỗ đừng hậu lắm con ơi,

Hễ ai chạy lại khuyên mời người ăn.

Tế đừng có viết văn mà đọc,

Đối trướng đừng gấm vóc làm chi;

Minh tinh con cũng bỏ đi,

Mời quan đề chủ con thì chớ nên.

Môn sinh chẳng tống tiền đạt giấy,

Bạn với thầy cũng vậy mà thôi;

Khách con con chớ khuyên mời,

Lễ đưa điếu phúng con thời chớ thu.

Ấy chẳng qua bận cho người sống,

Chết đi rồi còn ngóng vào đâu;

Lại mang cái tiếng to đầu,

Khi nay bày biện khi sau chê bàn.

Cờ biển của vua ban ngày trước,

Lúc đưa thầy con rước đầu tiên;

Page 363: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Lại thuê một lũ thợ kèn,

Vừa đi vừa thổi mỗi bên dăm thằng.

Việc tống táng lăng nhăng qua quýt,

Chuốc cho thầy một ít rượu be;

Đề vào mấy chữ trong bia,

Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu.

(VNv.151, VNb.46, TVNK)

Khảo dị:

a. NKTP: Trị mệnh

b. TVNK: không có hai câu này

c. VNb. 46: mươi

d. TVNK: Số thầy sinh phải

đ. TVNK: là

e. TVNK: ngày

g. TVNK: nên

h. TVNK: báo đền

i. TVNK: hổ

k. TVNK: Sống không để tiếng đời ta thán

l. TVNK: được về

m. TVNK: Sống lâu đã trải, chết chôn chờ gì

n. TVNK: to

o. TVNK: con

p. VNb. 46: Trướng đừng dùng

q. TVNK: không

Page 364: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

r. TVNK: chớ bổ

s. TVNK: Khách quen chớ viết thiếp mời

t. TVNK: Ai đưa lễ phúng

u. TVNK: Chẳng qua nợ để cho người sống

VNb.46: Ấy chẳng qua những trò thằng sống

v. TVNK: khi

x. TVNK: phường

y. TVNK: ít rượu hoa. VNv.151, VNb.46: cốc, không hiệp vận, đoán là

chép nhầm, ở đây theo TVNK.

Chú thích:

1. Nguyễn Khuyến thọ 74 tuổi (1835– 1909). Không hiểu tại sao câu

này lại nói thọ đến 88 tuổi. Có ý kiến đoán rằng: “bát bát” trong câu chữ Hán

có nghĩa là: “tám lần tám” (tức 64), do đó câu này có thể là: “kém sáu tuổi đầy

bảy chục”.

2. Câu này có ý nói: đã đến ngày tận số.

3. Chiếm đầu rồng: ý nói đứng đầu bảng rồng, tức đỗ đầu.

4. Câu này do chữ tích linh (cho tuổi). Kinh Lễ: Văn Vương nhà Chu

bảo Vũ Vương: “số ta một trăm tuổi, số mày chín mươi tuổi, ta cho mày ba

tuổi”. Sau đó Văn Vương thọ 97, Vũ Vương thọ 93 tuổi.

5. Minh tinh: một mảnh lụa, vải hoặc giấy, đề tên hiệu, tên thụy, tuổi và

chức tước, địa vị người chết để rước trong khi đưa đám. Khi mai táng xong

thì đốt cùng nhà táng. Có khi buộc vào cây nêu gọi là cây triệu.

6. Đề chủ: viết tên, hiệu người chết vào thần chủ (cái thẻ bằng gỗ để

thờ người chết), vật tượng trưng cho linh hồn người chết. Việc này thường

phải nhờ người có chức tước làm.

Page 365: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

7. Môn sinh: ngày xưa học trò cùng học một thầy được tổ chức thành

hội gọi là “đồng môn”. Lúc thầy còn sống thì săn sóc thăm hỏi, khi thầy chết

thì để tang và hàng năm phải làm giỗ

8. NKTP không đưa bài Nôm này vào, và theo soạn giả thì một số cụ

già người địa phương nói đây là bài dịch của cụ Trần Tán Bình trong lễ đưa

tang Nguyễn Khuyến. Ở đây chúng tôi căn cứ vào các văn bản Hán Nôm có

tại thư viện Hán Nôm.

THƠ NÔM

43.

ĐÊM MÙA HẠ CẢM HỨNG

Tháng Tư đầu mùa hạ,

Tiết trời thực oi ả.

Tiếng dế kêu thiết tha,

Đàn muỗi bay tơi tả.

Nỗi ấy ngỏ cùng ai,

Cảnh này buồn cả dạ.

Biếng nhắp năm canh chày,

Gà đà sớm giục giã.

(AB.383, VHv.2381)

Khảo dị:

a. TVNK: Than mùa hè.NKTP: không có bài này.

b. VHv.2381: biết

44.

THÚ QUÊ

Năm nay cầy cấy vẫn chân thua,

Chiêm thất đằng chiêm mùa mất mùa.

Page 366: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Phần thuế quan thu, phần trả nợ,

Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.

Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,

Chợ búa trầu cau cũng chẳng mua.

Tằn tiện thế thà sao chửa khá,

Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho.

(VHv.2381)

Khảo dị:

a. TVNK: Chốn quê. NKTP: không có bài này

b. TVNK: Tây

c. TVNK: trầu chè chẳng dám mua

d. TVNK: không khá nhỉ

45.

NƯỚC LỤT

Quai Mễ Thanh Liêm đã lở rồi,

Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi.

Gạo dăm ba bữa cơ còn kém,

Thuế một hai nguyên dáng vẫn đòi.

Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng,

Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi.

Đi đâu cũng thấy người ta nói,

Mười chín năm nay lại cát bồi.

(AB.383, TVNK, NKTP)

Khảo dị:

Page 367: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

a. TVNK và NKTP: Nước lụt Hà Nam

b. TVNK và NKTP: vài

c. AB. 383: đóng đã rồi

d. AB.383: bốn

Chú thích:

1. Năm Canh dần (1890) mưa lụt ở Hà Nam, Nam Định đã phá vỡ con

đê quai làng Mễ Tràng thuộc huyện Thanh Liêm. Do đó vùng quê tác giả bị lụt

lớn.

2. Nguyên: đồng bạc. Lúc bấy giờ thuế ruộng qui định một mẫu hai

đồng. Tuy gặp lụt lội mất mùa nhưng dân phải nộp thuế như lệ thường.

46.

VỊNH NƯỚC LỤT

Tỵ trước Tỵ này chục lẻ ba,

Thuận dòng nước cũ lại bao la.

Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách,

Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà.

Bắc bậc người còn chờ chúa đến,

Đóng bè ta phải rước vua ra.

Sửa sang việc nước cho yên ổn,

Trời dã sinh ta ắt có ta.

(AB.383, TVNK, NKTP)

Khảo dị:

a. TVNK và NKTP: Vịnh lụt

Chú thích:

Page 368: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

1. Năm Quý tỵ (1893), năm Ất tỵ (1905) cách nhau 13 năm, vùng Nam

Hà đều có lụt lớn do vỡ đê sông Hồng, mùa màng mất mát, nhiều người chết

đói.

2. Ý nói chủ nhà phải bắc bậc cao trong nhà để tránh tụt.

3. Nghĩa là đem ông đầu rau (vua bếp) đặt lên bè để thổi cơm.

47.

NGHE HÁT TRUNG THU

Một khúc đêm khuya tiếng đã đầy,

Nửa trên mặt nước nửa tầng mây.

Nghĩ mình vườn cũ vừa lui bước,

Ngán kẻ phương trời chẳng lựa dây.

Bẻ liễu Thành Đài lâu cũng dẹp,

Trồng lan ngõ tối ngát nào hay.

Từ xưa mặt ngọc ai là chẳng,

Chén rượu bên đèn luống tỉnh say.

(AB.383, VHv.2381, NKTP)

Khảo dị:

a. TVNK và NKTP: Nghe hát đêm khuya

VHv.2381: Trung thu nghe hát

b. TVNK và NKTP: Một tiếng đêm khuya tiếng đã chầy

c. TVNK và NKTP: chen

d. TVNK và NKTP: dứt

đ. TVNK và NKTP: thôi cũng xếp

VHv.2381: lâu cũng xếp

e. AB.383: đền

Page 369: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Chú thích:

1. Bẻ liễu Thành Đài: Tác giả dẫn điển Hàn Hoành đời Đường lấy một

danh kỹ là Liễu thị ở phố Chương Đài, Trường An, sau đi làm quan xa, để

Liễu thị ở lại đó ba năm, không đón đi được, nên làm bài “Chương Đài liễu”

để thăm; ý muốn nói: trong lúc thời cuộc đổi thay, những cảnh bất trắc cũng

chẳng lạ lùng gì. Hai bản chữ Nôm viết là “dài”, chúng tôi theo NKTP và

TVNK.

2. Câu này viết thoát ý thành ngữ “Lan sinh u cốc”: hoa lan mà sinh

trong hang tối thì dẫu có thơm tho cũng chẳng ai biết.

3. Mặt ngọc: chỉ người đàn bà đẹp. Câu này theo quan niệm xưa ý nói

“hồng nhan bạc mệnh”.

48.

VỊNH NÚI AN LÃO

Mặt nước mênh mông nổi một hòn,

Núi già nhưng tiếng vẫn còn non.

Mảnh cây thưa thớt đầu như trọc,

Ghềnh đá long lay ngấn chửa mòn.

Một lá về đâu xa thăm thẳm,

Nghìn nhà trông xuống bé con con.

Dẫu già đã hẳn hơn ta chửa?

Chống gậy lên cao bước chửa chồn!

(AB.383, VHv.2381)

Khảo dị:

a. AB.383: nước

b. VHv. 2381: làng

c. TVNK: gối chẳng

Page 370: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Chú thích:

1. Đây là cách chơi chữ của nhà thơ: tên núi là An Lão (lão: già) nhưng

người ta thường nói núi non:

Trăng bao nhiêu tuổi trăng già

Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non?

(Ca dao)

2. Mảnh cây: từng đám cây, khóm cây.

3. Một lá: một chiếc thuyền.

49.

CHỢ ĐỒNG

Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,

Năm nay chợ họp có đông không?

Dở trời, mưa bụi còn hơi rét,

Nếm rượu, tường đình được mấy ông?

Hàng quán người về nghe xáo xác,

Nợ nần năm hết hỏi lung tung.

Dăm ba ngày nữa tin xuân tới,

Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng.

(A.3160, AB.383, VHv.2381)

Khảo dị:

a. A.3160: Thập nhị nguyệt nhị thập tứ nhật thị (Chợ 24 tháng Chạp)

b. A.3160: chẳng biết

VHV.2381: Hôm nay không biết họp đông không

c. NKTP và TVNK: đền

d. AB.383: trước

Page 371: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

đ. AB.383: trước

e. A.3160 nổ đánh

Chú thích:

1. Làng Vị Hạ có chợ họp ở trong làng, gọi là chợ Và. Hàng năm cứ

đến phiên chợ cuối tháng Chạp (chợ sắm tết) nhân dân lại dời chợ ra họp ở

một cánh ruộng mạ phía sau làng, nên gọi là chợ Đồng. Từ năm 1949 quân

Pháp về đóng đồn ở làng Vị Hạ thì chợ Và cũng thôi không họp nữa, và tục

họp chợ Đồng vào cuối năm cũng mất.

2. Pháo trúc: dịch chữ “bộc trúc”. Ngày xưa ở những dãy núi phía Tây

Trung Quốc có thứ quỷ Sơn Táo, hễ ai trông thấy nó là bị ốm đau. Về sau có

Lý Điền dùng ống trúc đốt lửa nổ thành tiếng to, quỷ sợ chạy mất. Do điển

này mà người đời sau cứ đến Tết là đốt pháo để trừ ma quỷ.

50.

CUỐC KÊU CẢM HỨNG

Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ,

Đấy hồn Thục đế thác bao giờ.

Năm canh máu chảy đêm hè vắng,

Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt thờ.

Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,

Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.

Ban đêm ròng rã kêu ai đó,

Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.

(AB.383, VHv.2381)

Khảo dị:

a. AB.383: Cuốc kêu

b. NKTP và TVNK: Ấy

Page 372: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

c. VHv.2381: hóa

d. AB.383: nước

đ. NKTP và TVNK: Thâu

Chú thích:

1. Thục đế: điển cũ kể rằng vua nước Thục mất nước, chết hóa thành

con cuốc, suốt đêm ngày kêu ròng rã “Thục quốc, Thục quốc!”

51.

THU VỊNH

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Nước biếc trông như tầng khói phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào.

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không ngỗng nước nào.

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

(A. 469, AB.383, VHv.2381)

Khảo dị:

a. NKTP: Vịnh mùa thu, VHv.2381: Mùa thu ngồi mát ngâm thơ

b. VHv.2381: Cầu

Chú thích:

1. Ông Đào: tức Đào Tiềm. Xem thêm chú thích 7 bài Bùi viên cựu

trạch ca, số 5.

52.

THU ẨM

Page 373: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Năm gian nhà cỏ thấp le te,

Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.

Lưng dậu phất phơ màu khói nhạt,

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,

Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.

Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy,

Độ năm ba chén đã say nhè.

(A.469, A.3160, AB.383, VHv.2381)

Khảo dị:

a. VHv.2381: Mùa thu ngồi mát uống rượu, A.3160: Dạ tọa ngẫu tác

b. A.469, A.3160: Ba gian lều.

c. A.3160, VHv.2381: khuya

d. Theo NKTP, có bản chép: Lưng dậu phất phơ làn khói phủ

đ. VHV.2381, A.469: Làn ao sóng sánh bóng trăng xoe

53.

THU ĐIẾU

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,

Page 374: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Có đâu đớp động dưới chân bèo.

(A.469, A.3160, AB.383, VHv.2381)

Khảo dị:

a. VHv.2381: Mùa thu ngồi mát câu cá; A.3160: Thu dạ điếu đĩnh

(Thuyền câu đêm thu); NKTP: Câu cá mùa thu

b. A.3160, A.469: Lá khô

c. VHv.2381: Lối ngõ

d. AB.383: ôm cầm

54.

BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ

Đã bấy lâu nay bác tới nhà,

Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.

Ao sâu nước cả khôn mò cá,

Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.

Cải chửa ra cây, cà chửa nụ,

Bầu vừa rụng rốn mướp đương hoa.

Đầu trò tiếp khách, trầu không có,

Bác đến chơi đây ta với ta.

(AB.383, VHv.2381)

Khảo dị:

a. AB.383: Gặp bạn ngồi chơi suông

VHv.2381: Gặp bạn ngồi suông tình

b. NKTP: Chẳng mất khi nay bác tới nhà

c. VHv. 2381: chài

d. NKTP: Cải đã tàn cây

Page 375: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

đ. TVNK: mới

e. AB.383: vừa

55.

GỬI BÁC CHÂU CẦU

Kim lan từ thủa nhỏ chơi bời,

Đôi lứa như ta được mấy người.

Trời hẹn ngày cho ba vạn sáu,

Ta chung tuổi mới một trăm hai.

Kẻ già nét bút chăm cùng trẻ,

Người khỏe tay dao độ lấy đời.

Từ trước bảng vàng nhà sẵn có,

Chẳng qua trong bác với ngoài tôi.

(AB.383, VHv.2381)

Khảo dị:

a. AB.383: Gửi cho ông Châu Cầu

b. AB.383: bé

c. VHv.2381: còn

d. AB.383: đọ mấy

Chú thích:

1. Cụ Bùi Văn Quế người làng Châu Cầu, huyện Thanh Liêm (Hà

Nam), đỗ Cử nhân cùng khoa với nhà thơ, sau được bổ làm quan đến chức

Tuần phủ rồi về hưu. Dân địa phương quen gọi là cụ Nghè Châu Cầu.

2. Kim lan: Kinh Dịch có hai câu “Nhị nhân đồng tâm, kỳ lợi đoạn kim;

đồng tâm chi ngôn, kỳ xú như lan”, ý nói hai người mà đồng lòng thì lợi khí có

thể chặt được kim loại; lời nói của bạn đồng tâm thì thơm như hoa lan. Ý câu

thơ nói lên tình bạn bè thân thiết nhất.

Page 376: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

3. Câu này ý nói: đời người giới hạn chỉ có một trăm năm thôi.

4. Câu này ý nói: mỗi người vừa chẵn 60 tuổi thọ.

5,6. Một người thì dạy giúp đàn trẻ học hành (chỉ Nguyễn Khuyến) và

một người thì làm thuốc để cứu nhân độ thế (chỉ Bùi Văn Quế sau khi về hưu

có cửa hàng bán thuốc ở phố Quy Lưu, thị xã Hà Nam).

56.

HỎI THĂM MẤT CƯỚP

Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông,

Nó lại lôi ông đến giữa đồng.

Lấy của đánh người quân tệ nhỉ,

Xương già da cóc có đau không?

Bây giờ mới biết sầy da trán,

Ngày trước đi đâu mất mảy lông.

Thôi cũng đừng nên ky cóp nữa,

Kẻo mang tiếng dại với phường ngông.

(VHv.2381, AB.383, A.3160. A.469)

Khảo dị:

a. TVNK và NKTP: Hỏi thăm quan tuần thất cướp

VHV.2381: Phỏng ký cố hữu tú tài mỗ thất kiếp (Hỏi thăm bạn cũ Tú

tài mổ mất cướp)

A.3160: Ký Tiên Khoán Tuần phủ thất kiếp (Gửi Tuần phủ Tiên Khoán

mất cướp)

A.469: Ký vấn Tiên Khoán Trần công (Gửi thăm ông Trần ở Tiên

Khoán)

b. NKTP: Nó lại mang ông bỏ giữa đồng

c. VHv.2381: bắt

Page 377: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

d. AB.383: thế

đ. VHv.2381: trót đã; A.469: lỡ phải

e. AB.383, A.469: Từ trước chưa từng

Chú thích:

Bài này nhà thơ gửi cho ông Tuần phủ Đích là bạn học, người làng

Tiên Khoán, huyện Bình Lục (Hà Nam). Ông Đích vốn có tính keo kiệt bủn xỉn

với bạn bè, do đó thường bị nhà thơ giễu cợt đả kích. Về sau ông Đích được

bổ làm Ngự sử ở Kinh, lại hiềm khích riêng với nhà thơ. Lúc ông Đích hưu

quan về nhà, chỉ lo làm giàu, rồi bị cướp. Nhà thơ nhân đó gửi bài này “hỏi

thăm”. Ông Đích cũng có bài họa lại.

Ông thăm tôi cũng giã ơn ông,

Nó có lôi tôi đến giữa đồng.

Cũng tưởng vun thu phòng lúc thiếu,

Nào ngờ ký cóp lại như không.

Chém cha thằng quỷ đen tai mắt,

Chẳng nể ông già bạc tóc lông.

Ông hỏi thăm tôi, tôi biết vậy,

Thương ông tuổi tác, cháu thời ngông.

(VHv.2381)

Khảo dị:

a. TVNK và NKTP: Gớm cho những kẻ

57.

KIỀU BÁN MÌNH

Thằng bán tơ kia giở mối ra,

Làm cho bận đến cụ Viên già.

Muốn êm phải biện ba trăm lạng,

Page 378: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Khéo xếp nên liều một chiếc thoa.

Đón khách mượn màu son phấn mụ,

Đem thân chuộc lấy tội tình cha.

Có tiền việc ấy mà xong nhỉ,

Đời trước làm quan cũng thế a!

(AB.383, VHv.2381, NKTP, TVNK)

Khảo dị:

a. VHv.2381: Bán mình chuộc cha

AB.383: nạn bán mình

b. VHv.2381: đâu

c. VHv.2381: giói

d. NKTP,TVNK: vương

đ. VHv.2381: Kiếm

e. TVNK: Nổi tiếng

58.

ÔNG PHỖNG ĐÁ

Người đâu tên họ là gì?

Khéo thay chích chích chi chi nực cười.

Vắt tay ngửa mặt lên trời,

Hẳn còn lo tính sự đời chi đây?

Thấy Phỗng đá lạ lùng muốn hỏi.

Cớ làm sao len lỏi đến chi đây?

Hay tưởng trông cây cỏ nước non này,

Chí cũng rắp dan tay vào hội lạc.

Page 379: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Thanh Sơn tự tiếu dầu tương hạc,

Thương hải thùy tri ngã diệc âu.

Thôi cũng đừng chấp chuyển đâu dâu,.

Túi vũ trụ mặc đàn sau gánh vác.

Duyên hội ngộ là duyên tuổi tác,

Chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác.

Cuộc tỉnh say, say tỉnh một vài câu,

Nên chăng đá cũng gật đầu!

(A.3160, AB.383, VHv.2381)

Khảo dị:

a. A.3160: Vịnh ông Lão đá

b. A.3160: Quê

c. NKTP: Hỏi ra

d. TVNK: Giang tay ngảnh mặt trông trời

đ. NKTP: Còn toan lo tính sự đời chi đây, VHv.2381 và AB.383: không

có 4 câu này, chúng tôi theo A.3160.

e. NKTP: Hay mảng vui hoa quả nước non này

g. NKTP: Chừng cũng muốn dan tay vào hội lạc

VHv.2381: Toan giải kết dan tay vào hội lạc

h. VHv.2381: Vân

i. NKTP: nghĩ

Chú thích:

1. Tương truyền vào khoảng 1891–1893 Nguyễn Khuyến đến làm gia

sư ở nhà Hoàng Cao Khải (Kinh lược Bắc Kỳ). Một hôm, nhà Khải có tiệc

mừng thọ. Quan lại được mời đến dự đông đủ, nhà thơ cũng được mời ra dự

Page 380: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

tiệc. Khác với mọi người, ăn bận sang trọng, hết lời chúc tụng chủ nhà,

Nguyễn Khuyến chỉ đóng một bộ khăn thâm áo vải và ngồi im một góc chẳng

nói năng gì. Một viên quan thấy vậy mới thì thào hỏi người bên cạnh: ai mà

ngồi như phỗng đá vậy? Nhân đó nhà thơ làm bài này. Tương truyền

rằng:Phan Văn Ái, lúc đó đương làm một chức quan trong Nha kinh lược và

cũng có mặt trong bữa tiệc này, liền làm một bài ca trù để họa lại:

Non thiêng khéo đúc nên người,

Trông chừng sành sỏi khác người trần gian.

Trải bao gió núi mưa ngàn,

Đã già già sóc, lại gan gan lỳ.

Gan lỳ già sóc,

Há con chi mà sợ cóc chi ai!

Người là người, tớ cũng là người,

Ngẫm cho kỹ vẫn chênh vênh đầu dốc.

Tương tri tằng thức năng công ngọc,

Mạc luyện như hà khả bổ thiên.

Thôi mặc ai rằng trắng rằng đen,

Thế như thế cũng ngồi yên như thế vậy.

Còn trời đất hãy còn tai mắt ấy,

Lặng mà coi họa thấy lúc nào chăng?

Hẵng về giã gạo ba giăng.

2. Chích chích chi chi: Có vẻ ngây ngô, khờ khạo

3. Hội lạc: do điển một hội hưởng vui (lạc xã) của một số nhà thơ đời

Tống.

Page 381: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

4. Câu này và câu trên ý nói: ta tự cười đầu đã bạc phơ như đầu chim

bạc trong chốn núi xanh, ai có hay đâu rằng ta cũng như con chim âu, ung

dung nơi bãi biển xanh kia.

5. Túi vũ trụ: trời đất. Câu này có ý nói mọi việc ở đời này là phó mặc

cho lớp người sau lo liệu lấy.

59.

ÔNG TƯỢNG SÀNH ĐỨNG TRÊN NÚI NON BỘ

Ông đứng làm chi đấy hỡi ông,

Trơ trơ như đá, vững như đồng

Đêm ngày gìn giữ cho ai đó,

Non nước đầy vơi có biết không.

(VHv.2381)

Khảo dị:

a. TVNK: Ông Phỗng đá

b. VHv.2381: Ông

Chú thích:

1. Tương truyền khi nhà thơ ngồi dạy học ở nhà Hoàng Cao Khải, một

hôm dạo chơi ngoài vườn, thấy ông Phỗng đá bên hòn non bộ, liền tức cảnh

mà làm bài này.

60.

VỊNH TIẾN SĨ GIẤY

I

Khéo chú hoa man khéo vẽ trò,

Bỡn ông mà lại dứ thằng cu.

Mày râu mặt đó chừng bao tuổi,

Giấy má nhà bay đáng mấy xu?

Page 382: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Bán tiếng mua danh thây lũ trẻ,

Bảng vàng bia đá cũng nghìn thu.

Hỏi ai muốn ước cho con cháu,

Nghĩ lại đời xưa mấy kiếp tu.

II

Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,

Cũng gọi ông Nghè có kém ai.

Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,

Cái giá khoa danh ấy mới hơi.

Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe,

Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi.

(AB.383, VHv.2381)

Khảo dị:

a. AB.383: Vịnh ông Tiến sĩ giấy

b. TVNK: rõ

c. AB.383: Mày râu vẽ mặt vang trong nước.

d. TVNK: vẫn

đ. VHv. 2381: Ông Nghè tháng Tám

e. TVNK: thế

g. AB.383: Đầu.

Chú thích:

1. Ngày trước, hàng năm vào dịp Tết trung thu, người ta hay làm hình

người bằng giấy cho trẻ con chơi. Thường là một ông Tiến sĩ, có mũ áo chỉnh

Page 383: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

tề, ngồi “ghế tréo lọng xanh”, hai bên có cờ, có biển. Mục đích là gây cho trẻ

con ý thức yêu văn chương, trọng khoa cử và lấy đó làm con đường lập thân.

2. Hoa man: người thợ làm hàng mã.

3. Câu này ý nói: bỡn ông Nghè và rử trẻ con.

4. Giáp bảng: bảng đề tên từ học vị Tiến sĩ trở lên. Trái với ất bảng là

bảng đề tên học vị phó bảng

5. Văn khôi: đầu làng văn. Ở đây chỉ người đỗ đạt cao.

6. Hời: rẻ, lãi.

61.

MẸ MỐC

So danh tiết ai bằng mẹ Mốc,

Ngoài hình hài gấm vóc cũng thêm ra.

Tấm hồng nhan đem bôi lấm xóa nhòa,

Làm bệ rạc cho hòa con mắt tục.

Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc,

Tâm trung thường thủ tự kiên kim.

Vì chồng xa muôn dặm khôn tìm,

Phận tòng nhất phải giữ gìn cho vẹn tiết.

Trong như giá, trắng như ngần, sạch như tuyết,

Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ.

Bưng tai ngoảnh mặt làm ngơ,

Rằng khôn cũng gật, rằng khờ cũng thây.

Khôn kia dễ bán dại này!

(AB.383, VHv.2381)

Khảo dị:

Page 384: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

a. AB.383: Con mẹ Mốc. NKTP không có bài này

b. TVNK: giá

c. AB.383: thèm, TVNK: chẳng thêm

d. TVNK: Làm thế để cho qua mắt tục

đ. AB.383: Thi rằng: Thân ngoại vô cầu như mỹ ngọc

e. AB.383: hữu

g. TVNK: Nhớ chồng con muôn dặm xa tìm

h. TVNK: Giữ son sắt êm đềm một tiết

i. TVNK. Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết

k. AB.383: Dẫu Tây Tầu một mảnh cũng không dơ

l. AB.383: Rằng dại cũng gật, rằng khờ cũng thây

Chú thích:

1. Vào khoảng 1897, ở Nam Định có một người đàn bà điên, nhưng

còn trẻ đẹp, thường ăn mặc rách rưới, mặt mũi nhem nhuốc đi hát nghêu

ngao ngoài phố, người đương thời gọi là “Mẹ Mốc”. Nghe nói người này nhà

khá giả, gặp buổi loạn lạc bị mất chồng con nên buồn phiền mà hóa dại. Nhà

thơ nghe chuyện cảm xúc làm bài này.

62.

TỰ TRÀO

Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,

Chẳng gày chẳng béo chỉ làng nhàng.

Cờ đương giở cuộc không còn nước,

Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.

Mở miệng nói ra gàn bát sách,

Mềm môi chén mãi tít cung thang.

Page 385: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nghĩ mình lại ngán cho mình nhỉ,

Mà cũng bia xanh cũng bảng vàng.

(AB.383. VHv. 2381, NKTP, TVNK)

Khảo dị:

a. AB.383: Cảm hứng

VHv.2381: Đề ảnh

b. NKTP: Ta cũng chẳng giàu, cũng chẳng sang

c. VHv.2381: Cờ đương giở cuộc toan nhầm nước

d. VHv.2381: Bạc gặp canh đen phải chạy làng

AB.383: Bạc đóng ba nguyên đã cậy làng

đ. NKTP: gớm

AB.383: Nghĩ ta, ta gớm cho ta nhỉ

e. NKTP và TVNK: Thế

Chú thích:

1. Thời cuộc diễn biến giở chừng mà nước đã mất, bế tắc như cờ bí

nước.

2. Chưa trọn cuộc đời làm quan đã bỏ về ở ẩn, như con bạc chạy làng,

thôi non.

3. Theo chế độ thi cử thời xưa, những người đỗ Tiến sĩ được ghi họ tên

lên bảng vàng và khắc tên vào bia đá.

63.

NGẪU HỨNG

Tháng ngày thấm thoắt tựa chim bay,

Ông ngẫm mình ông, nghĩ cũng hay.

Tóc bạ bao giờ không biết nhỉ?

Page 386: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Răng long ngày trước hãy còn đây.

Câu thơ được chửa, thưa rằng được,

Chén rượu say rồi, nói chửa say.

Kẻ ở trên đời lo lắng cả,

Nghĩ ra ông sợ cái ông này.

(A.3160, A.469, AB.383, VHv.2381)

Khảo dị:

a. TVNK và NKTP: Tự thuật.

AB.383: Cảm hứng

A. 469: Hý tác

A.3160: Vọng tưởng hý tác

b. AB.383: nghĩ

c. AB.383: mấy chiếc

64.

KHAI BÚT

Ình ịch đêm qua trống các làng,

Ai ai mà chẳng rước xuân sang.

Rượu ngon nhắp giọng đưa vài chén,

Bút mới vui tay thử một hàng.

Ngoài lũy cắp cô cò cụ Tổng,

Cách ao lẹt đẹt pháo thầy Nhang.

Một năm một tuổi, trời cho tớ,

Tuổi tớ trời cho, tớ lại càng…

(AB.383, A.3160, TVNK)

Page 387: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Khảo dị:

a. A.3160, AB.383: nhắp miệng

b. A.3160: hứng tay; NKTP: xô tay

c. Theo TVNK có bản viết: coóc co, nhấp nhô

d. Theo TVNK có bản viết: Trước giậu phất phơ cờ

Chú thích:

1. Cụ Tổng: tức cụ Tổng Hào ở gần nhà Nguyễn Khuyến, nhà giàu có,

xung quanh nhà có lũy tre bao bọc xanh tốt um tùm, chim cò về đậu ở đây rất

nhiều.

2. Thầy Nhang: tức thầy Hương Tiên, ở cách nhà Nguyễn Khuyến một

cái ao. Ông này làm Hương trưởng, nhà giàu có, Tết đến thường đốt nhiều

pháo.

3. Câu này rút ý câu tục ngữ: Càng già, càng dẻo, càng dai.

65.

LÊN LÃO

Ông chẳng hay ông tuổi đã già,

Năm nay ông cũng lão đây mà.

Anh em làng xóm xin mời cả,

Xộ bánh, trâu heo cũng gọi là.

Chú Đáo bên làng lên với tớ,

Ông Từ ngõ chợ lại cùng ta.

Bây giờ đến bực ăn dưng nhỉ,

Có rượu thời ông chống gậy ra.

(AB.383, A.469, A.3160)

Khảo dị:

Page 388: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

a. A.3160: Năm mươi thọ; A.469: Hý tác

b. TVNK: Năm lăm; NKTP: Năm mươi

c. NKTP: Giò

d. NKTP: Chú Láo bên người lên với tớ

đ. TVNK: Ông Từ xóm chợ lại cùng ta

NKTP: Ông Từ ngõ chợ lễ cùng ta

Chú thích:

1. Theo phong tục của địa phương nhà thơ trước đây, hàng năm vào

ngày mồng 6 tháng Giêng âm lịch, các cụ bô lão trong làng đến sáu mươi tuổi

thì làm lễ tế ở đình làng gọi là lễ lên lão. Còn các cụ từ năm mươi lăm tuổi trở

lên thì vào ban lão làng, trông coi việc tế lễ cho đến sáu mươi tuổi mới thôi. Ý

nói nhà thơ cũng đã đứng vào hàng lão làng.

2. Hai ông này cùng tên lão một lần với nhà thơ. Chú Đáo ở giáp Đoài,

Nguyễn Khuyến ở giáp Đông (cùng làng Vị Hạ); Ông Từ tên là Mai Đặc, ở

xóm Chợ. Vì ông giữ chức Thủ từ nên gọi là ông Từ.

3. Ăn dưng: ăn không. Ý nói từ nay nhà thơ bắt đầu được miễn mọi

đóng góp trong phe giáp và được hưởng các quyền lợi ăn uống biếu xén như

các bô lão khác.

66.

CẢNH GIÀ

Nhớ từ năm trước hãy thơ ngây,

Phút chốc mà già đã đến ngay.

Mái tóc chòm xanh, chồm lốm đốm,

Hàm răng chiếc rụng, chiếc lung lay.

Nhập nhèm bốn mắt tranh mờ tỏ,

Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say.

Page 389: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Còn một nỗi này thêm chán ngắt,

Đi đâu dở những cối cùng chày.

(VHv.2381, A.3160)

Khảo dị:

a. A.3160: Tháng ngày thấm thoát tựa chim bay,

Ông gẫm mình ông nghĩ cũng hay.

b. NKTP. Mái tóc phần sâu phần lốm đốm

VHv. 2381:…chòm lấp lánh

c. VHv.2381: Lập lờ

d. NKTP: lủng củng

Chú thích:

1. Cối chày nhỏ dùng để giã trầu.

67.

CẢM HỨNG

Năm nay tớ đã bảy mươi tư,

Rằng lão, rằng quan tớ cũng ừ.

Lúc hứng đánh thêm ba chén rượu,

Ngồi buồn ngâm láo mấy câu thơ.

Bạn già lớp trước nay còn mấy,

Chuyện cũ mười phần chín chẳng như.

Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa,

Thử xem mãi mãi thế này ư?

(AB.383, VHv.2381)

Page 390: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Khảo dị:

a. TVNK và NKTP: Đại lão

b. TVNK: uống.

c. TVNK và NKTP: dăm

d. TVNK và NKTP: Khi

đ. TVNK và NKTP: một

e. VHv.2381: trăm

Phần thứ ba. PHỤC LỤC, NIÊN BIỂU VÀ THƯ MỤC

I. NIÊN BIỂU NGUYỄN KHUYẾN

1835

(Ất mùi)

– Nguyễn Khuyến (NK) tên thật là Thắng, hiệu Quế Sơn, tự

Miễn Chi, sinh ngày 15–II 1835 (tức 18 tháng Giêng năm Ất

mùi) tại quê ngoại – làng Văn Khê, tục gọi làng Ngòi, xã

Hoàng Xá, huyện Ý Yên (nay thuộc xã Yên Trung, huyện Ý

Yên, tỉnh Nam Hà). Quê họ nội ở làng Và (tên chữ là Vỵ Hạ),

xã Yên Đổ, huyện Bình Lục (nay thuộc xã Trung Lương,

huyện Bình Lục, tỉnh Nam Hà).

– Cha: Nguyễn Tông Khởi (1796 – 1853), thường gọi là cụ

Mền Khởi, đỗ ba khóa Tú tài, dạy học. Quê gốc vùng Treo

Vọt, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

– Mẹ: Trần Thị Thoan (1799 – 1874), con Trần Công Trạc,

từng đỗ Sinh đồ (Tú tài) thời Lê mạt.

– Đánh dẹp cuộc khởi loạn Nùng Văn Vân. Nguyễn Công

Trứ được thực thụ Thượng thư Bộ binh, lĩnh chức Tổng đốc

An–hải.

1843 – NK theo gia đình trở về quê nội.

Page 391: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(Quý mão)

1852

(Nhâm tý)

– NK lấy vợ, con ông Nguyễn Gia Thung, người cùng làng.

– NK đi thi Hương cùng với cha nhưng không đỗ.

1853

(Quý sửu)

– Địa phương có dịch thương hàn. Cha, em ruột và bố mẹ

vợ cùng nhiều họ hàng thân thuộc NK qua đời vì bệnh dịch.

1854

(Giáp dần)

– NK theo học ông nghè Vũ Văn Lý và đi dạy học.

– Cao Bá Quát khởi nghĩa Mỹ Lương. Năm sau bị dập tắt.

1855

(Ất mão)

NK dạy học ở nhà Hà Văn Danh thuộc Lạng

Phong, Nho Quan.

NK theo học giáo thụ Phạm Mỹ ở phủ Nho Quan.

NK thi Hương không đỗ.

1858

(Mậu ngọ)

– Pháp nổ súng tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) mở

đầu chiến tranh xâm lược Việt Nam (31 – VIII).

– NK thi Hương không đỗ

1859

(Kỷ mùi)

– Pháp chuyển hướng tấn công vào Gia Định, theo đường

cửa biển Cần Thơ đánh phá các đồn lũy. Ngày 17 – II, Gia

Định thất thủ. Phong trào kháng chiến bùng lên.

– NK theo học quan Tri phủ Trần Duy Vỹ ở Hoài Đức.

1860

(Canh thân)

Phạm Văn Nghị lập đội nghĩa dũng xin triều đình cho kéo vào

Quảng Nam đánh Pháp. Việc không thành.

1861

(Tân dậu)

– Pháp đánh Đại đồn ở Chí Hòa, Nguyễn Tri Phương chống

cự anh dũng nhưng thất bại. Ngày 25 – II, Đại đồn thất thủ.

– Phán lấn ra các tỉnh.

– Trương Định và nhiều nghĩa sĩ chiêu mộ nghĩa binh chống

Pháp ở Gia Định.

Page 392: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

– Nguyễn Trung Trực đốt tàu Lexpêrăng (L’Espérance) của

Pháp ở vàm Nhật Tảo (sông Vàm Cỏ Đông) (10 – XII).

– Cuộc tập kích đồn Pháp tại Cần Giuộc do Đốc binh Là chỉ

huy phối hợp với cánh quân Trương Định (16 – XII).

– Nguyễn Đình Chiểu viết Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc nổi

tiếng.

– NK thi Hương không đỗ.

1862

(Nhâm tuất)

– Pháp chiếm xong ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Triều đình ký

hòa ước nhượng ba tỉnh.

- Trương Định được suy tôn Bình Tây Đại nguyên soái tổ

chức đánh Pháp ở Gò Công, Tân An, Mỹ Tho.

1864

(Quý hợi)

Phan Thanh Giản được cử làm Chánh sứ sang Pháp thương

thuyết chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Việc không

thành.

1864

(Giáp tý)

– NK thi Hương đỗ đầu Cử nhân trường Hà Nội.

– Trương Định tử chiến với giặc trong trận Kiểng Phước

(đêm 18 – VIII).

1865

(Ất sửu)

– NK vào Huế thi Hội nhưng không đỗ.

1866

(Bính dần)

– Khởi nghĩa Đoàn Trưng, Đoàn Trực ở Kinh thành.

1867

(Đinh mão)

– Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ.

– Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử (4 – VIII)

– Phan Bội Châu sinh (26 – XII).

1868

(Mậu thìn)

– NK thi Hội không đỗ, ở lại Huế vào học Quốc tử giám.

– Nguyễn Trung Trực tuẫn tiết (27 – X).

Page 393: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

1869

(Kỷ tỵ)

– NK dự khoa thi Hội (ân khoa) nhưng không đỗ.

1870

(Canh ngọ)

– Tùng thiện vương Miên Thẩm qua đời (30–III).

1871

(Tân mùi)

– NK đỗ đầu thi Hội và thi Đình, học vị Hoàng giáp. Vua Tự

Đức ban cờ biển và hai chữ Tam nguyên. Được bổ làm Toàn

tu Sử quán trong triều.

1872

(Nhâm thân)

– Phan Châu Trinh sinh (9 – XI).

– Các nhà thơ Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Văn Siêu qua đời.

1873

(Quý dậu)

– NK làm Đốc học rồi thăng án sát tỉnh Thanh Hóa.

– Pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ nhất (20-XI)

– Thành Hà Nội thất thủ. Phò mã Nguyễn Lâm tử trận.

Nguyễn Tri Phương bị trọng thương, nhịn ăn mà chết. Triều

đình Huế phái Nguyễn Văn Tường ra Bắc Kỳ thương thuyết.

– Chỉ huy quân Pháp Phơrăngxi Gacniê (Francis Garnier) bị

quân Cờ Đen giết tại Ô Cầu Giấy (21 – XII).

1874

(Giáp tuất)

– Pháp rút quân khỏi Bắc Kỳ (tháng II).

– Phong trào Bình Tây sát Tả của Trận Tấn và Đặng Như

Mai ở Nghệ An.

– NK tham gia đánh dẹp quân khởi nghĩa (Nghệ phỉ) ở các

vùng Tĩnh Gia, Nông Cống.

– Mẹ NK mất tại tỉnh đường Thanh Hóa. Nghỉ ba năm về quê

chịu tang mẹ.

1875

(Ất hợi)

– Thủ khoa Huân tuẫn tiết.

1876 – NK lại ra giữ chức Biện lý Bộ hộ trong Kinh.

Page 394: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(Bính tý)

1877 (Đinh

sửu)

– NK giữ chức Bố chính tỉnh Quảng Ngãi.

– NK bị phạt chín tháng lương (cùng Trà Quý Bình) về tội

không kịp thời làm lễ “đảo vũ”.

1878

(Mậu dần)

– NK bị đàn hặc, giáng chức và điều về Huế, sung chức Trực

học sĩ, Tỏan tu Quốc sử quán.

1879–1883

(Kỷ mão-

Quý mùi)

– NK tiếp tục làm Tỏan tu ở Quốc sử quán.

1881

(Tân tỵ)

– Hoàng giáp Phạm Văn Nghị qua đời.

1882

(Nhâm ngọ)

– Pháp đánh Hà Nội lần thứ hai (25 – IV). Tổng đốc Hoàng

Diệu tuẫn tiết.

1883

(Quý mùi)

– Pháp lần lượt đánh chiếm các tỉnh Bắc Kỳ.

– Tổng chỉ huy quân Pháp Hăngri Rivie (Henri Rivière) bị

quân Cờ Đen giết ở Cầu Giấy (19–V)

– Vua Tự Đức chết (19 – VII).

– NK được cử làm Phó sứ cùng Chánh sứ là Tuần phủ Là

Xuân Oai đi sứ Thanh, nhưng chưa qua biên giới thì có lệnh

bãi.

– Vua Dục Đức mới được nối ngôi đã bị phế bỏ, lập Hiệp

Hòa, sau lại bỏ Hiệp Hòa, lập Kiến Phúc.

– Pháp đánh chiếm cửa biển Thuận An. Triều đình Huế ký

hòa ước Hacmăng (Harmand), đặt nước Việt Nam dưới

quyền bảo hộ của Pháp (25 – VIII).

Page 395: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

– Tháng XII, Pháp đánh chiếm Sơn Tây, Nguyễn Hữu Độ đề

cử NK làm Tổng đốc Sơn Tây, song ông không chịu đến

nhận chức.

1884

(Giáp thân)

– Ngày 12 – IV, Pháp đánh Hưng Hóa, Nguyễn Quang Bích

rút lui, tổ chức phong trào Cần vương ở Bắc Kỳ.

– Pháp và Trung Quốc ký sơ bộ hòa ước Thiên Tân. Theo

đó quân Trung Quốc rút khỏi Bắc Kỳ (II – V).

– Tháng VI, NK vào Kinh sau khi bị ép nhận chức Tổng đốc

nhưng kiên quyết khước từ.

– Triều Nguyễn ký hàng ước Patơnốt (Patenôtre) chấp nhận

quyền bảo hộ của Pháp trên toàn cõi Việt Nam (6 – VI).

– Mùa thu, NK cáo quan trở về làng quê Yên Đổ.

– Nguyễn Thông qua đời tại Phan Thiết (27 – VIII)

1888

(Bính tuất)

– Pháp và Trung Quốc chính thức ký hiệp ước Thiên Tân.

– Tôn Thết Thuyết chủ động tấn công quân Pháp ở Huế đêm

4 rạng ngày 5 – VII. Kinh thành Huế thất thủ. Vua Hàm Nghi

xuất bôn, xuống chiếu Cần vương.

– Nguyễn Xuân Ôn và nhiều thân sĩ hưởng ứng Cần vương

tại Nghệ–Tĩnh.

– Đồng Khánh lên ngôi ở Kinh thành.

– Tống Duy Tân khởi nghĩa ở Thanh Hóa.

1887

(Đinh hợi)

– Khởi nghĩa Ba Đình ở Thanh Hóa.

– Khởi nghĩa Phan Đình Phùng ở Hà Tĩnh.

– Nguyễn Cao, Nguyễn Hiệu tuẫn tiết.

– Khắc in Khâm định Việc sử thông giám cương mục.

1888 – Vua Hàm Nghi bị bắt.

Page 396: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(Mậu tý) – Nguyễn Đình Chiểu qua đời (3-VII).

– Vua Thành Thái lên ngôi.

1889

(Kỷ sửu)

– Con trai NK là Nguyễn Hoan thi Hội đỗ Phó bảng, được bổ

Tri huyện.

– Nguyễn Xuân Ôn qua đời tại Huế.

1890

(Canh dần)

– 19 - V Nguyễn Tất Thành – (Hồ Chí Minh) sinh.

– Vỡ đê quai làng Mễ Tràng, huyện Thanh Liêm. Vùng Hà

Nam bị lụt lớn.

1891

(Tân mão)

– Toàn quyền Đơ Lanexăng (De Lanessan) –ban bố kế

hoạch khai thác thuộc địa lần thứ nhất.

– Nguyễn Quang Bích qua đời tại căn cứ địa Tôn Sơn (Yên

Lập) (có tài liệu ghi ông mất năm 1890).

1891–1892

(Tân mão

Nhâm thìn)

– NK làm gia sư dạy con Kinh lược sứ Bắc Kỳ Hoàng Cao

Khải ở Hà Nội.

– Tống Duy Tân tuẫn tiết.

1893

(Quý tỵ)

– Vỡ đê sông Hồng. Vùng Nam Hà bị lụt lớn.

– Hoàng Hoa Thám nắm quyền thủ lĩnh phong trào Yên Thế.

1895

(Ất mùi)

– Phan Đình Phùng qua đời ở căn cứ Vụ Quang (28 – XII).

Phong trào Cần vương căn bản chấm dứt.

1897

(Đinh dậu)

– Tuy lý vương Miên Trinh qua đời (18 –XI).

– Pháp mở rộng và triển khai mạnh mẽ kế hoạch khai thác

thuộc địa lần thứ nhất.

1902

(Nhâm dần)

– Pháp tổ chức lễ khánh thành cầu Long Biên mang tên

Toàn quyền Đông Dương Pôn Đume (Paul Doumer).

– Lấy cớ đi xem cầu, Phan Bội Châu ra Bắc, lên Phồn

Xương tìm gặp Đề Thám.

Page 397: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

1903

(Quý mão)

– Phan Bội Châu vào Huế viết Lưu cầu huyết lệ tân thư vận

động giới quan trường chống Pháp.

1904

(Giáp thìn)

– Pháp ra nghị định thiết lập chương trình giáo dục Pháp –

Việt ở Bắc Kỳ.

– Hội Duy tân thành lập ở Quảng Nam do Cường Để làm Hội

trưởng.

1905

(Ất tỵ)

– Vỡ đê sông Hồng. Vùng Hà Nam lại bị lụt lớn.

– Tuần phủ Hưng Yên kiêm Khâm sai quân thứ Bắc Kỳ Lê

Hoan tổ chức hội Tao đàn và mở cuộc thi vịnh Kiều tại Hưng

Yên. NK được mời tham gia Ban giám khảo và làm một số

bài thơ vịnh Kiều nhằm đả kích bọn tay sai của Pháp.

– Phan Châu Trinh cáo quan, vào Nam vận động phong trào

Duy tân.

– Phan Bội Châu sang Nhật, mở đầu phong trào Đông du.

Đến 1908, đã có 200 thanh niên xuất dương sang Nhật.

1906

(Bính ngọ)

– Phan Châu Trinh bí mật sang Hương Cảng gặp Phan Bội

Châu rồi cùng nhau sang Nhật hội kiến. Bắt đầu một sự phân

rẽ (bạo động và bất bạo động) trong chủ trương cứu nước

của phong trào cách mạng Việt Nam.

– Phan Châu Trinh trở về viết Thư gửi toàn quyền Bô (Paul

Beau).

– Công ty Liên thành thành lập ở Phan Thiết. Cùng với nó là

Liên thành thư xã (Nguyễn Hiệt Chi phụ trách, hoạt động từ

1905), trường Dục Thanh (Nguyễn Quý Anh phụ trách, hoạt

động từ 1907).

1907

(Đinh mùi)

– Lương Văn Can và Nguyễn Quyền mở trường Đông Kinh

nghĩa thục ở Hà Nội (tháng III). Tháng XII trường bị Pháp

Page 398: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

đóng cửa.

– Hưởng ứng phong trào Đông Kinh nghĩa thục, nhiều

trường học và công ty kinh doanh công thương nghiệp được

tổ chức rộng rãi ở nhiều tỉnh.

– Vua Thành Thái bị truất. Nguyễn Vĩnh San lên thay, năm

sau bắt đầu dùng niên hiệu Duy Tân.

1908

(Mậu thân)

– Phan Châu Trinh viết Tỉnh quốc hồn ca khuyến cáo đồng

bào trong nước.

– Phong trào chống sưu thuế ở Trung Kỳ bùng nổ và bị đàn

áp dữ dội. Trần Quý Cáp (Quảng Nam), Nguyễn Hàng Chi

(Hà Tĩnh) tuẫn tiết.

– Vụ Hà thành đầu độc nổ ra và bị đàn áp.

1909

(Kỷ dậu)

– NK qua đời tại quê nội ngày 5–II-1909 (Tức ngày 15 tháng

Giêng năm Kỷ dậu. Hưởng thọ 75 tuổi).

– Pháp bội ước, tấn công Đề Thám.

– Công ty Bạch Thái Bưởi bắt đầu hoạt động ngành đường

thủy.

– Phan Bội Châu và Cường Để bị trục xuất ở Nhật. Phong

trào Đông du tan rã.

1985

(Ất sửu)

– Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam Ninh (Nam Hà) cùng Ủy ban

khoa học xã hội Việt Nam tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm lần

thứ 150 ngày sinh NK tại làng quê Yên Đổ và thành phố Nam

Định (15 – II – 1985). Nhân dịp này, Viện Văn học thuộc Ủy

ban khoa học xã hội Việt Nam phối hợp với Sở Văn hóa và

Hội Văn nghệ Hà Nam Ninh tổ chức Hội nghị khoa học toàn

quốc về nhà thi hào.

Page 399: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

II. THƯ MỤC NGUYỄN KHUYẾN

Lời dẫn:

Do điều kiện sưu tập tài liệu có nhiều khó khăn (sách báo xuất bản

trước Cách mạng bị thất lạc, sách báo xuất bản tại các tỉnh phía Nam trước

1975 chưa được tiếp xúc đầy đủ) nên phần Thư mục này mới chỉ là tập hợp

sơ bộ những bài viết, cuốn sách nghiên cứu, giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp

văn thơ Nguyễn Khuyến xuất bản từ trước 1945 đến nay mà chúng tôi biết

được. Đối với những bản in hoặc chép tay tác phẩm của Nguyễn Khuyến

bằng chữ Hán và chữ Nôm, chúng tôi ghi theo ký hiệu sách của Trường Viễn

Đông bác cổ trước dây, nay là của Viện Hán Nôm. Riêng phần sách báo xuất

bản tại phía Nam trước 1975 có một số tư liệu chưa tóm tắt nội dung hoặc

chưa có đầy đủ các yếu tố cần thiết của một đơn vị thư mục, do chưa được

đọc tài liệu trực tiếp, chỉ dẫn theo bài giới thiệu của ông Nguyễn Quảng Tuân

(lưu trữ tại Ban văn học Cổ cận đại Viện Văn học). Nhân đây xin cám ơn tác

giả và mong một dịp khác sẽ bổ sung hoàn chỉnh hơn.

Thư mục xếp theo thứ tự a, b, c… chữ đầu tên tác giả hoặc chữ đầu

tên tài liệu và chia thành hai phần:

I. Tác phẩn của Nguyễn Khuyến.

II. Các công trình nghiên cứu về Nguyễn Khuyến.

Cước chú về một số tờ tạp chí được dẫn trong Thư mục:

1. Đại đoàn kết: Tuần báo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ra đời từ

1943 với tên Cứu quốc, đến 1977 đổi sang tên hiện nay.

2. Nam phong: Tạp chí xuất bản tại Hà Nội từ 1917 – 1934.

3. Nhân dân: Báo hàng ngày, cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản

Việt Nam, xuất bản từ năm 1951 đến nay.

4. Phổ thông: Tạp chí xuất bản tại Sài Gòn trước 1975.

Page 400: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

5. Tạp chí văn học: Cơ quan nghiên cứu, lý luận, phê bình của Viện

Văn học (ra đời từ 1960 với tên Nghiên cứu văn học, đến tháng VI năm 1963

mang tên hiện nay).

6. Tổ quốc: Tạp chí, cơ quan ngôn luận của Đảng xã hội Việt Nam (từ

tháng XII – 1954 đến tháng X – 1988).

7. Tri tân: Tạp chí xuất bản tại Hà Nội từ tháng VI – 1941 đến 1945.

8. Văn hóa nguyệt san: Cơ quan truyền bá giáo dục, khoa học, văn hóa

của Bộ quốc gia giáo dục vùng tạm bị chiếm, xuất bản tại Sài Gòn từ 1952.

9. Văn nghệ: Tuần báo của Hội nhà văn Việt Nam, xuất bản từ 1958

(trước 1963 lấy tên Văn học).

10. Tạp chí văn nghệ: tạp chí của Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Việt

Nam, xuất bản đến tháng IV–1963 thì ngừng.

Cước chú về những chữ viết tắt trong Thư mục:

H. Hà nội

S. Sài gòn

Nxb. Nhà xuất bản

TCVH. Tạp chí văn học

NCVH. Nghiên cứu văn học

I. TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN KHUYẾN

A. TÀI LIỆU HÁN NÔM

1. Quế sơn thi tập VHv. 2154, 88tr.

Sách chép tay. Có cả thơ chữ Hán và thơ Nôm. Có lẽ đây là bản sao

chép tương đối chính xác nhất.

2. Quế Sơn thi tập A. 469, 106tr.

Về cơ bản giống bản VHv.2154 ở trên, nhưng chữ chép sai nhiều. Có

198 bài (172 Hán, 26 Nôm và 2 câu đối).

Page 401: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

3. Quế Sơn Tam nguyên thi tập A.3160,132tr.

Sách chép tay. Phần sau chép lẫn thơ của nhiều người khác. Thơ

Nguyễn Khuyến có 152 bài và 1 câu đối.

4. Tam nguyên Yên Đổ thi ca

VNb. 46, 34tr.; VNb. 40, 24tr.

Bản in năm Khải Định thứ 10 (1925), nhà in Liễu văn đường. Bản chép

tay năm Bảo Đại thứ 3 (1928) gồm toàn bộ thơ văn Nôm.

5. Yên Đổ thi tập VHv. 1864, 144tr.

Sách chép tay, cả Hán và Nôm. Gồm 186 bài.

6. Bách Liêu thi văn tập. A. 553, 382tr.

Sách chép tay.

Có bài viếng Dương Khuê của Nguyễn Khuyến.

7. Cẩm ngữ. VHv. 1867, 212tr.

Sách chép tay.

Có bài viếng Dương Khuê của NguyễN Khuyến.

8. Hải Vân Am thi tập. A. 1515, 168tr.

Sách chép tay.

Chép 31 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến và nhiều tác giả khác.

9. Hạnh thi song nguyên Lê phiên hầu thi văn. A. 2260, 176tr.

Sách chép tay.

Phụ chép một số thơ Nguyễn Khuyến (số lượng gần giống bản A.

1515).

10. Lĩnh Nam quần hiền thi văn diễn âm tập.

Sách chép tay, Hán và Nôm. AB. 389, 131tr.

Chép một số thơ Nguyễn Khuyến.

Page 402: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

11. Long tuyển thí sách VHv: 819/1–2, 646tr.

Sách chép tay, cả Hán và Nôm.

Phụ chép một số thơ và câu đối của Nguyễn Khuyến.

12. Nam âm thảo. VHv. 2381, 329tr.

Chép lại di biên của nhà họ Lê ở Lam Kiều (Hà Nam).

Phần sau phụ chép 64 bài thơ và hát nổi của Nguyễn Khuyến.

13. Quốc phong ngẫu vịnh. VHv. 2248, 164tr.

Sách in, cả chữ Hán và Nôm.

Gồm các bài ca dao Việt Nam dịch ra chữ Hán và một số bài hát ả đào,

trong đó có bài Vịnh cô đào Liên của Nguyễn Khuến.

14. Quốc triều Đình đối văn sách. VHv. 329/1–2, 518tr.

Những bài văn thi Đình từ năm Nhâm ngọ (Minh Mệnh thứ 3 – 1822)

đến khoa Nhâm thìn (Thành Thái thứ 4 – 1892), trong đó có bài thi của

Nguyễn Khuyến ở khoa Tân mùi (Tự Đức thứ 24 – 1871).

15. Quốc văn tùng ký. AB. 383, 448tr.

Hải Châu Tử biên tập.

Chép một số thơ đề vịnh, xướng họa, tập Kiều, câu đối của nhiều tác

giả, trong đó có Nguyễn Khuyến.

18. Thanh Tâm tài tử, cổ kim minh lương đề vịnh tập biên. VHv.

240, 242tr

Sách chép tay, cả Hán và Nôm.

Thơ của nhiều tác giả vịnh Kiều, trong đó có Nguyễn Khuyến.

17. Thi ca đối liên tạp tục. VHv. 79, 110tr.

Sách chép tay.

Có bài Ly phụ hành.

18. Thuấn Nhuế thi văn tập. (Nguyễn Khắc Thạch). A. 2838, 69tr.

Page 403: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Sách chép tay.

Phụ chép thơ văn và câu đối của Nguyễn Khuyến.

19. Thướng Long Cương Cao đại nhân thư. VHv. 2160, 28tr. Sách

chép tay, Hán và Nôm. Phụ chép bài văn điếu Dương Khuê.

20. Tỳ bà hành thảo. AB. 443, 17tr.

Sách chép tay.

Từ trang 15 đến trang 17 chép bài Ly phụ hành.

21. Vân Trì đối liên tịnh thi văn. A. 3007, 124tr.

Sách chép tay.

Phụ chép ca dao, trướng Nguyễn Khuyến gửi Dương Khuê và một số

bài văn khác của Nguyễn Khuyến.

22. Việt túy tham khảo. AB. 386, 105tr.

Sách chép tay (Nguyễn Thiệu biên tập).

Chép 29 bài thơ và 12 câu đối của Nguyễn Khuyến.

B. CÁC BẢN DỊCH VÀ PHIÊN ÂM (TUYỂN TẬP VÀ HỢP TUYỂN)

23. DƯƠNG QUẢNG HÀM. Quốc văn trích diễm. Nghiêm Hàm xb, H,

1925. Tái bản nhiều lần.

Giới thiệu 7 bài thơ Nôm của Nguyễn Khuyến.

24. HOÀNG NGỌC PHÁCH, LÊ TRÍ VIỄN, LÊ THƯỚC. (Giới thiệu và

biên soạn). Thơ văn Nguyễn Khuyến. Bộ Giáo dục xb, H, 1957.

– Tóm tắt tiểu sử, sự nghiệp thơ văn. Phân tích giá trị hiện thực, giá trị

nghệ thuật của văn thơ, tâm sự u hoài của tác giả. Kết luận: thơ văn chủ yếu

có nội dung yêu nước, giàu tình cảm; hiện thực là một mặt nhỏ, còn trào

phúng chỉ là phương pháp nghệ thuật.

– Giới thiệu, chú thích thơ văn chữ Nôm.

Page 404: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

– Trích dịch một số bài thơ chữ Hán.

25. HOÀNG NGỌC PHÁCH, LÊ THƯỚC, LÊ TRÍ VIỄN (giới thiệu). Văn

thơ Nguyễn Khuyến. Bộ Giáo dục xb, H, 1957.

Phần một: Giới thiệu tiểu sử Nguyễn Khuyến; đánh giá thơ văn Nguyễn

Khuyến có giá trị hiện thực; giá trị tình cảm mực thước, phong phú; và chứa

đựng nỗi buồn vì sự bất lực. Nghệ thuật trào phúng và trữ tình được sử dụng

thành công; ngôn ngữ giàu tính dân tộc và đại chúng.

Phần hai: Giới thiệu thơ văn Nôm, gồm cả một số bài còn tồn nghi. Văn

thơ bằng chữ Hán được giới thiệu ở phần phụ lục, gồm 21 bài. Cuối cùng, là

hai bài thơ họa Ông Phỗng đá, Ông Tuần bị mất cướp… của một số người

cùng thời với Nguyễn Khuyến.

26. HOÀNG Ý VIÊN. Tam nguyên Yên Đổ. S, 1957.

Chú thích, lược giải 79 bài thơ, văn và 20 câu đối (dựa vào quyển Thơ

Nôm quan Tam nguyên Yên Đổ của Nguyễn Thanh Đàm, cháu nội Nguyễn

Khuyến (xem thêm Thư mục, số 29).

27. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV (nhiều soạn giả). Nxb. Văn

hóa (Viện Văn học), H, 1963; tr. 319 – 341. Nxb. Văn học tái bản, H, 1984,

chia thành hai quyển, thơ Nguyễn Khuyến ở Q.I; tr. 397 – 424.

Tuyển 30 bài cả Hán và Nôm. Trong bản tái bản của Nxb. Văn học

tuyển 31 bài, có thêm bớt so với lần in thứ nhất

28. Nam phong tạp chí. Thơ cụ Yên Đổ. Số 4, 5, 6 (năm 1917); số 7,

8, 9, 10, 11, 12 (năm 1918); số 19, 20, 22, 24, 29 (năm 1919); số 34, 41 (năm

1920) và số 121 (năm 1927), số 175 (1932).

Giới thiệu thơ Nguyễn Khuyến do Nguyễn Mạnh Bổng, Ôn Khanh

Nguyễn Hữu Ngọc, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Ái Hoa sao lục.

29. NGUYỄN THANH ĐÀM. Thơ Nôm quan Tam nguyên Yên Đổ. Nam

Anh thư quán, H, 1927.

Chú thích, lược giải thơ văn và câu đối.

Page 405: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

(Quyển này ngoài bìa ghi Yên Đổ Tam nguyên thi tập bằng chữ Hán và

Thơ Nôm quan Tam nguyên Yên Đổ bằng chữ quốc ngữ. Trang trong lại ghi

Quế Sơn thi tập.)

30. NGUYỄN VĂN HUYỀN (sưu tầm, biên dịch, giới thiệu). Nguyễn

Khuyến – tác phẩm. Nxb. Khoa học xã hội, H, 1984.

– Nhận xét tình hình văn bản tác phẩm; giới thiệu Nguyễn Khuyến ở

các mặt: cuộc đời, tâm hồn, tài năng trên cơ sở tư liệu trước kia và nguồn tư

liệu điền dã trên quê hương nhà thơ.

– Giới thiệu tác phẩm (có thêm nhiều văn bản mới sưu tầm) gồm: 86

bài thơ Nôm, 267 bài thơ chữ Hán, 6 bài thơ dịch, 47 câu đối Nôm, 20 câu đối

Hán, 6 bài văn.

31. Thơ văn yêu nước Việt Nam nửa cuối thế XIX (nhiều tác giả)

Nxb. Văn học, H, 1970; tr. 348 – 358.

Trích 12 bài thơ, cả Hán và Nôm.

32. Thơ văn Nguyễn Khuyến (nhiều tác giả). Nxb. Văn học, H, 1971.

Tái bản 1979.

– Giới thiệu tiểu sử (có tư liệu bổ sung). Nhận định Nguyễn Khuyến là

nhà thơ trào phúng và trữ tình, nghệ thuật đạt tới phong cách cổ điển.

– Bài tiểu luận của Xuân Diệu đánh giá Nguyễn Khuyến là nhà thơ có

phẩm chất cao quý, là nhà thơ của làng cảnh dân tình Việt Nam, mang bản

sắc dân tộc, giản dị. Khuynh hướng dân tộc hóa trong thơ thiên nhiên các thời

đại và chỗ thành công đột xuất của Nguyễn Khuyến trong việc biểu đạt cái

hồn cảnh sắc Việt Nam, nhất là cảnh thu, bằng sự tinh diệu của ngôn từ, bằng

âm hưởng thơ dân tộc.

– Giới thiệu 87 bài thơ Nôm (và 18 bài phụ chép), 18 câu đối Nôm và

166 bài thơ chữ Hán.

33. TRẦN HỮU TIỆP. Thơ Nguyễn Khuyến. H, TCVH, số 2 – 1976; tr.

149 – 154.

Page 406: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Giới thiệu 6 bài thơ chữ Hán, 3 bài thơ chữ Nôm chưa công bố trong

Thơ văn Nguyễn Khuyến (Thư mục, số 32).

34. TRẦN TRUNG VIÊN (Sao lục). Văn đàn bảo giám. Nam Ký xb, H,

1932. Nxb. Mặc Lâm tái bản, S, 1968.

Sao lục 95 bài thơ và 24 câu đối, tạp truyện (trong bản in của Nxb. Mặc

Lâm do Hư Chu hiệu đính bỏ đi 5 bài thơ).

35. VŨ NGỌC KHÁNH (sưu tầm và biên soạn). Thơ văn trào phúng

Việt Nam. Nxb. Văn học, H, 1974; tr. 238 – 241, 361.

Giới thiệu 6 bài thơ.

II. CÁC CÔNG TRÌNH SÁNG TÁC, NGHIÊN CỨU VỀ NGUYỄN KHUYẾN

368. CẦN MẪN – Dứt khoát không phải chủ Nguyễn Khuyến. H, TCVH,

số 2 – 1977; tr. 146.

Bài Vào hè mà một số người cho là của Nguyễn Khuyến thực ra của

Dương Bá Trạc, đã in trong tập Nét mực tình, 1937.

37. BÙI VĂN CƯỜNG (sưu tầm, biên soạn) – Giai thoại về Nguyễn

Khuyến. Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh xb, Nam Định, 1979, 124tr.

Sưu tầm 70 giai thoại xung quanh cuộc đời và tài chơi chữ.

38. BÙI VĂN CƯỜNG (sưu tầm, biên soạn) – Nguyễn Khuyến và giai

thoại. Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh xb, Nam Định, 1984, 135tr.

Tái bản có chỉnh lý và đổi tên từ cuốn Giai thoại về Nguyễn Khuyến

(xem Thư mục, số 37).

Phần I. Nhà thơ Nguyễn Khuyến và giai thoại (bài giới thiệu của Chu

Văn).

Phần II. Giới thiệu hơn 70 mẩu chuyện về Nguyễn Khuyến.

39. DƯƠNG QUẢNG HÀM – Việt Nam văn học sử yếu. Nha học chính

Đông pháp xb, H, 1943. Tái bản nhiều lần.

Page 407: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Xếp Nguyễn Khuyến vào các nhà thơ trào phúng, và giới thiệu bài Xuân

nhật thị chư nhi (có phần tự dịch ra chữ Nôm).

40. ĐÀO THÁI TÔN – Thứ tìm hiểu một số nghi án văn chương. H, Văn

nghệ, số 7, ngày 10 – XI – 1985; tr.6.

Khẳng định bài Di chúc không ra đời trong năm mất (1909) mà được

Nguyễn Khuyến viết trong thời gian cáo quan về sống ở quê. Chữ “bát bát”

chỉ chung người cao tuổi chứ không chỉ số tuổi cụ thể.

41. ĐỖ ĐÌNH THỌ – Một cuôc hội ngộ giữa ông Tú Vị Xuyên và cụ

Nghè Yên Đổ. H, Nhân dân chủ nhật, số 12, III – 1991; tr. 13.

Thông qua giai thoại, cho rằng Tú Xương ghét lối sống ẩn mình chửi

đổng của Nguyễn Khuyến rồi lại ra làm gia sư cho Hoàng Cao Khải và làm

giám khảo cuộc thi vịnh Kiều do Lê Hoan tổ chức.

42. HÀ NHƯ CHI – Việt Nam thi văn giảng luận. Nxb. Sống mới, S,

1974; tr. 731 – 794.

Bình luận về tư tưởng Nho giáo, tâm sự trước thời cuộc, tình cảm yêu

nước, tình bạn, lòng yêu thiên nhiên làng xóm, thái độ cầu nhàn và nghệ thuật

tả cảnh, tính chất trào phúng của thơ Nguyễn Khuyến.

43. HOÀNG TẤN – Thanh minh cho cụ Nguyễn Khuyến. H, Văn nghệ,

số 9, ngày 9 – XI – 1992; tr. 11.

Trao đổi lại với Đỗ Đình Thọ (xem Thư mục, số 41).

Khẳng định dù phải làm những việc không muốn như làm gia sư cho

Hoàng Cao khải, Chủ khảo cuộc thi vịnh Kiều do Lê Hoan tổ chức… Nguyễn

Khuyến vẫn tìm cách kín đáo tỏ rõ tiết tháo thanh cao và thái độ khinh bỉ của

mình trước bọn tay sai của giặc.

44. HỮU NHUẬN – Về thăm từ đường Nguyễn khuyến. Tạp chí Văn

nghệ số 4–1963.

Page 408: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Kể lại một cuộc điền dã về Yên Đổ thăm từ đường Nguyễn Khuyến,

ngắm vườn Bùi, “ao thu”, “vũng lội đường Ngang”, chuyện trò với bà Nguyễn

Thị Đà, cháu nội thi hào.

45. LAM GIANG, VŨ KÝ – Giảng luận về Nguyễn Khuyến. Nxb. Tân

Việt, S, 1960.

46. LÊ HOÀI NAM. Lịch sử văn học Việt Nam, tập IV A. Nxb. Giáo dục,

H, 1978 (tái bản lần thứ năm); tr. 123 – 125.

Giáo trình tập thể của Khoa Ngữ văn Trường đại học sư phạm Hà Nội.

Chương VI. Văn học hiện thực trào phúng: Nguyễn Khuyến (do Lê Hoài Nam

viết).

Thơ văn Nguyễn Khuyến là tiếng nói yêu nước, phản kháng hiện thực

xã hội thực dân nửa phong kiến, tiếng nói của những tình cảm giản dị chân

thành; đứng đầu trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và các thể loại văn.

Nguyễn Khuyến là người tiêu biểu cho một bộ phận sĩ phu yêu nước

trong những ngày hấp hối của xã hội phong kiến.

47. MINH VĂN, XUÂN TƯỚC – Luận đề về Nguyễn Khuyến. Nxb. Sống

mới, S, 1960.

48. MINH VŨ – Thêm một số ý kiến về thơ văn Nguyễn Khuyến. H, Tổ

quốc, số 4 – 1978; tr.45.

Góp thêm một cách hiểu về thột số bài thơ của Nguyễn Khuyến.

49. NGÔ LINH NGỌC – Tiếng cười trong ngõ trúc. H, Tổ quốc, số 10 -

1983; tr. 29.

Phân tích một số bài thơ mang sắc thái trào phúng.

Kết luận Nguyễn Khuyến là nhà thơ cao nhã và hồn hậu.

50. NGÔ TẤT TỐ – Thi văn bình chú, Q.II. Tủ sách Tao đàn. Nxb. Tân

dân, H.

Phê bình, chú thích 19 bài thơ Nôm.

Page 409: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

51. NGÔ VĂN PHÚ – Ngõ trúc. H, Văn nghệ, số 6, ngày 9 –XI – 1985;

tr. 1 và 14 – 15.

Truyện ngắn, viết về quãng đời ẩn dật của Nguyễn Khuyến tại làng quê

Yên Đổ.

52. NGUYỄN CÔNG HOAN – Về cuốn “Thơ văn Nguyễn Khuyến”. H,

TCVH, số 5 – 1972; tr. 79 – 90.

Xác định hai bài thơ Học trò ngủ gật, Câu đối mừng cô Tư Hồng không

phải của Nguyễn Khuyến mà là của Lê Hải Châu và Trần Tán Bình. Phản bác

giả thuyết Dương Lâm là người tặng chậu hoa trà. Sửa lại một số chữ, tên

bài, chú thích. Nghi ngờ những câu đối có tính chất nghề nghiệp không phải

của Nguyễn Khuyến.

53. NGUYỄN DUY DIỄN – Luận về Nguyễn Khuyến. Nxb. Thăng Long.

H, 1952.

Thơ mang bốn đặc tính: giản dị, dễ hiểu; có tính dân tộc thuần túy;

hướng về thiên nhiên; trào phúng, mang tư tưởng Lão Tử.

54. NGUYỄN ĐÌNH CHÚ – Nguyễn Khuyến với thời gian. H, TCVH, số

4 – 1985; tr. 13.

Nguyễn Khuyến không phải là một hiện tượng văn học quá phức tạp

nhưng để hiểu thấu đáo cần có cách nhìn nhận mới: nhìn từ góc độ các giá trị

nhân bản Việt Nam, đó là gốc rễ cho tài thơ, hồn thơ nảy nở, bền vững.

55. NGUYỄN HUỆ CHI – Một vài phương hướng tiếp cận thơ văn

Nguễn Khuyến. H, TCVH, số 4 – 1985; tr. 21.

Nguyễn Khuyến là một hiện tượng đa dạng, có quá trình vận động từ

ông Nghè Tam nguyên đến “ông Tiến sĩ giấy”, từ vị quan Hàn lâm đến “ông

Phỗng đá”, từ cụ Thượng Và đến một “lão nông”, trong đó thời điểm trở về

(1884) có ý nghĩa bước ngoặt.

Về phương thức ứng xử, Nguyễn Khuyến đứng thấp hơn các lãnh tụ

Cần vương một bậc, nhưng về mặt tư tưởng lại diễn ra một sự cởi bỏ những

Page 410: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

ràng buộc của lễ nghĩa, của danh phận, của quá khứ. Đây là điều kiện làm

nảy nở con người nhà thơ với những tư duy nghệ thuật mới mẻ, hướng về

những yếu tố đời thường.

56. NGUYỄN HUỆ CHI – Thi hào Nguyễn Khuyến – Đời và thơ. H,

Huân dân, số 11184, ngày 14 – II – 1985; tr. 3 – 4.

Khẳng định 25 năm trở về làng quê, Nguyễn Khuyến đã mang theo tấn

bi kịch của thời đại mình, nhưng lại cởi bỏ được rất nhiều ràng buộc để định

giá lại nhân cách, bản lĩnh.

57. NGUYỄN LỘC – Nguyễn Khuyến, mục từ số 96 trong Từ điển văn

học, tập II. Nxb. Khoa học xã hội, H, 1984; tr. 70.

Giới thiệu tiểu sử, sự nghiệp thơ văn.

58. NGUYỄN LỘC – Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX. Nxb. Đại

học và trung học chuyên nghiệp. H, 1971; tr. 210 – 244.

Thơ văn Nguyễn Khuyến phản ánh cuộc sống và thái độ của ông trước

hiện thực mất nước; mang tính chất nông thôn từ đề tài đến cảm xúc, ngôn

ngữ; phong cách kín đáo, tinh tế. Sự nghiệp thơ văn của ông có tính cách là

một dấu nối giữa văn học yêu nước và văn học tố cáo hiện thực.

59. NGUYỄN PHƯỜNG – Về bài của ông Việt Thường. H, Tri tân, số

47, 15 – 21 tháng Năm, 1942.

Khẳng định bài tứ tuyệt Ông Phỗng đá và bài hát nói cùng đầu đề là

của Tam nguyên Yên Đổ vì giọng văn giống nhau.

60. NGUYỄN VĂN HOÀN Địa vị của Nguyễn Khuyến trong lịch sử văn

học Việt Nam. H, TCVH, số 4 – 1985; tr. 1.

Cách lựa chọn con đường từ quan về ở ẩn của Nguyễn Khuyến chứng

tỏ sự bất lực, bế tắc của tầng lớp Nho gia trước thực tại khắc nghiệt. Tuy

nhiên hành động đó cũng bộc lộ một khí tiết yêu nước, một lương tâm trong

sạch, một nhân cách đáng trân trọng.

Page 411: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Thơ văn nguyễn Khuyến từ đề tài, thể loại, ngôn ngữ, thi tứ thể hiện rõ

khuynh hướng dân tộc hóa, hiện thực hóa. Ông là nhà thơ xuất sắc, độc đáo

cuối cùng của nền văn học trung đại Việt Nam.

61. NGUYỄN VĂN HOÀN – Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (Giai

đoạn nửa cuối thế kỷ XIX). Nxb. Văn học, H, 1964; tr. 185 – 212.

Công trình tập thể của Viện Văn học. Chương III, mục IV: Nguyễn

Khuyến (do Nguyễn Văn Hoàn viết).

Thơ văn Nguyễn Khuyến mang tinh thần yêu nước, tâm sự u uất trước

thực tại, bộc lộ tình người mộc mạc, tha thiết. Về nghệ thuật, sử dụng thành

công các thể thơ của Trung Quốc cũng như của dân tộc, có phong cách trữ

tình và trào phúng thâm thúy, nhẹ nhàng, tinh tế. Nguyễn Khuyến là mốt nhà

thơ lớn, đặc sắc, có biệt tài, tiêu biểu cho văn học cuối thế kỷ XIX.

62. NGUYỄN VĂN HUYỀN – Nguyễn Khuyến rất quen mà còn rất lạ. H,

TCVH, số 2 – 1982; tr. 92 – 100.

Tìm hiểu tâm sự, suy nghĩ và bút pháp của Nguyễn Khuyến qua một số

bài thơ chữ Hán viết lúc còn trẻ, mới ra làm quan, xung quanh mảng đề tài

tình yêu, vịnh sử, tả cảnh vật, đi đường.

63. NGUYỄN VĂN HUYỀN – Về một văn bản thơ Nguyễn Khuyến.

Trong Một số vấn đề văn bản học Hán Nôm. Nxb. Khoa học xã hội, H, 1983;

tr. 300 – 308.

Qua so sánh đối chiếu, khẳng định Yên Đổ thi tập ký hiệu VHv. 1864

(Thư mục, số 5) là của Nguyễn Khuyến viết vào thời tráng niên, lúc đang làm

quan, cho đến đầu thời kỳ cáo quan.

64. NGUYỄN VĂN MÙI – Luận đề về Nguyễn Khuyến. Nxb. Thăng

long, S, 1959.

65. NGUYỄN VĂN NGỌC – Nam thi hợp tuyển. Nhà in Lê Văn Tân in

lần thứ hai, H, 1934. Xuất bản Bốn phương tái bản, S, 1952

Phân tích, giảng bình 20 bài thơ của Nguyễn Khuyến.

Page 412: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

66. NGUYỄN XUÂN HIẾU, TRẦN MỘNG CHU – Khảo luận về Nguyễn

Khuyến. Nam Sơn xb, S, 1960.

Giới thiệu về thân thế, sự nghiệp và thời đại Nguyễn Khuyến; phân tích

thái độ của ông trước thời cuộc, đó là thái độ “tùy ngộ nhi an” của một nhà

Nho trung quân, ái quốc; đánh giá địa vị Nguyễn Khuyến trong văn học sử:

một thi sĩ yêu nước, trào phúng, nhà thơ của tình bạn và cảnh thiên nhiên, bút

pháp cổ điển, kết hợp hài hòa văn chương bác học và bình dân.

– Giới thiệu thơ văn theo bốn chủ đề: thơ về thời thế 17 bài, thơ trào

phúng 41 bài, thơ về tư tưởng và tình cảm 24 bài, thơ ngâm vịnh và thù ứng

39 bài.

67. NGUYỄN XUÂN ÔN – Hà Nội đồng niên Tam nguyên Nguyễn Công

trưởng tử Nguyễn Hoan phó điện thí tương tỉnh kiến, tặng thập nguyên, thỉnh

từ đường đối nguyên, nhân kí tặng. Thơ Nguyễn Xuân Ôn. Nxb. Văn hóa, H,

1961. Nxb. Văn học tái bản 1977; tr. 235 – 238.

Hai bài thơ tặng Nguyễn Khuyến nhân dịp con ông là Nguyễn Hoan vào

Kinh thi Đình, ông có gửi tiền tặng Nguyễn Xuân Ôn với tư cách bạn đồng

niên.

68. PHẠM ĐÌNH TRỌNG – Chiếc bóng Nguyễn Khuyến trong mùa thu

cổ điển Việt Nam. H, Văn Nghệ, số 27, ngày 5 – VII –1986; tr. 6.

Trở về với làng xóm quê hương Nguyễn Khuyến đã viết nên chùm thơ

bất hủ về mùa thu Việt Nam. Ông đã tìm thấy trong đó sự yên tĩnh, cô quạnh,

sâu lắng, đồng điệu với tâm hồn mình.

69. PHẠM THẾ NGŨ – Bình giảng văn chương. Nxb. Nam Sơn, S,

1960; tr. 26 – 30.

Tìm hiểu tâm sự tác giả qua phân tích bài Mẹ Mốc, một bài thơ phản

ánh tâm sự của nhà Nho tiết tháo, kiên trinh với dân tộc trong buổi quốc phá

gia vong.

Page 413: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

70. PHẠM THẾ NGŨ – Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III.

Quốc học tùng thư xb, S, 1965; tr. 47 – 53.

Phân tích đời sống tâm tình và nghệ thuật thơ Nôm Nguyễn Khuyến.

Thơ Nôm mang tính dân tộc giản dị nhưng ít bài toàn bích, hấp dẫn.

71. PHẠM VĂN DIÊU – Việt Nam văn học giảng bình. Nxb. Tân Việt, S,

1953; tr. 135 – 144.

Bài giảng về Nguyễn Khuyến: giới thiệu sơ lược cuộc đời, sự nghiệp.

Phân tích nội dung thơ văn: khung cảnh thơ trầm lặng tiêu sơ, nụ cười nhã

nhặn, kín đáo của một nhà Nho có bản lĩnh, một nhà thơ trào phúng.

72. PHẠM VĂN SƠN – Một tấm gương tiết tháo: Cụ Nguyễn Khuyến.

S, Văn hóa nguyệt san. Loại mới, năm thứ XIV, quyển 6, tháng VI – 1965; tr.

937 – 945.

Trước sự đổ vỡ của đại cục nước nhà, là người yêu nước nồng nhiệt,

Nguyễn Khuyến đã phải lựa chọn con đường từ chối chức Tổng đốc Sơn –

Hưng – Tuyên và xin về hưu vào lúc 50 tuổi. Sau này ông còn nhiều lần từ

chối lời mời cộng tác của tay sai thực dân Pháp. Thơ văn của ông sáng tác

trong thời kỳ này là nỗi niềm tâm sự kín đáo, đó là sự bộc lộ tiết tháo đạo đức.

73. PHAN VĂN ÁI – Họa bài “Ông Phỗng đá”. Hợp tuyển thơ văn Việt

Nam, tập IV. Nxb. Văn hóa, H, 1963; tr. 377.

Trích bài thơ từ Phượng minh thi tập. Trong lời chú thích cho rằng cả

bài Ông Phỗng đá và bài này đều làm ngay trong bữa tiệc do Hoàng Cao Khải

thết tại Nha kinh lược Bắc Kỳ, có ý đề cao tâm sự người ở ẩn, không cộng tác

với chính quyền do thực dân Pháp dựng lên, và vững tin ở chủ trương của

mình.

74. Phổ thông. S, số 43, ngày 1 – X – 1960.

Cho rằng bài thơ Ông Tiến sĩ giấy chép trong Việt Nam thi văn hợp

tuyển (của Dương Quảng Hàm) không phải của Nguyễn Khuyến vì có một số

Page 414: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

cầu chữ vụng về, đối không chỉnh; Nguyễn Khuyến không bao giờ có giọng

phách lối, ngạo nghễ như thế.

75. TẢO TRANG – Góp thêm một số tài liệu về Nguyễn Khuyến.H,

NCVH, số 10 – 1961; tr. 46 – 56.

Dựa vào gia phả và thơ văn mới chép được để bổ sung, đính chính một

số điểm chưa rõ hoặc thiếu sót về gia thế, đời sống và thơ văn.

78. THANH LÃNG – Bảng lược đồ văn học Vệt Nam, quyển hạ. Nxb.

Trình bày, S, 1967; tr. 152 - 159.

Giới thiệu tóm tắt cuộc đời và sự nghiệp thơ văn. Nguyễn Khuyến phải

sống với nỗi đau vong quốc nên trong thơ ông mới có nỗi buồn yếm thế báo

hiệu hơi hướng lãng mạn cho thế hệ 1913 – 1932.

77. THẾ NGUYÊN – Nguyễn Khuyến – Thân thế và thi văn. Tủ sách

Những mảnh gương. Nxb. Tân Việt, S, 1957. Tái bản nhiều lần.

Giới thiệu thân thế (tiểu sử và dật sử).

Giới thiệu thơ văn theo thể loại: thơ Nôm 27 bài; thơ liên văn bản Hán –

Nôm 9 bài; ca trù Nôm 5 bài; ca trù chữ Hán 2 bài; lục bát và song thất lục bát

2 bài; ngũ ngôn 3 bài; thơ dịch 4 bài; phú 3 bài.

78. TRẦN HỮU TIẾN – Sáng tác văn học và danh nhân lịch sử. H, Văn

nghệ, số 30, ra ngày 27 – VII - 1991, tr. 3.

Bài trao đổi với Đỗ Đình Thọ (xem Thư mục, số 41).

Cho rằng Đỗ Đình Thọ đã nhập nhằng giữa sưu tầm tư liệu và sáng tác

văn học nhằm hạ thấp Nguyễn Khuyến, đó là một thái độ phi khoa học và

thiếu trách nhiệm với lịch sử.

79. TRẦN LÊ VĂN – Chất liệu ngày thường và thi tứ khác thường. H,

Văn nghệ, số 6 (1110) ngày 9 – XI – 1985; tr.7.

Nguyễn Khuyến đã vượt khỏi khuôn sáo của thơ văn và của cái học

khoa cử khi tìm đến những đề tài và chất liệu gần với cuộc sống, với sinh

Page 415: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

hoạt hàng ngày. Do đó câu chữ, hình ảnh và tâm sự riêng của ông có một

sức sống mạnh mẽ, sinh động, sâu sắc.

80. TRẦN PHƯƠNG - Thêm một số tư liệu về thơ văn Nguyễn Khuyến.

H, Tổ quốc, số 9 – 1977; tr. 44.

Góp ý kiến về cách hiểu một số bài thơ.

81. TRẦN THANH XUÂN – mối quan hệ giữa thơ trào phúng, và thơ trữ

tình trong thơ Nguyễn Khuyến. H, TCVH, số 1 – 1983; tr. 90.

Nhận định: thơ trào phúng và thơ trữ tình của Nguyễn Khuyến có mối

quan hệ bổ sung, làm bật lên lý tưởng.

82. TRẦN VĂN GIÁP – Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập II. Nxb. Khoa

học xã hội, H, 1990; tr. 163.

Giới thiệu tình trạng văn bản Quế Sơn thi tập. Tiểu truyện: tóm tắt tiểu

sử, tác phẩm.

83. TRẦN VĂN GIÁP – Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập I Nxb.

Khoa học xã hội, H, 1971; tr. 477.

Tóm tắt tiểu sử, giới thiệu tác phẩm.

84. TRIỆU DƯƠNG – Về cuốn “Thơ văn Nguyễn Khuyến” và bài tiểu

luận của Xuân Diệu. H, TCVH, số 6 – 1972; tr. 52 – 66. In lại trong Tìm hiểu

và suy nghĩ. Nxb. Tác phẩm mới, H, 1982.

Phê bình phần tuyển chọn bỏ sót một bài văn xuôi, một số câu đối và

thơ chữ Hán, những bài dịch thơ. Phần giới thiệu tiểu sử nên viết về bà mẹ và

quê hương để người đọc hiểu kỹ hơn về cuộc sống của nhà thơ.

Bài tiểu luận có nhiều suy diễn chủ quan, cảm tính, chưa giới thiệu hết

những đóng góp của Nguyễn Khuyến vào văn học Việt Nam, chưa chỉ ra

những hạn chế trong tư tưởng và hành động của Nguyễn Khuyến trước thời

cuộc.

85. TRIỆU DƯƠNG – Nguyễn Khuyến với thơ Hồ Xuân Hương. H, Tổ

quốc, số 10 – 1977; tr. 43.

Page 416: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Từ một bài thơ mới phát hiện tác giả cho rằng Nguyễn Khuyến có thái

độ ngợi ca, bênh vực tài thơ của nữ sĩ.

88. TRỌNG VĂN – Một số lầm lẫn về thơ văn Nguyễn Khuyến. H,

TCVH, số 6 – 1975; tr. 133 – 135.

Câu đối in trong phần phụ lục cuốn Thơ Trần Tế Xương (Ty Văn hóa

Nam Hà xb, năm 1970) không phải của Nguyễn Khuyến viết phúng Tú Xương

mà là của Đoàn Triển, Tổng đốc Nam Định làm để khắc vào cột đá trước sinh

phần; câu đối Mừng Tư Hồng là của Trần Tán Bình.

87. TRỌNG VĂN – Về bài “Di chúc” của Nguyễn Khuyến. H, TCVH, số

5 – 1976; tr. 145 – 152.

Phát hiện những sai sót trong bản dịch bài Trị mệnh; đề nghị bản Nôm

Di chúc hiện hành nên để ở dạng khuyết danh; giới thiệu bản dịch Nôm mới

sưu tầm được ở Hà Nam cũ.

88. TRỌNG VĂN – Một số điểm nhầm lẫn về thơ văn Nguyễn Khuyến.

H, Tổ quốc, số 7 – 1977; tr. 45.

Dựa vào tài liệu sưu tầm, đính chính một số nhầm lẫn trong hai bài

Mừng anh rể và Từ Chung Nam xuống… ở cuốn Thơ văn Nguyễn Khuyến

(xem Thư thục, số 32).

89. VĂN TÂN – Nguyễn Khuyến, nhà thơ Việt Nam kiệt xuất. Nxb. Văn

sử địa, H, 1959.

Phân tích tư tưởng nghệ thuật, giá trị và tác dụng của thơ văn. Nhà thơ

mang tư tưởng Nho giáo chính thống, phần tích cực của tư tưởng ấy và cuộc

sống gần gũi nhân dân đã chi phối và làm nên giá trị tư tưởng tôn quân, tư

tưởng yêu nước và thái độ xử thế. Nguyễn Khuyến sử dụng nghệ thuật ẩn dụ,

điển tích, trào lộng, ngôn ngữ xác thực, gợi tả để tạo nên những hình tượng

sinh động, tinh tế. Thơ văn Nguyễn Khuyến biểu hiện chủ nghĩa nhân đạo,

chủ nghĩa yêu nước và tính hiện thực.

Page 417: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Giới thiệu 20 bài thơ chữ Nôm, 5 bài thơ chữ Hán, 1 bài tự dịch ra Nôm

và 2 bài Nôm tồn nghi.

90. VĂN TÂN – Văn học trào phúng Việt Nam, quyển thượng. Nxb. Văn

sử địa, H, 1958; tr. 129 – 162.

Giới thiệu cuộc đời Nguyễn Khuyến, xã hội Việt Nam đương thời, nội

dung nghệ thuật, giá trị phần thơ trào phúng.

91. VĂN TÂN, NGUYỄN HỒNG PHONG – Lịch sử văn học Việt Nam

(sơ giản). Nxb. Sử học, H, 1961; tr. 340 – 367. Tái bản 1963.

Phần thứ năm, mục IV: Nguyễn Khuyến (do Văn Tân viết). Thơ văn

Nguyễn Khuyến phản ánh tư tưởng trung quân yêu nước theo kiểu một nhà

Nho chân chính, tố cáo hiện thực xã hội, bộc lộ tình cảm gần gũi nhân dân.

Đặc điểm nghệ thuật là dùng phương pháp ám dụ, phần lớn viết bằng chữ

Hán, hình thức phù hợp với nội dung, dùng điển tích để nêu dụng ý, hình

tượng sinh động, giàu tính chất châm biếm, trào lộng.

92. VIỆT THƯỜNG – Tam Xuyên hay Tam nguyên? H, Tri tân, số 42,

từ 8 – 14 tháng Tư, 1942.

Khẳng định bài thơ tứ tuyệt Ông Phỗng đá không phải của Nguyễn

Khuyến với ba lý do: một thầy đi dạy học không làm thơ đối lại gia chủ nếu

không có nguyên cớ; không có những câu, những ý khẳng định phẩm cách

cao đẹp vốn có ở Nguyễn Khuyến; bài thơ này đã được chép trong Tam

Xuyên thi tập của Tôn Thất Mỹ.

93. VŨ ĐỨC PHÚC – Tính bi kịch trong thơ Nguyễn khuyến. H, TCVH,

số 4 – 1985; tr. 33.

Bi kịch trong cuộc đời đã được Nguyễn Khuyến bộc lộ toàn diện trong

sáng tác của mình: từ sự dùng dằng trong lẽ xuất xử, tâm trạng cô đơn, cay

đắng trước thực tại, trước thiên nhiên, đến những dòng tự trào và đỉnh cao là

sự tự phủ định. Yếu tố bi kịch đã làm nên những kiệt tác cả trong thơ chữ Hán

và thơ chữ Nôm của Nguyễn Khuyến.

Page 418: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

94. VŨ KHẮC KHOAN – Luận đề về Nguyễn Khuyến. Nxb. Tao đàn, S,

1960.

95. VŨ THANH – Một bức thư, ba tấm ảnh và tấm lòng người cán bộ

cách mạng. H, Nhân dân, số 11180, ngày 10 – II – 1985; tr. 2.

Tháng IX – 1965 Viện Văn học nhận được bức thư của một người tên

là Lê Phan Quỳnh (không ghi địa chỉ) kể lại con đường đưa ông đến với

Nguyễn Khuyến: năm 1950 trong quá trình hoạt động quân báo ở vùng địch

hậu Nam Định – Hà Nam, qua một cán bộ Huyện ủy yêu thích văn chương,

ông được biết đến thi hào Nguyễn Khuyến. Đến cải cách ruộng đất ông tới

vùng Nam Định và tình cờ thu thập được một số tài liệu về Nguyễn Khuyến,

gồm: một bức tranh màu vẽ Nguyễn Khuyến mặc triều phục của họa sĩ Hàn

lâm viện Phạm Văn Lập, một bức ảnh Nguyễn Khuyến cầm chén rượu còn

nguyên cả lề ghi lời đề tặng của Dương Lâm và một bức tượng “ông Phỗng

đá”. Hiện nay Viện Văn học đang lưu giữ cả ba kỷ vật đó (hai kỷ vật sau dưới

dạng phim chụp do người viết bức thư gửi tới).

96. VŨ THANH – Nguyễn Khuyến, thi hào dân tộc. H, Đại đoàn kết, số

4, ngày 13 – II – 1985.

Nguyễn Khuyến là một tác gia văn học có nhiều đóng góp lớn lao và

độc đáo: thơ Nôm, thơ chữ Hán của ông đều rất giá trị. Ông còn là một nhà

soạn câu đối vô địch, người viết hát nói có biệt tài và đầy sáng tạo, một dịch

giả xuất sắc.

97. XUÂN DIỆU – Đọc thơ Nguễn Khuyến. In trong Các nhà thơ cổ điển

Việt Nam. Nxb. Văn học, H, 1982; tr. 149 – 225.

In lại bài tiểu luận trong Thơ văn Nguyễn Khuyến (xem Thư mục, số

32).

III. PHẦN KẾT CHUYỆN MƯỜI NĂM TRƯỚC

Là một nhà thơ tài hoa, một ông quan Tiến sĩ đầy danh vọng, một cụ

Thượng Và nửa tỉnh nửa say trong nỗi đau thời thế, cuộc đời và thơ văn

Page 419: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Nguyễn Khuyến được người đương thời và các thế hệ sau truyền tụng, nhắc

nhở với niềm kính trọng đặc biệt. Chuyện buồn và chuyện vui, hiện thực và

hư cấu… đã tạo thành tấm màn đa sắc bao phủ lên cuộc đời Nguyễn Khuyến

qua các giai thoại (Năm 1979 Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh đã cho

xuất bản cuốn Giai thoại về Nguyễn Khuyến do Bùi Văn Cường sưu tầm, biên

soạn. Sách được tái bản năm 1984). Nhưng có một “câu chuyện đời nay” liên

quan đến những tấm ảnh và di vật của Nguyễn Khuyến, đã từng tồn tại đầy bí

ẩn, éo le như một giai thoại, song lại hiện thực và chân xác đến từng chi tiết

mà đến nay còn rất ít người được biết.

Bạn đọc yêu thích thơ văn Nguyễn Khuyến hẳn còn nhớ những dòng

bình giảng hết sức tinh tế, công phu của Xuân Diệu trong tuyển tập Thơ văn

Nguyễn Khuyến do Nhà xuất bản Văn học in năm 1971, tái bản năm 1979.

Trong bài viết ấy Xuân Diệu đã dành gần hai trang sách phân tích hết sức tỷ

mỷ bức hình chụp Nguyễn Khuyến tay nâng chén rượu nhỏ “được lưu

truyền… trên những quyển sách từ Bắc chí Nam, đã bốn chục năm nay”. Tác

giả còn xác nhận thêm: “Cụ Yên Đổ còn có ảnh chụp đang mặc áo chầu thêu,

đội mũ cánh chuồn, tôi được thấy ở nhà từ đường cụ, tại xã Trung Lương,

huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam cũ; ảnh này cũng đã in trên một trang sách”.

Tưởng như không có gì đáng để tâm: ảnh nhà thơ đã được sách báo giới

thiệu từ lâu và cũng không có chi tiết sai sót, xô lệch nào; hơn nữa chuyện

những tấm ảnh đã quá rõ ràng không hấp dẫn người đọc bằng những tác

phẩm thơ văn của ông. Nhưng nỗi éo le lại nằm trong chính số phận của hai

tấm hình này. Năm 1985, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 150 ngày sinh thi hào

Nguyễn Khuyến, Vũ Thanh – một cán bộ của Viện Văn học – đã công bố một

tư liệu lưu trữ tại Viện Văn học liên quan đến hai tấm hình trên và một di vật

quý khác của Nguyễn Khuyến. Bài Một bức thư, ba tấm ảnh và tấm lòng của

người cán bộ cách mạng (đăng trên báo Nhân dân ra ngày 10.II.1985) của tác

giả Vũ Thanh viết: “… Vào một ngày tháng IX.1965, giữa những ngày mà

cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang ở giai đoạn ác liệt, nhà văn Hoài

Thanh, lúc bấy giờ là Viện phó Viện Văn học, nhận được một bức thư cùng

với ba tấm ảnh quý về nhà thơ Nguyễn Khuyến. Người viết thư là một cán bộ

Page 420: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

kháng chiến chống Pháp từ những năm 50 (thư chỉ đề tên người viết là Lê

Phan Quỳnh mà không ghi địa chỉ). Bức thư nói lên tấm lòng yêu quý Nguyễn

Khuyến của các cán bộ cách mạng ngay từ những ngày nằm hầm bí mật

trong vùng địch hậu: “Năm 1950, khi tôi làm quân bán hoạt động ở vùng địch

hậu Bắc Nam Định – Hà Nam, trong một cuộc chống càn, tôi gặp một đồng

chí huyện ủy viên, cán bộ tỉnh Hà Nam. Đồng chí ấy có một cuốn sổ tay, đóng

rất dày nhưng hơi thô, trong đó có ghi rất nhiều thơ kháng chiến, đặc biệt có

ghi hơn 20 bài thơ của Nguễn Khuyến. Đồng chí nhẩm đọc thơ Nguyễn

Khuyến suốt ngày, thỉnh thoảng lại gật gù kể cho tôi nghe tiểu sử nhà thơ của

quê hương mình. Thời đó trình độ văn hóa của tôi còn kém lắm nên suốt mấy

ngày nằm chung hầm bí mật cũng có đọc thơ Nguyễn Khuyến nhưng không

mê bằng khẩu súng lục của đồng chí huyện ủy viên. Từ bấy đến nay, đã mười

mấy năm chúng tôi không gặp lại nhau nhưng hình ảnh người cán bộ địch

hậu da bủng vàng, tóc hoa râm, tựa lưng vào hầm bí mật nhẩm thơ Nguyễn

Khuyến, làm cho tôi nhớ mãi. Và mỗi lần đọc thơ Nguyễn Khuyến tôi lại nhớ

đến đồng chí huyện ủy viên vui tính năm nào, người cán bộ bày cho tôi cách

chạy càn nằm hầm bí mật, người thày đầu tiên của đời tôi, dạy cho tôi biết

một cách rất đơn giản nhưng thấm sâu về chuyện văn chương: Nguyễn

Khuyến đã đến với cách mạng một cách giản dị, sâu sắc và cảm động như

vậy! Và người chiến sĩ cách mạng trong những ngày đen tối khi giáp mặt với

kẻ thù đã tìm thấy sức mạnh trong những vần thơ tâm huyết của Yên Đổ. Và

cũng chính những vần thơ đó đã góp phần vào sự trưởng thành về tâm hồn

và hiểu biết của người cán hộ cách mạng”. Bức thư viết tiếp: “Hòa bình lập

lại, tôi có đi cải cách ruộng đất ở Đoàn ủy Bắc Nam Định, tình cờ thu được

một số tài liệu về Nguyễn Khuyến, bấy lâu nay vẫn giữ lại làm kỷ niệm… Thì

ra đó chính là ba kỷ vật rất quý của nhà thơ yên Đổ, một bức vẽ Nguyễn

Khuyến mặc triều phục, một bức ảnh Nguyễn Khuyến cầm chén rượu, còn

nguyên cả lề ảnh ghi lời đề tặng của người bạn ông là Dương Lâm vào năm

Nhâm tuất 1922, hiện vật thứ ba là bức tượng “ông Phỗng đá” cao hơn một

gang, rất đẹp, đá màu gan gà, ngồi trong một chiếc đĩa cổ…”.

Page 421: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Để kết thúc câu chuyện cảm động về “tấm lòng của người cán bộ cách

mạng” với thi hào dân tộc Nguyễn Khuyến, Vũ Thanh gửi một lời nhắn hỏi:

“Nhưng rất tiếc không hiểu do vô tình hay hữu ý người cán bộ đóng góp một

cách vô tư những tư liệu quý giá ấy đã không để lại địa chỉ. Nhiều năm qua,

chúng tôi đã tìm kiếm địa chỉ của anh nhưng vẫn chưa thấy…”.

Hai mươi năm trôi qua, tính từ ngày những kỷ vật quý giá được gửi đến

Viện Văn học (1965) đến ngày Viện Văn học công bố trên báo chí, cuộc tìm

kiếm một địa chỉ, một tấm lòng vẫn chưa kết thúc. Thêm ngót mười năm nữa,

những băn khoăn xung quanh ba tấm ảnh cũng dường như chưa có lời giải

đáp. Cho đến một ngày cuối năm Quý dậu (đầu năm 1994) Giáo sư Nguyễn

Huệ Chi, chủ biên công trình Thi hào Nguyễn Khuyến, đời và thơ nhận được

lá thư của một người cháu bốn đời của Nguyễn Khuyến là bác sĩ Nguyễn Thị

Thu Hiền. Thư có đoạn viết: “Gia đình tôi và tôi đã đọc cuốn sách do Giáo sư

chủ biên. Chúng tôi vô cùng xúc động được biết tập thể các Giáo sư và các

nhà nghiên cứu đã bỏ nhiều công sức và trí tuệ tìm hiểu về Cụ chúng tôi.

Cuốn sách cũng đã góp phần làm cho thế hệ chúng tôi hiểu biết thêm về nhà

thơ tổ tiên của mình”. Bác sĩ Thu Hiền cho biết thêm: “Đến Hải Phòng (nơi ở

của gia đình bác sĩ Hiền hiện nay), Giáo sư sẽ được thấy ông Phỗng đá “bạn

uống rượu” của nhà thơ. Trước năm 1965 gia đình chúng tôi còn giữ hai bức

ảnh nguyên bản của Cụ tôi: một, cầm chén rượu; một, mặc triều phục, do cha

tôi đem ra Hải Phòng sau cải cách ruộng đất. Nhưng sau đó không rõ vì sao

bị mất trong những ngày gia đình tôi sơ tán chiến tranh phá hoại của Mỹ…”.

Nhận được nguồn thông tin quý giá này Giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã đề nghị

bác sĩ Hiền cho biết kỹ hơn những chi tiết liên quan đến Nguyễn Khuyến và

các di vật quý.

Qua những lá thư tiếp theo và một cuộc gặp gỡ ít lâu sau đó giữa bác

sĩ Hiền và Ban Văn học Cổ cận đại Viện Văn học, số phận những tấm ảnh

của Nguyễn Khuyến đã dần dần được sáng tỏ.

Bác sĩ Hiền kể: Ông nội tôi là Nguyễn Doãn Đôn, con thứ tư nhà thơ,

dân làng Và thường gọi là cụ Hàn Tư. Ông bà tôi sinh hạ được bốn con trai

Page 422: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

và ba con gái, cha tôi là Nguyễn Tốn Dự là con thứ tư. Sau khi Cụ tôi mất,

cảnh nhà sa sút, ông nội tôi đem gia đình ra Hải Phòng sinh sống bằng nghề

bốc thuốc chữa bệnh. Lớn lên, cha tôi làm ăn phát đạt. Có tiền cha tôi về quê

tậu ruộng và mua lại dinh cơ của Cụ tôi do ông Nguyễn Thanh Đàm (con trai

cụ Phó bảng Nguyễn Hoan) bán để vào Sài Gòn sinh sống. Từ đó ông bà nội

tôi trông coi nhà thờ và dinh cơ Cụ tôi để lại. Pháp chiếm Hải Phòng năm

1946, cha tôi đem gia đình về quê tham gia kháng chiến, vào Đảng, giữ chức

Phó chủ tịch huyện Bình Lục và huyện ủy viên suốt thời kháng chiến chống

Pháp. Vì thế mà Pháp và tề đã dỡ đi ngôi nhà gỗ lim bẩy gian, nơi ở của cụ

Phó bảng, nên bây giờ chỉ còn cái nền cũ được xây lại và những tảng đá

xanh kê chân cột. Sau cải cách ruộng đất cha tôi chuyển ra Hải Phòng làm

việc ở Sở Tài chính cho đến khi chết (1974). Khi trở lại Hải Phòng năm 1957

cha tôi có mang theo hai bức ảnh Cụ tôi và ông Phỗng đá được cất giấu trong

suốt chín năm kháng chiến. Cha tôi treo ảnh Cụ cầm chén rượu tại phòng

khách; còn bức Cụ mặc triều phục treo ở nhà trong; ông Phỗng đá để ở bàn

thờ. Đó là ba báu vật của cha tôi. Cha tôi kể rằng: Cụ tôi cho ông nội tôi ông

Phỗng đá và đã có vài người lấy trộm nhưng sau đó lại tự đem trả cho cha tôi

(ông là người yêu thơ, thuộc nhiều thơ Cụ tôi, cũng biết chữ Hán, một người

trung thực và đôn hậu).

Vẫn theo lời bác sĩ Hiền thì ba báu vật ấy hiện giờ gia đình chỉ còn giữ

được một. Đó là tượng ông Phỗng đá, màu gan gà thường đặt ngồi trong một

chiếc đĩa cổ. Còn hai tấm ảnh thì đã thất tán gần ba chục năm nay. Tấm ảnh

Nguyễn Khuyến tay nâng chén rượu do một người giúp việc cho gia đình bác

sĩ Hiền – tên là Sắc – ở Hải Phòng lấy đi với lý do “Ảnh Cụ đã ố và cũ rồi, cậu

(tức bố bác sĩ Hiền) cho phép con mang về chụp lại để cậu treo cho trang

trọng”. Thế nhưng năm tháng trôi qua, gia đình đã nhiều lần nhắc nhở mà ông

Sắc vẫn chưa hoàn lại tấm ảnh như đã hứa. Còn bức vẽ Nguyễn Khuyến mặc

triều phục mất trong trường hợp nào và ai là người đã làm việc ấy thì lâu nay

cả gia đình bác sĩ Hiền vẫn không rõ. Thư bác sĩ Hiền viết: “Nay qua cuốn

sách của Giáo sư, gia đình chúng tôi cũng có thể nghĩ tới một giả thiết về cái

người mang tên là Lê Phan Quỳnh”. Tháng III–1994, trong lần ghé thăm Ban

Page 423: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Văn học cổ cận đại, được tận mắt xem nét chữ của Lê Phan Quỳnh trong lá

thư lưu tại Viện Văn học từ năm 1965, bác sĩ Hiền đã khẳng định được giả

thuyết của gia đình mình.

Lê Phan Quỳnh không phải là một cái tên thực nhưng con người mình

tên ấy trước đây đã từng sống thực trong gia đình bác sĩ Hiền hàng chục

năm. Từ một vùng quê miền Trung, sóng gió cuộc đời đã xô đẩy ông Quỳnh

(vì tế nhị ở đây chúng tôi vẫn gọi ông bằng cái tên ông đã tự nhận với Viện

Văn học 30 năm về trước) trôi dạt đến Nam Định, rồi Hải Phòng. Chính trong

những tháng ngày khốn khó này ông Quỳnh đã được ông Nguyễn Tốn Dự

cưu mang và coi như một thành viên thân thiết trong gia đình. Bằng cả sự

từng trải và tấm ông nhân hậu, người cháu ba đời của Nguyễn Khuyến đã

thấu hiểu được những éo le trong cuộc đời của con người này. Họ đã trở nên

gắn bó qua những tâm tình: từ chuyện đời sang chuyện văn chương, từ

những áng văn thơ lại quay về hiện thực cuộc sống… Ơn nghĩa ngày một sâu

dày và niềm say mê, lòng ngưỡng mộ đối với thơ văn và con người Nguyễn

Khuyến đã dần dà truyền sang ông Quỳnh (có lẽ ông là một người tinh tế, biết

thưởng thức và ham say vẻ đẹp văn chương). Và đến một ngày nào đó, sự

đam mê thái quá đã khiến ông quỳnh không thắng nổi những cám dỗ thường

tình, giữ lấy làm của riêng một trong ba báu vật của gia đình ân nhân - đó là

bức vẽ Nguyễn Khuyến mặc áo triều phục (còn hai tấm phim chụp ông Phỗng

đá và chụp lại tấm ảnh Nguyễn Khuyến tay cầm chén rượu mà ông Quỳnh

được, có lẽ thuộc một tình huống đơn giản dễ hiểu hơn). Sau giây phút yếu

mềm ấy hẳn lương tâm ông Quỳnh đã bị cắn rứt. Ông hiểu mình đã phạm một

sai lầm không thể tha thứ. Song quay trở lại thú nhận thì ông không đủ can

đảm, và thế là một câu chuyện thật cảm động, hấp dẫn về tấm lòng người cán

bộ cách mạng đối với nhà thơ dân tộc tài năng đã được ông tạo dựng nên -

như chúng ta đã đọc ở bài viết của Vũ Thanh – để có “cớ” chuyển giao Viện

Văn học, nơi ông nghĩ có trách nhiệm bảo quản di sản văn hoá dân tộc,

những di vật quý mà mình đã “thủ đắc”. Toàn bộ câu chuyện do ông Quỳnh

hư cấu chỉ có một hình ảnh hiện thực duy nhất là người huyện ủy viên nằm

hầm say mê thơ văn Nguyễn Khuyến, lấy mẫu từ chính cuộc đời ông Nguyễn

Page 424: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Tốn Dự, con người đã lăn lộn trong những năm tháng kháng chiến gian khổ

tại vùng địch hậu. Còn lại, ẩn sau “nhân vật tôi” đầy ngưỡng mộ tài năng và

sự hiểu biết của người cán bộ cách mạng; ẩn sau hành động chuyển giao “vô

tư” những tấm hình quý là một lời tạ lỗi chân thành của ông Quỳnh trước

những ân nhân, trước nhà thơ Nguyễn Khuyến. Trong thư gửi về Viện Văn

học, từ trước khi biết Lê Phan Quỳnh là ai, bác sĩ Hiền đã có một câu mà

chúng tôi nghĩ có thể lấy làm lời “phán xử cuối cùng” cho những việc làm của

ông Quỳnh: “Dù ai đã lấy đi ảnh Cụ tôi, chụp trộm hình ông Phỗng đá nhưng

đã vì quý trọng di sản văn hóa cha ông mà gửi đến Viện Văn học là một việc

làm tốt đẹp và gia đình chúng tôi hết sức biết ơn”. Đó cũng là đôi lời mà gia

đình con cháu Nguyễn Khuyến và chúng tôi muốn gửi đến người có tên là

Sắc, mong sao tấm hình nguyên bản Nguyễn Khuyến tay nâng chén rượu mà

ông giữ bấy lâu nay sớm được trả về cho người chủ của nó.

Mấy dòng cuối cùng này chúng tôi xin được vui mừng thông báo rằng

sau gần 30 năm lưu lạc, châu đã về Hợp phố vào một ngày tháng V vừa qua:

tại Viện Văn học Giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã thay mặt Viện trao lại cho bác sĩ

Nguyễn Thị Thu Hiền nguyên bản bức vẽ Nguyễn Khuyến mặc áo triều phục.

Câu chuyện “trình làng” gần mười năm trước đây, giờ đã được kết thúc có

hậu, toại lòng mong ước của mọi người.

MỤC LỤC

THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ

Cùng bạn đọc

Lời nói đầu

PHẦN THỨ NHẤT

NGUYỄN KHUYẾN TỪ CON NGƯỜI ĐẾN THI CA

DẪN LUẬN

ĐỔI MỚI CÁCH NHÌN NGUYỄN KHUYẾN

Page 425: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Chương I. KHÁI QUÁT. NGUYỄN KHUYẾN, MỘT THI TÀI NHIỀU VẺ,

VÀ DẤU HIỆU CHUYỂN MÌNH SANG HIỆN ĐẠI CỦA THƠ CA DÂN TỘC

1. Con đường tìm kiếm bản sắc thơ Yên Đổ

2. Sự đa dạng và thống nhất trên quá trình chuyển động của một phong

cách

3. Bước ngoặt quyết định tạo nguồn cảm hứng cho thơ

4. Dấu hiệu chuyển mình của tư duy thơ dân tộc

Chương II. MỘT ĐỜI THƠ GIỮA HAI THẾ KỶ

5. Đôi điều về làng Yên Đổ

6. Phả hệ Nguyễn Khuyến

7. Nguyễn Khuyến trong bối cảnh văn hóa - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ

XI đầu thế XX

8. Vấn đề xuất xử

9. Một tâm trạng bi kịch

Chương III. BẢN LĨNH NGHỆ SĨ VÀ CÁI NHÌN NGHỆ THUẬT VỀ CON

NGƯỜI

10. QUan niệm con người trong sáng tác Nguyễn Khuyến

11. Nhân vật trữ tình trong thơ chữ Hán

12. Thái độ trào lộng đối với con người và các hình thái biểu hiện của

nhân vật trào lộng

18. Hai loại chân dung phụ nữ

Chương XV. NHÀ THƠ LÀNG CẢNHVIỆT NAM

14. Từ NhữNg biến động trong nguyên tắc phản ánh thực tại của văn

chương nhà Nho đến bức tranh sinh hoạt nông thôn trong thơ Nguyễn

Khuyến

15. Đề tài thiên nhlên và quan điểm thẩm mỹ

Page 426: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

16. Những vần thơ xuân

17. Bài thơ Than mùa hè

18. Ba bàl thơ thu

Chương V. MỘT BÚT PHÁP ĐA DẠNG

19. Ngòi bút tả thực đột xuất

20. Sự kết hợp phức điệu trào phúng với trữ tình

21. Vài đặc điểm thơ Nôm

22. Sáng tạo trong thơ luật Đường

23. Nhà thơ kép Hán - Việt

24. Nét riêng trong hát nói

25. Tài chơi chữ

THAY LỜI BẠT

ĐỊA VỊ NGUYỄN KHUYẾN TRONG LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAM

PHẦN THỨ HAI

THƠ TUYỂN

THƠ CHỮ HÁN

1. Thu dạ hữu cảm (Mối cảm đêm thu)

2. Thu sơn tiêu vọng (Đêm thu trên núi ngắm cảnh)

3. Dục Thúy sơn (Núi Dục Thúy)

4. Trạm phu (Phu trạm)

5. Bùi viên cựu trạch ca (Bài ca nhà cũ ở vườn Bùi. Tác giả tự dịch: Trở

về làng cũ)

6. Bùi viên ẩm trích cú ca (Tác giả tự dịch: Uống rượu ở vườn Bùi)

7. Túy hậu (Sau khi say).

8. Mạn hứng (Tác giả tự dich: Nhàn cư)

Page 427: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

9. Xuân dạ liên nga (Đêm xuân thương con thiêu thân)

10. Giáp thân trung thu ngụ Hà Nội hữu cảm ký đồng niên Cử nhân

Ngô (Cảm nghĩ nhân dịp trung thu Giáp thân (1884) ở Hà Nội, viết gửi cho

bạn đồng niên là ông Cử họ Ngô)

11. Độc la Ngạn Đỗ Đình nguyên từ Bắc phiên thư(Đọc bức thư từ chối

chức Bố chính Bắc Ninh củaa Đình nguyên họ Đỗ ở La Ngạn)

12. Hạ nhật ngẫu thành (Ngày hè, ngẫu thành)

13. Sơ hạ (Đầu mùa hạ)

14. Hạ nhật tân tình (Ngày hè hửng nắng).

15. Hạ nhật vãn điếu (Ngắm chiều hè)

16. Hạ nhật phỏng biểu huynh Đặng thai, quy tác (Ngày hè thăm anb

bên ngoại là bác Đặng, khi trở về làm thơ)

17. Điền gia tự thuật (Nhà nông tự thuật)

18. Điền tức sự ngâm (Chuyên nhà người nông phu)

19. Đảo vũ (Cầu mưa)

20. Tiễn môn đệ Nghĩa Định sứ quân Lê Như Bạch, nhân ký thành chư

môn đệ (Tiễn học trò là Nghĩa Định sứ quân Như Bạch, nhân tiện gửi các học

trò ở kinh thành)

21. Ngô huyện Lão sơn (Núi An Lão huyện ta. Tác giả tự dịch)

22. Ức Long Đội sơn (Nhớ núi Long Đội. Tác giả tự dịch)

23. Trung thu vo nguyệt, tam nhật hậu hốt thiên tình, cảm tác (Tết trung

thu không có trăng, ba ngày sau bỗng nhiên trời tạnh, cảm tác)

24. Hoàn Kiếm hồ (Hồ Hoàn Kiếm)

25. Quá Quận công Hữu Độ sinh từ cảm tác (Cảm nghĩ lúc qua sinh từ

Quận công Nguyễn Hữu Độ)

26. Lữ thấn khốc nội (Khóc vợ chôn nơi đất khách).

Page 428: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

27. Điệu nội (Khóc vợ)

28. Thoại tăng (Nói chuyện với sư)

29. Thoại cựu (Nói chuyện với bạn. Tác giả tự dịch: Chuyện cũ)

30. Giả sơn ngâm (Bài ngâm về hòn non bộ)

31. Ủy thạch lão nhân (An ủi ông lão đá)

32. Ly phụ hành (Tác giả tự dịch: Lời gái góa)

33. Ưu phụ từ (Tác giả tự dịch: Lời vợ anh phường chèo)

34. Tức sự (Tức sự)

35. Ký châu Giang Bùi Ân Niên (Gửi Bùi Ân Niên ở Châu Giang)

36. Sơn trà (Hoa sơn trà, Tác giả tự dịch: Ta lại người cho hoa trà)

37. Hữu cảm (Tác giả tự dịch: Cảm hứng)

38. Nhâm dần hạ nhật (Mùa hè năm Nhâm dần)

39. Đối trướng phát khách (Bán hàng đối trướng)

40. Nhân tặng nhục (Có người cho thịt)

41. Vãn đồng niên Vân Đình Tiến sĩ Dương Thượng thư (Viếng bạn

đồng khoa là Vân Đình Tiến sĩ Dương Thượng thư. Tác giả tự dịch: Khóc

bạn)

42. Di chúc văn (Tác giả tự dịch: Văn di chúc)

THƠ NÔM

43. Đêm mùa hạ cảm hứng

44. Thú quê

45. Nước lụt

46. Vịnh nước lụt

47. Nghe hát trung thu

48. Vịnh núi An Lão

Page 429: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

49. Chợ Đồng

50. Cuốc kêu cảm hứng

51. Thu vịnh

52. Thu ẩm

53. Thu điếu

54. Bạn đến chơi nhà

55. Gửi bác Châu Cầu

56. Hỏi thăm mất cướp

57. Kiều bán mình

58. Ông Phỗng đá

59.Ông tượng sành đứng trên hòn non bộ

60. Vịnh Tiến sĩ giấy

61. Mẹ Mốc

62. Tự trào

63. Ngẫu hứng

64. Khai bút

65. Lên lão

66. Cảnh già

67. Cảm hứng

PHẦN THỨ BA

PHỤ LỤC

NIÊN BIỂU VÀ THƯ MỤC

I. NIÊN BIỂU NGUYỄN KHUYẾN

II. THƯ MỤC NGUYỄN KHUYẾN

III. PHẦN KẾT CHUYỆN MƯỜI NĂM TRƯỚC

Page 430: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

PHỤ BẢN

- Chân dung Nguyễn Khuyến (Dương Lâm đề)

- Chân dung Nguyễn Khuyến (Họa sĩ Hàn lâm viện Phạm Văn Lập vẽ)

(Ảnh: Tố Như)

Cổng vào vườn Bùi (Ảnh: Nguyễn Thị Thu Hiền)

- Từ đường Nguyễn Khuyến (Ảnh: Nguyễn Thị Thu Hiền)

- Tượng Phỗng đá, một di vật lúc sinh thời Nguyễn Khuyến (Ảnh:

Nguyễn Thị Thu Hiền):

- Lễ trao lại bức tranh Chân dung Nguyễn Khuyến cho gia đình thi hào

(Ảnh: Tố Như)

–––//–––

THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ

(Tái bản có chỉnh lý, bổ sung)

Chủ biên: Nguyễn Huệ Chi

VIỆN VĂN HỌC

NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC

HÀ NỘI – 1994

Chịu trách nhiệm xuất bản:

TRẦN TRÂM PHƯƠNG – NGUYỄN KHẮC PHI

Biên tập: ĐINH THÁI HƯƠNG

Biên tập kỹ thuật:

PHƯƠNG TRI – LẠI VĂN HÙNG

Trình bày bìa: TRẦN VIỆT SƠN

Sửa bản in:

ĐẶNG THỊ HẢO – BĂNG THANH – ĐỨC MẬU

HẢI YẾN – NGỌC LAN – YẾN VŨ

Page 431: THI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/270.ThiHaoNguyenKhuyen.docx  · Web viewTHI HÀO NGUYỄN KHUYẾN ĐỜI VÀ THƠ. THI HÀO NGUYỄN

Sắp chữ điện tử tại xưởng chế bản Bộ Nội Vụ - In 2.000 cuốn, khổ 13 x 19

cm, tại Nhà in Nhân dân Hà Nội II - Số in 689/KH - Số XB: 38/CXB–26 - Cục

xuất bản cấp ngày 17–9–1994. In xong và nộp lưu chiểu tháng 11 năm 1994.