35
GV: TS. Bùi Xuân Thanh TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH ---------- TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ĐỀ TÀI NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN TRONG TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA NÓ GIẢNG VIÊN: TS. Bùi Xuân Thanh SINH VIÊN: SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 0

Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Tiểu luận Triết học dành cho cao học

Citation preview

Page 1: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINHKHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

----------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

ĐỀ TÀI

NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN TRONG TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA NÓ

GIẢNG VIÊN: TS. Bùi Xuân ThanhSINH VIÊN: MSSV: LỚP:

TPHCMTháng 12 - 2012

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 0

Page 2: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

MỤC LỤC

CHƯƠNG I: SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN

THỦY........................................................................................................................................3

1.1. Sự ra đời của Phật giáo..............................................................................................3

1.1.1. Hoàn cảnh ra đời Phật giáo ở Ấn Độ..............................................................3

1.1.2. Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca..............................................4

1.1.3. Phật giáo nguyên thủy và các tông phái Phật giáo.........................................5

1.2. Những tư tưởng cơ bản trong triết lý nhân sinh của Phật giáo nguyên thủy8

1.2.1. Tư tưởng nghiệp báo, tái sinh.........................................................................8

1.2.2. Triết lý Tứ Diệu Đế........................................................................................8

CHƯƠNG II: Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHẬT GIÁO

NGUYÊN THỦY...................................................................................................................14

3.1. Lời tuyên ngôn chống lại sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội................15

3.2. Giáo dục con người giác ngộ chân lý và đạt được hạnh phúc (giải thoát). . .16

3.3. Giáo dục đạo đức, hướng thiện cho con người và xây dựng tính nhân bản

sâu sắc..................................................................................................................................17

3.3.1. Giáo dục đạo đức, hướng thiện cho con người............................................17

3.3.2. Xây dựng tính nhân bản...............................................................................17

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 1

Page 3: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

LỜI MỞ ĐẦU

Albert Einstein (1879 - 1955), nhà bác học nổi danh của thế kỷ thứ 20 đã từng phát

biểu: "Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vượt lên

Thượng đế của cá nhân và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học. Bao trùm cả tự

nhiên và tâm linh, nó phải được căn cứ trên cảm nhận phát sinh từ kinh nghiệm của tất

cả mọi thứ tự nhiên và tâm linh như một sự hợp nhất đầy đủ ý nghĩa. Đạo Phật trả lời

cho những sự mô tả này. Nếu có một tôn giáo mà có thể đương đầu với những nhu cầu

của khoa học hiện đại, đấy sẽ là Đạo Phật”. Ông vẫn thường nhắc nhở các nhà khoa

học nên học hỏi ở các tôn giáo để bổ sung cho những khiếm khuyết của khoa học. Ông

nói : "Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì

mù quáng". Thật vậy, sự tiến bộ quá nhanh của khoa học kỹ thuật đã tạo ra những

khủng hoảng xã hội, mất thăng bằng về sinh thái, về văn hóa, tâm lý, đạo đức... Cho

nên, tôn giáo với cốt lõi là tình yêu, lòng từ bi và mong muốn hướng con người đến

cuộc sống tốt đẹp hơn, nhân ái hơn sẽ là chỗ đứng cho khoa học. Không ai khác hơn,

con người chính là cơ sở cho những phát minh tốt đẹp của khoa học ra đời, để phục vụ

và khoa học phải là “ngọn đuốc” để soi sáng rõ cho tôn giáo khỏi những điều mù

quáng, mê tín; nếu không, thì những phát minh và thành tựu khoa học ấy sẽ trở nên vô

nghĩa.

Phật giáo chính là một trường phái triết học – tôn giáo với hệ thống giáo lý đồ sộ, lâu

đời, ảnh hưởng sâu rộng và chứa đựng nhiều tư tưởng triết lý sâu sắc. Điểm nổi bật

nhất trong triết lý Phật giáo nguyên thủy chính là tư tưởng nhân sinh quan đầy tính

nhân bản mà ở đó, con người chính là trung tâm của lý luận Phật giáo. Tuy đã trải qua

bao cuộc thăng trầm biến thiên của lịch sử nhân loại, Phật giáo vẫn mãi là tiếng nói của

tình thương và độ lượng. Qua mọi miền xứ sở và thời đại khác nhau, Đạo Phật đã khéo

léo thích ứng với từng nền văn hóa khác nhau. Do vậy, để ngọn đèn chính pháp được

mãi thắp sáng và lưu truyền trong nhân loại, chúng ta phải biết sống cho tốt, phù hợp

với đạo lý mà Phật đã dạy.

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 2

Page 4: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

CHƯƠNG I: SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

1.1. Sự ra đời của Phật giáo

1.1.1. Hoàn cảnh ra đời Phật giáo ở Ấn Độ

Về điều kiện thiên nhiên, Ấn Độ cổ đại là một vùng đất có điều kiện tự nhiên đa dạng.

Đất nước này vừa có dãy núi Hymalaya hùng vĩ án ngữ kéo dài trên hai ngàn km ở

phía Bắc, vừa có biển Ấn Độ Dương rộng mênh mông; vừa có sông Ấn chảy về phía

Nam, lại có sông Hằng chảy về phía Tây. Vì thế, đất nước Ấn Độ bao gồm nhiều miền

khí hậu khác biệt, từ những vùng đồng bằng trù phú màu mỡ cho đến những vùng nóng

ẩm mưa nhiều, vùng lạnh giá quanh năm tuyết phủ, hay lại có những vùng sa mạc khô

cằn, nóng bức. Yếu tố địa lý đa dạng và khắc nghiệt này chính là cơ sở để hình thành

sớm những tư tưởng tôn giáo và triết học của người Ấn Độ cổ đại.

Về kinh tế – xã hội, từ thế kỷ VI – I TCN, nền kinh tế – xã hội chiếm hữu nô lệ Ấn Độ

đã phát triển, thổ dân trên bán đảo Nam Á là người Dravidian và Sumerian đã có nền

văn minh khá cao. Đầu thế kỷ II TCN, một nhánh người Aryan thâm nhập vào bán đảo

Ấn Độ, dần dần chuyển sang định cư và sống bằng nghề nông. Đặc điểm nổi bật của

nền kinh tế – xã hội của xã hội Ấn Độ cổ, trung đại là sự tồn tại rất sớm và kéo dài của

kết cấu kinh tế – xã hội theo mô hình “công xã nông thôn”. Mô hình này có đặc trưng

là ruộng đất thuộc quyền sở hữu nhà nước của các đế vương, gắn liền với nó là sự bần

cùng hoá của người dân trong công xã, và quan hệ giữa gia đình thân tộc được coi là

quan hệ cơ bản, cùng với xã hội được phân chia thành các đẳng cấp. Xã hội thời kỳ

này được phân chia thành 4 đẳng cấp lớn là: tăng lữ, quý tộc, bình dân tự do và tiện nô

(hay nô lệ). Ngoài sự phân biệt đẳng cấp, xã hội Ấn Độ cổ đại còn có sự phân biệt về

chủng tộc, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo. Chính sự phân chia đẳng cấp đó làm cho

xã hội xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp giữa các

đẳng cấp trong xã hội. Trong cuộc đấu tranh ấy, nhiều tôn giáo và trường phái triết học

đã ra đời, trong đó có Phật giáo.

Về văn hóa – khoa học, Ấn Độ cổ đại có một nền triết học phát triển từ rất sớm. Văn

hoá Ấn Độ cổ – trung đại được chia làm ba giai đoạn. Khoảng thế kỷ XXV-XV TCN

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 3

Page 5: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

gọi là nền văn minh sông Ấn, từ thế kỷ XV – VII TCN gọi là nền văn minh Vêđa, đã

cho ra đời bộ thánh kinh Vêđa và từ thế kỷ VI – I TCN là thời kỳ hình thành các

trường phái triết học tôn giáo lớn gồm hai hệ thống đối lập nhau là chính thống và

không chính thống. Thời kỳ này, tiêu chuẩn của chính thống và không chính thống là

có thừa nhận uy thế của kinh Vêđa và đạo Bàlamôn hay không. Thời kỳ VI-I TCN là

thời kỳ triết học Bàlamôn (1000-800 năm TCN) và Upanishad (800-600 năm TCN).

Trong Upanishad đã đề cập đến nhiều vấn đề có ý nghĩa triết học thực sự như mối

quan hệ giữa tinh thần vũ trụ (Brahman) và linh hồn cá thể (Atman), thuyết luân hồi,

nghiệp nhân quả, vấn đề giải thoát... Những tư tưởng đó đã đặt nền móng vững chắc để

cho các trào lưu tư tưởng mới sau này phát triển. Thế giới quan thần thoại, chủ nghĩa

duy tâm trong thánh kinh Vêđa, Upanishad và đạo Bàlamôn thống trị đời sống tinh

thần của xã hội Ấn Độ cổ đại. Về khoa học, ngay từ thời kỳ cổ đại, người Ấn Độ đã đạt

được những thành tựu về khoa học tự nhiên như có kiến thức phong phú về thiên văn,

sáng tạo ra lịch pháp, đã biết quả đất xoay tròn và tự xoay quanh trục của nó, phát

minh ra số thập phân, chữa bệnh bằng thuật châm cứu, bằng cây thuốc…

Như vậy, tất cả những đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội nói trên là cơ sở cho

sự nảy sinh và phát triển những tư tưởng triết học của Ấn Độ thời cổ, trung đại với các

hình thức phong phú đa dạng. Và Phật giáo ra đời vào khoảng thế kỷ VI TCN với tư

cách là một hệ tư tưởng phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn và chế độ phân biệt đẳng

cấp xã hội khắc nghiệt, phủ nhận uy thế của kinh Vêđa, lý giải căn nguyên nỗi khổ và

tìm đường giải thoát cho con người khỏi nỗi khổ triền miên, đè nặng trong xã hội nô lệ

Ấn Độ. Có thể nói rằng, ngay từ lúc mới ra đời, đạo Phật với triết lý nhân sinh sâu sắc

đã trở thành một trong những ngọn cờ tiên phong của phong trào đòi tự do tư tưởng và

bình đẳng xã hội Ấn Độ đương thời.Vì chống lại sự ngự trị của đạo Bàlamôn đặc biệt

là quan điểm của kinh Vêđa nên Phật giáo được xem là dòng triết học không chính

thống.

1.1.2. Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 4

Page 6: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

Người sáng lập Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni, tên thật là Tất Đạt Đa (Siddhattha), họ

là Cù Đàm (Goutama), thuộc bộ tộc Sakya. Tất Đạt Đa là thái tử của vua Tịnh Phạn,

một nước nhỏ nằm ở Bắc Ấn Độ (nay thuộc vùng đất Nepan). Ông sinh ngày 8 tháng 4

năm 563 TCN, theo truyền thống Phật lịch là ngày 15/04 (rằm tháng tư) còn gọi là

ngày Phật Đản.

Mặc dù ông được sống trong cảnh cao sang quyền quý, dòng dõi đế vương, lại có vợ

đẹp con ngoan nhưng trước bối cảnh xã hội phân chia đẳng cấp khắc nghiệt, với sự bất

lực của con người trước khó khăn của cuộc đời. Năm 29 tuổi, ông quyết định từ bỏ con

đường vương giả xuất gia tu đạo. Sau 6 năm tu hành, năm 35 tuổi, Tất Đạt Đa đã giác

ngộ tìm ra chân lí “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân duyên”, tìm ra con đường giải

thoát nỗi khổ cho chúng sinh. Từ đó ông đi khắp nơi để truyền bá tư tưởng của mình.

Về sau, ông được suy tôn với nhiều danh hiệu khác nhau: Đức Phật, Đức Thế Tôn,

Thích Ca Mâu Ni, Thánh Thích Ca… trong dân gian thường gọi là Phật hay Bụt.

Qua hơn 40 năm hoằng pháp và truyền đạt giáo lý Phật giáo khắp Ấn Độ. Ông qua đời

ở tuổi 80 và để lại cho nhân loại những tư tưởng triết học Phật giáo vô cùng quý báu.

Với mục đích nhằm giải phóng con người khỏi mọi khổ đau bằng chính cuộc sống đức

độ của con người, Phật giáo nhanh chóng chiếm được tình cảm và niềm tin của đông

đảo quần chúng lao động. Nó đã trở thành biểu tượng của lòng từ bi bác ái trong đạo

đức truyền thống của các dân tộc Châu Á. Kinh điển của phật giáo rất đồ sộ gồm 5000

quyển, chia thành Tam tạng kinh (Tạng kinh, Tạng luật và Tạng luận).Tam tạng lại

chia làm hai loại là Đại thừa và Tiểu thừa. Tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo

nguyên thủy được trình bày trong tạng Kinh, chủ yếu nói về thế giới quan và nhân sinh

quan của Phật Thích Ca.

1.1.3. Phật giáo nguyên thủy và các tông phái Phật giáo

Đạo Phật có một lịch sử phát triển thăng trầm trong suốt hơn 2500 năm và nó lan toả từ

Ấn Độ ra khắp nơi. Do đó, việc hình thành các bộ phái khác nhau có phương pháp tu

học và cách giải thích khác nhau về giáo lý cho thích hợp với tình hình của mỗi xã hội

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 5

Page 7: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

ở mỗi thời điểm là chuyện tất yếu. Tuy vậy, bản thân giáo lý Phật giáo không hề thay

đổi theo sự phân chia tông phái này.

Sự phân chia thành bộ phái rõ nét đã bắt đầu xảy ra vào thời kỳ kết tập kinh điển lần

thứ II (khoảng 100 năm sau khi Thích Ca Mâu Ni mất). Lần phân chia đầu tiên là do sự

bất đồng về yêu cầu thay đổi 10 điều giới luật. Các điều này tuy không phải là những

thay đổi lớn lao nhưng đủ để gây ra sự tách biệt tăng đoàn thành Đại Chúng bộ

(Mahàsamghika) mà đa số là các tì kheo trẻ muốn thay đổi. Số còn lại bảo thủ các giới

luật nguyên thuỷ hình thành Thượng Tọa bộ (Theravada).

Các cuộc phân phái về sau trở nên phức tạp và đa dạng hơn. Đại Chúng bộ có trung

tâm hoạt động tại Amgotara, thuộc vùng Trung Ấn. Các cuộc phân hoá này tất cả đều

tách ra từ Đại Chúng Bộ và hình thành tổng cộng thành 9 bộ phái trong đó quan trọng

về mặt lý luận bao gồm: Đại chúng bộ, Nhất thuyết bộ, Thuyết xuất thế bộ, Kê dận bộ,

Đa văn bộ, Thuyết giả bộ, Chế đa sơn bộ, Tây sơn trụ bộ và Bắc sơn trụ bộ.  Sự thay

đổi về điều kiện xã hội và địa lý và sự phân hoá trong Đại Chúng bộ có thể là nguyên

nhân gây ra sự chia phái của Thượng Tọa bộ thành tổng cộng 11 bộ. Các phái có sự

chuyển hoá về lý luận bao gồm: Tuyết sơn bộ, Thuyết nhất thiết hữu bộ, Độc tử bộ,

Pháp thượng bộ, Hiền vị bộ, Chánh lượng bộ, Mật lâm sơn bộ, Hóa địa bộ, Pháp tạng

bộ, Ẩm quang bộ và Kinh lượng bộ.

Các bộ phái chính ngày nay:

Theravada: Theravada còn gọi là Phật giáo nguyên thuỷ hay Phật giáo Nam

tông, tên quen gọi là Phật giáo Tiểu thừa. Tông phái này hình thành ngay trong

thế kỷ đầu tiên sau khi Thích Ca viên tịch. Chữ Theravada có nghĩa là “lời dạy

của bậc trưởng thượng”, do đó nhiều sách còn gọi nhóm này là Trưởng Lão bộ.

Trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ III, hội đồng tham gia kết tập đã công nhận

giáo pháp gọi là thuyết trưởng lão. Sau đó, con trai của vua Asoka (A Dục) là

Mahinda đã đem cả ba tạng kinh đến Tích Lan (Sri Lanka ngày nay). Ba tạng

kinh đã được dịch sang tiếng Pali và các tạng kinh này trở thành nguồn kinh sử

dụng của Theravada cho đến ngày nay.

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 6

Page 8: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

Mahayana: Mahayana có tên gọi khác là Phật giáo Đại thừa. Từ thế kỷ I TCN

các tư tưởng “đại thừa” đã bắt đầu xuất hiện và thuật ngữ Mahayana, hay “đại

thừa”, chỉ thực sự có khi nó được đề cập trong bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Nói chung, ý tưởng Mahayana là có xu hướng rộng rãi và tự do hơn là các phép

tắc ràng buộc của Theravada. Đến thế kỷ III, khái niệm Mahayana mới được

xác định rõ ràng qua bồ tát Long Thọ (Nagarjuna) trong Trung Luận (hay Trung

Quán Luận), chứng minh tính không của vạn vật. Các ý này đã được Long Thọ

khai triển dựa trên khái niệm “Vô ngã” và “Duyên sinh” đã có từ trong các kinh

điển Pali.

Vajrayana: Varayjana còn có tên gọi là Tantra, Mật tông hay Kim cương thừa.

Tông phái này xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI. Phái này chia sẻ chung nhiều tư

tưởng với Đại thừa nhưng có nhấn mạnh trong việc thực hành. Các truyền giảng

được tập trung vào nhiều phương pháp tu học thực nghiệm mãnh liệt để đẩy

nhanh việc thăng tiến và có thể ngay trong cuộc sống hiện tại sẽ đạt đuợc giác

ngộ các thực nghiệm này thường được gọi là phương tiện. Nếu như Đại thừa có

nhiều tính chất thiên về triết lý, tư duy thì Mật tông đi xa hơn về mặt thực

nghiệm và cũng thể hiện sự thích ứng linh hoạt của Phật giáo.

Tịnh Độ tông: Tịnh Độ Tông xuất hiện vào giữa thế kỷ IV từ sự truyền bá của

sư Huệ Viễn. Tư tưởng về Tịnh Độ thì có sẵn trong Phật giáo Ấn Độ nhưng tới

khi sang Trung Quốc thì nó phát triển thành một tông phái. Tịnh Độ tông cũng

đuợc xem là một nhánh của Đại thừa song tông này không có sự truyền thừa

như các tông phái khác mà chỉ do sự đóng góp công sức để phát huy giáo lý

Tịnh Độ. Nguyên lý của tông phái dựa vào nguyện lực (tha lực) của Phật A Di

Đà và sự nhất tâm niệm danh hiệu Phật.

Thiền tông: Thiền tông (Dhyana) còn có các tên khác là ZEN, ch’an, tên cũ là

Thiền na. Thiền là một phương tiện căn bản đã được đạo Phật sử dụng ngay từ

khởi thủy. Nhưng cho đến khi thiền sư sơ tổ của môn phái thiền Trung Hoa là

Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) du hành sang Trung Quốc (năm 520) và truyền

lại thì Thiền tông bắt đầu trở thành một tông phái riêng biệt. Đến đời thứ 6, sư

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 7

Page 9: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

Huệ Năng (Hui-neng) đã đưa Thiền tông phát triển và nó đã thịnh hành hơn tất

cả các tông phái Phật giáo khác ở Trung Quốc. Huệ Năng cũng là người đã hủy

bỏ thông tục truyền thừa, nghĩa là không có sư tổ đời thứ 7 của Thiền Tông,

thay vào đó là hàng loạt các thiền sư có khả năng mở thành các phái thiền khác

dựa theo sự phân biệt về cung cách luyện tập và cách để đưa thiền giả đến chỗ

chứng ngộ chân lý.

1.2. Những tư tưởng cơ bản trong triết lý nhân sinh của Phật giáo nguyên thủy

Nói đến nhân sinh quan là nhắc đến những quan niệm của chúng ta về những định luật

diễn biến trong đời sống nhân loại và sự sống của con người.

1.2.1. Tư tưởng nghiệp báo, tái sinh

Nghiệp: chữ Phạn là Karma, bao gồm thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp mà gốc rễ

là do tham dục

Nghiệp báo trong một đời

Luật nhân quả? Nghiệp cũng bị chi phối bởi luật nhân quả

Nghiệp và tái sinh không những chỉ là những khái niệm của triết học Phật giáo mà có

từ trong Upanishad.

1.2.2. Triết lý Tứ Diệu Đế

Nhân sinh quan là nội dung chủ yếu của triết lý Phật giáo nguyên thủy, nó mang tính

nhân bản sâu sắc nhưng cũng chứa đầy tính chất duy tâm chủ quan, bi quan yếm thế,

không tưởng về đời sống xã hội và thần bí về đời sống con người. Nhân sinh quan của

Phật giáo nguyên thủy tiếp tục kế thừa những tư tưởng truyền thống được hình thành

từ trong thời kỳ Vêđa như tư tưởng nhân quả, nghiệp báo, tái sinh – luân hồi,… Tuy

nhiên, tư tưởng nổi bật tạo nên cốt lõi của quan niệm nhân sinh quan của Phật giáo

nguyên thủy là thuyết Tứ diệu đế (Tứ thánh đế – Catvary Arya Satya) với bốn bộ

phận là khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.

Khổ đế: Là luận điểm khái quát về thực trạng của đời người.

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 8

Page 10: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

Triết lý nhân sinh Phật giáo cho rằng, bản chất cuộc đời con người là khổ:“Đời là bể

khổ, đời là cả những chuỗi bi kịch liên tiếp, bốn phương đều là bể khổ, nước mắt

chúng sinh nhiều hơn nước biển, vị mặn của máu và nước mắt chúng sinh mặn hơn

nước biển”. Đức Phật chỉ rõ: “Ba giới không chút nào yên như là lò lửa, nỗi khổ đầy

rẫy trong đó, thật là đáng sợ” hay “ta thấy các chúng sinh đắm chìm trong bể khổ”

(Kinh Pháp Hoa). Chân lí về sự khổ trên thế gian, cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang

tính chất khổ não, không trọn vẹn, cuộc đời con người là một bể khổ. Phật xác nhận

chân tướng của cuộc đời là vô thường, vô ngã và vì vậy mà con người phải chịu khổ.

Nỗi khổ thế gian là khôn cùng, tuy nhiên có thể chia làm 8 nỗi khổ (bát khổ) trầm

luân bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái

biệt ly khổ (yêu thương mà phải chia ly, xa cách), sở cầu bất đắc khổ (muốn mà không

đạt được), oán tăng hội khổ (ghét nhau mà phải sống với nhau), ngũ uẩn khổ (năm yếu

tố vô thường nung nấu làm khổ – sắc, thụ, tưởng, hành, thức).

Như vậy, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của hoàn

cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Khổ đế là một chân lý khách quan

hiện thực. Khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng loạt nhân duyên được tạo tác từ

tâm thức. Như vậy tri nhân thực tại là một cách trực tiếp đi vào soi sáng mọi hình thái

khổ đau của con người. Để thấu hiểu triệt để cái căn nguyên của khổ đau, con người

không thể dừng lại ở sự thật của đau khổ, hay quay mặt chạy trốn, mà phải đi vào soi

sáng cái bản chất nội tại của nó.

Đạo Phật cho rằng đời là bể khổ, nỗi đau khổ là vô tận, là tuyệt đối. Do đó, con người

ở đâu, làm gì cũng khổ. Cuộc đời là đau khổ không còn tồn tại nào khác. Ngay cả cái

chết cũng không chấm dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ mới. Phật ví sự khổ của con

người bằng hình ảnh: “Nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước biển”.

Nhân đế (hay Tập đế):

Lý luận về sự phát sinh, những nguyên nhân gây ra nỗi khổ nơi cuộc sống con người.

“Tập” là tụ hợp, kết tập lại. Phật giáo cho rằng con người còn chìm đắm trong bể khổ

khi không thoát ra khỏi dòng sông luân hồi. Mà luân hồi là do nghiệp tạo ra. Sở dĩ có

nghiệp là do lòng ham muốn, tham lam (ham sống, ham lạc thú, ham giàu sang…), do

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 9

Page 11: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

sự ngu dốt và si mê, nói ngắn gọn là do Tam độc (tham, sân, si) gây ra. Nguyên nhân

của khổ là sự ham muốn, tìm sự thoả mãn dục vọng, thoả mãn được trở thành, thoả

mãn được hoại diệt… Các loại ham muốn này là gốc của luân hồi. Ngoài ra, nhân đế

được diễn giải một cách lôgic và cụ thể trong thuyết Thập nhị nhân duyên (12

nguyên nhân dẫn đến bể khổ). Trong 12 nguyên nhân tạo ra chu trình khép kín trong

mỗi con người thì vô minh là nguyên nhân thâu tóm tất cả, vì vậy, diệt trừ vô minh là

diệt trừ tận gốc sự đau khổ nhân sinh.

1. Vô minh (không sáng suốt): đồng nghĩa với mê tối, ít hiểu biết, không sáng suốt.

Không hiểu được đời là bể khổ, không tìm ra nguyên nhân và con đường thoát khổ.

Trong mười hai nhân duyên, vô minh là căn bản. Nếu không thấu hiểu Tứ diệu đế cũng

được gọi là Vô minh.

2. Duyên hành: là ý muốn thúc đẩy hành động.

3. Duyên thức: tâm từ trong sáng trở nên u tối.

4. Duyên danh – sắc: sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ quan cảm

giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).

5. Duyên lục nhập: là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác quan

cảm giác, lúc đó thân sẽ sinh ra sáu cửa là: nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân để thiêu hủy, đón

nhận.

6. Duyên xúc: là sự tiếp xúc của thế giới xung quanh sinh ra cảm giác. Đó là sắc,

thinh, hương vị, xúc và pháp khi tiếp xúc, đụng chạm vào.

7. Duyên thụ: là sự cảm thụ, sự nhận thức khi thế giới bên ngoài tiếp xúc với lục căn

sinh ra cảm giác.

8. Duyên ái: là yêu thích mà nảy sinh ham muốn, dục vọng trước sự tác động của thế

giới bên ngoài.

9. Duyên thủ: do yêu thích quyến luyến, không chịu xa lìa, rồi muốn chiếm lấy, giữ

lấy không chịu buông ra.

10. Duyên hữu: cố để dành, tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.

11. Duyên sinh: sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 10

Page 12: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

12. Duyên lão tử: khi đã sinh thì xác thân phải tiêu hoại mỏi mòn, trẻ rồi già, ốm đau

rồi chết.

Thập nhị nhân duyên có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung đều cho

rằng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm duyên cho cái kia, cái

này là quả của cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau. Cũng có lời giải thích là 12 yếu

tố tích luỹ đưa đến cái khổ sinh tử hiện tại mà yếu tố căn đế là ái và thủ, nghĩa là tham

lam, ích kỷ, còn gọi là ngã chấp. Mười hai nguyên nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra

cái vòng lẩn quẩn của nổi khổ đau nhân loại.

Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không thấy rõ bản

chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô thường và chuyển

biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng. Chúng ta có thể nhận

thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng mình. Hay nói cách khác, tùy theo

cách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay không. Nếu không bị sự chấp

ngã và dục vọng, vị kỷ hay phiền não khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc

đời đầy an lạc hạnh phúc.

Diệt đế:

là lý luận về khả năng tiêu diệt được nỗi khổ nơi cuộc sống thế gian để đạt tới niết bàn.

Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ điều có thể tiêu diệt được để đạt tới trạng thái “niết

bàn”. Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt thì sự khổ cũng được tận diệt.  muốn

diệt khổ phải đi ngược lại 12 nhân duyên, bắt đầu từ diệt trừ vô minh. Dưới góc độ

nhận thức, vô minh có nghĩa là “ngu tối”, “không sáng suốt”, “thiếu giác ngộ chân lý”.

Vì vậy, mỗi chúng sinh phải tu dưỡng thân tâm, đoạn trừ vô minh, để cho Phật tính

bừng sáng, nó sẽ là ngọn đèn pha dẫn bước chúng sinh đến cõi Niết bàn. Muốn diệ trừ

vô minh phải có trí tuệ vì: “Có trí tuệ thì hết đam mê, luôn luôn tự thức tỉnh và tự dò

xét, không để lầm lỗi có thể có được, trí tuệ chân thật là chiếc thuyền chắc chắn nhất

vượt bể sinh, lão, bệnh, tử. Là ngọn đèn sáng nhất đối với hắc ám vô minh … là búa

sắt chặt cây phiền não”. Khi vô minh được khắc phục thì tam độc sẽ biến mất, luân hồi

sẽ chấm dứt… tâm sẽ thanh thản, thần sẽ minh mẫn, niết bàn sẽ xuất hiện. Theo chữ

Phạn, niết bàn gồm hai phần, “Nir” và “Vâna”. “Nir” là hình thức phủ định, nghĩa là

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 11

Page 13: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

không, “Vâna” có nghĩa là ái dục. Cho nên, “đã diệt trừ lòng tham, đã diệt trừ nóng

giận, oán thù, đã diệt trừ si mê, đó là niết bàn” (Kinh Tạp A Hàm) hay trong một đoạn

kinh khác, Phật lại nói “Dứt được lòng vị kỷ thì chứng được cảnh giới niết bàn”…Diệt

đế bộc lộ tinh thần lạc quan của Phật giáo ở chỗ nó vạch ra cho mọi người thấy cái

hiện tại đen tối, xấu xa của mình, để cải đổi, kiến tạo lại nó thành một cuộc sống xán

lạn, tốt đẹp hơn.

Vô minh bị diệt, trí tuệ được bừng sáng, hiểu rõ được bản chất tồn tại, thực tướng của

vũ trụ là con người, không còn tham dục và kéo theo những hành động tạo nghiệp nữa,

tức là thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Nói cách khác diệt trừ được vô minh, tham dục

thì hoạt động ngũ uẩn dừng lại, tu đến niết bàn, tịch diệt khi ấy mới hết luân hồi sinh

tử.

Phật Giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ, thì những

nỗi lo âu, sợi hải, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên thanh thản, đầu óc tĩnh

táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn, rộng lượng hơn. Đó là một hình

thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí không bị chi phối bởi những tư tưởng chấp thủ,

nhờ không bị nung núng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng sợ hải mà tâm lý của

bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc hơn,

chính xác hơn, thâm tâm được chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn với mọi người xung

quanh rộng lượng và bao dung hơn. Tùy vào khả năng giảm thiểu lòng tham, vô minh

đến mức độ nào thì đời sống của bạn sẽ tăng phần hạnh phúc đến mức độ ấy. Phật giáo

thể hiện khát vọng nhân bản, muốn hướng con người đến cõi hạnh phúc “tuyệt đối”,

muốn hướng khát vọng chân chính của con người tới chân – thiện – mỹ.

Ðạo đế:

là lý luận về con đường diệt khổ, giải thoát.Thực chất của con đường này là hoàn thiện

đạo đức cá nhân. Sự giải phóng mang ý nghĩa của sự thực hiện cá nhân, không mang ý

nghĩa của phong trào cách mạng hay cải cách xã hội. Nội dung cơ bản của nó thể hiện

trong thuyết Bát chính đạo (tám con đường đúng đắn) đưa chúng sinh đến niết bàn,

đó là: chính kiến (hiểu biết đúng), chính tư duy (suy nghĩ đúng), chính ngữ (lời nói

chân thật), chính nghiệp (hành động đúng đắn), chính mệnh (sống một cách chân

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 12

Page 14: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

chính), chính tinh tấn (thẳng tiến mục đích đã chọn), chính niệm (ghi nhớ những điều

hay lẽ phải), chính định (tập trung tư tưởng vào một điều chính đáng). Chung quy, bát

chính đạo là suy nghĩ, nói năng, hành động đúng đắn…; nhưng về thực chất, thực hành

bát chính đạo là khắc phục tam độc bằng cách thực hiện tam học (giới, định, tuệ).

Trong đó, tham được khắc phục bằng giới (chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh); sân

được khắc phục bằng định (chính tinh tấn, chính niệm, chính định); si được khắc phục

bằng tuệ (chính kiến, chính tư duy). Đây là con đường tu đạo để hoàn thiện đạo đức cá

nhân. Khổ được giải thích là xuất phát Thập nhị nhân duyên, và một khi dứt được

những nguyên nhân đó thì ta có thể thoát khỏi vòng sinh tử. Chấm dứt luân hồi, vòng

sinh tử đồng nghĩa với việc chứng ngộ niết bàn. Có 8 con đường chân chính để đạt sự

diệt khổ dẫn đến niết bàn gọi là “Bát chính đạo”. Bát chính đạo bao gồm:

1.Chính kiến: hiểu biết đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ diệu đế và

giáo lí vô ngã.

2.Chính tư duy: suy nghĩ luôn có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa của bốn

chân lí một cách không sai lầm.

3.Chính ngữ: nói năng phải đúng đắn, không nói dối hay nói phù phiếm.

4.Chính nghiệp: giữ nghiệp đúng đắn, tránh phạm giới luật, không làm việc xấu, nên

làm việc thiện.

5.Chính mệnh: giữ ngăn dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên quan đến sát

sinh.

6.Chính tinh tiến: cố gắng nổ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để phát triển nghiệp

tốt, diệt trừ nghiệp xấu.

7.Chính niệm: tâm niệm luôn tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát, luôn tỉnh giác trên

ba phương diện Thân, Khẩu, Ý.

8.Chính định: kiên định, tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về tứ điệu đế, vô ngã, vô

thường, tâm ý đạt bốn định xuất thế gian .

Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vô minh, đạt tới sự

giải thoát, nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt sinh

tử luân hồi.

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 13

Page 15: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

Ngoài ra Phật giáo còn đưa ra 5 đều nhằm răn đe đem lại lợi ích cho con người và xã

hội. Chúng bao gồm: bất sát (không sát sinh), bất dâm (không dâm dục), bất vọng ngữ

(không nói năng thô tục, bậy bạ), bất âm tửu (không rượu trà) và bất đạo (không trộm

cướp).

Như vậy, Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, có yếu tố duy vật và tư tưởng

biện chứng của thế giới. Phật giáo khuyên con người suy nghỉ thiện và làm việc thiện

nhằm góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tuy nhiên trong triết lý nhân sinh và con

đường giải phóng của phật giáo vẫn mang nặng tính chất bi quan không tưởng  và duy

tâm về xã hội. Và những tư tưởng xã hội phật giáo đã phản ánh thực trạng xã hội đẳng

cấp khắc nghiệt của xã hội Ấn Độ cổ – trung đại và nêu lên ước vọng giải thoát nổi bi

kịch cho con người lúc đó. Phật giáo cũng nói lên được tự do bình đẳng trong xã hội

nhưng triết lý nhân sinh vẫn còn mang nặng tính chất bi quan không tưởng và duy tâm

về xã hội.

- Ngoài ra, Phật giáo còn khuyên chúng sinh thực hành Ngũ giới (không sát sinh,

không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không ẩm tửu), Lục độ (bố thí, trì giới,

tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ); rèn luyện Tứ đẳng (từ, bi, hỉ, xả)… Phật giáo

phản đối chế độ đẳng cấp, tố cáo xã hội bất công, đòi bình đẳng công bằng xã hội,

khuyên chúng sinh luôn suy nghĩ về điều thiện và làm điều thiện…

CHƯƠNG II: Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

Nếu như các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại như Milê, Êlê chủ yếu bàn về những

vấn đề thế giới quan, bản thể luận như đi tìm bản nguyên của thế giới, bản chất của thế

giới, trạng thái của thế giới… Còn những vấn đề về con người, họ lại bàn tương đối ít

thì trái lại, ở Phật giáo – một hệ thống triết học, tôn giáo – bên cạnh những tư tưởng,

quan niệm về thế giới, vấn đề nhân sinh quan không chỉ được đặt ra ngay từ đầu mà

còn là nội dung tư tưởng chủ yếu bao trùm lên toàn bộ hệ thống. Đây là một trong

những đặc điểm cơ bản khác biệt của triết học phương Đông so với phương Tây.

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 14

Page 16: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

3.1. Lời tuyên ngôn chống lại sự bất công, bất bình đẳng trong xã hộiChúng ta biết rằng Phật giáo đã ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng phức tạp của một

đất nước mà trong đó, đời sống con người phải chịu nhiều bất công trong chế độ phân

chia giai cấp lâu đời của xã hội Ấn thời bấy giờ. Giai cấp Bà La Môn tập trung số

người tu của 62 đạo phái khác nhau, chủ trương công việc lễ nghi, tế tự; giai cấp này

chiếm vị trí tối cao. Kế đến là giai cấp Sát Ðế Lợi, tập trung dòng dõi vua chúa, là giai

cấp nắm quyền điều hành xã hội. Giai cấp thứ ba là Tỳ Xá, bao gồm những người bình

dân. Ða phần còn lại thuộc giai cấp Thủ Ðà La, họ làm những nghề hạ tiện, cũng gọi là

dân nô lệ. Hai giai cấp Bà La Môn và Sát Ðế Lợi thuộc giai cấp thống trị, Thủ Ðà La

và Tỳ Xá thuộc giai cấp bị trị. Bốn giai cấp này theo chế độ thế tập, cha truyền con nối.

Vì vậy, người dân nô lệ thì cứ đời đời làm nô lệ, tạo thành một xã hội bất công.

Ngay trong buổi hoàng hôn tăm tối của một thực trạng như vậy, một hiền nhân thuộc

dòng dõi vua chúa đã dũng mãnh gióng tiếng chuông tiên phong phá tan bóng đêm của

xích xiềng nô lệ và bức tường phi lý của phân chia giai cấp bằng một châm ngôn vĩ

đại: "Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và dòng nước mắt cùng mặn". Lời

tuyên bố hùng hồn ấy của Ðức Phật là nền tảng để hình thành một hệ thống giáo lý, mà

trong đó tính bình đẳng được thể hiện trọn vẹn cả về phương diện lý thuyết lẫn thực

tiễn.

Theo Phật giáo, mọi sai biệt trên thế giới này đều tùy thuộc vào các nhân duyên mà

sinh khởi; cũng vậy, sự khác nhau về địa vị, hoàn cảnh giàu sang hay nghèo khổ, ngu

dốt hoặc thông minh... tất cả đều hoàn toàn do hành vi tạo tác của mỗi con người chứ

không phải do tự nhiên hay được sắp đặt theo bất kỳ một thông lệ hoặc quy định nào.

Trên tinh thần này, sự phân chia giai cấp trở thành phi lý và vô nghĩa. Việc Thái tử Sĩ

Ðạt Ta từ bỏ ngôi vị đế vương, quay lưng với tất cả vinh hoa phú quý, khước từ mọi

đặc ân cao tột dành cho giai cấp vua chúa, một thân độc hành với chiếc áo thô sơ, đầu

trần chân đất, vân du đây đó... đã thể hiện tinh thần bình đẳng tuyệt vời của Ngài. Và

cũng chính Ðức Phật, con người với đời sống giản dị khiêm tốn ấy, đã thể hiện lòng

bình đẳng trong suốt cuộc đời giáo hóa chúng sinh. Ngài rải tình thương vô biên xuống

tất cả muôn loài một cách công bằng vô phân biệt. Từ hạng người cùng đinh như gã

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 15

Page 17: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

gánh phân, thợ cạo tóc cho đến những người giàu sang phú quý, từ những hạng người

thấp hèn ti tiện như gái giang hồ cho đến các bậc vua chúa quyền uy, Ðức Phật luôn

thương yêu, chân tình giúp đỡ, khuyên dạy để họ nhận thức được chân giá trị của cuộc

sống và tự thăng hoa tâm hồn, đạt đến an lạc hạnh phúc. Lòng bình đẳng ấy không phải

dừng lại ở nhân loại mà lan tỏa đến muôn loài vạn vật. Ngài luôn dạy rằng tất cả sinh

vật đều có cùng tâm lý tham sống sợ chết, vì vậy không vì lý do gì mà ta nỡ cướp đi

mạng sống của kẻ khác, như vậy nghĩa là không bình đẳng. Tâm trạng buồn nhớ mẹ

của một chú cừu non lạc đàn chẳng khác gì sự đau buồn của một người mẹ phải chia

lìa với con thơ bởi một nguyên nhân nào đó. Và vì vậy, sinh mạng của một con vật

cũng quý như bất kỳ sinh mạng của một ai. Với quan điểm này, trên bước đường du

hóa, có lần Ðức Phật đã tự tay bế một chú cừu non lạc đàn tìm về với mẹ. Và cũng

chính Ngài đã lên tiếng giải thích và vạch rõ những ngu xuẩn của bọn người vì mê tín

dị đoan, làm lễ tế thần bằng cách hiến dâng những con thú sống, để cứu lấy con vật vô

tội thoát khỏi cái chết hỏa thiêu đau đớn chỉ vì một sự tin tưởng mù quáng.

Trong giáo điển, Phật giáo quan niệm rằng tất cả mọi loài chúng sanh, từ con người

cho đến các sinh vật nhỏ bé côn trùng đều tiềm ẩn một khả năng phi thường như nhau,

đó là khả năng thành Phật (Phật tính). Nhưng do các đặc tính cố hữu ở mỗi loài, việc

triển khai khả năng ấy tùy đó mà khó dễ, nhanh chậm khác nhau. Ðiều này có thể tóm

ý trong một câu kinh: "Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành". Ðây là nền

tảng để hình thành tính bình đẳng triệt để trong đạo đức luân lý Phật giáo.

3.2. Giáo dục con người giác ngộ chân lý và đạt được hạnh phúc (giải thoát)Phật giáo cho con người là hơn cả vì có thể thực hiện được tất cả sự tốt đẹp để có thể

sống hài hòa. Để giáo dục đạo Phật đã đưa ra bốn chân lý kỳ diệu, với yếu tố biện

chứng, kết cấu chặt chẽ khi đưa ra lý thuyết “ngũ uẩn”, chỉ rõ căn nguyên của khổ đau

là do thâm, sân , si cùng với lý luận về thập nhị nhân duyên, đồng thời khẳng định con

đường diệt khổ đó là “trung đạo”, “bát chánh đạo”... chứa đựng sự lý đầy thuyết phục

và hướng con người đến nếp sống thiện lánh xa cái ác. Dạy con người sống cảm thông,

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 16

Page 18: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

hỷ xả với nhau một cách hòa mục. Vị tha dạy con người sống vì người khác, bao dung

độ lượng đó là phương pháp giúp con người đạt được đức hạnh. Đây là động lực nảy

sinh mọi điều tốt lành. Mục đích cuối cùng của Phật Giáo là giúp con người thoát khổ

và đạt được hạnh phúc, Phật Giáo đã chỉ ra những nguyên nhân của cái khổ, diệt trừ và

phương pháp diệt trừ khổ để có được hạnh phúc thực tại, tất là giải thoát con người

khỏi khổ đau và đạt được hạnh phúc.

3.3. Giáo dục đạo đức, hướng thiện cho con người và xây dựng tính nhân bản sâu sắc

3.3.1. Giáo dục đạo đức, hướng thiện cho con ngườiPhật giáo chủ trương thuyết nghiệp báo và tái sinh, Do Vạn vật bị chi phối bởi luật

nhân quả nên mỗi chúng ta mất đi ở nơi này , thời gian này sẽ được sinh ra ở nơi khác

thời gian khác, nghiệp cũng bị chi phối bởi luật nhân quả, Chúng ta chịu sự chi phối

của nghiệp kiếp này và nghiệp kiếp trước, nếu làm việc thiện, nói lời chân chính, suy

nghĩ đứng đắn sẽ tạo ra điều tốt cho đời sau tái sinh, ngược lại sẽ có nghiệp xấu. Bản

thân mỗi người phải chịu hoàn toàn những suy nghĩ, hành động và lời nói của mình

( Nghiệp), Từ đó khuyến khích con người sống lương thiện hơn, Ngũ giới của Phật

Giáo giúp mọi người biết thương yêu, không sát sanh ( Nhân), Không trộm cắp ( Nghĩa

), Không tà dâm ( Lễ ), Không uống rượu ( Trí ), Không Nói dối ( Tín ), là những

nguyên tắc đạo đức để những tín đồ Phật giáo rèn luyện tu dưỡng, điều chỉnh hành vi

đạo đức của mình, hình thành những đức tính tốt đẹp cho người tín đồ Phật giáo trong

đời sống hiện tại như sống đức độ, trung thực, hướng thiện...

3.3.2. Xây dựng tính nhân bảnÐiểm căn bản nhất mà chúng ta nhận thấy được ở Phật giáo, vị giáo chủ không phải là

một thần linh, không phải là một Thượng đế đầy quyền uy thưởng phạt, mà là một con

người thật sự như bao người khác. Tên Ngài Tất Ðạt Ða, tiếng Phạn là Siddhàrtha.

Ngài thuộc giai cấp Sát Ðế Lợi, dòng dõi vua chúa, con của Vua Tịnh Phạn và Hoàng

hậu Ma Da. Ngài sinh ra, lớn lên, đi học; vợ Ngài là Công chúa Da Du Ðà La, con

Ngài là La Hầu La. Thấu rõ những nỗi thống khổ sinh, già, bệnh, chết..., chứng kiến

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 17

Page 19: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

những lầm than cơ cực của dân chúng trước những bất công của xã hội Ấn thời bấy

giờ, Ngài đã từ bỏ gia đình, vợ con, một mình ra đi tìm phương giải quyết. Sau những

tháng năm học đạo cùng với những đạo sĩ nổi tiếng bấy giờ, kết quả ấy cũng không

giúp được cho vị đạo sĩ trẻ tuổi thông minh Tất Ðạt Đa giải quyết những vấn đề bức

xúc trong lòng. Cuối cùng, Ngài đã tự quyết định tự mình tham cứu. Suốt 49 ngày

tham thiền nhập định dưới cội bồ đề Ngài đã thấu đạt được chân lý, rõ được chân

tướng của vạn pháp, Ngài đã giác ngộ thành đạo, hiệu là Thích Ca Mâu Ni.

Sự kiện trên đây đã hình thành một khái niệm về tính nhân bản của Phật giáo, con

người là trung tâm điểm của Phật giáo, hay nói một cách khác, không có nhân loại thì

Phật giáo không hiện hữu trên cuộc đời này.

Trong quan niệm Phật giáo, con người là chủ nhân của mọi hành vi của chính bản thân

mình ở cả ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai, là vị Thượng đế duy nhất toàn quyền

thưởng phạt cho chính cuộc đời mình; ngoài mình ra, không bất cứ ai hoặc thần linh

nào khác có khả năng đưa mình lên thiên đàng hay vất mình xuống địa ngục. 

Tính nhân bản của đạo Phật là làm cho con người trở nên Người hơn, phát huy tất cả

mọi tính người cao đẹp và thải trừ mọi bản năng thấp kém và hèn hạ (tham, sân, si, sát,

đạo, dâm, vọng...). Con đường thành Phật không gì khác hơn là con đường làm viên

mãn những đức tính vốn đã tiềm ẩn yếu ớt nơi con người bình thường: trí sáng suốt,

lòng nhân ái, sự ghét ác thích thiện, sự tự chế, sự kiên định, lòng hy sinh... và xóa bỏ

hẳn tất cả những gì làm cho con người bị ràng buộc, bị tha hóa, bị hạ thấp, bị trĩu nặng,

bị mất phẩm cách của bản năng thú vật (tính ích kỷ, lòng ghen tỵ, sự giận dữ, sự si mê,

sự tham lam chiếm đoạt mất hết lương tri...). Cuộc đời này trở nên hỗn loạn khổ đau

cũng vì những tính tiêu cực đó. 

Tính nhân bản của đạo Phật là chống lại những gì làm hạ thấp con người và hun đúc

cho con người mọi đức tính cao đẹp để thực hiện trọn vẹn định mệnh và ý nghĩa làm

người của nó: thoát khỏi mọi ràng buộc thấp kém để trở thành một mẫu mực chân-

thiện-mỹ của vũ trụ, một mẫu mực của Trời và Người. Bởi thế đạo Phật cho là thiện, là

tốt những gì làm cho con người tiến hóa, hướng thượng, làm cho con người thực hiện

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 18

Page 20: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

được tính Người, tức là tính Phật; và xem là ác, là xấu tất cả những gì làm sa đọa, tha

hóa con người, dù chúng đến từ đâu, dưới bất cứ hình thức nào. 

Phật giáo luôn luôn đề cao nỗ lực và ý chí của con người. Tinh tấn là một trong những

đức tính quyết định việc thành tựu đạo quả Bồ đề, bến bờ giác ngộ chẳng bao giờ có

dấu chân của biếng lười và bạc nhược. Với những tâm hồn khát khao tự do tuyệt đối,

dốc hết sức bình sinh cùng với sự hiểu biết chánh pháp một cách chân chính, mỗi

chúng ta chắc chắn sẽ đạt được kết quả tốt đẹp trên bước đường tu tập. Bằng ngược lại,

cho dù ngàn vị Phật dang tay tế độ cũng không làm sao đưa ta thoát khỏi biển trần lao

đầy thống khổ này.

Ðiều đáng nói nhất về khả năng của con người mà Phật giáo luôn nhấn mạnh chính là

trí tuệ. Ðó là khả năng tối cao của nhân loại, là di sản vô cùng quý báu mà bất kỳ ai

nếu biết vận dụng và phát huy đúng đắn đều có thể tận diệt mọi khổ đau, đạt đến bến

bờ hạnh phúc. Ðức Phật đã tuyên bố: "Tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật". 

Tóm lại, đối với Phật giáo, con người vốn là một chúng sanh ưu việt, có rất nhiều tiềm

năng phi thường; nếu chúng ta khéo triển khai thì không gì không thực hiện được trên

cõi đời này. Như vậy, ta có thể nói rằng Phật giáo là Phật giáo của con người, xuất phát

từ Ðức Phật Thích Ca, Ngài là đấng Giác Ngộ nhưng Ngài là một con người; Ngài đã

cất tiếng nói và có một đời sống rất người, và vì con người mà khai thị chân lý, hướng

dẫn con người đến đời sống thực sự an vui.

KẾT LUẬN:

Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, có yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng

của thế giới nhưng triết lý nhân sinh vẫn còn mang nặng tính chất bi quan không tưởng

và duy tâm về xã hội.

Phật giáo Việt Nam là Phật giáo được bản địa hóa khi du nhập từ Ấn Độ và Trung

Quốc vào Việt Nam. Phật giáo được du nhập vào Việt Nam khoảng đầu công nguyên

theo con đường Hồ Tiêu (đường thủy) và con đường Đồng Cỏ (đường bộ). Với những

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 19

Page 21: Tieu Luan Cao Hoc - Triet Ly Nhan Sinh Phat Giao Nguyen Thuy Va y Nghia Cua No

GV: TS. Bùi Xuân Thanh

giá trị tốt đẹp của Phật giáo, nhân dân ta nhanh chóng tiếp nhận và hình thành nên Phật

giáo Việt Nam. Sự hình thành và phát triển của Phật giáo Việt Nam trải qua các thời kỳ

gắn liền với các triều đại phong kiến. Thời kỳ du nhập và hình thành (thế kỷ II – V),

tiếp theo là thời kỳ phát triển (thế kỷ VI – IX). Phật giáo Việt Nam cực thịnh và trở

thành quốc giáo vào triều đại Lý – Trần (thế kỷ X – XIII) sau đó suy thoái vào thời nhà

Hậu Lê đến thế kỷ XIX. Từ thế kỷ XX là thời kỳ phục hưng của Phật giáo Việt Nam.

Phật giáo Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ trong sự phát triển đi lên của cả

dân tộc. Hiện nay phần lớn các nhà sư, các chủ trì điều có học thức cao từ trình độ đại

học đến bậc tiến sĩ và có khả năng vượt xa hơn nữa. Các vị sư này không những thấu

hiểu Phật giáo Việt Nam mà còn được du học nền văn hóa Phật giáo ở các nước lân

cận. Được sự hỗ trợ từ phía Đảng và nhân dân về cơ sở vật chất và kinh phí đầu tư.

Hiện nay nước ta đã có các trường Đại Học cho các bậc tu sĩ. Đây là một điều rất đáng

mừng trong thời kỳ mở cửa hội nhập nền văn hóa, kinh tế với các nước bạn bè năm

Châu. Từ đó cho thấy Phật giáo Việt Nam thực sự lớn mạnh về mặt tổ chức và trở

mình đổi mới để xứng đáng với lòng tin của đảng và nhân dân.

SV: Nguyễn Ngọc Quốc Việt 20