25
PHẦN MỞ ĐẦU Cách mạng Tháng Tám thành công đã đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhà nước cách mạng non trẻ vừa mới ra đời đã đứng trước những thách thức tưởng chừng khó vượt qua: thù trong, giặc ngoài và những khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,...do chế độ thực dân phong kiến để lại. Vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc". Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí mật trở thành Đảng cầm quyền, đứng trước tình thế phức tạp, buộc Đảng lại phải rút vào hoạt động bí mật (dưới hình thức tuyên bố "Tự ý giải tán" từ ngày 11-11-19451), nhưng vẫn duy trì phương thức lãnh đạo "khôn khéo", "kín đáo". Vì vậy, các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải có hình thức ban hành nghị quyết phù hợp, linh hoạt, bảo đảm lãnh đạo kịp thời công cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ chính quyền non trẻ. Ngày 25-11-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc. Chỉ thị phân tích những thay đổi căn bản về tình hình quốc tế và trong nước sau chiến tranh, nhận định lực lượng hoà bình, dân chủ thế giới đã mạnh hơn lực lượng chiến tranh. Bốn mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn còn và ngày càng sâu KSTN Hóa dầu K54 1

Tiểu luận đường lối nhóm 2 ( Minh, Hùng, Dũng, Liên)

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Tiểu luận đường lối nhóm 2 ( Minh, Hùng, Dũng, Liên)

PHẦN MỞ ĐẦU

Cách mạng Tháng Tám thành công đã đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam

Dân chủ Cộng hoà. Nhà nước cách mạng non trẻ vừa mới ra đời đã đứng trước

những thách thức tưởng chừng khó vượt qua: thù trong, giặc ngoài và những khó

khăn về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,...do chế độ thực dân phong kiến để lại.

Vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc". Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí

mật trở thành Đảng cầm quyền, đứng trước tình thế phức tạp, buộc Đảng lại phải

rút vào hoạt động bí mật (dưới hình thức tuyên bố "Tự ý giải tán" từ ngày 11-11-

19451), nhưng vẫn duy trì phương thức lãnh đạo "khôn khéo", "kín đáo". Vì vậy,

các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải có hình thức ban hành nghị quyết phù hợp,

linh hoạt, bảo đảm lãnh đạo kịp thời công cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ

chính quyền non trẻ. Ngày 25-11-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ

thị Kháng chiến kiến quốc. Chỉ thị phân tích những thay đổi căn bản về tình hình

quốc tế và trong nước sau chiến tranh, nhận định lực lượng hoà bình, dân chủ thế

giới đã mạnh hơn lực lượng chiến tranh. Bốn mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn

còn và ngày càng sâu sắc, nhưng mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với chủ

nghĩa đế quốc gay go hơn hết ở Đông Nam Á. Về tình hình trong nước, Chỉ thị

nhận định: chính quyền nhân dân đã được thành lập trên khắp đất nước nhưng

đang ở trong tình thế vô cùng gay go, phức tạp, không những phải đối phó với

thực dân Pháp xâm lược mà còn phải đối phó với quân Anh, quân Tưởng, với

bọn phản cách mạng, với nạn đói và các khó khăn về kinh tế, tài chính.

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của đảng nước ta đã vượt qua muôn vàn khó

khăn của thời kì nước ta mới ra đời. Để hiểu thêm về công cuộc xây dựng đất

nước ta trong thời kì này, chúng em xin nghiên cứu đề tài: “Chủ trương “kháng

chiến – kiến quốc” của trung ương đảng ngày 25/11/1945”.

KSTN Hóa dầu K54 1

Page 2: Tiểu luận đường lối nhóm 2 ( Minh, Hùng, Dũng, Liên)

PHẦN NỘI DUNG

I/ Bối cảnh nước ta sau cách mạng tháng 8/1945.

Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành lập

đã phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nước bị

các thế lực đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt.

Cuối tháng 8 - 1945, theo thoả thuận của Đồng minh ở Hội nghị Pốtxđam

(Posdam), gần 20 vạn quân của chính phủ Tưởng Giới Thạch ồ ạt kéo vào nước

ta từ vĩ tuyến 16 trở ra làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Theo chúng là lực

lượng tay sai phản động trong hai tổ chức "Việt quốc" (Việt Nam quốc dân Đảng)

và "Việt cách" (Việt Nam cách mạng đồng minh hội). Vào Việt Nam, quân

Tưởng Giới Thạch còn ráo riết thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt

Minh, đánh đổ chính quyền cách mạng, lập chính quyền phản động tay sai của

chúng. Đằng sau quân Tưởng là đế quốc Mỹ đang nuôi dã tâm đặt Đông Dương

dưới chế độ "uỷ trị", một trá hình của chế độ thuộc địa kiểu mới của Mỹ.

Phía Nam vĩ tuyến 16, quân đội Anh với danh nghĩa quân Đồng minh giải

giáp quân đội Nhật đã đồng loã và tiếp tay cho thực dân Pháp quay lại Đông

Dương. Ngày 23-9-1945, được quân Anh giúp sức, thực dân Pháp nổ súng đánh

chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.

Trên đất nước ta lúc đó còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp.

Một số quân Nhật đã thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng cùng với quân Anh

dọn đường cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam.

Lúc này, các tổ chức phản động "Việt quốc", "Việt cách", Đại Việt ráo riết hoạt

động. Chúng dựa vào thế lực bên ngoài để chống lại cách mạng. Chúng quấy

nhiễu, phá rối, cướp của, giết người, tuyên truyền, kích động một số người đi

theo chúng chống lại chính quyền cách mạng và đòi cải tổ Chính phủ lâm thời và

các bộ trưởng là đảng viên cộng sản phải từ chức. Chúng lập chính quyền phản

KSTN Hóa dầu K54 2

Page 3: Tiểu luận đường lối nhóm 2 ( Minh, Hùng, Dũng, Liên)

động ở Móng Cái, Yên Bái, Vĩnh Yên. Chưa bao giờ trên đất nước ta có mặt

nhiều thù trong, giặc ngoài như lúc này.Trong lúc đó, ta còn phải đối mặt với

những thách thức nghiêm trọng về kinh tế, xã hội. Nạn đói ở miền Bắc do Nhật,

Pháp gây ra chưa được khắc phục. Ruộng đất bị bỏ hoang. Công nghiệp đình đốn.

Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại thương đình trệ. Tình hình tài chính

rất khó khăn, kho bạc chỉ có 1,2 triệu đồng, trong đó quá nửa là tiền rách. Ngân

hàng Đông Dương còn nằm trong tay tư bản Pháp. Quân Tưởng tung tiền quốc tệ

và quan kim gây rối loạn thị trường. 95% số dân không biết chữ, các tệ nạn xã

hội do chế độ cũ để lại hết sức nặng nề.

Trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hoà chưa có nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ

ta. Đất nước bị bao vây bốn phía, vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc".

Tổ quốc lâm nguy!

Trước tình hình đó, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã tỉnh táo

và sáng suốt phân tích tình thế với 2 khả năng:

+ Đành mất chính quyền quay về kiếp sống nô lệ.

+ Củng cố và bảo vệ chính quyền non trẻ

Từ chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên thế giới và sức

mạnh mới của dân tộc là cơ sở để vạch ra chủ trương và giải pháp đấu tranh giữ

vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập tự do.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, uy tín và địa vị của Liên Xô được nâng cao

trên trường quốc tế. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát

triển, trở thành một dòng thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng

đang vươn lên mạnh mẽ. ở trong nước, chính quyền nhân dân của nước Việt Nam

Dân chủ Cộng hoà đã được kiến lập có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Nhân

dân lao động đã làm chủ vận mệnh của dân tộc. Lực lượng vũ trang nhân dân

đang phát triển. Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chủ tịch Hồ

KSTN Hóa dầu K54 3

Page 4: Tiểu luận đường lối nhóm 2 ( Minh, Hùng, Dũng, Liên)

Chí Minh. Dưới sự lãnh đạo khéo léo của Đảng, của Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ tối

cao của dân tộc, toàn dân, toàn quân đoàn kết một lòng trong mặt trận dân tộc

thống nhất, quyết tâm giữ vững nền độc lập tự do của dân tộc.

Sau ngày tuyên bố độc lập, Chính phủ lâm thời đã nêu ra những việc cấp

bách nhằm thực hiện ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại

xâm. Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến

quốc. Chỉ thị nhận định tình hình thế giới và trong nước, chỉ rõ những thuận lợi

cơ bản và những thử thách lớn lao của cách mạng nước ta. Trung ương Đảng xác

định: Tính chất của "cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách

mạng dân tộc giải phóng"(1). Cuộc cách mạng ấy chưa hoàn thành vì nước ta chưa

hoàn toàn độc lập. Khẩu hiệu của ta lúc này vẫn là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc

trên hết". Phân tích âm mưu của các đế quốc đối với Đông Dương, Trung ương

nêu rõ "kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung

ngọn lửa đấu tranh vào chúng"(2). Vì vậy phải "lập Mặt trận dân tộc thống nhất

chống thực dân Pháp xâm lược"(3).  Mở rộng Mặt trận Việt Minh nhằm thu hút

mọi tầng lớp nhân dân; thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào; kiên quyết giành

độc lập - tự do - hạnh phúc cho dân tộc.

Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc nêu ra 4 nhiệm vụ chủ yếu của nhân dân cả

nước ta lúc nay là "củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ

nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân"(4).

II/ Nội dung chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về “kháng chiến kiến

quốc” 25-11-1945.

Về chỉ đạo chiến lược: Đảng xác định mục tiêu phải nêu cao của cách mạng

Việt Nam lúc này vẫn là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là: “dân tộc trên

hết, tổ quốc trên hết”, nhưng không phải là giành độc lập mà giữ vững độc lập.

KSTN Hóa dầu K54 4

Page 5: Tiểu luận đường lối nhóm 2 ( Minh, Hùng, Dũng, Liên)

Về xác định kẻ thù: Đảng phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với

Đông Dương và chỉ rõ “ kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược,

phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”.

Về phương hướng nhiệm vụ: Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp

bách cần khẩn trương thực hiện là: “ củng cố chính quyền, chống thực dân pháp

xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”. Đảng chủ trương

kiên kì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu “ Hoa -Việt thân thiện”

đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và “độc lập về chính trị, nhân nhượng về

kinh tế” đối với Pháp.

III/ Triển khai chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về “kháng chiến kiến

quốc”.

1.Nội chính

+ Tổng tuyển cử bầu quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng

hòa.  Ngày 6 tháng 1 năm 1946, báo chí xuất bản hôm đó đều dành vị trí trang

trọng nhất, giới thiệu cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Báo Sự

Thật ghi lên đầu trang nhất dòng chữ đậm nét: "Tất cả hãy đến thùng phiếu". Báo

Quốc hội in hình Hồ Chủ tịch với lời khuyên của Người: "Khuyên đồng bào nam

nữ 18 tuổi trở lên, hôm nay tất cả đều đi bỏ phiếu để bầu những đại biểu xứng

đáng vào hội đầu tiên của nước ta . Chỉ hơn 4 tháng sau ngày Độc Lập, toàn thể

nhân dân ta đón chào ngày hội lớn - ngày Tổng tuyển cử. Dưới ách thống trị tàn

bạo của đế quốc và phong kiến, người dân Việt Nam bị tước đoạt mọi quyền dân

chủ. Cách mạng tháng Tám đã thổi một luồng gió mới vào mọi mặt của đời sống

xã hội, đem lại quyền làm chủ cho mỗi công dân. Lần đầu tiên, mọi người được

tự do thảo luận, bàn bạc và chọn lựa những đại biểu xứng đáng vào Quốc hội của

nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, báo chí xuất bản

hôm đó đều dành vị trí trang trọng nhất, giới thiệu cuộc tổng tuyển cử đầu tiên

KSTN Hóa dầu K54 5

Page 6: Tiểu luận đường lối nhóm 2 ( Minh, Hùng, Dũng, Liên)

trong lịch sử dân tộc. Báo Sự Thật ghi lên đầu trang nhất dòng chữ đậm nét: "Tất

cả hãy đến thùng phiếu". Báo Quốc hội in hình Hồ Chủ tịch với lời khuyên của

Người: "Khuyên đồng bào nam nữ 18 tuổi trở lên, hôm nay tất cả đều đi bỏ phiếu

để bầu những đại biểu xứng đáng vào hội đầu tiên của nước ta. Chỉ hơn 4 tháng

sau ngày Độc Lập, toàn thể nhân dân ta đón chào ngày hội lớn - ngày Tổng tuyển

cử. Dưới ách thống trị tàn bạo của đế quốc và phong kiến, người dân Việt Nam bị

tước đoạt mọi quyền dân chủ. Cách mạng tháng Tám đã thổi một luồng gió mới

vào mọi mặt của đời sống xã hội, đem lại quyền làm chủ cho mỗi công dân. Lần

đầu tiên, mọi người được tự do thảo luận, bàn bạc và chọn lựa những đại biểu

xứng đáng vào Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

+ Ra hiến pháp 9/11/1946: ghi lấy những thành tích vẻ vang của Cách mạng

và xây dựng trên những nguyên tắc dưới đây:

- Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.

- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.

- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.

2. Kinh tế tài chính:

“ Thi đua, thi đua làm sao, thi đua thi đua cùng nhau, sĩ, nông, công, thương và binh. Thi đua,

thi đua trừ đói, thi đua thi đua trừ dốt, thi đua thi đua trừ giặc ngoại xâm”

+ Diệt giặc đói:

“Tôi xin các cụ phụ lão thi đua đốc thúc con cháu hăng hái tham gia mọi công việc, các

cháu nhi đồng thi đua học hành và giúp việc người lớn, đồng bào phú hào thi đua mở mang

doanh nghiệp, đồng bào công nông thi đua sản xuất, đồng bào trí thức và chuyên môn thi đua

sáng tác, phát minh, nhân viên chính phủ thi đua tận tụy làm việc, phụng sự nhân dân, bộ đội

thi đua giết giặc”. “Tôi đề nghị với Chính phủ là phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất…

Tôi đề nghị mở một cuộc lạc quyên. Mười ngày một lần, tất cả đồng bào chúng ta nhịn ăn một

bữa. Gạo tiết kiệm được sẽ góp lại và phát cho người nghèo”.

Hồ Chí Minh

KSTN Hóa dầu K54 6

Page 7: Tiểu luận đường lối nhóm 2 ( Minh, Hùng, Dũng, Liên)

Người đã khởi xướng, đề xuất và gương mẫu thực hiện phong trào hũ gạo

cứu đói, với nghĩa cử cao đẹp mỗi tuần nhịn ăn một bữa, cùng với phong trào

''Tuần lễ vàng''. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, ở khắp các địa phương

trên cả nước, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc vận động nhân dân

hưởng ứng lời kêu gọi. Một phong trào quyên góp, tổ chức “ngày đồng tâm”, “hũ

gạo cứu đói”... được phát động mạnh mẽ. Trên tinh thần “tình làng nghĩa xóm”,

hoạn nạn có nhau, chỉ sau một thời gian ngắn số lương thực cứu đói thu được khá

nhiều, giải quyết kịp thời nhu cầu bức thiết của đời sống nhân dân.

Song song với công tác lạc quyên cứu đói, chính quyền cách mạng còn phát

động phong trào tăng gia sản xuất để giải quyết nạn đói tận gốc. Đối với Bác, dù

trong bất cứ hoàn cảnh nào, Bác đều đặt vấn đề đẩy mạnh phong trào tăng gia sản

xuất như là một nhu cầu nội tại của quốc gia, của cách mạng. Trong bài viết “Gửi

nông gia Việt Nam” in trên báo “Tấc đất” (12/1945), Bác nói: “Thực túc thì binh

cường. Cấy nhiều thì khỏi đói. Chúng ta thực hiện tấc đất tấc vàng thì chúng ta

quyết thắng lợi trong hai việc đó. Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay!

Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của

chúng ta để giữ vững quyền tự do độc lập”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác, nhân

dân ta đã phát huy tinh thần hăng hái lao động, đẩy mạnh tăng gia sản xuất.

Nhiều quãng đê bị vỡ đã được gia cố lại, đắp thêm một số đê mới. Cho đến đầu

năm 1946, tức là chỉ bốn tháng sau cách mạng, công tác đê điều đã hoàn thành.

Đồng thời với việc đắp đê, với khẩu hiệu “tấc đất tấc vàng”, chính quyền và nhân

dân tất cả các địa phương ra sức cải tạo đất công cộng còn trống như sân bãi, vỉa

hè, bờ đê để trồng trọt, nhất là hoa màu ngắn ngày. Nhờ đó, chỉ sau một thời gian

ngắn, nạn đói đã bị đánh lui. Những thành quả của cách mạng những năm đầu

sau cách mạng, nhất là trên lĩnh vực tiêu diệt giặc đói, đẩy mạnh tăng gia sản

xuất thực sự là một kỳ công của chế độ dân chủ mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí

Minh. Giữa bao bộn bề, lo toan, phải đối phó với thù trong giặc ngoài đoàn kết

KSTN Hóa dầu K54 7

Page 8: Tiểu luận đường lối nhóm 2 ( Minh, Hùng, Dũng, Liên)

xây dựng chính quyền đang trong thời kỳ trứng nước, Bác Hồ đã đặc biệt quan

tâm tới nông dân và mặt trận nông nghiệp.

Đất nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển, đẩy mạnh sự nghiệp

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, không vì thế mà chúng ta coi nhẹ mặt

trận nông nghiệp. Thấm nhuần tư tưởng của Người, trong hoàn cảnh thiên tai,

dịch bệnh diễn biến phức tạp những năm gần đây, vấn đề an ninh lương thực luôn

được Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặc biệt. Những lời dạy của Bác về sản xuất

nông nghiệp đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

+ Phát động “tuần lễ vàng”, “ tuần lễ đồng” ủng hộ quỹ độc lập.

Để khắc phục khó khăn trước mắt về tài chính, Chính phủ động viên nhân

dân xây dựng “Quỹ độc lập”, hưởng ứng “Tuần lễ vàng” và đến tháng 1-1946,

phát hành tiền Việt Nam, xây dựng nền tiền tệ độc lập. Bà Tống Minh Phương,

người đã đem 200 cây vàng của gia đình ủng hộ cho đất nước trong Tuần lễ vàng.

Từ năm 1947 đến năm 1950, bà Tống Minh Phương được tin tưởng giao trông

coi kho vàng. Số vàng quyên góp được trong Tuần lễ vàng, đồng chí Nguyễn

Lương Bằng giao cho bà quản lý.

Phong trào xây dựng "Quỹ độc lập" được phát động đầu tiên tại Hà Nội.

Đông đảo nhân dân Thủ đô đã hưởng ứng nhiệt liệt. Chỉ trong mấy tuần đầu

tháng 9 năm 1945, nhân dân Thủ đô đã đóng góp được trên 50 vạn đồng. Vẫn

trong khuôn khổ chủ trương xây dựng "Quỹ độc lập", Chính phủ mở tiếp "Tuần

lễ vàng", bắt đầu từ ngày 16-9-1945 với mục đích "thu góp số vàng trong nhân

dân và nhất là của các nhà giàu để dùng vào những việc khẩn cấp và việc quan

trọng nhất của chúng ta lúc này, nhất là việc quốc phòng". "Tuần lễ vàng" ở Hà

Nội khai mạc ngày 16-9-1945. Ban tổ chức "Tuần lễ vàng" ở Hà Nội có mời Chủ

tịch Hồ Chí Minh đến dự lễ khai mạc, song vì bận nên Người không đến được,

KSTN Hóa dầu K54 8

Page 9: Tiểu luận đường lối nhóm 2 ( Minh, Hùng, Dũng, Liên)

nhưng Người có bức thư ngỏ cùng đồng bào cả nước. Thư của Chủ tịch Hồ Chí

Minh đăng trên báo Cứu quốc ngày 17-9-1945, có đoạn: "Tôi tin rằng, toàn quốc

đồng bào, nhất là các nhà giàu có, trong sự quyên giúp này sẽ xứng đáng với sức

hy sinh phấn đấu của các chiến sĩ ái quốc trên các mặt trận". Tinh thần yêu nước

của nhân dân đã thể hiện bằng hành động cụ thể trong Tuần lễ vàng. Tại Hà Nội,

người đóng góp nhiều vàng nhất là bà Vương Thị Lài, với 109,872 lạng, được

Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Huy chương vàng. Ở khu Đồng Xuân, trong một đám

cưới "đời sống mới", cô dâu và chú rể tuyên bố dành chiếc nhẫn cưới cho Tuần lễ

vàng.

Tại thành phố Huế, chính quyền Cách Mạng và mặt trận Việt minh đã mời

bà Nam Phương (vợ vua Bảo Ðại) làm cố vấn cho ban tổ chức “Tuần Lễ vàng”,

“Tuần lễ đồng”. Bà Nam Phương đã cùng với Hội phụ nữ cứu quốc thành phố và

các tổ chức xã hội khác vận động nhiều gia đình giàu có ở thành phố và trong

hòang tộc đóng góp vàng bạc của cải cho quỹ độc lập. Chỉ trên dưới một tuần

lễ,với sự nhiệt tình của quần chúng, thành phố Huế đã thu được 945 lượng vàng,

ba huyện phía Bắc đóng góp 10kg vàng, riêng huyện Phú Vang thu được 25

lượng, ngay cả một thôn Cự Lại (Phú Vang) đóng góp trên 5 tạ đồng.

3.Văn hóa (Diệt giặc dốt).

Bình dân học vụ là phong trào xóa nạn mù chữ trong toàn dân, được Chính

phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát động ngày 8 tháng 9 năm

1945 (sắc lệnh 19/SL và 20/SL) ngay sau khi Việt Nam giành được độc lập.

Phong trào này nằm giải quyết "giặc dốt" - một trong các vấn đề cấp bách nhất

của Việt Nam lúc bấy giờ (chỉ sau "giặc đói"). Trong suốt thời Pháp thuộc, hơn

90% dân Việt Nam mù chữ, đây là một trong các quốc nạn. Tại phiên họp đầu

tiên của Chính phủ ngày 3 tháng 9 năm 1945 tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh

KSTN Hóa dầu K54 9

Page 10: Tiểu luận đường lối nhóm 2 ( Minh, Hùng, Dũng, Liên)

đề nghị mở chiến dịch "Chống nạn mù chữ", vì "Một dân tộc dốt là một dân tộc

yếu". Để phục vụ chiến dịch xóa nạn mù chữ, Nha bình dân học vụ được thành

lập ngày 18 tháng 9, khoá huấn luyện giáo viên Bình dân học vụ đầu tiên mang

tên Hồ Chí Minh mở tại Hà Nội. Vì nhà nước non trẻ ngân sách thiếu thốn, phong

trào dựa vào sức dân là chính. Ngân quỹ được chỉ dụng cho chương trình chỉ trả

lương được tối đa 1.000 giáo viên, trong khi số giáo viên cần thiết tối thiểu là

100.000. Người đi học được miễn phí. Giáo viên không nhận lương. Mỗi tỉnh

phải tự túc giáo viên. Khi ngân sách còn eo hẹp, các lớp bình dân học vụ dùng

phấn hay gạch để viết xuống đất thay cho bút và giấy. Phong trào nhanh chóng

lan rộng khắp cả nước. Các lớp học bình dân được mở khắp nơi, trong nhà dân,

đình chùa, miếu mạo, chỉ cần mấy chiếc ghế băng, ghế tựa đặt quanh bàn, quanh

chiếc phản, cánh cửa, tấm ván mộc làm bảng đã thành lớp học. Các đội Nhi đồng

cứu vong khua trống ếch cổ động người dân đi học. Tại các nơi nhiều người qua

lại, như các ngõ xóm, điếm canh, cổng đình, cổng làng, người ta treo nong, nia,

mẹt, phên cốt, trên viết các chữ cái bằng vôi để ai đi qua cũng có dịp nhẩm, ôn

các chữ đã học. Các câu văn vần miêu cả các chữ cái được sử dụng để người học

dễ thuộc. Ví dụ:

"i, t (tờ), có móc cả hai.

i ngắn có chấm, t (tờ) dài có ngang;

e, ê, l (lờ) cũng một loài.

ê đội nón chóp, l (lờ) dài thân hơn;

o tròn như quả trứng gà.

ô thì đội mũ, ơ thời thêm râu".

Xuất hiện nhiều ca dao, hò vè cổ động cho phong trào Bình dân học vụ. Ví dụ:

"Hôm qua anh đến chơi nhà.

Thấy mẹ dệt vải thấy cha đi bừa.

Thấy nàng mải miết xe tơ.

KSTN Hóa dầu K54 10

Page 11: Tiểu luận đường lối nhóm 2 ( Minh, Hùng, Dũng, Liên)

Thấy cháu "i - tờ" ngồi học bi bô.

Thì ra vâng lệnh Cụ Hồ.

Cả nhà yêu nước "thi đua" học hành".

Để thúc giục người dân học chữ, một số nơi còn dựng "cổng mù" ở đầu chợ.

Người muốn vào chợ phải thử đọc chữ, ai đọc được thì được đi cổng chính, ai

chưa đọc được thì phải qua "cổng mù" để vào chợ. Tính đến cuối năm 1945, sau

hơn ba tháng phát động, theo báo cáo chưa đầy đủ của các tỉnh Bắc bộ gửi về Bộ

Quốc gia giáo dục thì đã mở được hơn 22.100 lớp học với gần 30 nghìn giáo viên

và đã dạy biết chữ cho hơn 500 nghìn học viên mà tổng chi phí xuất từ ngân sách

trung ương là 815,68 đồng, còn lại đều do các địa phương và tư nhân chi trả. Đến

cuối năm 1946, Bộ Quốc gia giáo dục báo cáo có 74.975 lớp với 95.665 giáo

viên, riêng ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã có 2.520.678 người biết đọc, biết viết.

4. Quân sự - ngoại giao.

+ Đội Việt Nam giải phóng quân thành lập ( 5 - 1945 ) được chuyển thành Vệ

quốc đoàn ( 9 - 1945 ) và thành Quân đội quốc gia ( 22 - 5 - 1946 ).

+ Cuối 1945, lực lượng tự vệ ở xã, huyện phát triển với số lượng hàng vạn người.

+ Thúc đẩy , động viên toàn dân cùng nhau tham gia kháng chiến .

IV/ Kết quả, ý nghĩa, bài học kinh nghiệm.

1.Kết quả

Về chính trị xã hội: Đã xây dựng được nền móng cho một chế độ xã hội mới

- chế độ dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết. Quốc hội,

Hội đồng nhân dân các cấp được thành lập thông qua phổ thông bầu cử. Hiến

pháp dân chủ nhân dân được Quốc hội thông qua và ban hành. Bộ máy chính

quyền từ trung ương đến các làng, xã và các cơ quan tư pháp, tòa án, các công cụ

KSTN Hóa dầu K54 11

Page 12: Tiểu luận đường lối nhóm 2 ( Minh, Hùng, Dũng, Liên)

chuyên chính như Vệ quốc đoàn, Công an nhân dân được thiết lập và tăng cường.

Các đoàn thể nhân dân như Mặt trận Việt Minh, Hội liên hiệp quốc dân Việt

Nam, Tổng Công đoàn Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được xây

dựng và mở rộng. Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam được thành

lập.

Về kinh tế văn hóa: Đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xóa

bỏ các thứ thuế vô lý của chế độ cũ, ra sắc lệnh giảm tô 25%, xây dựng ngân quỹ

quốc gia. Các lĩnh vực sản xuất được phục hồi. Cuối năm 1945, nạn đói cơ bản

được đẩy lùi, năm 1946 đời sống nhân dân được ổn định và có cải thiện. Tháng

11-1946, giấy bạc “Cụ Hồ” được phát hành. Đã mở lại các trường lớp và tổ chức

khai giảng năm học mới. Cuộc vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới đã

bước đầu xóa bỏ được nhiều tệ nạn xã hội và tập tục lạc hậu. Phong trào diệt dốt,

bình dân học vụ được thực hiện sôi nổi. Cuối năm 1946 cả nước có thêm 2.5 triệu

người biết đọc, biết viết.

Về bảo vệ chính quyền cách mạng: Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng

chiếm Sài gòn và mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh Nam Bộ, Đảng đã kịp

thời lãnh đạo nhân dân Nam bộ đứng lên kháng chiến và phát động phong trào

Nam tiến chi viện Nam Bộ, ngăn không cho quan Pháp đánh ra Trung Bộ. Ở

miền Bắc, bằng chủ trương lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, Đảng và

Chính Phủ ta đã thực hiện sách lược nhân nhượng với quân đội Tưởng và tay sai

của chúng để giữ vững chính quyền, tập trung lực lương chống Pháp ở miền

Nam. Khi Pháp-Tưởng ký hiệp ước Trùng Khánh (28-2-1946), thỏa thuận mua

bán quyền lợi với nhau, cho Pháp kéo quan ra miền Bắc, Đảng mau lẹ chỉ đạo

chon giải pháp hòa hoãn, dàn xếp với Pháp để buộc quân Tưởng phải rút về nước.

Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, cuộc đàm phán ở Đà Lạt, ở Phôngtenơbờlô, Tạm ước

14-9-1946 đã tạo điều kiện cho nhân dân ta có thêm thời gian để chuẩn bị cho

cuộc chiến đấu mới.

KSTN Hóa dầu K54 12

Page 13: Tiểu luận đường lối nhóm 2 ( Minh, Hùng, Dũng, Liên)

2. Ý nghĩa và nguyên nhân thắng lợi

Những thành quả nói trên đã bảo vệ được nền độc lập của đất nước, giữ

vững chính quyền cách mạng, xây dựng được nền móng đầu tiên và cơ bản cho

một chế độ mới, chế độ Việt Nam dân chủ Cộng hòa; chuẩn bị được những điều

kiện cần thiết trực tiếp cho cuộc kháng chiến toàn quốc sau đó.

Nguyên nhân thắng lợi: Có được những thắng lợi quan trọng đó là do Đảng

đã đánh giá đúng tình hình nước ta sau Cách màng Tháng Tám, kịp thời đề ra chủ

trương kháng chiến, kiến quốc đúng đắn; xây dựng và phát huy được sức mạnh

của khối đại đoàn kết dân tộc, lợi dụng được mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch.

3. Bài học kinh nghiệm

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để xây dựng

và bảo vệ chính quyền cách mạng. Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong

nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, coi sự nhân nhượng có

nguyên tắc với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần

thiết trong hoàn cảnh cụ thể. Tận dụng khả năng hòa hoãn để xây dựng

lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân, đồng thời đề cao cảnh giác,

sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan rộng ra cả nước khi kẻ

địch bội ước.

KSTN Hóa dầu K54 13

Page 14: Tiểu luận đường lối nhóm 2 ( Minh, Hùng, Dũng, Liên)

PHẦN KẾT BÀI

Chủ trương “Kháng chiến-kiến quốc” đã soi sáng con đường đấu tranh,củng cố và bảo vệ chính quyền của nhân dân ta. Nó thể hiện một quy luật cách mạng - xây dựng chế độ mới phải luôn đi đôi với bảo vệ chế độ mới. Từ đó tạo điều kiện để nước ta phát triển về mọi lĩnh vực từ văn hóa đến kinh tế, từ chình trị đến quân sự. Nước ta đã thoát được khỏi nạn đói, bắt đầu phát triển một nền nông nghiệp ổn định. Tư tương của Đảng được thấm nhuần vào suy nghĩ của từng người dân, nêu cao tinh thần đoàn kết và tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam. Có thể nói chủ trương “Kháng chiến-kiến quốc” là một bước đi vô cùng quan trọng của Đảng, tạo tiền đề để đất nước ta tiền hành quá độ lên chủ nghĩa xã hội sau năm 1954, xây dựng một nhà nước “của dân, do dân và vì dân”, xây dựng một xã hội lý tưởng theo mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như toàn thế nhân dân Việt Nam!

KSTN Hóa dầu K54 14

Page 15: Tiểu luận đường lối nhóm 2 ( Minh, Hùng, Dũng, Liên)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr. 26-27.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr. 26-27.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr. 26-27.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr. 26-27.

5. Giáo trình đường lối cách mạng của đảng cộng sản Việt Nam nhà xuất bản

chính trị quốc gia, tr.82-84.

6. http://www.lichsuvietnam.vn/

7. http://vi.wikipedia.org/wiki/

KSTN Hóa dầu K54 15

Page 16: Tiểu luận đường lối nhóm 2 ( Minh, Hùng, Dũng, Liên)

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................1PHẦN NỘI DUNG..........................................................................................2I/ Bối cảnh nước ta sau cách mạng tháng 8/1945...........................................2II/ Nội dung chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về “kháng chiến kiến quốc” 25-11-1945...........................................................................................4III/ Triển khai chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về “kháng chiến kiến quốc”...............................................................................................................51.Nội chính......................................................................................................52. Kinh tế tài chính:.........................................................................................63.Văn hóa (Diệt giặc dốt)...............................................................................94. Quân sự - ngoại giao.................................................................................11IV/ Kết quả, ý nghĩa, bài học kinh nghiệm...................................................111.Kết quả.......................................................................................................112.Ý nghĩa và nguyên nhân thắng lợi..............................................................133.Bài học kinh nghiệm...................................................................................13PHẦN KẾT BÀI.............................................................................................14TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................15MỤC LỤC.....................................................................................................16

KSTN Hóa dầu K54 16