27
VIN HÀN LÂM KHOA HC XÃ HI VIT NAM HC VIN KHOA HC XÃ HI TRN THBÌNH VAI TRÒ ĐỘNG LC CA KINH TTƯ NHÂN TRONG SPHÁT TRIN KINH T- XÃ HI NGHAN HIN NAY Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS Mã s: 62.22.80.05 TÓM TT LUN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HC Hà Ni 2016

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

  • Upload
    others

  • View
    7

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ BÌNH

VAI TRÒ ĐỘNG LỰC CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN

TRONG SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

Ở NGHỆ AN HIỆN NAY

Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS

Mã số: 62.22.80.05

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội – 2016

Page 2: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

Công trình được hoàn thành tại:

Học viện Khoa học xã hội

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà

2. TS. Nguyễn Văn Thức

Phản biện 1: GS.TS. Trần Phúc Thăng

Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn

Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Trọng Tuấn

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, tại Học

viện Khoa học xã hội.

Vào hồi giờ ngày tháng năm 2016

Có thể tìm hiểu luận án tại:

- Thư viện Quốc gia Việt Nam

- Thư viện Học viện khoa học xã hội

Page 3: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

1 MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nghệ An là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Trung Bộ,

nhưng vẫn là một tỉnh nghèo, kinh tế chậm phát triển song mảnh đất này hội

tụ nhiều điều kiện thuận lợi để khu vực KTTN phát triển. Cùng với sự phát

triển của cả nước, thời gian qua khu vực KTTN ở Nghệ An đã phát huy

được vai trò động lực của mình, có nhiều đóng góp trong việc thúc đẩy kinh

tế - xã hội của địa phương, đặc biệt từ khi có luật DN thì khu vực kinh tế

này đã huy động được nhiều nguồn lực xã hội vào SXKD, giải quyết việc

làm cho người lao động, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, nhiều

DN đã tạo dựng được "thương hiệu" lớn, có nhiều đóng góp quan trọng cho

nguồn thu nội địa của tỉnh.

Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra những thành quả đó vẫn chưa đáp

ứng được kỳ vọng của Chính phủ cũng như chính quyền và nhân dân tỉnh

Nghệ An, mặc dù số lượng cơ sở kinh doanh và doanh nghiệp của khu vực

KTTN tăng lên rất nhanh, song chất lượng hiệu quả hoạt động chưa tương

xứng với tiềm năng của tỉnh cũng như chính sự nội lực vươn lên để phát

huy vai trò động lực của khu vực kinh tế này. Điều đó được thể hiện trên

nhiều khía cạnh như; quy mô hoạt động của DN thuộc khu vực KTTN còn

nhỏ bé, manh mún, công nghệ sản xuất lạc hậu, vốn và lao động ít, doanh

thu thấp so với mức bình quân chung của cả nước, sức cạnh tranh trên thị

trường còn yếu, trình độ quản lý của nhiều DN còn yếu kém, trình độ tay

nghề của người lao động còn thấp, nhiều DN thuộc khu vực kinh tế này

hoạt động chưa lành mạnh, vi phạm pháp luật nhà nước, sản xuất chưa gắn

với bảo vệ môi trường... Bên cạnh đó còn gặp phải những khó khăn vướng

mắc về cơ chế, chính sách và môi trường tâm lý xã hội, làm cho khu vực

KTTN ở Nghệ An chưa phát huy được tiềm năng tối đa của mình, chưa đáp

ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong xu thế hội nhập kinh tế

toàn cầu hiện nay.

Vì vậy, cần đánh giá đúng thực trạng vai trò động lực của khu vực

KTTN trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An từ khi có luật doanh

nghiệp ra đời cho đến nay, trên cơ sở đó đưa ra các quan điểm và một số

giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm phát triển khu vực kinh tế này theo

tinh thần Đại hội Đảng toàn toàn quốc lần thứ XI và dự thảo văn kiện trình

Đại hội Đảng toàn quốc làn thứ XII đã nêu rõ; DN Việt Nam thật sự trở

thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH và Nghị quyết

Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVII đưa Nghệ An trở thành một

tỉnh khá trong khu vực phía Bắc vào năm 2015, tạo cơ sở để đến năm 2020

cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp. Với lý do trên việc nghiên cứu “Vai

Page 4: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

2 trò động lực của KTTN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An hiện

nay” là rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về vai trò động lực của khu

vực KTTN và biểu hiện vai trò động lực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay,

đánh giá thực trạng phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN trong sự

phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An từ khi có luật doanh nghiệp ra đời

(năm 2000) cho đến nay, luận án đưa ra một số quan điểm và giải pháp cơ

bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An

trong thời gian tới.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.

Để đạt mục đích đề ra, luận án tập trung thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu

sau:

Thứ nhất, tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài.

Thứ hai, phân tích một số vấn đề lý luận về vai trò động lực và biểu hiện

vai trò động lực của khu vực KTTN ở nước ta hiện nay.

Thứ ba, phân tích thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ

An từ khi có luật doanh nghiệp ra đời cho đến nay.

Thứ tư, đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản để tiếp tục phát

huy vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu: Vai trò động lực của khu vực KTTN trong sự

phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An.

Phạm vi nghiên cứu: Thời gian từ năm 2000 (từ khi luật DN ra đời) đến năm

2014.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về khu vực

KTTN để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng các phương pháp chung của khoa học xã hội là: trừu

tượng hóa, hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử, quy nạp, diễn

dịch, thống kê, so sánh…Ngoài ra tác giả còn tham khảo, thu thập số liệu

qua các tài liệu, báo cáo của các Sở, Ban ngành của tỉnh Nghệ An.

5. Những đóng góp mới của luận án

Một là, góp phần làm rõ thêm tính tất yếu của sự tồn tại và phát triển

khu vực KTTN cũng như biểu hiện vai trò động lực của khu vực KTTN

Page 5: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

3 trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn

hiện nay.

Hai là, làm rõ thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN đối với

sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An từ năm 2000 đến 2014.

Ba là, nêu ra một số quan điểm và đề xuất các giải pháp cơ bản có tính

khả thi để tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN trong sự

phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An trong thời gian tới.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Luận án có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo trong việc học tập,

giảng dạy, nghiên cứu về khu vực KTTN ở nước ta nói chung và tỉnh Nghệ

An nói riêng. Đồng thời có giá trị tham khảo cho việc hoạch định chính

sách phát triển KTTN ở Nghệ An trong giai đoạn hiện nay và thời gian sắp

tới.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm có 4 chương, 10 tiết.

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1. Những công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận về vai trò động lực

của khu vực KTTN ở Việt Nam

Kể từ khi nước ta tiến hành đổi mới (từ 1986) đến nay đã có nhiều

công trình nghiên cứu về vai trò động lực của khu vực KTTN đối với nền

kinh tế. Dưới đây là những công trình tiêu biểu.

Công trình “Chuyển hẳn sang cơ chế hạch toán, kinh doanh XHCN:

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xóa bỏ tập trung quan liêu – bao cấp,

chuyển hẳn sang hạch toán, kinh doanh XHCN” (của Đào Xuân Sâm, Nxb

thành phố Hồ Chí Minh, 1985); Công trình “Thành phần kinh tế cá thể, tiểu

chủ và tư bản tư nhân – lý luận và chính sách” (của Hà Huy Thành, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002); Công trình KTTN trong giai đoạn toàn

cầu hóa hiện nay (do Tiến sĩ Đinh Thị Thơm chủ biên, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội, 2003; Công trình “Sở hữu lý luận và vận dụng ở Việt Nam”

(của Nguyễn Văn Thức, được công bố vào năm 2004); Công trình “KTTN

Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới, thực trạng và những vấn đề” (TS.

Đinh Thị Thơm chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005); Cuốn

“Đổi mới và phát triển KTTN Việt Nam – thực trạng và giải pháp” (của Lê

Khắc Triết, xuất bản năm 2005); Bài viết “Xu hướng phát triển của kinh tế

tư nhân ở nước ta hiện nay” (đăng trên tạp chí Triết học, số 3 (166), tháng

3 năm 2005); Công trình “Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển

KTTN từ năm 1986 đến năm 2005” (Luận án tiến sĩ của Phạm Thị Lương

Diệu, bảo vệ năm 2005); Công trình “Sở hữu tư nhân và KTTN trong nền

Page 6: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

4 kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” (do GS.TS.Nguyễn

Thanh Tuyền chủ biên, xuất bản năm 2006; “Phát triển các DNNVV trong

lĩnh vực khoa học – công nghệ kinh nghiệm Hungary và vận dụng vào Việt

Nam” (của GS.TSKH Lê Du Phong chủ biên, Nxb Lý luận chính trị, Hà

Nội, 2006); Cũng bàn về vấn đề sở hữu, có bài viết “Đổi mới nhận thức về

sở hữu và đảng viên làm kinh tế tư nhân” của tác giả Phạm Văn Đức (đăng

trên Tạp chí Cộng sản, số 16 năm 2006); Công trình "Những vấn đề lý luận

và thực tiễn về động lực phát triển đất nước đến năm 2020" (đề tài nghiên

cứu cấp bộ do PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hà làm chủ nhiệm năm 2007); Công

trình Doanh nghiệp Việt Nam hợp tác và liên kết trong hội nhập (của

PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh và TS.Nguyễn Minh Phong đồng chủ biên, Nxb

Tài chính, Hà Nội, 2007); Luận án “Phát triển DNTN ở Trung Quốc và một

số gợi ý đối với Việt Nam” của tiến sĩ kinh tế Đinh Đào Ánh Thủy (hoàn

thành 2007); Công trình “Vấn đề sở hữu và phát triển bền vững ở Việt Nam

và Trung Quốc trong những năm đầu thế kỉ XXI” (PGS.TSKH. Lương Việt

Hải chủ biên, 2008); Công trình “Đảng viên làm KTTN, thực trạng và giải

pháp” (PGS.TSKH Trần Nguyễn Tuyên chủ biên, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 2010); Công trình “Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường

định hướng XHCN ở Việt Nam” (Nguyễn Kế Tuấn chủ biên, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội, 2010); Công trình “Phát triển đội ngũ DN Việt Nam giai

đoạn 2011 – 2020” (PGS.TS. Hoàng Văn Hoa chủ biên, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 2010); Công trình “Nguồn lực và động lực cho phát triển

nhanh và bền vững nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2020” (của

Ngô Doãn Vĩnh chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011);

“KTTN và vai trò động lực tăng trưởng” (của Vũ Hùng Cường chủ biên,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011); Các tác giả Lương Minh Cừ và Vũ

Văn Thư đã nghiên cứu đề tài “Sở hữu tư nhân và KTTN ở Việt Nam hiện

nay – một số nhận thức về lý luận và thực tiễn” (được công bố vào năm

2011); Công trình “Động lực thúc đẩy cải cách kinh tế tại các tỉnh ở Việt

Nam, Một số bài học từ cải cách kinh tế” (của nhóm tác giả Hubert Schmitz,

Đậu Anh Tuấn, Phạm Thị Thu Hằng, Neil McCulloch, Nxb Thông tin và

Truyền thông, Hà Nội, 2012); Công trình “Tư duy kinh tế Việt Nam 1975 –

1989” (GS. Đặng Phong, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2009) và cuốn “Phá rào

trong kinh tế vào đêm trước đổi mới” (Đặng Phong, Nxb Tri thức, Hà Nội,

2012).

1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng vai trò động lực của

khu vực KTTN ở Nghệ An.

Trong số các các công trình nghiên cứu về thực trạng vai trò động lực

của khu vực KTTN ở Nghệ An có các công trình tiểu biểu sau.

Page 7: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

5 Công trình “Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, tập 3 (1975 – 2005)” (của Ban

chấp hành Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam, tỉnh Nghệ An, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội, 2008); Công trình “Tiềm năng, lợi thế và xác định cơ cấu

sản phẩm chiến lược ở Nghệ An giai đoạn 2011 – 2015 (có tính đến 2020)”

(Đậu Quang Vinh chủ biên, Nxb Nghệ An, 2011); Tác giả Hoàng Nam

Hưng trong công trình “Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo phát triển KTTN từ

năm 2000 đến năm 2010” (luận văn thạc sĩ, hoàn thành năm 2012); Đặng

Thành Cương trong công trình “Tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài (FDI) vào tỉnh Nghệ An” (Luận án tiến sĩ kinh tế, bảo vệ năm

2012); Công trình “Phát triển KTTN ở miền Tây Nghệ An trong gia đoạn

hiện nay” (Đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ của trường Đại học Vinh,

do Th.s. Nguyễn Thị Diệp chủ nhiệm đề tài, Nghệ An, 2012, Mã số: B2010

- 27- 90).

1.3. Những công trình nghiên cứu về giải pháp tiếp tục phát huy vai trò

động lực của khu vực KTTN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở

Nghệ An Trong số các các công trình nghiên cứu về giải pháp tiếp tục phát huy

vai trò động lực của khu vực KTTN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở

Nghệ An, có các công trình tiểu biểu sau.

Công trình Tiềm năng, lợi thế và xác định cơ cấu sản phẩm chiến lược

ở Nghệ An giai đoạn 2011 – 2015 (có tính đến 2020) (của Đậu Quang Vinh

chủ biên, Nxb Nghệ An, 2011); Tác giả Hoàng Nam Hưng trong công trình

“Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo phát triển KTTN từ năm 2000 đến năm

2010” (luận văn thạc sĩ, hoàn thành năm 2012); Đặng Thành Cương trong

công trình “Tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào

tỉnh Nghệ An” (Luận án tiến sĩ kinh tế, bảo vệ năm 2012); Công trình “Phát

triển KTTN ở miền Tây Nghệ An trong giai đoạn hiện nay” (Đề tài khoa học

và công nghệ cấp Bộ của Trường Đại học Vinh, do ThS. Nguyễn Thị Diệp

chủ nhiệm đề tài, Nghệ An, 2012, Mã số: B2010 - 27- 90); Luận văn cao học

của Nguyễn Thị Trang, chuyên ngành kinh tế phát triển, với đề tài "phát

triển KTTN ở tỉnh Nghệ An" bảo vệ năm 2014.

Tiểu kết chương 1

Đã có nhiều công trình nghiên cứu về khu vực KTTN, vai trò động lực

của KTTN ở nước ta với các mức độ và mục đích khác nhau. Đối với thực

trạng phát triển khu vực KTTN ở tỉnh Nghệ An, cũng đã có một số công

trình nghiên cứu, các công trình đó đã bước đầu làm rõ được đường lối,

quan điểm của Đảng bộ tỉnh Nghệ An đối với khu vực KTTN, thực trạng

của khu vực KTTN ở một số ngành, lĩnh vực, vùng, miền của Nghệ An, các

giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò động lực của KTTN. Tuy nhiên, các

công trình đó chủ yếu tiếp cận vấn đề từ góc độ kinh tế học, chưa có công

Page 8: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

6 trình nào đi từ góc độ tiếp cận triết học để phân tích một cách toàn diện và

có hệ thống về thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An

và các giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN

trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đi trước đã

đạt được những kết quả nhất định và là nguồn tài liệu hữu ích cho tác giả

triển khai luận án của mình.

Tóm lại, liên quan đến đề tài có những vấn đề sau đây cần tiếp tục

làm rõ thêm là; sự tồn tại và phát triển khu vực KTTN trong nền kinh tế

thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam nói chung và tỉnh Nghệ An

nói riêng có tất yếu không? khu vực KTTN có phải là động lực thúc đẩy

nền kinh tế không, nếu có thì mức độ thúc đẩy của khu vực KTTN so với

các khu vực kinh tế khác như thế nào? Những kết quả đạt được, hạn chế,

nguyên nhân của hạn chế trong việc phát huy vai trò động lực của khu

vực KTTN ở Nghệ An hiện nay ra sao? Cần làm gì để tiếp tục phát huy

vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An trong thời gian tới. Đây

là những vấn đề sẽ được đề cập trong luận án Vai trò động lực của

KTTN trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An hiện nay. Đó cũng

là những vấn đề cơ bản mà luận án này sẽ giải quyết từ góc độ triết học.

Chương 2

VAI TRÒ ĐỘNG LỰC CỦA KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN

Ở VIỆT NAM: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

2.1. Một số khái niệm cơ bản

2.1.1. Khái niệm khu vực KTTN

Hiện nay, có ít nhất 2 cách hiểu về khái niệm KTTN.

Thứ nhất, KTTN là khu vực kinh tế nằm ngoài quốc doanh (ngoài khu

vực kinh tế nhà nước), bao gồm cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước,

trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư. Thứ hai, KTTN gồm có; kinh tế

cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.

Từ các cách hiểu trên, tác giả luận án có một nhận thức chung cơ bản

về KTTN như sau: Khu vực KTTN là những hình thức tổ chức kinh tế được

hình thành và phát triển dựa trên chế độ tư hữu, do cá nhân hay tập thể cá

nhân lập ra hoặc hoạt động dưới những hình thức liên doanh, liên kết, mà

ở đó có trên 50% vốn điều lệ thuộc sở hữu tư nhân.

2.1.2. Vai trò động lực của khu vực KTTN

2.1.2.1. Khái niệm động lực

PGS.TS Nguyễn Ngọc Hà cho rằng động lực của sự phát triển là cái

thúc đẩy sự phát triển, tất cả những cái đóng vai trò là nguyên nhân thúc

đẩy sự phát triển của một sự vật nào đó đều là động lực của sự phát triển

của sự vật ấy.

Page 9: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

7 2.1.3. Bản chất và đặc điểm của khu vực KTTN 2.1.3.1.Bản chất của khu vực KTTN

Về quan hệ sở hữu

Đây là quan hệ sở hữu tư nhân giữa người và người về tư liệu sản

xuất, sở hữu tư nhân cũng có quá trình phát triển từ thấp đến cao theo sự

phát triển của hình thái kinh tế - xã hội. Trong lịch sử có hai hình thức: Sở

hữu tư nhân nhỏ và sở hữu tư nhân lớn, sở hữu tư nhân nhỏ tồn tại trong

nhiều phương thức sản xuất và quá trình tạo ra sản phẩm chủ yếu bằng sức

lao động của chính mình và của các thành viên trong gia đình, sở hữu tư

nhân lớn lại được hình thành từ sở hữu tư nhân nhỏ và khi đã thành sở hữu

tư nhân lớn thì chính nó lại là cơ sở tạo nên đối kháng về giai cấp, giai cấp

bóc lột và giai cấp bị bóc lột, do vậy những hình thức khác nhau của sở hữu

tư nhân thường là những hình thức sở hữu đặc trưng ở những phương thức

sản xuất khác nhau.

Về quan hệ quản lý

Nếu sở hữu tư nhân là nhỏ (trong các hộ tư nhân như: nông dân, thợ

thủ công cá thể, tiểu thương,…) thì quan hệ quản lý có tính chất giống như

quản lý trong một gia đình và chịu sự phân công quản lý của người chủ gia

đình đối với vấn đề SXKD, vì vậy nó mang tính chất gia trưởng chứ không

phải là quan hệ bóc lột. Trong quá trình phát triển, các hộ cá thể có nhu cầu

mở rộng quy mô sản xuất, cần nhiều nhân công, loại hình kinh tế hộ tất yếu

phải thay đổi, hộ cá thể đã chuyển thành hộ tiểu chủ, vì vậy quan hệ bóc lột

đã xuất hiện.

Về quan hệ phân phối

Thực chất, quan hệ phân phối là việc giải quyết mối quan hệ về lợi ích

kinh tế giữa các cá nhân tham gia vào quá trình tái sản xuất. Trong nền kinh

tế thị trường ở nước ta hiện nay, thực hiện phân phối theo ba nguyên tắc cơ

bản sau để đem đến sự công bằng và dân chủ cho người lao động; phân

phối theo tài sản; phân phối theo giá trị sức lao động; phân phối thông qua

các quỹ phúc lợi và bảo hiểm của doanh nghiệp.

Vậy, bản chất chung của khu vực KTTN chính là dựa trên chế độ sở hữu

tư nhân, dù là kinh tế cá thể, tiểu chủ hay kinh tế tư bản tư nhân.

2.1.3.2. Đặc điểm của khu vực KTTN

- Đối với loại hình kinh tế cá thể, tiểu chủ. Loại hình này có các đặc điểm

sau.

Thứ nhất; kinh tế cá thể, tiểu chủ là hình thức kinh tế dựa trên sở hữu

tư nhân nhỏ, hoạt động SXKD chủ yếu dựa vào vốn và lao động của bản

thân và gia đình. Thứ hai; đối với SXKD của kinh tế cá thể, tiểu chủ, quy

mô và vốn tài sản nhỏ, manh mún, phân tán; công nghệ sản xuất lạc hậu;

trình độ lao động thấp, dễ bị phân hoá trong nền kinh tế thị trường. Thứ

Page 10: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

8 ba; kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất.

Ở đó, chủ sở hữu cũng đồng thời là người quản lý và trực tiếp lao động.

Thứ tư; kinh tế cá thể, tiểu chủ là loại hình hoạt động sản xuất đa ngành,

nhiều lĩnh vực khác nhau..

- Đối với kinh tế tư bản tư nhân

Thứ nhất, phần lớn DNTN nước ta do một cá nhân làm chủ, vì vậy

việc lựa chọn hình thức, quy mô SXKD hết sức linh hoạt, tự chủ.Thứ hai,

DNTN nước ta trải qua nhiều thăng trầm theo đường lối chủ trương của

Đảng nên đến nay vẫn còn non trẻ. Phần lớn các DNTN mới ra đời sau khi

có Luật DNTN và Luật Công ty (1990) và hiện nay là Luật Doanh nghiệp

(1999, 2005). Thứ ba, sự phát triển lớn mạnh của các DNTN góp phần tạo

nên môi trường kinh tế có sức cạnh tranh cao, khắc phục được những yếu tố

gây cản trở, trì trệ cho nền kinh tế. Thứ tư, trình độ sản xuất và sở hữu chưa

cao, thể hiện rõ nét nhất là loại hình một chủ vẫn chiếm ưu thế, hình thức

công ty, CTCP còn chiếm tỷ trọng thấp, các hộ kinh tế cá thể làm ăn độc

lập, manh mún là phổ biến, sự liên kết hợp tác giữa các DNTN với nhau

còn rời rạc.Thứ năm, trình độ quốc tế hoá còn thấp, một mặt do khu vực

KTTN còn non trẻ, mặt khác do chính sách mở cửa của nền kinh tế cho đến

nay vẫn chưa, thông thoáng, nhất là đối với khu vực KTTN. Thứ sáu,

DNTN nước ta phát triển không đều, doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào

những vùng có cơ sở hạ tầng thuận lợi, dân cư đông đúc, đầu tư trong một

số ngành có sinh lãi cao, trình độ phát triển DNTN có sự chênh lệch lớn của

các vùng miền trên cùng lãnh thổ. Thứ bảy, trong quá trình SXKD, bên

cạnh nhiều DNTN làm ăn chân chính, có một số DNTN kinh doanh trái

pháp luật, cản trở sự phát triển của xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của DNTN.

2.1.4. Tính tất yếu của khu vực KTTN ở Việt Nam

Thứ nhất, trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta còn thấp kém, lạc

hậu. Do đó, chúng ta phải duy trì nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở

hữu tư bản chủ nghĩa, có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát

triển.

Thứ hai, lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều giữa các vùng,

các ngành và tính chất quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến lên

CNXH.

Thứ ba, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trong

nền kinh tế thị trường hiện đại. Sự phát triển của quan hệ sản xuất đã diễn

ra theo chiều hướng, bên cạnh sự tập trung còn có sự tách biệt hoá quá trình

sản xuất thành nhiều khâu độc lập nhưng hợp tác với nhau và chịu sự chi

phối của toàn xã hội.

Thứ tư, xu thế toàn cầu hoá, hội nhập, đòi hỏi năng lực tư duy của cá

nhân cần được khẳng định, thể hiện và phát huy.

Page 11: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

9 Thứ năm, nền kinh tế thị trường ở nước ta chỉ phát triển lành mạnh với

điều kiện có sự phát triển bình đẳng của các khu vực kinh tế, trong đó có

KTTN.

2.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Đảng Cộng sản Việt

Nam về vai trò động lực của khu vực KTTN

2.2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò động lực của

khu vực KTTN

C.Mác cho rằng: "Cái bản chất tư nhân nổi bật của nó biểu hiện ra là

sự không phụ thuộc vào tài sản của Nhà nước" [21, tr. 454], C.Mác còn

khẳng định, chế độ sở hữu cá nhân về tư liệu sản xuất là điều kiện tất yếu để

giải quyết lực lượng sản xuất và phát triển nền sản xuất xã hội. Ph.

Ăngghen viết: "Đối với công trường thủ công và đối với giai đoạn phát triển

ban đầu của đại công nghiệp không thể có hình thức sở hữu nào khác ngoài

quyền tư hữu, không thể có chế độ xã hội nào ngoài xã hội xây dựng trên cơ

sở tư bản".Từ đó, chúng ta thấy rằng C. Mác và Ph. Ăngghen xác định

việc xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa (chứ không phải là

sở hữu tư nhân nói chung) là đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản; trong

thời kỳ quá độ, tất yếu phải còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu trong đó

có sở hữu tư nhân, hay nói cách khác là còn tồn tại khu vực KTTN; chỉ

có phát triển KTTN mới làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh

chóng.

Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện mới,

V.I.Lênin cho rằng, trong thời kỳ quá độ lên CNXH thì trong một mức độ

nào đó chủ nghĩa tư bản là không tránh khỏi và tương ứng với nó vẫn còn sở

hữu tư nhân và KTTN, vì vậy trong nền kinh tế thời kỳ quá độ vẫn còn có

những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả CNTB và CNXH.

2.2.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò động lực

của khu vực KTTN

- Giai đoạn trước đổi mới

Trong thời kỳ phục hồi kinh tế 1954 - 1957, Đảng ta chủ trương phát

triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, xóa bỏ tận gốc quan hệ sản

xuất phong kiến (chủ đất và tá điền). Trong phát triển không phân biệt bất

cứ khu vực kinh tế nào, lúc này kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng nhỏ bé,

kinh tế hợp tác chưa phát triển, tham gia lực lượng sản xuất, phát triển kinh

tế - xã hội chủ yếu là KTTN, kinh tế cá thể..

Trong giai đoạn cải tạo và xây dựng CNXH 1958 – 1960, Đảng ta chủ

trương cải tạo CNXH; biến nền kinh tế nhiều thành phần thành nền kinh tế

XHCN gồm hai hình thức sở hữu chủ yếu là quốc doanh và tập thể; coi kinh

tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh là đối tượng trực tiếp của công cuộc cải

tạo này

Page 12: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

10 Trong thời kỳ 1960 - 1975, Đảng ta chủ trương xây dựng CNXH theo

phương châm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH. Đây cũng

là thời kỳ khu vực KTTN bị thu hẹp, bị khống chế nặng nề nhất trong toàn

bộ nền kinh tế.

Thời kỳ cả nước xây dựng CNXH (1976 - 1985), Đảng ta chủ trương

phát triển kinh tế và cải tạo quan hệ sản xuất được thực hiện trên phạm vi

cả nước. Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (9/1979) không chỉ cho phép

"bung ra" và "cởi trói" cho sản xuất, mà còn cho phép "bung ra" và cởi

trói cho cả tư duy và đường lối kinh tế, tức là trở lại với quan điểm kinh tế

nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc dân phải giữ vai trò chủ đạo

nhưng vẫn để cho một số tư sản dân tộc hoạt động dưới sự quản lý của Nhà

nước. Ban Bí thư đã đi tới việc ban hành Chỉ thị 100/CT vào ngày 13/1/1981

cho áp dụng cơ chế khoán trong toàn bộ nền nông nghiệp của Việt Nam về

mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã

sản xuất nông nghiệp và cải tiến cơ chế khoán 100 nói riêng, theo hướng có

lợi cho nền kinh tế trong thời gian tiếp theo.

- Giai đoạn đổi mới

+Thời kỳ từ năm 1986 - 1990, là sự khởi đầu công cuộc đổi mới., các

quan điểm đổi mới kinh tế do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra dần

dần được cụ thể hoá thêm một bước. Ví dụ, về nông nghiệp, sau Chỉ thị 100

về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động (năm 1981) thì ngày

5/4/1988, Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khoá VI) đã ra Nghị quyết 10 "về

đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Đặc biệt ngày 21/12/1990, Quốc hội

ban hành Luật Công ty và Luật DNTN (có hiệu lực từ ngày 15/4/1991).

+ Thời kỳ từ năm 1991 - 1999, tại Đại hội lần thứ VII của Đảng

(6/1991), Đảng ta đã xác định mô hình kinh tế nước ta là; nền kinh tế có

nhiều thành phần với nhiều dạng sở hữu và hình thức tổ chức SXKD phù

hợp với tổ chức và trình độ của lực lượng sản xuất, với các tiêu chí mọi đơn

vị kinh tế không phân biệt quan hệ sở hữu đều hoạt động theo cơ chế tự chủ

kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau bình đẳng trước pháp luật;

+Thời kỳ từ năm 2000 đến nay, là giai đoạn Luật doanh nghiệp ra đời

và có hiệu lực thi hành thay thế cho Luật công ty và Luật DNTN, đồng thời

những nội dung đổi mới quan trọng của Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX)

đã tạo điều kiện cho KTTN trong giai đoạn này phát triển mạnh hơn nhiều

lần so với giai đoạn 1991 - 1999 và dần dần khẳng định vị thế của mình

trong nền kinh tế quốc dân. Đến tháng 3/2002, Hội nghị Trung ương 5

khoá IX đã phát triển thêm một bước quan điểm thực hiện nền kinh tế nhiều

thành phần, đồng thời cũng đánh giá cao vai trò KTTN và xác định: “KTTN

là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, phát triển KTTN

là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần theo

Page 13: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

11 định hướng XHCN, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ

trọng tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao nội

lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế” [66, tr. 57,58]. Đến Đại hội

X (4/2006), nhận thức về KTTN của Đảng phát triển lên một tầm cao mới: "

KTTN có vai trò quan trọng là một trong những động lực của nền kinh tế"

[71, tr. 354] .Tại Đại hội X, sự đổi mới ấn tượng nhất đó là việc Đảng ta

cho phép đảng viên làm KTTN với điều kiện phải gương mẫu chấp hành

pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng

và quy định của Ban Chấp hành Trung ương. Tại Đại hội XI (tháng

1/2011), Đảng ta tiếp tục giữ quan điểm về vai trò, vị trí của khu vực KTTN

như tại Đại hội X: KTTN là một trong những động lực của nền kinh tế"

Đặc biệt trong Hiến Pháp năm 2013, vai trò của doanh nghiệp,

doanh nhân lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến Pháp: Doanh nghiệp

thuộc mọi thành phần kinh tế phải huy động theo cơ chế thị trường, xóa

bỏ độc quyền doanh nghiệp, các cơ chế, chính sách tạo ra sự bất bình

đẳng. Về hình thức sở hữu, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, tôn trọng sự

đa dạng hình thức sở hữu, bác bỏ quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản

xuất, các quyền tài sản và sở hữu trí tuệ. Mới đây nhất trong Dự thảo các

văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, vai trò của khu vực

KTTN nói chung, DNTN nói riêng đã được nâng tầm và khẳng định; khu

vực KTTN không chỉ là sự tồn tại tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN, mà còn là một trong những động lực, “trụ cột”

của nền kinh tế.

2.3. Biểu hiện vai trò động lực của khu vực KTTN ở Việt Nam trong

nền kinh tế thị trường hiện nay

2.3.1. Khu vực KTTN góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế cả nước

Từ khi có Luật doanh nghiệp ra đời và sau 5 năm thực hiện Nghị quyết

Trung ương V khoá IX, khu vực KTTN đã đóng góp vào GDP và công

nghiệp rất cao, nhanh hơn so với các thành phần kinh tế khác trong nền

kinh tế quốc dân đạt 382.804 tỷ đồng ( chiếm 45,61%) vào năm 2005.

Ngược lại đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế nhà nước không tương

xứng với nguồn lực (vốn đầu tư, vốn kinh doanh, sự ưu đãi…) mà nó được

thừa hưởng. Đến năm 2014, KTNN đóng góp 28,73%, khu vực có vốn đầu

tư nước ngoài 17,89%, trong đó KTTN: 43,33%, còn lại 10,05% thuế sản

phẩm từ trợ cấp sản phẩm, điều này chúng ta khẳng định dứt khoát hiệu quả

của khu vực KTTN đang ngày càng đi lên và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

của đất nước.Từ năm 2005 - 2013, mức huy động vốn sản xuất kinh doanh

bình quân hàng năm của các doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng liên tục, từ

24,98% năm 2005 lên 41,83% năm 2008 và đến năm 2013 tăng lên 48,57%,

Page 14: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

12 trong khi đó DNNN ngày càng giảm dần, năm 2005 đạt 54,88% xuống

32,61% năm 2013.

Không chỉ tăng thêm về nguồn vốn, mà còn có đóng góp đáng kể vào

nguồn thu ngân sách nhà nước, góp phần tích cực vào tăng trưởng nhanh

nền kinh tế. các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN còn có sự đóng góp lớn

trong công tác an sinh xã hội.

2.3.2. Khu vực KTTN góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ chế

quản lý kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại

Một là, xét về cơ cấu ngành, khu vực KTTN đã góp phần chuyển dịch

kinh tế chung của cả nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tỷ trọng

khu vực nông - lâm nghiệp và thuỷ sản trong cơ cấu chung đã giảm dần từ

24,53% năm 2000 xuống 20,97 năm 2005 và 20,91% và còn 17,70 năm 2014.

Qua các năm ta thấy tỷ trọng khu vực kinh tế nông - lâm nghiệp và thuỷ sản

giảm đều dần, trong khi đó tỷ trọng khu vực ngành công nghiệp và xây dựng

tăng lên đều qua các năm từ 36,73 năm 2000 lên 41,02% năm 2005 và

40,24% năm 2009, năm 2014 tỷ lệ là 33,21%.

Hai là, về cơ cấu thành phần kinh tế cũng có sự chuyển biến tích cực

theo hướng phát huy ngày càng hiệu quả sự đóng góp của các loại hình kinh

tế mới trong nền kinh tế quốc dân.

Ba là, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ khu vực KTTN

cũng có những đặc điểm đáng chú ý, các hộ cá kinh doanh thể chiếm số

lượng ngày càng nhiều phát triển tự nhiên, theo xu hướng khát vọng làm

giàu, phân bổ rộng khắp, có mặt ở hầu hết các vùng, miền trên cả nước.

Việc hình thành các loại hình DNTN góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động

tăng tiềm lực kinh tế và giải quyết công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo ở

nông thôn nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời có tác dụng đến

chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế nước ta theo hướng hiện đại.

2.3.3. Khu vực KTTN góp phần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh,

nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập của nền kinh tế Sự trỗi dậy của khu vực KTTN trong thời gian qua với mức đóng góp

43,33% GDP vào năm 2014, trong khi đó DN nhà nước là 28,73%, khu vực

có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 17,89%, còn lại thu từ thuế sản phẩm từ

trợ cấp sản phẩm 10,5%. Sức sống mãnh liệt này đã thúc đẩy quá trình đổi

mới tư duy kinh tế phù hợp với thể chế kinh tế thị trường và hội nhập kinh

tế quốc tế, thúc đẩy quá trình đổi mới phương thức quản lý nhà nước đối

với DN, hướng tới việc góp phần và phát huy các nguồn lực trong nền kinh

tế.

2.3.4. Khu vực KTTN góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho

người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực

mới cho thị trường lao động

Page 15: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

13 Lợi thế nổi bật của khu vực KTTN là có thể thu hút một lực lượng

lao động đông đảo, đa dạng, phong phú ở mọi trình độ từ lao động thủ

công đến lao động trí tuệ ở tất cả mọi vùng, miền của đất nước, ở tất cả

mọi tầng lớp dân cư, v.v… vào tất cả mọi loại hình sản xuất, kinh doanh

của khu vực kinh tế này. Ngoài ra, các doanh nghiệp tư nhân trong quá

trình phát triển thường xuyên áp dụng các khoa học công nghệ mới hiện

đại nên trình độ, kỹ năng của người lao động cũng nhanh chóng được

nâng cao.

2.3.5. Khu vực KTTN góp phần tái cấu trúc kinh tế theo hướng hiện đại

Để đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng, cần giúp DN khu vực

KTTN phát triển và phát huy vai trò động lực trong sự phát triển kinh tế -

xã hội ở nước ta vốn bị thành kiến trong thời gian quá dài. Sẽ không có một

nền kinh tế thị trường lớn mạnh nếu quy mô của khu vực KTTN nhỏ bé bị

kìm hãm, vì vậy đòi hỏi khu vực DNNN phải được sắp xếp lại, chỉ giữ

những DN 100% vốn nhà nước ở những ngành, những lĩnh vực có vị trí

then chốt trong nền kinh tế quốc doanh, số còn lại phải tiến hành cổ phần

hóa, bán, khoán, cho thuê, xác định rõ DN, SXKD vì mục đích công ích, đạt

lợi nhuận.

Tiểu kết chương 2

Chương II, tác giả trình bày một số khái niệm cơ bản về khu vực

KTTN, vai trò động lực của khu vực KTTN. Bản chất và đặc điểm, tính tất

yếu của khu vực KTTN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta đồng thời

trình bày một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò

động lực của khu vực KTTN. Đặc biệt, luận án đã trình bày quá trình nhận

thức của Đảng ta về KTTN trước và từ khi đổi mới đến nay. Với sự tương

hợp của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

KTTN đã phát huy vai trò động lực của mình trong nền kinh tế. Vì vậy cần

đề cao vai trò của các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN, coi khu vực kinh

tế này là một động lực quan trọng, “trụ cột” của nền kinh tế thực sự. Những

vấn đề lý luận được trình bày trong chương 2 là cơ sở của việc đánh giá vai

trò động lực khu vực KTTN ở Nghệ An từ năm 2000 đến 2014 dưới sự lãnh

đạo đổi mới tư duy của các cấp chính quyền trong việc vận dụng các quan

điểm, chủ trương đường lối của Đảng từ khi có Luật DN (2000) ra đời cho

đến nay.

Page 16: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

14 Chương 3

VAI TRÒ ĐỘNG LỰC CỦA KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở

NGHỆ AN HIỆN NAY

3.1. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến khu

vực KTTN ở Nghệ An

3.1.1. Điều kiện tự nhiên

- Về vị trí địa lý

Nghệ An nằm ở vị trí trung tâm vùng Bắc Trung Bộ, có diện tích tự

nhiên là 16.490,85 km2, dân số đến năm 2014 là 3.037.440 người, với

mật độ dân số 184 người/km2 đang chiếm vị trí thứ tư cả nước với gần

3,64%.

Phía bắc, Nghệ An giáp tỉnh Thanh Hóa (197 km), tỉnh Hà Tĩnh ở

phía Nam, phía Tây chung đường biên giới với Cộng hòa dân chủ nhân

dân Lào với ba tỉnh: Hủa Phẳn, Xiêng Khoảng, BôlyKhămxay có chung

419,5 km đường biên giới, phía Đông giáp biển Đông với bờ biền dài 82

km. Với vị trí này, tạo cho Nghệ An có vai trò quan trọng trong mối giao

lưu kinh tế - xã hội Bắc - Nam, xây dựng và phát triển kinh tế biển, kinh

tế đối ngoại và mở rộng hợp tác quốc tế, sẽ là động lực thu hút các nhà

đầu tư trong và ngoài nước, đẩy nhanh tiến độ phát triển kinh tế - xã hội

của tỉnh.

- Về tài nguyên đất

Tỉnh Nghệ An là địa phương có diện tích tự nhiên lớn nhất cả nước,

đất ở Nghệ An có nhiều thành phần đa dạng, phân bố xen kẽ là một điều

kiện thuận lợi để kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước về đầu tư tại

Nghệ An với nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau.

- Về khí hậu.

Nghệ An nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa, song không thuận lợi

là do sự hoạt động của gió Tây Nam dưới tác dụng bức chắn địa hình của dãy

Trường Sơn gây nên khí hậu khô, ảnh hưởng gió lào, nắng nóng, mưa dầm

dài lâu, thường làm giảm ý chí của các nhà đầu tư.

-Về tài nguyên rừng

Hiện nay, diện tích rừng của tỉnh là trên 685.000 ha đứng đầu cả

nước, chiếm khoảng 6,5% diện tích rừng cả nước, nhìn chung rừng ở

đây rất đa dạng, có tiềm năng khai thác và giá trị kinh tế cao, là điều

kiện thuận lợi để các DN có thể đầu tư phát triển kinh tế trang trại, lâm

nghiệp, chế biến, dược liệu..., góp phần vừa làm giàu, vừa thúc đẩy kinh

tế của tỉnh tăng trưởng.

-Về tài nguyên khoáng sản

Page 17: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

15 Tỉnh có nguồn tài nguyên khoáng sản như vàng, đá quý, rubi, đá

trắng, đá granit, đá bazan... đặc biệt là đá vôi (nguyên liệu sản xuất xi

măng), đá xây dựng, cát, sỏi,...được phân bổ gần như đồng đều ở các địa

phương trong tỉnh, là một lợi thế lớn trong việc kêu gọi các DNTN tích cực

đầu tư vào các ngành công nghiệp như; khai khoáng, sản xuất xi măng,

nguyên liệu xây dựng, công nghiệp chế biến...

-Về tài nguyên biển

Nghệ An có bờ biển dài 82 km, diện tích vùng biển 4.230 hải lý vuông,

trữ lượng hải sản của tỉnh đạt 80.000 tấn, trong đó có khả năng khai thác

35.000 - 40.000 tấn. Tiềm năng khai thác du lịch rất lớn, là điều kiện thuận

lợi các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN đầu tư, phát triển từ kinh doanh

du lịch, dịch vụ, đầu tư xây dựng các khu nghỉ mát, Resort cao cấp...

3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

* Về tăng trưởng kinh tế

Trong những năm qua, các lĩnh vực kinh tế - xã hội tăng trưởng khá và

chuyển dịch đúng hướng với tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 –

2015, đạt 7,89%, thu nhập bình quân đầu người năm 2015 ước đạt 29 triệu

đồng/năm. (tăng 2 lần so với 2010). Với mức tăng trưởng này Nghệ An vẫn

là tỉnh nghèo, mức thu nhập bình quân chỉ bằng 70% so với cả nước, kinh tế

phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Tỉnh cần sớm phải có nhiều cơ

chế, chính sách để thu hút DN đầu tư tại Nghệ An.

* Về văn hóa – xã hội

Nghệ An là tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng, là một trong những yết

hầu con đường xuyên Việt, là nơi gặp gỡ giao lưu của các huyết mạch giao

thông đường thủy, bộ tạo cho Nghệ An sớm trở thành một trung tâm kinh tế

- văn hóa có vị trí đặc biệt trong lịch sử dân tộc và văn hóa Việt Nam. Đây

là một cơ hội để khu vực KTTN phát triển ngành du lịch, dịch vụ.

* Nguồn nhân lực

Đến năm 2014, dân số Nghệ An đạt 3.037.440 người, đứng thứ tư trong

cả nước, sau thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội Thanh Hóa và được đánh giá

là có cơ cấu " dân số vàng, là điều kiện thuận lợi cho khu vực KTTN thu

hút nguồn lao động, nhất là doanh nghiệp trong ngành công nghiệp phụ trợ,

điện tử, cơ khí, lắp ráp…

* Hệ thống kết cấu hạ tầng

- Các Khu công nghiệp

- Các Cụm công nghiệp

Hiện nay, các khu công nghiệp và cụm công nghiệp đã lấp đầy diện tích, sự

phát triển này là cơ hội để DN tùy thuộc vào khả năng có thể lựa chọn nhiều

ngành, nghề đầu tư tại Nghệ An.

Page 18: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

16 - Khoa học - công nghệ ; Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông (bao gồm

đường biển, hàng không, đường sắt, Cửa khẩu); Hệ thống cung cấp nước

sinh hoạt; Thông tin - viễn thông; Tài chính- Ngân hàng- Bảo hiểm; Cơ sở

y tế; Siêu thị, khách sạn nhà hàng; Các điểm du lịch chủ yếu, đủ đáp ứng

nhu cầu DN khi tiến hành đầu tư, sản xuất kinh doanh tại Nghệ An.

- Vốn đầu tư phát triển

Nhìn chung, các dự án đầu tư trong và ngoài nước đã và đang đi vào

hoạt động trên địa bàn tỉnh, bước đầu đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và

có triển vọng trong tương lai.

-Vị trí của Nghệ An trong chiến lược phát triển chung của cả nước và

vùng Bắc Trung Bộ

Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, tỉnh Nghệ An

với trung tâm là thành phố Vinh được xác định là một trung tâm kinh tế,

văn hóa của vùng Bắc Trung Bộ, Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày

30/7/2013 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển tỉnh

Nghệ An đến năm 2020, về cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp.

3.2. Thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An từ

2000 - 2014

3.2.1. Quan điểm chỉ đạo và kết quả vai trò động lực khu vực KTTN ở

Nghệ An

3.2.1.1.Sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền ở Nghệ An trong việc

phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN

Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An khóa XV

ngày 08/8/2001 ra Nghị quyết về:“phát triển công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp, xây dựng làng nghề thời kỳ 2001- 2005”. Ngày 29/03/2003, nhằm

tạo bước đột phá thu hút các doanh nghiệp đầu tư tại Nghệ An, UBND đã ra

Quyết định số 112/2003/QĐ – UBND “về việc ban hành một số chính sách ưu

đãi đầu tư trên địa bàn tỉnh Nghệ An”; Quyết định số 104/2003/QĐ – UBND

ngày 08/12/2003 “Về cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp

đổi mới công nghệ, nâng cao mức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa” quy

định cụ thể một số cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh

nghiệp đầu tư đổi mới, cải tiến công nghệ, ứng dụng các tiến bộ khoa học –

công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, có khả năng cạnh

tranh thị trường trong và ngoài nước, tạo ra hiệu quả sản xuất cao. Quyết

định số 112/2003/QĐ.UB ngày 29/12/2003 "về việc ban hành quy định một

số chính sách ưu đãi đầu tư tại tỉnh Nghệ An"; Quyết định số 82/2004/QĐ –

UBND ngày 2/8/2004 ban hành quy định “về khuyến khích phát triển tiểu

thủ công nghiệp, nghề và làng nghề trên địa bàn tỉnh”. Cụ thể hóa Nghị

quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVI, Ban Chấp hành Đảng bộ

tỉnh đã họp Hội nghị lần thứ 2 (ngày 28/04/2006) và ra Nghị quyết về

Page 19: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

17 "Chương trình xúc tiến đầu tư gắn với phát triển nguồn thu ngân sách tỉnh,

giai đoạn 2006-2010";Hội nghị lần 10 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (Khóa

XVI) ngày 22/05/2008 về "Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường

định hướng XHCN.

Để phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN trong sự phát triển

kinh tế - xã hội trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2020, UBND tỉnh đã

từng bước ban hành nhiều quyết định khuyến khích, hỗ trợ cho các DN

như: Quyết định số 101/2007/QĐ-UBND ngày 06/09/2007 của UBND tỉnh

Nghệ An về "Quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trên địa bàn

tỉnh Nghệ An"; Quyết định số 56/2008/QĐ-UBND ngày 26/09/2008 "Về

việc phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Nghệ An đến năm

2020"; Quyết định số 80/2008/QĐ-UBND ngày 18/12/2008 về "Công nhận

làng có nghề, làng nghề và chính sách khuyến khích phát triển tiểu thủ công

nghiệp và làng nghề trên địa bàn tỉnh Nghệ An”; Quyết định số

10/2009/QĐ-UBND ngày 16/01/2009 của UBND tỉnh ban hành "Cơ chế

khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư đổi mới công nghệ, nghiên

cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh tranh

của sản phẩm hàng hóa ở Nghệ An" ; Quyết định số 83/2009/QĐ-UBBND

ngày 4/9/2009 ban hành quy định "về chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ

tầng khu công nghiệp nhỏ trên địa bàn tỉnh Nghệ An"; Quyết định 348/QĐ-

UBND ngày 09/2/2012 "về việc phê duyệt đề án phát triển DN Nghệ An

giai đoạn 2011-2015"; Quyết định số 26/2014/QĐ-UBND ngày 28/03/2009

"về việc ban hành chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư các dự án công nghệ

cao trên địa bàn tỉnh Nghệ An"; Nghị quyết số 123/NQ-HĐND ngày

16/7/2014 "về việc điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội

tỉnh Nghệ An đến năm 2020"; Quyết định số 3373/QĐ-UBND.ĐT ngày

21/7/2014 "Về việc phê duyệt đề án tập trung thu hút đầu tư có hiệu quả

vào tỉnh Nghệ An đến năm 2020 và các giải pháp cải thiện môi trường đầu

tư, nâng cao chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh" nhằm phấn đấu đến năm 2015 PCI

của tỉnh Nghệ An thuộc nhóm khá của cả nước và đứng trong nhóm 30 tỉnh,

thành phố có số điểm số PCI tốt nhất, đến năm 2020 đứng trong tốp 15 của

cả nước; Quyết định số 4654/QĐ-UBND ngày 19/9/2014 "về việc ban hành

chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng trọng yếu trên địa bàn tỉnh Nghệ An

đến năm 2020", phấn đấu đẩy nhanh tốc độ xây dựng các công trình trọng

yếu, nhằm từng bước hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, trước mặt tập trung đầu tư

xây dựng hoàn thành các công trình trọng yếu góp phần tạo điều kiện thuận

lợi để các DN trong và ngoài tỉnh đầu tư SXKD.

3.2.1.2. Những kết quả đạt được trong việc phát huy vai trò động lực khu

vực KTTN ở Nghệ An

Page 20: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

18 - Thứ nhất, khu vực KTTN có tốc độ tăng trưởng nhanh, góp phần quan trọng

vào việc phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của địa

phương.

Năm 2000 - 2004 mức huy động vốn SXKD bình quân hàng năm tăng

chậm, nhưng từ năm 2004 - 2007 số vốn tăng liên tục, đặc biệt từ 2007 -

2013 số vốn SXKD của của khu vực kinh tế này tăng vọt nhanh chóng từ

20.001.510 triệu đồng (năm 2007) tăng lên 113.596.000 triệu đồng

(2013). Như vậy, tỉ trọng vốn SXKD của khu vực KTTN trong tổng số

vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên nhanh chóng, từ 12,17 % năm 2000 sau 10

năm tăng 78,62% năm 2013 và tất yếu tỷ lệ đó ngày càng thay đổi theo

hướng ưu thế ngày càng tăng cho khu vực KTTN ở tỉnh Nghệ An.

- Thứ hai, hiệu quả SXKD của khu vực KTTN ngày càng cao, đóng góp

lớn cho ngân sách của tỉnh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần tái

cấu trúc kinh tế Nghệ An theo hướng hiện đại.

Doanh thu thuần SXKD của các DN thuộc khu vực KTTN từ 2000 đến

2013 cao dần và tốc độ tăng nhanh vọt so với doanh nghiệp Nhà nước. Nếu

năm 2000 khu vực KTTN đạt 1.170 triệu đồng (chiếm 22,56%) thì đến

2010, sau 10 năm mức doanh thu lên tới 40.285.408 triệu đồng (chiếm

64,17%), mặc dù chịu ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế song vẫn tăng

mạnh vào năm 2013 là 80.119.255 triệu đồng (chiếm 77,82%). Về số liệu

nộp ngân sách và tỷ trọng so với thu ngân sách của cả tỉnh 4 năm gần đây,

năm 2010: 2.014.622 triệu đồng (45,8%); năm 2011: 2.884.783 triệu đồng

(46,1%); năm 2012: 3.971.005 triệu đồng (73,7%); năm 2013: 3.531.000

triệu đồng (45,4 %). Nhiều doanh nghiệp đã khắc phục khó khăn, vượt qua

cơn khủng hoảng, tiếp tục gặt hái được nhiều thành công và có thành tích

nộp thuế cho Nhà nước đạt cao. Đến ngày 15/11/2014, tính theo cơ cấu

ngành, tỷ trọng lớn nhất là lĩnh vực thương mại, dịch vụ thuộc khu vực

KTTN chiếm 32,19%; xây dựng (bao gồm cả tư vấn) chiếm 24%; công

nghiệp khai thác, chế biến chiếm 12,64%, còn lại là các ngành nghề

khác.

- Thứ ba, khu vực KTTN tham gia giải quyết một cách hiệu quả các

vấn đề xã hội; tạo nhiều việc làm mới, tăng thu nhập cho người lao

động, góp phần xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ

môi trường và tài nguyên thiên nhiên.

Doanh nghiệp nhà nước từ 2000 – 2011, không tạo thêm công ăn việc làm

mới cho người lao động mà ngược lại đã mất đi 11.387 chỗ làm việc. Ngược lại

số lao động làm việc trong DNTN của tỉnh đã tăng gấp 9 lần từ năm 2000 đến

2007, đặc biệt tăng nhanh từ 2007 đến 2013, số lao động trong các doanh

nghiệp tăng lên rất nhanh, từ 56.991 người (2007) lên 136.972 (2013) điều này

cho thấy lực lượng lao động trong khu vực KTTN ở tỉnh ta trong những năm

Page 21: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

19 qua có sức thu hút rất lớn và chứng tỏ được tính vượt trội trong nền kinh tế.

Năm 2010 thu nhập của người lao động trong KTTN là 3.122.422 triệu

đồng (chiếm 67,86%) thì năm 2013, sau hai năm đã tăng lên gấp đôi, đạt

6.003.545 triệu đồng (chiếm 76,15%), trong khi đó DNNN vào năm 2010 là

1.353.493 triệu đồng (chiếm 29,42%) thì đến năm 2013 bị tụt xuống còn

1.343.168 triệu đồng (chiếm 17,04%) chưa bằng 1/4 thu nhập của KTTN.

Không dừng lại ở đó để đứng vững trong cạnh tranh, các DNTN đã luôn tạo

mọi điều kiện trích nguồn kinh phí để đào tạo, nâng cao trình độ cho người

lao động, tìm ra những biện pháp tổ chức lao động, quản lý có hiệu quả nhất

- Thứ tư, khu vực KTTN góp phần hình thành và phát triển đội ngũ doanh

nhân có tài năng, phẩm chất đạo đức, xây dựng thương hiệu và phát triển hàng

hóa góp phần vào công tác an sinh xã hội thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền

vững.

Trong những năm qua nhiều doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN của

Nghệ An đã nỗ lực hết mình để khẳng định thương hiệu hàng hóa và luôn

xung kích đi đầu trong các hoạt động từ thiện, nhân đạo vì sự phát triển

cộng đồng, tiêu biểu cho hoạt động này là các doanh nghiệp công ty Cổ

phần Công trình Giao thông 4, Ngân hàng Thương mại, Tập đoàn thực

phẩm sữa TH, Bệnh viện Đa khoa Thái Thượng Hoàng, Ngân hàng Cổ phần

Bắc Á, Công ty Cổ phần Thanh Thành Đạt, DNTN Phương Kiên...

3.2.2. Hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong việc phát huy

vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An

3.2.2.1. Những hạn chế vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An

Thứ nhất, hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN có quy mô

nhỏ, hiệu quả sản xuất kinh doanh, năng suất lao động thấp dẫn đến năng

lực, sức cạnh tranh thấp cả trên thị trường nội địa lẫn thị trường quốc tế.

Tính đến tháng 10 năm 2014 toàn tỉnh có 8.461 doanh nghiệp đang hoạt

động, đa số các DN thuộc khu vực KTTN trên địa bàn tỉnh có quy mô nhỏ, số

doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng chiếm khoảng 95%, với các hộ cá

thể, tiểu chủ thì mức vốn đầu tư cũng rất thấp, có hộ chỉ vài chục triệu đồng,

phân tán nhỏ lẻ, không có vốn để sản xuất, không có thị trường đầu ra để

mở rộng kinh doanh, sẽ là một cản trở lớn đối với sự phát triển của khu

vực kinh tế này cũng đồng nghĩa với việc sẽ cản trở đến tăng trưởng

kinh tế của tỉnh.

Thứ hai, tiềm lực khoa học công nghệ, trình độ phát triển lực lượng sản

xuất của khu vực KTTN chưa cao dẫn đến khả năng hội nhập kinh tế quốc tế

kém.

Do nguồn vốn vừa yếu vừa thiếu, nên không có vốn tích lũy để đầu tư

mua các máy móc thiết bị hiện đại áp dụng vào sản xuất kéo theo hệ lụy,

chất lượng sản phẩm kém, khả năng cạnh tranh thấp.

Page 22: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

20 Thứ ba, tốc độ chuyển dịch cơ cấu của khu vực KTTN còn chậm, ảnh hưởng

đến quá trình phát triển theo hướng công nghiệp hiện đại.

Đến 15/11/2014 theo cơ cấu ngành nghề, tỷ trọng lớn nhất là thương

mại, dịch vụ, chiếm 32,19%; xây dựng (bao gồm cả tư vấn) chiếm 24%;

công nghiệp khai thác, chế biến chiếm 12,64% còn lại là các ngành nghề

khác. Thực trạng này phản ánh tình trạng lạc hậu, chậm phát triển của khu

vực KTTN ở Nghệ An.

Thứ tư, chưa có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa các DN thuộc khu vực

KTTN với khu vực kinh tế khác để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong phát

triển kinh tế.

Các doanh nghiệp FDI chưa đi vào sản xuất, lắp ráp các mặt hàng công

nghệ cao dẫn đến độc lập trong việc tự vận hành sản xuất, kể cả đầu vào và

đầu ra, nên sự kết nối, hỗ trợ với khu vực KTTN của tỉnh rất yếu. Còn về

phía các doanh nghiệp nhà nước cũng được hưởng nhiều lợi thế từ KTTN,

song rất ít hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN về trị trường,

lao động, khoa học - công nghệ, quản lý, phương châm hoạt động vẫn là

"mạnh ai nấy làm".

Ngay cả sự liên kết giữa hai loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực

KTTN còn lỏng lẻo, việc liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế.

Thứ năm, nhiều DN của khu vực KTTN chưa thực hiện tốt những quy định

của pháp luật ảnh hưởng đến niềm tin, chất lượng cuộc sống của người dân.

Nhiều DNTN chưa thực hiện tốt những quy định của pháp luật về lao

động và sản xuất, chế độ bảo hiểm, tiền lương, tiền công, hợp đồng lao

động, thời gian lao động.

3.2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc phát huy vai trò động

lực của khu vực KTTN ở Nghệ An

- Nguyên nhân khách quan

Một là, Nhà nước vẫn chưa có những chính sách tạo thuận lợi về môi

trường pháp lý, vốn, đất đai, mặt bằng SXKD, thị trường…các doanh

nghiệp thuộc khu vực kinh tế này hầu như chưa có được các chính sách hỗ

trợ và các chương trình ưu đãi của Chính phủ.

Hai là, nền kinh tế thế giới từ 2008 đến nay gặp nhiều khó khăn.

Ba là, Nghệ An là một tỉnh có điểm xuất phát thấp, diện tích rộng song

chủ yếu là miền núi, điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn, cách xa cực

tăng trưởng, của cả nước. Bên cạnh đó Nghệ An có luồng khí hậu gió lào

khắc nghiệt xuất hiện từng đợt vào tháng 5, 6, 7, làm nắng nóng kéo dài còn

mùa đông mưa dầm dài lâu, do đó công tác xúc tiến thu hút đầu tư gặp

nhiều khó khăn, đặc biệt là các nhà đầu tư có năng lực, kinh nghiệm.

- Nguyên nhân chủ quan

Page 23: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

21 Thứ nhất, môi trường kinh doanh cấp tỉnh của Nghệ An vẫn còn nhiều

hạn chế, bất cập.

Thứ hai, khả năng tiếp cận các nguồn lực cơ bản phục vụ khu vực KTTN

Nghệ An còn nhiều hạn chế như; đất đai, vốn, tài chính, khoa học - công

nghệ có ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư và sự phát triển của khu vực KTTN.

Thứ ba, chất lượng đào tạo nguồn lao động còn thấp, chưa đáp ứng

được nhu cầu của doanh nghiệp khu vực KTTN trong cũng như ngoài tỉnh.

Thứ tư, DN thuộc khu vực KTTN ở Nghệ An chưa mạnh dạn chủ động

vươn ra hội nhập.

Tiểu kết chương 3

Qua việc phân tích thực trạng phát huy vai trò động lực động lực của

khu vực KTTN ở Nghệ An từ năm 2000 trở lại đây, cho thấy khu vực

KTTN đã phát huy được vai trò động lực trong sự phát triển kinh - tế xã hội

ở Nghệ An cả về mặt quy mô và chất lượng. Tuy nhiên trong quá trình phát

huy vai trò động lực, khu vực KTTN Nghệ An vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh

hưởng đến quá trình phát triển theo hướng công nghiệp hiện đại. Những

đánh giá, phân tích ở chương 3 sẽ là cơ sở để tác giả đưa ra các quan điểm

và giải pháp ở chương 4, nhằm thu hút các DN thuộc khu vực KTTN

trong và ngoài tỉnh tích cực, chủ động đầu tư cùng với những cơ chế chính

sách thông thoáng, minh bạch cùng với sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh, các

cơ quan ban ngành giúp khu vực kinh tế này trở thành đòn bẩy, động lực

thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An trong

thời gian tới.

Chương 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ TIẾP TỤC PHÁT HUY

VAI TRÒ ĐỘNG LỰC CỦA KHU VỰC KTTN Ở NGHỆ AN

4.1. Một số quan điểm để tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu

vực KTTN ở Nghệ An Phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN phải vì mục tiêu giải

phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội ;. Phát triển khu vực KTTN là

chiến lược lâu dài;Phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN phải phù hợp

với mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN

4.2. Một số giải pháp cơ bản để tiếp tục phát huy vai trò động lực của

khu vực KTTN ở Nghệ An hiện nay

4.2.1. Tiếp tục đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế

Bài học kinh nghiệm rút ra là cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới tư duy,

đặc biệt là tư duy kinh tế thông qua tổng kết thực tiễn nhằm có những nhận

thức ngày càng đúng đắn, đầy đủ hơn về các thành phần kinh tế nói chung

Page 24: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

22 và kinh tế tư nhân nói riêng. Đó là cơ sở để chúng ta có những quyết sách

đúng, tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển.

4.2.2. Xây dựng chiến lược phát triển dài hạn và tạo môi trường thuận lợi

thúc đẩy khu vực KTTN phát huy vai trò động lực

4.2.2.1. Cải cách nền hành chính nhà nước ở Nghệ An là một điều kiện

quan trọng quyết định phát huy vai trò động lực khu vực KTTN

Tiếp tục cải cách hành chính mạnh mẽ theo hướng tạo điều kiện thuận

lợi nhất cho doanh nghiệp, đơn giản hóa các thủ tục, giấy tờ nâng cao trách

nhiệm của các cơ quan nhà nước nhằm phục vụ các đơn vị, các doanh

nghiệp thuộc khu vực

4.2.2.2. Xây dựng hệ thống chính sách và cơ sở pháp lý cho khu vực KTTN

phát huy vai trò động lực

Thứ nhất, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và phát triển dịch vụ hiện

đại, hỗ trợ kinh doanh.

Thứ hai, hỗ trợ ứng dụng khoa học - công nghệ cho khu vực KTTN.

Thứ ba, tạo cơ chế chính sách thuận lợi về xúc tiến đầu tư và thương

mại.

Thứ tư, tập trung đầu tư phát triển làng nghề truyền thống nhiều tiềm

năng của tỉnh.

Thứ năm, ban hành nhiều chính sách ưu đãi đối với các hộ SXKD cá thể

và trang trại.

4.2.3. Bản thân các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN phải nỗ lực vươn

lên, tiếp tục phát huy thành tựu và khắc phục những yếu kém, hạn chế

Tiểu kết chương 4

Để khu vực KTTN phát huy là vai trò động lực trong sự phát triển kinh

tế - xã hội ở Nghệ An hiện nay và trong thời gian tiếp theo, cần phải phát

huy những đóng góp tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của khu

vực kinh tế này là một việc làm hết sức cần thiết.

Để thực hiện có hiệu quả và đóng góp nhiều hơn nữa vai trò động lực

của khu vực KTTN ở Nghệ An, chúng tôi đưa ra một số quan điểm, từ đó

đề xuất một số giải pháp cơ bản giúp khu vực kinh tế này thúc đẩy kinh tế -

xã hội ở Nghệ An ngày càng phát triển và vươn ra hội nhập kinh tế toàn

cầu. Trong đó chúng tôi nhấn mạnh đến nỗ lực của chính bản thân DN

thuộc khu vực KTTN.

Page 25: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

23 KẾT LUẬN

Gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh

đạo khu vực KTTN đã từng bước phát triển và khẳng định thương hiệu rộng

khắp trên cả nước, ngày càng phát huy vai trò là động lực của nền kinh tế

quốc dân. Sự bứt phá trong đổi mới kinh tế do đại hội VI (12/1986) của

Đảng khởi xướng, do phù hợp với xu thế quy luật phát triển kinh tế của thế

giới nói chung và Việt Nam nói riêng, phù hợp với ý nguyện của nhân dân

nên đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, tạo cơ sở lý luận và niềm tin mạnh

mẽ trong toàn Đảng toàn dân với sự nghiệp đổi mới, trong đó có phát triển

về khu vực KTTN.

Chính vì vậy tác giả cho rằng, việc nghiên cứu vai trò động lực của khu

vực KTTN trong phạm vi một địa phương, khi mà vị trí, vai trò của khu vực

kinh tế này đã được ghi nhận và đánh giá cao tại đại hội X, XI: KTTN là

một trong những động lực của nền kinh tế và dự thảo văn kiện trình Đại hội

Đảng toàn quốc làn thứ XII khẳng định: Khu vực KTTN trở thành một

động lực quan trọng của nền kinh tế. Về thực trạng vai trò động lực của khu

vực KTTN ở Nghệ An từ năm 2000 đến nay, Đảng bộ Nghệ An đã vận

dụng sáng tạo quan điểm của Đảng trong lãnh đạo phát triển KTTN. Luận

án làm rõ những kết quả đạt được nhờ sự sáng tạo, năng động của chính

quyền UBND tỉnh Nghệ An từ năm 2000 đến nay; có tốc độ tăng trưởng

nhanh, góp phần quan trọng vào việc phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế của địa phương; hiệu quả SXKD của khu vực KTTN

ngày càng cao đóng góp lớn cho ngân sách của tỉnh, thúc đẩy chuyển dịch cơ

cấu kinh tế góp phần tái cấu trúc kinh tế của tỉnh theo hướng hiện đại; khu vực KTTN

tham gia giải quyết một cách hiệu quả các vấn đề xã hội; tạo nhiều việc

làm mới, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xóa đói giảm

nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên

nhiên; góp phần hình thành và phát triển đội ngũ doanh nhân có tài năng,

phẩm chất đạo đức, xây dựng thương hiệu và phát triển hàng hóa góp phần

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Tuy nhiên khu vực KTTN ở Nghệ An chưa phát huy hết vai trò động

lực trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và cả nước.

Trên cơ sở đó, để phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN trong

sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An trong thời gian tới, tác giả đã đưa

ra các quan điểm; phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN phải vì mục

tiêu giải phóng sức sản xuất phát triển kinh tế - xã hội; phát huy vai trò

động lực khu vực KTTN là chiến lược lâu dài, đồng thời phát huy vai trò

động lực khu vực KTTN phải phù hợp với mô hình kinh tế thị trường định

hướng XHCN đảm bảo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,

văn minh. Bên cạnh đó chúng tôi đưa ra các giải pháp cơ bản; về phía Đảng

Page 26: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

24 và nhà nước cần tiếp tục đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế về vai

trò động lực của khu vực KTTN. Đối với chính quyền và các cơ quan ban

ngành của tỉnh Nghệ An cần xây dựng chiến lược phát triển dài hạn và tạo

môi trường thuận lợi thúc đẩy khu vực KTTN phát huy vai trò động lực

trong đó đổi mới tư duy, cải cách bộ máy hành chính Nhà nước là điều kiện

tạo bước đột phá, quyết định phát huy vai trò động lực của khu vực kinh tế

này, đồng thời xây dựng hệ thống chính sách và cơ sở pháp lý cho khu vực

KTTN hoạt động thuận lợi như; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và phát

triển dịch vụ hiện đại, hỗ trợ kinh doanh; hỗ trợ ứng dụng, phát triển khoa

học - công nghệ cho khu vực KTTN; tạo cơ chế chính sách thuận lợi về xúc

tiến đầu tư và thương mại; tăng cường khả năng tiếp cận đất đai, mặt bằng

SXKD; tăng cường hỗ trợ đầu tư - tín dụng cho khu vực KTTN; tập trung

đầu tư phát triển làng nghề truyền thống nhiều tiềm năng của tỉnh; ban hành

nhiều chính sách ưu đãi đối với các hộ sản xuất kinh doanh cá thể và trang

trại. Bên cạnh đó chúng tôi nhấn mạnh đến nỗ lực của chính bản thân DN

thuộc khu vực KTTN - là nhân tố quyết định thực hiện thành công vai trò

động lực trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An nói riêng và cả nước

nói chung trong thời kỳ hội nhập và phát triển.

Page 27: VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà H HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn khoa hỌc xà hỘi trẦn thỊ bÌnh vai trÒ

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ

CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Trần Thị Bình (2010), Sự phát triển quan niệm của Đảng về kinh tế tư

nhân trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, số

tháng 12, tr22-26.

2. Trần Thị Bình (2014), Phát huy vai trò và động lực của kinh tế tư

nhân ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Tiếng Việt - Khoa học - Xã hội Việt

Nam, số 4 (77), tr23 -30.

3. Trần Thị Bình (2015), Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam: Thực

trạng và giải pháp, Tạp chí Triết học - Viên hàn lâm khoa học - xã hội Việt

Nam, số 2 (285), tr.83-88.

4. Trần Thị Bình (2015), Những đóng góp và hạn chế của kinh tế tư

nhân trong sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An giai đoạn 2000 -

2014, tạp chí Khoa học và Công nghệ Nghệ An, số 3, tr 48-50.

5. Trần Thị Bình (2015), Một số điểm hạn chế về môi trường kinh

doanh cấp tỉnh của Nghệ An qua bảng xếp hạng PCI năm 2014, tạp chí

Khoa học và Công nghệ Nghệ An, số 10, tr 24-29.