4
1 THÚ Y KIỀ Ú BÁ O Á N BÁ O OÁ N Trích Truyện Kiều Văn bản Cho gươm mời đến Thúc lang, Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run. Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non, Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không? Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng, Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân? Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân, Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là. Vợ chàng quỷ quái tinh ma, Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau. Kiến bò miệng chén chưa lâu, Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”. […] Thoắt trông nàng đã chào thưa: “Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!” Đàn bà dễ có mấy tay, Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan! Dễ dàng là thói hồng nhan, Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.” Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu, Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca . Rằng: “Tôi chút phận đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường tình, Nghĩ cho khi gác viết kinh, Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo. Lòng riêng riêng những kính yêu,

Thúy Kiều báo ân báo oán

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Đề cương

Citation preview

Page 1: Thúy Kiều báo ân báo oán

1

THÚ Y KIỀ Ú BÁ O Á N BÁ O OÁ N

Trích Truyện Kiều

Văn bản

Cho gươm mời đến Thúc lang,

Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run.

Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non,

Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,

Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?

Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,

Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là.

Vợ chàng quỷ quái tinh ma,

Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.

Kiến bò miệng chén chưa lâu,

Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”.

[…]

Thoắt trông nàng đã chào thưa:

“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!”

Đàn bà dễ có mấy tay,

Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!

Dễ dàng là thói hồng nhan,

Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.”

Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,

Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca .

Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình,

Nghĩ cho khi gác viết kinh,

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.

Lòng riêng riêng những kính yêu,

Page 2: Thúy Kiều báo ân báo oán

2

Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai .

Trót lòng gây việc chông gai,

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?

Khen cho: “Thật đã nên rằng,

Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời,

Tha ra thì cũng may đời,

Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.

Đã lòng tri quá thì nên”.

Truyền quân lệnh xuống trường tiền tha ngay.

1. Đọc - tìm hiểu chung

a) Đọc – tìm hiểu từ khó

- Đọc với giọng……………………………………………………………………………………….

- Học thuộc đoạn từ Rằng: “Tôi chút phận đàn bà” đến Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.

- Từ khó: chú thích vào bên cạnh các chữ được gạch chân trong phần 1. Văn bản.

b) Vị trí đoạn trích

Cuối phần hai (Gia biến và lưu lạc). Sau khi chịu bao đọa đày, tủi nhục, Thúy Kiều được Từ Hải cứu

thoát khỏi lầu xanh và giúp nàng đền ơn trả oán. Đây là trích đoạn tả cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán.

Phân tích hoàn cảnh:

- Từ Hải là tia hy vọng xuất hiện đúng vào lúc Kiều tuyệt vọng nhất.

- Từ Hải không chỉ cứu Kiều ra khỏi lầu xanh mà còn đưa nàng từ thân phận con ong cái kiến bước

lên địa vị một quan tòa cầm cán cân công lý, “ơn đền oán trả”.

- Màn báo ân báo oán là nơi ước mơ công lý được thực thi, là một trong những cảnh tươi sáng nhất, ấn

tượng nhất trong tác phẩm.

c) Bố cục

Báo ân: từ …………………………….. đến…………………………………………………………..

Báo oán: từ ……………………………...đến………………………………………………………….

d) Ngôn ngữ đối thoại

Có sự tham gia của …………nhân vật…………................................................................

Thể hiện …………………………………………………………………………. của nhân vật.

2. Phân tích văn bản

a) Cảnh báo ân

- Sự xuất hiện của Thúc Sinh

Thúc Sinh là…………………………………………………………………………………….

Page 3: Thúy Kiều báo ân báo oán

3

Thái độ của Thúc Sinh lúc bước vào phiên tòa báo ân báo oán

…………………………………….……………………………………………………………

Lý do: ………………………………………………………………………………………………

- Tấm lòng, thái độ của Thúy Kiều:

Xưng hô:……………………………………………………………………………………..

Dùng từ:……………………………………………………………………………………..

Điển cố, từ Hán Việt:………………………………………………………………………..

Lý do: ………………………………………………………………………………………………

- Đánh giá của em về hành động báo ân của Thúy Kiều:

Có xứng đáng không?..................................................................................................

Đánh giá của em về tấm lòng nhân vật Thúy Kiều:……………………………………….

………………………………………………………………………………………………..

Bên cạnh những món quà đáng giá mà Thúy Kiều trao tặng, phiên tòa còn là một màn gặp gỡ

cảm động, là sự trả nghĩa, trả món nợ lòng.

b) Cảnh báo oán

- Lời Kiều ngầm nhắc nhở với Thúc Sinh

Khẳng định tính cách nhân vật: “quỷ quái tinh ma”

Dự báo cảnh báo oán: “kẻ cắp bà già gặp nhau”: …………………………………............

……………………………………………………………………………………….............

Nhận xét: Nói với Thúc Sinh mà thực chất là nói với Hoạn Thư, răn đe, dọa dẫm kẻ tội nhân.

Nghệ thuật: thành ngữ dân gian:

Kẻ cắp gặp bà già: đối thủ ngang sức ngang tài, cùng khôn ngoan, sắc sảo

Kiến bò miệng chén: bị bức bách, không còn đường thoát

Kiều đay nghiến, trào dâng lòng uất ức

- Lời kể tội của Kiều

Thái độ: “thoắt trông”, “chào thưa”:………………………………………………………..

Xưng hô: “tiểu thư”:…………………………………………………………………………

Nêu rõ tình thế của đối phương:…………………………………………………………….

Lên án, đe dọa: “Đàn bà dễ có…… oan trái nhiều”

+ Cảnh cáo hành động ghen tuông bạo ngược chưa từng có, liều lĩnh xúc phạm người khác

+ Đe dọa về một kết cục oan trái, bi thảm

- Hoạn Thư tự bào chữa

Nỗi sợ hãi của Hoạn Thư: …………………………………………………………………….

Thứ nhất, Hoạn Thư dựa vào tâm lý phụ nữ để khơi gợi sự đồng cảm ở Thúy Kiều:

Rằng tôi chút phận đàn bà

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình

Ai cũng phải thừa nhận rằng, ghen tuông là tính cách nằm sẵn trong máu của mỗi người phụ nữ. Tình cảnh ghen

tuông vừa đáng trách nhưng cũng vừa đáng thương, bởi nó là nỗi khổ tâm của người đàn bà có chồng hay trăng

hoa. Bởi thế nhân vật cho rằng, ghen tuông là một việc “nữ nhi thường tình”. Hoạn Thư đã thu mình lại rất

Page 4: Thúy Kiều báo ân báo oán

4

khiêm nhường, tự nhận là “chút phận đàn bà”, khơi gợi sự đồng điệu nơi Thúy Kiều - một người có cuộc đời

cay cực, điển hình cho người phụ nữ trong xã hội thời đó.

Hoạn Thư đã từ tội nhân trở thành………………………………………………………………………………

Thứ hai, Hoạn Thư kể công để khiến Thúy Kiều thấy day dứt và thương tình:

Nghĩ cho khi gác viết kinh

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo

Lời nói của nhân vật nhắc lại chi tiết: Hoạn Thư cho Thúy Kiều ra Quan Âm Các đọc sách viết kinh và không

truy đuổi khi Kiều chạy trốn.

Hoạn Thư đã từ tội nhân trở thành………………………………………………………………………………

Thứ ba, Hoạn Thư bộc lộ lòng kính yêu đối với Thúy Kiều

Lòng riêng riêng những kính yêu

Họ Hoạn nói rằng mình vô cùng tôn trọng Kiều, chỉ do tâm lý “chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai” nên mới

có hành động sai trái.

Cuối cùng, Hoạn Thư nhận tất cả lỗi về phần mình và khẩn cầu được giảm nhẹ hình phạt:

Trót lòng gây việc chông gai

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng

Nhận xét: Hoạn Thư là người khôn ngoan, khéo léo, hiểu biết.

- Nhận định của Thúy Kiều:

Khen Hoạn Thư: “khôn ngoan”, “nói năng phải lời”.

Băn khoăn: “tha” hay xử phạt đến cùng. Nếu tha thì Hoạn Thư quả là may mắn, còn nếu “cứ

phép gia hình” sau khi Hoạn Thư đã giãi bày bao nhiêu nông nỗi thì Kiều lại thành con người

lạnh lùng và nhỏ nhen.

Quyết định cuối cùng: “tha ngay”. Lý do: “tri quá”: Hoạn Thư đã biết lỗi.

TỔNG KẾT

1. NỘI DUNG

2. NGHỆ THUẬT