68
MỤC LỤC THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG TRONG NƯỚC PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ CNTT: CẦN TẬP TRUNG NGUỒN LỰC THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI CHƯƠNG I TÌNH HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2014 CHƯƠNG II CHƯƠNG III: CHUYÊN ĐỀ CHƯƠNG IV 3 9 38 47 Chịu trách nhiệm nội dung: BÙI QUỐC VIỆT Thư ký: VŨ THANH THỦY Những người thực hiện: TRẦN MẠNH ĐẠT NGUYỄN THÚY HẰNG LÊ THỊ HƯỜNG NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN Thiết kế: QN Điện thoại liên hệ: 04.37741551 Email: [email protected]

Bcvtvn q3 2014

Embed Size (px)

Citation preview

MỤC LỤC

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG TRONG NƯỚC

PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ CNTT: CẦN TẬP TRUNG NGUỒN LỰC

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

CHƯƠNG I

TÌNH HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2014

CHƯƠNG II

CHƯƠNG III: CHUYÊN ĐỀ

CHƯƠNG IV

3

9

38

47

Chịu trách nhiệm nội dung: BÙI QUỐC VIỆTThư ký:

VŨ THANH THỦYNhững người thực hiện:

TRẦN MẠNH ĐẠTNGUYỄN THÚY HẰNGLÊ THỊ HƯỜNGNGUYỄN THỊ HỒNG VÂNThiết kế:QN

Điện thoại liên hệ: 04.37741551Email: [email protected]

THƯ BAN BIÊN TẬP

Kính thưa Quý vị độc giả,

Theo số liệu từ Bộ TT&TT tính tới cuối tháng 6 thị trường chỉ còn 119,8 triệu thuê bao di động, thấp hơn 1,3 triệu so với con số ước tính trước đó và cũng chấm dứt giai đoạn lượng thuê bao giảm dần đều từ đầu năm. Bắt đầu từ tháng 7, tổng số thuê bao tăng với biên độ mạnh (so với mặt bằng chung của những tháng trong năm 2014). Chỉ trong vòng 3 tháng, tổng số thuê bao di động phát sinh cước trên cả nước đã tăng thêm 10,7 triệu thuê bao. Trong đó có 6,6 triệu thuê bao 2G và gần 4,1 triệu thuê bao 3G.

Nếu như cùng thời điểm này năm trước, thị trường 3G bị xáo trộn mạnh bởi hai đợt tăng giá cước dịch vụ của nhà mạng, nhiều khách hàng bỏ không sử dụng dịch vụ nữa thì năm nay lại hoàn toàn trái ngược. Thị trường hầu hết đều đón nhận những thông tin tích cực như: giá không tăng như dự kiến, nhà mạng liên tục đưa những chính sách mới, gói cước mới để thu hút và tăng mức độ sử dụng dịch vụ của người dùng, gián tiếp giảm giá bằng nhiều hình thức khác nhau (giảm giá nếu đăng ký sử dụng dài hạn, tăng dung lượng giữ nguyên giá…), chuẩn bị nâng cấp tốc độ dữ liệu cho người dùng trên diện rộng… Nhờ đó, số lượng thuê bao 3G trên di động tiếp tục duy trì được mức tăng trưởng tốt nhất trong số các dịch vụ viễn thông hiện nay.

Chiến lược phát triển CNTT thành dịch vụ mũi nhọn của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã được xác định rõ với mục tiêu là CNTT sẽ phải chiếm 40% doanh thu của Tập đoàn. Khi viễn thông đã bão hòa thì CNTT có thể nói chính là cứu cánh trong thời gian tới. Thuận lợi là nhìn chung các doanh nghiệp khác tại Việt Nam đều chưa thật mạnh trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, để hiện thực hóa con số 40% trên thì Tập đoàn còn rất nhiều việc phải làm. Chuyên đề kỳ này của BCVT sẽ cung cấp cái nhìn toàn cảnh về thực lực trong lĩnh vực CNTT của Tập đoàn cũng như những dịch vụ mũi nhọn mà Tập đoàn đang hoàn thiện và phát triển.

BBT rất mong sẽ tiếp tục nhận được sự quan tâm đóng góp của Quý vị độc giả cũng như sự hợp tác của đông đảo cộng tác viên để chất lượng nội dung ấn phẩm ngày càng được nâng cao hơn nữa.

Xin trân trọng cảm ơn!

BBT Báo cáo Viễn thông

Tình hình kinh tế

Việt Nam 9 tháng

đầu năm 2014

CHƯƠNG I

9 tháng đầu năm 2014, kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định với chất lượng cao hơn. Đà phục hồi kinh tế được duy trì và tốc độ có dấu hiệu chuyển biến nhanh hơn, nhất là trong quý 3/2014, tạo điều kiện thuận lợi để đạt mục tiêu tăng trưởng 5,8% cho cả năm. Tuy nhiên, tổng cầu mặc dù cải thiện nhưng vẫn chưa đủ lực để tạo sức bật cho nền kinh tế và doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, đầu tư tư nhân ở mức thấp. Đối với khu vực ngân hàng, tiến độ xử lý nợ xấu chậm so với kỳ vọng cùng với tổng cầu thấp là nguyên nhân khiến tín dụng tăng chậm. Điều này dẫn đến chênh lệch lãi suất toàn ngành (NIM) giảm, ảnh hưởng đến năng lực tài chính cũng như khả năng trích lập dự phòng xử lý nợ xấu của hệ thống.

TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/20144

Toàn cảnh kinh tế 9 tháng đầu năm 2014

Với nhiều giải pháp hỗ trợ thị trường, hạ lãi suất, giảm thuế, bức tranh kinh tế 9 tháng đã có dấu hiệu sáng dần. Tuy nhiên, tình hình vẫn được đánh giá còn nhiều khó khăn, đặc biệt là về ngân sách.

9 tháng đầu năm, tốc độ tăng trưởng kinh tế dần cải thiện, chấm dứt quá trình đi xuống 2 năm liên tiếp. Sản xuất công nghiệp, sức mua trong nước, thu hút FDI và cán cân thương mại cải thiện cũng góp phần làm nên những gam màu sáng hơn cho nền kinh tế.

Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng cân đối vĩ mô chưa thực sự vững chắc, lạm phát dù được kiểm soát nhưng nguy cơ tăng cao vẫn có thể quay trở lại khi sức cầu cải thiện, thu ngân sách cũng được đánh giá khó khăn nhất từ trước đến nay.

GDP cả năm có thể đạt 5,4-5,5%Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng GDP sau 3 quý ước đạt

5,62% so với cùng kỳ năm 2013. Mục tiêu tăng trưởng của Việt Nam năm nay là 5,8%.

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 9 tháng năm 2014 ước tính tăng 5,62% so với cùng kỳ năm 2013, trong đó quý I tăng 5,09%; quý II tăng 5,42%; quý III tăng 6,19%. Đây là mức tăng cao so với mức tăng cùng kỳ năm 2012 và 2013 cho thấy dấu hiệu tích cực của nền kinh tế. Trong mức tăng 5,62% của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,00%, cao hơn mức 2,39% của cùng kỳ năm 2013, đóng góp 0,54 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,42%, cao hơn mức 5,20% của 9 tháng năm 2013, đóng góp 2,46 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 5,99%, mức tăng của cùng kỳ năm 2013 là 6,25%, đóng góp 2,62 điểm phần trăm.

Xét về góc độ sử dụng GDP của 9 tháng, tiêu dùng cuối cùng tăng 5,28% so với cùng kỳ năm 2013, đóng góp 4,02 điểm phần trăm vào mức tăng chung (Tiêu dùng cuối cùng của dân cư tăng 5,12%, cao hơn mức tăng 5,02% của cùng kỳ năm trước); tích lũy tài sản tăng 4,84%, đóng góp 1,46 điểm phần trăm.

TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 5

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước 9 tháng các năm 2012, 2013 và 2014

Tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước (%)

Đóng góp của các khu vực vào tăng trưởng 9 tháng năm 2014 (Điểm phần trăm)

9 tháng năm 2012

9 tháng năm 2013

9 tháng năm 2014

Tổng số 5,10 5,14 5,62 5,62Nông, lâm nghiệp và

thuỷ sản 2,50 2,39 3,00 0,54

Công nghiệp và xây dựng 5,76 5,20 6,42 2,46

Dịch vụ 5,66 6,25 5,99 2,62

Sản xuất công nghiệp lấy lại đà tăng trưởng

Sau khi chỉ tăng 4,4% trong tháng 8 - mức tăng thấp nhất kể từ sau Tết Nguyên đán, đến tháng 9 chỉ số sản xuất công nghiệp lấy lại đà tăng. Theo đó, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 9 ước tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước, lũy kế 9 tháng tăng 5,4%.

Trong mức tăng chung từ đầu năm, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đóng vai trò chủ đạo vẫn tăng 6,8%, song ngành khai khoáng lại giảm do ảnh hưởng của thời tiết.

Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến sau khi giảm liên tục trong 7 tháng đầu năm cũng đang nhích dần lên trong hai tháng qua (tại thời điểm 1/9 tăng 9,3% so với cùng thời điểm năm trước).

Theo chuyên gia trong ngành thống kê, thường những tháng cuối năm sản xuất

Biểu đồ 1.1 (Nguồn TCTK)

TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/20146

công nghiệp sẽ tăng lên để chuẩn bị cho dịp Tết, bên cạnh đó doanh nghiệp cũng có xu hướng “tích hàng” dần.

Sức mua chuyển biến tích cực

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước từ đầu năm đến nay đạt 2.145,5 nghìn tỉ đồng, tăng 11,1% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng vẫn được xem là mức tăng thấp so với những năm trước đó.

Theo Tổng cục Thống kê (GSO), tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong tháng 9 ước đạt 244,5 nghìn tỉ đồng, chỉ tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước.

Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 186,1 nghìn tỉ đồng, tăng 0,9% so với tháng trước và tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước.

Tương tự, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch trong tháng 9 này ước tính đạt 31.300 tỉ đồng, giảm 0,9% so tháng trước và tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 28,9 nghìn tỉ đồng, lần lượt giảm 0,8% so tháng trước và tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ lữ hành đạt 2,4 nghìn tỉ đồng, giảm 2,5% so tháng trước và tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước.

Như vậy, tính chung 9 tháng đầu năm nay, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước đạt 2.145,5 nghìn tỉ đồng, tăng 11,1% so với cùng kỳ năm ngoái, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 6,2% thì chỉ cao hơn mức tăng 5,4% của cùng kỳ năm 2013.

Trong khi cũng theo số liệu do GSO công bố, vào năm ngoái tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt khoảng 2.618 nghìn tỉ đồng, tăng 12,6% so với năm trước và là mức tăng thấp nhất trong vòng 4 năm trước đó. Nếu loại trừ yếu tố giá,

Biểu đồ 1.2 (Nguồn TCTK)

TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 7

tổng mức bán lẻ của Việt Nam trong năm 2013 tăng 5,6%, thấp hơn mức tăng 6,5% của năm 2012 nhưng cao hơn mức tăng 4,4% của năm 2011.

Như vậy, mức tăng bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong 9 tháng đầu năm nay vẫn còn khá thấp.

Theo giới phân tích, mức bán lẻ những tháng đầu năm nay tăng nhẹ là do tình hình kinh tế vẫn còn khó khăn, mặt bằng thu nhập chung cũng bị ảnh hưởng nên người tiêu dùng có xu hướng chi tiêu tiết kiệm hơn. Người tiêu dùng vẫn tập trung mua những mặt hàng thiết yếu phục vụ cho gia đình, trong khi hàng thời trang hoặc những mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu khác thì bán rất chậm.

Các nhà bán lẻ hiện đại cũng cho rằng dù doanh thu từ đầu năm đến nay có tăng so với cùng kỳ năm ngoái nhưng việc tăng trưởng này do hệ thống bán hàng tăng lên, thực chất doanh số riêng từng siêu thị, hoặc từng cửa hàng thì không tăng; đồng thời yếu tố giá cả hàng hóa tăng lên cũng dẫn đến doanh số cao hơn.

Giới quan sát cho rằng, từ đầu năm đến nay đã chứng kiến nhiều chương trình xúc tiến bán hàng, khuyến mãi, giảm giá liên tục từ các nhà bán lẻ hiện đại quy mô lớn đến các cửa hàng nhỏ lẻ. Dù hầu hết các siêu thị và trung tâm thương mại thực hiện chương trình khuyến mãi và giảm giá nhiều sản phẩm hàng hóa nhưng sức mua chưa được cải thiện nhiều.

Chỉ số giá tiêu dùng có dấu hiệu tăng trở lại

Dù sản xuất công nghiệp, sức mua trong nước có dấu hiệu hồi phục, tuy nhiên Chính phủ nhìn nhận nền kinh tế chưa hồi phục vững chắc, lạm phát được kiềm chế nhưng có nguy cơ tăng cao trở lại. Trong hai tháng vừa qua, với việc giá dịch vụ y tế, giáo dục tăng mạnh tại hai thành phố lớn, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng mạnh, gấp 3-4 lần mức tăng tháng trước đó.

Biểu đồ 1.3 (Nguồn TCTK)

TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/20148

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2014 tăng 0,40% so với tháng trước, mức tăng cao nhất trong các tháng kể từ tháng 6/2014 (Tháng Sáu tăng 0,30%; tháng 7 tăng 0,23%; tháng Tám tăng 0,22%). CPI tháng Chín tăng chủ yếu do nhóm giáo dục tăng cao ở mức 6,38%, tác động làm chỉ số giá chung tăng 0,39%. Chỉ số giá nhóm giáo dục tăng chủ yếu do trong tháng có 43 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương điều chỉnh học phí các loại theo lộ trình tăng học phí của Bộ Giáo dục và Đào tạo theo Nghị định số 49/2010/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ.

Chỉ số giá các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác có mức tăng thấp hơn: May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,32%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,23%, trong đó dịch vụ y tế tăng 0,25%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,22%, trong đó lương thực tăng 0,35%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,21%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,09%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,08%; bưu chính viễn thông không biến động nhiều. Nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng và nhóm giao thông có giá giảm so với tháng trước, tương ứng giảm 0,38% và giảm 1,85%.

CPI tháng 9/2014 tăng 2,25% so với tháng 12/2013 (Bình quân mỗi tháng tăng 0,25%) và tăng 3,62% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 9 tháng năm nay tăng 4,61% so với bình quân cùng kỳ năm 2013, mức tăng thấp nhất trong 10 năm gần đây. Những yếu tố chủ yếu góp phần giữ ổn định CPI 9 tháng năm nay: (1) Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 của Chính phủ về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 được các Bộ, ngành và địa phương triển khai tích cực và hiệu quả; (2) Vụ đông xuân và hè thu năm nay được mùa nên nguồn cung lương thực dồi dào; (3) Giá các mặt hàng thiết yếu trên thế giới tương đối ổn định. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những yếu tố ảnh hưởng làm tăng giá tiêu dùng: Điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế tại thành phố Hồ Chí Minh và Tiền Giang; tăng học phí các loại ở 43 tỉnh, thành phố; tăng mức lương tối thiểu vùng áp dụng cho người lao động ở doanh nghiệp từ ngày 01/01/2014 và tăng giá xăng dầu.

Biểu đồ 1.4 (Nguồn TCTK)

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG

VIỆT NAM

CHƯƠNG II

Nếu 3G được coi là tâm điểm phát triển của thị trường di động thì internet cáp quang FTTH là tâm điểm của thị trường internet cố định. Chỉ trong 8 tháng đầu năm, số lượng thuê bao FTTH đã tăng gần gấp đôi so với con số đạt được cuối năm 2013. Trung bình mỗi tháng cả nước có thêm gần 35 nghìn thuê bao internet cáp quang mới.

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201410

Với những thay đổi lớn về cấu trúc, thị trường viễn thông trong nước, đặc biệt là thị trường di động có những diễn biến hơi khác so với mọi năm. Kế hoạch kinh doanh 6 tháng cuối năm được đẩy nhanh hơn, thực hiện ráo riết hơn. Điều đó thể hiện rõ ràng ngay từ đầu quý 3, thời điểm thu hút đối tượng khách hàng học sinh sinh viên.

Tiếp tục nhận biết được những thách thức lớn trước mắt, VinaPhone đã khởi động từ rất sớm nhiều chương trình ưu đãi dành cho học sinh sinh viên. Năm nay cũng đánh dấu một năm MobiFone dành khá nhiều nguồn lực để hút đối tượng khách hàng tiềm năng này, nhằm gia tăng thị phần thuê bao trong bối cảnh vừa tách ra ở riêng. Bên cạnh chương trình bán hàng lưu động, cả ba nhà mạng đều chọn cách tiếp cận với nhà trường để cùng hợp tác phát triển thuê bao. Tuy nhiên, dù các ưu đãi có phần vượt trội hơn, chuẩn bị từ sớm hơn song chính sách hỗ trợ nhà trường cũng như kinh phí dành cho bán hàng không mạnh như các đối thủ, VinaPhone đã bị mất nhiều lợi thế.

Trước những hoạt động chạy đua sôi động của các mạng lớn, các mạng nhỏ tiếp tục một quý im hơi lặng tiếng vì có lẽ đã không đủ sức chạy theo. Gmobile gần như không có hoạt động gì, còn Vietnamobile thì đang trong giai đoạn tái cấu trúc để chuyển đổi mô hình đối với đối tác nước ngoài. Điều này khiến thị phần của các mạng nhỏ tiếp tục giảm thêm 0,6% so với quý trước. Vietnamobile cũng ra mắt gói cước dành cho HSSV hoà cùng vào không khí chung, song chỉ mang tính hình thức chứ không thể cạnh tranh nổi so với các đối thủ lớn.

Phát triển dịch vụ nội dung trên di động để kích cầu mức sử dụng của thuê bao vẫn là bài toán khó chưa tìm ra lời giải của thị trường di động. Một trong những nguyên nhân chính là hiện trạng phân chia doanh thu giữa CSP và nhà mạng vẫn chưa đủ tạo động lực cho các CSP phát triển những nội dung tốt. Việc Cục Viễn thông ban hành dự thảo về tỉ lệ phân chia này với các mức phân chia cụ thể theo từng mức giá dịch vụ theo hướng có lợi hơn cho các CSP đang được kỳ vọng sẽ giải được phần nào bài toán nói trên. Tuy nhiên, cũng chưa rõ bao giờ dự thảo sẽ được hoàn thiện và chính thức có hiệu lực.

Nếu như cùng thời điểm này năm trước, thị trường 3G bị xáo trộn mạnh bởi hai đợt tăng giá cước dịch vụ của nhà mạng, nhiều khách hàng bỏ không sử dụng dịch vụ nữa thì năm nay lại hoàn toàn trái ngược. Thị trường hầu hết đều đón nhận những thông tin tích cực như: giá không tăng như dự kiến, nhà mạng liên tục đưa những chính sách mới, gói cước mới để thu hút và tăng mức độ sử dụng dịch vụ của người dùng, gián tiếp giảm giá bằng nhiều hình thức khác nhau (giảm giá nếu đăng ký sử dụng dài hạn, tăng dung lượng giữ nguyên giá…), chuẩn bị nâng cấp tốc độ dữ liệu cho người dùng trên diện rộng…. Nhờ đó, số lượng thuê bao 3G trên di động tiếp tục duy trì được mức tăng trưởng tốt nhất trong số các dịch vụ viễn thông hiện nay.

Cùng với sự phổ biến của 3G, dịch vụ dữ liệu đã chính thức trở thành một dịch vụ

TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 11

cơ bản như thoại, sms và được kích hoạt sẵn cho thuê bao. Chính vì vậy, nó cũng bắt đầu được quản lý chất lượng như các dịch vụ cơ bản khác theo những chỉ tiêu trong Quy chuẩn quốc gia về chất lượng dịch vụ internet trên mạng di động IMT-2000 mà Bộ TT&TT vừa ban hành. Quy chuẩn này sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/3/2015.

Không rõ do những nỗ lực cải thiện cơ cấu gói cước Dcom cũng như ưu đãi gia tăng của Viettel trước đó bắt đầu mang lại kết quả hay do chương trình kích cầu hoàn thành mục tiêu 6 tháng cuối năm đã khiến thị phần thuê bao 3G datacard của nhà mạng này từng bước được cải thiện, góp phần chấm dứt tình trạng sụt giảm liên tiếp thuê bao của lĩnh vực này. Tính tới cuối tháng 8, số lượng thuê bao 3G datacard đã phục hồi về mức đạt được cuối tháng 5, thị phần thuê bao của Viettel đã tăng thêm 3,2%.

Nếu 3G được coi là tâm điểm phát triển của thị trường di động thì internet cáp quang FTTH là tâm điểm của thị trường internet cố định. Chỉ trong 8 tháng đầu năm, số lượng thuê bao FTTH đã tăng gần gấp đôi so với con số đạt được cuối năm 2013. Trung bình mỗi tháng cả nước có thêm gần 35 nghìn thuê bao internet cáp quang mới.

Luôn được coi là nhà cung cấp đưa ra những chính sách “phá giá” dịch vụ cáp quang, lần này Viettel tiếp tục gây khó khăn cho các đối thủ khác gấp bội khi không còn giảm giá dịch vụ xuống dưới 50% mà là miễn phí hoàn toàn dịch vụ cáp quang cho các trường học trên cả nước. Dù chỉ áp dụng cho đối tượng các đơn vị của Bộ GD&ĐT song chính sách này thực sự đã khiến các ISP nhỏ gần như “bó tay”, còn các ISP lớn như VNPT cũng phải vô cùng chật vật để giữ chân khách hàng của mình. Với danh nghĩa tài trợ, hạch toán vào chi phí tài trợ nên cho tới nay, cơ quan quản lý vẫn chưa tìm ra lý do để tuýt còi chương trình này.

Dù Viettel và FPT vẫn tiếp tục lỗi hẹn cung cấp dịch vụ TH cáp song thị trường THTT vẫn vô cùng sôi động, chứng kiến cuộc đua giá cước của các nhà đài khiến việc ban hành các quy định quản lý thị trường này trở nên vô cùng cấp bách. Một số nội dung về Nghị định Quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ phát thanh truyền hình đã được hình thành với nhiều quy định về giá như cước tối đa, tối thiểu, khung giá cước,… đang gấp rút được hoàn thiện để trình lên Chính phủ vào cuối năm nay.

Giá cước cũng chỉ là một trong số những tiêu chí quan trọng cần quản lý. Chắc chắn những nội dung này sẽ còn tiếp tục phải điều chỉnh, song đây chắc chắn sẽ là định hướng để thị trường phát triển đúng hướng. Chí ít nó cũng khiến các nhà đài quan tâm hơn tới phát triển nội dung thay vì chạy theo giảm cước như hiện nay.

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201412

THỊ TRƯỜNG DI ĐỘNG

I. THÔNG TIN CHUNG

1. Một vài số liệu thống kê chung về thị trườngTheo số liệu thống kê chính thức của Cục Viễn thông, tính tới cuối tháng 6 thị

trường chỉ còn 119,8 triệu thuê bao di động, thấp hơn 1,3 triệu so với con số ước tính trước đó và cũng chấm dứt giai đoạn lượng thuê bao giảm dần đều từ đầu năm. Bắt đầu từ tháng 7, tổng số thuê bao tăng với biên độ mạnh (so với mặt bằng chung của những tháng trong năm 2014). Chỉ trong vòng 3 tháng, tổng số thuê bao di động phát sinh cước trên cả nước đã tăng thêm 10,7 triệu thuê bao. Trong đó có 6,6 triệu thuê bao 2G và gần 4,1 triệu thuê bao 3G (Biểu đồ 2.1).

Biểu đồ 2.1 (Nguồn MIC)

Với những biến động lớn về cấu trúc thị trường viễn thông nên năm nay diễn biến thị trường cũng có phần khác hơn so với mọi năm. Ngay sau khi kết thúc 6 tháng đầu năm, các nhà mạng đã bắt đầu chương trình tăng tốc cho 6 tháng cuối năm với nhiều mục đích khác nhau. Mạng thì nặng về hoàn thành mục tiêu doanh thu, mạng thì thiên về quảng bá thương hiệu. Quý 3 là thời điểm bắt đầu các kỳ thi đại học, cao đẳng nên các nhà mạng đều tranh thủ triển khai các hoạt động giới thiệu sản phẩm dịch vụ hướng tới đối tượng học sinh sinh viên.

Như đã đề cập trong số trước, việc tách MobiFone khỏi VNPT là một trong những yếu tố giúp số lượng và thị phần thuê bao của VinaPhone có phần được cải thiện trong quý 2. Vì vậy bước sang quý 3, khi mà việc chia tách đã hoàn thành và đi vào ổn định, các đối thủ cũng tăng tốc nên dù khá nỗ lực, thị phần thuê bao của VinaPhone vẫn bắt đầu giảm xuống (Biểu đồ 2.2).

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 13

Biểu đồ 2.2 (Nguồn MIC)

Trong tháng 6, thị phần thuê bao di động nói chung của VinaPhone bắt đầu giảm nhẹ xuống còn 16,6%. Đến tháng 7, thị phần của VinaPhone chỉ còn 15,8% và đến tháng 8 tiếp tục giảm thêm 0,1% còn 15,7%. Tính tới cuối tháng 9, thị phần di động của VinaPhone có sự cải thiện đôi chút song vẫn giảm 0,7% so với con số đạt được cuối tháng 6.

Tiếp tục một quý hoạt động trầm lắng, các nhà mạng nhỏ gần như đã hụt hơi trong cuộc đua trên thị trường viễn thông Việt Nam, phải “tạm nghỉ”. Số liệu thống kê tháng 9 cho thấy thị phần thuê bao của hai mạng nhỏ tiếp tục bị giảm thêm 0,5% (tương đương giảm 6.9%) so với cuối tháng 6.

Cùng hoà chung với cuộc đua thu hút thuê bao học sinh sinh viên của các mạng lớn, Vietnamobile cũng cho ra mắt bộ sim dành riêng cho sinh viên - SV2014. Tuy nhiên, so với những chính sách ưu đãi dành cho đối tượng này của 3 nhà mạng lớn thì SV2014 hoàn toàn không thể cạnh tranh nổi nên việc ra mắt gói cước chỉ mang tính chất “điểm danh”. Một hoạt động hiếm hoi nữa của Vietnamobile là ra mắt chương trình “Thứ 5 ngày vàng”. Chính sách hoàn lại toàn bộ số tiền thuê bao sử dụng trong ngày thứ 5 vào thứ 3 tuần sau cho thuê bao cũng không giúp nhà mạng này ngăn nổi tình trạng thị phần của nhà mạng này ngày càng giảm sút.

2. Thống nhất tỉ lệ phân chia doanh thu giữa CSP và nhà mạng – lời giải cho bài toán phát triển dịch vụ nội dung trên di động?

Dù rằng không còn căng thẳng như trước nữa song tỷ lệ phân chia doanh thu dịch vụ vẫn luôn là vấn đề gây tranh cãi giữa nhà cung cấp nội dung (Content Service Provider - CSP) và nhà mạng, đây được coi là một trong những rào cản chính đối với việc phát triển các dịch vụ nội dung chất lượng cao tại Việt Nam. Giữa tháng 9 vừa qua, Cục Viễn thông đã ban hành dự thảo Thông tư quy định về vấn đề này, đưa ra các tỉ lệ phân chia

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201414

cố định theo giá cước dịch vụ nội dung. Nhưng liệu nó có giúp thị trường nội dung trên di động bước sang một giai đoạn phát triển mới? Vẫn còn quá sớm để trả lời.

Không thoả thuận được sẽ áp cứng tỷ lệ phân chia

Theo dự thảo Thông thư Quy định về kết nối giữa CSP và nhà mạng mới được ban hành, Bộ TT&TT sẽ để hai bên tự thoả thuận giá cước cũng như tỷ lệ phân chia doanh thu dịch vụ với nhau trên cơ sở đảm bảo khả thi về mặt kỹ thuật để tính cước, đối soát số liệu, phù hợp với lợi ích của hai bên. Nếu hai bên không tự thoả thuận được thì sẽ áp dụng theo đúng các mức phân chia tỷ lệ theo mức cước dịch vụ như theo bảng sau:

Giá cước dịch vụ Nhà mạng CSP

Dưới 1.000đ 70% 30%

Từ 1.000đ đến dưới 10.000đ 50% 50%Trên 10.000đ 30% 70%Cước dịch vụ tính theo ngày/tuần/tháng 40% 60%

Theo đó, tỷ lệ hưởng doanh thu của CSP sẽ tăng dần tuỳ theo mức cước dịch vụ, hay gián tiếp là theo chất lượng dịch vụ nội dung mà họ cung cấp. Càng dịch vụ giá cao thì CSP càng được hưởng phần tỷ lệ phân chia cao hơn. Mức cao nhất mà các CSP được hưởng là 70% doanh thu dịch vụ. Nhìn chung, tỷ lệ phân chia đã tương đối hợp lý, dù chưa giống như ở các quốc gia mà dịch vụ nội dung trên di động rất phát triển như Nhật Bản (CSP có thể hưởng tới 90% tổng doanh thu dịch vụ), song nó phù hợp với hiện trạng phát triển của thị trường Việt Nam.

CSP có thêm lợi thế

Nếu Dự thảo này được thông qua và ban hành để thực hiện, các CSP sẽ có thêm khá nhiều lợi thế so với hiện nay. Đầu tiên phải kể tới việc doanh thu dịch vụ sẽ tăng thêm nhờ tỉ lệ phân chia với nhà mạng tăng lên. Hiện tại, CSP được hưởng từ 21% - 65% tổng doanh thu dịch vụ nội dung. Nay cả hai mức này đều được tăng lên thành 30% - 70%. Việc phân chia thành nhiều mức cũng khiến các CSP có lợi thế trong việc đàm phán với nhà mạng hơn.

Thêm vào đó, các nhà mạng cũng cho biết sẵn sàng chia sẻ cho CSP mức cao hơn nữa với các dịch vụ, ứng dụng thực sự khác biệt, sáng tạo và đem lại lợi ích lớn cho cộng đồng. Ví dụ, mới đây Viettel hứa hẹn doanh thu mà CSP được hưởng có thể lên tới 90% tổng doanh thu dịch vụ. Hiện cũng đã có những dịch vụ nội dung tốt mà CSP đang hưởng mức phân chia doanh thu cao hơn các mức cứng kể trên (dù không nhiều).

Một lợi thế nữa phải kể tới là nhiều khả năng chi phí thuê đầu số sẽ giảm đi so với trước. Trước đây, CSP thuê đầu số trực tiếp từ nhà mạng, các đầu số này do Bộ TT&TT cấp cho các nhà mạng để kinh doanh. Vì vậy, gần như chắc chắn giá nhà

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 15

mạng cho CSP thuê sẽ cao hơn mức phí sử dụng đầu số mà nhà mạng đóng cho Bộ TT&TT. Tuy nhiên, theo Dự thảo thông tư này, Bộ TT&TT sẽ trực tiếp cấp đầu số cho các CSP thay vì nhà mạng như trước. Các CSP sẽ nộp lệ phí phân bổ, phí sử dụng đầu số theo quy định nên chi phí thuê đầu số mà CSP phải bỏ ra sẽ thấp hơn so với trước đây.

Rõ ràng, chi phí giảm, trong khi doanh thu dịch vụ lại tăng CSP sẽ có nguồn lực tài chính cũng như động lực để phát triển các dịch vụ nội dung chất lượng cao hơn thay vì kiểu “ăn xổi” như hiện nay.

Thị trường dịch vụ nội dung di động Việt Nam sẽ bước sang trang mới?

Nhìn lại hiện trạng thị trường các dịch vụ GTGT trên nền di động trong quý 3 nói riêng và trong 9 tháng đầu năm nói chung thực sự không tìm thấy điểm nhấn. Vẫn là những chương trình khuyến mại sử dụng các dịch vụ quen thuộc, các chương trình kích cầu sử dụng dịch vụ bằng bốc thăm trúng thưởng, tặng tiền cho người giới thiệu... Các dịch vụ mới ra đời cũng có, song gần như hoàn toàn là các dịch vụ ăn theo thời vụ: ví dụ như bản tin thể thao worldcup, bản tin âm nhạc…

Xây dựng được một dịch vụ nội dung tốt, CSP sẽ không chỉ nhận được tỷ lệ phân chia doanh thu cao, mà còn có nhiều cơ hội tăng thêm doanh thu nhờ phát triển mở rộng thêm nhiều nội dung khác trên nền dịch vụ đó. Bankplus là một trong những ví dụ điển hình về một dịch vụ nội dung tốt cũng như tương lai tươi sáng mà CSP nhận được khi xây dựng được nội dung tốt. Vừa qua, dịch vụ này đã nhận được giải thưởng Dịch vụ tài chính tốt nhất khu vực châu Á và đang có khoảng 320.000 người dùng. Ngoài những chương trình kích cầu như thường lệ, trong quý 3 vừa qua Viettel liên tục bổ sung thêm những tính năng tiện ích mới cho dịch vụ này. Ngoài chức năng thanh toán, giờ đây thuê bao còn có thể gửi tiết kiệm, tra cứu số dư, thực hiện tất toán và mua bảo hiểm qua Bankplus.

Những thuận lợi cho nhà sản xuất nội dung đã rõ, nhưng liệu nó có đủ thúc đẩy thị trường dịch vụ nội dung cho di động Việt Nam bước sang một trang mới? Vẫn còn quá sớm để trả lời câu hỏi này bởi bên cạnh những thuận lợi, thị trường nội dung cho di động vẫn còn đó những rào cản khác.

Một trong số đó phải kể đến là niềm tin của người dùng đối với việc cung cấp dịch vụ và tính cước của nhà mạng. Sau lùm xùm về vụ việc một số dịch vụ được tích hợp sẵn trên sim người dùng và nhà mạng tự động thu tiền cuối năm ngoái, đầu năm nay lại đến vụ việc dịch vụ dạng flash của nhà mạng “ép” người dùng sử dụng dịch vụ. Trong đợt kiểm tra cuối quý 2 vừa qua, thanh tra Bộ TT&TT cho biết một số nhà mạng đã khắc phục được lỗi của dịch vụ Flash, sẽ không gây tình trạng người dùng “mất tiền oan” nữa thì lại đến vụ việc người dùng tố cáo Viettel tự động kích hoạt dịch vụ Anybook và âm thầm trừ cước của hàng triệu thuê bao 9.000 đ/tháng. Vì vậy, nhiều người lựa chọn cho mình cách không dùng thêm dịch vụ nội dung nào trên điện thoại cho “lành”. Giải quyết được vấn đề nội dung dịch vụ đã khó, lấy lại

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201416

niềm tin của người dùng lại càng khó hơn bởi nó là cả một quá trình lâu dài.

Thêm vào đó, đây là những tác động tích cực khi mà Dự thảo chính thức được đưa vào áp dụng. Nhưng đến bao giờ Dự thảo sẽ được hoàn thiện và chính thức ban hành vẫn chưa được công bố. Cách đây khoảng hai năm, một dự thảo phương án phân chia doanh thu giữa CSP và nhà mạng cũng đã được đưa ra bàn thảo. Theo phương án này, cước dịch vụ nội dung áp với người dùng sẽ được bao gồm Cước kết nối (A)và phần cước nội dung (B). Nhà mạng sẽ hưởng phần cước kết nối (A) và một phần cước nội dung (x%B, x<50%) Tuy nhiên, sau một hồi bàn luận ồn ã tốn nhiều giấy mực của báo chí, dự thảo mãi không được ban hành!

3. Các mạng chạy đua thu hút học sinh sinh viênTrong hai năm trở lại đây, đối tượng học sinh sinh viên bắt đầu được nhiều nhà

mạng chăm chút hơn bởi đây là những khách hàng tiềm năng trong vòng 5 năm tiếp theo. Quý 3 là thời điểm diễn ra kỳ thi đại học và sau đó đồng loạt các trường đại học, cao đẳng, trung cấp trên cả nước tổ chức nhập học. Vì vậy, tất cả các nhà mạng đều tận dụng cơ hội để tranh thủ thu hút phân khúc khách hàng quan trọng này.

VinaPhone : Khởi động từ sớm với gói cước nhiều ưu đãi

Ngay từ tháng 6, VinaPhone đã khởi động chương trình khuyến mại dành cho HSSV hoà mạng mới, với nhiều ưu đãi về số tiền cộng định kỳ vào tài khoản hàng tháng, mức cước gọi ưu đãi, đăng ký gói cước ngày giá rẻ và được sử dụng một số dịch vụ GTGT với giá ưu đãi.

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 17

Gói cước dành cho HSSV của các nhà mạng

Tiêu chí VinaPhone MobiFone ViettelTiền và dữ liệu cộng định kỳ hàng tháng

30.000 đ sau 24h kích hoạt.

30.000 đ vào TK định kỳ trong 47 tháng.

150 MB dữ liệu + 50 SMS nội mạng miễn phí trong 47 tháng.

150MB và 30.000đ mỗi tháng vào ĐK2 trong 12 tháng đầu.

30MB và 25.000đ mỗi tháng kể từ tháng thứ 13 trở đi.

Tặng 25.000 đ/tháng và 30 MB dữ liệu/tháng.

Cước gọi 690 đ/phút trong 12 tháng đầu. Các tháng sau đó theo mức hiện hành.

Theo mức cước hiện hành: Nội mạng/ngoại mạng: 1.180đ/1.380đ

Giảm 50% cước gọi cho các thành viên trong nhóm.

Ưu đãi khác Được đăng ký một số gói cước giá rẻ.

Đăng ký gói MAX với giá 25.000 đ đến hết năm 2015.

Miễn phí cước 2 tháng sử dụng toàn bộ dịch vụ âm nhạc của VinaPhone gồm: Chacha Ringtunes, funtalk, MCA…

Các tháng còn lại trong suốt thời gian sử dụng gói cước dịch vụ gia tăng kể trên được giảm 50%.

Được đăng ký một số gói cước giá rẻ

Đăng ký gói MIU chỉ 25.000 đ trong 48 tháng.

Miễn phí sử dụng dịch vụ GTGT như: funring, 2learn, uTeen, mMusic… trong 12 tháng.

Được mua một số máy điện thoại với giá ưu đãi.

Được đăng ký một số gói cước giá rẻ.

Đăng ký gói Mimax giá 50.000 đ/tháng

Tặng thẻ Bankplus Mastercard.

Miễn phí 1 tháng dữ liệu khi truy cập các trang tin và một số dịch vụ như iMuzik, isign, anybook. Sinh viên nghèo được miễn phí 6 tháng. Sau đó cước dịch vụ tính bình thường.

So với mọi năm, năm nay VinaPhone triển khai chương trình từ rất sớm để tranh thủ tư vấn rõ hơn cho những thuê bao tiềm năng về sản phẩm dịch vụ của mình, giúp người dùng so sánh và đưa ra quyết định lựa chọn dịch vụ chính xác hơn, thay vì chỉ dựa vào thương hiệu như nhiều năm trước đây. Công tác chuẩn bị sim đưa về các chi nhánh cũng như lên phương án bán hàng cũng được bắt đầu từ sớm nhằm nỗ lực phát triển được nhiều thuê bao hơn.

Ngoài việc tổ chức các gian hàng bán hàng lưu động, giới thiệu dịch vụ tại các cổng trường, VinaPhone cũng là một trong những nhà mạng sớm nhất tới liên hệ với các trường để đặt vấn đề hợp tác phát triển thuê bao. Tuy nhiên chính sách hỗ trợ các trường không mạnh như các đối thủ khác cũng như chưa chậm chân trong việc phát triển kịp

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201418

một số dịch vụ đi kèm theo nhu cầu của nhà trường khiến VinaPhone mất đi nhiều lợi thế.

MobiFone: Dành nhiều công sức hơn

Có lẽ do sự giảm sút thuê bao nhanh chóng do tách khỏi VNPT trong những tháng của quý 2 nên năm nay MobiFone dành nhiều công sức và nguồn lực hơn hẳn mọi năm để thu hút thuê bao HSSV. Bắt đầu chậm hơn, các ưu đãi của gói cước cũng có phần kém hơn so với VinaPhone song MobiFone lại nhanh chóng giải quyết bài toán phát triển các dịch vụ GTGT mà nhà trường cần nên đã hợp tác được với khá nhiều trường để phát triển thuê bao.

Trong khoảng thời gian này, MobiFone đã ký kết thoả thuận hợp tác với hàng loạt trường ĐH trên cả nước như: ĐH Sư phạm Hưng Yên, ĐH Hồng Đức, ĐH kinh tế Nghệ An, ĐH Nông nghiệp, ĐH Thành Đô…. Theo đó, MobiFone sẽ cung cấp miễn phí cho các trường ĐH giải pháp quản lý E.ONE SMS, hỗ trợ kênh thông tin trong quá trình công tác quản lý, đào tạo, nhắn tin thông báo tới CBCNV, sinh viên, phụ huynh. Đây là một trong những giải pháp mà VinaPhone đã nắm bắt được nhu cầu nhưng không phát triển giải pháp nhanh bằng MobiFone nên đã bị mất lợi thế.

Ngoài ra MobiFone sẽ hỗ trợ nhà trường tiếp nhận sinh viên thực tập giữa kỳ, trao đổi nói chuyện về công nghệ cũng như đào tạo một số kỹ năng thực tế tại MobiFone. Ngược lại, nhà trường sẽ tạo điều kiện cho MobiFone tổ chức hoạt động truyền thông trong trường (mà thực tế ở đây là không cho các nhà mạng khác vào trong khu vực sân trường), hợp tác với MobiFone để phát triển thuê bao di động cho CBCVN cũng như sinh viên trong trường (tức là trở thành một đầu mối phát triển thuê bao). Cách thức này của MobiFone đã giúp nhà mạng vẫn phát triển được một lượng lớn thuê bao dù gói cước không mấy hấp dẫn.

Viettel: cấp kinh phí tiếp xúc và giảm giá dịch vụ cho các trường

Với thương hiệu khá tốt về gói cước dành cho HSSV đã gây dựng được trong 5 năm qua, năm nay Viettel tiếp tục triển khai chương trình như thường lệ, không có nhiều điều chỉnh sửa đổi. Gói cước nếu so với hai đối thủ còn lại thì mức ưu đãi hàng tháng kém hơn nhiều (đặc biệt là so với VinaPhone), giá dịch vụ Mobile Internet sau ưu đãi vẫn cao gấp đôi so với các mạng khác.

Viettel cũng tiếp cận các trường đại học như các nhà mạng khác. Tuy không được mạnh và bài bản như MobiFone, song so với VinaPhone thì Viettel cũng đầu tư hơn. Ví dụ, Viettel hỗ trợ mỗi chi nhánh 4 triệu đồng kinh phí tiếp xúc một trường, mỗi thuê bao phát triển mới được chiết khấu ở mức tương đối cao - 13.500 đ. Ngoài ra, Viettel cũng đồng thời giảm 30% giá dịch vụ gửi SMS cho học sinh và phụ huynh học sinh cho nhà trường. Vì vậy, tại nhiều trường ĐH, Viettel cũng được quảng bá sản phẩm dịch vụ trong sân trường. Còn VinaPhone thì không được vào, phải chốt ở ngoài cổng trường, hoặc giới thiệu dịch vụ ở khu vực ký túc xá.

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 19

4. Khách hàng roaming được quan tâm nhiều hơnBên cạnh các giải pháp tăng tốc phát triển thuê bao, các nhà mạng đồng thời cũng

phải triển khai những biện pháp để giữ chân khách hàng, đặc biệt là những khách hàng có mức tiêu dùng cao. Trong quý này, thuê bao sử dụng dịch vụ roaming là đối tượng chăm sóc khá kỹ. Tất cả các nhà mạng đều đưa ra những chính sách, tiện ích giúp cho khách hàng thuận tiện hơn trong việc đăng ký, quản lý dịch vụ hoặc giảm bớt chi phí dịch vụ trong khi vẫn đảm bảo nhu cầu liên lạc.

VinaPhone hướng tới việc mở rộng các tiện ích, tạo sự thuận tiện hơn cho thuê bao sử dụng dịch vụ này. Ngay trong tháng 7, nhà mạng này đã triển khai hệ thống cảnh báo và khoá trực tuyến dịch vụ roaming dữ liệu. Theo đó, thuê bao roaming sẽ được cảnh báo trực tuyến, theo thời gian thực khi lưu lượng dữ liệu phát sinh đạt tới các ngưỡng (80% hoặc 100% tổng lưu lượng gói đăng ký) thay vì cảnh báo được gửi sau một khoảng thời gian trễ nhất định như trước kia (gây phát sinh thêm chi phí). Ngay khi lưu lượng sử dụng đạt 100% mức đăng ký, dịch vụ sẽ tự động bị khoá. Nếu có nhu cầu sử dụng tiếp thì khách hàng phải gửi tin nhắn mở lại dịch vụ. Hệ thống mới này sẽ giúp giải quyết được tình trạng phát sinh cước ngoài ý muốn, ngoài kiểm soát của các thuê bao – nguyên nhân của hầu hết các khiếu nại liên quan tới dịch vụ này từ trước tới nay.

Thủ tục đăng ký sử dụng dịch vụ cũng đang dần được VinaPhone đơn giản hoá hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách hàng có nhu cầu. Trước đây, muốn đăng ký sử dụng dịch vụ, thuê bao phải đem CMND, hợp đồng dịch vụ tới phòng giao dịch và đặt cọc tối thiểu là 5.000.000 đ mới được sử dụng dịch vụ. Bắt đầu từ tháng 8/2014, chỉ các thuê bao trả sau mới hoà mạng (dưới 180 ngày) mới phải làm các thủ tục này. Còn tất cả thuê bao trả trước đang hoạt động hai chiều (có tối thiểu 100.000 đ trong tài khoản) và thuê bao trả sau (hoạt động trên 180 ngày) đều có thể đăng ký sử dụng dịch vụ trực tuyến hoặc qua SMS là có thể bắt đầu sử dụng dịch vụ.

Viettel thì lại giữ chân khách hàng bằng cách cung cấp tiện ích gọi lại khi đang roaming (Roaming callback), giúp giảm chi phí cho thuê bao. Theo đó, thuê bao roaming khi muốn liên lạc với một thuê bao Viettel khác trong nước có thể gửi yêu cầu liên lạc kèm số thuê bao cần liên lạc lên hệ thống. Hệ thống sẽ thực hiện một cuộc gọi lại để kết nối hai thuê bao với nhau. Cước gọi lại chỉ 2.000 đ/phút + cước nhận cuộc gọi từ 2.420 đ - 12.100 đ/phút, tính ra vẫn rẻ hơn cước phải trả khi thuê bao roaming gọi trực tiếp về. Cách thức này cũng sẽ hỗ trợ các thuê bao roaming thực hiện được cuộc gọi về nhà nếu đang roaming với các mạng mà mới chỉ hỗ trợ chiều nhận cuộc gọi, chưa hỗ trợ chiều gọi về nước. Từ cuối năm 2010, Viettel đã cung cấp tính năng này ở phiên bản sơ khai. Khi đó, hệ thống sẽ gửi SMS tới thuê bao trong nước và để họ tự gọi lại. Nhà mạng này cho biết đang tiếp tục nghiên cứu để tính năng này có thể hỗ trợ để thuê bao roaming gọi về cho các thuê bao trong nước thuộc mạng khác.

MobiFone cũng có động thái chăm sóc đối tượng khách hàng này, song không được sốt sắng như hai đối thủ. Trong tháng 8, nhà mạng cũng bắt đầu cung cấp công

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201420

cụ quản lý cước chuyển vùng quốc tế cho thuê bao sử dụng dịch vụ roaming dữ liệu (sử dụng gói không giới hạn) để tránh phát sinh cước ngoài gói. Thuê bao sẽ chỉ sử dụng được dịch vụ ở những mạng trong danh sách gói cước hỗ trợ, còn ở các mạng khác thuê bao phải tự đăng ký chuyển. Ngay trong tháng 9, VinaPhone cũng có động thái tự với gói cước tương tự song ưu điểm hơn là nhà mạng này cho phép thuê bao đăng ký sử dụng miễn phí tính năng này qua SMS.

Trước sự phổ biến rầm rộ của các dịch vụ OTT (Viber, Zalo, KaKao Talk, Skype, WhatsApp… ) cho phép người dùng có thể gọi điện, nhắn tin miễn phí gọi thoại, chat video xuyên biên giới, miễn là truy nhập internet, mang đến cho người dùng nhiều lựa chọn giá rẻ hơn so với các dịch vụ roaming của nhà mạng. Cạnh tranh về giá thành là điều không thể nên các nhà mạng phải tập trung vào chất lượng và sự thuận tiện đem lại cho khách hàng. Dù chắc chắn bấy nhiêu là không đủ kéo lại những khách hàng đang sử dụng OTT song những động thái kể trên cũng đánh dấu sự nỗ lực cải thiện của các nhà mạng.

5. Viettel triển khai chương trình tri ân khách hàng hoành tráng nhất từ trước tới nay

Việc hai đối thủ cạnh tranh chính đang bị phân tâm vào việc tái cơ cấu tổ chức mở ra cơ hội “vàng” để Viettel tranh thủ đẩy mạnh hoạt động truyền thông quảng bá thương hiệu cho mình. Viettel đã và đang tận dụng cơ hội này và hướng tới xây dựng những hình ảnh khác trong lòng khách hàng như DN vì cộng đồng, vì khách hàng. Tuy nhiên, điều đó không dễ dàng nếu không xuất phát từ thực chất.

Ngẫu nhiên năm nay cũng là một dấu mốc quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của Viettel – 10 năm hoạt động. Không rõ yếu tố nào có tác động mạnh hơn song chương trình tri ân khách hàng năm nay của Viettel được tổ chức hoành tráng nhất từ trước tới nay.

Chương trình dự kiến có thời lượng khoảng 100 phút, có ứng dụng công nghệ 3D Mapping (công nghệ trình chiếu tạo thành các hình khối 3D có hình dạng, kích thước như thật) kết hợp trình diễn nghệ thuật với khách mời là các ca sĩ danh tiếng, được tổ chức tại Dinh Thống Nhất, tp.HCM. Trong chương trình, Viettel sẽ tặng nhiều giải thưởng khác với tổng trị giá hơn 3,5 tỷ đồng cho những khách hàng đã có ý kiến đóng góp giúp làm mới, cải thiện chất lượng dịch vụ của Viettel. Nhà mạng này cũng tuyên bố kể từ năm nay, ngày 15/10 hàng năm sẽ được Viettel lấy làm “Ngày hội Lắng nghe” để tri ân khách hàng.

Việc tường thuật trực tiếp trên sóng truyền hình quốc gia một chương trình tri ân khách hàng của một DN là điều khá hiếm thấy. Thế nhưng năm nay chương trình tri ân khách hàng này của Viettel sẽ được phát sóng trực tiếp trên một trong những kênh truyền hình quảng bá phổ biến nhất hiện nay - VTV1. Ngoài nội dung chương trình hoành tráng nêu trên, điều này càng cho thấy mức độ đầu tư để quảng bá hình ảnh của Viettel năm nay lớn ra sao. Và chắc chắn, hiệu ứng lan toả của nó sẽ tương xứng với những gì mà họ bỏ ra.

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 21

Tiếp tục đề xuất giảm cước di động – Viettel không được chấp nhận

Sau khi kiến nghị giảm cước gọi liên mạng ngang bằng với cước gọi nội mạng vào cuối quý 2 không được phê duyệt, vừa qua Viettel lại tiếp tục đề xuất phương án giảm cước này lên Bộ TT&TT một lần nữa. Như đã phân tích trong ấn phẩm kỳ trước, việc đề xuất giảm cước của Viettel dù có được phê duyệt hay không thì DN này cũng có ưu thế hơn so với hai đối thủ còn lại:

- Nếu được phê duyệt: với số lượng thuê bao gấp đôi so với hai đối thủ còn lại Viettel lỗ 1 thì VinaPhone và MobiFone lỗ 2. Theo số liệu Viettel công bố, họ dự kiến sẽ mất khoảng 80 tỉ doanh thu mỗi tháng vì giảm cước gọi liên mạng, tương VinaPhone và MobiFone sẽ lỗ trên dưới 160 tỉ một tháng.

- Nếu không được phê duyệt: Viettel sẽ lại được tiếng là vì quyền lợi người tiêu dùng, doanh nghiệp làm ăn hiệu quả và lần này chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn lần trước. Trong khi điều ngược lại sẽ đến với VinaPhone và MobiFone.

Thêm vào đó, trong khi còn đang bộn bề với việc tái cơ cấu, việc rà soát lại giá thành sản xuất dịch vụ sau khi việc chia tách còn mới ở giai đoạn đầu, cũng như báo cáo, đề xuất về vấn đề này với Bộ TT&TT về mặt nào đó cũng sẽ tạo thêm khó khăn cho MobiFone và VinaPhone.

DN vì cộng đồng – Một “chiêu” không thực lòng

Vài năm trở lại đây, Viettel bắt đầu tham gia một số chương trình hoạt động vì cộng đồng như: Chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh cho người dân ở các vùng khó khăn, hỗ trợ kinh phí cho chương trình Trái tim cho em… và đã bước đầu xây dựng được hình

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201422

ảnh một DN có trách nhiệm với cộng đồng.

Mấy ngày nay, báo chí cả nước đồng loạt phản ánh việc Viettel “kinh doanh núp bóng từ thiện” thông qua việc triển khai chương trình “Bò giống giúp người nghèo biên giới”. Những con số phân tích cho thấy, Viettel thực chất là làm ăn chứ không phải làm từ thiện như những lời quảng cáo bóng bẩy khi khởi động chương trình này. Đây là một “chiêu” không thực lòng vì cộng đồng.

Chương trình “Bò giống giúp người nghèo biên giới” sẽ tặng bò cho các hộ nghèo thuộc 11 tỉnh phía Bắc (Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An và Yên Bái) để giúp người dân ở đây có phương tiện sản xuất nông nghiệp, cải thiện đời sống.

Số lượng bò sẽ được quy đổi dựa trên việc các tỉnh thành tự nguyện mua và sử dụng các dịch vụ thông tin của Viettel để tạo nguồn kinh phí. Khách hàng có thể sử dụng dịch vụ như: Di động trả sau, Dcom trả sau, Internet băng thông rộng, Gói FTTH cơ quan đơn vị hoặc dịch vụ truyền hình chất lượng cao Next TV. Tùy theo từng loại dịch vụ, khách hàng đóng những khoản tiền và bắt buộc phải dùng trong một khoảng thời gian nhất định. Cũng tùy theo từng loại dịch vụ, mà Viettel quy đổi ra số lượng bò. Ví dụ: 15 thuê bao di động trả sau sử dụng gói cước 150.000 đ/tháng cam kết dùng dịch vụ trong 36 tháng sẽ tương đương với 1 con bò; 15 thuê bao Dcom trả sau gói Dmax 150 quy đổi 1 con bò.

Tùy theo chỉ tiêu đặt ra về số lượng bò tặng, Viettel sẽ giao chỉ tiêu tương ứng phát triển thuê bao cho từng tỉnh.

- Doanh thu tối thiểu Viettel thu được trong vòng 36 tháng (thời hạn bắt buộc đăng ký) nếu đăng ký sử dụng dịch vụ di động:

15 x 150.000 đ/tháng x 36 tháng = 81.000.000 đ.

- Chi phí mua bò: 15.000.000 đ/con.

Như tính toán sơ bộ ở trên, số tiền Viettel thu về cao gấp 5,4 lần so với chi phí bỏ ra. Các dịch vụ khác cũng tương tự. Dù rằng số tiền này Viettel không thu được ngay song dù trong vòng 3 năm thì lợi nhuận thu được vẫn rất lớn. Dù mới chỉ triển khai ở Quảng Ninh nhưng cách thức triển khai (Ban chỉ đạo của tỉnh áp cứng chỉ tiêu phát triển thuê bao về các đơn vị sự nghiệp, các DN lớn trên địa bàn tỉnh) đã khiến nhiều người mất niềm tin vào nhà mạng.

Không thể “phủi” hết những gì mà Viettel đã làm vì cộng đồng ở những chương trình khác. Tuy nhiên, việc quá coi trọng mục tiêu kinh doanh trong chương trình lần này sẽ khiến người dùng hoài nghi hơn trong những chương trình lần sau Viettel tổ chức cũng như những cam kết, phát ngôn vì cộng đồng của nhà mạng này.

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 23

THỊ TRƯỜNG 3G

1. Một vài số liệu thống kê thị trườngSố lượng thuê bao 3G tiếp tục đà tăng trưởng ổn định từ đầu năm tới nay. Theo

số liệu thống kê của Cục Viễn thông, tính tới hêt tháng 9, Việt Nam đã có 26,5 triệu thuê bao 3G, trong đó 88% (tương ứng với 23,3 triệu thuê bao) là người dùng 3G trên di động (biểu đồ 2.3). Như vậy, sau 9 tháng thị trường đã có thêm 6,8 triệu thuê bao 3G (trong đó thuê bao 3G trên di động tăng 6,8 triệu, thuê bao 3G sử dụng datacard lại quay trở về mốc đạt được cuối năm ngoái).

Biểu đồ 2.3: Tăng trưởng thuê bao 3G 9 tháng đầu năm 2014 (Nguồn MIC)

Kết quả khảo sát của một vài hãng về thị trường Việt Nam gần đây càng thêm phần khẳng định số lượng thuê bao 3G trên di động cũng như mức độ sử dụng internet trên di động của các thuê bao sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới nhờ tỉ lệ người dùng smartphone tại Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng. Khảo sát về hành vi trực tuyến của người dùng Việt Nam 2014 của Google cho biết tỷ lệ sử dụng smartphone tại Việt Nam hiện đạt khoảng 36%, tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm 2013. Đặc biệt tỷ lệ này ở giới trẻ (từ 16 – 24 tuổi) hiện là 58%. 76% người dùng smartphone cho biết họ truy nhập internet trên thiết bị của mình mỗi ngày. Trước đó, đầu tháng 7 công ty nghiên cứu thị trường GfK cũng cho biết tỉ lệ điện thoại phổ thông được tiêu thụ tại Việt Nam đang giảm nhanh chóng. Trong 5 tháng đầu năm 2014, số lượng điện thoại phổ thông được tiêu thụ chỉ còn chiếm chưa tới 13% tổng số điện thoại được bán ra trên thị trường.

Chính Bộ TT&TT cũng cho biết, dữ liệu hiện đã trở thành một dịch vụ cơ bản trên di động, tương tự như thoại và SMS. Chính vì vậy, cho đến thời điểm này, tất cả các nhà mạng đều mở dịch vụ dữ liệu ngay khi sim được kích hoạt cho người dùng sử dụng và thuê bao có thể sử dụng dịch vụ ngay sau khi sim kích hoạt chứ không phải đăng ký như

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201424

trước đây. Điều này cũng giúp người dùng dễ dàng tiếp cận dịch vụ hơn, giúp số lượng thuê bao 3G gia tăng.

Sau khi giảm dần đều và chạm đáy trong tháng 6, có lẽ việc nhanh chóng triển khai các chương trình tăng tốc 6 tháng cuối năm của tất cả các mạng đã giúp số lượng thuê bao 3G sử dụng datacard bắt đầu tăng trở lại và đã đạt được con số thuê bao cuối năm ngoái. Tuy nhiên về lâu dài, dịch vụ sẽ khó có sự bứt phá bởi sự phổ biến và tiện dụng của smartphone cũng như các hình thức phủ sóng wifi đang ngày càng được ưa chuộng hơn.

Cùng với việc dành ưu thế trong phát triển thuê bao học sinh sinh viên (có các ưu đãi về đăng ký dịch vụ 3G), xây dựng và hoàn thiện hệ thống kênh bán hàng cấp xã trên toàn quốc, thị phần thuê bao 3G của Viettel tiếp tục tăng lên so với quý trước. Tính đến cuối tháng 9, Viettel chiếm tới 53,3% tổng số thuê bao 3G trên cả nước (Biểu đồ 2.4).

Biểu đồ 2.4 (Nguồn MIC)

Với những nỗ lực quyết liệt hơn trong tháng 9, thị phần 3G của VinaPhone đã quay đầu tăng trở lại sau khi giảm liên tục kể từ tháng 5.

2. Nhà mạng đồng loạt công bố nâng tốc độ dịch vụ lên gấp 6 lầnTrước hàng loạt những kiến nghị của các nhà cung cấp thiết bị về việc Việt Nam

cần bắt tay vào chuẩn bị cho 4G để có thể đáp ứng được nhu cầu người dùng đang ngày càng gia tăng, các nhà mạng đã trả lời bằng việc bắt tay vào thực hiện nâng cấp hệ thống lên 3,5G, cho phép cung cấp các dịch vụ với tốc độ cao gấp 6 lần so với tốc độ trung bình mạng 3G đang hỗ trợ - 42 Mbps. Tốc độ này tương đương với chất lượng dịch vụ của một số gói cước internet cáp quang.

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 25

VinaPhone là nhà mạng đầu tiên công bố đã thử nghiệm triển khai thành công công nghệ DC-HSDPA (3,5G), cho phép tốc độ download dữ liệu có thể lên tới 42 Mbps. Hiện VinaPhone đã thử nghiệm thành công việc tăng tốc độ truy cập 3G tại một số trạm thu phát sóng tại 3 thành phố lớn Hà Nội, Đà Nẵng và Hồ Chí Minh và mục tiêu tới đầu năm 2015 sẽ triển khai rộng khắp trên toàn quốc cho toàn bộ gần 13.000 trạm 3G của nhà mạng này. VinaPhone còn cho biết đang cùng làm việc với các nhà cung cấp thiết bị để thử nghiệm nâng tốc độ dịch vụ lên tới 84 Mbps để có thể thoả mãn tối đa nhu cầu của người dùng.

Chỉ vài ngày sau đó, Viettel cũng cho biết mình cũng đã thử nghiệm thành công việc nâng cấp tốc độ dịch vụ 3G lên 42 Mbps dù không mô tả chi tiết về công nghệ sử dụng. Nhà mạng này cho biết hiện đang thực hiện khai báo cho 13 tỉnh/thành phố khu vực miền Tây Nam Bộ (tại các khu vực trung tâm) và theo lộ trình, nhà mạng này sẽ nâng cấp xong toàn bộ các tỉnh còn lại vào đầu năm 2015. Đồng thời với công bố này, Viettel đã cung cấp thử nghiệm dịch vụ với tốc độ nêu trên tại một cửa hàng tại Cần Thơ, cho phép người dùng trải nghiệm thử chất lượng dịch vụ khi tốc độ kết nối được nâng lên nhiều lần so với trước đây.

MobiFone là nhà mạng cuối cùng công bố thông tin này và cho biết đã hoàn thành dự án nâng cấp 1.000 trạm phát sóng 3G lên tốc độ 42 Mbps ở khu vực Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai. Dự kiến đến hết tháng 09/2014, MobiFone cũng sẽ đưa vào khai thác thêm gần 1.000 trạm phát sóng nữa tại các khu vực Đà Nẵng, Cần Thơ,… nâng tổng số trạm phát sóng 3G tốc độ 42Mbps của MobiFone lên gần 2.000 trạm tại nhiều khu vực trên cả nước. Ngoài ra, nhà mạng này còn công bố thử nghiệm thành công việc triển khai mạng 3G trên băng tần 900MHz mà trước đó Bộ TT&TT đã cấp phép cho một số nhà mạng thực hiện. Nếu thực hiện triển khai mạng 3G trên băng tần này, tốc độ download/upload dữ liệu sẽ tăng khoảng 10%, dung lượng hệ thống tăng 25%, tỉ lệ rớt cuộc gọi giảm, chất lượng phủ sóng trong các toà nhà tăng… MobiFone dự định sẽ triển khai mạng ở băng tần 900 MHz vào cuối năm 2015.

Càng những nhà mạng công bố sau, quy mô trạm phát sóng được thử nghiệm hoạt động với tốc độ này càng lớn, thời gian dự kiến nâng cấp để chính thức cung cấp dịch vụ tốc độ cao tới khách hàng càng gần hơn. Dù chưa biết các nhà mạng có thực hiện được theo đúng tiến độ đặt ra hay không, song nó cũng cho thấy rằng thị trường 3G Việt Nam đang đi theo đúng lộ trình phát triển. Mặc dù 4G đang được rất nhiều nhà mạng trên thế giới, trong đó không ít nhà mạng khu vực châu Á bắt tay vào triển khai. Số lượng thuê bao 3G cũng đang tăng trưởng khả quan nhưng với mức tăng trưởng ấy, 3,5G là phù hợp trong một vài năm nữa.

3. Tăng cường các gói mua thêm giá rẻ, ưu đãi cho người sử dụng dài hạnBên cạnh các hình thức thu hút thuê bao mới, hàng loạt cách thức đã được sử

dụng để kích cầu thuê bao di động nói chung đang được áp dụng cho thuê bao 3G. Trong 3 tháng vừa qua, hai hình thức điển hình được các nhà mạng áp dụng là ra mắt các gói

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201426

cước mua thêm dung lượng dữ liệu giá rẻ và ưu đãi cho thuê bao đăng ký sử dụng dịch vụ dài hạn.

Thêm các gói giá rẻ cho các nhu cầu khác nhau

Trước đây, nhà mạng cũng đã có một vài gói cước dạng này, song mới chỉ chung chung, hoặc cho một vài đối tượng khách hàng nhất định. Tuy nhiên, với những đối tượng khác nhau, nhu cầu mua thêm cũng khác nhau nên nhà mạng đang từng bước phân khúc những gói cước mua thêm dung lượng giá rẻ ấy dành cho những nhóm khách hàng nhỏ hơn.

Ví dụ, trước đó VinaPhone đã ra mắt gói cước ngày giá rẻ D1 (1Gb dữ liệu, giá 5.000 đ/lần đăng ký) dành cho các thuê bao có nhu cầu sử dụng dịch vụ ở tốc độ cao đột xuất, ngắn hạn. Vừa qua, VinaPhone tiếp tục cho ra mắt thêm 2 gói cước X.19 và X.29 trị giá 19.000 đ và 29.000 tương ứng với 350 MB và 550 MB dữ liệu vào tài khoản. Gói cước này lại hướng tới các thuê bao đã đăng ký gói thuê bao mobile internet không giới hạn MAX, song đã sử dụng hết 600MB dữ liệu ở tốc độ cao trong khi vẫn còn nhu cầu sử dụng dịch vụ ở tốc độ cao trong các ngày còn lại của chu kỳ cước, nhu cầu này lại không tập trung vào một ngày để mua gói D1. Với đặc điểm là thời hạn của hai gói này bằng đúng số ngày còn lại trong chu kỳ của gói MAX thuê bao đã đăng ký, gói cước phù hợp với những đối tượng kể trên.

Viettel thì lại bổ sung gói cước mua thêm dành cho các thuê bao đăng ký gói mobile internet giới hạn. Như vậy, hiện nhà mạng này đã có gói cước mua thêm giá rẻ dành cho tất cả các thuê bao 3G của mình gồm có: Thuê bao Dcom, thuê bao mobile internet có giới hạn và không giới hạn.

Gói cước mua thêm dành cho thuê bao 3G sử dụng gói cước không giới hạn

Nhà mạng Giá tiền – dung lượng Thời hạn

VinaPhoneD1: 5.000 đ/ngày - 1GB (thời hạn 1 ngày)X19: 19.000 đ – 350 MBX29: 29.000 đ – 550 MB Thời hạn còn lại của gói cước

không giới hạn đã đăng kýViettel

10.000 đ – 100 MB20.000 đ – 200 MB30.000 đ – 500 MB

Gói cước MT1 mới được bổ sung dành cho thuê bao đăng ký gói mobile internet giới hạn có giá 8.000 đ/ngày tương ứng với 150 MB dữ liệu cộng thêm vào tài khoản. Đánh giá sơ bộ thì gói cước này không rẻ lắm so với gói cước tương tự khác của các nhà mạng khác và cũng chỉ hướng tới một bộ phận thuê bao rất nhỏ bởi đa số thuê bao 3G hiện nay đăng ký các gói không giới hạn lưu lượng.

MobiFone thì lại chọn cách đưa ra gói cước sử dụng dịch vụ 3G không giới hạn vào giờ rỗi cho thuê bao (từ 0h – 7h sáng mỗi ngày). Gói cước chỉ 2.000 đ/ngày, không giới hạn dung lượng sử dụng dịch vụ của thuê bao. Gói cước này dành cho cả thuê bao

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 27

sử dụng điện thoại lẫn dùng USB 3G, hướng tới những người dùng có nhu cầu cao vào ban đêm. Như vậy, hiện nay đã có 2 nhà mạng cung cấp gói cước 3G ban đêm. Gói N10 của Vietnamobile có giá 10.000 đ/7 ngày sử dụng, cũng có đặc tính tương tự song chỉ dành cho thuê bao di động.

Dù bổ sung theo cách nào thì cũng có thể thấy các nhà mạng đang rất nỗ lực đa dạng hoá gói cước của mình để hướng tới đáp ứng tất cả các nhu cầu của người dùng 3G - từ các gói cước cơ bản đến các gói cước mua thêm.

Ưu đãi cho thuê bao sử dụng dịch vụ dài hạn

Hiện nay, một số nhà mạng đã áp dụng hình thức giảm cước cho các thuê bao di động trả sau đóng cước dịch vụ trước (ví dụ VinaPhone giảm tới 40% cước gói đăng ký của thuê bao trả sau nếu đóng cước trước cho cả thời gian cam kết dịch vụ, chưa tính cước thuê bao 49.000 đ/tháng). MobiFone đã vận dùng hình thức này để kích cầu thuê bao của mình sử dụng dịch vụ mobile internet dài hạn. Theo định hướng phát triển dịch vụ đặt ra trước đó, hình thức ưu đãi được MobiFone áp dụng là tăng dung lượng dữ liệu được sử dụng với cùng một mức tiền bỏ ra thay vì giảm giá cước. Thời gian đăng ký sử dụng và đóng cước trước càng dài thì thuê bao càng được sử dụng nhiều lưu lượng tốc độ cao hàng tháng hơn.

Ví dụ, nếu thuê bao đăng ký và đóng cước trước gói MIU của nhà mạng này 3 tháng, mỗi tháng thuê bao sẽ được cộng thêm 180 MB dữ liệu ở tốc độ cao. Như vậy, dung lượng của gói MIU hàng tháng với đối tượng khách hàng này sẽ là 780 MB thay vì 600 MB áp dụng với thuê bao thông thường, trả cước hàng tháng. Nếu đóng cước trước 6 tháng, thuê bao sẽ được sử dụng 960 MB/tháng, đóng trước 12 tháng, thuê bao sẽ được sử dụng 1.200 MB/tháng (cao gấp đôi so với dung lượng quy định của gói cước). Như vậy, với việc đóng cước sử dụng dịch vụ trước trong các khoảng thời gian dài, thuê bao sẽ được tăng thêm từ 30% - 100% dung lượng dữ liệu tốc độ cao sử dụng hàng tháng.

Chính sách ưu đãi này không chỉ dành riêng cho thuê bao sử dụng dịch vụ mobile internet mà còn áp dụng đối với cả thuê bao Fast Connect. Không chỉ thúc đẩy thuê bao sử dụng dịch vụ lâu dài, đem lại nguồn thu ổn định, chính sách ưu đãi này của MobiFone cũng có thể là một phương thức cạnh tranh, thu hút những thuê bao có nhu cầu sử dụng dịch vụ lâu dài từ các mạng khác chuyển sang.

Trước đây, MobiFone chú trọng nhiều hơn tới công tác chăm sóc khách hàng có thu nhập cao, khiến dù lượng thuê bao của họ có thể không nhiều như hai mạng còn lại, song mức tiêu dùng lại khá lớn. Tuy nhiên, vài năm trở lại đây, MobiFone đã bắt đầu chú trọng nhiều hơn tới các đối tượng khách hàng thu nhập thấp và trung bình với hàng loạt chính sách tốt. Điều đó cũng được thể hiện rất rõ ở mảng 3G khi MobiFone luôn là nhà mạng có nhiều chính sách đãi, đưa ra nhiều gói cước linh hoạt, giá rẻ nhất trong số các mạng lớn.

Có thể các nhà mạng khác cũng đã áp dụng những chính sách tương tự cho thuê bao của mình từ lâu, nhưng không phổ biến công khai rộng rãi vì nhiều lý do, trong đó có

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201428

việc sợ đối thủ nhanh chóng học theo. Nhưng có lẽ cách thức này sẽ hữu hiệu hơn khi mà các nhà mạng đều đã có một lượng khách hàng tương đối lớn và mục tiêu tăng cường mức sử dụng và giữ chân thuê bao được đặt cao hơn. Còn với trường hợp của 3G, việc phát triển thuê bao mới vẫn đang là mục tiêu quan trọng nhất trước mắt thì càng quảng bá các chính sách ưu đãi bao nhiêu thiết nghĩ sẽ càng tốt bấy nhiêu. MobiFone đang làm rất tốt công việc này trên các diễn đàn về viễn thông bằng việc liên tục cập nhật các chương trình ưu đãi của mình.

4. Chất lượng 3G đang từng bước được quản chặtTheo số liệu thống kê do Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương) mới công bố,

dịch vụ viễn thông và truyền hình là nhóm dịch vụ có tỷ lệ khiếu nại, phàn nàn nhiều nhất, chiếm tới 72% tổng số 790 vụ khiếu nại nhận được trong 8 tháng đầu năm. Thêm vào đó, xu hướng thị trường di động trong nước chuyển dịch sang 3G đã quá rõ ràng nên chất lượng dịch vụ này bắt đầu được cơ quan quản lý “để mắt”.

Trước kia, Bộ TT&TT không quản lý được mảng này mà chỉ yêu cầu các nhà mạng thực hiện tốt công tác chuẩn bị để đảm bảo chất lượng dịch vụ trước những dịp lễ lớn, đặc biệt là chất lượng dịch vụ 3G tại những điểm tập trung đông người, nhu cầu chia sẻ hình ảnh, video lớn hoặc nhắc nhở nhà mạng đảm bảo chất lượng 3G trong các cuộc họp tổng kết, giao ban vì khách hàng phà nàn. Đến cuối tháng 8 vừa qua, Bộ TT&TT đã chính thức ban hành Quy chuẩn quốc gia về chất lượng dịch vụ Internet trên nền mạng di động IMT-2000 (mạng 3G) để làm cơ sở quản lý chất lượng dịch vụ này.

Theo đó, một số tiêu chuẩn chính được đưa ra là: Độ sẵn sàng của mạng vô tuyến phải đạt tối thiểu 95%, Tỷ lệ truy nhập thành công dịch vụ ≥ 90%, Tỷ lệ truyền tải dữ liệu bị rơi ≤ 10%, Tỷ lệ khiếu nại của khách hàng về chất lượng dịch vụ ≤ 0,25 khiếu nại/100 khách hàng/3 tháng, DNCCDV phải có văn bản hồi âm cho 100% khách hàng khiếu nại trong thời hạn 2 ngày làm việc kể từ thời điểm tiếp nhận khiếu nại. Thời gian cung cấp dịch vụ trợ giúp khách hàng bằng nhân công qua điện thoại là 24 giờ trong ngày, Tỷ lệ cuộc gọi tới dịch vụ trợ giúp khách hàng chiếm mạch thành công, gửi yêu cầu kết nối đến điện thoại viên và nhận được tín hiệu trả lời của điện thoại viên trong vòng 60 giây ≥ 80%...

Theo các tiêu chuẩn được đưa ra, hầu hết các tiêu chuẩn liên quan tới kỹ thuật nhà mạng sẽ đáp ứng được, nhất là khi các nhà mạng đang nâng cấp hệ thống lên 3,5G, cũng như mạng 3G sẽ được triển khai thêm ở băng tần 900 MHz. Tuy nhiên, để đạt được một số chỉ tiêu về chăm sóc khách hàng như có văn bản hồi âm cho khách hàng khiếu nại, tỉ lệ khách hàng khiếu nại về chất lượng dịch vụ, các nhà mạng sẽ phải nỗ lực hơn, thay đổi nhiều so với cách thức đang làm hiện nay.

Quy chuẩn này sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/3/2015 và sẽ là cơ sở để Cục Viễn thông thực hiện các đợt đo kiểm chất lượng dịch vụ internet di động. Với việc coi dịch vụ dữ liệu trở thành một dịch vụ cơ bản như thoại và sms, công bố chất lượng dịch vụ của các nhà mạng sẽ sớm bổ sung dịch vụ này.

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 29

THỊ TRƯỜNG INTERNET1. FTTH “lấn lướt” ADSL

Trước sự cạnh tranh mạnh mẽ của băng rộng di động 3G và dịch vụ FTTH, dịch vụ ADSL đang có dấu hiệu chững lại. Theo số liệu thống kê của Cục viễn thông, tính đến hết tháng 8/2014 thị trường có tổng số 4,6 triệu thuê bao xDSL tăng thêm 90.000 thuê bao so với đầu năm. Điều này đã được cảnh báo từ trước, dịch vụ tốc độ cao như FTTH có nhiều ưu thế sẽ chiếm lĩnh thị trường, ADSL tăng chậm là điều tất yếu. Bản thân các nhà mạng cũng không muốn đầu tư phát triển mở rộng dịch vụ, trong khi chi phí đầu tư lớn và dịch vụ cáp quang ngày càng được người dùng ưa chuộng.(Biểu đồ 2.5)

Trái ngược với ADSL, thị trường chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của dịch vụ FTTH. Tính đến hết tháng 8, thị trường có 555,4 triệu thuê bao cáp quang, tăng khoảng 255.000 thuê bao, chỉ trong 8 tháng số lượng thuê bao gần gấp đôi so với đầu năm 2014. Đặc biệt tăng mạnh vào tháng 7, 8 trung bình mỗi tháng tăng xấp xỉ 50.000 thuê bao. (Biểu đồ 2.6)

Biểu đồ 2.5 (Nguồn: Cục Viễn thông)

Biểu đồ 2.6 (Nguồn: Cục Viễn thông)

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201430

Về thị phần dịch vụ FTTH tiếp tục có sự bứt phá, việc tăng giảm thị phần có sự chênh lệch khá lớn giữa các nhà cung cấp dịch vụ. Nếu như dịch vụ ADSL của Viettel chiếm thị phần nhỏ thì với việc ráo riết tập trung mạnh vào cáp quang Viettel dẫn đầu thị trường chiếm 55,13% thị phần, tiếp đến VNPT với 34,6%, FPT khoảng 7%, còn lại thuộc về CMC và các nhà mạng nhỏ khác. Với chiến lược đánh nhanh, mạnh Viettel đã áp đảo thị trường trong lĩnh vực cáp quang. Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp cần có kế hoạch đối phó nếu không thị phần cáp quang sẽ do Viettel chiếm lĩnh ở mảng dịch vụ này.

Nếu như thời điểm trước giá cước là vấn đề để ADSL chiếm lợi thế do giá rẻ so với FTTH thì với mức cước hiện nay của cáp quang xấp xỉ 200.000 đồng đến trên 200.000 đồng/tháng, sự chênh lệch về giá không còn quá lớn, người dùng lại được trải nghiệm

Biểu đồ 2.7 (Nguồn: Cục Viễn thông)

Biểu đồ 2.8 (Nguồn: Cục Viễn thông)

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 31

dịch vụ tốc độ cao hơn nhiều so với ADSL. Công nghệ này phù hợp với dịch vụ băng thông lớn như truyền hình độ nét cao như (HDTV), các dịch vụ truyền hình tương tác (IPTV), xem phim theo yêu cầu (VoD)… và ADSL khó có thể đáp ứng được.

Vì thế, dịch vụ internet cáp quang đang trở thành lực chọn không chỉ của các khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức mà cả những hộ gia đình, cá nhân. Như vậy đã có sự thay đổi lớn về phân khúc khách hàng và đối tượng người dùng. Với những ưu thế riêng, cáp quang đang trở thành đối thủ đối với dịch vụ ADSL.

Dự báo FTTH sẽ tiếp tục tăng tốc trong những tháng cuối năm và sự “so găng” cạnh tranh nhau vẫn tiếp diễn trên thị trường giữa các nhà cung cấp dịch vụ. Trong khi đó ADSL sẽ phát triển cầm chừng hoặc duy trì thuê bao ở mức độ ổn định trước khi chuyển sang giai đoạn thoái trào.

2. Viettel đẩy mạnh dịch vụ FTTH gây “khó khăn” cho các ISP khác Với chiến lược triển khai rầm rộ, rộng khắp nhằm đẩy mạnh tăng tốc dịch vụ cáp

quang cũng như khẳng định vị thế cạnh tranh của mình trên thị trường so với các ISP. Viettel đã thực hiện hàng loạt các hoạt động kinh doanh ở các tỉnh/thành bằng cách đẩy mạnh kênh bán hàng, tiếp thị rộng khắp, bán hàng đến tận nhà người dân, với đội ngũ cộng tác viên lớn phân bổ khắp các thôn xóm, thị xã… Đồng thời, Viettel hạn chế lắp đặt ADSL, tập trung phát triển và hướng khách hàng sang sử dụng cáp quang nên thị phần của nhà mạng này tăng mạnh so với các nhà cung cấp khác. Trong quý 3 thị phần của Viettel tăng khoảng 9% so với cuối năm ngoái, trong khi các doanh nghiệp khác giảm như VNPT giảm 2%, FPT giảm tới 5% thị phần. Với chính sách cung cấp dịch vụ cáp quang giá rẻ, Viettel đã thu hút lượng thuê bao ADSL đáng kể của VNPT chuyển sang dùng cáp quang.

Trước tình hình trên, VNPT và FPT cũng có những động thái giảm giá dịch vụ để cạnh tranh với Viettel. Tại nhiều tỉnh/thành, VNPT cung cấp các gói cước ưu đãi cho khách hàng đăng ký mới dịch vụ FTTH hay chuyển đổi từ ADSL sang FTTH. Sự sụt giảm mạnh thuê bao khiến FPT phải có những biện pháp đối phó với Viettel. Mới đây, FPT cũng đã chuyển đổi hệ thống từ ADSL sang FTTH, triển khai trước tiên tại Hà Nội. Để thay đổi mạng cho khách hàng, FPT kích hoạt hai gói cáp quang cho khách hàng lựa chọn với giá cước trọn gói 352.000 đồng/tháng (tốc độ 15Mbps) và 451.000 đồng/tháng (tốc độ 20Mbps). Trong số các ISP có lẽ FPT bị ảnh hưởng nhiều nhất từ chiến lược cáp quang giá rẻ của Viettel, cụ thể thị phần của FPT sụt giảm khá mạnh, so với cuối năm ngoái thị phần của nhà mạng này chiếm khoảng 12% nhưng đến quý 3 chỉ còn xấp xỉ 7% thị phần.

Có lẽ trong số các ISP Viettel là nhà mạng luôn gây sự chú ý đặc biệt với khách hàng bằng các chương trình quảng cáo rầm rộ, đẩy mạnh pr trên các phương tiện truyền thông nhằm tạo ấn tượng mạnh với người dùng và đôi khi áp dụng cả những chiêu trò “độc nhất vô nhị” bằng biện pháp cạnh tranh không lành mạnh.

Điển hình khi mới đây Cục Viễn thông đã yêu cầu Viettel dừng cung cấp dịch vụ

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201432

FTTH Edu cho ngành giáo dục nhưng đã lách luật một cách khéo léo, tài tình. Cụ thể, ngày 25/8/2014, Cục Viễn thông (Bộ Thông tin và Truyền thông) đã ra văn bản số 1116/CVT-CTKM yêu cầu Viettel dừng ngay chương trình triển khai chính sách FTTH Edu (kết nối Internet cáp quang) cho ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Hà Nam và tiến tới triển khai trên cả nước do vi phạm các quy định về quản lý giá cước và khuyến mại trong lĩnh vực viễn thông, theo đúng quy định chỉ được khuyến mại tối đa 50% giá trị của sản phẩm dịch vụ, nhưng thực tế Viettel lại triển khai gói cước FTTH Edu hoàn toàn miễn phí cho các cơ sở giáo dục. Phản ứng trước vụ việc bị Cục Viễn thông tuýt còi, Viettel đã phủ nhận và cho rằng theo thỏa thuận khung được ký kết giữa Viettel và Bộ GD&ĐT, Viettel sẽ phải cung cấp miễn phí truy cập đường truyền Internet cáp quang đến tất cả các cơ sở giáo dục trên cả nước, nhằm đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong toàn ngành giáo dục. Các nội dung ưu đãi này là chương trình tài trợ và đang được hạch toán theo chi phí tài trợ chứ không phải chương trình khuyến mại do đó Viettel cho rằng không vi phạm. Để hợp thức hóa hồ sơ về khoản tài trợ này, Viettel đã nhanh chóng ký kết biên bản xác nhận tài trợ cho giáo dục tại các trường học đã kéo đường dây FTTH Edu. Tuy nhiên, đến thời điểm này thông tin trên đang tạm lắng xuống và Cục Viễn thông vẫn chưa đưa ra kết luận gì về vụ việc trên. Không những thế, tại một số tỉnh thành Viettel vẫn tiếp tục đẩy mạnh FTTH Edu. Qua đây có thể thấy rằng những sở cứ Viettel đưa ra là đúng và đã được Cục Viễn thông tạm thời chấp nhận.

Từ chính sách cung cấp dịch vụ cáp quang giá rẻ cho thấy nếu Cục viễn thông để Viettel lấn sân quá sâu vào tất cả các dịch vụ giáo dục mà không chú trọng đến chất lượng dịch vụ, hay lôi kéo khách hàng đang sử dụng dịch vụ của ISP khác vô hình chung sẽ gây lãng phí nguồn tài chính khi các trường đang sử dụng dịch vụ của nhà mạng này

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 33

lại ngừng/hủy để chuyển sang dùng của Viettel. Đây có thể coi là biến tướng theo kiểu kinh doanh“độc quyền” mới khi áp dụng bằng những quan hệ thân quen từ những người có quyền quyết định cao nhất và áp dụng phí hoa hồng “lót tay”. Trong khi giáo dục là mảng dịch vụ tiềm năng mà để Viettel “một mình một chợ” kinh doanh theo kiểu chiếm hữu thì các nhà cung cấp khác sẽ khó có cơ hội chen chân. Điều này sẽ gây khó khăn lớn cho các VNPT tỉnh, thành khi cạnh tranh với Viettel.

Tuy rằng, việc ký thỏa thuận với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Viettel sẽ có lợi thế trong việc thuyết phục các sở GDĐT, các trường sử dụng dịch vụ, nhưng các trường có quyền lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ có chất lượng dịch vụ tốt nhất. Tuy nhiên chất lượng dịch vụ lại là chuyện khác khi Viettel triển khai một cách ồ ạt, nhanh chóng sẽ không đủ nhân sự và phải thuê ngoài về mặt kỹ thuật sẽ không đảm bảo chất lượng. Do vậy các VNPT tỉnh, thành phố cần tiếp tục tiếp thị đến từng trường học và đảm bảo chất lượng cho các trường.

3. Một số bất cập phủ sóng wifi tại một số tỉnh thànhTrước thực tế các điểm phát wifi miễn phí mở rộng tại nhiều tỉnh thành, nhìn một

cách tổng thể thì đó là nỗ lực của các tổ chức, xã hội và các tỉnh thành cung cấp dịch vụ wifi cho khách hàng tại các điểm du lịch và một phần tăng tính quảng bá cho ngành du lịch trong nước. Nhưng bên cạnh nỗi mừng cũng là lo ngại về chất lượng dịch vụ, theo phản ánh của khách hàng khi truy cập internet tại các địa điểm du lịch chất lượng chưa đảm bảo. Tình trạng chung tại các thành phố như Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng, Đà Lạt,... đó là wifi không kết nối được, không truy cập được vào trang web... Hiện Đà Nẵng là địa phương có chất lượng phủ sóng wifi công cộng tốt nhất và vừa kết thúc giai đoạn thử nghiệm, hướng đến cung cấp dịch vụ chất lượng cho người dân và khách du lịch thông qua việc thu phí vào năm 2016. Còn phần lớn các địa phương đều đang thử nghiệm với chất lượng dịch vụ kém.

Thực tế việc triển khai dịch vụ có thuận tiện, hiệu quả cho người dùng như đã quảng bá hay triển khai theo kiểu “đánh trống bỏ dùi” và đôi khi chuốc thêm bực mình cho du khách khi dịch vụ có cũng như không? Vấn đề bất cập khi triển khai dự án wifi công cộng đó là kinh phí duy trì để kết nối đường truyền, công tác bảo dưỡng, chăm sóc… rất tốn kém lên đến nhiều triệu đồng mỗi tháng không phải tỉnh thành nào cũng duy trì được lâu dài.

Như vậy, một vấn đề đặt ra là việc đang và sẽ tiếp tục triển khai hàng loạt dự án wifi công cộng tại các địa điểm trong thời gian tới có thực sự mang lại kết quả như kỳ vọng hay thực hiện rồi bỏ đấy sẽ gây lãng phí đầu tư tài chính là việc các ban ngành, tỉnh thành cần xem xét, tính toán đến sự hiệu quả và những lợi ích thiết thực mang lại.

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201434

THỊ TRƯỜNG TRUYỀN HÌNH TRẢ TIỀN

1.Tổng quan chung về thị trườngĐến thời điểm đã bước sang quý 3 nhưng Viettel và FPT vẫn chưa ra mắt dịch vụ

truyền hình trên thị trường. Việc cung cấp một dịch vụ mới là điều không dễ dàng đối với bất kỳ doanh nghiệp nào đặc biệt trong bối cảnh hiện nay có quá nhiều nhà khai thác truyền hình, thị trường lại cạnh tranh gay gắt. Có lẽ vì lý do chủ quan và khách quan mà hai doanh nghiệp này vẫn “lỡ hẹn” với khách hàng.

Tuy nhiên trước sự “lấn sân” sang lĩnh vực truyền hình của các doanh nghiệp viễn thông như hồi chuông cảnh báo cho các nhà cung cấp dịch vụ truyền hình tại Việt Nam bắt đầu nhìn nhận lại và có những điều chỉnh hướng đến cung cấp dịch vụ tốt hơn cho khách hàng. Từ khâu chăm sóc khách hàng, đến các chương trình khuyến mại, giá cước cạnh tranh hơn nhằm ưu đãi khách hàng cũng được triển khai rầm rộ hơn so với trước đây. Mặc dù vẫn còn những bất cập song nhìn một cách tổng quan thì thị trường truyền hình đã có những chuyển biến tích cực. Điều mà trước đây khách hàng luôn kêu ca về giá cước cao, chất lượng phập phù, công tác chăm sóc khách hàng dường như bị “bỏ ngỏ”, người dùng thiệt thòi khi bị cắt xén bớt kênh, chất lượng dịch vụ không đúng như cam kết của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó thị trường truyền hình vẫn cần một cuộc “cách mạng” để sắp xếp lại bởi hiện nay có quá nhiều nhà cung cấp dịch vụ riêng lẻ, và chưa tạo những thế chân vạc để có những doanh nghiệp lớn, chuyên nghiệp, cung cấp dịch vụ chất lượng cao cho khách hàng, việc vi phạm bản quyền truyền hình diễn ra phổ biến và chưa có chế tài cụ thể đối với lĩnh vực này. Với sự gia nhập của doanh nghiệp viễn thông sẽ tạo ra những cú hích trên thị trường, tạo áp lực cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải nhìn nhau khi tăng giá, đồng thời đảm bảo chất lượng kênh nội dung chứ không thể cắt kênh tùy tiện như trước.

Điểm qua thị trường truyền hình trả tiền Việt Nam cho thấy đang phát triển nhanh chóng với 6,5 triệu thuê bao trong tổng số hơn 90 triệu dân số thì có trên 20 triệu thuê bao tivi. Tuy nhiên tốc độ xâm nhập thị trường truyền hình tại Việt Nam mới đạt 25% dân số, trong khi ở các nước trong khu vực mức độ xâm nhập thị trường THTT vào khoảng 31,8%.

Thị trường đã và đang và đóng góp lớn cho nền kinh tế, nhưng đang trong giai đoạn quá độ để thích nghi với chính sách quản lý mới của nhà nước. Vì vậy, bên cạnh việc thúc đẩy thị trường bằng việc cấp phép cho những doanh nghiệp mới có năng lực về hạ tầng và nguồn vốn đầu tư. Bộ TT&TT sẽ tiếp tục rà soát, sắp xếp lại các doanh nghiệp đã tham gia thị trường truyền hình cáp ở giai đoạn trước theo hướng hình thành các doanh nghiệp đủ mạnh, có khả năng cung cấp dịch vụ đảm bảo chất lượng.

Dự báo tiềm năng của thị trường truyền hình trả tiền còn rất lớn, nhưng đây cũng

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 35

là thách thức với các cơ quan quản lý nhằm tạo ra các cơ chế mới để có bước phát triển nhanh và bền vững cho thị trường truyền hình trả tiền tại Việt Nam.

2. Bản quyền truyền hình chưa đến hồi “ngã ngũ”Vấn đề vi phạm bản quyền trở nên phổ biến tại Việt Nam hơn bao giờ hết, sự xâm

phạm bản quyền diễn ra trên mạng viễn thông như internet, các thiết bị di động... đã trở thành mối nguy lớn đối với sự tồn tại và phát triển của các đơn vị truyền hình hiện nay. Điều này gây bức xúc cho các nhà khai thác kinh doanh thực sự khi bỏ bao công sức nhưng bị kẻ khác hớt tay trên.

Thực tế cho thấy nhiều chương trình do phía truyền hình sản xuất, phải chi phí lớn để mua bản quyền phát sóng… đang bị khai thác một cách tự do, không phải để quảng bá mà chủ yếu là để thu lợi. Các hoạt động xâm phạm bản quyền bằng nhiều hình thức như cung cấp các gói dịch vụ, quảng cáo nhờ các chương trình của đài truyền hình… đã làm lợi cho một số đơn vị. Điều này không chỉ gây thiệt hại lớn cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh, nắm giữ bản quyền chương trình truyền hình, mà còn ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ bản quyền quốc tế.

Nạn vi phạm bản quyền trở nên phổ biến ở tất cả các lĩnh vực từ các tác phẩm âm nhạc, văn học, phim ảnh, game show… Hành vi vi phạm bản quyền đang diễn ra ngày một nhiều trong khi các hình thức xử lý vi phạm không đủ sức răn đe. Việc vi phạm vẫn cứ tái diễn, trong khi đó không có đơn vị nào đứng ra bảo vệ các đài truyền hình. Bên cạnh đó thì quan điểm, thói quen của người dùng: Không ai nghĩ mình xem các chương trình trên internet, hay các bộ phim phải có nghĩa vụ trả tiền nên đây là yếu tố khiến cho việc vi phạm bản quyền ngày càng phổ biến hơn.

Truyền hình trả tiền vẫn là mảnh đất tiềm năng cho các nhà khai thác song đang phải đối mặt với nhiều vấn đề như sở hữu trí tuệ, cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, chất lượng nội dung chương trình...

Ngăn chặn nạn xâm phạm bản quyền truyền hình hiện trở nên cấp bách cho các đài truyền hình trong thời đại công nghệ số hiện nay, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị truyền hình, sự mạnh tay của cơ quan quản lý bảo vệ bản quyền cho doanh nghiệp.

3. Ứng dụng OTT lậu ảnh hưởng tới thị trường truyền hìnhVới sự phát triển nhanh chóng và bùng nổ của truyền hình OTT cũng là khơi nguồn

để truyền hình “lậu” có đất sống đây được coi là sự báo động cho các nhà cung cấp nội dung truyền hình. Với sự phổ biến của các thiết bị thông minh (điện thoại, máy tính bảng) cộng với sự phát triển của hệ thống internet băng rộng, truyền hình OTT càng có cơ hội phát triển.

Số lượng dịch vụ truyền hình OTT đang ngày một tăng lên trên thị trường. Ngoài những dịch vụ OTT chính thống như MyTV Net, VTV Plus, FPT Play…, còn rất nhiều ứng

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201436

dụng OTT lậu, khiến các dịch vụ OTT chính thống lại càng khó khăn khi phần lớn chưa thu được phí từ khách hàng, lại phải đảm bảo bảo vệ bản quyền nội dung của mình. Trong khi đó, các nhà cung cấp ứng dụng truyền hình OTT đã phải bỏ ra nhiều chi phí, công sức, nguồn lực để triển khai OTT.

Với sự bành trướng ngày càng lớn của các dịch vụ OTT, nếu như cứ để phát triển tự do, không có sự kiểm soát thì các nhà đài sẽ bị mất nhiều khách hàng chuyển sang sử dụng dịch vụ OTT lậu mà không phải trả phí. Bộ TT&TT phải có biện pháp quản lý chặt chẽ đối với OTT, đồng thời các ngành, các cấp đều phải chung tay vào cuộc để quản lý lĩnh vực này.

4. Cần xây dựng giá sàn cho dịch vụ truyền hình trả tiềnThị trường truyền hình trả tiền hiện đang cạnh tranh khá gay gắt nhằm giành thị

phần và thu hút khách hàng đã xảy ra tình trạng một số doanh nghiệp hạ giá dịch vụ xuống thấp để nhằm triệt tiêu đối thủ. Điển hình là việc các đài truyền hình lao vào cuộc đua giảm giá cước dịch vụ, các chương trình khuyến mại rầm rộ… trong khi các tiêu chí về chất lượng lại chưa chú trọng và bị bỏ ngỏ. Nhiều hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh như cung cấp dịch vụ trên địa bàn không được phép, giảm cước dịch vụ tuỳ ý để hút khách…. Điều này không chỉ gây tác động không tốt tới các nhà khai thác mà còn ảnh hưởng chung tới thị trường truyền hình.

Thực tế vẫn còn nhiều bất cập trong hoạt động cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền như hiện tượng độc quyền nội dung dịch vụ đối với một số kênh chương trình có ảnh hưởng chung tới xã hội, bản quyền nội dung truyền hình, vi phạm bản quyền … đã phát sinh mà các văn bản cũ chưa giải quyết triệt để đáp ứng những yêu cầu mới của thị trường.

Vì vậy, việc xây dựng giá sàn cước phí truyền hình trả tiền để tránh tình trạng các doanh nghiệp hạ giá dịch vụ thấp hơn giá thành để phá giá thị trường. Đây là cơ sở để các nhà khai thác xây dựng những gói cước khác nhau, đảm bảo doanh nghiệp duy trì hoạt động kinh doanh, có lãi và gói cước cao có nội dung phong phú, độc đáo... đáp ứng nhu cầu của khách hàng cao cấp nhưng nếu giá sàn quá thấp nhà cung cấp dịch vụ sẽ không có lãi.

5. Giải pháp để tăng trưởng thuê bao cho thị trường truyền hình Với dịch vụ viễn thông, càng nhiều thuê bao, giá cước càng rẻ, còn với lĩnh vực

truyền hình trả tiền (THTT), chi phí cho sản xuất nội dung chương trình và phí bản quyền chỉ có tăng giá. Đây chính là bài toán mà các nhà cung cấp THTT tại Việt Nam phải giải quyết khi muốn tăng nội dung có chất lượng, muốn có những chương trình độc quyền.

Chủ đề này đã gây khá nhiều tranh cãi và cũng là nghịch lý của thị trường truyền hình tại Việt Nam khi nhà cung cấp bỏ chi phí ra muốn thu được lợi nhuận, người dùng lại muốn xem những chương trình có nội dung chất lượng trong khi giá cước khách hàng phải trả hàng tháng thấp chỉ 60.000 - 70.000 đồng/tháng. Điều này không công bằng cho

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG VIỆT NAM

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 37

việc sáng tạo nội dung và rất khó đạt mục tiêu tăng trưởng chất lượng nội dung truyền hình trả tiền.

Trong bối cảnh thị trường Việt Nam để nâng cao chất lượng dịch vụ này là khá khó khi chỉ số ARPU (doanh thu bình quân/thuê bao) tại Việt Nam rất thấp. Cụ thể, ARPU ở Việt Nam chỉ 4-5 USD/thuê bao/tháng so với các nước có điều kiện tương đương như Indonesia 11 USD/tháng, Campuchia, Myamar 10 USD/tháng, Singapore 32 USD/tháng, Malaysia 30 USD/tháng... Hoặc tại nhiều quốc gia ở Châu Phi chỉ số ARPU cũng vào khoảng 20 USD/tháng.

Về mặt tổng quan thì giá cước dịch vụ thấp sẽ có lợi cho khách hàng và có thể thu hút lượng thuê bao tăng trưởng nhanh. Song ở góc độ kinh tế, việc giảm giá, khuyến mại liên tục sẽ tạo hệ lụy không tốt khi các nhà cung cấp mải chạy theo cuộc đua về giá mà không chú trọng đến nội dung, bởi chi phí cho truyền hình sẽ tăng lên do liên quan chất xám bao gồm chi phí cho sáng tạo, mua bản quyền... trong khi giá thuê bao ngày càng giảm. Điều này khiến các nhà khai thác truyền hình không muốn đầu tư nhiều cho nội dung, dẫn đến sẽ có ít các nội dung đặc sắc, mới lạ cung cấp cho người dùng. Và khi các nhà cung cấp cạnh tranh nhau về giá là nguyên nhân chính làm ảnh hưởng tới ARPU.

Giải pháp để nâng cao chất lượng nội dung mà vẫn đảm bảo tăng trưởng thuê bao:

-Xây dựng nhiều gói cước với các mức giá khác nhau để vừa đáp ứng những đối tượng khách hàng có thu nhập thấp, và những khách hàng có khả năng chi trả cao có thể lựa chọn nhiều gói cước để xem.

- Thiết kế những gói cước ở nhiều mức độ khác nhau để đáp ứng nhu cầu của các đối tượng khách hàng. Vì vậy, thị trường truyền hình không nên có nhiều doanh nghiệp nhỏ, nếu không đủ mạnh để đạt một lượng thuê bao lớn đạt ngưỡng hòa vốn, dẫn đến bị lỗ gây lãng phí tài nguyên quốc gia.

- Xây dựng nền tảng để cung cấp dịch vụ truyền hình trên nhiều hạ tầng như: Mobile, internet, IPTV, vệ tinh, và OTT để tăng ARPU và giúp tăng trưởng thuê bao.

- Doanh nghiệp phải tối ưu hạ tầng cung cấp, nghĩa là các nhà cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền đưa ra các dịch vụ GTGT khác để khai thác trên nền tảng hạ tầng đã đầu tư và ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm đem lại nguồn thu khác từ các dịch vụ GTGT.

Vì vậy, để các nhà khai thác đảm bảo kinh phí có thể kinh doanh đầu tư cung cấp những nội dung hay và cải thiện doanh thu bình quân/thuê bao rất cần những chính sách, quy định để thúc đẩy thị trường truyền hình phát triển, đồng thời đảm bảo lợi ích đôi bên cho cả doanh nghiệp và quyền lợi của khách hàng.

Chuyên đề:

Phát triển các dịch vụ CNTT: Cần tập trung

nguồn lực

CHƯƠNG IIIChiến lược phát triển CNTT

thành dịch vụ mũi nhọn của Tập đoàn đã được xác định rõ với mục tiêu là CNTT sẽ phải chiếm 40% doanh thu của Tập đoàn. Khi viễn thông đã bão hòa thì CNTT có thể nói chính là cứu cánh trong thời gian tới. Thuận lợi là nhìn chung các doanh nghiệp khác tại Việt Nam đều chưa thật mạnh trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, để hiện thực hóa con số 40% trên thì Tập đoàn còn rất nhiều việc phải làm. Chuyên đề kỳ này của BCVT sẽ cung cấp cái nhìn toàn cảnh về thực lực trong lĩnh vực CNTT của Tập đoàn cũng như những dịch vụ mũi nhọn mà Tập đoàn đang hoàn thiện và phát triển.

CHUYÊN ĐỀ

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 39

I. THỰC TRẠNG SỨC MẠNH CNTT CỦA TẬP ĐOÀN

1. Nhân lực lớn nhưng không mạnhHiện nay tổng nhân sự về CNTT của Tập đoàn là khoảng 2.000 lao động, nằm rải rác

tại nhiều công ty phần mềm, trong đó chủ lực là tại VDC, VASC, VNPT-Tech, NEO, CT-IN, VKX..., và một phần khác nằm tại VNPT các Tỉnh/TP. Với lượng nhân lực như vậy, có thể thấy xét về mặt số học thì lớn hơn khá nhiều so với các doanh nghiệp khác, gấp hơn 2 lần Viettel và cũng không ít hơn mấy so với nhân lực của FPT làm ở mảng thị trường trong nước (FPT hiện có hơn 6.000 nhân lực làm phần mềm song chỉ có chưa tới phân nửa là làm cho các dịch vụ trong nước, phần còn lại là làm cho các thị trường nước ngoài).

Nhân lực có thể nói chính là “tài sản” không nhỏ mà Tập đoàn đang sở hữu. Tuy nhiên, nguồn nhân lực này đang phân bổ tản mác nên mặc dù số lượng đông song lại không tạo được sức mạnh đồng bộ cho Tập đoàn. Ở một khía cạnh khác, các công ty phần mềm và cả các Trung tâm tin học trước đây tại các VNPT tỉnh đã phát triển khá tự phát, khiến hiện trạng “trăm hoa đua nở” diễn ra trong nhiều năm. Nhiều phần mềm hay có thể triển khai rộng khắp trong toàn Tập đoàn song lại chỉ được dùng tại một đơn vị. Trong khi đó các đơn vị khác trong Tập đoàn có thể phải đầu tư nhiều công sức, tiền của để phát triển một phần mềm khác có tính năng tương tự. Điều này khiến nhân lực lĩnh vực CNTT của Tập đoàn tuy lớn mà lại không mạnh.

Đề án Tái cơ cấu của Tập đoàn thành lập Tổng công ty VNPT Media chính là để tập trung nguồn nhân lực CNTT trong toàn tập đoàn về một mối để thống nhất trong định hướng và hoạt động. Nếu tập trung và phát huy tốt nguồn lực này, sức mạnh trong lĩnh vực CNTT của Tập đoàn sẽ tăng lên đáng kể. Bởi vì nguồn nhân lực tại VNPT các tỉnh/TP có lợi thế là bám sát địa bàn, quan hệ địa phương tốt. Do đó nếu Tập đoàn có các phần mềm đủ tốt thì việc tiếp thị, tư vấn và triển khai rộng khắp toàn quốc là điều mà có lẽ không doanh nghiệp CNTT nào có thế mạnh như VNPT.

2. Sản phẩm nhiều nhưng không hấp dẫnTrong những năm qua, chúng ta cũng đã có kinh nghiệm và uy tín trong việc xây

dựng và triển khai hệ thống CNTT để triển khai hệ thống điều hành điện tử cho một số cơ quan nhà nước như Văn phòng Quốc hội với dịch vụ ePAS… Thế nhưng dịch vụ CNTT lại không phải là thế mạnh của VNPT.

Nguyên nhân là do các sản phẩm về CNTT của Tập đoàn chưa hấp dẫn được khách hàng, dù trong số đó có không ít sản phẩm và giải pháp đã giành được các giải thưởng CNTT lớn. Cũng đã có một số VNPT tỉnh/thành ký hợp tác với các sở Giáo dục, Giao thông hay Y tế để rộng đường chiếm lĩnh thị trường này tại các địa phương nhưng các sản phẩm phần mềm vẫn có tính nhỏ lẻ. Bản thân các đơn vị cũng chưa tận dụng hết quan hệ, sử dụng hết nguồn lực hiện có để có doanh thu từ dịch vụ CNTT. Nói cách khác, việc kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ CNTT chưa được chú trọng, chưa bài bản và chưa chuyên nghiệp.

CHUYÊN ĐỀ

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201440

Chính vì vậy trong suốt nhiều năm qua, lĩnh vực CNTT của Tập đoàn mặc dù luôn được đánh giá là lớn nhưng lại không mạnh và mang lại doanh thu không đáng kể trong tổng doanh thu của toàn Tập đoàn. Cũng trong nhiều năm, chưa có nhiều nếu không muốn nói là chưa có một sản phẩm nào trong lĩnh vực CNTT đủ mạnh để tạo danh tiếng cho Tập đoàn trong lĩnh vực này.

Số lượng sản phẩm CNTT của Tập đoàn không phải là ít, song phần lớn trong số đó lại là các phần mềm nhỏ lẻ do các công ty con phát triển và cung ứng cho một vài doanh nghiệp hoặc do đội ngũ CNTT tại các VNPT tỉnh phát triển để cung cấp trên địa bàn tỉnh mình. Nhiều phần mềm có đủ ý tưởng để phát triển lên cao hơn và triển khai toàn quốc song đến nay đa số vẫn chỉ ở phạm vi nhỏ. Một số ít được Tập đoàn hỗ trợ và đẩy lên quy mô lớn như Vnedu, VNPT CA, hệ thống cổng thông tin quản lý điều hành…, song với số lượng sản phẩm ít ỏi đó thì vẫn chưa đủ tạo ấn tượng trong xã hội.

II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CNTT

1. Chiến lược “đánh” từ địa phương Bên cạnh việc sắp xếp lại đội ngũ nhân lực về CNTT theo hướng tập trung về một

mối là Tổng công ty VNPT Media theo đề án Tái cơ cấu đã được phê duyệt thì hơn một năm trở lại đây, để rộng đường cho các dịch vụ CNTT tiến vào các cơ quan, doanh nghiệp, Tập đoàn đã đẩy mạnh chiến lược “đánh” từ địa phương.

Từ cuối năm 2013 đến nay, Tập đoàn đã triển khai ký kết hợp tác chiến lược về VT-CNTT với chính quyền các địa phương và cơ quan quản lý nhà nước. Nội dung chính của các chương trình hợp tác chiến lược này là Tập đoàn sẽ hỗ trợ chính quyền các địa phương trong việc xây dựng hạ tầng VT-CNTT, đẩy mạnh ứng dụng CNTT, xây dựng giải pháp tổng thể và đào tạo nguồn nhân lực VT-CNTT.

Tại cuộc giao ban tháng 8/2014 với các VNPT tỉnh/thành, Phó Tổng Giám đốc Phạm Đức Long đã nhấn mạnh, nếu cách đi của đối thủ là tiếp cận khách hàng bằng cách “đánh” từ Trung ương đánh xuống thì đối sách của Tập đoàn là đánh vào địa phương bằng chính sách dân vận. Việc đạt được các thỏa thuận hợp tác chiến lược này không chỉ là những bước đi đầu tiên cụ thể hóa chiến lược “tấn công” thị trường CNTT của Tập đoàn mà còn để đạt mục tiêu, phát huy và giữ vững lĩnh vực kinh doanh truyền thống của VNPT, tạo tiền đề phát triển lĩnh vực kinh doanh mới. Đó cũng là giải pháp hỗ trợ để các VNPT tỉnh/thành tiếp tục củng cố, phát huy được mối quan hệ truyền thông đã có với chính quyền các địa phương.

Trong kế hoạch hợp tác này, các VNPT tỉnh/thành sẽ là đại diện của Tập đoàn, giữ và chăm sóc khách hàng là Chính quyền địa phương thông qua việc tiếp cận từng dự án cụ thể để giới thiệu sản phẩm dịch vụ, cung cấp dịch vụ và chăm sóc sau bán hàng. Phó Tổng giám đốc Phạm Đức Long cho biết, cùng với nguồn lực về CNTT hiện có, Tập đoàn có kế hoạch sẽ đào tạo thêm cả các kỹ sư điện tử viễn thông kỹ năng làm phần mềm để phục vụ cho việc làm chính quyền điện tử tại các địa phương.

CHUYÊN ĐỀ

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 41

Đây là một chiến lược đúng đắn và được sự vào cuộc với tinh thần cao của VNPT các tỉnh. Tất nhiên khi hiện thực hóa các thỏa thuận hợp tác chắc chắn sẽ đụng phải chiến lược “đánh từ trên xuống” của các doanh nghiệp khác. Thành hay bại sẽ phụ thuộc nhiều vào tốc độ triển khai và sự hỗ trợ từ cấp Tập đoàn để đảm bảo không chỉ mạnh ở địa phương mà còn được sự ủng hộ hoặc chí ít là không làm khó từ cấp Trung ương.

2. Triển khai theo mô hình tập trungNhư đã nói ở trên, một điểm yếu trong suốt nhiều năm qua của Tập đoàn khi triển

khai dịch vụ CNTT là sự manh mún, thiếu đồng bộ trong quá trình triển khai. Triển khai rác rác không tạo được hiệu ứng đủ mạnh trong xã hội đồng thời vô tình lại đánh động cho các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.

Để giải quyết vấn đề trên, để tạo sự đồng bộ, xuyên suốt trong chỉ đạo và triển khai kinh doanh dịch vụ CNTT tại các tỉnh/thành, mà trước mắt là triển khai Chính phủ điện tử tại các tỉnh/thành, Tập đoàn đã chỉ đạo trực tiếp thông qua văn bản điều hành và cung cấp các giải pháp CNTT tổng thể. Cụ thể hơn cho chiến lược này, mới đây để các VNPT tỉnh/thành tạo thuận lợi trong công tác tiếp cận và giới thiệu sản phẩm cho khách hàng là các UBND tỉnh/thành, Tập đoàn vừa ban hành bộ Mẫu ấn phẩm giới thiệu của 5 sản phẩm sản phẩm CNTT gồm: Hệ thống quản lý văn bản và điều hành, Hệ thống cổng thông tin điện tử, Hệ thống quản lý giáo dục (vnEdu), Hệ thống quản lý y tế - bệnh viện và Hệ thống một cửa điện tử. Đây là cơ sở, là khung để triển khai các dịch vụ trên ở phạm vi toàn tập đoàn trên toàn quốc.

Tập đoàn cũng vừa giao VNPT Tiền Giang làm đầu mối, phối hợp với các VNPT tỉnh/thành khác, mà trước mắt là VNPT Long An, Bình Phước, Tây Ninh, Bình Định, Phú Yên để triển khai cung cấp phần mềm văn phòng điện tử cho UBND Sở, Ban, Ngành tại các tỉnh/thành phố. Với vai trò đầu mối, VNPT Tiền Giang có các nhiệm vụ chính như hoàn thiện tài liệu mô tả sản phẩm, sửa đổi phần mềm để nhắn tin nhắc việc vào tất cả các mạng và triển khai theo mô hình tập trung, thuận lợi cho quá trình cung cấp dịch vụ… Các VNPT tỉnh/thành khác có nhiệm vụ tìm hiểu nghiệp vụ của khách hàng, tìm ra điểm khác biệt giữa nghiệp vụ của khách hàng và tiện ích của phần mềm để đáp ứng tốt nhu cầu dịch vụ của khách hàng. Mỗi đơn vị một nhiệm vụ nhưng tựu chung lại là phải theo một mô hình tập trung, có một quy trình cung cấp dịch vụ thống nhất, thuận tiện, đáp ứng được mọi yêu cầu của khách hàng. Chiến lược này, hi vọng thời gian tới các dịch vụ CNTT của Tập đoàn sẽ được triển khai đồng bộ và tạo tiếng vang hơn trong xã hội.

III. BỨC TRANH THỊ TRƯỜNG HAI DỊCH VỤ CNTT ĐANG CẠNH TRANH MẠNH

1. Dịch vụ khai thuế qua mạng (CA)Trong các dịch vụ CNTT triển khai cho doanh nghiệp thì dịch vụ Khai thuế qua mạng

có thể nói là dịch vụ đang “hot” nhất. Sau chỉ thị của Bộ Tài chính về việc bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện kê khai thuế qua mạng trong thời gian tới, dịch vụ này càng trở lên

CHUYÊN ĐỀ

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201442

“nóng” hơn. Hàng loạt nhà mạng vào cuộc để giành giật “miếng bánh” mới trên thị trường. Sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường này được phản ánh tại hầu hết các địa phương.

Tại địa bàn hai huyện Tây Sơn – Vĩnh Thạnh của tỉnh Bình Định, tình hình cạnh tranh dịch vụ trên diễn ra hết sức quyết liệt. Đội ngũ kinh doanh trên địa bàn vừa được bổ sung thêm 3 người để nâng lên con số 10 người, trong đó thủ lĩnh là Trưởng phòng bán hàng Nguyễn Đồng Sỹ. Các nhân viên kinh doanh được giao theo địa bàn và cứ mỗi sáng sau chục phút giao ban để nắm tình hình là các nhân viên tỏa xuống địa bàn. 9h sáng, Phòng bán hàng Tây Sơn – Vĩnh Thạnh chỉ còn duy nhất một nhân viên kinh doanh cắm chốt để bán tại quầy hàng lưu động được che ô, kê ra sát đường.

Tại địa bàn huyện Tây Sơn, chi cục thuế huyện tổ chức tập huấn dịch vụ cho kế toán các doanh nghiệp và chỉ dành thời gian cho một doanh nghiệp giới thiệu dịch vụ. Cuộc chiến do vậy bắt đầu ngay từ “vòng gửi xe”. Do chậm hơn một chút mà cuối cùng VNPT đành đứng ngoài để doanh nghiệp khác vào giới thiệu dịch vụ. Gạt thất bại sang một bên, ngay lập tức đội ngũ kinh doanh đã đến làm việc ngay với chi Cục thuế huyện Vĩnh Thạnh và được chấp nhận để vào giới thiệu dịch vụ trong buổi tập huấn sắp tới. Kết quả là hầu hết các doanh nghiệp trên địa bàn Vĩnh Thạnh đã ký hợp đồng dùng dịch vụ VNPT CA. Bài học về sự nhanh – chậm trong thương trường có lẽ những người làm công tác kinh doanh thấm hơn ai hết.

Quay trở lại địa bàn Tây Sơn, chậm chân hơn đối thủ nhưng không chịu thua dễ dàng. Trưởng phòng Sỹ bằng mọi mối quan hệ đã xin được danh sách các doanh nghiệp trên địa bàn. Sau đó về xem ai trong phòng quen với công ty nào thì đến làm việc với công ty đó để giới thiệu sản phẩm trực tiếp cho Giám đốc và kế toán công ty. Công ty nào “khó tính” thì trực tiếp Trưởng phòng sẽ đến để làm việc. Nhờ chiến lược “đánh từ dưới lên” này mà trên địa bàn Tây Sơn cũng đã giành được một số khách hàng.

Không khí khá căng thẳng tại hội nghị của chi cục thuế huyện Hoài Nhơn – Bình Định khi có cả VNPT và Viettel tham gia giới thiệu dịch vụ CA.

CHUYÊN ĐỀ

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 43

Bằng tất cả giải pháp và nỗ lực như vậy thì tại đây VNPT mới giành được khoảng 50% thị phần trên địa bàn hai huyện Tây Sơn – Vĩnh Thạnh. Nó cho thấy các doanh nghiệp cạnh tranh cũng nhanh nhạy và quyết liệt như thế nào.

Tại Trung tâm viễn thông Dung Quất – Quảng Ngãi, anh Đào Đức Tuấn, Giám đốc trung tâm cho biết là trên địa bàn, các doanh nghiệp lớn thì đã dùng dịch vụ CA từ 2 năm nay, và đều dùng của VNPT vì lúc đó có… mình mình cung cấp. Hiện nay, chỉ còn 12 doanh nghiệp nhỏ chưa sử dụng thì đã cử nhân viên trực tiếp qua làm việc, tư vấn và cả ngoại giao. Kết quả là có 8 doanh nghiệp đã ký hợp đồng với mình. Bốn doanh nghiệp còn lại đang lưỡng lự và quân ta vẫn tiếp tục bám sát để tư vấn, tất nhiên doanh nghiệp khác cũng bám sát khách hàng như mình. Có những hôm nhân viên của VNPT và Viettel đến gặp khách hàng… cùng một lúc. Kết quả là cả 3 ngồi nói chuyện vui, xong đi về và mỗi bên hẹn lại khách hàng sau.

Đang sôi nổi với câu chuyện cạnh tranh thì điện thoại reo vang và một tin vui từ một nhân viên kinh doanh ở tiền tuyến báo về: Khách hàng thứ 9 đã chính thức ký hợp đồng dịch vụ CA của VNPT. Lúc đó là 18h30 phút và để khách hàng đặt bút ký hợp đồng đó bạn nhân viên kinh doanh của VNPT đã phải ngồi liên tục cùng khách hàng từ 13h. Thế mới thấy sự quyết liệt của thị trường và nhiệt huyết của những người VNPT đang đảm đương trọng trách kinh doanh.

Hai bức tranh thị trường tại hai địa bàn ở hai tỉnh khác nhau có lẽ đủ phản ánh mức độ cạnh tranh khốc liệt của dịch vụ còn khá mới mẻ này.

2. Phần mềm quản lý giáo dục (VnEdu)Sản phẩm VnEdu là 1 giải pháp xây dựng trong công nghệ điện toán đám mây nhằm

Nhân viên VNPT và Viettel ngồi cạnh nhau chờ đến lượt lên giới thiệu dịch vụ

CHUYÊN ĐỀ

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201444

tin học hóa toàn bộ công tác quản lý, điều hành trong giáo dục, kết nối gia đình, nhà trường và xã hội, góp phần nâng cao chất lượng quản lý, chất lượng dậy và học. Chính vì vậy khi triển khai dịch vụ VnEdu tại các trường học sẽ giúp nhà trường trong việcquản lý giáo viên, quản lý học sinh, quản lý điểm, học lực và nhiều thông tin khác trong hệ thống giáo dục...

Thời gian qua, song hành cùng dịch vụ cáp quang tới các trường học là dịch VnEdu. Thậm chí dịch vụ VnEdu mới thực sự là cái đích mà các nhà mạng nhắm đến chứ không phải là dịch vụ cáp quang cho các trường học. Chính vì vậy nhiều nhà mạng sẵn sàng tài trợ đường truyền cáp quang để “hốt trọn” một tập khách hàng VnEdu rộng lớn. Đó là hàng nghìn học sinh, hàng nghìn phụ huynh và hàng trăm giáo viên của trường đó. Nhẩm tính rằng mỗi người đó chi trả 20-30 nghìn đồng cho dịch vụ VnEdu thì con số doanh thu sẽ lớn đến mức nào.

Hiện nay để tạo tiền đề cho dịch vụ VnEdu, các nhà mạng đang cạnh tranh quyết liệt trong việc cung cấp dịch vụ cáp quang tới các trường học. Trong khi VNPT triển khai theo hướng quan hệ với địa phương, sở giáo dục, phòng giáo dục các huyện và trực tiếp làm việc với nhà trường thì Viettel đang đi theo hướng hợp tác với Bộ Giáo dục.

Với thế mạnh địa phương của mình thì hiện số lượng thuê bao cáp quang tới các trường học của VNPT vẫn chiếm phần lớn và đây là tiền đề để phát triển VnEdu. Tại Hà Giang, ngay từ khi bắt đầu triển khai dịch vụ VnEdu, VNPT Hà Giang đã phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo triển khai dịch vụ ở một số trường điểm tại Hà Giang để nhà trường cũng như học sinh tiếp cận và hiểu được tất cả những ưu việt của dịch vụ. Sau 1 tháng triển khai dịch vụ, đến nay đã có hơn 250 trường học tại Hà Giang sử dụng phần mềm này nhằm góp phần đổi mới nâng cao chất lượng dậy và học cũng như quản lý học sinh được tốt hơn.

Tương tự như vậy, tại Đà Nẵng, cuối tháng 9/2014, Trung tâm Tin học - Viễn thông Đà Nẵng đã phối hợp với Phòng giáo dục Hoà Vang tổ chức tập huấn sử dụng hệ thống VnEdu cho 98 thầy cô giáo là Ban giám hiệu, giáo viên tin học tại 46 trường học thuộc các cấp THCS, Tiểu học, Mầm non trên địa bàn huyện Hoà Vang. Đây là đơn vị thứ 2 sau Phòng Giáo dục quận Liên Chiểu đã ký thỏa thuận hợp tác triển khai diện rộng vnEdu cho các cấp học thuộc Phòng Giáo dục quản lý. Hai ví dụ trên để thấy VNPT đang phát triển dịch vụ VnEdu dựa trên quan hệ địa phương.

Trái lại, Viettel có cách làm hoàn toàn khác. Nhà mạng này vừa ký thỏa thuận hợp tác với Bộ Giáo dục về triển khai cáp quang tới các trường học, theo đó Viettel sẽ kéo miễn phí đường cáp quang tới tất cả các trường học. Không ai nói ra nhưng những người trong nghề đều hiểu rằng cái đích nhắm tới chính là tập khách hàng của dịch vụ CNTT như VnEdu của VNPT.

Ngay sau thỏa thuận này, Bộ Giáo dục có công văn gửi các sở Giáo dục về việc khuyến khích nên sử dụng dịch vụ của Viettel. Tiếp đó là các công văn tương tự gửi từ sở xuống các phòng giáo dục, rồi tới các trường học. Điều này gần như ngay lập tức tác động đến sự phát triển dịch vụ của VNPT. Tỉnh nhiều như Phú Thọ thì có hàng loạt trường đề nghị cắt dịch vụ của VNPT. Tỉnh ít như Bình Định, Quảng Nam thì cũng mất 5-10 thuê bao.

CHUYÊN ĐỀ

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 45

Hãn hữu có những tỉnh mà mối quan hệ với bộ máy chính quyền tỉnh rất khăng khít như Quảng Ngãi thì mới chỉ mất 1-2 thuê bao. Điều này cho thấy sự lợi hại trong cách “đánh từ trên xuống” của Viettel.

IV. MỘT SỐ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂNXu hướng đầu tiên phải kể đến là hành chính điện tử. Theo đó CNTT sẽ len lỏi vào

hầu hết mọi ứng dụng trong hoạt động điều hành của các cơ quan công quyền. Đơn giản nhất là email sẽ được sử dụng như một công cụ để gửi văn bản bắt buộc; Văn bản điện tử sẽ dần thay thế văn bản giấy, kể cả trong việc lưu trữ; Hầu hết các hồ sơ công việc sẽ được tin học hóa; Mọi công đoạn trong điều hành sẽ được CNTT hóa, điển hình như giao việc qua mạng; Đăng ký dịch vụ qua mạng…

Dịch vụ công trực tuyến sẽ phát triển mạnh. Điển hình như tất cả mẫu tờ khai, form sẽ được đăng tải trên Cổng Thông tin điện tử để người dân, doanh nghiệp có thể tải xuống để khai và chỉ việc mang tới cơ quan nhà nước nộp đề nghị cung cấp dịch vụ. Xa hơn thế nữa, người dân, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ có thể nộp hồ sơ yêu cầu cung cấp dịch vụ qua môi trường mạng mà không cần phải đến trực tiếp cơ quan nhà nước. Các ứng dụng CNTT tại bộ phận một cửa, một cửa liên thông hiện đại sẽ được triển khai rộng theo xu hướng triển khai trước tại những khu vực có mật độ dân số cao, có đòi hỏi lớn hơn về nhu cầu giải quyết các thủ tục hành chính cấp huyện.

Xu hướng thứ hai là ứng dụng CNTT sẽ được triển khai mạnh các ngành nghề chính của xã hội mà điển hình là y tế, giáo dục, giao thông và nông nghiệp. Hãy tưởng tượng rồi đây học sinh có thể sẽ công cần phải ôm cả đống sách tới trường mà thay vào đó là một

Giám đốc VNPT Hà Giang Phạm Trần Hòa (bên phải) và Giám đốc Sở GDĐT Vũ Văn Sử ký kết thỏa thuận hợp tác triển khai VnEdu

CHUYÊN ĐỀ

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201446

chiếc ipad, sẽ không còn phải ghi chép một đống bài tập về nhà mà thay vào đó chỉ việc về nhà, lên mạng, đăng nhập bằng tài khoản của mình sẽ nhận được tất cả các bài tập của tất cả các môn học trong ngày hôm đó… Trong lĩnh vực giao thông, rồi đây sẽ không cần quá nhiều cảnh sát đứng ở các ngã tư nữa mà thay vào đó là các camera giao thông. Bất cứ ai vi phạm, một ngày sau hóa đơn sẽ được đưa tới tận nhà, tất nhiên người nhận trả phí…

Trong lĩnh vực y tế, các chuyên gia đầu ngành tại Hà Nội, TP HCM sẽ không phải đi ô tô về từng tỉnh để hướng dẫn nghiệp vụ nữa, thay vào đó CNTT cho phép các bác sĩ tại các tỉnh có thể xem trực tiếp các chuyên gia đầu ngành thao tác mổ tim cho một bệnh nhân nào đó. Hoặc ngược lại, các chuyên gia có thể xem và hướng dẫn cho một bác sĩ ở một vùng xa xôi nào đó cách xử lý một ca bệnh khó ngay lập tức thông qua hệ thống truyền hình trực tiếp. Hoặc như, người bệnh sẽ không cần phải mang theo sổ khám bệnh mỗi khi đến bệnh viện nữa mà chỉ cần đọc tên, số CMT, hệ thống sẽ tự động hiển thị lịch sử khám chữa bệnh của họ.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, hãy quên việc cầm vòi tưới nước cho cả một đồn điền café đi, thay vào đó CNTT sẽ cho phép hệ thống vòi tưới tự động phun nước mỗi khi độ ẩm trong không khí giảm xuống dưới một ngưỡng nào đó. Hoặc định kỳ tưới mỗi ngày 2 lần vào các giờ cố định do người chủ trang trạng thiết lập từ trước. Khi dinh dưỡng trong đất xuống dưới mức cần thiết, hệ thống sẽ cảnh báo để người nông dân có hướng xử lý kịp thời…

Cuối cùng, như Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại Diễn đàn cấp cao CNTT Việt Nam - ASOCIO 2014 thì “CNTT là không thể thiếu, là động lực của động lực. Tất cả những động lực mọi người nói đến sẽ không thể như nó vốn có nếu không có CNTT. Với sự hội tụ như một sự tất yếu của mạng xã hội, của điện thoại cá nhân, của điện toán đám mây ngày nay, chắc chắn sẽ tạo nên một nền tảng phát triển mới mà ở đó mọi giá trị cá nhân sẽ được phát huy tối đa, từ nông dân đến những người làm khoa học, từ những người may mắn đến những cháu bé bị khuyết tật đều có thể tìm thấy cơ hội. Từ những quốc gia đã rất phát triển tới những quốc gia đang phát triển, còn rất nghèo đều có thể bằng CNTT để nâng cao sự cạnh tranh và đóng góp nhiều hơn cho chuỗi giá trị toàn cầu”. Đó chính là xu hướng của CNTT trong thời gian tới.

IV. KẾT LUẬNVới thế mạnh vốn có tại địa phương và việc quy hoạch lại nguồn nhân lực cũng

như các dịch vụ CNTT chủ đạo, lĩnh vực CNTT của Tập đoàn chắc chắn sẽ khởi sắc hơn trong thời gian tới. Song có đạt kỳ vọng chiếm 40% doanh thu của Tập đoàn hay không thì còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có cả sự hỗ trợ của Tập đoàn trong việc mở đường vào các cơ quan cấp Trung ương thông qua các thỏa thuận hợp tác. Bởi nếu chỉ địa phương mạnh thì chưa đủ và sẽ rất khó khăn khi các doanh nghiệp khác đang “đánh từ trên xuống” như câu chuyện cáp quang giáo dục vừa qua.

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG

THẾ GIỚI

CHƯƠNG IV

Thị trường viễn thông thế giới chính thức đạt mốc 7 tỷ kết nối di động. Như vậy, sau khi đạt mốc 5 tỷ vào năm 2010, 6 tỷ vào cuối năm 2011, thị trường di động thế giới phải mất thêm hơn 2 năm nữa để tạo lập một cột mốc mới. Điều này hoàn toàn bình thường do thị trường di động toàn cầu đang dần tiến sát tới mức bão hòa, phần lớn các thị trường di động phát triển đã đạt mức thâm nhập lớn hơn 100% trong khi đó tỉ lệ này tại một số khu vực đang phát triển cũng đã đạt trên mức 60-70%

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201448

TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG DI ĐỘNG TOÀN CẦU

1. Tổng kết nối di động toàn cầu chính thức đạt mốc 7 tỷ

Theo những số liệu thống kê của hãng phân tích thị trường viễn thông Ovum, tính đến hết quý 2/2014, thị trường viễn thông thế giới chính thức đạt mốc 7 tỷ kết nối di động. Như vậy, sau khi đạt mốc 5 tỷ vào năm 2010, 6 tỷ vào cuối năm 2011, thị trường di động thế giới phải mất thêm hơn 2 năm nữa để tạo lập một cột mốc mới. Điều này hoàn toàn bình thường do thị trường di động toàn cầu đang dần tiến sát tới mức bão hòa, phần lớn các thị trường di động phát triển đã đạt mức thâm nhập lớn hơn 100% trong khi đó tỉ lệ này tại một số khu vực đang phát triển cũng đã đạt trên mức 60-70%. Cụ thể, tính đến hết quý 2/2014, tổng kết nối di động toàn cầu của tất cả các loại công nghệ (GSM, HSPA, CDMA, LTE và TD-CDMA) đạt 7,023 tỷ, phần lớn kết nối phát triển mới trong quý đến từ các quốc gia, khu vực đang phát triển. Tuy nhiên, do mỗi người dùng sử dụng trung bình gần 1,5 SIM nên số thuê bao thực chỉ vào khoảng 4,6 tỷ.

Trong khi đó, theo báo cáo của Ericsson, trong quý 2/2014, thị trường di động toàn cầu phát triển mới được khoảng 80 triệu kết nối mới, đạt mức thâm nhập/dân số là 94%, đạt tốc độ tăng trưởng quý và năm lần lượt là 1,1% và gần 6%. Trung Quốc là quốc gia phát triển được nhiều kết nối mới nhất trong quý (12 triệu), theo sau là Nga, Ấn Độ (cùng 5 triệu) và Indonesia (4 triệu). Trong khi đó, toàn khu vực Trung Đông chỉ phát triển thêm được 6 triệu kết nối mới, Mỹ Latinh (4 triệu), Tây Âu (3 triệu) và Bắc Mỹ (2 triệu).

Về mức độ thâm nhập, cũng theo báo cáo của Ericsson, với những điều kiện kinh tế thuận lợi, khả năng cung cấp, mở rộng dịch vụ từ phía nhà mạng cũng như khả năng chấp nhận sử dụng dịch vụ đạt mức cao mà các khu vực Trung và Đông Âu có mức thâm nhập/dân số đạt mức cao nhất thế giới (144%), theo sau là các khu vực Tây Âu (127%), Mỹ Latinh (116%), Trung Đông (108%), châu Á – Thái Bình Dương không kể Trung Quốc và Ấn Độ (105%), Bắc Mỹ (103%) và cuối cùng là châu Phi (75%). Với tổng cộng 2,06 tỷ kết nối, Trung Quốc (1,26 tỷ) và Ấn Độ (800 triệu) vẫn là 2 thị trường di động lớn nhất thế giới nhưng mức thâm nhập/dân số vẫn nằm dưới mức trung bình toàn cầu với tỉ lệ lần lượt là 90% và 63%. Như vậy, trong thời gian tới, ngoài khu vực châu Phi và một số quốc gia chậm phát triển thuộc châu Á thì Trung Quốc và Ấn Độ vẫn được đánh giá là 2 thị trường đầy tiềm năng đối với các nhà khai thác mạng di động.

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 49

Biểu đồ mức thâm nhập di động/dân số, quý 2/2014

Nguồn: Ericsson

Xét theo công nghệ, với tổng cộng 6,31 tỷ kết nối, họ công nghệ 3GPP (bao gồm GSM/EDGE, WCDMA-HSPA/HSPA+ và LTE) chiếm 89,9% thị trường kết nối di động toàn cầu. Mặc dù thị phần bị giảm 1% (40 triệu kết nối) so với thống kê vào quý 1/2014 nhưng công nghệ GSM vẫn tiếp tục thống trị thị trường di động toàn cầu quý 2/2014 với 4,4 tỷ kết nối và thị phần 63%. Theo sau là các công nghệ HSPA (1,6 tỷ, chiếm 23%), CDMA (453 triệu, chiếm 6,5%), LTE (280,4 triệu, chiếm 4%) và TD-SCDMA (251 triệu, chiếm 3,5%). Cũng trong quý 2/2014, cả 2 công nghệ WCDMA và HSPA có thêm khoảng 70 triệu kết nối mới trong khi riêng LTE có thêm gần 40 triệu kết nối.

Thống kê số lượng và thị phần kết nối di động theo công nghệ, quý 2/2014

Nguồn: Ovum

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201450

Tuy nhiên, với đà chuyển đổi công nghệ lên 3G và 4G nhanh như hiện nay, theo dự báo, công nghệ GSM chỉ còn khoảng 4 tỷ kết nối vào cuối năm nay, 3,6 tỷ vào cuối năm 2015, 3 tỷ vào cuối năm 2016, 2,5 tỷ vào cuối năm 2017 và có thể chỉ còn khoảng 1,7 tỷ vào cuối năm 2018. Thay vào đó, công nghệ HSPA được dự báo sẽ có 2 tỷ kết nối vào cuối năm nay, 2,5 tỷ vào cuối năm 2015, 3 tỷ vào cuối năm 2016, 4,3 tỷ vào cuối năm 2017 và có thể tăng lên tới 4,6 tỷ vào cuối năm 2018.

Biểu đồ dự báo tăng trưởng kết nối di động theo công nghệ giai đoạn 2014-2018

Nguồn: Informa Telecoms & Media

Nếu thị trường phát triển đúng như dự báo ở trên thì chỉ còn chưa đầy 2 năm nữa HSPA sẽ trở thành công nghệ thống trị thị trường di động toàn cầu. Dự báo này hoàn toàn có cơ sở bởi lẽ tính đến ngày 26/09/2014, thế giới đã có 556 mạng HSPA và 365 mạng HSPA+ đã được triển khai và cung cấp dịch vụ thương mại tại lần lượt là 203 và 157 quốc gia. Ngoài ra, công nghệ HSPA còn được hỗ trợ bởi 100% nhà mạng WCDMA. Điều này một lần nữa cho thấy HSPA và HSPA + sẽ tiếp tục thu hút sự quan tâm đầu tư, nâng cấp công nghệ từ phía nhà mạng cũng như đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ di động ngày càng cao và phức tạp của người tiêu dùng trên toàn thế giới. Tuy nhiên, theo một dự báo dài hơi hơn thì rất có thể là vào khoảng năm 2020, HSPA sẽ bị đuổi kịp bởi các công nghệ 4G trong đó chủ yếu là 4G LTE.

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 51

Điều này cũng hoàn toàn có cơ sở khi mà cả số lượng mạng LTE được khai trương thương mại cũng như số lượng người dùng LTE đang tăng lên nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu.

Về lưu lượng quý 2/2014, thống kê tổng lưu lượng thoại và dữ liệu được sử dụng (tải lên và tải xuống) hàng tháng trên các mạng di động toàn cầu của Ericsson tiếp tục cho thấy trong khi lưu lượng thoại tăng không đáng kể thì lưu lượng dữ liệu tăng lần lượt là 10% và 60% so với quý 1/2014 và cùng kỳ năm 2013. Điều này tiếp tục phản ánh xu hướng nâng cấp công nghệ từ 2G lên 3G và 4G của khách hàng cũng như sự ngày càng phổ biến của điện thoại thông minh và các dịch vụ dữ liệu được cung cấp bởi nhà mạng. Thống kê của Ericsson cũng cho biết có sự khác biệt khá lớn giữa các mức lưu lượng thoại và dữ liệu được sử dụng tại các thị trường, khu vực và nhà mạng. Theo đó, lưu lượng thoại vẫn duy trì tăng trưởng ổn định tại các thị trường đang phát triển và mới nổi còn lưu lượng dữ liệu lại gia tăng nhanh chóng tại các thị trường di động phát triển, đặc biệt là các thị trường 4G phát triển sớm như Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản…

Biểu đồ tăng trưởng lưu lượng thoại và dữ liệu hàng tháng giai đoạn Q1/2010 – Q2/2014

Nguồn: EricssonLưu ý: Lưu lượng dữ liệu không bào gồm DVB-H, Wi-Fi và WiMAX di động, lưu

lượng thoại không bao gồm thoại qua giao thức Internet (VoIP).

2. Công nghệ 4G LTE đã được thương mại hóa tại 112 quốc giaTheo số liệu thống kê mới nhất của Hiệp hội các nhà cung cấp dịch vụ di động

toàn cầu (GSA), tính đến ngày 17/09/2014, công nghệ băng rộng di động 4G LTE đã được 533 nhà mạng cam kết triển khai tại 156 quốc gia, trong đó đã có 331 mạng chính thức cung cấp dịch vụ thương mại tại 112 quốc gia. Ngoài ra, còn có thêm 51 nhà mạng đang tiến hành các công việc ở giai đoạn tiền cam kết và thử nghiệm tại 12

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201452

quốc gia khác. Như vậy, thế giới có tổng số 584 nhà mạng đang đầu tư vào LTE tại 168 quốc gia. Tốc độ triển khai và ứng dụng LTE như hiện nay là những dấu hiệu cho thấy LTE đã hoàn toàn được thừa nhận là một phần quan trọng trong lộ trình nâng cấp công nghệ tại hầu hết các quốc gia, đặc biệt là quốc gia phát triển. Theo dự báo, số mạng LTE thương mại sẽ đạt ít nhất 350 mạng vào cuối năm nay.

Về số lượng thuê bao, theo số liệu thống kê của hãng Ovum, tính đến hết tháng 6/2014, công nghệ băng rộng di động 4G LTE đã có 280,4 triệu thuê bao đến từ 111 quốc gia trên thế giới. Nếu so với 7,023 tỷ kết nối di động toàn cầu trong cùng thời kỳ thì LTE chiếm thị phần 4%. Dự báo, LTE sẽ thu hút được 386 triệu người dùng vào cuối năm nay, 561 triệu vào cuối năm 2015, 805 triệu vào cuối năm 2016, 1,2 tỷ vào cuối năm 2017, 1,6 tỷ vào cuối năm 2018 và có thể sẽ là 2,3 tỷ vào cuối năm 2019.

Dự báo tăng trưởng thuê bao LTE giai đoạn 2014-2019

Xét theo khu vực, Bắc Mỹ tiếp tục dẫn đầu thế giới với 127 triệu thuê bao LTE, chiếm thị phần 45%. Nếu so với tổng cộng 391 triệu thuê bao di động tại khu vực này thì LTE chiếm thị phần lên tới 33%, cao gấp hơn 8 lần so với tỉ lệ trung bình toàn cầu (4%). Trong quý 2/2014, các nhà khai thác Bắc Mỹ phát triển mới được 16 triệu thuê bao LTE. Theo dự báo, khu vực này sẽ có lần lượt là 139 triệu và gần 200 triệu thuê bao LTE vào cuối năm nay và năm 2016. Tiếp đến là khu vực châu Á Thái Bình Dương (102 triệu thuê bao, 36%), Tây Âu (37 triệu, 13%). Số thuê bao còn lại đến từ Trung Đông (1%), Đông Âu (1,5%), châu Phi (1%) và Mỹ Latinh (1,5%).

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 53

Thị phần thuê bao LTE theo khu vực địa lý, Q2/2014

Nguồn: OvumTrong khi đó, tính đến ngày 26/09/2014, châu Âu (Đông Âu và Tây Âu) vẫn tiếp tục

dẫn đầu về triển khai LTE với tổng cộng 126 mạng thương mại tại 47 quốc gia. Tiếp theo là khu vực châu Á –Thái Bình Dương (58 mạng, 24 quốc gia), Bắc Mỹ (50 mạng, 2 quốc gia), Mỹ Latinh và Caribe (45 mạng, 18 quốc gia), châu Phi (25 mạng, 13 quốc gia) và cuối cùng là Trung Đông (19 mạng, 8 quốc gia).

Về mức thâm nhập, tính đến hết quý 2/2014, nếu so với dân số hơn 7 tỷ người trên toàn thế giới thì mức thâm nhập LTE đã đạt tỉ lệ trung bình 3,88%. Khu vực Bắc Mỹ (Mỹ và Canada) tiếp tục dẫn đầu về mức thâm nhập với tỉ lệ 35,54%, cao gấp hơn 9 lần so với tỉ lệ trung bình của thế giới. Mặc dù là khu vực đứng thứ 2 về số lượng thuê bao, chỉ kém Bắc Mỹ 25 triệu thuê bao nhưng mức thâm nhập tại châu Á – Thái Bình Dương vẫn rất thấp (2,57%), thấp hơn cả mức trung bình toàn cầu. Mức thâm nhập của các khu vực khác như châu Phi (0,17%), Mỹ La tinh (0,76%), Trung Đông (0,64%), Tây Âu (7,59%) và Đông Âu (1,06%).

Ngoài ra, Ovum cũng cho biết, tính đến ngày 26/09/2014, công nghệ nâng cấp của LTE là LTE-Advanced với tốc độ tải xuống đạt đỉnh lên tới 150 Mbps đã có 20 mạng thương mại được triển khai tại 15 quốc gia. Dự báo đến cuối năm 2014, con số này sẽ tăng lên thành 40 mạng. Trên thực tế, để nâng cấp từ LTE lên LTE-Advanced, phần lớn nhà mạng đã bổ sung các công nghệ tiên tiến như: Tập hợp sóng mang (Carrier Aggregation); Hệ thống ăng ten MIMO tiên tiến; Kỹ thuật đa điểm kết hợp (Coordinated Multipoint - CoMP) và Mạng tự tổ chức (Self-Organizing Networks - SON).

Về kỹ thuật, cho đến nay kỹ thuật song công phân chia theo tần số FDD (Frequency

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201454

Division Duplexing) và kỹ thuật song công phân chia theo thời gian TDD (Time Division Duplexing) vẫn là hai kỹ thuật cơ bản để triển khai mạng LTE. Báo cáo “Thực trạng thị trường LTE TDD toàn cầu” được công bố bởi tổ chức GSA cho biết, số nhà mạng cam kết đầu tư, nghiên cứu, thử nghiệm, triển khai và thương mại hóa mạng LTE TDD đang ngày càng gia tăng. Ngoài ra, số lượng thiết bị hỗ trợ người dùng LTE TDD cũn g gia tăng liên tục, đặc biệt là điện thoại thông minh. Điều này đang góp phần thúc đẩy tăng trưởng thuê bao LTE nói chung và LTE TDD nói riêng.

Sở dĩ LTE TDD được nhà mạng ưu tiên lựa chọn triển khai là vì, theo nhận định của ABI Research, LTE TDD có những thế mạnh vượt trội về tổng chi phí sở hữu mạng (TCO) thấp hơn đáng kể so với LTE FDD. Cụ thể, ABI Research ước tính TCO của một mạng LTE TDD thấp hơn 13% so với một mạng có quy mô tương đương nhưng sử dụng tiêu chuẩn FDD. Trong đó, riêng chi phí sở hữu phổ tần cho mạng LTE TDD thấp hơn đến 44% so với phổ tần cho FDD LTE. Xét dưới góc độ xây dựng mạng đường trục (backhaul) thì LTE TDD cũng có thể giúp nhà mạng tiết kiệm 33% chi phí thông qua các giải pháp vi ba điểm - điểm (Point-to-Point Microwave Solutions), thậm chí có thể tiết kiệm được 43% chi phí so với mạng quang. Những điều này sẽ giúp cho chuẩn TDD ngày càng hấp dẫn và trở thành một giải pháp linh hoạt và tiết kiệm chi phí. Nhờ những ưu điểm đó mà tính đến ngày 19/09/2014, đã có tổng cộng 40 mạng LTE TDD đang cung cấp dịch vụ thương mại tại 27 quốc gia, bao gồm các mạng LTE TDD có quy mô lớn của SoftBank (Nhật Bản), Bharti Airtel (Ấn Độ) và Optus của Úc. Ngoài ra còn có 48 nhà mạng khác đang triển khai hoặc lập quy hoạch mạng. Theo ước tính của GSA, tổng số nhà mạng đang đầu tư vào LTE TDD trên toàn cầu đạt gần 120. Về số lượng thuê bao, tính đến cuối tháng 6/2014, số thuê bao LTE TDD toàn cầu đã đạt khoảng 14 triệu. Với đà phát triển mạnh mẽ như hiện nay, đặc biệt là tại thị trường Trung Quốc, thị phần thuê bao LTE TDD có thể sẽ tăng lên hơn 15% vào cuối năm 2014. Tính đến cuối tháng 9/2013, mạng LTE TDD đã phủ sóng đến 18,5% dân số thế giới và được dự báo tăng lên 49% vào năm 2018. Gần đây nhất, nhà mạng lớn nhất thế giới, China Mobile của Trung Quốc đã quyết định đầu tư tiếp 20 tỷ nhân dân tệ (3,3 tỉ USD) để lắp đặt 207.000 trạm gốc LTE TDD trên toàn quốc. Ngoài ra, tại Mỹ, nhà mạng Clearwire cũng dự kiến sẽ triển khai 5.000 trạm gốc LTE TDD. Đây là một phần quan trọng trong kế hoạch mở rộng vùng phủ sóng LTE của Sprint.

Về băng tần, với 150 mạng tại 72 quốc gia, chiếm thị phần 45,3% trong tổng số 331 mạng LTE thương mại toàn cầu, 1800 MHz (3GPP band 3) tiếp tục là băng tần được sử dụng nhiều nhất cho triển khai mạng LTE. 2.6 GHz (band 7) là băng tần phổ biến tiếp theo được sử dụng tại 25,6% mạng LTE thương mại. Tiếp theo là các băng tần 800 MHz (band 20) và AWS (band 4).

Về số lượng thiết bị, theo báo cáo của Hiệp hội GSA, tính đến ngày 14/07/2014, thế giới đã có 168 nhà sản xuất tung ra thị trường tổng cộng 1.889 mẫu thiết bị hỗ trợ người dùng LTE, tăng 326 mẫu so với tháng 3/2014 và tăng 941 mẫu so với cùng kỳ năm trước, đạt tốc độ tăng trưởng hàng năm gần 100%, số nhà sản xuất tăng 68% cùng thời kỳ. Cụ thể, điện thoại thông minh LTE tiếp tục áp đảo trên thị trường thiết bị LTE với 835 mẫu,

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 55

tăng 199 mẫu, chiếm 44,2% thị phần. Tiếp theo là thiết bị định tuyến (513 mẫu), Dongle (187 mẫu), Module (133 mẫu), máy tính bảng (175 mẫu), Notebook (31 mẫu), PC Card (1 mẫu), Femtocell (13 mẫu) và Camera (1 mẫu). Nếu tính theo băng tần, 1800 MHz cũng là băng tần có số lượng thiết bị hỗ trợ cao nhất với 769 mẫu, đạt tốc độ tăng trưởng năm 170%. Theo sau là các băng tần 2600 MHz band 7 (740 mẫu), 2100 MHz band 1 (544 mẫu), 800 MHz band 20 (467 mẫu), AWS band 4 (405 mẫu), 1900 MHz band 2 và 25 (327 mẫu)…

3. Top 30 tập đoàn, nhà khai thác mạng di động lớn nhất thế giới tính theo số lượng kết nối và doanh thu quý 2/2014

Theo bảng xếp hạng mới nhất của hãng GSMA Intelligence, so với bảng xếp hạng năm 2013, top 30 tập đoàn, nhà mạng di động lớn nhất thế giới năm 2014 cơ bản không có nhiều thay đổi, đặc biệt là trong top 10: China Mobile vẫn là nhà mạng lớn nhất thế giới cả về số lượng kết nối và doanh thu; cả 3 nhà mạng Trung Quốc đều có tên trong top 10; những vị trí quan trọng khác vẫn thuộc về các nhà mạng đang khai thác tại các quốc gia có dân số đông như Trung Quốc, Ấn Độ hoặc tại các thị trường di động phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc hoặc nhà khai thác có sự hiện diện tại nhiều quốc gia như Vodafone, Telefónica, América Móvil, Deutsche Telekom, Orange và VimpelCom. Tuy nhiên, nếu so sánh kỹ hơn thì vẫn thấy những xáo trộn, hoán đổi vị trí lẫn nhau giữa 2 lần xếp hạng gần đây. Nguyên nhân của những thay đổi này chủ yếu có liên quan đến những thỏa thuận M&A được thực hiện ra trong 12 tháng qua trên các thị trường Mỹ, Nhật và một số quốc gia thuộc châu Âu. Chẳng hạn, vị trí xếp hạng của các nhà mạng Mỹ bị ảnh hưởng bởi hoạt động M&A quy mô lớn. Theo đó, thỏa thuận mua lại được đánh giá là lớn nhất giữa Tập đoàn công nghệ viễn thông Nhật Bản, SoftBank, đối với nhà mạng di động lớn thứ ba tại Mỹ, Sprint Nextel, kết thúc vào quý 3/2013 với giá 21,6 tỉ USD. Như vậy, thương hiệu Sprint Nextel chính thức không còn nữa sau vụ thâu tóm này. Còn nhớ, trong bảng xếp hạng năm 2013, Sprint Nextel chiếm vị trí thứ 17/20 nhà mạng lớn nhất thế giới. Ngay lập tức, Tập đoàn SoftBank sau mở rộng có tên ở vị trí thứ 20 tính theo số lượng kết nối nhưng lại chiếm vị trí thứ 4 tính theo doanh thu trong bảng xếp hạng năm nay. Như vậy, việc Softbank quyết định chi một khoản tiền khổng lồ để thâu tóm Sprint Nextel trước mắt đã mang lại một kết quả khả quan. Trước đó, vụ thâu tóm này đã từng thu hút được nhiều sự quan tâm của dư luận, thậm chí không ít chuyên gia còn bày tỏ lo ngại Softbank sẽ thu được ít hơn so với những gì đã bỏ ra. Ở một góc nhìn sâu xa hơn, việc liên kết với Sprint Nextel không những giúp Softbank có thêm lợi thế khi giao dịch với Apple mà còn giúp Softbank củng cố vị thế tại thị trường bản địa so với KDDI, cũng đang cung cấp iPhone và hãng viễn thông số một Nhật Bản, NTT DoCoMo. Trên thực tế, việc bán sản phẩm Apple đã mang lại khoản doanh thu không nhỏ về cho Softbank. Ngoài ra, thỏa thuận M&A giữa Etisalat và Morocco (5,7 tỷ USD), giữa Tập đoàn Oi đối với Tập đoàn viễn thông Portugal vừa diễn ra trong tháng 5/2014 cũng tạo ra những thay đổi không nhỏ trong bảng xếp hạng năm nay.

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201456

Top 30 tập đoàn, nhà khai thác mạng di động lớn nhất thế giới tính theo số lượng kết nối và doanh thu quý 2/2014

Tên Tập đoàn, nhà mạng

Kết nối (Triệu)

Vị trí theo kết nối

Doanh thu di động 12 tháng qua

(Tỷ)Vị trí theo doanh thu

1 China Mobile 790,6 1 £66,4 12 Vodafone Group 435,9 2 £42,1 53 China Unicom 295 3 £21,5 104 Telefónica Group 249,4 6 £30,2 75 América Móvil Group 266,9 5 £25,5 9

6 Deutsche Telekom Group 146,9 12 £30,8 6

7 Orange Group 184,6 8 £16,1 118 AT&T 116,6 16 £44,8 39 VimpelCom Group 218,2 7 £11,4 14

10 China Telecom 180,2 9 £16 1211 Bharti Airtel Group 287,2 4 £7,9 1812 SoftBank Group 105 20 £43 413 Verizon Wireless 104,6 22 £52,4 214 Telenor Group 175,6 10 £8,7 1715 MTN Group 169,7 11 £8,9 1616 Etisalat Group 119,7 15 £7,1 2117 Telecom Italia Group 104,8 21 £10,6 1518 Sistema Group 113,9 18 £7,6 1919 NTT DOCOMO Group 63,6 31 £26,6 8

20 Hutchison Whampoa Group 72,7 26 £6,7 23

21 Ooredoo Group 93,2 23 £5 3022 TeliaSonera Group 64,2 30 £6,4 2423 au (KDDI) 41 41 £12,3 1324 Telkomsel 137,4 14 £3,3 4125 Axiata Group 115,7 17 £3,6 3826 MegaFon Group 70,2 28 £5,5 2827 Idea Cellular 139 13 £2,8 4728 Oi Group 62,4 33 £5,2 2929 KPN Group 38,7 43 £6,9 2230 SK Telecom 28 46 £7,6 20

Nguồn: GSMA Intelligence

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 57

Như vậy, China Mobile tiếp tục là nhà mạng di động lớn nhất thế giới với 790,6 triệu kết nối và 90,44 tỷ £ doanh thu trong 12 tháng qua. Tập đoàn Vodafone vẫn chiếm vị trí thứ hai tính theo số lượng kết nối (435,9 triệu) nhưng chỉ chiếm vị trí thứ 5 theo doanh thu (42,1 tỷ £). Hai đối thủ trong nước của China Mobile là China Unicom và China Telecom lần lượt chiếm vị trí thứ 3 và 9 tính theo số lượng kết nối lần lượt với 295 triệu và 180,2 triệu và chiếm vị trí thứ 10 và 12 theo doanh thu. Nếu tính cộng lại, với gần 5 tỷ kết nối, riêng top 30 tập đoàn, nhà mạng lớn nhất này đã chiếm hơn 70% trong tổng số 7 tỷ kết nối toàn cầu.

Tuy nhiên, những số liệu thống kê lợi nhuận của ABI Research lại cho biết, mặc dù còn thua kém China Mobile cả về kết nối và doanh thu nhưng Verizon Wireless đã vượt mặt China Mobile về lợi nhuận và chiếm luôn vị trí đầu tiên trong bảng xếp hạng những nhà mạng di động có mức lợi nhuận cao nhất trong quý. China Mobile tụt xuống vị trí số 2, tiếp theo là AT&T. Verizon Wireless có được thành công này là nhờ sự tăng trưởng mạnh mẽ về số lượng thuê bao trả sau, thuê bao điện thoại thông minh và thuê bao 4G LTE cũng như sức hấp dẫn và tính linh hoạt của hàng loạt dịch vụ và kế hoạch định giá. Ngoài ra, cũng trong những tháng đầu năm 2014, Verizon Wireless cũng tăng 1 bậc, lên vị trí số 2 trong bảng xếp hạng những nhà mạng có lợi nhuận quý/thuê bao cao nhất với số tiền lên tới 77,1 USD. Thành công của Verizon Wireless cũng như của một số nhà mạng Hàn Quốc và Nhật Bản thêm một lần nữa khẳng định nhu cầu tiêu thụ dữ liệu di động đang tăng nhanh và trở thành nguồn doanh thu chính để bù đắp cho sự sụt giảm doanh

thu thoại và tin nhắn.

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201458

THỊ TRƯỜNG INTERNET - BĂNG RỘNG1. Thị trường băng rộng cố định toàn cầu chính thức vượt mốc 700 triệu thuê bao

Trong khi số lượng kết nối băng rộng di động đang tăng trưởng mạnh mẽ thì thị trường băng rộng cố định vẫn tiếp tục xu hướng chậm lại. Theo số liệu thống kê của Point Topic, tính đến hết quý 2/2014, thế giới đã có 700,19 triệu đường dây băng rộng cố định, tăng 9,93 triệu so với quý 1/2014, tốc độ tăng trưởng quý đạt 1,4%, giảm 0,5% so với quý trước nhưng lại tăng 0,8% so với cùng kỳ năm 2013. Như vậy, sau nhiều quý chờ đợi, đây là lần đầu tiên thị trường băng rộng cố định toàn cầu tạo lập được cột mốc 700 triệu thuê bao. Tuy là ít ỏi so với 2,4 tỷ thuê bao băng rộng di động nhưng điều này phản ánh những nỗ lực không ngừng trong phát triển dịch vụ và mở rộng thị trường từ phía nhà cung cấp cũng như phản ánh nhu cầu chính đáng của khách hàng vẫn tiếp tục tăng lên.

Thống kê tốc độ tăng trưởng và số lượng thuê bao băng rộng cố định toàn cầugiai đoạn Q1/2013 – Q2/2014

Nguồn: Point Topic

Trung Quốc vẫn là thị trường băng rộng cố định lớn nhất thế giới với 200,73 triệu thuê bao tuy nhiên tỉ lệ thâm nhập/hộ gia đình tại nước này còn khá thấp (49%) so với Mỹ (79%). Điều này có nghĩa là thị trường Trung Quốc tiếp tục là tiềm năng tăng trưởng trong thời gian tới. Top 10 quốc gia lớn nhất tính theo số lượng thuê bao quý 2/2014 không có gì thay đổi so với quý trước mặc dù trong 12 tháng qua tốc độ

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 59

tăng trưởng thuê bao diễn ra mạnh mẽ tại Nga, Brazil và Mexico. Top 10 quốc gia lớn nhất tính theo số lượng thuê bao quý 2/2014

Nguồn: Point Topic

Trong khi đó, mức thâm nhập băng rộng cố định tính theo dân số lại thường đạt mức cao nhất tại các thị trường châu Âu. Có được thành tích này một phần là nhờ hộ gia đình tại châu Âu thường có trung bình ít hơn 3 người, bên cạnh đó, chi phí sử dụng dịch vụ thấp, khả năng luôn sẵn sàng cung cấp dịch vụ từ phía nhà mạng cũng là những tác động quan trọng. Theo đó, là một trong những nền kinh tế phát triển ổn định nhất trên thế giới, mức sống cao lại có diện tích nhỏ, Thụy Sĩ là quốc gia có mức thâm nhập băng rộng cố định/dân số đạt tỉ lệ cao nhất thế giới với 47,3%. Các quốc gia còn lại trong top 10 quốc gia có mức thâm nhập băng rộng cố định cao nhất thế giới còn bao gồm Na Uy (47,2%), Đan Mạch (42,6%), Hà Lan (41,5%), Pháp (39,9%), Hàn Quốc (38,9%), Bỉ (36,8%), Anh (36,8%), Iceland (36,1%) và Đức (35,3%).

Về chi phí sử dụng, cũng theo số liệu thống kê của Point Topic, trong quý 2/2014, cước trung bình hàng tháng của các dịch vụ băng rộng cố định được cung cấp qua mạng cáp đồng (Copper), cáp (Cable) và cáp quang (Fibre) là 221 USD với băng thông trung bình đạt 43Mbps. Điều này có nghĩa, cước trung bình toàn cầu trên mỗi megabit là 5,16 USD, giảm hơn 10% so với mức giá 5,76 USD vào quý 1/2014. Trong đó, thuê bao cáp đồng phải chi trả mức giá cao nhất cho mỗi megabit với số tiền lên tới 24,26 USD, tăng 3,91 USD so với quý 1/2014. Trong khi đó, mức giá này

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201460

trên mạng cáp quang và cáp lần lượt chỉ là 3,61 USD và 1,63 USD. Đây chính là nguyên nhân cơ bản khiến cho thị phần thuê bao cáp đồng liên tục giảm trong khi thị phần cáp và cáp quang tăng trưởng mạnh trong vài quý vừa qua. Đây cũng là quý đầu tiên thị phần thuê bao cáp đồng giảm xuống dưới mức 50% và được dự báo sẽ giảm tiếp trong những quý tới.

Biểu đồ thống kê cước phí trung bình trên mỗi megabit, quý 2/2014

Nguồn: Point Topic

Xét theo khu vực, thuê bao băng rộng cố định tại những thị trường phát triển sớm như Đông Âu, Tây Âu và Bắc Mỹ được sử dụng dịch vụ với mức giá thấp nhất thế giới (trung bình khoảng 200 USD). Trong khi đó, những thuê bao tại các thị trường đang phát triển và mới nổi thuộc Đông Nam Á phải chi trả mức giá cao nhất (gần 500 USD), tiếp theo là Trung Đông và châu Phi (hơn 300 USD) và Mỹ La tinh (khoảng 250 USD).

2. Quý 2/2014: Thuê bao IPTV thế giới phát triển mới đạt mức cao nhất kể từ quý 1/2013

Chất lượng băng thông và sự vượt trội về khả năng tương tác giữa người xem và dịch vụ gia tăng chính là chìa khoá để IPTV tiếp tục gặt hái thành công trong quý 2/2014. Ngoài ra, sự số hóa của truyền hình cáp và vệ tinh cũng buộc các nhà cung cấp dịch vụ IPTV phải cạnh tranh để giành được khách hàng mới. Tất cả dẫn tới sự phát triển bền vững của IPTV trong thời gian gần đây. Bằng chứng cụ thể là, theo thống kê quý 2/2014 của Point Topic, mặc dù vẫn phải cạnh tranh với các nhà cung cấp dịch vụ OTT cũng như các mạng truyền hình mặt đất và truyền hình cáp nhưng thị trường IPTV toàn cầu vẫn phát triển thêm được 4,81 triệu thuê bao mới, mức tăng

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 61

theo quý cao nhất kể từ quý 1/2013, nâng tổng số thuê bao IPTV toàn cầu lên 106 triệu. Nếu so với 700 triệu thuê bao băng rộng cố định thì IPTV chiếm thị phần 15,1%. Trong đó, riêng Trung Quốc đã phát triển được 2,1 triệu thuê bao mới, chiếm thị phần 44%. Còn Tây Ban Nha lại thu hút sự chú ý bằng tỉ lệ tăng trưởng quý lên tới 60%, cao gấp hơn 10 lần tỉ lệ trung bình toàn cầu. Tiêu biểu nhất, nhà mạng Moviestar tại quốc gia này đã thu hút thêm được nhiều người dùng mới thông qua việc tăng cường diện tích vùng phủ và đa dạng hóa các gói cước truyền hình có nội dung liên quan đến các chương trình thể thao.

Thống kê tốc độ tăng trưởng và số lượng thuê bao IPTV toàn cầugiai đoạn Q2/2013 – Q2/2014

Nguồn: Point Topic

Theo dự báo của Digital TV Research, thuê bao IPTV sẽ tiếp tục gia tăng để đạt 111,9 triệu vào cuối năm nay và 191,2 triệu vào năm 2020. Về doanh thu, thị trường IPTV toàn cầu cũng được dự báo đạt 18,3 tỷ USD trong năm 2014 và 26,2 tỷ USD vào năm 2020. Phần lớn doanh thu đến từ các thị trường IPTV phát triển sớm như Mỹ, Nhật Bản, Pháp và Hàn Quốc. Thị phần doanh thu của khu vực châu Á Thái Bình Dương sẽ tăng từ 17% năm 2010 lên 30% vào năm 2020, nhưng Bắc Mỹ sẽ vẫn là khu vực dẫn đầu về doanh thu IPTV. Trên thực tế, IPTV là một dịch vụ hấp dẫn đối với cả các nhà khai thác viễn thông và các ISP bởi 2 lý do chính. Thứ nhất, IPTV tạo ra một nguồn doanh thu hoàn toàn mới để bù lại sự sụt giảm doanh thu của các dịch vụ thoại và dữ liệu truyền thống. Thứ hai, nó giúp giảm sự thay đổi của khách hàng thông qua việc tích hợp các dịch vụ truyền thông và giải trí.

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201462

Xét theo khu vực, Đông Á vẫn tiếp tục là thị trường IPTV lớn nhất thế giới tính theo số lượng thuê bao. Với số thuê bao phát triển mới đạt cao nhất cùng với những tiềm năng tăng trưởng chưa được khai thác hết, thị phần thuê bao của khu vực này chắc chắn sẽ duy trì ở mức cao trong ít nhất là vài năm tới. Cụ thể trong quý 2/2014, toàn khu vực châu Á chiếm thị phần 51,17% thuê bao IPTV toàn cầu, trong đó riêng Đông Á chiếm 47,77%. Tiếp theo là châu Âu (35,15%), Bắc Mỹ (13,11%), phần không đáng kể còn lại thuộc về châu Đại Dương, châu Mỹ và châu Phi.

Thị phần thuê bao IPTV theo khu vực địa lý, quý 2/2014

Nguồn: Point Topic

Trung Quốc tiếp tục là thị trường IPTV lớn nhất thế giới với 34,8 triệu thuê bao, chiếm thị phần 32,8% thị trường IPTV toàn cầu. Tuy nhiên, Trung Quốc có được vị trí này lại nhờ lợi thế dân số đông còn trên thực tế mức thâm nhập IPTV/dân số còn kém xa so với các vị trí tiếp theo như Pháp, Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản. Bảng xếp hạng top 10 quốc gia IPTV lớn nhất thế giới quý 2/2014 không có gì thay đổi so với quý trước. Mặc dù Tây Ban Nha đạt tăng trưởng quý lên tới 60% nhưng vẫn không có tên trong bảng xếp hạng top 10 lần này. Theo dự báo, nếu duy trì được tốc độ tăng trưởng như hiện nay thì Tây Ban Nha rất có thể sẽ thay thế Việt Nam để chiếm vị trí thứ 10 trong top 10 của quý 3/2014. Các vị trí tiếp theo trong top 10 bao gồm Pháp (15 triệu), Mỹ (12,6 triệu), Hàn Quốc (9,6 triệu), Nhật Bản (4,6 triệu), Nga (4,4 triệu), Đức (2,8 triệu), Anh (2,1 triệu), Hà Lan (1,8 triệu) và cuối cùng là Việt Nam (1,7 triệu). Riêng 10 quốc gia này đã có tới 89,4 triệu thuê bao IPTV, chiếm 84,3% thị trường thuê bao IPTV toàn cầu.

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 63

3. Lượng người dùng Internet tiếp tục gia tăng Báo cáo của ITU vừa được công bố một lần nữa khẳng định, các công nghệ

ICT giờ đây đã có mặt ở hầu hết các phương diện trong cuộc sống hàng ngày của con người từ thương mại đến giải trí, thậm chí cả văn hóa. Việc sử dụng điện thoại di động, máy tính để bàn, thiết bị cầm tay, thư điện tử và sử dụng Internet đã trở thành tâm điểm trong văn hóa, giúp tạo nên một xã hội toàn cầu, nơi mà mọi người có thể tương tác và liên lạc với nhau một cách nhanh chóng và hiệu quả. ICT chắc chắn sẽ tiếp tục là những động lực chính thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội toàn cầu.

Theo dự báo, thế giới sẽ có gần 3 tỷ người dùng Internet vào cuối năm nay, khi đó mức thâm nhập sẽ đạt khoảng 40%, hai phần ba trong số đó đến từ các quốc gia, khu vực đang phát triển. Hiện, châu Á –Thái Bình Dương là khu vực dẫn đầu về lượng người sử dụng Internet còn các quốc gia châu Âu lại dẫn đầu về mức thâm nhập Internet/dân số (75%). Trong khi đó, mức thâm nhập internet/dân số thấp nhất được ghi nhận tại châu Phi (khoảng 20%).

Về băng rộng di động, là một phân khúc thị trường ICT tăng trưởng nhanh nhất, thị trường băng rộng di động toàn cầu dự báo sẽ có hơn 2,3 tỷ người dùng vào cuối năm 2014, 55% trong số đó đến từ các quốc gia, khu vực đang phát triển. Con số này được dự báo sẽ tăng lên thành 6,7 tỷ người vào năm 2019. Hiện thuê bao băng rộng di động tăng nhanh gấp 3 lần so với thuê bao băng rộng cố định. Đó là nhờ sự phổ biến của các ứng dụng về truyền thông xã hội.

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201464

Dự báo thị trường băng rộng năm 2019

Hiện có 1,9 tỷ người hiện đang tham gia vào các mạng xã hội. Hàn Quốc có tỷ lệ thâm nhập băng rộng trên hộ gia đình cao nhất thế giới đạt trên 98%. Monaco vượt Thụy Sĩ dẫn đầu thế giới về mức thâm nhập băng rộng cố định, chiếm 44% dân số. Mỹ đứng thứ 19 trên thế giới về số người trực tuyến, tiếp theo là các nước thuộc tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Âu (OECD) như Đức (đứng thứ 20), Úc (thứ 21), Anh (đứng thứ 12), Nhật Bản (thứ 15) và Canada (thứ 16)… Tổng số hiện có 77 quốc gia đạt trên 50% dân số có kết nối mạng, Top 10 nước đứng đầu thế giới về sử dụng Internet thuộc khu vực châu Âu, trong đó Iceland dẫn đầu với tỉ lệ 96,5% người dân sử dụng Internet. Trong khi đó, khu vực có tỷ lệ truy cập Internet thấp nhất đạt xấp xỉ chỉ 2% chủ yếu ở khu vực châu Phi cận Sahara như Ethiopia (1,9%), Niger (1,7%), Guinea (1,6% ), Somalia (1,5%), Burundi (1,3%)... Bên cạnh đó, 10 quốc gia có tỷ lệ người dân truy cập Internet thấp nhất bao gồm Myanmar (1,2%) và Đông Timor (1,1%).

Mặc dù băng rộng đang ngày càng gia tăng nhưng có đến 90% người dân ở 48 quốc gia kém phát triển nhất thế giới vẫn chưa được tiếp cận các dịch vụ internet. Theo khuyến cáo của ITU, Internet băng rộng ngày càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy các tổ chức cần ưu tiên phát triển băng rộng ở các quốc gia nghèo trên thế giới để thúc đẩy các lĩnh vực y tế, giáo dục, quản lý môi trường…

4. Tốc độ kết nối Internet trung bình toàn cầu chính thức vượt mốc 4 MbpsTheo báo cáo “Thực trạng Internet” của Akamai, tốc độ kết nối internet trung

bình toàn cầu trong quý 2/2014 tăng 21% (tương đương 0,7 Mbps) so với quý trước để đạt tốc độ 4,6 Mbps. Đây là lần đầu tiên tốc độ này vượt mốc 4 Mbps sau nhiều cố

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 65

gắng và chờ đợi. Tám trong top 10 quốc gia có tốc độ kết nối Internet trung bình cao nhất thế giới đều ghi nhận tốc độ tăng trưởng 2 con số. Mặc dù tốc độ tăng trưởng quý chỉ đạt 4% nhưng Hàn Quốc tiếp tục là quốc gia có tốc độ kết nối internet trung bình nhanh nhất thế giới với tốc độ 24,6 Mbps. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng quý 18%, đạt 15,7 Mbps đã giúp cho Hồng Kông vượt Nhật Bản để chiếm vị trí số 2. Bên cạnh đó, 4 quốc gia trong top 10 này ghi nhận tốc độ tăng trưởng năm lớn hơn 50%, dẫn đầu là Hàn Quốc (84%). Tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt mức dương tại 136 quốc gia trên thế giới, trải dài từ mức cao nhất là 197% tại Uruguay (5,6 Mbps) đến mức thấp nhất là 1,2% tại các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất (4,6 Mbps).

Về tốc độ kết nối đỉnh trung bình toàn cầu, trong quý 2/2014, tốc độ này đã tăng 20% so với quý trước đó để đạt 25,4 Mbps. Trong tổng số 139 quốc gia được Akamai khảo sát tốc độ thì có tới 138 quốc gia ghi nhận tăng trưởng quý đạt mức dương, trải dài từ 2,3% tại Iraq (30,4 Mbps) cho đến 65% tại Jersey (43,2 Mbps). Còn nhớ, trong quý 1/2014, tốc độ này giảm tại 92 quốc gia/khu vực với mức giảm trải dài từ 0,1% đến 61%. Nếu so với cùng kỳ năm 2013, tốc độ kết nối đỉnh trung bình toàn cầu tăng 34%. Mức tăng trải dài từ 0,1% tại Lebanon tới 225% tại Uruguay.

Cũng theo báo cáo của Akamai, tỉ lệ kết nối Internet đạt tốc độ từ 4 Mbps trở lên tăng 5,6% trong quý 2/2014 và đạt tỉ lệ 59%. Thậm chí tỉ lệ này còn đạt tới 95% tại Hàn Quốc và Bulgaria. Tỉ lệ kết nối Internet đạt tốc độ từ 10 Mbps trở lên tiếp tục tăng mạnh (12%) trong quý 2/2014, đạt tỉ lệ 23%. Trong khi đó, tỉ lệ kết nối Internet đạt tốc độ từ 15 Mbps trở lên đạt 12%, tăng 17% so với tỉ lệ 11% vào quý trước. Hàn Quốc, Hồng Kông và Nhật Bản là 3 quốc gia có tốc độ kết nối Internet đạt từ 15 Mbps

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201466

trở lên cao nhất thế giới với tỉ lệ lần lượt là 62%, 34% và 33%.

Trong quý 2/2014, Akamai cũng tiến hành khảo sát lưu lượng tấn công bắt nguồn từ 161 quốc gia trên thế giới. Theo đó, Trung Quốc tiếp tục là mối “đe dọa” Internet lớn nhất thế giới khi có đến 43% cuộc tấn công trên mạng Internet bắt nguồn từ nước này, tăng 2% so với quý trước. Indonesia và Mỹ theo sau với tỉ lệ lần lượt là 15% và 13%. Riêng top 10 quốc gia có lưu lượng tấn công mạng lớn nhất đã chiếm đến 84%, tăng đáng kể (9%) so với tỉ lệ 75% vào quý trước. Xét theo khu vực thì có đến 70% lưu lượng tấn công bắt nguồn từ châu Á Thái Bình Dương trong khi đó tỉ lệ này tại châu Phi chỉ là 0,3%. Vẫn như quý trước, Cổng 445 (Microsoft-DS) và Cổng 80 (WWW/HTTP) là 2 điểm mục tiêu bị tấn công nhiều nhất.

Khảo sát của Akamai cũng cho thấy, trong quý 2/2014, có tổng cộng 270 vụ tấn công từ chối dịch vụ DDoS (DDoS Attack) diễn ra trên mạng Internet toàn cầu, giảm 13 vụ so với 283 vụ trong quý 1/2014. Như vậy, đây là quý thứ hai liên tiếp ghi nhận số vụ tấn công từ chối dịch vụ DDoS giảm trên phạm vi toàn cầu. Xét theo khu vực, châu Mỹ là khu vực duy nhất ghi nhận sự gia tăng (11%) số vụ tấn công so với quý trước. Kết quả là, khu vực này chiếm đến 57% số vụ tấn công DDoS toàn cầu. Số vụ tấn công còn lại diễn ra tại châu Á – Thái Bình Dương (25%), khu vực này có mức giảm sâu nhất (23%), toàn khu vực châu Âu, Trung Đông và châu Phi (EMEA) chỉ chiếm 18% số vụ tấn công.

Ngoài ra, Akamai còn khảo sát tốc độ kết nối di động. Theo đó, Hàn Quốc tiếp tục là quốc gia có tốc độ kết nối di động trung bình cao nhất thế giới với 15,2 Mbps, tăng đáng kể so với 14,7 Mbps vào quý trước. Trong khi đó, tốc độ này của Việt Nam chỉ đạt 0,9 Mbps. Tốc độ kết nối đỉnh trung bình trên các mạng di động đạt mức cao nhất (108 Mbps) tại Australia đến mức thấp nhất (4,7 Mbps) tại Việt Nam.

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/2014 67

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI QUA CÁC CON SỐ

7,023 tỷ là tổng số kết nối di động toàn cầu tính đến hết quý 2/2014

1,627 tỷ là số lượng kết nối đang hoạt động trên các hệ thống đa truy cập phân chia theo mã băng rộng WCDMA (Wideband Code Division Multiple Access), bao gồm cả HSPA

4,4 tỷ là số lượng kết nối di động đang hoạt động trên các hệ thống GSM

1,6 tỷ số lượng kết nối di động đang hoạt động trên các hệ thống HSPA

280,4 triệu là tổng số thuê bao LTE trên toàn thế giới tính đến hết quý 2/2014

6,31 tỷ là số kết nối được thực hiện trên các mạng di động thuộc họ công nghệ 3GPP (GSM/EDGE, WCDMA-HSPA/HSPA+ and LTE), chiếm 89,9% thị phần kết nối theo công nghệ di động toàn cầu

581 là số nhà mạng cam kết triển khai mạng truy cập gói tốc độ cao HSPA (High-Speed Packet Access) tại 211 quốc gia

547 là số mạng HSPA cung cấp dịch vụ thương mại tại 205 quốc gia.

100% là tỉ lệ nhà khai thác mạng đa truy nhập phân chia theo mã băng rộng WCDMA (Wideband Code Division Multiple Access) trên toàn cầu cũng triển khai mạng HSPA

363 là số mạng HSPA+ đang cung cấp dịch vụ thương mại tại 157 quốc gia (mạng nâng cấp từ HSPA, nhằm cung cấp băng rộng di động lên đến 28 Mbps và tăng

THỊ TRƯỜNG VIỄN THÔNG THẾ GIỚI

BÁO CÁO VIỄN THÔNG VIỆT NAM QUÝ III/201468

dung lượng mạng mà không cần có băng tần mới)

159 là số mạng DC-HSPA+ được khai trương thương mại tại 83 quốc gia.

80 là số nhà khai thác triển khai mạng UMTS900 thương mại trong băng tần 900 MHz tại 53 quốc gia

116 là số nhà mạng cung cấp dịch vụ thoại chất lượng cao sử dụng công nghệ giải mã thích ứng băng rộng đa tốc độ - Mobile HD Voice (W-AMR) tại 75 quốc gia.

329 là số mẫu điện thoại có khả năng hỗ trợ dịch vụ HD Voice (W-AMR) được công bố bởi 19 nhà cung cấp

1354 là số mẫu thiết bị hỗ trợ cả 2 mạng LTE và HSPA (Dual-mode LTE-HSPA), bao gồm cả 691 mẫu thiết bị LTE hỗ trợ mạng 42 Mbps DC-HSPA+

1.889 là tổng số mẫu thiết bị LTE được giới thiệu bởi 168 nhà sản xuất

553 là số cam kết triển khai LTE trên toàn cầu tính đến ngày 17/09/2014 tại 156 quốc gia

331 là số mạng LTE đã chính thức cung cấp dịch vụ thương mại tại 112 quốc gia

584 là số nhà mạng trên thế giới đã và đang đầu tư cho LTE tại 168 quốc gia

40 là số mạng LTE TDD đã chính thức cung cấp dịch vụ thương mại tại 27 quốc gia

13 là số nhà mạng sử dụng cả 2 chuẩn FDD và TDD

150 là số mạng LTE được triển khai thương mại trên băng tần 1800 MHz (3GPP band 3) tại 72 quốc gia

350 là số mạng LTE được GSA dự báo sẽ chính thức cung cấp dịch vụ thương mại vào cuối năm 2014

1800 MHz là băng tần được sử dụng nhiều nhất cho triển khai LTE trên toàn cầu

LTE1800 chiếm trên 45,3% trong tổng số mạng 331 mạng LTE thương mại

92 là số mẫu điện thoại LTE có khả năng hỗ trợ dịch vụ thoại qua mạng LTE (VoLTE)

4,6 Mbps là tốc độ kết nối internet trung bình toàn cầu quý 2/2014

25,4 Mbps là tốc độ kết nối đỉnh trung bình toàn cầu quý 2/2014

700,19 triệu là tổng số thuê bao băng rộng cố định quý 2/2014

106 triệu là tổng số thuê bao IPTV toàn cầu quý 2/2014Nguồn: gsacom.com