69
BÀI TẬP NHÓM NHÓM 4 LỚP K53A 1. Cao Duy Thịnh 2. Nguyễn Tiến Định 3. Võ Thị Hương 4. Hồ Vũ Quỳnh Anh 5. Trần Thị Quyên 6. Trần Thị Ngọc Anh 7. Lê Vạn Hiệp 8. Nguyễn Thị Việt Anh 9. Nguyễn Thị Châm 10. Tô Thị Huệ 11. Nguyễn Thị Thu Thúy 12. Nguyễn Thị Phương Dung 1

Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

BÀI TẬP NHÓM

NHÓM 4 LỚP K53A

1. Cao Duy Thịnh

2. Nguyễn Tiến Định

3. Võ Thị Hương

4. Hồ Vũ Quỳnh Anh

5. Trần Thị Quyên

6. Trần Thị Ngọc Anh

7. Lê Vạn Hiệp

8. Nguyễn Thị Việt Anh

9. Nguyễn Thị Châm

10.Tô Thị Huệ

11.Nguyễn Thị Thu Thúy

12.Nguyễn Thị Phương Dung

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI KHI CHIA DI SẢN

THỪA KẾ

1

Page 2: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

Ở Việt Nam đất đai thuộc sở hữu toàn dân (Điều 17 Hiến pháp 1992 và Điều 5

Luật Đất đai 2003). BLDS 2005 quy định đất đai thuộc sở hữu nhà nước (Điều 200).

Như vậy nhà nước là chủ sở hữu đất đai, nhà nước có đủ mọi quyền năng của một chủ

sở hữu gồm chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đất đai. Trong đó quyền sử dụng có ý nghĩa

thực tế lớn nhất, trực tiếp đem lại lợi ích cho chủ sở hữu. Nhưng nhà nước không phải

là chủ thể trực tiếp sử dụng đất mà gián tiếp sử dụng thông qua các tổ chức, cá nhân

được nhà nước giao đất, cho thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất của những

người sử dụng ổn định.

Theo quy định của BLDS 2005 thì quyền sử dụng là quyền khai thác công

dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản (Điều 192). Nhưng quyền sử dụng đất là một

quyền đặc biệt bởi nó không gắn liền với chủ sở hữu mà tách khỏi quyền sở hữu đất

đai của nhà nước. Hơn nữa người sử dụng đất không những có quyền khai thác các lợi

ích từ đất mà còn được chuyển quyền sử dụng đất và thực hiện các giao dịch dân sự

kinh tế về đất đai. Có thể nói nhà nước trao người sử dụng đất quyền định đoạt số phận

pháp lý của thửa đất mà mình sử dụng trong khuân khổ pháp luật quy định, nhờ đó

người sử dụng ngoài việc khai thác, sử dụng đất còn có thể chủ động thực hiện viêc

chuyển giao quyền sử dụng của mình cho người khác. Một trong những quyền chuyển

giao tiêu biểu và cũng đặc biệt của quyền sử dụng đất là quyền để lại thừa kế.

Tuy nhiên vì quyền sử dụng đất là một loại tài sản , nhưng là tài sản đặc biệt

nên quy chế pháp lý liên quan tới việc thừa kế đất cũng khá chặt chẽ, đồng thời với

vấn đề quyền được để lại thừa kế thì vấn đề hưởng di sản thừa kế và chia di sản thừa

kế cũng có những phức tạp mà biểu hiện cụ thể nhất là vấn đề tranh chấp khi chia di

sản thừa kế quyền sử dụng đất.

I. Khái quát chung về tranh chấp đất đai.

1. Về khái niệm tranh chấp đất đai.

Tranh chấp đất đâi là hiện tượng thường xảy ra trong đời sống xã hội ở mọi thời

kì lịch sử. Trong một xã hội tồn tại sự đối kháng giữa các giai cấp thì đất đai luôn là

đối tượng tranh chấp giữa chúa đất và nông dân, giữa đông đảo quần chúng nhân dân

không có đất và những chủ đất lớn. Nói cách khác, đó là tranh chấp giữa những kẻ áp

2

Page 3: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

bức và những người bị áp bức. Những tranh chấp này biểu hiện mâu thuẫn đối kháng

giữa các giai cấp, khi xung đột không thể điều hòa được thì tất yếu phải giải quyết

bằng các cuộc cách mạng xã hội để thay thế chế độ sở hữu đất đai này bằng chế độ sở

hữu đất đai khác tiến bộ hơn. Cụ thể hơn, tranh chấp đất đai là sự mâu thuẫn, bất đồng

hay xung đột về lợi ích , về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào các

quan hệ pháp luật đất đai.

Tranh chấp đất đai là một hiện tượng bình thường trong mọi đời sống xã hội,

không phụ thuộc vào chế độ sở hữu đất đai. Đối với Việt Nam, trong suốt thời gian từ

khi chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai được thiết lập từ năm 1980 cho đến nay,

tranh chấp đất đai luôn là vấn đề thời sự, có những diễn biến rất phức tạp, ảnh hưởng

xấu đến việc quản lý, sử dụng đất nói riêng và gây những bất ổn nhất định đối với đời

sống kinh tế - xã hội nói chung.

Một số đặc điểm chủ yếu của tranh chấp đất đai:

- Một là, đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền quản lý, quyền sử dụng và những

lợi ích phát sinh từ quá trình sử dụng một loại tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở

hữu của các bên tranh chấp.

- Hai là, các bên tranh chấp đất đai chỉ là chủ thể quản lý và sử dụng đất, không có

quyền sở hữu đối với đất đai.

- Ba là, tranh chấp đất đai luôn gắn liền với quá trình sử dụng đất của các bên chủ thể

nên không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích trực tiếp của các bên tham gia tranh chấp mà còn

ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước. Vì thế, khi xảy ra tranh chấp, một bên không

thực hiện được những quyền của mình, do đó ảnh hưởng đến việc thực hiện các nghĩa

vụ đối với Nhà nước.

Trải nhiều giai đoạn với những chính sách đất đai khác nhau, cho dù đất đai có

được coi là một loại tài sản có giá, quyền sử dụng đất có phải là hàng hóa đặc biệt hay

không, hiện tượng tranh chấp đất đai đều được pháp luật chính thức ghi nhận và quy

định việc giải quyết. Tuy nhiên, cho đến trước khi Luật Đất đai 2003 ra đời, thuật ngữ

“tranh chấp đất đai” chưa một lần được chính thức giải thích, mà chủ yếu là chỉ được

“hiểu ngầm” qua các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai, quy định

về giải quyết các tranh chấp khác có liên quan đến quyền sử dụng đất trong các đạo

3

Page 4: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

luật Luật Đất đai qua các thời kỳ và trong các văn bản pháp luật có liên quan của các

cơ quan nhà nước.

Luật Đất đai 2003 lần đầu tiên tại khoản 26 Điều 4 quy định: “tranh chấp đất

đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên

trong quan hệ đất đai”. Khái niệm này đã được đón nhận với nhiều nhận thức và cảm

xúc khác nhau, bởi đây là một khái niệm có nội hàm tương đối rộng và cũng không

mấy rõ ràng. Theo khái niệm này, đối tượng tranh chấp trong tranh chấp đất đai là

quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Nhưng, đây là tranh chấp tổng thể các

quyền và nghĩa vụ hay chỉ là tranh chấp từng quyền và nghĩa vụ “đơn lẻ” của người sử

dụng đất do pháp luật đất đai quy định, hay bao gồm cả tranh chấp những quyền và

nghĩa vụ mà người sử dụng đất có được khi tham gia vào các quan hệ pháp luật khác

cho đến nay vẫn chưa được chính thức xác định. Bên cạnh đó, chủ thể tranh chấp vốn

được gọi là “hai hay nhiều bên” cũng không được định danh về loại chủ thể: chỉ là

người sử dụng đất hay tất cả các chủ thể có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người

sử dụng đất trong quan hệ tranh chấp đất đai? Chính sự chung chung này đã khiến cho

nội dung của tranh chấp đất đai nhiều lúc được mở rộng tối đa ở mức độ có thể. Đã có

quan niệm cho rằng, tranh chấp đất đai“là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham

quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng

đất”; hoặc “tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về

quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai”.

Rõ ràng, các quan điểm trên đã mở rộng một cách tuyệt đối khái niệm tranh

chấp đất đai. Theo đó, tranh chấp đất đai bao gồm tất cả các tranh chấp phát sinh từ

các quyền và nghĩa vụ củangười sử dụng đất, và tất nhiên trong đó có cả các tranh

chấp tài sản gắn liền với đất, tranh chấp hợp đồng giao dịch về quyền sử dụng đất.

Theo quan điểm này, tranh chấp đất đai là một khái niệm rộng, bao gồm tranh

chấp quyền sử dụng đất và tất cả các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, kể

cả trường hợp tranh chấp mục đích sử dụng đất và tranh chấp về địa giới hành chính

theo Điều 137 Luật Đất đai 2003. Tuy nhiên, quan điểm trên không thuyết phục vì đã

không được chứng minh bởi một căn cứ pháp lý cụ thể nào. Xem xét toàn bộ các quy

định của pháp luật đất đai cho đến thời điểm này, có lẽ chỉ có một quy định duy nhất

4

Page 5: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

mà thông qua nội dung và cách thiết kế của nó, khái niệm tranh chấp đất đai mới có

thể được suy diễn theo nghĩa rộng, đó là Điều 136 Luật Đất đai 2003 về thẩm quyền

giải quyết tranh chấp đất đai. Lý lẽ có thể được đưa ra ở đây là, Điều 136 Luật Đất đai

2003 khi quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai đã phân chia vấn đề ra

thành hai trường hợp: thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất và thẩm

quyền giải quyết tranh chấp tài sản gắn liền với đất. Do đó, dựa vào nội dung Điều 136

Luật Đất đai 2003 người ta có thể quy kết: tranh chấp đất đai không thể đồng nhất với

tranh chấp quyền sử dụng đất, hay nói cách khác tranh chấp đất đai là khái niệm rộng

hơn khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất.

Tuy nhiên, cách hiểu trên lại vấp phải một vấn đề rất lớn về mặt pháp lý, đó là

sự không phù hợp giữa khái niệm tranh chấp đất đai và vấn đề thẩm quyền, thủ tục giải

quyết tranh chấp đất đai, cũng như một số quy định có liên quan khác của pháp luật về

tranh chấp đất đai.

Thứ nhất, theo Điều 135 Luật Đất đai 2003, tranh chấp đất đai buộc phải được

thông qua hòa giải tại ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất, trước khi được đưa ra các cơ

quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Như vậy, nếu coi tranh chấp đất đai là một khái niệm rộng như trên thì các

tranh chấp có liên quan đến đất đai như tranh chấp tài sản gắn liền với đất, tranh chấp

hợp đồng giao dịch quyền sử dụng đất cũng phải được hòa giải tại UBND cấp xã. Điều

này là không phù hợp với pháp luật đất đai, pháp luật về tố tụng dân sự và thực tiễn

cũng chưa bao giờ xảy ra, bởi đó chỉ là những tranh chấp dân sự thuần túy và việc hòa

giải tại UBND cấp xã như là một thủ tục bắt buộc chỉ áp dụng đối với tranh chấp

quyền sử dụng đất.

Thứ hai, quan niệm này cũng không phù hợp với thuật ngữ tranh chấp đất đai

được sử dụng tại Điều 160 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ( NĐ 181) của Chính phủ ngày

29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai 2003. Cụ thể là, theo Điều 160 NĐ 181 thì việc

giải quyết các “tranh chấp đất đai” trong trường hợp đương sự không có giấy tờ về

quyền sử dụng đất được quy định tại khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật Đất đai 2003 sẽ thuộc

về thẩm quyền của cơ quan hành chính. Tất nhiên ai cũng biết rằng, cơ quan hành

chính không thể giải quyết tranh chấp tài sản nào khác, ngoài tranh chấp quyền sử

5

Page 6: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

dụng đất. Do đó, nếu lấy cách hiểu thuật ngữ tranh chấp đất đai tại Điều 135 Luật Đất

đai 2003, Điều 160 NĐ 181 làm chuẩn thì khái niệm tranh chấp đất đai phải được coi

là đồng nghĩa với khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất.

Như vậy, phải hiểu thế nào là tranh chấp đất đai cho phù hợp, cả về lý luận lẫn

về mặt pháp lý? Không thể có việc một thuật ngữ pháp lý trong cùng một văn bản

pháp luật lại được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Muốn làm rõ điều này, chúng ta

cần có sự phân tích cặn kẽ những cách hiểu khác nhau về tranh chấp đất đai và hạn chế

của quan niệm quá rộng nói trên về tranh chấp đất đai.

Theo những phân tích ở trên, thuật ngữ tranh chấp đất đai tại khoản 26 Điều 4

và tại Điều 135 LĐĐ 2003, 160 NĐ 181 có thể được suy diễn theo hai hướng không

giống nhau. Việc xác định thế nào là tranh chấp đất đai vì vậy sẽ phụ thuộc vào việc

quy định nào được lấy làm chuẩn mực cho khái niệm tranh chấp đất đai. Nếu hiểu theo

nghĩa rộng, khái niệm tranh chấp đất đai tại khoản 26 Điều 4 Luật Đất đai 2003 sẽ

được lấy làm tiêu chuẩn để đánh giá các quy định có liên quan còn lại của pháp luật

đất đai về vấn đề này. Từ đây ta có thể đưa ra một số đúc kết sau:

Thứ nhất, quy định tại khoản 26 Điều 4 Luật Đất đai 2003 như đã phân tích ở

trên là quy định không được rõ ràng, không cụ thể. Vì vậy, việc lấy một quy định

không rõ ràng làm tiêu chuẩn để đánh giá những quy định cụ thể (Điều 135 Luật Đất

đai 2003, Điều 160 NĐ 181) là hoàn toàn không khoa học. Hơn nữa, việc mở rộng

khái niệm tranh chấp đất đai như trên không đem lại một giá trị thực tiễn nào.

Thứ hai, mỗi một thuật ngữ có một phạm vi biểu đạt ý nghĩa nhất định, không

thể mở rộng hay thu hẹp một cách không có giới hạn theo ý chí chủ quan được. Điều

này không khó chứng minh khi phân tích thuật ngữtranh chấp đất đai. Theo giải thích

của Từ điển tiếng Việt thì tranh chấp nói chung được hiểu là việc “giành nhau một

cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào”. Cho nên, thuật ngữ tranh chấp đất đai tự

thân nó đã nói lên đối tượng tranh chấp: đó chính là đất đai. Vấn đề là các chủ thể thực

hiện hành vi tranh chấp đất đai như thế nào, thông qua yếu tố gì thì lại phụ thuộc vào

vấn đề chế độ sở hữu đất đai. Trong điều kiện của chế độ tư hữu đất đai, tranh chấp đất

đai thường là tranh chấp về quyền sở hữu đất đai. Với chế độ sở hữu đất đai “hỗn hợp”

như trường hợp của Trung Quốc chẳng hạn (với đất đô thị thuộc sở hữu nhà nước, đất

6

Page 7: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

ở khu vực nông thôn thuộc sở hữu tập thể, tranh chấp đất đai được xác định ở 2 dạng:

đó là tranh chấp quyền sở hữu và quyền sử dụng đất (disputes over land ownership and

the right to use).

Từ đó có thể thấy rằng, tranh chấp đất đai ở nước ta theo quy định của pháp luật

chỉ có thể hiểu là tranh chấpquyền sử dụng đất. Điều này được củng cố thêm bởi hai

cơ sở:

- Một là, xuất phát từ chế độ sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước) đối với toàn bộ

đất đai, người sử dụng đất chỉ có quyền sử dụng đối với đất đai, vì vậy, cái mà họ

tranh chấp khi tranh chấp đất đai chỉ có thể là quyền sử dụng đất.

- Hai là, các thuật ngữ tranh chấp đất đai và tranh chấp quyền sử dụng đất đã được sử

dụng như những thuật ngữ thay thế nhau kể từ Luật Đất đai 1987 đến nay mà không hề

có sự phân biệt.

Hơn nữa, các tranh chấp có liên quan đến quyền sử dụng đất của người sử dụng

đất (gồm tranh chấp tài sản gắn liền với đất, tranh chấp hợp đồng giao dịchquyền sử

dụng đất) cũng đã từng được định danh cụ thể trong một số văn bản hướng dẫn về

thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan đến đất đai với tên gọi là “tranh chấp liên

quan đếnquyền sử dụng đất”, chứ không phải là tranh chấp đất đai một cách chung

chung. Do đó, việc mở rộng khái niệm tranh chấp đất đai như trên trong điều kiện Việt

Nam là không hợp lý và làm lu mờ đi đặc trưng của quan hệ đất đai, tạo ra một món

“thập cẩm” không có hương vị rõ ràng, “cơm không ra cơm, cháo không ra cháo”, vốn

thường thấy ở những đầu bếp bất đắc dĩ.

Ngược lại, việc đồng nhất tranh chấp đất đai với tranh chấp quyền sử dụng đất

về mặt lý luận tạo nên được sự cụ thể về đối tượng tranh chấp, làm nổi bật đặc trưng

của quan hệ đất đai. Từ đây tạo ra được một ranh giới tương đối rõ ràng giữa tranh

chấp đất đai với các tranh chấp dân sự thông thường khác có liên quan đến đất đai và

lý giải được tạo sao việc giải quyết tranh chấp đất đai lại có thể được tiến hành bởi các

cơ quan hành chính nhà nước, theo các thủ tục hành chính nhất định. Đó là, cơ quan

hành chính không phải giải quyết tranh chấp đất đai dưới góc độ là một hoạt động

phân xử về tài sản thông thường, mà với tư cách là người đại diện chủ sở hữu quyết

định ai sẽ là người có quyền sử dụng đối với đất đang bị tranh chấp, khi đất đó về mặt

7

Page 8: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

hình thức pháp lý chưa được chính thức trao cho ai sử dụng (đương sự không có giấy

tờ về quyền sử dụng đất).

* Nếu đồng nhất tranh chấp đất đai với tranh chấp quyền sử dụng đất thì nhiệm vụ còn

lại ở đây là lý giải thế nào cho phù hợp về khái niệm: “tranh chấp đất đai là tranh chấp

về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất” tại khoản 26 Điều 4 Luật Đất đai 2003,

dù rằng việc lý giải này là không cần thiết bởi ngôn từ được dùng trong khái niệm trên

chỉ là “sản phẩm” mang tính chủ quan của các nhà làm luật.

Quyền sử dụng đất, nếu xét ở góc độ là quyền sử dụng một loại tài sản, hiểu

theo nghĩa thông thường, chỉ là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ

tài sản đất đai. Ở góc độ này, quyền sử dụng đất đai là một khái niệm pháp lý. Tuy

nhiên, theo pháp luật đất đai, ý nghĩa trên chỉ chiếm một phần nội dung về quyền sử

dụng đất củangười sử dụng đất.

Theo pháp luật hiện hành, ngoài việc khai thác, hưởng các lợi ích từ đất đai nói

trên, quyền sử dụng đất còn bao hàm cả việc người sử dụng đất được quyền thực hiện

các giao dịch về quyền sử dụng đất (như chuyển nhượng, thế chấp, tặng cho, ...) của

mình như là những giao dịch về tài sản. Và để được thực hiện các quyền giao dịch này,

người sử dụng đất phải thực hiện những nghĩa vụ tài chính nhất định đối với Nhà nước

(như nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, ... ). Ở góc độ này, quyền sử dụng đất mang

nội dung kinh tế sâu sắc và nó là một quyền kinh tế.

Như vậy, quyền sử dụng đất là một khái niệm phức tạp – nó vừa là một khái

niệm pháp lý, vừa là một khái niệm kinh tế. Có thể khẳng định rằng, quyền sử dụng

đất trong pháp luật đất đai hiện hành là một khái niệm phức tạp mà nghĩa gốc của các

từ đơn lẻ hợp thành không đủ sức thể hiện hết nội dung và bản chất của nó. Quyền sử

dụng đất vì thế có thể coi là một tổng thể không thể tách rời các quyền và nghĩa vụ của

ngừoi sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai.

Tóm lại, có thể khẳng định rằng, khái niệm “tranh chấp đất đai là tranh chấp về

quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất” tại khoản 26 Điều 4 Luật Đất đai cần được

diễn giải là tranh chấp một tổng thể những yếu tố hợp nhất tạo thành quyền sử dụng

đất nói trên, chứ không phải là việc tranh chấp từng quyền và nghĩa vụ rời rạc, đơn lẻ

hay tranh chấp về các quyền và nghĩa vụ khác của người sử dụng đất có liên quan đến

8

Page 9: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

các quyền nghĩa vụ nêu trên. Cách hiểu này đặt khái niệm tranh chấp đất đai trong mối

quan hệ không thể tách rời với tất cả các quy định có liên quan, chứ không phải cô lập

nó hoặc đặt nó lên trên tất cả các quy định khác nhằm phát huy trí tưởng tượng một

cách thái quá, dẫn đến những suy diễn không phù hợp. Có nghĩa là, không thể “trộn

lẫn” tranh chấp đất đai với những tranh chấp dân sự thuần túy có liên quan đến đất đai.

2. Các dạng tranh chấp đất đai.

Các dạng tranh chấp đất đai hiện nay rất đa dạng, phong phú, nhiều khi đan xen lẫn

nhau.

2.1. Xét theo khía cạnh về quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia tranh

chấp thì tranh chấp đất đai có thể được chia làm hai loại lớn, đó là:

- Các tranh chấp mà trong đó cần xác định ai là người có quyền sử dụng hợp pháp đất

đang tranh chấp.

- Các tranh chấp đất đai trong đó người sử dụng đất đã sử dụng đất hợp pháp, tranh

chấp chỉ phát sinh trong quá trình người đó thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.

2.1.1. Các dạng tranh chấp đất đai mà trong đó cần xác định ai là người có quyền

sử dụng hợp pháp đất đang tranh chấp.

Có thể có dạng như sau:

- Tranh chấp về quyền sử dụng đất có liên quan đến tranh chấp về địa giới hành chính.

Loại tranh chấp này thường xảy ra giữa người ở hai tỉnh, hai huyện, hai xã với nhau,

tập trung ớ những nơi có vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hóa, ở

những vị trí dọc theo triền sông lớn, những vùng có địa giới không rõ ràng, không có

mốc giới nhưng là vị trí quan trọng, ở những nơi có nguồn lâm, thổ sản quý. Cùng với

việc chia tách các đơn vị hành chính tỉnh, huyện, xã thì tranh chấp đất đai liên quan

đến địa giới hành chính tương đối nhiều.

- Tranh chấp đòi lại đất, đòi lại tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất: Thực chất đây

là dạng tranh chấp đòi lại đất, đòi lại tài sản gắn liền với đất có nguồn gốc trước đây

thuộc quyền sở hữu của họ hoặc người thân của họ mà do nhiều nguyên nhân khác

nhau họ không còn quản lý, sứ dụng nữa. Bây giờ những người này đòi lại người đang

quản lý, sử dụng dẫn đến tranh chấp.

Trong dạng tranh chấp này có các loại sau:

9

Page 10: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

+ Đòi lại đất, tài sản của họ, của người thân trong các giai đoạn khác nhau trước đây

qua các cuộc điều chỉnh đã chia, cấp cho người khác: Sau cải cách ruộng đất, nông

nghiệp, nông thôn bước vào thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp. Đặc biệt từ năm 1958,

phong trào hợp tác hóa nông nghiệp theo mô hình sản xuất tập thể, quản lý tập trung.

Ruộng đất và các tư liệu sản xuất của nông dân được tập trung vào hợp tác xã. Đến khi

thực hiện Nghị quyết T.Ư 10/TW năm 1988, đất đai được phân chia đến hộ gia đình,

cá nhân để sản xuất. Do việc phân chia đất đai không hợp lý một số cán bộ xã, huyện

đã làm sai như chia đất sản xuất cho những người không phải là nông dân để rồi những

người này đem bán, cho thuê, trong khi đó nông dân không có đất sản xuất, một số hộ

trước khi vào tập đoàn, hợp tác xã có đất, đến khi giải thể họ không có đất để canh tác.

Một số hộ thực hiện chính sách "nhường cơm sẻ áo" của Nhà nước trong những năm

1981-1986 đã nhường đất cho những người khác sử dụng, nay đòi lại... ở miền nam,

Nhà nước thực hiện chính sách cải tạo công thương nghiệp, quốc hữu hóa đất đai, nhà

cửa, tư liệu sản xuất của địa chủ, tư bản và tay sai chế độ cũ hoặc giao nhà cửa, đất đai

cho người khác sử dụng, đến nay do có sự hiểu lầm về chính sách họ cũng đòi lại

những người đang quản lý, sử dụng.

Ngoài ra, một số người bỏ đi nơi khác ở, ra nước ngoài sinh sống cũng trở về đòi lại

đất đai, tài sản trước đây của họ đã được giao cho người khác quản lý, sử dụng.

+ Tranh chấp giữa những người làm nghề thủ công, nay thất nghiệp trở về đòi lại

ruộng của những người làm nông nghiệp: Những người làm nghề thủ công trước đây

đã được phân ruộng để sản xuất, để ở, sau đó họ không sản xuất nông nghiệp nữa hoặc

chuyển đi nơi khác để làm nghề, đến nay họ trở về đòi lại đất để sản xuất, để ở.

+ Tranh chấp đòi lại đất, tài sản của nhà thờ, các dòng tu, chùa chiền, miếu mạo, nhà

thờ họ. Dạng tranh chấp này thường xảy ra như sau: Trước đây do hoàn cảnh lịch sử,

chính quyền địa phương đã mượn đất của các cơ sở nói trên để sử dụng hoặc tịch thu

một số cơ sở để làm trụ sở cơ quan, trường học... đến nay các cơ sở đó đòi lại nhưng

Nhà nước không trả lại được nên dẫn đến khiếu kiện của các cơ sở đó.

Ngoài ra, trong những trường hợp nói trên, một số người được các nhà thờ, dòng tu,

chùa chiền, nhà thờ họ cho đất để ở họ đã xây dựng nhà kiên cố, hoặc lấn chiếm thêm

đất của các cơ sở nói trên dẫn đến việc các cơ sở nói trên đòi lại đất, nhà.

10

Page 11: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

+ Tranh chấp đòi lại nhà, đất cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ: Dạng tranh chấp này

phát sinh do việc một bên cho bên kia mượn đất, thuê đất, cho ở nhờ. Có vụ cho

mượn, thuê gần đây, có vụ cho mượn, thuê cách đây vài chục năm (nhất là ở miền

nam). Trong nhiều trường hợp không làm hợp đồng, chỉ giao kết bằng miệng dẫn đến

khi bên cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ hoặc là hết hạn hợp đồng, hoặc đòi lại, bên

mượn, thuê, ở nhờ đã xây dựng nhà kiên cố, một số có tên trong sổ địa chính hoặc

được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì việc tranh chấp này càng trở nên

phức tạp, dẫn đến việc công dân khiếu kiện lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong

việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

- Tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất khi vợ chồng

ly hôn.

Đây là trường hợp tranh chấp đất hoặc tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất khi vợ

chồng ly hôn. Đất tranh chấp có thể là đất nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc đất để ở; có

thể là giữa vợ chồng với nhau hoặc giữa một bên ly hôn với hộ gia đình vợ hoặc chồng

hoặc có thể xảy ra khi bố mẹ cho con đất, đến khi con ly hôn thì cha mẹ đòi lại...

- Tranh chấp về quyền thừa kế quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với quyền sử dụng

đất. Đây là dạng tranh chấp do người cóquyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất chết

mà không để lại di chúc, hoặc để lại di chúc không phù hợp với quy định của pháp luật

và những người hưởng thừa kế không thỏa thuận được với nhau về phân chia thừa kế

hoặc thiếu hiểu biết về pháp luật dẫn đến tranh chấp.

- Tranh chấp giữa những người sử dụng với nhau về ranh giới giữa các vùng đất được

phép sử dụng và quản lý.

Đây là tranh chấp về ranh giới. Loại tranh chấp này thường do một bên tự ý thay đổi

ranh giới hoặc hai bên không xác định được với nhau về ranh giới, một số trường hợp

chiếm luôn diện tích đất của người khác. Những trường hợp tranh chấp này xảy ra

thường do ranh giới đất giữa những người sử dụng đất liền kề không rõ ràng, đất này

thường sang nhượng nhiều lần, bàn giao không rõ ràng.

Ngoài ra, việc tranh chấp ranh giới xảy ra nhiều khi do lỗi của các cơ quan nhà nước,

đó là khi cấp đất, cơ quan cấp đất có ghi diện tích, nhưng không đo đạc cụ thể khi giao

đất chỉ căn cứ vào giấy cấp đất và đơn kê khai diện tích của đương sự. Sau này khi

11

Page 12: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

đương sự đo lại thấy diện tích đất ít hơn so với quyết định cấp đất cũng như giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có

phần diện tích chồng lên nhau. Do đó cũng gây nên tranh chấp giữa các hộ liền kề

nhau. Khi giải quyết tranh chấp, các cơ quan có thẩm quyền phải xác định phần đất

tranh chấp đó là thuộc quyền sử dụng của ai.

- Tranh chấp giữa đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới với đồng bào dân tộc sở tại.

Đây là dạng tranh chấp thường xảy ra ở vùng Tây Nguyên. Việc di dân, đặc biệt là di

dân tự do khi đến nơi ở mới không phải lúc nào chính quyền sở tại cũng cấp đất cho

người dân di cư, dẫn đến việc người mới đến phá rừng, lấn chiếm đất đai dẫn đến tranh

chấp với đồng bào dân tộc sở tại.

- Tranh chấp giữa các nông trường, lâm trường và các tổ chức sử dụng đất khác với

nhân dân địa phương.

Do cơ chế trước đây nên dẫn đến tình trạng các nông trường, lâm trường, các đơn vị

quân đội bao chiếm một lượng lớn đất đai, không sử dụng hết để đất bỏ hoang hoặc

cho người dân sử dụng theo hình thức phát canh, thu tô. Mặt khác, nhiều nông trường,

lâm trường, các đơn vị quân đội quản lý đất đai lỏng lẻo dẫn đến tình trạng người dân

chiếm đất để sử dụng. Do đó cũng dẫn đến tranh chấp đất đai.

2.1.2 Các dạng tranh chấp đất đai trong đó người sử dụng đất đã sử dụng hợp pháp,

tranh chấp chỉ phát sinh trong quá trình người đó thực hiện quyền và nghĩa vụ của

mình.

Trong các dạng tranh chấp này thì người đang sử dụng đất đã sử dụng hợp pháp

đất, không có ai tranh chấp. Tuy nhiên, khi sử dụng quyền và nghĩa vụ sử dụng đất của

mình như: Thực hiện các giao dịch về dân sự, hoặc do chủ trương, chính sách của Nhà

nước như giải tỏa, trưng dụng, trưng mua hoặc do người khác gây thiệt hại, hoặc bị

hạn chế về quyền và nghĩa vụ sử dụng đất của mình mà dẫn đến tranh chấp. Có các

dạng sau:

- Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử

dụng đất, thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyềnsử dụng đất.

- Tranh chấp do người khác gây thiệt hại hoặc hạn chế quyền và nghĩa vụ phát sinh

trong quá trìnhsử dụng đất.

12

Page 13: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

- Tranh chấp về mục đích sử dụng, đặc biệt là tranh chấp về đất nông nghiệp với đất

lâm nghiệp, giữa đất trồng lúa với đất nuôi tôm, giữa đất trồng cao su với đất trồng cà

phê, giữa đất nông nghiệp với đất thổ cư trong quá trình phân bố và quy hoạch sử

dụng.

Trong thực tế trường hợp tranh chấp này xảy ra như sau: Do mục đích sử dụng

đất nên Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng để giao cho người khác sử dụng

với mục đích khác, dẫn đến người đang sử dụng đất khiếu kiện việc chuyển mục đích

sử dụng đất hay khiếu kiện việc thu hồi hoặc khiếu kiện người được giao đất sử dụng

với mục đích khác. Mặt khác, người được Nhà nước giao đất chuyển mục đích sử

dụng khiếu kiện người đang sử dụng đất phải giao đất cho mình theo quyết định giao

đất.

- Tranh chấp về giải toả mặt bằng phục vụ các công trình công cộng, lợi ích quốc gia

và mức đền bù khi thực hiện giải tỏa.

Trong tranh chấp loại này chủ yếu là khiếu kiện về giá đất đền bù, diện tích đất

được đền bù, giá cả đất tái định cư và đền bù không đúng người, giải tỏa quá mức quy

định để chừa đất cấp cho các đối tượng khác. Trong tình hình hiện nay, việc quy hoạch

mở mang đường sá, đô thị quá lớn đẫn đến việc tranh chấp loại này rất gay gắt, phức

tạp và có nhiều người, tập thể đồng loạt khiếu kiện.

Hiện nay ngoài những tranh chấp như đã trình bày trên, còn có một loại tranh

chấp nữa, đó là tranh chấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai tức là tranh chấp

hành chính về đất đai. Các tranh chấp thuộc nhóm này thường nảy sinh khi các đương

sự quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan quản lý nhà nước về

đất đai hoặc cán bộ quản lý nhà nước về đất đai áp dụng đã làm ảnh hưởng đến quyền

và lợi ích hợp pháp của họ.

Thí dụ: Các quyết định về giao đất, thu hồi đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các quyết định

về giải quyết tranh chấp đất đai.

2.2. Xét theo khía cạnh về tính chất pháp lý của tranh chấp thì tranh chấp đất đai có

thể được chia làm 3 dạng lớn đó là:

- Tranh chấp về quyền sử dụng đất.

13

Page 14: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

- Tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất.

- Tranh chấp về mục đích sử dụng đất.

2.2.1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất.

- Tranh chấp giữa những người được sử dụng đất với nhau về ranh giới giữa những

vùng đất được phép sử dụng và quản lý.

- Tranh chấp về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong quan hệ thừa kế, quan

hệ ly hôn giữa vợ và chồng.

- Đòi lại đất, tài sản gắn liền với đất của người thân trong những giai đoạn trước đây

mà qua các cuộc điều chỉnh ruộng đất đã được chia cấp cho người khác.

- Tranh chấp giữa đồng bào dân tộc địa phương với đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế

mới, giữa đồng bào địa phương với các nông trường, lâm trường và các tổ chức sử

dụng đất khác.

2.2.2. Tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất.

- Tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng về chuyển đổi, chuyển nhượng, cho

thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử

dụng đất.

- Tranh chấp về việc bồi thường giải phóng mặt bằng kho Nhà nước thu hồi đất để sử

dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng.

2.2.3. Tranh chấp về mục đích sử dụng đất.

- Tranh chấp về điạ giới hành chính.

- Tranh chấp trong nhóm đất nông nghiệp, giữa đất trông lúa với đất nuôi tôm, giữa đất

trồng cà phê với trồng cây cao su, giữa đất hương hỏa với đất thổ cư…trong qú trình

phân bổ và quy hoạch sử dụng đất.

Tuy nhiên, trong phạm vi bài tập này, chúng tôi chỉ đề cập đến việc giải quyết

một trong số các dạng tranh chấp đất đai kể trên và mang tính chất điển hình và tiêu

biểu, đó là giải quyết tranh chấp đất đai khi chia di sản thừa kế hay nói cách khác là

giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế quyền sử dụng đất.

14

Page 15: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

II. Về việc thừa kế quyền sử dụng đất và tranh chấp trong thừa kế quyền

sử dụng đất.

1. Khái niệm quyền sử dụng đất.

Quyền sử dụng đất là quyền khai thác các thuộc tính có ích của đất đai để phục

vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Xét về khía cạnh kinh tế,

quyền sử dụng đất có ý nghĩa quan trọng vì nó làm thỏa mãn cac nhu cầu và mang lại

lợi ích vật chất cho các chủ sử dụng trong quá trình sử dụng đất.Với tư cách là đại diện

15

Page 16: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

chủ sở hữu đất đai, Nhà nước không trực tiếp sử dụng đất mà giao cho các tổ chức, hộ

gia đình, các nhân sử dụng ổn định, lâu dài .

Quyền sử dụng đất cũng là một loại tài sản nên khi người có quyền sử dụng đất

chết thì việc dịch chuyển loại tài sản này của họ cho những người thừa kế cũng theo

pháp luật thừa kế.

Trước đây, trong Bộ luật Dân sự 1995, Luật Đất đai 1993, Nghi định số

17/1999/NĐ- CP và một số văn bản quy phạm pháp luật khác quy định việc dịch

chuyển, thừa kế quyền sử dụng đất chặt chẽ hơn so với việc thừa kế các loại tài sản

thông thường khác. Tính chặt chẽ này thể hiện ở các điểm sau:

- Không phải bất kì cá nhân hay tổ chức nào cũng được thừa kế quyền sử dụng đất.

- Không phải bất kì ai có quyền sử dụng đất đều có quyền để lại thừa kế.

- Việc định đoạt quyền sử dụng đất thông qua việc để lại thừa kế không hoàn toàn theo

ý chí của “ người có đất”.

Hiện nay, theo những quy định của Luật Đất đai 2003 và những quy định của

các văn bản pháp luật khác liên quan đến lĩnh vực đất đai cũng như Bộ luật Dân sự

2005 đều mở rộng thẩm quyền cho các chủ thể trong quan hệ thừa kế này đồng thời

cũng mở rộng thêm đối tượng được hưởng di sản thừa kế là quyền sử dụng đất.

Như vậy, theo quy định tại Điều 733 Bộ luật Dân sự 2005 thì: Thừa kế quyền

sử dụng đất là việc chuyển quyền sử dụng đất của người chết sang cho người thừa kế

theo quy định của Bộ luật Dân sự và pháp luật về đất đai.

2. Đất là đối tượng của di sản thừa kế.

Như ta đã biết, đất thuộc sở hữu nhà nước và nhà nước giao cho cá nhân, tổ

chức sử dụng thông qua những cách thức khác nhau. Mỗi cách thức lại cho chủ sử

dụng nó những quyền năng và những hạn chế nhất định. Do đó, đất cũng không phải

lúc nào cũng là đối tượng của di sản thừa kế, mà chỉ trong những trường hợp sau:

Theo Nghị quyết 02 ngày 10/8/2004 của hội đồng thẩm phán toàn án nhân dân

tối cao, thì đất là di sản thừa kế:

1.1. Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không

có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận

16

Page 17: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất

đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.

1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong

các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003,

thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào

thời điểm mở thừa kế.

1.3. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có

một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 nhưng

có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng

nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình

xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà

xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc

khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây

công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có

yêu cầu chia di sản thừa kế, thì cần phân biệt các trường hợp sau:

a. Trong trường hợp đương sự có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm

quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền

với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.

b. Trong trường hợp đương sự không có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp

có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Uỷ

ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm

quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết

yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng thời phải xác

định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để Uỷ ban nhân dân

cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai.

c. Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết

rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với quyền sử

17

Page 18: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

dụng đất không được phép tồn tại trên đất đó, thì Toà án chỉ giải quyết tranh chấp

về di sản là tài sản trên đất đó.

Nói tóm lại, một người có thể để lại thừa kế quyền sử dụng đất của mình cho

người khác thì diện tích đất đó phải có căn cứ sử dụng hợp pháp và được cơ quan

nhà nước có thẩm quyền xác nhận.

3. Người để lại thừa kế quyền sử dụng đất.

Người để lại thừa kế quyền sử dụng đất là cá nhân:

- Được Nhà nước giao đất.

- Được Nhà nước cho thuê đất.

- Được nhận quyền sử dụng đất theo các căn cứ được quy định cụ thể tại Điều 99 Nghị

định số 181/2004/NĐ- CP của Chính phủ ngày 29/10/2004 Về thi hành Luật Đất đai.

Theo quy định tại Điều 113, Điều 114 Luật Đất đai năm 2003 thì đối với quyền sử

dụng đất thuê của người chết được hiểu là:

- Cá nhân được Nhà nước cho thuê đất trước ngày Luật Đất đai 2003 có hiệu lực thi

hành mà đã trả tiền thuê chi tất cả thời gian thuê thì hoặc đã trả tiền thuê đất cho nhiều

năm mà thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít nhất là 5 năm thì có quyền để lại

thừa kế quyền sử dụng đất.

- Cá nhân được Nhà nước cho thuê đất từ khi Luật Đất đai có hiệu lực thi hành không

có quyền để lại thừa kế quyền sử dụng đất mà chỉ được để lại thừa kế đối với tài sản

gắn liền với đất thuê, người nhận thừa kế được Nhà nước tiếp tục cho thuê đất theo

mục đích đã được xác định.

- Đất Nhà nước giao cho hộ gia đình nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử

dụng đất của thành viên đó được để lại cho những người thừa kế theo pháp luật về

thừa kế được quy định tại phần thứ tư của Bộ luật Dân sự và pháp luật đất đai.

4. Người được thừa kế.

Theo quy định tại Điều 734 Bộ luật Dân sự 2005 và Điều 113 Luật Đất đai

2003 thì người có quyền sử dụng đất có quyền để lại thừa kế quyền sử dụng đất cho

bất kì người nào ( trừ đất thuê). Vì thế, người thừa kế quyền sử dụng đất là bất kì ai,

không kể người đó nằm trong hay nằm ngoài diện thừa kế theo pháp luật.

18

Page 19: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

“ Người” thừa kế quyền sử dụng đất có thể là pháp nhân, tổ chức, Nhà nước và các

chủ thể khác, kể cả người nước ngoài.

Người Việt Nam định cư tại nước ngoài theo quy định tại Khoản 1 Điều 121

Luật Đất đai 2003 có quyền thừa kế nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất.

Người Việt Nam định cư tại nước ngoài không phụ thuộc đối tượng kể trên hoặc cá

nhân là người nước ngoài thì được hưởng phần giá trị đối với phần sở hữu nhà và

quyền sử dụng đối với diện tích đất đó.

Một vài nhận xét về các điều kiện được thừa kế quyền sử dụng đất

Việc Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định điều kiện được thừa kế quyền sử dụng

đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản, cũng như đất cấp cho hộ

gia đình không được đem phân chia theo pháp luật thừa kế khi có thành viên chết là

không có ý nghĩa thực tế, không phù hợp với tâm lý, tập quán của nhân dân cho nên

giá trị thi hành trên thực tế rất hạn chế. Đó là chưa kể quy định ở Điều 740 đã tạo ra sự

bất hợp lý mới: cũng là con cháu trong gia đình, có người được hưởng thừa kế, có

người không được hưởng, mà người không được hưởng đôi khi lại chính là người

đang làm nghĩa vụ với nhà nước, ví dụ như lúc mở thừa kế họ đang tại ngũ nên không

"có điều kiện trực tiếp sử dụng đất đúng mục đích" thì có chia thừa kế quyền sử dụng

đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản cho họ không? hoặc giải

thích thế nào về cụm từ "có điều kiện trực tiếp sử dụng đất đúng mục đích"? Phải

chăng người được thừa kế quyền sử dụng đất phải trực tiếp cày, cuốc trên mảnh đất thì

mới coi là có điều kiện trực tiếp sử dụng đất đúng mục đích? Thực ra, quy định này đã

không khuyến khích việc tích tụ, tập trung đất để sản xuất trên quy mô lớn, không

khuyến khích người dân tích cực đầu tư, cải tạo đất...

Nhận rõ những hạn chế trên, khi soạn thảo, ban hành Luật Đất đai năm 2003

vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất đã có sự thay đổi rất lớn, Luật Đất đai thực sự coi

quyền sử dụng đất như một loại tài sản, mặt khác đã thể hiện rõ quyền được hưởng

thừa kế quyền sử dụng đất của người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Tại khoản 5

Điều 113 Luật Đất đai năm 2003 quy định:

"Cá nhân có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất của mình theo di chúc hoặc

theo pháp luật.

19

Page 20: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

Hộ gia đình được Nhà nước giao đất, nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền

sử dụng đất của thành viên đó được để thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Trường hợp người thừa kế là người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối

tượng quy định tại khoản 1 Điều 121 của Luật này thì được nhận thừa kế quyền sử

dụng đất, nếu không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 121 của Luật này thì

được hưởng giá trị của phần thừa kế đó".

Đối chiếu với quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995 và Luật Đất đai năm

2003, ta thấy rằng Luật Đất đai năm 2003 có những điểm mới cơ bản về thừa kế quyền

sử dụng đất. Những điểm mới về thừa kế quyền sử dụng đất tiếp tục được thể hiện đầy

đủ, rõ nét hơn trong Bộ luật Dân sự năm 2005.

Theo quy định tại chương 33, phần thứ 5 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì: "cá

nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất có quyền

thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định tại phần thứ tư của Bộ luật này và pháp luật

về đất đai" (Điều 734).

Như vậy, không chỉ những trường hợp được nhà nước giao đất, nhận chuyển

nhượng quyền sử dụng đất có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất mà cả trường hợp

được nhà nước cho thuê đất cũng được để thừa kế quyền sử dụng đất.

Đối với đất được Nhà nước giao cho hộ gia đình thì việc thừa kế quyền sử dụng

đất của hộ gia đình đã được quy định hoàn toàn khác so với Bộ luật Dân sự năm 1995.

Theo quy định tại Điều 735 thì: "Hộ gia đình được Nhà nước giao đất nếu trong hộ có

thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để lại cho những người

thừa kế theo quy định tại phần thứ tư của Bộ luật này và pháp luật về đất đai".

Vậy, ta có nhận xét rằng, Bộ luật Dân sự năm 2005 không còn có sự phân biệt

việc thừa kế quyền sử dụng đất của cá nhân và hộ gia đình. Theo Bộ luật Dân sự năm

2005 thì đất cấp cho hộ gia đình cũng là đối tượng của việc để lại thừa kế theo di chúc

hoặc theo pháp luật; và cũng không còn sự phân biệt giữa các loại đất ở, đất lâm

nghiệp để trồng rừng, đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm và nuôi trồng thủy sản.

Hay nói cách khác là không đặt ra điều kiện khác nhau trong việc thừa kế quyền sử

dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản với đất nông nghiệp

để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng. Đây là một quy định hoàn toàn

20

Page 21: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

hợp lý, phù hợp với thực tiễn cuộc sống và là một thuận lợi cho các Toà án khi giải

quyết tranh chấp quyền sử dụng đất.

5. Trình tự thủ tục thừa kế quyền sử dụng đất.

Thừa kế quyền sử dụng đất là thể hiện quyền định đoạt của người có quyền sử

dụng đất hợp pháp đối với một mảnh đất cho người khác. Để quyền sử dụng đất của

người nhận thừa kế được hợp pháp, theo Điều 129 Luật Đất đai 2003 và điều 151 Nghi

định số 181/2004/NĐ- CP thì việc rhừa kế quyền sử dụng đất phải thông qua các thủ

tục pháp lý sau đây:

- Hồ sơ thừa kế quyền sử dụng đất nộp tại văn phòng đăng kí quyền sử dụng đất,

trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tại nông thôn thì nộp tại ủy ban nhân dân

xã nơi có đất để chuyển cho văn phòng đăng kí quyền sử dụng đất..

- Người nhận thừa kế nộp một bộ hồ sơ gồm có:

+ Di chúc; biên bản phân chia thừa kế; bản án, quyết định giải quyết tranh chấp về

thừa kế quyền sử dụng đất của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật; đơn đề nghị

của người nhận thừa kế đối với trường hợp người nhận thừa kế là người duy nhất.

+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử

dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có).

- Việc đăng ký thừa kế được thực hiện như sau:

+ Trong thời hạn không quá bốn (04) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ,

Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, làm trích sao hồ

sơ địa chính; gửi số liệu địa chính cho cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính

(nếu có); chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp hoặc thực hiện thủ tục

cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp phải cấp mới giấy chứng

nhận;

+ Trong thời hạn không quá ba (03) ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo

nghĩa vụ tài chính, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoặc Uỷ ban nhân dân xã,

thị trấn nơi có đất có trách nhiệm thông báo cho bên nhận thừa kế quyền sử dụng đất

thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật;

+ Trong thời hạn không quá ba (03) ngày làm việc kể từ ngày bên nhận thừa kế quyền

sử dụng đất thực hiện xong nghĩa vụ tài chính, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất

21

Page 22: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

hoặc Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn nơi có đất có trách nhiệm trao giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất

Nhìn chung pháp luật quy định về trình tự thủ tục trong lĩnh vực này từ trước

đến nay đều khá đơn giản và có tính ổn định cao hơn so với các hình thức chuyển

quyền khác. Về bản chất, thừa kế quyền sử dụng đất là hành vi pháp lý đơn phương,

không mang tính đền bù và luôn chứa đựng mối quan hệ tình cảm. Đối tượng nhận

quyền sử dụng đất từ mối quan hệ này cũng vì thế mà hẹp hơn các quan hệ khác về đất

đai.

Bên cạnh đó, thừa kế quyền sử dụng đất còn là việc Nhà nước thừa nhận một

quyền năng dân sự, đáp ứng được yêu cầu thực tế có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc

biệt. Đây là cơ sở pháp lý để cá nhân, hộ gia đình thực hiện triệt để quyền sử dụng đất

của mình và cũng là cơ sở pháp lý để tòa án giải quyết các tranh chấp phát sinh trong

việc chuyển quyền sử dụng đất.

6. Tranh chấp trong thừa kế quyền sử dụng đất:

* Tranh chấp về quyền thừa kế quyền sử dụng đất là dạng tranh chấp do người

có quyền sử dụng đất chết mà không để lại di chúc, hoặc để lại di chúc không phù hợp

với quy định của pháp luật và những người hưởng thừa kế không thỏa thuận được với

nhau về phân chia thừa kế hoặc thiếu hiểu biết về pháp luật dẫn đến tranh chấp.

* Nguyên nhân của hiện tượng tranh chấp trong thừa kế quyền sử dụng đất.

Có 2 nguyên nhân chính dưới đây:

- Do không có di chúc hoặc di chúc không phù hợp với quy định của pháp luật.

- Do xảy ra mâu thuẫn giữa những người hưởng thừa kế về quyền và nghĩa vụ

liên quan đến di sản thừa kế.

7. Phân chia di sản

Quyền sử dụng đất được chia theo 2 trường hợp:

* Phân chia theo di chúc

Là cách thức phân chia di sản theo ý chí của người lập di chúc, và chia theo 2

trường hơp:

22

Page 23: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

- Chia theo tỉ lệ: nếu di chúc chỉ xác định phân chia theo tỉ lệ đối với tổng giá trị khối

tài sản thì tỷ lệ này được tính trên khối tài sản đang còn vào thời điểm phân chia di

sản.

- Chia theo hiện vật: trong trường hợp di chúc xác định phân chia theo từng vật cụ

thể, thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện

vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân

chia di sản. Nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có

quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.

- Di sản được chia đều cho những người thừa kế: trường hợp này di chúc không xác

định rõ phần tài sản của từng người thừa kế được hưởng.

* Phân chia di sản theo pháp luật

Đây là việc áp dụng các quy định của pháp luật về thừa kế để phân chia và

người để lại thừa kế không lập di chúc hoặc di chúc bị vô hiệu. Nguyên tắc phân chia

là:

- Chia trước và chia hết di sản cho những người thừa kế ở hàng trước, theo thứ tự ưu

tiên chia trước và chia đều bằng nhau cho những người ở hàng thừa kế thứ nhất. Nếu

không có ai ở hàng thừa kế thứ nhất do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị

truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền hưởng di sản thì di sản chuyển xuống

chia đều cho những người ở hàng thừa kế tiếp theo.

- Chia di sản đều nhau cho những người thừa kế ở cùng hàng.

- Dành lại một phần di sản bằng phần của người khác nhận được cho người thừa kế ở

cùng hàng khi đã thành thai nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra sẽ được

hưởng.

23

Page 24: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

III. Giải quyết tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai trong

quan hệ thừa kế.

1. Tổng quan về giải quyết tranh chấp đất đai.

1.1. Mục đích, ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp đất đai.

Tranh chấp đất đai khi xảy ra sẽ tác động không nhỏ đến tâm lý, tinh thần của

các bên tranh chấp, nó gây nên tình trạng mất ổn định, bất đồng trong nội bộ nhân dân,

almf cho những quy định của pháp luật đất đai cũng như những chính sách của Nhà

nước không được thực hiện một cách triệt để.

Vì vậy, giải quyết tranh chấp đất đai là một nội dung quan trọng trong hoạt

động quản lý Nhà nước đối với đất đai và là những biện pháp để pháp luật đất đai phát

huy được những vai trò trong đời sống xã hội. Thông qua việc giải quyết đất đai mà

24

Page 25: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

ácc quan hệ pháp luật đất đai được điều chỉnh cho phù hợp với lợi ích của Nhà nước,

của xã hội, của người sử dụng đất, đồng thời giáo dục ý thức pháp luật cho công dân

để ngăn ngừa những vi phạm pháp luật khác có thể xảy ra.

Việc giải quyết tranh chấp đất đai là tìm ra giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp

luật nhằm giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Từ đó, phục

hồi các quyền lợi hợp pháp cho bên bị xâm hại, bắt buộc bên vi phạm phải gánh chịu

những hậu quả pháp lý do hành vi của họ gây ra.

1.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai.

- Nguyên tắc đảm bảo đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước thực hiện vai trò là

người đại diện chủ sở hữu.

- Nguyên tắc đảm bảo lợi ích của người sử dụng đất, nhất là lợi ích kinh tế, khuyến

khích việc tự hòa giải, thương lượng trong nội bộ quần chúng nhân dân.

- Nguyên tắc giải quyết đất đai nhằm mục đích ổn định tình hình kinh tế xã hội, gắn

việc giải quyết tranh chấp đất đai với việc tổ chức lại sản xuất, tạo điều kiện cho lao

động ở nông thôn có việc làm phù hợp với quá trình chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và

cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

1.3. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai.

1.3.1. Giải quyết tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính.

Trước hết, UBND của cấp có tranh chấp cùng nhau phối hợp giải quyết. Nếu

không đạt được sự nhất trí hoặc kết quả của việc giải quyết làm thay đổi địa giới hành

chính thì thẩm quyền giải quyết sẽ là:

- Tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính của tỉnh, thành phố trực thuộc

TW sẽ do Quốc hội quyết định.

- Tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính của đơn vị hành chính dưới cấp

tỉnh sẽ do Chính phủ quyết định.

1.3.2. Giải quyết tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên không có giấy tờ về

quyền sử dụng đất.

* Căn cứ để giải quyết tranh chấp.

- Chứng cứ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất do các bên tranh chấp đưa ra.

- Ý kiến của hội đồng tư vấn về giải quyết tranh chấp đất đai của xã, phường, thị trấn.

25

Page 26: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

- Thực tế diện tích đất mà các bên tranh chấp đang sử dụng ngoài diện tích đất đang có

tranh chấp và bình quân diện tích đất cho một nhân khẩu tại địa phương.

- Sự phù hợp của hiện trạng sử dụng thửa đất đang có tranh chấp với quy hoạch sử

dụng đất chi tiết đã được xét duyệt.

- Chính sách ưu đãi người có công của Nhà nước.

- Quy định của pháp luật về giao đất, cho thuê đất.

* Thẩm quyền giải quyết.

Trong trường hợp các bên tranh chấp không có giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất hoặc không có một trong các lợi giấy tờ theo quy định tại các khoản 1, 2, 5 Điều

50 Luật Đất đai 2003 thì các bên tranh chấp gửi đơn đến cơ quan hành chính để được

giải quyết.

- Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết tranh chấp đất

đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau.

Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết của UBND huyện, quận, thị xã,

thành phố thuộc tỉnh thì các bên tranh chấp có quyền gửi đơn xin giải quyết tranh chấp

đến chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW. Quyết định giải quyết của chủ tịch

UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW là quyết định cuối cùng.

- Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW giải quyết tranh chấp đất đai giữa tổ

chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư tại nước ngoài; tổ chức nước ngoài, cá

nhân nước ngoài với nhau; giữa tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư tại

nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài với hộ gia đình, cá nhân, cộng

đồng dân cư.

Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết của chủ tịch UBND tỉnh, thành

phố trực thuộc TW thì các bên tranh chấp có quyền gửi đơn xin giải quyết tranh chấp

đến Bộ Tài nguyên và Môi trường. Quyết định giải quyết của Bộ Tài nguyên và Môi

trường là quyết định cuối cùng.

1.3.3. Giải quyết tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên có giấy tờ về quyền sử

dụng đất.

26

Page 27: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

Trong truờng hợp các bên tranh chấp có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật Đất đai

2003 thì Tòa án nhân dân sẽ có thẩm quyền giải quyết.

Ngoài ra, các cơ quan chuyên môn về quản lý đất đai như Bộ Tài nguyên và

Môi trường, cơ quan quản lý đất đai của cấp tỉnh, cấp huyện có trách nhiệm cung cấp

thông tin, tài liệu cần thiết và phối hợp với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để giải

quyết tranh chấp.

2. Giải quyết tranh chấp đất đai khi chia di sản thừa kế.

Khi giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất thì không chỉ căn cứ vào

Bộ luật Dân sự mà phải căn cứ vào Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản khác quy

định về thừa kế quyền sử dụng đất để giải quyết cho phù hợp.

2.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp:

Theo Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng thẩm

phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân

sự, hôn nhân và gia đình, thẩm quyền giải quyết các vụ án tranh chấp thừa kế đối với

quyền sử dụng đất, tùy theo vụ việc thuộc Tòa án nhân dân và ủy ban nhân dân các

cấp.

TAND có thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền thừa kế liên quan đến quyền

sử dụng đất trong các trường hợp sau:

* Đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền

vớiquyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo

Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993 và Luật Đất đai năm 2003.

* Đất do người chết để lại mà người đó có một trong các giấy tờ sau:

- Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15-10-1993 do cơ quan có

thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam

Dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và

Nhà nước CHXHCN Việt Nam.

- Giấy chứng nhận quền sử dụng đất tạm thời được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền

cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính.

27

Page 28: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

- Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng, cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với

đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất.

- Giấy tờ chuyển nhượngquyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước

ngày 15-10-1993, nay được UBND cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15-10-

1993.

- Giấy tờ về thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật.

- Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

- Giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng

đến trước ngày Luật Đất đai có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền

sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được UBND cấp xã xác nhận là đất

không có tranh chấp.

- Bản án hoặc quyết định củaTòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi

hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền

đã được thi hành.

* Đất không có một trong các loại giấy tờ nêu trên nhưng trên đất có di sản là nhà ở,

vật kiến trúc khác như nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ôtô, nhà thờ,

tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để

sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới,

tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hoặc trên đất có các tài sản như cây lấy gỗ, cây lấy lá,

cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm.

Đối với loại tranh chấp này, trường hợp có văn bản của UBND cấp có thẩm

quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất thì Tòa án chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và

quyền sử dụng đất đó.

2.2 Thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai khi phân chia di sản thừa kế.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, khi xảy ra tranh chấp đất đai, đầu tiên

thường được giải quyết bằng biện pháp hòa giải (thủ tục hòa giải). Sau đó mới đến các

thủ tục hành chính và thủ tục tố tụng. giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế quyền sử

dụng đất đai cũng sử dụng các thủ tục đó.

28

Page 29: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

Điều 135 Luật Đất đai quy định, khi các bên tranh chấp không hòa giải được thì

gửi đơn đến UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp. UBND cấp xã có trách

nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt

trận, các tổ chức xã hội khác để hòa giải trong thời gian 30 ngày làm việc, kể từ ngày

UBND cấp xã nhận được đơn. Trường hợp không hòa giải được tại UBND cấp xã, các

bên tranh chấp có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh

chấp đất đai.

Điều 136 Luật Đất đai, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai

theo thủ tục hành chính gồm Chủ tịch UBND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc

tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Bộ trưởng Bộ Tài

nguyên và Môi trường. Cụ thể, các cơ quan trên có thẩm quyền giải quyết các tranh

chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng nhận hoặc không có

một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai.

Trường hợp đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong

các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai và tranh chấp về

tài sản gắn liền với đất thì vụ việc do Tòa án nhân dân giải quyết.

Có các giấy tờ về đất đai được quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất

đai gồm những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15/10/1993, do cơ

quan có thẩm quyền cấp; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan

Nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

giấy tờ hợp pháp về thừa kế thì Tòa án căn cứ vào pháp luật thừa kế và luật đất đai để

xác định thẩm quyền thừa kế của các bên đương sự.

3. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế quyền sử dụng đất:

Thời hiệu khởi kiện là một vấn đề cần được quan tâm trong việc phân chia di

sản thừa kế nói chung và phan chia đất đai nói riêng. Đây cũng là một yếu tố quan

trọng để đi tới xem xét giải quyết một vụ tranh chấp, và những vấn đề pháp lý phát

sinh. Dựa vào thời hiệu người ta có để biết được vụ việc đó là giải quyết theo vấn đề

gì. Ở chế định thừa kế thì vấn đề được được xem xét là tài sản đem phân chia được

xác định là tài sản chung hay tài sản thừa kế dựa vào thời hiệu khởi kiện.

29

Page 30: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

Theo Điều 645 BLDS 2005, quy định:

Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của

mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở

thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản

của người để lại thừa kế là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Theo Điều 36 pháp lệnh thừa kế 1990:

1- Trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có quyền khởi

kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa

kế của người khác.

2- Trong thời hạn ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, cá nhân, cơ quan, tổ

chức có quyền khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do

người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản.

3- Trong trường hợp do trở ngại khách quan mà không thể thực hiện được

quyền khởi kiện trong thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này thì thời gian bị

trở ngại khách quan không tính vào thời hiệu khởi kiện.

4- Đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh này thì thời

hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này được tính từ ngày công bố Pháp lệnh này.

Theo nghị quyết 02/2004 của hội đồng thẩm phán TANDTC:

Khi áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo quy định Điều 36 của Pháp

lệnh Thừa kế cần chú ý như sau:

a) Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà công dân, tổ chức có quyền khởi kiện để

yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích của mình. Quá thời hạn đó, họ không có quyền khởi kiện

30

Page 31: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

nữa. Có hai thời hạn cho hai loại quyền khởi kiện khác nhau đã được quy định cụ thể

tại khoản 1 và khoản 2 của Điều 36, khi áp dụng cần tránh nhầm lẫn.

b) Đối với những việc thừa kế đã mở trước ngày 10-9-1990, thì thời hiệu khởi

kiện được tính từ ngày 10-9-1990, do đó:

- Sau ngày 10-9-2000, đương sự không có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di

sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác;

- Sau ngày 10-9-1993, đương sự không có quyền khởi kiện để yêu cầu người

thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các chi phí từ di

sản.

c) Đối với trường hợp đã quá các thời hạn quy định tại Điều này mà đương sự

mới khởi kiện vì có trở ngại khách quan như đương sự bị mất năng lực hành vi, do ốm

đau, tai nạn... thì Toà án vẫn thụ lý và giải quyết theo thủ tục chung. Trong trường hợp

đương sự đã không thực hiện quyền khởi kiện trong thời hạn quy định mà không có lý

do chính đáng thì Toà án trả lại đơn kiện cho đương sự theo quy định tại khoản 2 Điều

36 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.

d) Đối với người thừa kế là người chưa thành niên vào thời điểm mở thừa kế thì

thời hiệu khởi kiện về thừa kế được tính từ ngày họ đủ 18 tuổi.

e) Pháp lệnh Thừa kế có hiệu kể từ ngày Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký lệnh

công bố Pháp lệnh là ngày 10-9-1990. Do đó, kể từ ngày 10-9-1990, đối với các vụ án

về thừa kế đang được giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm hoặc đã có kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, thì đều phải áp dụng các quy định của Pháp lệnh để

giải quyết.

Đối với những vụ án về thừa kế đã được giải quyết trước ngày 10-9-1990 theo

đúng Thông tư số 81/TANDTC ngày 24-7-1981 của Toà án nhân dân tối cao mà bản

31

Page 32: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì không áp dụng các quy định của Pháp lệnh

này để giải quyết lại theo thủ tục giám đốc thẩm.

4. Các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế.

Cũng theo Nghị quyết số 02/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC thì các

trường hợp sau không được áp dụng thời hiệu khởi kiện:

* Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa

kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế

hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về

hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó

chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải

quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy

định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

- Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc

chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài

sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

- Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người

được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện

theo thoả thuận của họ.

- Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi

người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực

hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

* Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực

tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc

thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó

để đòi lại di sản.

32

Page 33: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

IV. Một số ví dụ về tranh cháp đất đai khi phân chia di sản thừa kế.

1. Ví dụ 1:

Bố mẹ anh A chết có để lại di sản gồm nhà cửa, đất cát ruộng vườn, ao...ngôi

nhà là nơi thờ tự của gia tộc (bố anh A là con trưởng), bố anh A không để lại di chúc

nhưng có căn dặn bằng miệng có chú của anh là người chứng kiến. Anh A là con

trưởng trong gia đình nhưng hiện cư trú tại nơi khác, anh có nhờ các em gái trông

nom nhà cửa giúp. Nay anh A có ý định về quê hương để ổn định cuộc sống khi tuổi

già, thờ cúng tổ tiên thay cha mẹ.

Trước đây, khi cha mẹ anh còn sống đã chia đất cho các em của anh (đều là nữ), hiện

các cô đã lấy chồng và đang sinh sống trên mảnh đất cha mẹ anh A chia cho. Nay các

33

Page 34: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

em của anh A đòi chia mảnh đất trên, trong đó có phần nhà thờ để thờ cúng tổ tiên thì

pháp luật quy định giải quyết vấn đề này như thế nào?

Phương hướng giải quyết:

Theo quy định của pháp luật về thừa kế và các văn bản hướng dẫn của Hội

đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành. Khi giải quyết tranh

chấp về thừa kế liên quan đến quyền sử dụng đất, khi xác định đó là di sản thì cần

phân biệt như sau:

+ Nếu đất mà cha mẹ anh A để lại có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất

đai năm 1987, Luật đất đai năm 1993 và Luật đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất

đó được được coi là di sản.

+Nếu đất mà cha mẹ anh A để lại chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng

có một trong những giấy tờ được quy định tại khoản 1,2 và 5 Điều 50 Luật đất đai năm

2003 thì kể từ ngày 1/7/2004 ( ngày Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành) thì

quyền sử dụng đất của cha mẹ anh cũng được coi là di sản thừa kế.

Trường hợp đất của cha mẹ anh để lại không có một trong các giấy tờ như đã nêu trên

nhưng có các di sản là nhà ở, vật kiến trúc...gắn liền quyền sử dụng đất. Hiện nay nếu

có yêu cầu chia di sản thì cần phân biệt:

+ Nếu có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất là hợp

pháp nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết

yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất đó.

+Nếu không có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó

là hợp pháp, nhưng có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền cho biết rõ việc sử dụng

đất đó không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét giao quyền sử dụng đất, thì

Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng

thời phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định

của pháp luật đất đai.

+Trường hợp UBND cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết việc sử dụng đất đó là

không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền trên đất đó không được phé tồn tại trên đất

đó, thì Toà án chỉ giải quyết tranh chấp về di sản là tài sản trên đất đó.

34

Page 35: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

Căn cứ vào các giấy tờ có liên quan như đã nêu trên, Toà án sẽ xem xét nguồn gốc đất

đai cũng như các di sản trên đất, tài sản để thờ cúng, nguồn gốc đất của các em anh A

đã được cha mẹ chuyển quyền, công sức của mỗi người để phân chia theo đúng pháp

luật. Tuy nhiên anh A là con trưởng mà anh lại là con trai thì quyền thừa kế một phần

di sản để thờ cúng sẽ được giao cho anh, sau đó mới chia những người thuộc hàng

thừa kế. Các em anh trước kia đã được bố mẹ cho đất cũng phải được toà án xem xét

để phân chia cho công bằng, đúng luật.

2. Ví dụ 2:

Bố mẹ anh Phúc sinh được 5 người con trai. Năm 1989 cả bố và mẹ anh đều

qua đời, lúc đó các anh em của anh đề nghị gia đình anh chuyển về ở nhà bố mẹ để lo

việc hương khói cho bố mẹ anh(vì các anh em trong gia đình anh Phúc đều đã thoát

ly, lập nghiệp xa) và nói rằng sẽ trao quyền sở hữu nhà đất của bố mẹ để lại cho gia

đình anh (chỉ nói bằng miệng mà không có văn bản gì, bố mẹ anh Phúc cũng không để

lại di chúc). Đến năm 1993, Nhà nước có chủ trương cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất, gia đình anh cũng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên

anh Phúc.

Sau gần 20 năm sống, chăm lo nhà cửa, vườn tược và thờ tự bố mẹ bằng kinh tế

riêng của gia đình anh, đến tháng 11-2008, các anh em của anh Phúc họp lại đòi chia

đều phần đất mà gia đình anh đang ở và canh tác (gồm đất vườn và đất nhà ở), ngay

cả ngôi nhà cấp bốn mà gia đình anh hiện đang sống cũng được xem là tài sản ông bà

để lại và được đề nghị giữ lại làm nhà thờ chung. Gia đình anh Phúc không đồng ý vì

nghĩ rằng làm như vậy là bất công bằng. Vậy trường hợp này gia đình anh Phúc từ

chối lời đề nghị chia đất của các anh em là đúng hay sai? Làm như vậy có được pháp

luật bảo hộ không? Và liệu gia đình anh có quyền sở hữu ngôi nhà của bố mẹ để lại

hay không?

Phương hướng giải quyết:

- Nếu năm 1993 gia đình anh đã được chính quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất xem như anh là người có quyền sử dụng phần đất đã được công nhận.

- Trường hợp các anh em của anh Phúc về đòi phải chia đều phần đất đó thì đã hết thời

hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế (cha mẹ anh đã mất từ năm 1989) mà thời hiệu khởi

35

Page 36: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

kiện chia di sản thừa kế là 10 năm. Nên các anh em của anh không thể kiện anh để đòi

lại phần quyền sử dụng đất nêu trên.

3. Ví dụ 3:

Chú của anh Bùi Văn Quế mua một lô đất năm 1977, có giấy tờ mua bán viết

tay. Do hoàn cảnh gia đình, ông phải về quê vợ và để anh Quế sử dụng mảnh đất đó.

Anh đã kê khai và nộp thuế đất đứng tênBùi Văn Quế. Năm 2000, vợ chồng anh đã

được cấp Giấy chứng nhận tạm thời quyền sử dụng mảnh đất đó.Nhưng người con của

chú anh Quế đã khiếu kiện lên Tòa án và Giấy chứng nhận tạm thời quyền sử dụng

đất bị thu hồi. Hiện nay anh Quế chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Vậy việc chú của anh Quế chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng

làm di chúc cho con của ông thừa hưởng tài sản là quyền sử dụng đất có được không

và Tòa án căn cứ vào giấy tờ mua bán viết tay để chia tài sản thừa kế quyền sử dụng

đất thì có đúng quy định của pháp luật không?

Phương hướng giải quyết:

Theo quy định tại Điểm 1 Mục II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày

10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng pháp

luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, quyền sử dụng đất

chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được xác định là di sản trong các

trường hợp sau:

“1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại

giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ

ngày 01-7-2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm

mở thừa kế.

1.3. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong

các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có

di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước,

nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng

trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho

tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên

đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các

36

Page 37: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa

kế, thì cần phân biệt các trường hợp sau:

a. Trong trường hợp đương sự có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác

nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử

dụng đất và quyền sử dụng đất đó.

b. Trong trường hợp đương sự không có văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm

quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Uỷ ban nhân

dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và

có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di

sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng thời phải xác định ranh giới, tạm

giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền tiến

hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai.

c. Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ việc

sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất

không được phép tồn tại trên đất đó, thì Toà án chỉ giải quyết tranh chấp về di sản là

tài sản trên đất đó.”

Như vậy, Tòa án có thể căn cứ vào giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất,

mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15/10/1993 (theo điểm d, khoản 1 Điều

50 Luật Đất đai 2003) để phân chia di sản mà không nhất thiết phải căn cứ vào Giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất.

Nếu chú của anh Quế có Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán

nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân

xã, phường, thị trấn xác nhận là đất sử dụng ổn định trước ngày 15 tháng 10 năm 1993

và không có tranh chấp thì chú của anh có quyền sử dụng hợp pháp và có thể lập di

chúc để định đoạt quyền sử dụng đất đó.

4. Ví dụ 4:

Trường hợp của chị Trần Thị Hương, trú tại xã Thủy An, huyện Đông Triều

như sau: Ông bà nội chị đã mất, có để lại một mảnh đất. Ông bà có 5 người con, trong

37

Page 38: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

đó 3 người đã mất, 1 người con khác đang ở nước ngoài. Hiện nay vợ, con hai người

chú đã mất của chị đang ở trên mảnh đất đó và không đồng ý chia mảnh đất đó cho bố

của chị Hương. Vậy hai người thím của chị đã có nhà trên mảnh đất đó thì có được

xem đã hưởng thừa kế mảnh đất đó, 4 người con ở nước ngoài sẽ được phân chia di

sản thừa kế mảnh đất này như thế nào và nếu bố chị muốn chia theo pháp luật mà

không có sự đồng ý của họ thì có được không.

Phương hướng giải quyết:

Nếu ông bà chị để lại di chúc và di chúc đó hợp pháp thì mảnh đất sẽ được định

đoạt theo di chúc đó.

Nếu ông bà nội chị mất mà không để lại di chúc thì di sản sẽ được chia thừa kế

theo pháp luật.

Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con

đẻ, con nuôi của người chết. Vì vậy, việc 1 người con của ông bà nội chị đang cư trú ở

nước ngoài không ảnh hưởng đến quyền được hưởng di sản của người đó. Những

người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. (Điều 676 Bộ luật Dân

sự).

Theo quy định tại Điều 645 Bộ luật Dân sự, thời hiệu yêu cầu chia thừa kế là 10

năm kể từ thời điểm mở thừa kế (thời điểm ông bà nội chị chết). Nếu ông bà nội chị

mất chưa được 10 năm, bố chị có thể yêu cầu Tòa án chia thừa kế.

Trong trường hợp ông bà nội chị mất đã hơn 10 năm mà các đồng thừa kế

không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do ông bà nội chị để lại

chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các đồng thừa kế. Khi có tranh

chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa

kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung. Vì vậy, bố chị có thể

làm đơn yêu cầu hòa giải tranh chấp đất đai gửi lên UBND xã, phường thị trấn nơi có

đất để được hòa giải theo luật định.

Trong trường hợp hòa giải không thành và có biên bản hòa giải không thành, bố

chị có thể làm đơn khởi kiện gửi tới Tòa án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu Tòa

án phân chia tài sản chung, kèm theo đơn khởi kiện là các giấy tờ có liên quan như

38

Page 39: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

biên bản hòa giải không thành, các chứng cứ, giấy tờ chứng minh di sản chưa chia để

được giải quyết theo luật định.

5. Ví dụ 5:

Bố mẹ anh Nguyễn Khắc Hạnh ( Lai Châu) mất năm 1997 và không để lại di

chúc. Bố mẹ anh có để lại cho hai anh em anh Hạnh một diện tích nhà đất là 200m2.

Do điều kiên công tác xa, nên anh Hạnh đã để cho người em trai quản lý nhà đất đó.

Hiện nay, anh Hạnh đã chuyển về quê làm việc nên muốn người em trai chia cho anh

1 phần nhà đất trên để làm nơi sinh sống nhưng em trai anhkhông đồng ý. Do đó, anh

Hạnh đã làm đơn lên UBND xã đề nghị UBND xã buộc em trai anh phải chia đất cho

anh. Tại các cuộc họp hòa giải của UBND xã, hai anh em anh Hạnh đều thừa nhận

hai anh em anh là đồng thừa kế đối với nhà đất do bố mẹ anh Hạnh để lại và nhà đất

đó cũng chưa được chia cho anh Hạnh dưới bất kỳ hình thức nào.Tuy nhiên, em trai

anh vẫn không chấp nhận chia đất cho anh. Vậy trường hợp của anh sẽ được giải

quyết ra sao?

Phương hướng giải quyết:

Thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đối với di sản thừa kế của bố mẹ anh Hạnh là

mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, tức là thời điểm bố mẹ anh chết (năm1997).

Do đó đến nay ( năm 2010), thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đối với di sản thừa kế của

bố mẹ anh đã hết. Anh Hạnhkhông còn quyền khởi kiện yêu cầu em trai anh phải chia

thừa kế đối với nhà đất trên cho anh nữa.

Tuy nhiên, tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng

Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải

quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình có quy định:

Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng

thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng

thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh

chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản

đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế.

39

Page 40: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu

khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản

chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

- Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc

chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài

sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

- Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người

được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện

theo thoả thuận của họ.

- Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi

người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực

hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

- Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực

tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc

thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó

để đòi lại di sản.

Căn cứ vào quy định trên, do hai anh em anh Hạnh đã cùng thừa nhận hai anh

em anh là các đồng thừa kế và di sản là nhà đất trên chưa được chia, nên nhà đất trên

sẽ được coi là tài sản chung của hai anh em anh Hạnh.

Do đó, nếu hai anh em anh không tự thoả thuận được với nhau về việc phân

chia nhà đất đó thì anh Hạnh có quyền khởi kiện ra Toà án, đề nghị Toà án buộc em

trai anh phải chia nhà đất trên cho bạn theo quy định của pháp luật về chia tài sản

chung.

6. Ví dụ 6:

Năm 1969, ông Trần Thế T (sinh năm 1949) trú tại phường QT, thị xã KT, tỉnh

KT, kết hôn với bà Tô Thị H (sinh năm 1950) có đăng ký kết hôn tại UBND phường

QT. Quá trình chung sống ông T và bà H sinh được 02 người con là Trần Trọng P

(sinh năm 1971) và Trọng F (sinh năm 1977). Đến năm1980, do vợ chồng mâu thuẫn,

bà H bỏ vào Bà Rịa – Vũng Tàu để sinh sống và lập gia đình với người khác, có con

chung, cuộc sống đã ổn định. Đến năm 1986, ông Trần Thế T về sống chung như vợ

40

Page 41: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

chồng với bà Trần Thị Sáng (sinh năm 1953) không có đăng ký kết hôn. Quá trình

chung sống hai người đã tạo lập được một số tài sản và có 01 con chung là Trần Thị

Trọng C (sinh năm 1987). Năm 2003, ông Trần Thế T chết, không để lại di chúc. Bà

Trần Thị Sáng khởi kiện yêu cầu được chia di sản thừa kế do ông T chết để lại.

Cách thức giải quyết:

Với nội dung trên, Bản án dân sự sơ thẩm số 03/DSST ngày 15-0102004 của

Tòa án nhân dân thị xã KT đã căn cứ khoản 1 Điều 10 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết

các vụ án dân sự chấp nhận đơn khởi kiện của bà Trần Thị Sáng (bà Sáng được hưởng

¼ phần tài sản của ông Trần Thế T).

Sau  khi xét sử sơ thẩm, anh Trần Trọng P và Trần Trọng F kháng cáo bản án

dân sự sơ thẩm trên với nội dung: Không thừa nhận bà Trần Thị Sáng là vợ hợp pháp

của ông Trần Thế T. Những người được hưởng di sản thừa kế của ông Trần Thế T là

Trần Trọng P, Trần Trọng F và Trần Thị Trọng C.

Bản án dân sự phúc thẩm số 17/SDPT ngày 25-06-2004 của tòa án nhân dân

tỉnh KT đã căn cứ khoản 1 Điều 10, khoản 2 Điều 69 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các

vụ án dân sự - Sửa án dân sự sơ thẩm – Chấp nhận đơn kháng cáo của anh Trần Trọng

P và Trần Trọng F – Bác đơn khởi kiện của bà Trần Thị Sáng.

Với hướng giải quyết của TAND thị xã KT và tòa án nhân dân tỉnh KT. Hiện

nay có hai quan điểm khác nhau:

- Quan điểm thứ nhất: Đồng ý với bản án DSST số 03 ngày 15-01-2004 của

Tòa án nhân dân thị xã KT- Bà Trần Thị Sáng có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản

thừa kế của ông Trần Thế T, bởi lẽ: Bà Trần Thị Sáng chung sống như vợ chồng với

ông Trần Thế T vào thời điểm trước ngày 03-01-1987 cho dù giữa họ không đăng ký

kết hôn cũng được coi là hôn nhân hợp pháp (hôn nhân thực tế). Thời điểm này, Luật

hôn nhân và gia đình năm 1986 chưa có hiệu lực thi hành, nên theo quy định tại Mục 3

Nghị quyết 35/2000/QH10 về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000

(Luật HNGĐ) quy định: “Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước

ngày 03-01-1987, ngày luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng

ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn, trong trường hợp có yêu cầu ly hôn

thì Tòa án thụ lý giải quyết…”. Tại Mục 1 thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT –

41

Page 42: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

TANDTC – VKSNDTC – BTP ngày 03-01-2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện

kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành nghị quyết 35/2000/QH10

ngày 09-06-2000 của Quốc hội quy định: “Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được

xác lập trước ngày 03-01-1987 (Ngày luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu

lực) mà chưa đăng ký kết hôn thì Tòa án áp dụng luật hôn nhân và Gia đình năm 2000

để giải quyết theo thủ tục chung”. Căn cứ vào những hướng dẫn nêu trên, đối với

những quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03-01-1987, dù không có đăng ký

kết hôn, cũng được coi là hôn nhân hợp pháp. Thực tế, quan hệ hôn nhân giữa ông

Trần Thế T và bà Tô Thị H đã chấm dứt. Bà H đã lấy người khác và có cuộc sống ổn

định. Vì vậy, trường hợp của ông Trần Thế T và bà Trần Thị Sáng có quan hệ chung

sống với nhau nư vợ chồng, có tài sản chung, có con chung vào thời điểm trước ngày

03-01-1987 nên có thể coi đây là Hôn nhân thực tế được pháp luật thừa nhận. Do đó

bà Trần Thị Sáng được quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế.

- Quan điểm thứ hai: Năm 1969, ông Trần Thế T kết hôn với bà Tô thị H (có

đăng lý kết hôn tại UBND phường QT) như vậy, quan hệ hôn nhân giữa ông T và bà H

là hợp pháp. Năm 1980, do mâu thuẫn vợ chồng, bà H bỏ vào Bà Rịa – Vũng Tàu sinh

sống và lập gia đình với người khác. Tuy nhiên đây không phải là căn cứ cho rằng hôn

nhân giữa bà H và ông T đã chấm dứt. Bởi lẽ, một quan hệ hôn nhân chỉ được coi là

chấm dứt về mặt pháp lý khi có bản án cho ly hôn của Tòa án. Năm 1986, bà Trần Thị

Sáng về sống chung cùng ông Trần Thế T (trong khi quan hệ hôn nhân giữa bà H và

ông T vẫn còn tồn tại là bất hợp pháp). Kể cả việc bà Tô Thị H đã lấy người khác, thì

cũng không có nghĩa là quan hệ hôn nhân giữa bà Sáng và ông T được coi là hợp pháp.

Do vậy, bà Trần Thị Sáng không có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế.

42

Page 43: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Luật Đất đai năm 2003 ( được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

2. Nghị định số 18/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành

Luật Đất đai năm 2003.

3. Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng thẩm phán

TAND tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án

dân sự, hôn nhân và gia đình.

4. Bộ Luật dân sự năm 2005

43

Page 44: Bai Tap Luat Dat Dai Nhom 4 k53a

5. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Đất đai.

6. http://www.luatviet.org/Home/nghien-cuu-trao-doi/dan-su-to-tung-dan-su/

2009/8454/Mot-so-van-de-ve-thua-ke-quyen-su-dung-dat.aspx

7. http://www.hcmulaw.edu.vn/hcmulaw/index.php?

option=com_content&view=article&catid=104:ctc20062&id=358:bvkntctln

2003&Itemid=109

8. http://nongnghiep.vn/NongnghiepVN/vivn/61/158/85/60/60/33892/

Default.aspx

9. http://www.diaoconline.vn/tinchitiet/4/15809/tranh-chap-tai-san-thua-ke/

44