36
Đề Tài : Đánh giá cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng nhà nước Việt Nam giai đoạn từ năm 1995 – đến nay .

bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

Đề Tài : Đánh giá cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng nhà nước

Việt Nam giai đoạn từ năm 1995 – đến nay .

Page 2: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

MỤC LỤC

Lời mở đầu

Phần nội dung

A. Lý luận chung về lãi suất và thực trạng điều hành lãi suất

1. Lãi suất

1.1. Một số khái niệm về lãi suất

1.2. Phân loại lãi suất

1.2.1. Lãi suất thương mại

1.2.2. Lãi suất tiền gửi

Page 3: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

1.2.3. Lãi suất tiền vay

1.2.4. Lãi suất chiết khấu

1.2.5. Lãi suất tái triết khác

1.2.6. Lãi suất liên ngân hàng

1.2.7. Lãi suất cơ bản

1.2.8. Lãi suất tín dụng nhà nước

1.2.9. Lãi suất tín dụng tiêu dùng

1.3. Vai trò của lãi suất

1.3.1. Là công cụ khuyến khích tiết kiệm đầu tư

1.3.2. Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp

1.3.3. Là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế

1.3.4. Là công cụ phân phối có hiệu quả nhằm khai thác và sử dụng triệt để các nguồn lực

của nền kinh tế

1.3.5. Là công cụ đo lường nền kinh tế

2. Thực trạng điều hành lãi suất ở Việt Nam

2.1. Điểm lại chặng đường sau 10 năm đổi mới

2.2. Chính sách lãi suất của Việt Nam hiện nay

B. Quá trình điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất và đánh giá thành

tựu , tồn tại của quá trình điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất ở

Việt Nam

1. Quá trình điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất

1.1. Giai đoạn trước năm 1988

1.2. Giai đoạn 1989 - 5/1992

1.3. Giai đoạn 6/1992 - 1995

1.4. Giai đoạn 1996 - 2000

1.5. Giai đoạn 8/2000 - 5/2002

Page 4: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

1.6. Giai đoạn 6/2002 - 2006

1.7. Giai đoạn 2006 - đến nay

2. Đánh giá thành tựu , tồn tại của quá trình điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất ở Việt

Nam

2.1. Thành tụu

2.2. Hạn chế

3. Giải pháp định hướng về điều hành lãi suất ở Việt Nam

Kết Luận

Tài liệu tham khảo

Lời mở đầu

Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 đã đưa ra phương hướng đổi mới căn bản

nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung sang cơ chế kinh tế hàng hoá nhiều

thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó buộc hệ thống tài chính tiền tệ phải có

những cải tổ toàn diện để thể hiện được sứ mạng là huyết mạch, là trung tâm tiền tệ tín dụng,

thanh toán của nền kinh tế hàng hoá.

Trong nền kinh tế thị trường lãi suất là một loại giá cả rất nhạy cảm và là một biến số

luôn luôn được quan tâm và theo dõi chặt chẽ nhất. Sự giao động của lãi suất ảnh hưởng trực

Page 5: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

tiếp đến các quyết định của cá nhân, doanh nghiệp cũng như hoạt động của các tổ chức tài

chính tín dụng và của toàn bộ nền kinh tế. Và cũng chính lãi suất là một trong những công cụ

quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm

và kiểm soát lạm phát. Một chính sách lãi suất đúng đắn sẽ có tác động tích cực tới sự tăng

trưởng và phát triển của nền kinh tế. Vì thế đòi hỏi phải có một cơ chế lãi suất thích hợp ở

nước ta. Sau hơn mười năm đổi mới chính sách lãi suất đã góp phần bình ổn giá cả, đẩy lùi

và kiềm chế lạm phát, kích cầu tăng trưởng thu nhập quốc dân. Cơ chế lãi suất được thay đổi

phù hợp từng thời kỳ và được điều tiết linh hoạt. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng

cường mức độ hội nhập vào thị trường tài chính khu vực cũng như quốc tế, NHNN phải tiếp

tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do hoá. Tuy nhiên hiện nay việc xây

dựng và thực thi một chính sách lãi suất tiến tới tự do hoá trên cơ sở đảm bảo sự kiểm soát

của nhà nước đối với thị trường vẫn là bài toán khó đối với các nhà hoạch định chính sách.

Page 6: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

Phần nội dung

A. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT VÀ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT

I. Lãi suất

1) Một số khái niệm về lãi suất

Lãi suất là một trong những vấn đề hết sức phức tạp. Nó là một công cụ rất nhạy cảm trong

điều hành chính sách tiền tệ của mọi NHTƯ, đặc biệt những nước đang phát triển. Vì vây có

rất nhiều hiểu biết về lãi suất trong đó chúng ta có thể đưa ra một số khái niệm cơ bản:

* Lãi suất là giá cả sử dụng tiền vốn giắn liền với hoạt động tín dụng ngân hàng và các hoạt

động kinh tế liên quan đến việc vay và cho vay tiền.

* Tác động cơ bản của lãi suất : Sự biến động của lãi suất ảnh hưởng tới các quyết định

của các cá thể kinh tế.

- Với cá nhân : lãi suất ảnh hưởng tới các quyết định tiêu dùng hay tiết kiệm .

- Với doanh nghiệp :lãi suất ảnh hưởng tới quyết định đầu tư mở rộng sản suất hay thu hẹp

sản xuất

- Với nhà nước : lãi suất là công cụ quan trọng để điều hành chính sách tiền tệ của mỗi

nước.

=> Do đó, lãi suất luôn được theo dõi chặt chẽ nhất và diễn biến của nó luôn được thông tin

hằng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng. Do đó việc xác định và ấn định lãi

suất có ý nghĩa rất quan trọng phản ánh quan hệ cung cầu tiền tệ trên thị trường.

Lãi suất trên thị trường phải đảm bảo:

Tỷ lệ lạm phát < Lãi suất huy động vốn < Lãi suất cho vay vốn < Tỷ lệ lợi nhuận bình quân.

* Định nghĩa cụ thể của từng loại lãi suất :

- Lãi suất cơ bản : Là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở ổn định mức lãi suất

kinh doanh của mình

- Lãi suất thương mại : áp dụng khi các doanh nghiệp cho nhau vay dưới hình thức mua

bán chịu hàng hoá . 

- Lãi suất tiền gửi : là lãi suất được trả cho các khoản tiền gửi của người đi vay .  

Page 7: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

- Lãi suất tiền vay : Là lãi suất người đi vay phải trả cho ngân hàng do việc sử dụng vốn

vay của ngân hàng . 

- Lãi suất chiết khấu : áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết

khấu thương phiếu hay các giấy tờ có giá trị khác chưa đến hạn thanh toán của khách

hàng. Nó được tính bằng tỉ lệ %  trên mệnh giá của giấy tờ có giá trị và được khấu trừ

ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng . 

- Lãi suất tái chiết khấu : Là lãi suất cho vay ngắn hạn của ngân hàng trung ương ấn định

cho từng thời kì, căn cứ vào mục tiêu chính sách tiền tệ. Lãi suất này được dùng để kiểm

soát và điều tiết sự biến động của lãi suất trên thị trường. Đối với ngân hàng thương mại,

lãi suất tái chiết khấu là lãi suất gốc để từ đó ấn định lãi suất chiết khấu và lãi suất cho

vay khác. Nó được tính bằng tỉ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi Ngân hàng Trung ương cấp vốn tiền vay cho Ngân hàng

- Lãi suất tín dụng Nhà nước : áp dụng khi Nhà nước đi vay của các chủ thể kinh tế khác

nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hay trái phiếu .

- Lãi suất tín dụng tiêu dùng : áp dụng khi doanh nghiệp cho người lao động vay để phục

vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân .

- Lãi suất danh nghĩa : Là mức lãi suất được ấn định trên thị trường không được điều chỉnh

theo sự thay đổi của mức giá hay tỷ lệ lạm phát dự tính.

- Lãi suất thực : Là lãi suất được điều chỉnh lại theo sự thay đổi của mức giá hay tỷ lệ làm

phát dự tính. Nó là một phép đo tốt hơn đối với những ý muốn đi vay hay cho vay đối với

lãi suất danh nghĩa. Và nó là một công cụ chỉ báo tốt hơn về độ căng thẳng của các điều

kiện ở thị trường tín dụng so với lãi suất danh nghĩa. Theo Fishes, lãi suất danh nghĩa (i)

bằng lãi suất thực (r) cộng với tỷ lệ lạm phát dự tính(a):

i = r + a

- Lãi suất thị trường liên ngân hàng : Là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau

vay vốn trên thị trường liên ngân hàng, Lãi suất thị trwongf liên ngân hàng được ấn định

hàng ngày vào mỗi buổi sáng. Nó được hình thành bởi quan hệ cung cầu vốn của các

ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác và chịu sự chi phối bởi lãi suất chiết khấu

- Lãi suất LIBOR và PIBOR: Là lãi suất trên thị trường liên ngân hàng London và Paris,

là lãi suất đối với tiền gửi bằng ddoola hay ngoại tệ khác mà theo đó các ngân hàng lớn

làm căn cứ để đi vay và cho vay tên thị trường tiền tệ châu âu. LIBOR phản ánh điều kiện

Page 8: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

thị trường nên được các ngân hàng sử dụng rộng rãi làm cơ sở để ấn định lãi suất các

món vay

2) Phân loại* Phân loại nghiệp vụ tín dụng

- Lãi suất huy động

- Lãi suất cho vay

* Phân loại theo giá trị thực

- Lãi suất danh

- Lãi suất thực : lãi suất thực âm, lãi suất thực dương

* Phân loại theo phương pháp tính lãi

- Lãi suất đơn

- Lãi suất kép

* Phân loại theo tiêu thức quản lý vĩ mô

- Lãi suất trần

- Lãi suất cơ bản

- Lãi suất sàn

3) Vai trò của công cụ lãi suất

Trước đây, trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp thì vai trò của lãi suất hết sức mờ

nhạt và lệ thuộc nhiều yếu tố. Nhiều khi được hiểu như là một sự phân phối cuối cùng của

sản phẩm giữa người đi vay và người cho vay. Ngày nay, khi chuyển sang nền kinh tế thị

trường , lãi suất đã giữ một vai trò hết sức quan trọng tác động đến tất cả lĩnh vực của nền

kinh tế .

* Là công cụ để khuyến khích tiết kiệm đầu tư 

Lãi suất là công cụ khuyến khích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiết kiệm của các chủ

thể kinh tế tạo nên quỹ cho vay phục vụ cho nhu cầu của nền kinh tế . Theo lý thuyết tài

chính ta có phương trình về thu nhập như sau :   

   Thu Nhập = Tiết Kiệm + Tiêu dùng 

 Phương trình này không những đúng với đặc điểm tài chính của các hộ gia đình mà còn

đúng với cả nền kinh tế quốc gia . Giả sử trong một nền kinh tế bình thường , khi lãi suất vốn

tăng lên thì trước hết các hộ gia đình sẽ giảm các khoản chi tiêu dùng hoặc trì hoãn một số

khoản chi để tăng mức tiết kiệm . Như vậy , lãi suất là công cụ can thiệp có hiệu lực để phân

Page 9: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

chia tỉ lệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm. Tuy nhiên, nâng lãi suất đến mức nào thì cần phải có sự

tính toán lỹ lưỡng nhằm đảm bảo sự phát triển hài hoà của nền kinh tế . 

* Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp 

 Chính sách lãi suất là một bộ phận trong chính sách tiền tệ của Nhà nước nhằm điều tiết lưu

thông tiền tệ, kích thích và hướng hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Lãi

suất phải trả cho các khoản vay là chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Do vậy, lãi suất thấp sẽ

khuyến khích doanh nghiệp đẩy mạnh vay vốn đầu tư mở rộng sản xuất và ngược lại lãi suất

cao sẽ khiến doanh nghiệp hạn chế vay vốn đầu tư . Lãi suất là công cụ của Nhà nước nhằm

khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm cần ưu tiên

trong chiến lược phát triển kinh tế thông qua các ưu đãi về lãi suất, về điều kiện cung cấp tín

dụng và thời hạn thanh toán ...  

* Là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế   

Chúng ta thấy rằng, lãi suất là khoản chi phí của người đi vay, nên sự thay đổi của lãi suất

sẽ ảnh hưởng tới quyết định đến đầu tư và tiêu dùng của người dân, doanh nghiệp và các

thành phần kinh tế khác. Do đó có thể tác động đến mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô :

Lãi suất thấp → kích thích đầu tư , tiêu dùng → tăng tổng cầu, tổng cung → sản lượng

tăng , giá tăng , thất nghiệp giảm → đồng nội tệ có xu hướng giảm giá so với ngoại tệ .

Lãi suất cao → giảm thiểu đầu tư , hạn chế tiêu dùng → giảm tổng cầu, tổng

cung → sản lượng giảm , giá giảm , thất nghiệp tăng → đồng nội tệ có xu hướng tăng

so với ngoại tệ . 

 Như vậy bằng cách giảm lãi suất, Ngân hàng Nhà nước có thể tạo điều kiện cho các hoạt

động kinh tế phát triển. Tương tự, Ngân hàng Nhà nước có thể tăng lãi suất khi muốn thực

hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, giảm bớt lượng khối lượng tiền cần thiết cho việc mở rộng

hoạt động sản xuất kinh doanh và chi tiêu của người tiêu dùng .

* Công cụ phân phối có hiệu quả nhằm khai thác và sử dụng triệt để các nguồn lực của

nền kinh tế .  

 Khi Nhà nước muốn khuyến khích phát triển một ngành, nghề quan trọng nào đó trong nền

kinh tế, nhà nước có thể thực hiện bằng cách ưu đãi về lãi suất cho vay ( như giảm lãi suất

Page 10: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

cho vay ... ) , và ngược lại khi muốn hạn chế phát triển của các ngành chưa cần thiết để dành

nguồn lực cho các ngành khác thì nhà nước có thể tăng lãi suất cho vay của ngành đó. Như

vậy, những ngành được hỗ trợ sẽ phát triển hơn còn các ngành bị hạn chế sẽ ít phát triển hơn.

Do đó chính sách lãi suất là một công cụ để phân phối cơ cấu của nền kinh tế nhằm sử dụng

hiệu quả nhất các nguồn lực.

* Là công cụ đo lường nền kinh tế   

Thực tế cho thấy , trong giai đoạn phát triển thì lãi suất thường có xu hướng tăng do cung

cầu quỹ cho vay đều tăng , trong đó tốc độ tăng của cầu quỹ cho vay lớn hơn tốc độ tăng của

cung quỹ cho vay . Ngược lại , trong giai đoạn suy thoái lãi suất thường có xu hướng giảm  .

Do đó khi nhìn vào sự biến động của lãi suất ta có thể thấy được tình trạng của nền kinh

tế .  Lãi suất lại là một biến số thường xuyên biến động trong nền kinh tế . Căn cứ vào sự

biên động của lãi suất người ta có thể dự báo được các yếu tố khác của nền kinh tế như tính

sinh lời của các dự án đầu tư , mức độ lạm phát , mức độ thiếu hụt ngân sách  và qua đó còn

có thể dự báo được tình hình nền kinh tế trong tương lai .

II. Thực trạng điều hành lãi suất ở Việt Nam

1) Điểm lại chặng đường sau 10 năm đổi mới

* Giai đoạn 1986 – 1992: giai đoạn chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất thực dương

 Ở giai đoạn này người gửi tiền không những không có lãi mà giá trị của đồng vốn họ bỏ

vào ngân hàng còn không được đảm bảo. Lãi suất ở thời kỳ này là lãi suất âm và thấp hơn

nhiều so với lạm phát. Bước sang năm 1992, lạm phát đã được đẩy lùi và luôn ở mức thấp đã

tạo điều kiện để chúng ta chuyển sang lãi suất thực dương. Bên cạnh việc xác định mức lãi

suất tiền gửi và cho vay cụ thể, ngân hàng nhà nước còn có sự phân biệt lãi suất giữa các

thành phần kinh tế, lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp quốc doan . Tuy nhiên , vẫn

còn có hạn chế là lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn .

* Giai đoạn Ngân hàng nhà nước quy định lãi suất tiền gửi , lãi suất cho vay và lãi suất

thoả thuận :

Cùng một thời điểm, NHTW cho phép các tổ chức tín dụng cho vay theo mức lãi suất thoả

thuận mà NHTM thoả thuận với khách hàng. Mức lãi suất thoả thuận có thể vượt mức cho

vay hay lãi suất tiền gửi cụ thể mà ngân hàng đã công bố. Ở giai đoạn này, vẫn có sự phân

Page 11: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

biệt giữa lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân. Bên

cạnh đó, với cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận, các NHTM có nơi cho vay với mức lãi

suất 22%/năm, thậm chí là 30-35%/năm. Chính vì vậy, trong thời kỳ này các NHTM và các

tổ chức tín dụng khác có thể đạt mức chênh lệch lãi suất rất lớn là khoảng 0.75-1%/tháng.

Thực tế này đã đem lại lợi nhuận rất cao cho các NHTM và các tổ chức tín dụng song lại gây

rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc mở rộng kinh doanh .

* Giai đoạn thực hiện trần lãi suất cho vay  

Trước tình hình đó, sau kì họp VIII khoá IX đã thông qua bỏ thuế doanh thu của NHTM và

các tổ chức tín dụng, đồng thời yêu cầu các đơn vị kinh doanh tiền tệ phải giảm chi phí hoạt

động và giảm lãi suất cho vay của mình. Ngân hàng Trung ương đã không chế mức lãi suất

cho vay và tiền gửi là 0,35%/tháng, đó chính là tiền đề để hình thành chính sách lãi suất mới

đó là chính sách khống chế trần lãi suất cho vay như hiện nay đối với các NHTM và các tổ

chức tín dụng khác. Với chính sách này, NHTW đã khống chế lãi suất cho vay tối đa của các

NHTM và các tổ chức tín dụng . Trong năm 1999, NHTW đã thực hiện 5 lần giảm lãi suất

trần cho vay nhằm đối phó với các cuộc khủng hoảng tài chính khu vực và thế giới. Việc

giảm lãi suất như vậy, đã có tác dụng kích cầu, tăng đầu tư, tăng mức tiêu dùng để khắc phục

hậu quả khủng hoảng kinh tế.

2) Chính sách lãi suất của Việt Nam hiện nay

Nhìn nhận các chính sách trước đây 

Từ năm 1986 đến nay , việc thực hiện chính sách lãi suất trải qua nhiều giai đoạn , mỗi giai

đoạn lại mang những đặc điểm , nội dung và mục đích khác nhau và qua mỗi giai đoạn

chúng ta đã tích luỹ được những kinh nghiệm nhất định .

  + Ở giai đoạn kinh tế tập trung quan liêu bao cấp với lãi suất âm và chính sách lãi suất rất

cứng nhắc theo kiểu hành chính đã cản trợ sự phát triển của nền kinh tế .

  + Ở đầu thời kỳ đổi mới , chúng ta đã đổi mới chính sách lãi suất với việc thả nổi lãi suất ,

quy định trần lãi suất nhưng nhìn chung là vẫn thụ động và việc điều hành thị trường tiền tệ

còn nhiều bất cập .

  + Từ năm 1993 , chính sách lãi suất đã dần linh động hơn với lãi suất thực dương giảm

dần cùng với sự đi xuống của tốc độ lạm phát vừa đảm bảo khuyến khích tiết kiệm vừa

đẩy mạnh đầu tư vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế .

Page 12: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

  + Từ năm 1996 , bằng việc kiềm chế thành công lạm phát khi đẩy lùi lạm phát về mức

một chữ số ( 1996 là 4,5% , năm 1997 là 3,7% )  là điều kiện để thi hành chính sách lãi

suất thực dương gắn liền với việc điều chỉnh toàn diện lãi suất cả về cơ cấu mặt bằng

cũng như loại hình lãi suất huy động tiền gửi và cho vay ( bao gồm cả nội và ngoại tệ ) .

Từ đó đến nay , chính sách lãi suất bắt đầu linh hoạt hơn cả mức lãi suất trần về huy

động vốn và cho vay . Qua đó , chúng ta rút ra được một số nhận xét về chính sách lãi

suất ở Việt Nam như sau : 

- Một là : Chúng ta đã liên tục theo đuổi chính sách lãi suất chủ động từ khi bắt đầu công

cuộc đổi mới chính sách lãi suất và theo đó là cơ cấu của các loại hình lãi suất khi được

định hình đúng đắn đã có tác động tích cực đến tiến trình phát triển của hệ thống tài chính

Việt Nam .

- Hai là : chế độ kiểm soát lãi suất cứng nhắc đã dần dần được nới rộng , các mức lãi suất

được quy định cụ thể theo mục đích và ngành nghề kinh doanh đã được xoá bỏ để dành

quyền tự chủ cho các NHTM trong  một mức độ linh hoạt nhất định    Ba là : Thực tế

đang đã cho thấy chừng nào có được loại  hình lãi suất chủ đạo ( lãi suất cơ bản ) đồng

thời xây dựng được cơ chế đảm bảo mức độ bao quát và cách thức can thiệp linh hoạt của

NHNN đối với quan hệ cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế thì khi đó mới kiểm soát tốt

lượng tiền trong lưu thông . Ngoài ra , chính sách lãi suất thời kỳ này  cũng còn nhiều

điểm bất cập cần phải khắc phục . dù cho có thể biện minh việc kiểm soát lãi suất trong

những điều kiện nhất định vù mục tiêu của chính sách tiền tệ nhưng vẫn không thể tránh

khỏi những thiệt hại xét trên tổng thể nền kinh tế . Điều này khuyến khích sự vay mượn ,

chiếm dụng vốn , trốn tránh sự kiểm soát của NHNN làm méo mó chế độ lãi suất được

NHTW quy định . Mức độ toàn dụng vốn trong nền kinh tế thấp , tình trạng đầu cơ trục

lợi và cạnh tranh bất tương xứng về lãi suất vẫn diễn ra , nhiều nguồn vốn bị sử dụng kém

hiệu quả . Chúng ta chuyển sang lãi suất trần là một bước tiến song vẫn chưa phản ánh

đúng quan hệ cung-cầu vốn của nền kinh tế .

Lãi suất cơ bản của NHNN hiện nay

Theo điều 9 khoản 12 của luật NHNN Việt Nam lãi suất cơ bản được định nghĩa như

sau : " Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng

ấn định lãi suất kinh doanh " . Lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất của

thị trường liên ngân hàng , lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng nhà nước , lãi

suất huy động vốn đầu vào của các tổ chức tín dụng và xu hướng biến động cung-cầu vốn

. Theo luật Dân sự , các tổ chức tín dụng không được cho vay với lãi suất gấp rưỡi lãi

Page 13: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

suất cơ bản . 

 Lãi suất cơ bản được công bố lần đầu vào ngày 30-05-2000 và trong lần công bố này , lãi

suất cơ bản ở mức 7.2%/năm . Tại thời điểm tháng 6-2008 lãi suất cơ bản là 14%/năm ,

tức là các tổ chức tín dụng có thể cho vay với lãi suất lên đến 21%/năm . Vào thời điểm

tháng 4-2009 , lãi suất cơ bản đồng Việt Nam được công bố là 7%/năm .

 Lãi suất cơ bản của NHNN bao gồm 2 loại :

  - Lãi suất huy động do chính phủ ở Việt Nam được thực hiện thông qua việc phát hành

các trái phiếu kho bạc , các NHTM sẽ nhận được các tín hiệu từ phía NHNN về mức cho

vay tối thiểu có thể đạt được với mức rủi ro bằng không . Nếu NHNN muốn thu hẹp

lượng cung tiền của các NHTM ra nền kinh tế thì sẽ tăng mức lãi suất huy động và ngược

lại .

 - Lãi suất cho vay đối với các NHTM hay nói cách khác là lãi suất chiết khấu , lãi suất

tái cấp vốn nhằm tác động đến đầu vào của NHTM .

B. Qúa trình điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất và đánh giá thành tựu , tồn tại của

quá trình điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam

1. Quá trình điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất

1.1. Giai đoạn trước năm 1988

Đặc trưng cơ bản của lãi suất thời kì thực thi chế độ quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế

hoạch hóa tập chung kéo dài,đó là áp dụng chính sách lãi suất bao cấp khá nặng nề,lãi

suất được xây dựng thoát ly lãi suất của nền kinh tế thế giới.Dẫn đến lãi suất thực thi

trong thời kỳ này với tình trạng “lãi giả và lỗ thật ” làm cho nền ngân hàng không thể bảo

toàn vốn của mình do lạm phát tăng cao và lãi suất thực là số âm , vì tỉ lệ lạm phát dã lớn

hơn lãi suất danh nghĩa .

1.2. Giai đoạn 1989 – 5/1992

Mặc dù từ năm 1990 nhà nước ta đã ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng nhằm tách hệ

thống ngân hàng một cấp thành ngân hàng hai cấp, từng bước chuyển hoá hoạt động của

ngân hàng sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên do lạm phát còn ở mức độ rất cao nên chính

sách lãi suất chưa thực hiện được lãi suất dương mà vẫn theo lãi suất âm. NHNN quy

định cụ thể các loại lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay để các NHTM thực hiện. Đặc

điểm lãi suất thời kỳ này là:

Page 14: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

-Lãi suất tiền gửu thấp hơn tỉ lệ lạm phát.

-Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động.

1.3. Giai đoạn 6/1992 – 1995

Trong giai đoạn này nhà nước thực hiện chính sách lãi suất thực dương, tỉ lệ lạm phát

được kiềm chế ở mức thấp. Từ 1/10/1993 NHNN quy định mức lãi suất tiền gửi và cho

vay cụ thể, vừa cho phép các TCTD cho vay theo lãi suất thoả thuận vuợt mức cho vay cụ

thể (QĐ 184/QĐ-NH1 ngày 28/9/1993).

Lãi suất thoả thuận được hiểu là: nếu ngân hàng thiếu vốn thì được phép phát hành kì

phiếu với lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kì hạn tối đa 0.2%/tháng và cho vay vơi

lãi suất cao hơn mức 2,1%/tháng trên cơ sở thoả thuận vơi khách hàng theo phương

châm ngân hàng kinh doanh được và người vay chấp nhận được. Với cơ chế này mức

chênh lệc giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động rất cao (từ 0,7%-1%/tháng). Nên hầu

hết các ngân hàng đều có lợi nhuận cao, tuy nhiên thiệt hại do các cá nhân doanh nghiệp

vay vốn. Thời kỳ này lãi suất này bắt đầu được sử dụng như một công cụ của chính sách

tiền tệ, cùng với lãi suất tái cấp vốn được hình thành vào đầu năm 1991 khi hai pháp lệnh

ngân hàng có hiệu lực.

1.4. Giai đoạn 1996 – 7/2000

Theo quy định, NHNN khống chế lãi suất cho vay tối đa và quy định khống chế chênh

lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn ở mức 0.35%/tháng (bao

gồm cả phí, thếu và lợi nhuận)

Trần lãi suất thay đổi liên tục theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế đặc

biệt trong năm 1998, 1999. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh giảm xuống

trong thời gian này ( từ 1.1%/tháng năm 1997 còn 0.7%/tháng từ 1/1/1999).

Đây là lần đầu tiên các tổ chức tín dụng được tự do áp dụng lãi suất cho vay và lãi

suất huy động trong phạm vi giới hạn của nhà nước. Chính sách lãi suất đã kích thích

hoạt động tín dụng buộc các NHTM chuyển hướng hoạt động đa năng, đổi mới cung cach

phục vụ, mở mang thêm các loại hình dịch vụ tín dụng góp phần đa năng hoá kinh doanh

tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Thành quả lớn nhất mà cơ chế trần lãi suất mang lại

chính là tạo các cơ hội giảm chi phí một cách bình đẳng với mọi thành phần doanh

nghiệp, tăng thêm động lực cho guồng máy kinh tế góp phần thực hiện CNH-HĐH đất

nước. Có thể thấy việc điều chỉnh chính sách lãi suất trong thời kỳ này nhằm tiến tới một

Page 15: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

trần lãi suất cho vay, tạo điều kiện để áp dụng mức lãi suất cơ bản và từng bước tự do hoá

lãi suất, mặt khác nhằm mục đích kích cầu và thúc đẩy đầu tư tiêu dùng.

1.4.Giai doạn từ 8/2000 – 5/2002

Đến ngày 2/8/2000 NHNN đã quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất : xoá

bỏ cơ chế trần lãi suất, qui định cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với lãi suất cho vay

bằng nội tệ và cơ chế thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ.

Theo điều 18 của luật NHNN Việt nam qui định “NHNN xác định và công bố lãi

suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn”

Khoản 12 điều 9 luật NHNN Việt nam giải thích “lãi suất cơ bản là lãi suất do

NHNN công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh”.

Khi xác định và công bố lãi suất cơ bản phải căn cứ vào:

-Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế.

-Chỉ số lạm phát dự kiến trong năm.

-Lãi suất gửi tiền phải thực dương.

-Tình hình cung cầu vốn trên thị trường.

-Lãi suất thị trường đấu thầu trái phiếu kho bạc nhà nước trong các phiên đấu thầu

gần nhất.

-Mối quan hệ giữa lãi suất với tỷ giá ngoại tệ, giữa lãi suất ngoại tệ với lãi suất nội

tệ.

-Thậm chí cả tình kinh tế chính trị trong và ngoài nước.

Theo đó mức lãi suất cho vay bằng mức lãi suất cơ bản cộng với tỷ biên độ giao

động. NHNN công bố lãi suất cơ bản và biên độ giao động từng thời điểm trên cơ cung

cầu tín dụng trong nền kinh tế Việt Nam và lãi suất trên thị trường quốc tế. Mới đây

5/2001 NHNN tuyên bố tự do hoá lãi suất đối với đồng ngoại tệ.

1.5. Giai đoạn 5/2002 – đến nay

Từ sau tháng 5- 2002, cơ chế lãi suất thoả thuận được áp dụng trong tín dụng và lãi

suất cơ bản làm công cụ điều tiết thị trường tiền tệ. hệ thống ngân hàng đãc chuyển sang

vận hành theo cơ chế hai cấp này.

1) Cơ chế điều hành bằng lãi suất cơ bản:

Page 16: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

Lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay thấp nhất của NHTM đối với khách hàng tốt nhất.

lãi suất cho vay tối đa của mỗi NHTM bằng 150% lãi suất cơ bản.

Tháng 6/2002 đến nay, thống đốc NHNN Việt Nam điều hành lãi suất cơ bản gồm các

mức: 7,25%/năm; 8,255%/năm; 8,75%/năm; 12%/năm; 14%/năm; 13%/năm; 12%/năm;

11%/năm; 10%/năm; tháng 12/2008 là 8,5%/năm. Và đã xuất hiện nhiều kiến nghị của

các ngân hàng TM về quyết định này của thông đốc NHNN. Thống đốc đã đưa ra lãi suất

cơ bản cao, khiến bộ Tài chính phát hành trái phiếu chính phủ hoặc trái phiếu công trình

và Kho bạc Nhà nước phát hành tín phiếu kho bạc gặp nhiều khó khăn. Năm 2008, Bộ

Tài chính tổ chức đấu thầu trái phiếu chính phủ nhiều phiên không thành công; tín phiếu

kho bạc hầu như tê liệt. nước ta lạm phát quá cao, nhưng mang nội dung trì trệ. biểu hiện

hàng hoá không thiếu, nhưng sức mua của dân chúng giảm, dẫn đến sản xuất đình đốn.

Biện pháp chống lạm phát của NHTW chủ yếu bằng tỷ lệ tiền dự trữ bắt buộc cao hay

thấp. Vì thế, để nâng cao vị thế NHTW, thống đốc NHNN được kiến nghị điều hành lãi

suất cơ bản bằng “khung lãi suất” trong đó có “lãi suất thoả thuận”.

Tuy nhiên, ở mỗi nước, NHTW căn cứ vào luật định điều kiện và bối cảnh phát triển

kinh tế – xã hội, thị trường tài chính – tiền tệ ở mỗi nước, cũng như địa vị pháp lý của

NHTW, mục tiêu của chính sách tiền tệ (lạm phát hoặc đa mục tiêu) để áp dụng cơ chế

điều hành lãi suất phù hợp trong từng thời kỳ nhằm ổn định và phát triển thị trường tiền

tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và sự phân bổ có hiệu quả các nguồn

vốn trong nền kinh tế. Đối với nước ta, cơ chế điều hành lãi suất có sự thay đổi qua nhiều

giai đoạn; từ giữa tháng 5/2008 đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) áp

dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản:

- Thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mà theo đó, các NHTM ấn định lãi suất

cho vay tối đa bằng 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong từng thời kỳ. Đây là

công cụ trực tiếp để kiểm soát lãi suất kinh doanh của NHTM; đồng thời, NHNN tiếp tục

điều hành linh hoạt các mức lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái cấp vốn và tái

chiết khấu để điều tiết lãi suất thị trường tiền tệ. Lãi suất cơ bản được xác định và công

bố trên cơ sở xu hướng biến động cung – cầu vốn thị trường, mục tiêu của chính sách tiền

tệ và các nhân tố tác động khác của thị trường tiền tệ, ngoại hối ở trong và ngoài nước.

- Thiết lập một hành lang lãi suất thị trường liên ngân hàng với biên độ chênh lệch

khoảng 2% để điều tiết lãi suất thị trường: (i) “Trần” là lãi suất tái cấp vốn, “sàn” là lãi

suất tái chiết khấu (hiện nay là 7% – 5%/năm); lãi suất cơ bản và lãi suất nghiệp vụ thị

trường mở biến động trong phạm vi hành lang này; (ii) Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở

Page 17: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

đóng vai trò định hướng và thực hiện việc “bơm” tiền ra hoặc “hút” tiền về, từ đó tác

động đến cung – cầu vốn, lãi suất thị trường liên ngân hàng và lãi suất huy động, cho vay

của NHTM.

Bảng: Diễn biến lãi suất chủ đạo và lãi suất thị trường từ tháng 5/2008 – 7/2009

Page 18: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

.

2) Cơ chế được sử dụng song song với cơ chế điều chỉnh lãi suất cơ bản, NHNN đã sử

dụng cơ chế điều chỉnh lãi suất thoả thuận.

Đầu năm 2010. NHNN, ngày 26-2-2010, đã ra quyết định cho phép các ngân hàng thỏa

thuận lãi suất cho vay trung và dài hạn (có kỳ hạn trên 365 ngày) với doanh nghiệp.

Thực trạng tự do hoá lãi suất từ khi áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận:

năm 2006, cơ chế tín dụng, cơ chế đảm bảo tiền vay được hoàn thiện theo hướng một

mặt tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp vay vốn. mặt khác mở rộng

quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng bảo đảm an toàn cho hệ thống

NHNN. việc áp dụng lãi suất thoả thuận là bước đột phá thực hiện tự do hoá lãi suất, lãi

suất trên thị trường vẫn tương đối ổn định.

Trong 6 tháng đầu năm 2006, dư nợ cho vay của nền kinh tế chỉ tăng 13,8% đến

30/04/2007, tổng dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng và tín dụng đã lên tới 328,490 tỉ

đồng, tăng 15,3% so với 31/12/2006. Trong khi đó, tổng dư nợ tiền gửi của khách hàng

tại các tổ chức ngân hàng và tín dụng chỉ đạt 321,280 tỉ đồng, tăng 9,43% so với cuối

Page 19: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

năm 2006.Các ngân hàng thương mại liên tục tung ra các chiến dịch huy động vốn với lãi

suất cao , hình thức đa dạng kèm theo khuyến mãi hấp dẫn. Chiếm trên 70% thị phần huy

động vốn là các ngân hàng thương mại nhà nước với mức lãi suất lên tới 0,7 –

0,72%/tháng. Chỉ vài ngày sau khi ngân hàng công thương “khai hoả” đợt phát hành kì

phiếu đầu tiên của mình trong năm 2003, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đã tiếp nối bằng

cách tung ra một sản phẩm huy động vốn còn ấn tượng hơn với lãi suất huy động (tính

theo năm) hấp dẫn hơn, đó là chứng chỉ tiền gửi. Với mức lãi suất trả trước đối với chứng

chỉ tiền gửi bằng VNĐ cho các kì hạn từ 12 triệu đến 24 triệu quy theo lãi trả sau vào

khoảng 8,4% - 9%/năm, chỉ trong vòng 20 ngày làm việc, tức là chưa đầy một nửa thời

gian dự kiến phát hành, ngân hàng này đã “ẵm trọn” 3000 tỉ đồng và phải chấm dứt phát

hành vì đã “hoàn thành kế hoạch” theo sự cho phép của ngân hàng nhà nước.các ngân

hàng thương mại tăng lãi suất huy động vốn tuỳ thuộc vào nhu cầu vốn của họ và là

quyền của họ. Tuy nhiên, một khi cuộc chiến đã được khơi ra thì dù muốn hay không

muốn cũng phải theo nhưng chênh lệch lãi suất đầu vào, đầu ra trở nên đáng lo ngại. Tình

trạng thiếu vốn, đặc biệt là vốn dài hạn cho các dự án lớn đã được kí kết, buộc các ngấn

hàng phải gia tăng lãi suất huuy động vốn thực tế. Tuy nhiên, nguy cơ tiềm ẩn vẫn có thể

xảy ra khi mặt bằng lãi suất huy động vốn tăng nhanh trong khi mặt bằng lãi suất cho vay

tăng chậm.

Một tháng sau khi áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận, mục tiêu điều hành tỉ giá linh

hoạt sát thực với diễn biến thị trường. Biên độ tỉ giá mua bán giao ngay giữa VND với

USD so với tỉ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng được nới lỏng từ +0,1% lên +-

0,25%.

Tuy được nới lỏng, song tỉ giá biến động không nhiều. Tỉ giá bình quân trên thị

trường liên ngân hàng chỉ tăng 1,97% so với năm 2005. Điều đó cho thấy việc điều hành

tỉ giá vừa phản ánh xu hướng biến động của đồng USD trên thị trường quốc tế,vừa phản

ánh sát thực sức mua của VND. Cùng với việc giảm tỉ lệ kết hối từ 40% xuống còn 30%

năm 2005 và giảm xuống bằng 0% năm 2006, việc đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối theo

hướng thông thoáng nhất là đối với chính sách kiều hối đã góp phần ổn định thị trường

ngoại hối. Theo đó, doanh nghiệp có quyền chủ động bán ngoại tệ cho ngân hàng thương

mại hay để trên tài khoản theo yêu cầu kinh doanh. Ngân hàng nhà nước cũng sửa đổi bổ

sung quy định về trạng thái ngoại hối của ngân hàng thương mại; sửa đổi bổ sung quyết

định hoạt động của bàn thu đổi ngoại tệ…đảm bảo phù hợp hơn với thực tiễn hiện nay.

Tác động tích cực vào ổn định tỷ giá trên thị trường đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngoại tệ cho

hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.

Page 20: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

Trong điều kiện cung cầu ngoại tệ còn mất cân đối. Việc thu hút được hơn 2,4 tỉ USD

kiều hối và lượng ngoại tệ các ngân hàng thương mại mua được của khách hàng tăng

khoảng 28% so với năm 2005 đã việc làm giảm tâm lý nắm giữ USD, doanh nghiệp xuất

khẩu tháo gỡ được khó khăn…

2. Đánh giá thành tựu , tồn tại của quá trình điều chỉnh cơ chế điều

hành lãi suất ở Việt Nam

2.1. Thành tựu

Một là, việc áp dụng kịp thời cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đã ngăn chặn được nguy

cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các NHTM trong những tháng

đầu năm 2008, nhất là đối với NHTM cổ phần quy mô nhỏ chuyển đổi mô hình từ nông

thôn lên; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư,

doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được tình trạng cạnh

tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các NHTM bằng cách đẩy lãi suất lên cao .

Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động của các

NHTM đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong những

tháng đầu năm 2009 tương đối ổn định.

Hai là, cơ chế truyền dẫn của các biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu

quả đối với hoạt động kinh doanh của NHTM và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất thị

trường liên ngân hàng đã biến động xoay quanh các mức lãi suất chủ đạo của NHNN; lãi

suất huy động và cho vay của các NHTM biến động theo cung – cầu vốn và tăng, giảm theo

sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của NHNN, đã tác động làm cho thu hẹp hoặc

mở rộng tín dụng. Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện

thanh toán và tín dụng phù hợp với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận

trọng.

Ba là, việc điều hành linh hoạt lãi suất cơ bản, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa

là động thái phát tín hiệu về chủ trơng của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền

tệ của NHNN là “thắt chặt” hay “nới lỏng” tiền tệ, đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế

quan trọng trên thị trờng tài chính, tiền tệ, đợc các doanh nghiệp, ngời dân, các nhà đầu t

trong và ngoài nớc, các NHTM quan tâm, theo dõi, dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy,

tích cực về hoạt động đầu t, tiết kiệm và tiêu dùng. Kết quả này cú ý nghia rất quan trọng,

thể hiện đợc vai trò và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế

lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô.

Page 21: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

Bốn là, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với quy định của Luật NHNN và Bộ

luật Dân sự, mục tiêu của chính sách tiền tệ hiện nay và các năm tới đây là kiểm soát lạm

phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và bền vững.

2.2. Hạn chế

Tuy vậy, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là công cụ can thiệp trực tiếp đối với lãi suất

kinh doanh của NHTM, có hạn chế nhất định việc thử nghiệm và đưa ra thị trường các sản

phẩm tín dụng có độ rủi ro cao nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường. Xử lý vấn đề này,

NHNN đã ban hành cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận đối với các nhu cầu vốn phục vụ đời

sống và phát hành thẻ tín dụng, đi kèm theo đó là cơ chế thống kê, theo dõi và thanh tra,

giám sát nhằm hạn chế rủi ro. Hiện nay, đã và đang xuất hiện ý kiến cho rằng NHNN cần dỡ

bỏ trần lãi suất cho vay = Lãi suất cơ bản x 150% mà để cho các NHTM được tự ấn định lãi

suất kinh doanh. Ý kiến này cần được xem xét ở một số khía cạnh: (1) Theo kinh nghiệm

của quá trình tự do hoá lãi suất ở các nước và nước ta trong nhiều năm qua cho thấy điều

kiện để tự do hoá lãi suất là kinh tế vĩ mô ổn định, thị trường tài chính – tiền tệ minh bạch

và có chiều sâu, mục tiêu chủ yếu của chính sách tiền tệ là kiểm soát lạm phát; phát triển hệ

thống thanh toán có khả năng kiểm soát được hầu hết các luồng vốn khả dụng của khu vực

ngân hàng, chứng khoán và các định chế tài chính khác; hệ thống NHTM có năng lực cạnh

tranh và khả năng đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh; ngân sách nhà nước thâm hụt ở

mức thấp. Với các điều kiện này, có lẽ nền kinh tế và thị trường tài chính – tiền tệ của nước

ta hiện nay chưa đáp ứng được; (2) Khủng hoảng tài chính thế giới đã trải qua tình trạng tồi

tệ nhất, nhưng suy thoái và phục hồi kinh tế thế giới còn diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu

cực đối với kinh tế và thị trường tiền tệ trong nước, trước mắt cần thực thi các giải pháp tiền

tệ theo hướng đảm bảo an toàn hệ thống; (3) Kinh tế trong nước, nguy cơ lạm phát cao chưa

được ngăn ngừa một cách vững chắc, kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro, hệ thống các

NHTM còn chênh lệch lớn về quy mô, cơ cấu và chất lượng tài sản nợ và tài sản có; năng

lực tài chính, khả năng cạnh tranh và quản trị kinh doanh của các NHTM còn nhiều mặt hạn

chế; (4) Thị trường hàng hoá, tài chính, tiền tệ, vàng, ngoại hối, bất động sản, chứng khoán

còn chứa đựng những nguy cơ bất ổn do hiện tượng đầu cơ còn diễn ra khá phổ biến và các

biện pháp điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước chưa đủ mạnh để có thể ngăn ngừa hoặc hạn

chế các hiện tượng này, sẽ kéo theo các rủi ro cho hệ thống ngân hàng.

Từ những phân tích và nhận định nêu trên, trong thời gian tới – giai đoạn hậu suy giảm

kinh tế, việc tiếp tục áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là một giải pháp thích hợp,

Page 22: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô, cung – cầu vốn thị trường. Việc điều tiết lãi suất thị

trường theo hướng ổn định được thực hiện kết hợp giữa điều tiết khối lượng tiền thông qua

các công cụ gián tiếp, điều hành linh hoạt các mức lãi suất chủ đạo và làm tốt công tác

truyền thông. Sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do hoá phải trên cơ sở

đánh giá một cách khoa học và thực tiễn các điều kiện kinh tế, thị trường tài chính – tiền tệ

ở trong và ngoài nước, cũng như các rủi có thể xảy ra và các biện pháp xử lý để đảm bảo ổn

định kinh tế vĩ mô, sự an toàn và phát triển của hệ thống tài chính

3.Giải pháp định hướng về điều hành lãi suất ở Việt Nam

Việt Nam là một nước đang xây dựng một nền kinh tế hàng hóa thị trường nhiều thành

phần theo định hướng XHCN , vì thế việc nghiên cứu để có một chính sách lãi suất cho phù

hợp là vô cùng cần thiết để xây dựng nền kinh tế . Trên thực tế , trong suốt thời gian qua

chúng ta đã không ngừng thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho phù hợp : năm 1990 chúng

ta đã chuyển từ cơ chế lãi suất âm ang cơ chế lãi suất dương , đồng thời duy trì lãi suất vượt

trên lạm phát và điều chỉnh theo biến động của nền kinh tế thị trường , có tham khảo sự thay

đổi của các nước trong khu vực và quốc tế . Đầu năm 1996 lại có sự thay đổi theo hướng tự

do hóa , hủy bỏ quy định về lãi suất tiền gửi điều chỉnh trần lãi suất cho vay phù hợp với

cung cầu vốn và mức độ lạm phát . 

 Vì vậy , có thể thấy rằng chúng ta không thể quy định lãi suất một cách cứng nhắc theo

kiểu hành chính gò bó áp đặt . Chúng ta đều biết , thị trường tiền tệ luôn luôn rất sôi động ,

do đó việc tự do lãi suất là một quy luật tất yếu và có như vậy lãi suất mới trở thành đòn bẩy

trong nền kinh tế . Mức chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn không nên bị

khống chế quá chặt chẽ , cứng nhắc mà nên điều chỉnh phụ thuộc vào thị trường và hiệu quả

kinh doanh của từng tổ chức tín dụng . Tuy nhiên không vì thế mà thả nổi lãi suất mà phải

có các chính sách lãi suất cụ thể cho các tổ chức tín dụng . Có như vậy các tổ chức tín dụng

mới có thể hoạt động được trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh đảm bảo hoạt động

hiệu quả phục vụ cho khách hàng và nền kinh tế . 

 Chúng ta phải có một chính sách lãi suất phù hợp với đường lối đổi mới nền kinh tế , tuân

thủ theo định hướng XHCN đảm bảo vai trò quản lý của Nhà nước trong việc xây dựng và

phát triển kinh tế . Chính sách quản lý phải thống nhất ổn định và đi theo định hướng của thị

trường , đồng thời khắc phục những biến cố phát sinh của nền kinh tế . Ngoài ra , NHNN

còn cần phải làm rõ phần chính sách lãi suất để thực hiện các mục tiêu xã hội như xóa đói

giảm nghèo, đầu tư cho giáo dục , y tế ... 

 

 Hơn nữa , công cụ lãi suất là một công cụ rất nhạy cảm và có tác động rất lớn đến nền kinh

Page 23: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

tế , do đó NHTW phải thận trọng khi đưa ra các quyết định liên quan đến chính sách lãi suất

, đồng thời phải đưa ra các biện pháp kịp thời , chính xác để can thiệp nhằm giữ ổn định cho

thị trường . Hiện nay chúng ta đang thực hiện cơ chế lãi suất là cơ chế mang tính chỉ đạo,

chứ không phải tự do vận động theo nhu cầu thị trường, nên lãi suất phải căn cứ trên cung

cầu của thị trường tiền tệ., chính sách này về cơ bản có thể giúp chúng ta kiềm chế được lạm

phát nhưng nó khiến cho chính sách lãi suất khá cứng nhắc , đôi khi gây khó khăn cho việc

huy động vốn . Đồng thời cũng phải thấy rằng nếu như trong chống lạm phát công cụ lãi

suất có thể phát huy hiệu quả là một cái phanh hãm lại nền kinh tế đi quá nhanh , mang lại

hiệu quả tức thời thì trong chống suy thoái kinh tế nó lại không mang đến hiệu quả ngay

như chống lạm phát . Việc lầm tưởng CSTT sẽ phát huy ngay tác dụng chống suy giảm kinh

tế như đã từng phát huy vai trò trong chống lạm phát là một sai lầm , đồng thời công cụ này

cũng không phát huy được hiệu quả nếu không đi kèm với các chính sách khác . Đây chính

là điểm tồn tại của chính sách hỗ trợ năm 2009 . Vì vậy , phải nhìn nhận chính sách lãi suất

là một trong những chính sách tiền tệ chung và phải kết hợp chặt chẽ , nhịp nhàng với các

chính sách tiền tệ khác . 

Kết luận

Lãi suất là loại giá cả đặc biệt được sử dụng làm đòn bẩy cho ngững mục tiêu khác

nhau. Việc điều chỉnh và đưa ra những chính sách hợp lý trong từng thời kỳ một cách phù

hợp với điều kiện hoàn cảnh của đất nước sao cho chính sách lãi suất thực sự phát huy hiệu

quả của nó một cách tích cực đối với sự phát triển kinh tế là vấn đề không đơn giản, đòi hỏi

phải sử lý nhiều mối quan hệ khác nhau.

Tự do hoá lãi suất là một bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính, tức là lãi suất được

biến động để phản ứng theo các lực lượng cung cầu thị trường; loại bỏ những áp đặt mang

tính chất hành chính, cho phép các ngân hàng tự chủ trong việc tự do ấn định các mức lãi

suất của mình và khi đó NHTƯ tác động gián tiếp với lãi suất dựa trên các công cụ kiểm

soát tiền tệ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, tái triết khấu.

Một chính sách lãi suất hiệu quả sẽ đảm bảo cho nó phát huy được những mặt tích cực

của nó, tránh được sự lãng phí các nuồn lực. Điều này là cực kỳ quan trọng đối với Việt

Nam, một nước đang phát triển đang tiến hành CNH-HĐH đất nước. Nhận thấy những mặt

tích cực của việc tự do hoá lãi suất Chính phủ Viết Nam thông qua NHNN đã thay đổi cách

nhìn nhận về tự do hoá lãi suất, từ đó có những chính sách lãi suất phù hợp với điều kiện

Page 24: bài thảo luận cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước vn từ 1995- nay

nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong thời gian tới chính sách lãi suất tiếp tục được điều

chỉnh theo hướng tự do hoá, phù hợp với mức độ hội nhập vào thị trường tà chính khu vực

và Quốc tế. Khi các điều kiện đã hội đủ, chúng ta sẽ chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất

nhưng vẫn có sự điều tiết giàn tiếp của NHNN ta để đản bảo giữ vững “định hướng” cho

hoạt động của hệ thống ngân hàng.

Tài liệu tham khảo :

1.Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính. Frederic S.Mishkin.

2.Tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Lê Vinh Danh.

3. ngân hàng

9.Dự thảo giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ,Đại Lý thuyết tổng quan về nhân

dụng lãi suất và việc làm. M Keynes Nxb sự thật 1989.

4.Tạp chí Thị trường tài chính số 7,10,12/2000;số1+2,3+4,15/2001.

5.Tạp chí ngân hàng tháng10.11/2000,tháng7,10/2001.

6.Tạp chí kinh tế phát triển số2,4/2000

7.Thời báo ngân hàng ngày 25/4/2001,9/10/2001.

8.Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, Học viện học kinh tế quốc dân