61
Hà Nội, 2012 - 2013 Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội

Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

  • Upload
    others

  • View
    0

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Hà Nội, 2012 - 2013

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu

Quốc hội

Page 2: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu
Page 3: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu

Quốc hội

Chỉ đạo biên soạnBan Công tác đại biểu

Biên soạnTrung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử

Hà Nội, 2012 - 2013

TTBD ĐBDC

Báo cáo này được thực hiện với sự tài trợ của Quỹ Châu Á. Các phát hiện, giải thích và kết luận nêu trong báo cáo là của các tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm

của Quỹ Châu Á.

Page 4: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội4

Mục lục

Các chữ viết tắt 5

Lời cảm ơn 6

I. Giới thiệu 71. Bối cảnh 72. Mục đích nghiên cứu 73. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 8

II. Tổng quan về thông tin và nhu cầu thông tin của đBQh 111. Vai trò của thông tin đối với hoạt động của ĐBQH 112. Quyền và trách nhiệm của các chủ thể 123. Nhu cầu thông tin của ĐBQH 14

III. Thực trạng thông tin của đBQh 251. Sự chủ động từ phía ĐBQH 252. Dung lượng thông tin cung cấp cho ĐBQH 273. Nội dung, tính chất thông tin được cung cấp 274. Thời gian cung cấp thông tin 295. Các hình thức cung cấp thông tin 306. Các nguồn thông tin của ĐBQH 317. Đáp ứng nhu cầu thông tin của ĐBQH theo các chức năng 40

IV. Một số kiến nghị 451. Sửa đổi khuôn khổ pháp lý 452. Thay đổi cách thức tổ chức việc cung cấp thông tin 473. Hoàn thiện tính chất, nội dung thông tin cần cung cấp 484. Hoàn thiện các hình thức cung cấp thông tin 505. Cải tiến việc cung cấp thông tin theo các chức năng 526. Nâng cao hiệu quả của các nguồn thông tin 537. Tăng cường năng lực, nhân lực về thông tin 54

Phụ lục 57

Danh mục tài liệu tham khảo 58A. Văn kiện 58B. Sách, báo, tạp chí 58

Page 5: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 5

Các chữ viết tắt

ĐBQH: Đại biểu Quốc hộiĐBKN: Đại biểu kiêm nhiệmĐBCT: Đại biểu chuyên tráchCBPVQH: Cán bộ phục vụ Quốc hộiHĐDT và các UB: Hội đồng dân tộc và các ủy banKT - XH: Kinh tế - xã hộiNSNN: Ngân sách nhà nướcTCXH: Tổ chức xã hộiXHDS: Tổ chức dân sựUBTVQH: Ủy ban Thường vụ Quốc hộiỦy ban VH, GD, TN, TN, NĐ: Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên,

nhi đồngVăn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND: Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng

nhân dânVPQH: Văn phòng Quốc hội

Page 6: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội6

Lời cảm ơn

Để thực hiện được báo cáo này, chúng tôi chân thành cảm ơn sự góp ý sâu sắc của các ĐBQH, các chuyên gia về phương hướng, nội dung và kết quả nghiên cứu. Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ rất quý giá của Quỹ Châu Á tại Việt Nam và DEPOCEN. Nếu không có những sự hỗ trợ này, chúng tôi không thể tiến hành và hoàn thành báo cáo nghiên cứu này.

Những dẫn chứng, lập luận và phát hiện của báo cáo được dựa nhiều vào các nguồn tài liệu nghiên cứu sẵn có về cùng nội dung, khuôn khổ chính sách, pháp luật hiện hành; các cuộc tọa đàm, phỏng vấn sâu, và nhất là kết quả trả lời phiếu hỏi của các ĐBQH và cán bộ tham mưu, giúp việc trong Quốc hội. Nếu không có sự tham gia tích cực và sự giúp đỡ, sẵn sàng hợp tác của ĐBQH và cán bộ phục vụ trong việc tham gia các cuộc tọa đàm, trả lời phiếu hỏi, nghiên cứu này không thể được thực hiện được.

Chúng tôi xin trân trọng cám ơn sự tham gia đó của các quý vị.

Page 7: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 7

I. Giới thiệu

Phần này giới thiệu tóm tắt về bối cảnh thực hiện nghiên cứu, mục đích nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu được áp dụng.

1. Bối cảnh

Quốc hội thực hiện những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn rất quan trọng gồm có: ban hành, sửa đổi Hiến pháp; ban hành luật, sửa đổi luật; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. ĐBQH có trọng trách quyết định những chính sách, quy định pháp luật tác động rất lớn đến lợi ích quốc gia và quyền lợi của cử tri, với khối lượng công việc to lớn, phức tạp. Tuy nhiên, “ĐBQH không phải là chuyên gia trong mọi lĩnh vực”, mà có trình độ học vấn, kinh nghiệm công tác khác nhau, đa số là đại biểu mới được bầu chưa có kinh nghiệm hoạt động nghị trường. Để hoàn thành nhiệm vụ, trọng trách trong điều kiện khó khăn, với nhiều thách thức to lớn, ĐBQH cần các thông tin rất đa dạng, vừa rộng, vừa chuyên sâu.

ĐBQH có thể thu nhận thông tin từ nhiều nguồn: từ cử tri, từ các cơ quan tham mưu giúp việc của Quốc hội ở trung ương và địa phương; từ phía Chính phủ cung cấp theo yêu cầu; từ nguồn chuyên gia, các nhà nghiên cứu, các trường đại học; các hiệp hội; doanh nghiệp; báo chí...; với những hình thức khác nhau. Để thu nhận thông tin phục vụ cho hoạt động ban hành chính sách, pháp luật và giám sát việc thực thi chính sách, đáp ứng các yêu cầu của cử tri, các ĐBQH có nhu cầu, ưu tiên khác nhau.

Trong thời gian vừa qua, các cơ quan hữu quan đã cố gắng cải tiến việc cung cấp thông tin cho ĐBQH, với khối lượng nhiều hơn, hình thức đa dạng hơn, chất lượng thông tin có phần tốt hơn, góp phần hỗ trợ ĐBQH thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, như chính các ĐBQH phản ánh, vẫn còn những khoảng cách khá lớn giữa nhu cầu của ĐBQH về thông tin với thông tin mà đại biểu nhận được. Cần phải tiếp tục tìm kiếm những giải pháp, biện pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa chất lượng thông tin phục vụ cho hoạt động của Quốc hội.

Trong bối cảnh đó, nghiên cứu này được thực hiện trong năm 2012 - 2013 để tìm hiểu nhu cầu, ưu tiên của ĐBQH về thông tin, thực trạng đáp ứng nhu cầu của đại biểu, phân tích những “khoảng trống” về thông tin dành cho ĐBQH, những nguyên nhân, đề xuất các kiến nghị để đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin của ĐBQH.

2. Mục đích nghiên cứu

Xuất phát từ bối cảnh nói trên, báo cáo nghiên cứu này có các mục tiêu chính sau đây:

y Tìm hiểu, đánh giá nhu cầu thông tin của ĐBQH phục vụ cho hoạt động của mình ở Quốc hội, chẳng hạn như: ĐBQH cần thông tin gì, ưu tiên gì về thông tin, từ những nguồn nào; nguồn thông tin nào được đại biểu đánh giá cao; đại biểu muốn được cung cấp thông tin dưới dạng nào v.v…

Page 8: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội8

y Tìm hiểu thực trạng đại biểu thu nhận thông tin, đáp ứng nhu cầu thông tin phục vụ cho hoạt động đại biểu hiện nay: bằng cách nào; do ai cung cấp; từ những nguồn nào; chất lượng thông tin v.v… Từ đó xác định khoảng cách giữa nhu cầu thông tin của ĐBQH với thực trạng thông tin mà đại biểu nhận được.

y Đề xuất các kiến nghị liên quan đến việc đáp ứng các nhu cầu thông tin của ĐBQH, bao gồm kiến nghị về khuôn khổ pháp lý, các nội dung cần chú trọng trong từng lĩnh vực hoạt động, các nguồn thông tin cần chú ý, cách thức tổ chức cung cấp thông tin.

3. đối tượng và phương pháp nghiên cứu

Đối tượng của nghiên cứu này chủ yếu là các ĐBQH khóa XIII. Bên cạnh đó, một số hoạt động nghiên cứu hướng tới ĐBQH các khóa trước và cán bộ phục vụ ĐBQH ở trung ương và địa phương.

Nghiên cứu này áp dụng các phương pháp sau đây:

y Nghiên cứu tài liệu (desk study): nghiên cứu các tài liệu sẵn có về cùng nội dung;

y Tọa đàm nhóm nhỏ: tổ chức một số cuộc tọa đàm nhóm nhỏ với ĐBQH và cán bộ phục vụ về các nội dung nghiên cứu;

y Phỏng vấn sâu: phỏng vấn sâu một số ĐBQH về các nội dung nghiên cứu;

y Điều tra xã hội học bằng phiếu hỏi: bảng hỏi được thiết kế, gửi cho ĐBQH và cán bộ phục vụ ĐBQH điền và gửi lại;

y Tham vấn các bên liên quan: nhóm nghiên cứu xin ý kiến góp ý của một số ĐBQH và chuyên gia về một số sản phẩm của nghiên cứu như bảng hỏi, báo cáo nghiên cứu.

1. Nghiên cứu tài liệu: Nhóm nghiên cứu tập hợp, tổng hợp, phân tích các tư liệu, tài liệu sẵn có về nhu cầu, ưu tiên về thông tin của ĐBQH gồm có: các quy định pháp luật liên quan; các tài liệu chính thức của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; các bài viết, báo cáo nghiên cứu, kết quả của các cuộc khảo sát, điều tra xã hội học; phiếu yêu cầu thông tin của ĐBQH ở các kỳ họp v.v… Nhóm nghiên cứu cũng tìm hiểu thực tiễn ở một số nước, các bài viết, các tài liệu của các chuyên gia nước ngoài, của nghị viện các nước về nhu cầu thông tin của nghị sỹ, cách thức đáp ứng nhu cầu đó ở các nước.

2. Tọa đàm nhóm nhỏ: Cán bộ của Trung tâm đã cùng với các chuyên gia tiến hành bốn cuộc tọa đàm nhóm nhỏ theo các nội dung trọng tâm, mỗi cuộc khoảng 10-30 ĐBQH và cán bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND một số tỉnh. Những người tham dự các cuộc tọa đàm trao đổi về các nội dung như: yêu cầu, nhu cầu về thông tin của ĐBQH theo vai trò, chức năng, nhiệm vụ; thực trạng tiếp nhận thông tin của ĐBQH; đề xuất, kiến nghị về việc cung cấp thông tin cho ĐBQH…

3. Bảng hỏi: Từ kết quả tổng quan tài liệu thu được cũng như tọa đàm nhóm nhỏ, nhóm nghiên cứu đã thiết kế hai bảng hỏi dành cho ĐBQH và cán bộ phục vụ ĐBQH. Hai bảng hỏi

Page 9: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 9

này có quan hệ mật thiết với nhau, được sử dụng để khảo sát ý kiến của 2 nhóm đối tượng trên về cùng một vấn đề được quan tâm, với mục đích là kết quả khảo sát sẽ phản ánh được thực trạng và nhu cầu được cung cấp thông tin hiện nay của ĐBQH, cũng như những mong muốn, đánh giá và góp ý của cả 2 nhóm đối tượng để cải thiện được những vấn đề còn tồn tại.

Sau khi hoàn thành chi tiết, Bảng hỏi đã được gửi đến trực tiếp các ĐBQH và cán bộ phục vụ. Cụ thể, đối với ĐBQH, số phiếu khảo sát phát ra là 459, và số phiếu thu về là 274. Thành phần ĐBQH tham gia khảo sát tương đối giống với tỷ lệ của toàn thể ĐBQH khóa XIII, mẫu khảo sát thu được đảm bảo tính đại diện, và các kết quả trả lời là có tính tin cậy cao.

Bảng 1. Thành phần của ĐBQH trong khảo sát này

Thông tin chung về đBQh % trên tổng số phiếu khảo sát

% trên tổng số đBQh khóa XIII

ĐBQH Dân tộc Kinh 83,9% 94,4%

ĐBQH theo tôn giáo 3,6% 1,2%

ĐBQH có trình độ học vấn trên ĐH 42,3% 45,6%

ĐBQH có trình độ học vấn ĐH 55,5% 52,6%

ĐBQH nhiệm kỳ đầu 67,5% 66,6%

ĐBQH nhiệm kỳ thứ 2 trở lên 32,5% 33,4%

Về phía cán bộ phục vụ, số phiếu phát ra là 1053 và số phiếu thu về là 557 phiếu. Trong số này, đa phần các cán bộ gửi lại phiếu hỏi thuộc Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND các tỉnh/thành phố. Bảng hỏi được làm sạch, nhập dữ liệu theo đúng quy trình, kỹ thuật; sau đó được phân tích kết quả.

Bảng 2. Phân bổ nơi công tác và ngạch công chức của CBPVQH

Số lượng Tỷ lệ

Nơi công tác

Vụ, đơn vị thuộc VPQH 94 18,1%

VP Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh/thành 422 81,5%

Ngạch công chức

Chuyên viên cao cấp hoặc tương đương 16 3,1%

Chuyên viên chính hoặc tương đương 176 34%

Chuyên viên hoặc tương đương 310 60%

Nhân viên 9 1,7%

Cán sự 4 0,8%

Page 10: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội10

4. Phỏng vấn sâu: Nhóm nghiên cứu chuẩn bị những nội dung, câu hỏi cần thiết, lựa chọn một số ĐBQH, chuyên gia và gặp phỏng vấn sâu từng người về các nội dung nghiên cứu, chủ yếu để đối chiếu và tìm hiểu thêm những nội dung chưa được làm rõ qua các hoạt động trước đó.

Page 11: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 11

II. Tổng quan về thông tin và nhu cầu thông tin của đBQh

Phần này trình bày tổng quan về thông tin và nhu cầu thông tin của ĐBQH, với các nội dung lớn gồm: vai trò của thông tin đối với ĐBQH; khuôn khổ chính sách, pháp luật liên quan đến thông tin cho ĐBQH; quyền và trách nhiệm của các bên trong việc yêu cầu và cung cấp thông tin phục vụ hoạt động ở Quốc hội; quan niệm về nhu cầu thông tin của ĐBQH; nhu cầu thông tin của ĐBQH trên các phương diện dung lượng, tính chất thông tin, thời hạn, các hình thức, các nguồn cung cấp thông tin.

1. Vai trò của thông tin đối với hoạt động của đBQh

Để có thể tham gia vào việc quyết định các quyết sách để giải quyết được các vấn đề của cuộc sống đặt ra, ĐBQH phải sử dụng nhiều công sức, trí tuệ để thu thập và xử lý một khối lượng thông tin rất lớn. Trong khi nghề kinh doanh coi thông tin là tiền bạc thì đại biểu lại coi đó là “nguyên liệu” cơ bản nhất để thực hiện nhiệm vụ đại biểu trong hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng nhất của quốc gia. Như một ĐBQH phát biểu, “thông tin giúp cho ĐBQH tự tin, chủ động, mạnh dạn hơn trong các hoạt động tại nghị trường; hoặc như một ĐBQH khác nhấn mạnh, cần thông tin để “nói cho đúng, trúng”1. Nhiều ĐBQH khác trên các diễn đàn khác nhau cũng có những nhận xét tương tự.

Đặc biệt, hoạt động xử lý thông tin (bởi các chủ thể khác nhau) có những ý nghĩa sau đối với ĐBQH:

y Hoạt động xử lý thông tin giúp đại biểu định hướng, chọn lọc và tìm kiếm được thông tin cần một cách nhanh chóng, chính xác trong khối lượng thông tin khổng lồ.

y Hoạt động xử lý thông tin một bước giúp đại biểu rút ngắn, tiết kiệm được thời gian để thu nhận được nhiều hơn, có thời gian “nghiền ngẫm” thông tin thấu đáo, kỹ càng hơn trước khí tham gia thảo luận, quyết định chính sách, pháp luật.

y Hoạt động xử lý thông tin giúp đại biểu đánh giá thông tin để có thể chọn lọc được những thông tin mới nhất, đầy đủ nhất, phù hợp nhất với nhu cầu hoạt động của đại biểu tại Quốc hội và các cơ quan Quốc hội.

y Trên cơ sở tổng hợp, phân tích thông tin, hoạt động xử lý thông tin còn cung cấp cho đại biểu những thông tin mang tính chất dự báo, như: xu hướng phát triển của vấn đề, xu hướng triển khai vấn đề,…

Hơn nữa, tầm quan trọng của thông tin chuyên sâu đối với ĐBQH là rất lớn. Lâu nay nhiều đại biểu qua các nhiệm kỳ phát biểu ý kiến về tình trạng có những vấn đề chuyên sâu, đại biểu thường nắm không vững, thiếu thông tin, thiếu thời gian nghiên cứu thì làm sao mà quyết được và nhấn mạnh đến vai trò của các chuyên gia trong tất cả các hoạt động. Đại biểu sẽ đơn độc trong hoạt động lập pháp, giám sát nếu thiếu các điều kiện hỗ trợ. “Thời gian là vàng bạc”, nhất là trong điều kiện đa số đại biểu kiêm nhiệm như hiện nay, các chuyên gia không chỉ san sẻ gánh nặng chuyên môn, mà còn bù đắp rất nhiều cho sự thiếu thời gian của đại biểu.

1 Tọa đàm với các ĐBQH, An Giang, ngày 13/8/2012.

Page 12: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội12

Đối với nguồn lực chuyên gia bên ngoài Quốc hội, các nhà khoa học có thể tham gia vào bất kỳ một giai đoạn nào của quá trình xây dựng chính sách, pháp luật, từ việc tham gia phân tích chính sách, đến việc trực tiếp soạn thảo, tham gia đánh giá, thẩm định… Sự tham gia của các nhà khoa học là sự hỗ trợ những luận cứ khoa học cho các ĐBQH trong khi xem xét, thông qua các đạo luật. Đặc biệt là khi xem xét những văn bản có liên quan đến các vấn đề chuyên môn sâu thuộc các lĩnh vực khác nhau.

2. Quyền và trách nhiệm của các chủ thể

Hiến pháp, một số văn bản quy phạm pháp luật như: Luật tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nội quy kỳ họp, Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH... đã có những quy định liên quan đến việc cung cấp thông tin cho ĐBQH. Trước hết, theo quy định, ĐBQH có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan, cả ở trong và ngoài Quốc hội cung cấp thông tin. Bên cạnh đó, các văn bản hiện hành quy định ĐBQH được cung cấp những báo cáo, tài liệu có liên quan đến kỳ họp, hoạt động ở các cơ quan của Quốc hội.

Theo quy định, ĐBQH kiêm nhiệm phải dành 1/3 thời gian làm nhiệm vụ đại biểu. Tuy nhiên thời gian đó là chưa đủ, đó là chưa nói tới khoảng thời gian giữa hai kỳ họp, số đại biểu này đều phải tập trung vào công tác chính, công tác chuyên môn, thậm chí ngay cả trong kỳ họp đại biểu kiêm nhiệm cũng không dành hết thời gian cho hoạt động của Quốc hội. Các ĐBQH chưa có bộ máy giúp việc riêng, vì vậy, nhiều công việc về thu thập, xử lý thông tin phục vụ cho hoạt động của Quốc hội các đại biểu thường phải tự làm. Thực trạng này đòi hỏi công tác, hoạt động thông tin phải có những hình thức thích hợp giúp cho Đại biểu Quốc hội thu thập, tích lũy thông tin.

Từ phương diện cơ quan tham mưu, phục vụ, khuôn khổ pháp luật về công tác thông tin của VPQH đã chuyển từ “nhiệm vụ” (được quy định tại Điều 1 NQ 02 - NQ/UBTVQH9) thành “chức năng” (được quy định tại Điều 1 NQ 417), kéo theo sự thay đổi cơ bản về yêu cầu công tác thông tin đối với VPQH. Nếu là nhiệm vụ thì về cơ bản là do cấp trên giao, còn nếu là chức năng thì về cơ bản là “tự thân vận động”, phải chủ động trong công việc2. Tại kỳ họp giữa năm 2012, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 27/2012/QH13 về một số cải tiến, đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trong đó có một điều riêng (Điều 8) về công tác bảo đảm điều kiện hoạt động của Quốc hội với nhiều nội dung trực tiếp về cung cấp thông tin cho ĐBQH (xem thêm trong hộp dưới đây). Bên cạnh đó, trong các điều khoản khác cũng có khá nhiều quy định liên quan đến công tác thông tin phục vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và ĐBQH.

2 Bùi Ngọc Thanh, Về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Quốc hội, bài viết cho hội thảo Mô hình các cơ quan giúp việc của Quốc hội, Quảng Ninh, 20-21/9/2012.

Page 13: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 13

hộp 1: Trích điều 8, Nghị quyết số 27/2012/Qh13

2. Cung cấp đầy đủ thông tin về việc chuẩn bị các dự án, đề án, báo cáo trình Quốc hội cho đại biểu Quốc hội; tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm thông qua truyền hình trực tuyến từ trụ sở Quốc hội đến các khu vực và 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; tổ chức Thư viện Quốc hội, cổng thông tin điện tử Quốc hội để chuyển tải kịp thời thông tin phục vụ hoạt động của đại biểu Quốc hội; chuẩn bị điều kiện, cơ sở vật chất - kỹ thuật nâng cao chất lượng Quốc hội điện tử.

3. [...] ban hành chế độ thuê chuyên gia, cung cấp thông tin phục vụ hoạt động của đại biểu Quốc hội [...].

4. Kiện toàn bộ máy cơ quan tham mưu, giúp việc theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả; phân công, phân nhiệm cụ thể, rõ ràng; có sự liên thông, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, bảo đảm không chồng chéo và phân tán nguồn lực. Tổng kết hoạt động của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, xây dựng cơ chế hoạt động hiệu quả, bảo đảm liên thông, gắn kết với Văn phòng Quốc hội trong việc phục vụ hoạt động của đại biểu Quốc hội tại Đoàn đại biểu Quốc hội.

Trong hoạt động lập pháp, VPQH cần phải giúp cơ quan thẩm tra nghiên cứu, khảo sát thực tế, tham khảo ý kiến chuyên gia, lấy ý kiến đại diện các đối tượng được điều chỉnh của mỗi luật và ý kiến nhân dân. Để các hoạt động giám sát có kết quả thiết thực, VPQH phải xây dựng chương trình, lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch, điều hòa hoạt động theo địa phương và ngành, lĩnh vực; thông báo cho bộ, ngành, địa phương; tổ chức đoàn giám sát và phục vụ từng cuộc giám sát; tham mưu lựa chọn chuyên đề, xây dựng báo cáo giám sát, thẩm định báo cáo của Chính phủ hoặc bộ, ngành; tập hợp các chất vấn, tham mưu lựa chọn người trả lời, theo dõi các phiên họp và kết thúc có tính tổng hợp các phiên chất vấn. VPQH phải phục vụ Quốc hội quyết định khá nhiều vấn đề trọng đại của đất nước như: nhân sự cấp cao trong bộ máy nhà nước; các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hàng năm và 5 năm; phê chuẩn các điều ước quốc tế, quyết định chủ trương đầu tư các Dự án công trình quan trọng quốc gia... Ngoài ra, còn có công tác dân nguyện cũng đòi hỏi nhiều thông tin để mỗi năm tiếp hàng ngàn lượt người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị; tiếp nhận, xử lý (nghiên cứu, phân loại, chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết) khoảng 17.000 đơn, thư của công dân.

Bên cạnh đó, từ năm 2008, Viện Nghiên cứu lập pháp cũng được thành lập với tư cách là cơ quan thuộc Uỷ ban thường vụ Quốc hội, có chức năng tổ chức thông tin khoa học để hỗ trợ việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Để thực hiện nhiệm vụ này, Viện NCLP triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học, công tác cung cấp thông tin, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin3.

3 Hoàng Văn Tú, Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện Nghiên cứu lập pháp, bài viết cho hội thảo Mô hình các cơ quan giúp việc của Quốc hội, Quảng Ninh, 20-21/9/2012.

Page 14: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội14

Văn phòng đoàn ĐBQH & HĐND với tư cách là cơ quan giúp việc, phục vụ các ĐBQH ở địa phương cũng có trách nhiệm tương tự, theo mảng công việc nói trên4. Đó là: xử lý thông tin bước đầu cho đại biểu, tham mưu cho Đoàn ĐBQH trong việc nghiên cứu, đóng góp ý kiến, lấy ý kiến về các dự án luật, pháp lệnh; thu thập, tổng hợp, phân tích thông tin về các nội dung trong chương trình giám sát, trong tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, tiếp nhận xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo…

Hình 1: Khối lượng công việc CBPVQH đảm nhận

Ít việc 1%

Vừa phải 37%

Nhiều việc 54%

Quá tải 8%

Với trách nhiệm, nhiệm vụ như trên, với khối lượng công việc được giao, để đáp ứng được yêu cầu thông tin cho các đại biểu, 54,6% cán bộ đã phản hồi cho rằng họ đang làm “nhiều việc”, 36,7% cho rằng công việc được giao là mức độ “vừa phải”, 7,8% đưa ý kiến “quá tải”, và chỉ 0,9% cho rằng họ “ít việc” (xem hình trên đây). Liên quan đến phân phối quỹ thời gian cho công việc, công tác xử lý thông tin được các CBPVQH đưa lên hàng đầu, trung bình mỗi cán bộ dành 44,55% thời gian của mình cho công tác này, tiếp theo sau đó là tìm kiếm thông tin (25,26%), và nâng cao năng lực bản thân (20,11%).

3. Nhu cầu thông tin của đBQh

Mục này trình bày quan niệm về nhu cầu thông tin của ĐBQH; phân tích nhu cầu thông tin của ĐBQH trên các phương diện: Phạm vi, dung lượng thông tin cần cho hoạt động của ĐBQH nói chung và trong từng lĩnh vực; tính chất của thông tin. Nhu cầu này được đánh giá từ các góc độ khác nhau: từ quan điểm của ĐBQH, cán bộ phục vụ, chuyên gia.

3.1. Quan niệm về nhu cầu thông tin của đBQh

Nhu cầu thông tin của ĐBQH hàm ý nội dung thông tin, tính chất thông tin, dung lượng, phạm vi thông tin, các cách thức cung cấp thông tin mà ĐBQH thấy cần thiết. Hay nói cách khác, đại biểu cần thông tin gì, bao nhiêu, thông tin như thế nào, qua những kênh nào để phục vụ cho hoạt động đại biểu. Đó là thông tin phục vụ cho hoạt động đại diện trong cơ quan quyền lực và thực hiện các chức năng của QH: lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng nhất của quốc gia. Như vậy, nói chung, phạm vi, dung lượng thông tin mà đại biểu cần là rất nhiều, rất rộng và chuyên sâu, bao trùm hầu như mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hóa, xã hội…

4 Ngô Văn Minh, Thực trạng, cách thức tổ chức giúp việc của Văn phòng Đoàn ĐBQH ở Việt Nam và một số giải pháp, bài viết cho hội thảo Mô hình các cơ quan giúp việc của Quốc hội, Quảng Ninh, 20-21/9/2012.

Page 15: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 15

“ĐBQH cần rất nhiều thông tin khi xem xét, thông qua một vấn đề nào đó được đưa ra Quốc hội; có hiểu thì mình mới bỏ phiếu cho đúng, không thì rất tai hại”

(ĐBQH phát biểu tại tọa đàm ở Quảng Trị, 18/7/2012)

Tuy nhiên, trong từng trường hợp cụ thể, khái niệm nhu cầu thông tin có thể giới hạn trong những nội dung đang được xem xét, thảo luận hoặc đang được giám sát. Như một cán bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND so sánh, “thông tin như món ăn, đại biểu cần món gì thì “gọi” để được cung cấp”; hoặc một cán bộ khác nhận xét, có những thông tin đến tại kỳ họp, ĐBQH mới có nhu cầu, hoặc tùy từng đại biểu thật sự cần thông tin để chuẩn bị bài phát biểu5. Như vậy, mỗi ĐBQH có mối ưu tiên, quan tâm riêng cho từng thời điểm, từng hoạt động, cho nên nhu cầu thông tin ở đây cũng được gắn với các ưu tiên, mối quan tâm đó.

Trong khái niệm nhu cầu thông tin, có điểm khác nhau giữa các nhóm ĐBQH. Vì vậy, cần phân nhóm ĐBQH và nhu cầu thông tin, từ đó đáp ứng thông tin cho đúng, trúng yêu cầu của đại biểu. Ví dụ, cần phân biệt nhóm ĐBQH mới tham gia Quốc hội lần đầu và đại biểu tái cử. Đối với đại biểu mới tham gia Quốc hội lần đầu (thường chiếm 2/3 số lượng ĐBQH), một loại thông tin hết sức quan trọng đối với nhóm đại biểu này là những kỹ năng, kiến thức cơ bản, nhất là kiến thức, kỹ năng liên quan đến cơ quan đại diện quyền lực cao nhất, đến chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của QH để giúp đại biểu thực hiện nhiệm vụ đại biểu ngay từ các hoạt động của kỳ họp thứ nhất và các kỳ họp tiếp theo đó. Đối với ĐBQH tái cử lại có yêu cầu những thông tin có chiều sâu, mang tính chuyên đề hơn; thông tin tổng kết thực tiễn, đúc kết lý luận... Hoặc có thể chia các nhóm đại biểu thành nhóm có chuyên môn về lập pháp và đại biểu có chuyên môn khác… Nếu ĐBQH chỉ thuần túy có kiến thức luật học thì cần thông tin cả cơ bản và chuyên sâu về các lĩnh vực khác đang được xem xét; trong khi đó những ĐBQH có chuyên môn khác như kinh tế - xã hội, ngoại giao, quốc phòng, an ninh... thì cần nhiều thông tin hơn về pháp luật.

Nói cho cùng, ĐBQH cần thông tin là để đáp ứng nhu cầu, “đặt hàng” của cử tri. Cử tri không hẳn bầu những đại biểu biết nhiều, mà bầu những đại biểu đại diện tốt hơn cho cử tri và cho lợi ích của quốc gia, biến thông tin mình được cung cấp, mình biết thành những hành động đáp ứng đòi hỏi, yêu cầu của cử tri. Như vậy, một trong những khía cạnh hết sức quan trọng trong nhu cầu thông tin của ĐBQH là nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, mong muốn của đại đa số cử tri và “sợi dây liên hệ” gắn kết các tâm tư, nguyện vọng, mong muốn đó với các chính sách, quy định của pháp luật do Quốc hội xem xét, thảo luận và quyết định.

đBQh khóa XIII Lê Như Tiến: “Không chỉ am hiểu luật pháp, kiến thức mà ĐBQH phải trở thành người biết hòa cùng nhịp với tiếng nói cử tri, tiếng nói nhân dân. Đây là bài học sâu sắc và thấm thía cho các đại biểu dân cử. Nếu chỉ đóng cửa phòng, chăm chăm đọc các sách vở kinh viện chứ không lo đi sâu đi sát đời sống người dân thì không thể nắm bắt được trúng tâm tư, nguyện vọng tha thiết nhất của dân”.

5 Tọa đàm về nhu cầu thông tin phục vụ hoạt động của ĐBQH, Hạ Long, Ngày 14 tháng 8 năm 2012.

Page 16: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội16

Khái niệm nhu cầu thông tin của ĐBQH còn bao hàm khoảng cách thiếu hụt giữa những gì đại biểu cần để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và thực trạng thông tin mà đại biểu đang có. Theo một số nghiên cứu, nhu cầu đối với thông tin độc lập, khách quan dường như lớn hơn ở các nghị viện các nước đang phát triển, nơi mà chính phủ là chủ thể kiểm soát thông tin liên quan đến việc quyết định chính sách, còn các nguồn thông tin ngoài chính phủ thì ít ỏi6. Ở những nước đó, do thiếu thông tin khách quan nên khả năng, năng lực của nghị viện và các nghị sỹ bị hạn chế trong việc áp đặt trách nhiệm giải trình lên chính phủ, dẫn đến sự mất cân bằng về quyền lực giữa cơ quan lập pháp và hành pháp. Việc đối chiếu với Quốc hội Việt Nam cũng cho thấy có thực trạng như vậy. Thực tế cho thấy trước những vấn đề lớn, nhiều ĐBQH rất lúng túng vì thiếu cơ sở thông tin, không nắm được đầy đủ vấn đề. Đây chỉ là ví dụ điển hình về khoảng thiếu hụt về thông tin của ĐBQH để minh họa cho khái niệm nhu cầu thông tin; những khoảng trống đó sẽ được phân tích kỹ hơn ở các phần sau.

3.2. Phạm vi, dung lượng thông tin cần cho đBQh

Việc ban hành chính sách của Quốc hội có ảnh hưởng trực tiếp đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội do đó việc cung cấp thông tin cho ĐBQH cần bao quát ở phạm vi rộng (trong nước và trên thế giới), cụ thể của từng trường hợp, từng nơi, từng khu vực; không chỉ cần thông tin về một lĩnh vực mà cần thông tin về nhiều lĩnh vực. Như khảo sát này cho thấy, hơn 76% cán bộ đồng ý rằng yêu cầu cung cấp thông tin của đại biểu rất nhiều và đa dạng.

Nhu cầu thông tin theo các ngành, lĩnh vực

Nhìn một cách tổng thể, thông tin để giúp Quốc hội, Đại biểu Quốc hội hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ liên quan đến tất cả các ngành, các lĩnh vực. Tuy nhiên, như đã nhấn mạnh khi bàn về khái niệm nhu cầu thông tin ở trên, mỗi ĐBQH có mối quan tâm riêng. Trong các cuộc tọa đàm, nhiều đại biểu cho biết, họ quan tâm nhiều hơn đến mảng kinh tế - xã hội. Cụ thể hơn, theo kết quả khảo sát bằng phiếu hỏi đối với ĐBQH, 6 ngành/lĩnh vực được các đại biểu quan tâm nhất lần lượt là: Kinh tế - Tài chính - Ngân sách (64,7% số đại biểu trả lời phiếu hỏi); Nông nghiệp và Giáo dục đào tạo (cùng đạt 59,2%); Đất đai - Xây dựng - Quy hoạch (58,1%); Y tế - Chăm sóc sức khỏe và Lao động - Việc làm (40,6%) ; còn những ngành ít được các đại biểu quan tâm nhất bao gồm Đối ngoại (8,1%), Tôn giáo (8,5%), Văn hóa du lịch thể thao (9,9%). Qua đó, có thể nhận biết phần nào nhu cầu thông tin của ĐBQH theo từng lĩnh vực, ngành nói trên. Một điểm đáng chú ý là, phần đông các ĐBQH chưa quan tâm đúng mức vấn đề văn hóa trong phân tích chính sách; trong lúc văn hóa là yếu tố đảm bảo tính đúng đắn, toàn diện, bền vững của chính sách, pháp luật. Môi trường cũng là vấn đề quan trọng nhưng chưa được đại biểu quan tâm nhiều.

Kết quả trả lời phiếu hỏi của ĐBQH cũng giúp chúng ta đối chiếu thêm, liệu các mối quan tâm đó có phản ánh đúng nhu cầu thông tin của ĐBQH phục vụ cho hoạt động tại nghị trường hay không. Đề cập đến những lý do khiến đại biểu quan tâm đến các ngành/lĩnh vực kể trên, phần lớn đều cho biết đây là những vấn đề được cử tri (87,9%) hay cá nhân Đại biểu (66,2%) quan tâm; 60,7% số Đại biểu được khảo sát đề cập đến lý do công việc ở Quốc hội, và 49,3% cho biết mối quan tâm thuộc chuyên môn của Đại biểu.

6 IPU, Report from the Conference: Informing Democracy: Building capacity to meet parliamentarians’ information and knowledge needs, Geneva, 2009, p.7.

Page 17: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 17

Như vậy, các dữ liệu cho thấy, đại biểu quan tâm nhiều hơn đến các lĩnh vực, ngành kể trên vì trực tiếp xuất phát từ vai trò, chức năng của Quốc hội như vai trò đại diện (vì theo sự quan tâm của cử tri); chức năng lập pháp, giám sát, quyết định (vì lý do công việc của Quốc hội). Kết quả này cũng trùng với ý kiến phát biểu tại các cuộc tọa đàm, theo đó, đại biểu có nhu cầu nhiều về thông tin chủ yếu là để hoạt động ở Quốc hội và để giữ mối liên hệ với cử tri. Các lý do khác như mối quan tâm cá nhân, chuyên môn của đại biểu cũng có thể có một phần gắn với hoạt động tại nghị trường. Chẳng hạn, đại biểu có ý muốn mở rộng thêm thông tin về các vấn đề trong dự luật liên quan đến chuyên môn, ngành, địa phương.

Nhu cầu thông tin theo các chức năng của Quốc hội

Nhu cầu thông tin của ĐBQH có thể được xác định theo khối lượng hoạt động của Quốc hội trong từng chức năng. Trên phương diện này, các con số thống kê, ý kiến phát biểu của ĐBQH cho thấy, trong các hoạt động của Quốc hội, lập pháp chiếm nhiều thời gian nhất, sau đó đến giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. (xem thêm các bảng dưới đây).

Bảng 3: Thời gian các phiên họp tổ, đoàn năm 20127

Nội dung hoạt động Số phiên họp Tỷ lệ

Lập pháp 12,5 73,5 %

Giám sát 1 5,9 %

Quyết định các vấn đề quan trọng 3,5 20,6 %

Tổng thời gian hoạt động 17 100%

Bảng 4: Thời gian các phiên họp toàn thể năm 20128

Nội dung hoạt động Số phiên họp Tỷ lệLập pháp 47 55,3 %Giám sát 19,5 22,94 %Quyết định các vấn đề quan trọng 16,5 19,4 %Hoạt động khác (khai mạc, bế mạc, lễ nghi) 2 2,36 %

Tổng thời gian hoạt động 85 100%

Trong năm 2012, tại hai kỳ họp, hoạt động lập pháp chiếm hơn 55% tổng thời gian của các phiên toàn thể và 73% thời gian các phiên họp tổ. Thời lượng dành cho hoạt động lập pháp của những năm gần đây cũng tương tự như vậy. Hiện tại mỗi năm, trong lĩnh vực lập pháp, mỗi đại biểu phải tìm hiểu trung bình khoảng 20 - 25 dự luật để cho ý kiến và thông qua9.

7 Trung tâm TT, TV, NCKH, Hoạt động của Quốc hội trong năm 2012 qua các số liệu thống kê, Hà Nội, 2013.8 Trung tâm TT, TV, NCKH, Hoạt động của Quốc hội trong năm 2012 qua các số liệu thống kê, Hà Nội, 2013.9 Quốc hội khóa XI thông qua 84 dự án luật, khóa XII: 67 dự án. Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc

Page 18: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội18

Thậm chí, có những năm như 2012 Quốc hội đã thảo luận tại hội trường 44 văn bản có chứa quy phạm pháp luật. Kèm theo đó là các hoạt động thẩm tra tại Hội đồng dân tộc và các Ủy ban, các cuộc lấy ý kiến ĐBQH và nhân dân tại địa phương… Nghĩa là ít nhất đại biểu phải đọc hàng ngàn trang dự thảo, tờ trình, báo cáo thẩm tra và tài liệu tham khảo với những vấn đề khó, chuyên sâu, phạm vi rộng.

Về các chức năng giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, các con số thống kê cũng có thể cho thấy cường độ, dung lượng hoạt động của Quốc hội theo các chức năng này, qua đó phần nào phản ánh nhu cầu thông tin của ĐBQH. Chẳng hạn, trong năm 2012, có 19,5 phiên họp toàn thể được dành cho hoạt động giám sát tại kỳ họp, chiếm khoảng 23% tổng thời gian các phiên toàn thể; nhưng chỉ có 1 phiên họp tổ dành cho hoạt động giám sát. Trong bốn năm 2009 - 2012, tỷ lệ thời gian Quốc hội dành cho hoạt động giám sát tại kỳ họp có xu hướng ổn định dần ở mức hơn 20%. Ngoài ra, HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn ĐBQH còn tiến hành các hoạt động giám sát giữa hai kỳ họp.

Khối lượng hoạt động dành cho chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước cũng tương đương như đối với giám sát. Trong năm 2012, có 16,5 phiên họp toàn thể được dành cho hoạt động này, chiếm 19% tổng thời gian của các phiên họp toàn thể; 3,5 phiên họp tổ, chiếm khoảng 21% tổng thời gian dành cho họp tổ.

Căn cứ vào các con số này, có thể nói, về tổng thể, phạm vi, dung lượng thông tin cần cho ĐBQH trong hoạt động giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước ít hơn khá nhiều so với thông tin cần cho hoạt động lập pháp. Tuy nhiên, đây cũng là loại công việc quan trọng với khối lượng thông tin đồ sộ đối với Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và dĩ nhiên là đối với cả đại biểu quốc hội và các cơ quan phục vụ Quốc hội, đại biểu quốc hội. Thậm chí trong một số trường hợp cụ thể như các phiên thảo luận về kinh tế - xã hội, chất vấn, phạm vi thông tin cần cho ĐBQH lại có thể rất rộng, bao phủ nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. Bởi lẽ các phiên đó thảo luận hoặc hỏi - đáp về hầu hết mọi vấn đề đang đặt ra trong xã hội và Quốc hội.

3.3. Nhu cầu đối với các hình thức cung cấp thông tin

Nghiên cứu này cũng tìm hiểu nhu cầu của ĐBQH đối với các hình thức cung cấp thông tin qua đánh giá của đại biểu về sự cần thiết của một số hình thức, cụ thể là các văn bản và báo cáo cần thiết để phục vụ cho hoạt động của Quốc hội theo từng chức năng.

Trong xây dựng pháp luật và quyết định các vấn đề quan trọng

Về các hình thức cung cấp thông tin cho ĐBQH trong xây dựng pháp luật và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, nhìn chung, các văn bản và báo cáo thường được đánh giá cao, ngoài Bản tin kinh tế xã hội nước ngoài, đa phần các báo cáo đều được hơn 80% Đại biểu đánh giá ở mức độ “Cần thiết”, và “Rất cần thiết”. Mức độ “Rất cần thiết” được khoảng 30 - 40% số Đại biểu tán thành, tùy thuộc vào từng loại hình tài liệu cụ thể. (xem thêm Biểu đồ dưới đây).

hội khóa XII gồm 85 dự án luật, 06 dự án pháp lệnh thuộc Chương trình chính thức và 38 dự án luật, 03 dự án pháp lệnh thuộc chương trình dự bị, chưa kể các nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật.

Page 19: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 19

Phân tích chi tiết hơn cho thấy, loại hình báo cáo phân tích, đánh giá và dự báo chuyên sâu rất được đại biểu coi trọng, với 53,4% và 40,8% số Đại biểu cho rằng những báo cáo này là “Rất cần thiết” và “Cần thiết”. Các loại tài liệu khác được đánh giá “rất cần thiết” và “cần thiết” với tỷ lệ cao gồm có: Số liệu thống kê (48,6% và 46,2% số ĐBQH), văn bản pháp luật liên quan (42,3% và 53,4%), tổng hợp ý kiến ĐBQH (38,5% và 52,8%).

Biểu đồ 1. ĐBQH đánh giá mức độ cần thiết của các hình thức cung cấp thông tin trong lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng

5.7 4 4 7.5 6.2 11.4 9.9 12 15.7 29.6

40.8 46.2 53.4 52.8 59.7 57.9 61.3 63.5 66.1

60

53.4 48.6 42.3 38.5 33.7 30.3 27.7 24.5 17.7 10

0

20

40

60

80

100

120

Rất cần thiết

Cần thiết

Không cần lắm

Không cần

Đối chiếu với nhu cầu của đại biểu đối với thông tin đã qua xử lý đã đề cập ở phần trên, có điều đáng chú ý là ba loại tài liệu này hầu như đang ở dạng chưa được xử lý nhiều bởi cơ quan cung cấp thông tin, nhất là văn bản pháp luật liên quan là thông tin “thô”. Tuy nhiên, chúng vẫn được ĐBQH coi trọng, có lẽ vì đây là những thông tin cơ bản, nền tảng để ĐBQH làm xuất phát điểm để tự phân tích, so sánh. Bên cạnh đó, ĐBQH đánh giá cao sự cần thiết đối với tài liệu tổng hợp ý kiến của các đồng nghiệp vì một phần do nguyên tắc hoạt động tập thể, quyết định theo đa số của Quốc hội, phần khác trong các ý kiến đó thông tin cũng đã qua một lần “chắt lọc”, “tinh chế” bởi các ĐBQH khác, nhất là các đại biểu am hiểu sâu về vấn đề đang được xem xét tại Quốc hội.

Hơi ngược với xu hướng trên, không nhiều ĐBQH đánh giá ở mức “rất cần thiết” đối với hai dạng tài liệu: báo cáo điều tra dư luận xã hội (33,7%) và báo cáo phân tích, so sánh với chính sách, pháp luật nước ngoài (30,3%), mặc dù đây là những dạng tài liệu cung cấp thông tin chuyên sâu, đã qua xử lý. Việc không coi trọng báo cáo phân tích, so sánh với chính sách, pháp luật nước ngoài chủ yếu cũng vì đại biểu có quan niệm công việc này thuộc trách nhiệm chính của cơ quan soạn thảo. Mặt khác, việc tiếp cận thông tin loại này gặp không ít khó khăn, do có sự khác biệt thể chế nên không dễ nắm bắt trong lúc quỹ thời gian bị hạn chế.

Không có sự khác biệt nhiều giữa hai nhóm Đại biểu chuyên trách (ĐBCT) và Đại biểu kiêm nhiệm (ĐBKN) trong việc đánh giá đối với thông tin thông qua các văn bản và báo

%

%

%

%

%

%

Page 20: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội20

cáo nói trên. Trong đó, cả hai nhóm đều bày tỏ sự không cần thiết tương đối cao (đều xấp xỉ 43%) đối với Bản tin tổng hợp tình hình kinh tế - xã hội và 30% và 34% tương ứng đối với Bản tin chuyên đề theo lĩnh vực. Đa số cả hai nhóm (trên 95%) coi trọng tất cả những văn bản còn lại ở mức độ “Rất cần thiết” và “Cần thiết”. Trong đó, văn bản Tóm tắt kết quả kỳ họp Quốc hội và Tóm tắt giải quyết kiến nghị của cử tri được cho là rất cần thiết ở mức độ cao nhất so với các văn bản và báo cáo còn lại vì đây là những thông tin rất cần thiết cho hoạt động tiếp xúc cử tri sau kỳ họp.

Trong hoạt động giám sát

Mức độ quan trọng của các tài liệu được cung cấp cho công tác giám sát được đánh giá rất cao. Ngoại trừ Bản tin tổng hợp tình hình kinh tế - xã hội nước ngoài và Bản tin chuyên đề theo lĩnh vực, hơn 90% Đại biểu đều cho rằng các tài liệu còn lại là rất quan trọng. Tỷ lệ Đại biểu cho rằng các tài liệu được cung cấp trong hoạt động giám sát là “Rất cần thiết” cũng cao hơn trong hoạt động lập pháp. Đối với một số tài liệu cụ thể như Tóm tắt quy định pháp luật, chính sách về nội dung giám sát; Tổng hợp các vấn đề liên quan đến nội dung giám sát; Báo cáo phân tích, đánh giá chuyên sâu, xấp xỉ ½ số Đại biểu đều đánh giá đây là những tài liệu “Rất cần thiết” (xem hình dưới). Các dạng tài liệu này đều có tính chất chuyên sâu, hoặc đã qua xử lý cho cô đọng, súc tích, trực diện hơn. Như vậy, đánh giá của ĐBQH về sự cần thiết của các tài liệu này trong hoạt động giám sát dường như có sự nhất quán hơn việc đánh giá đối với sự cần thiết của các tài liệu trong hoạt động lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng.

Biểu đồ 2. Tỷ lệ ĐBQH đánh giá mức độ cần thiết của các hình thức cung cấp thông tin trong hoạt động giám sát

1.50 7.8 3.8 7.9 6.0 5.6 8.0 9.6 22.0

32.5 45.90 42.6 49.2

55.1 57.5 61.4 61.0 64.8 57.6

57.0 51.4 49.6 46.9 36.6 36.1 32.9 30.7 25.2 19.6

8.0

0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90%

100%

Rất cần thiết

Cần thiết

Không cần lắm

Không cần

Vai trò của các tài liệu này đối với nhóm Đại biểu chuyên trách và kiêm nhiệm cũng không có khác biệt quá lớn; chủ yếu sự khác biệt diễn ra đối với Báo cáo phân tích đánh giá chuyên sâu, Số liệu thống kê và Bản tin chuyên đề. 56,3% số ĐBCT cho rằng Báo cáo phân tích đánh giá chuyên sâu là tài liệu “Rất quan trọng”, trong khi chỉ 47,1% ĐBKN đánh giá

Page 21: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 21

tài liệu ở mức độ tương tự; tuy nhiên, tỷ lệ đánh giá tài liệu này ở mức “Cần thiết” giữa 2 nhóm Đại biểu lại có sự đảo ngược, tỷ lệ ĐBKN đánh giá “Cần thiết” là 44,9%, tỷ lệ ĐBCT đánh giá “Cần thiết” chỉ có 36,6%.

Mức độ “Cần thiết” của số liệu thống kê đối với 2 nhóm Đại biểu là xấp xỉ nhau (55,2% đối với ĐBCT và 58,4% đối với ĐBKN), tuy nhiên, 43,3% ĐBCT đánh giá tài liệu này ở mức độ “Rất cần thiết”, trong khi tỷ lệ này bên phía ĐBKN chỉ là 33,5%.

Mặc dù nhìn chung, Bản tin chuyên đề không được đánh giá cao, tuy nhiên mức độ khác biệt cũng khá rõ rệt giữa 2 nhóm Đại biểu. 30% ĐBKN coi tài liệu này là “Không cần” và “Không cần lắm”, nhưng chỉ có 11,9% ĐBCT đánh giá tài liệu này ở 2 mức độ nói trên.

Sự khác biệt nói trên có thể là do đặc thù công việc của hai nhóm đại biểu: ĐBCT do phải dành toàn tâm cho hoạt động tại nghị trường nên nhiều người coi trọng các báo cáo chuyên sâu hơn; đồng thời ĐBCT cần hơn các tài liệu có tính tham khảo, đối chiếu, thể hiện qua việc nhiều ĐBCT hơn so với ĐBKN nhận thấy rất cần các báo cáo thống kê, và tỷ lệ ĐBCT coi nhẹ bản tin chuyên đề cũng ít hơn khá nhiều so với ĐBKN. Ngược lại, phần lớn thời gian ĐBKN dành cho công việc ở nơi làm việc chính, vì vậy khi được hỏi về sự cần thiết của các dạng tài liệu trên đối với hoạt động ở Quốc hội, các đại biểu buộc phải cân nhắc nên ưu tiên dạng tài liệu nào, và đối với các dạng tài liệu nêu trên, họ thấy không cần thiết lắm.

Trong tiếp xúc cử tri

Kết quả trong trả lời phiếu hỏi cho thấy, để phục vụ cho hoạt động tiếp xúc cử tri, hai loại hình cung cấp thông tin là Bản tin tổng hợp tình hình kinh tế - xã hội nước ngoài và Bản tin chuyên đề theo lĩnh vực vẫn không được đánh giá cao so với các loại hình còn lại. Điều này có thể hiểu được, vì các bản tin này hầu như không có thông tin liên quan đến nội dung trong các cuộc tiếp xúc cử tri. Trong khi đó, thông tin cung cấp qua Tóm tắt kết quả kỳ họp Quốc hội và Tình hình giải quyết kiến nghị cử tri đã nêu trong lần tiếp xúc trước được tỷ lệ đại biểu cho là “Rất cần thiết” ở mức cao nhất (số liệu tương ứng là 67,2% và 61,9%). Sở dĩ như vậy vì ĐBQH rất cần những báo cáo này để có thông tin báo cáo với cử tri theo quy định của pháp luật và cũng xuất phát từ sự quan tâm của cử tri đối với những thông tin đó, nhất là tình hình giải quyết kiến nghị của cử tri.

Mặt khác, tỷ lệ hơn 67% số ĐBQH coi Tóm tắt kết quả kỳ họp Quốc hội là “rất cần thiết” cho thấy, mặc dù chính các đại biểu đã tham gia kỳ họp, đồng thời nhiều cử tri cũng đã theo dõi kỳ họp qua các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng tỷ lệ đại biểu thấy rất cần tài liệu này vẫn cao nhất, thậm chí cao hơn so với báo cáo về tình hình giải quyết kiến nghị của cử tri. Điều này có thể do nguyên nhân như chúng tôi đã đề cập ở trên về tính chất thông tin, đại biểu muốn được cung cấp thông tin ở dạng ngắn gọn, cô đọng, đã qua xử lý, đỡ mất thời gian phải tổng hợp.

Cũng cần lưu ý, dạng tài liệu này chỉ phục vụ cho tiếp xúc cử tri sau kỳ họp, còn đối với tiếp xúc cử tri trước kỳ họp cần các dạng tài liệu khác như trong hình dưới đây. Những tài liệu còn lại đều được đại đa số (trung bình khoảng 98%) đánh giá ở các mức độ “Cần thiết” và “Rất cần thiết” với tỷ lệ tương đương nhau giữa hai mức độ này. Các tài liệu này đều có mục đích hỗ trợ ĐBQH trong việc đáp ứng mối quan tâm của cử tri như: tình hình giải quyết kiến nghị đã nêu; các vấn đề cử tri quan tâm; tình hình địa phương; chính sách mới.

Page 22: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội22

Biểu đồ 3. Tỷ lệ ĐBQH đánh giá mức độ cần thiết của các hình thức cung cấp thông tin để tiếp xúc cử tri

3.10 2.6 1.9 2.3 2.3

33.3 42.6

29.40 35.1 47.5 47.9 51.5

54.7 45.5

67.2 61.9 50.2 49.4 45.8

9 6.4

0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90%

100%

Rất cần thiết Cần thiết Không cần lắm Không cần

Nhìn chung, đánh giá của 2 nhóm đại biểu đối với các hình thức cung cấp thông tin này là không khác biệt. Chỉ có sự khác biệt tương đối lớn giữa 2 cấp độ “Rất cần thiết” và “Cần thiết” ở 2 loại hình Thông tin cập nhập về tình hình của địa phương nơi tiếp xúc cử tri và Tổng hợp các vấn đề cử tri đang quan tâm. Tỷ lệ các ĐBKN đánh giá hai tài liệu này là “Rất cần thiết” cao hơn hẳn so với phía các ĐBCT (53,4% và 52,6% so với 38,2% và 43,7%).

Bên cạnh các hình thức cung cấp thông tin bằng văn bản như đã nêu trên đây, ý kiến phát biểu trực tiếp của ĐBQH tại các cuộc tọa đàm cho biết, cần cung cấp thông tin qua cả Email của Đoàn ĐBQH, của đại biểu Quốc hội; phát triển thư viện, trang web của Quốc hội để cung cấp cho đại biểu Quốc hội; cung cấp định kỳ, chuyên đề qua e-office.

3.4. Tính chất của thông tin dành cho đBQh

Qua các cuộc tọa đàm và trên các diễn đàn khác, các đại biểu cho biết thiếu thông tin đã được xử lý chứ không phải chỉ thiếu dữ liệu, dung lượng thông tin. Theo ý kiến tại các tọa đàm, cần quan tâm nhiều hơn trong việc chọn lọc thông tin gửi đến ĐBQH, “ít mà tinh, còn hơn nhiều mà vẫn thiếu”10. Thông tin cung cấp cho ĐBQH chủ yếu để xem xét, đánh giá chính sách trong quy trình lập pháp hoặc giám sát11. Sở dĩ như vậy vì đại biểu cần đến những thông tin đáng tin cậy nhất, đồng thời thông tin đó cũng đòi hỏi ít công sức nhất để nắm vững nội dung của nó.

10 Như chú thích trên.11 Ý kiến của các ĐBQH tại các tọa đàm ở An Giang, ngày 13/7/2012, Quảng Trị, 18/7/2012.

Page 23: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 23

Đối với ĐBQH là những người tham gia quyết định, ban hành chính sách, hoạt động xử lý, cung cấp thông tin sẽ giúp đại biểu tìm kiếm được thông tin liên quan đến chính sách một cách đầy đủ, chính xác, nhanh chóng, kịp thời trước khi “phải” bấm nút quyết định, ban hành chính sách; cung cấp những thông tin cô đọng, hệ thống, những thông tin đã được tinh chế và có chất lượng cao, giúp đại biểu rút ngắn thời gian thu thập và xử lý thông tin trong lĩnh vực chính sách; trên cơ sở đó đảm bảo chất lượng quyết định, ban hành chính sách và đảm bảo những yêu cầu, mục đích của chính sách được ban hành.

hộp 2: Ý kiến của đBQh về tính chất của thông tin12

Bà Nguyễn Thị Bạch Mai, nguyên Phó trưởng đoàn Đoàn ĐBQH tỉnh Tây Ninh: Rất cần thông tin về các chính sách ẩn đằng sau các quy định pháp luật, được-mất của mỗi phương án; kết quả, hạn chế; phân tích các con số, dữ liệu…

Ông Nguyễn Tiến Sinh, Phó trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Hòa Bình khóa XIII: Đại biểu không phải cái gì cũng biết nên rất cần thông tin chuyên sâu từ các chuyên gia… Chỉ cần thông tin tóm tắt, súc tích, ngắn gọn thì tốt hơn, trên cơ sở đó để đại biểu khai thác tiếp.

Ông Nguyễn Văn Mễ, Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Thừa Thiên - Huế khóa XI: Cần có thông tin từ chuyên gia sâu về các lĩnh vực như: điện hạt nhân, thủy điện… Thông tin phải tinh, gọn và theo vấn đề ĐBQH yêu cầu trực tiếp, vì do thời gian của ĐBQH không nhiều, không đủ.

Ông Nguyễn Văn Tuyết, Ủy ban VH, GD, TN, TN, NĐ khóa XIII: Nên cung cấp thông tin tóm tắt, vấn đề mấu chốt của dự án luật đã nổi lên qua các hội thảo, qua thẩm tra để cung cấp cho đại biểu, để đại biểu nắm bắt mà yên tâm bấm nút.

Mặt khác, các cơ quan, đơn vị cung cấp thông tin đã qua xử lý cũng cần tránh việc phản ánh nhận thức chủ quan của mình, khiến suy nghĩ của ĐBQH bị lái theo hướng chủ thể ấy mong muốn. Bên cạnh đó, nếu ĐBQH muốn được cung cấp loại thông tin đã qua xử lý này thì chính đại biểu cần nêu yêu cầu hoặc đặt hàng cụ thể đối với cán bộ tham mưu, giúp việc hoặc chuyên gia.

Theo các ĐBQH, cần cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác13. Tính đầy đủ đòi hỏi thông tin phải đề cập đến mọi khía cạnh của vấn đề đang được Quốc hội xem xét; thông tin về các vùng miền, địa phương, toàn quốc, trong và ngoài nước… Tính đầy đủ cũng hàm ý thông tin vừa phải cơ bản theo các chức năng của Quốc hội, vừa có thông tin chuyên đề như nợ xấu, tập đoàn kinh tế…, vừa có thông tin về các vấn đề thời sự, mới, nóng… Thông tin phải tiêu biểu, đại diện cho số đông trong xã hội, tức là phải những thông tin hàm chứa đầy đủ nhất những lợi ích của xã hội, của cộng đồng, tiêu biểu cho ý chí, nguyện vọng chung của số đông, của toàn xã hội. Ví dụ như ý kiến, kiến nghị của cử

12 Tọa đàm với ĐBQH tại Quảng Trị, ngày 18/7/2012. 13 Phát biểu của ông Nguyễn Minh Thuyết, PCN Ủy ban VH,GD,TN,TN,NĐ khóa XII tại tọa đàm ở Quảng Trị, ngày

18/7/2012. Nhiều ý kiến khác tại các cuộc tọa đàm này và các cuộc tọa đàm khác đã cụ thể hóa hơn tính đầy đủ, kịp thời, chính xác của thông tin.

Page 24: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội24

tri mang tính đại diện cho số đông cử tri trong vùng, khu vực, cả nước: vấn đề đất đai, đền bù, giải phóng mặt bằng; bảo hiểm y tế; y tế tuyến cơ sở; chất lượng giáo dục; phòng chống tham nhũng…

Tính kịp thời đòi hỏi ít nhất phải cung cấp cho đại biểu đúng thời hạn luật định, thông tin không được đến vào sát thời điểm xem xét, biểu quyết. Tính kịp thời của thông tin cũng có nghĩa là sự cập nhật thường xuyên về vấn đề đang được Quốc hội xem xét, thảo luận. Thông tin phải kịp thời có nghĩa sự phản ánh, cung cấp thông tin phải đảm bảo đúng lúc cần thiết, đáp ứng cho việc xem xét, giải quyết nhanh chóng những yêu cầu phát sinh trong công tác quản lý (ví dụ, thông tin về các vấn đề đầu tư trước khi thông qua Luật Đầu tư; thông tin về KT - XH khi thông qua nghị quyết về KT - XH; thông tin về thủy điện trước khi biểu quyết công trình thủy điện Sơn La…). Hơn thế, như một ĐBQH nhiều khóa nay đã thôi không làm đại biểu nhấn mạnh, cần cung cấp cả thông tin về việc Quốc hội khóa trước đã bàn, thảo luận ra sao về dự án đó, vấn đề đang được đưa ra Quốc hội hiện tại tiếp tục bàn như: Ban phòng chống tham nhũng ở cấp tỉnh; 5 triệu ha rừng… Nghĩa là phải có thông tin liên tục cho đại biểu đối với những vấn đề đưa ra xem xét, quyết định14. Đặc biệt, trong tất cả các cuộc tọa đàm đều có nhiều ý kiến của cả ĐBQH và cán bộ phục vụ nhấn mạnh, ĐBQH rất cần được cung cấp thông tin đều đặn, cập nhật giữa hai kỳ họp.

Tính chính xác đòi hỏi thông tin phải đúng sự thật, đã được kiểm chứng chéo qua các nguồn khác nhau; tránh những con số khác nhau ở các báo cáo, tài liệu về cùng một nội dung15. Các báo cáo, tài liệu gửi đến ĐBQH phải phản ánh đúng thực trạng đang diễn ra, nếu tình hình trầm trọng thì phải phân tích mức độ trầm trọng, vạch ra nguyên nhân, không đơn giản hóa, không làm nhẹ nhàng vấn đề, nhất là không tô hồng thực tế16. Tránh sửa đổi, thêm bớt, làm sai lệch thông tin theo ý kiến chủ quan, làm ảnh hưởng tới việc xem xét quyết định của Quốc hội, ĐBQH. Tính chính xác của thông tin có ý nghĩa để “bắt bệnh đúng mới có thuốc chuẩn”.

Thông tin cũng cần được cung cấp từ các góc độ, quan điểm khác nhau, tránh việc cung cấp thông tin một chiều. Như ĐBQH cho biết, “cần thông tin “trái chiều” để cân nhắc kỹ hơn”17. Quốc hội, với tính chất là “diễn đàn chính sách quốc gia”, rất cần chú ý đến những nội dung được đúc rút từ những nguồn thông tin đa dạng, đa chiều, mang tính phản biện này, nhằm giúp cho quá trình ra quyết sách tại Quốc hội được cẩn trọng, chính xác, toàn diện.

14 Phát biểu của ông Nguyễn Minh Thuyết, PCN Ủy ban VH,GD,TN,TN,NĐ khóa XII tại tọa đàm ở Quảng Trị, ngày 18/7/2012.

15 Tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII, ĐBQH Bùi Thị An nhận xét: “Các con số đánh giá cũng chưa chuẩn, chưa thống nhất, ăn khớp. Về nợ xấu, nợ công thất nghiệp đều có mấy con số và cần kiểm tra lại để đánh giá chuẩn tình hình.”, Thành Nam, “Quá xa thực tế”, báo điện tử Infonet, http://infonet.vn/Kinh-doanh/Qua-xa-thuc-te/84002.info .

16 Trên các diễn đàn của Quốc hội, các ĐBQH đã từng đề cập đến sự khác biệt giữa báo cáo của Chính phủ, các Bộ ngành với tình hình thực tế. Ví dụ như tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII, các ĐBQH cho rằng, “tình hình đang còn rất nhiều khó khăn, nhưng các báo cáo lại nói tình hình vẫn khả quan, kinh tế tăng trưởng, lạm phát ổn định… Như vậy thì xa rời thực tế quá”; Thành Nam, “Quá xa thực tế”, báo điện tử Infonet, http://infonet.vn/Kinh-doanh/Qua-xa-thuc-te/84002.info; hoặc: “trong báo cáo các khuyết điểm nói nghe rất đơn giản, nhẹ nhàng”, “không cảm nhận hết sự nghiêm trọng của tình hình”, “Cái mà ta xem là thành tích thì nhiều chuyên gia lại xem đó là chuyện trầm trọng, chẳng hạn như xuất siêu”. Xem thêm Mai Hương, “Không thể cứu nền kinh tế bằng giải pháp bình thường”, Tuổi Trẻ, 22/5/2013, tại: http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/549659/khong-the-cuu-nen-kinh-te-bang-giai-phap-binh-thuong.html.

17 Ý kiến của một ĐBQH tại tọa đàm ở Quảng Trị, ngày 18/7/2012.

Page 25: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 25

III. Thực trạng thông tin của đBQh

Phần này phân tích thực trạng tiếp nhận, phân tích thông tin của ĐBQH phục vụ hoạt động tại Quốc hội từ cả hai phía: sự chủ động của đại biểu và thực tế cung cấp thông tin cho đại biểu từ phía các cơ quan hữu quan trên các mặt: dung lượng, tính chất, nguồn thông tin, mức độ đáp ứng yêu cầu về thông tin theo các chức năng lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.

1. Sự chủ động từ phía đBQh

Mặc dù pháp luật đã quy định ĐBQH có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, nhưng các đại biểu sử dụng quyền này một cách khác nhau. Cách thức đại biểu sử dụng quyền này trong thời gian qua gồm có: gửi văn bản yêu cầu trực tiếp tới các cơ quan, tổ chức ngoài Quốc hội; gửi văn bản yêu cầu về Viện NCLP và VPQH đề nghị tổ chức nghiên cứu, thu thập và cung cấp thông tin; điền thông tin yêu cầu theo mẫu đối với các tài liệu trong danh mục ngay tại bàn cung cấp thông tin kỳ họp.

Bảng 5. Tỷ lệ đại biểu yêu cầu thông tin từ các cơ quan hành chính

Tên đơn vị Tỷ lệ đB yêu cầu thông tin

Tỷ lệ trả lời thông tin được yêu cầu

Các Bộ, cơ quan ngang bộ trực thuộc Chính phủ 79% 95,3%

Các Sở, ban ngành địa phương 55% 99,5%

Đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân bên ngoài Quốc hội cung cấp thông tin, nhất là từ các Bộ ngành, ngoài các báo cáo hoạt động có tính thường niên của Chính phủ trước Quốc hội, ĐBQH có thể yêu cầu các Bộ, ngành cung cấp các thông tin trong phạm vi, chức năng của cơ quan đó. Bảng trên đây cho thấy tỷ lệ đại biểu đã từng yêu cầu thông tin từ các cơ quan hành chính nhà nước.

Tuy nhiên, biểu đồ dưới đây cũng cho thấy, còn ít đại biểu thường xuyên tự mình hoặc chỉ đạo cán bộ giúp việc gửi yêu cầu đến các cơ quan thuộc nhánh hành pháp, các cơ quan hữu quan khác, các tổ chức cung cấp thông tin18. Có những đại biểu đã chủ động tìm kiếm thông tin trên Internet, qua sách, báo, các công trình nghiên cứu khoa học; tham khảo thông tin từ các viện, trường, chuyên gia, nhà khoa học, thậm chí thiết lập quan hệ cộng tác thường xuyên với các chuyên gia, nhà khoa học. Tuy nhiên, nhiều đại biểu chưa chú trọng khai thác nguồn thông tin chuyên sâu này.

18 Ông Nguyễn Ngọc Trân, nguyên PCN Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội khóa XI đã gửi công văn đề nghị 32 cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin về tình hình thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ sau một năm ký kết. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động của Quốc hội rất ít trường hợp tương tự như vậy.

Page 26: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội26

Ông Nguyễn Minh Thuyết, Đại biểu Quốc hội khóa XI, XII: “Tôi thấy một số cơ quan của Quốc hội, cụ thể ở đây là Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường luôn có nhu cầu xin ý kiến tư vấn từ các trí thức. Nhưng với nhiều đại biểu Quốc hội, tôi e là họ không có nhu cầu này một cách thường xuyên”.

Kết quả khảo sát cho thấy, hầu hết (99,2%) các đại biểu chủ động thường xuyên tìm kiếm thông tin từ các phương tiện truyền thông. Ngoài ra, 98,8% đã từng tham gia các hội thảo, hội nghị có liên quan hay 96,5% đã từng chủ động tham khảo ý kiến chuyên gia. Các phương thức gửi yêu cầu đến bộ phận chuyên trách, trợ giúp cho đại biểu, và trực tiếp gửi yêu cầu đến cơ quan, tổ chức, cá nhân đề nghị cung cấp thông tin cũng được 2/3 số đại biểu trong khảo sát áp dụng, với tần suất khác nhau, phụ thuộc vào từng loại hình cụ thể. Tuy nhiên, như đã đề cập, chỉ một số ít đại biểu thường xuyên làm việc này.

Biểu đồ 4. Mức độ thường xuyên tìm kiếm thông tin của ĐBQH

0.8 5

16.8 24

12.9 27.1

8.7

52.9

30.7 44

60.9 51 90.5

40.9 34.8 22.8 22.7 16.3

0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90%

100%

Phương tiện truyền thông

Tham gia hội thảo

Yêu cầu trợ lý tìm kiếm

TT

Gửi yêu cầu đến CQ - TC - CN

Ý kiến chuyên gia

Gửi yêu cầu đến bộ phận

chuyên trách

Thường xuyên

Thỉnh thoảng

Hiếm khi

Không

Đối với các cơ quan, đơn vị trong Quốc hội, một đại biểu cho biết, đã qua 4 kỳ họp nhưng chưa yêu cầu các đơn vị thuộc VPQH cung cấp thông tin lần nào, nhưng ngược lại có đại biểu khác nói đã từng “đặt hàng” ở cả 4 kỳ họp19. Một số đại biểu nhận xét, nhìn chung các ĐBQH chưa sử dụng quyền này nhiều để có thông tin kịp thời phục vụ hoạt động ở nghị trường; chưa chủ động phản ánh các nhu cầu cụ thể về thông tin20. Còn theo ý kiến của nhiều cán bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND, các đại biểu kiêm nhiệm ở địa phương hầu như không yêu cầu Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND cung cấp thông tin, lý do vì đại biểu hoặc không có nhu cầu, hoặc không biết về quyền này21. Kết quả khảo sát bằng phiếu hỏi cũng cho thấy, tỷ lệ đại biểu chủ động thường xuyên yêu cầu, đề nghị cung cấp thông tin là không cao, chiếm vào khoảng 16 - 34% số đại biểu tùy thuộc vào đối tượng được yêu cầu.

19 Ý kiến của các ĐBQH tại tọa đàm ở An Giang, ngày 13/7/2012.20 Ý kiến của các ĐBQH tại tọa đàm ở Hà Nội, ngày 5/9/2012.21 Ý kiến của các cán bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tại tọa đàm ở Hạ Long, ngày 13/8/2012.

Page 27: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 27

Sau khi đã thu nhận thông tin, với tư cách và quyền hạn của mình, ĐBQH đưa ra quyết định đối với thông tin đã tiếp nhận theo các hướng: dùng nguồn thông tin đó làm cơ sở hình thành quan điểm ý kiến của mình, thể hiện chính kiến trên diễn đàn ở Quốc hội (nếu thông tin đó là tin cậy); thẩm định lại tính chính xác, độ tin cậy của thông tin (nếu còn băn khoăn); chuyển cho các cơ quan hữu quan nghiên cứu xử lý (thường là các ý kiến, kiến nghị, đơn thư dân nguyện…); lưu vào kho dữ liệu thông tin tham khảo của cá nhân. Trên thực tế, cũng có cán bộ giúp việc cho biết, có những đại biểu được cung cấp thông tin đầy đủ, phù hợp, nhưng không thấy sử dụng để phát biểu tại kỳ họp. Còn trong khảo sát này, hầu hết số cán bộ phục vụ trả lời phiếu hỏi (91%) đồng tình với ý kiến rằng kỹ năng xử lý thông tin của đại biểu không đồng đều, gây khó khăn trong việc cung cấp thông tin.

2. Dung lượng thông tin cung cấp cho đBQh

Theo ý kiến của các ĐBQH, về mặt dung lượng, thông tin cung cấp cho đại biểu trong kỳ họp rất nhiều, về các lĩnh vực khác nhau, lên đến hàng ngàn trang, thậm chí không đủ thời gian để đọc hết, quá tải, không “hấp thu” hết22. Các cán bộ phục vụ ĐBQH cũng cho rằng, lượng thông tin đến ĐBQH quá nhiều trong kỳ họp, đại biểu không đón nhận hết thông tin; đại biểu thấy khó chọn lọc được những thông tin đang cần23. Điều này có lý do vì trong kỳ họp, ĐBQH phải họp ở Hội trường, ở tổ, thời gian để nghiên cứu tài liệu không nhiều, tạo nên tình trạng vừa thừa thông tin, nhưng không hấp thu đủ thông tin cần thiết để quyết định bấm nút. Hơn nữa, theo các đại biểu, thông tin nhận được chưa được chọn lọc, chưa được rút gọn ở mức cần thiết nên gây nên nhiều khó khăn trong việc sử dụng v.v...24

Giữa hai kỳ họp, đại biểu Quốc hội chuyên trách tại các ủy ban, lãnh đạo các ủy ban, đại biểu giữ chức vụ cao ở địa phương nhận được nhiều thông tin, còn đại biểu kiêm nhiệm nhận được rất ít, chất lượng thông tin không cao, thiếu nhiều thông tin mang tính chuyên đề chuyên sâu. Như Ông Danh Út, người đã từng làm Phó trưởng đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Kiên Giang, nay là Phó Chủ tịch HĐDT nhận xét, cơ chế hỗ trợ thông tin chưa đồng đều giữa các đại biểu ở Trung ương và địa phương. ĐBQH ở địa phương thường thiếu thông tin song lại ít được hỗ trợ; trong khi đó ĐBQH chuyên trách làm việc ở các cơ quan của Quốc hội thì quá nhiều nguồn tin, xử lý không hết25.

3. Nội dung, tính chất thông tin được cung cấp

Qua ý kiến của các ĐBQH, cũng như phân tích công việc của cán bộ tham mưu, giúp việc cho ĐBQH, có thể nhận thấy, mặc dù được cung cấp hàng ngàn trang tài liệu tại mỗi kỳ họp Quốc hội, nhưng ĐBQH vẫn thiếu thông tin chắt lọc, đã qua xử lý, thiếu thông tin phân tích, so sánh…, khó khăn cho ĐB khi sử dụng thông tin. Đa số ý kiến của các đại biểu tham dự tọa đàm đều cho rằng, các thông tin đó vẫn còn quá rộng, chưa có các thông tin chuyên đề mang tính nghiên cứu, đánh giá chuyên sâu, trong các lĩnh vực mà đại biểu quan tâm thông tin được cung cấp thường chưa đáp ứng được.

22 Ý kiến của các ĐBQH tại tọa đàm ở An Giang, ngày 13/7/2012, Hà Nội, ngày 5/9/2012.23 Ý kiến của các chuyên viên Đoàn ĐBQH và HĐND tại tọa đàm ở Quảng Ninh, ngày 13/8/2012.24 Có ĐBQH nhận xét, một vấn đề lớn là cán bộ phuc vụ cũng không đủ thời gian để rút gọn; khái quát vấn đề nên

thông tin cung cấp thường quá dài, có thông tin trích dẫn nguyên văn từ các nguồn khác nhau.25 Phát biểu tại tọa đàm ở Hà Nội, ngày 5/9/2012.

Page 28: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội28

Kết quả phân tích phiếu khảo sát cũng cho thấy, mảng công việc phân tích thông tin sâu của các cán bộ tham mưu, giúp việc chiếm lượng thời gian không lớn như các công việc khác (xem biểu đồ dưới đây). Trong phục vụ đại biểu thực hiện chức năng lập pháp, cán bộ cũng ít thực hiện các công việc có tính chuyên môn sâu. Ngoài việc tổng hợp ý kiến của Đại biểu về dự thảo luật được 43% CBPVQH đánh giá là thực hiện một cách “Thường xuyên”, đa phần Cán bộ đều cho biết họ ít khi thực hiện các hoạt động khác một cách đều đặn. 53,4% Cán bộ “Hiếm khi”, hoặc “Không bao giờ” thực hiện phân tích, so sánh pháp luật, chính sách của Việt Nam với nước ngoài, hoặc 37,8% tương tự đối với hoạt động “Soạn tài liệu về các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến nội dung trong dự thảo luật”. Tuy nhiên rất có thể các công tác này được phân công cụ thể cho bộ phận chuyên trách đảm nhận.

Biểu đồ 5. Mức độ tham gia thực hiện các công việc phục vụ chung

5.4   6.1   7.7  16.2   9.9   9  

21.3  30.6  

8.2   6.7  11.2  

16.8  15.8   14.6  

20.7  

25.2  

26.1   30.5  32  

25.6   37.9   44.4  

39.2  

37.5  60.3   56.7  

49.2  41.4   36.4   32  

18.8  6.2  

0%  

10%  

20%  

30%  

40%  

50%  

60%  

70%  

80%  

90%  

100%  

4.  Thường  xuyên  

3.  Thỉnh  thoảng  

2.  Hiếm  khi  

1.  Không  

Thiếu thông tin chuyên sâu, đã được phân tích, xử lý là một nguyên nhân chủ chốt khiến ĐBQH có lúc biểu quyết theo cảm tính hoặc biểu quyết sau khi tham khảo ý kiến đại biểu khác. ĐBQH khó kiểm tra, thẩm định lại các số liệu, kết quả báo cáo, dự báo (nhiều khi vênh nhau) của cơ quan hành pháp. Thực tế cho thấy trước những vấn đề lớn, chuyên sâu, nhiều ĐBQH lúng túng vì không nắm được các nội dung cốt lõi, thiếu thông tin để làm cơ sở cho việc biểu quyết. Có những đại biểu phát biểu không sâu, chưa đủ tầm, trùng lặp vì thiếu thông tin26. Các ĐBQH gọi đây là tình trạng “không biết mà phải biểu quyết”, hoặc như có đại biểu cho biết, “bấm nút mà trong lòng vẫn không yên”. Việc thiếu các cơ quan chuyên môn độc lập thẩm định các cơ sở khoa học, vấn đề kỹ thuật, tính chính xác của số liệu để tham mưu phục vụ Quốc hội xem xét, quyết định là một trong những nguyên nhân khá quan trọng dẫn đến thiếu căn cứ xác thực, làm hạn chế chất lượng các quyết định27.

26 Ý kiến của các ĐBQH tại tọa đàm ở An Giang, ngày 13/7/2012.27 Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ XII của Quốc hội, 3/2012.

Page 29: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 29

Bà Nguyễn Thị Bạch Mai, đBQh khóa XI, XII: “Những vấn đề liên quan đến kinh tế - xã hội, gói kích cầu... những con số đưa ra, làm thế nào để phân tích, đánh giá một cách xác thực? Có khi con số Chính phủ khác, báo cáo thẩm tra của Ủy ban khác. Vậy có tìm ra được con số thực và biểu quyết trên cơ sở đó không? Như khai thác bô-xít, nhiều ĐBQH nói thiếu thông tin là vậy”.

(Nguồn: Vietnamnet, 2009)

Trong khi còn thiếu thông tin đã được phân tích sâu, trong không ít trường hợp, các ĐBQH nhận được các báo cáo của hành pháp, hành chính với thông tin phiến diện một chiều, chủ yếu là thành tích, còn những mặt hạn chế, yếu kém ít được đề cập28. Nhiều ĐBQH băn khoăn về mức độ chính xác của các con số, chỉ tiêu trong báo cáo của Chính phủ29. Ngược lại, còn ít những thông tin phản biện, không cùng chiều với nhận định của số đông, mà vẫn phù hợp với mục tiêu chính sách, với quy định của pháp luật, có giá trị “cảnh báo”, “kiểm chứng” trong quá trình đi tìm những thông tin chính xác, chân thật.

4. Thời gian cung cấp thông tin

Như đã đề cập, sự kịp thời là một trong những yêu cầu của ĐBQH đối với thông tin phục vụ hoạt động tại Quốc hội. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều loại thông tin cung cấp cho đại biểu thường chậm. Đặc biệt, theo quy định của pháp luật, tài liệu chính thức của kỳ họp phải được gửi đến ĐBQH ít nhất là 20 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp. Nhưng qua nhiều kỳ họp của nhiều nhiệm kỳ, các ĐBQH đều nhận xét, tài liệu gửi thường muộn, thậm chí sát ngày thảo luận mới nhận được các báo cáo, tờ trình…, qua nhiều kỳ họp tiếp tục được nhắc đến như “những giai điệu không vui”30. Chính vì do thời gian quá ngắn làm cho ĐBQH rất khó khăn nghiên cứu, sử dụng những thông tin này vào công việc của đại biểu ở Quốc hội. Từ phía các cán bộ phục vụ, có 79% số người trả lời phiếu hỏi cho rằng nhiều cơ quan, tổ chức không sẵn sàng cung cấp thông tin hoặc không cung cấp thông tin kịp thời cho cơ quan, đơn vị phục vụ Quốc hội.

Đối với các dạng thông tin khác, có những ĐBQH cho biết, một trong những khó khăn là phải đợi thông tin của các bộ, sở, ngành; nếu yêu cầu Chính phủ, bộ, sở, ngành thì thường không được cung cấp, hoặc cung cấp muộn, sát nút mới gửi, không kịp đọc, nghiên cứu. Theo ý kiến của các đại biểu, thông thường 2/3 thời gian đầu của kỳ họp có rất nhiều thông

28 Trong cuộc thảo luận tổ ĐBQH tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII, ĐBQH Trương Trọng Nghĩa phát biểu: “Những con số nêu trong báo cáo của Chính phủ hời hợt, không trung thực, không phản ánh được tình hình”. Mai Hương, “Không thể cứu nền kinh tế bằng giải pháp bình thường”, Tuổi Trẻ, 22/5/2013, có tại: http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/549659/khong-the-cuu-nen-kinh-te-bang-giai-phap-binh-thuong.html

29 Đoàn Thư ký kỳ họp, Báo cáo tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội thảo luận tại Tổ về kinh tế - xã hội và NSNN, kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII, 28/5/2013.

30 Biên bản thảo luận ở hội trường về Dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh khóa XIII và năm 2013 của Quốc hội, 5/6/2013. Ý kiến của ĐBQH tại các cuộc tọa đàm năm 2012 cũng cho biết, báo cáo kinh tế - xã hội được trình Quốc hội khá muộn. Còn trước đây, có những báo cáo về những vấn đề rất quan trọng như dự án bô-xít Tây Nguyên, mở rộng Hà Nội... cũng gửi đến ĐBQH chậm.

Page 30: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội30

tin đến với ĐBQH, nhưng 1/3 thời gian còn lại thông tin ít hơn và thiếu cập nhật31. Khá nhiều ý kiến trong các cuộc tọa đàm nhận xét, việc cung cấp thông tin ở kỳ họp theo yêu cầu của đại biểu đã đáp ứng đúng yêu cầu và nhanh chóng, chỉ sau 1 - 2 ngày đã nhận được thông tin32.

Trong khoảng thời gian giữa hai kỳ họp, có ý kiến cho rằng, thông tin gửi đến cho ĐBQH về tình hình KT - XH theo quý, 6 tháng và hàng năm, báo cáo kết quả tiếp xúc cử tri, giám sát, tiếp công dân rất kịp thời, nhất là ở các thành phố lớn. Tuy nhiên, ở địa phương, thông tin hàng ngày được cập nhật thuận lợi cho đại biểu chuyên trách, còn đại biểu kiêm nhiệm không giữ chức vụ gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận nguồn thông tin để thực hiện chức năng của ĐBQH.

Nhiều ý kiến khác nhận xét, giữa hai kỳ họp cả tài liệu chính thức và thông tin tham khảo gửi cho Đoàn ĐBQH còn chậm trễ33. Nhất là trong một số lĩnh vực cụ thể, thông tin để tham gia hoạt động giám sát còn nhiều hạn chế, là một trong những lý do làm cho đại biểu ngại tham gia các đoàn giám sát. Các ý kiến cũng cho biết, chương trình, nội dung kỳ họp, các dự án luật cần lấy ý kiến… gửi về các địa phương quá muộn, sát với thời gian khai mạc kỳ họp. Vì nhận được tài liệu muộn, cho nên việc lấy ý kiến ở địa phương vào các dự án Luật mang tính hình thức, không sâu, chủ yếu chỉ kịp gửi các sở, ngành cho ý kiến. Thông tin do các Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND đề nghị Viện Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội cung cấp giữa hai kỳ họp thường được gửi chậm, nhiều khi phải đợi vì cần phải nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng.

Đối với thông tin do các cơ quan, đơn vị thuộc Quốc hội cung cấp, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND có 62,7% đại biểu đánh giá là cung cấp thông tin “Kịp thời”, tiếp theo là ‘Viện nghiên cứu lập pháp’, các vụ đơn vị thuộc văn phòng Quốc hội và cuối cùng là Hội đồng dân tộc, Ủy ban và các ban (tương ứng 54,9%, 50%, và 45,5%). Sở dĩ các Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND được đánh giá cao hơn về sự kịp thời vì trực tiếp phục vụ đại biểu, thường nhận yêu cầu và cung cấp trực tiếp ngay cho đại biểu mà không cần phải đợi thêm một thời gian gửi đi.

5. Các hình thức cung cấp thông tin

ĐBQH được cung cấp thông tin dưới nhiều hình thức khác nhau. Đại đa số các đại biểu đều được cung cấp những tài liệu như: sách tài liệu tham khảo (98,5%), báo, tạp chí (91,3%). Báo cáo các loại được cung cấp cho một số lượng đại biểu ít hơn. Cụ thể: chỉ 76% Đại biểu phản ánh được cung cấp các Báo cáo tổng quan/tóm tắt, so sánh; 65,8% được cung cấp Báo cáo phân tích đánh giá chuyên sâu, và 66,2% nhận được Bản tin chuyên đề theo lĩnh vực. Hơn ½ số đại biểu cho biết rằng họ không được cung cấp các loại hình báo cáo khác như Báo cáo kết quả đề tài NCKH, Điều tra dư luận xã hội và Bản tin tổng hợp kinh tế xã hội nước ngoài.

31 Ý kiến của các ĐBQH phát biểu tại tọa đàm ở Hà Nội, ngày 5/9/2012.32 Ý kiến phát biểu tại tọa đàm ở An Giang, 13/7/2012.33 Ý kiến của các cán bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tại tọa đàm ở Hạ Long, ngày 13/8/2012.

Page 31: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 31

Biểu đồ 6. Các hình thức thông tin ĐBQH được cung cấp

0 10 20 30 40 50 60 70 80 90

100 98.5

91.3

76 66.2 65.8

44.9 44.1 40.7

Ba nguồn tài liệu mà các ĐBQH nhận được nhiều nhất cũng đồng thời là ba loại hình được cung cấp phổ biến nhất, bao gồm: (i) sách, tài liệu tham khảo (loại hình này được cung cấp cho 91% Đại biểu); (ii) báo, tạp chí (64,8%); và (iii) báo cáo tổng quan/tóm tắt/so sánh (45,9%). Các loại hình còn lại mức độ cung cấp ít thường xuyên hơn. Tài liệu được cung cấp ít thường xuyên nhất là Báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu khoa học, và Bản tin tổng hợp KT-XH nước ngoài (chỉ chiếm 7,7% và 6,4% tương ứng).

Bắt đầu từ Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá XIII, Văn phòng Quốc hội đã mở rộng hình thức cung cấp thông tin tới các đại biểu bằng file điện tử. Các ĐBQH cho biết, mới đầu làm quen tuy có khó khăn nhưng nhận thấy đây là hình thức cung cấp thông tin thực sự thuận tiện, nhận được nhanh hơn ngay cả đối với gửi hỏa tốc.

Theo ý kiến của ĐBQH tại các cuộc tọa đàm, cần chú ý nhiều hơn các hình thức cung cấp thông tin như: cung cấp địa chỉ tra cứu qua thư viện, qua mạng điện tử; giới thiệu đầu mối liên hệ để được cung cấp thông tin, các dạng báo cáo khác nhau như báo cáo phân tích các chỉ số, chuyên đề theo từng lĩnh vực cụ thể phục vụ cho việc thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội, báo cáo các thông tin mang tính tham khảo kinh nghiệm của các nước, các thông tin về kinh tế xã hội của từng vùng, từng địa phương.v.v...

6. Các nguồn thông tin của đBQh

Các nguồn thông tin của ĐBQH gồm có: các cơ quan, đơn vị thuộc Quốc hội (HĐDT, các Ủy ban, các Ban, Viện Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND); các cơ quan, đơn vị thuộc nhà nước (các Bộ, ngành, sở ngành); các tổ chức chính trị - xã hội; các tổ chức xã hội; các viện nghiên cứu, trường, chuyên gia; báo chí. Mục này sẽ phân tích hiện trạng ĐBQH sử dụng các nguồn thông tin trên đây, đánh giá về mức độ quan trọng của các nguồn thông tin; đánh giá về mức độ đáp ứng nhu cầu của ĐBQH và CBPVQH từ các nguồn thông tin đó.

%%%%%%%%%%%

Page 32: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội32

6.1. hiện trạng sử dụng các nguồn thông tin

Bảng dưới đây cho thấy đại biểu sử dụng thông tin từ 8 nguồn thông tin khác nhau nhằm phục vụ cho 3 hoạt động: Lập pháp, Giám sát và Quyết định các vấn đề quan trọng.

Bảng 6. ĐBQH sử dụng các nguồn thông tin

Nguồn thông tin

hđ lập pháp hđ giám sátQuyết định các vấn đề quan trọng

Số lượng đB sử dụng TT

Tỷ lệ đB sử dụng TT

Số lượng đB sử dụng TT

Tỷ lệ đB sử dụng TT

Số đB sử dụng TT

Tỷ lệ đB sử dụng TT

Các cơ quan, đơn vị phục vụ QH ở TW 250 97,3% 246 96,9% 254 99,2%

Văn phòng Đoàn ĐBQH tại địa phương 241 95,3% 247 95,7% 226 89%

Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ 230 91,3% 227 91,9% 243 96,4%

Các sở, ngành, cơ quan chính quyền địa phương 218 86,5% 229 92,3% 220 89,1%

Cơ quan truyền thông, báo chí 237 92,2% 238 94,1% 224 91,1%

Các viện nghiên cứu, trường đại học 171 70,4% 151 65,1% 176 76,2%

Tổ chức chính trị - xã hội 191 81,8% 193 81,1% 183 77,2%

Tổ chức xã hội - dân sự 121 54,3% 129 58,4% 124 58,5%

Theo số liệu khảo sát, tỷ lệ đại biểu sử dụng các nguồn thông tin nhìn chung đều trên 50%. Trong số các dữ liệu về các nguồn thông tin trên, một số dữ liệu sau đây đáng chú ý.

Trước hết, việc sử dụng các nguồn thông tin này phân làm hai nhóm có khác biệt rõ rệt. Nhóm thứ nhất bao gồm các nguồn thông tin được trên 90% số đại biểu sử dụng gồm có: thông tin của các cơ quan thuộc Quốc hội, cơ quan hành pháp, hành chính nhà nước; các cơ quan truyền thông báo chí. Nhóm thứ hai gồm những nguồn thông tin từ các viện nghiên cứu, trường đại học, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội khác được các đại biểu sử dụng ít hơn khá nhiều so với các nguồn trên, nhất là của các tổ chức xã hội dân sự.

Page 33: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 33

Thứ hai, thông tin của các cơ quan, đơn vị phục vụ Quốc hội ở trung ương được tuyệt đại đa số đại biểu sử dụng trong cả ba chức năng lập pháp (97,3%), giám sát (96,9%), nhất là quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước (99,2%). Tỷ lệ đại biểu sử dụng thông tin của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tuy có thấp hơn một chút, nhưng cũng rất cao. Như vậy, đại biểu sử dụng nguồn “nội bộ” nhiều nhất so với các nguồn bên ngoài Quốc hội.

Thứ ba, trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, tỷ lệ đại biểu sử dụng thông tin của các Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND, các cơ quan chính quyền địa phương thấp hơn tỷ lệ đại biểu sử dụng thông tin đơn vị phục vụ Quốc hội ở trung ương và các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ. Có thể là do đây là các vấn đề quan trọng ở tầm quốc gia, vì vậy thông tin của các cơ quan ở cấp quốc gia được sử dụng nhiều hơn.

Thứ tư, nguồn thông tin từ báo chí được rất nhiều đại biểu sử dụng trong cả ba chức năng của Quốc hội (92%, 94% và 91% số đại biểu trả lời phiếu hỏi). Thông tin từ báo chí thường không có tính chất chuyên sâu, ngay cả những bài viết, bài trả lời phỏng vấn của các chuyên gia cũng không thể dài, vì vậy cũng không có điều kiện trình bày kỹ lưỡng, sâu về chuyên môn. Tuy nhiên, nguồn thông tin này vẫn được rất nhiều đại biểu sử dụng, có lẽ vì thường đề cập đến các vấn đề thuộc chương trình làm việc của Quốc hội, được xã hội, cử tri quan tâm nhiều, nhiều nội dung mang tính phản biện, đa chiều. Hơn nữa, ý kiến của các chuyên gia trên báo chí vì ngắn nên đề cập thẳng vào trọng tâm của vấn đề chính sách, mà đây lại chính là mong đợi của ĐBQH khi tiếp nhận thông tin để sử dụng vào hoạt động của mình tại Quốc hội. Nhiều ĐBQH thường sử dụng thông tin từ báo chí để làm cơ sở xuất phát, phát hiện vấn đề, từ đó tìm hiểu sâu hơn qua các nguồn thông tin khác.

Thứ năm, tỷ lệ đại biểu sử dụng nguồn thông tin từ các viện nghiên cứu, trường đại học, các chuyên gia mặc dù khá cao, nhưng thấp hơn khá nhiều so với tỷ lệ đại biểu sử dụng các nguồn thông tin từ Quốc hội, Chính phủ, báo chí (70% trong lập pháp, 65% trong giám sát, 76% trong quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước). Hơn nữa, việc đối chiếu với kết quả trả lời các câu hỏi khác thuộc khảo sát này và những khảo sát khác cho thấy, mặc dù tỷ lệ đại biểu sử dụng thông tin của các viện, trường, chuyên gia khá cao như vậy, nhưng số đại biểu thường xuyên làm việc này không nhiều. Lý do vì quy trình, thủ tục hoạt động của Quốc hội chưa tạo nhiều điều kiện để các chuyên gia tham gia, đồng thời chưa nhiều đại biểu chủ động tham vấn ý kiến chuyên gia. Theo một khảo sát, chỉ có 4,2% đại biểu Quốc hội được hỏi là phản đối với nhận định trên, còn lại là các ĐBQH thẳng thắn thừa nhận thực trạng này34. Điều này đáng lưu ý khi chính các ĐBQH cho biết Quốc hội còn thiếu thông tin chuyên sâu khi thực hiện các chức năng của mình.

6.2. Mức độ quan trọng của các nguồn thông tin

Khai thác sâu hơn về mức độ quan trọng của từng nguồn tin đối với các hoạt động cụ thể của đại biểu, có thể nhận thấy một điểm chung nổi bật là đánh giá của ĐBQH về mức độ quan trọng của các nguồn thông tin tương ứng với thực tế sử dụng các nguồn đó.

Trong các nguồn thông tin (xem thêm trong Bảng dưới đây), thông tin của các cơ quan phục vụ Quốc hội, nhất là ở Trung ương được coi trọng nhất trong cả ba hoạt động lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Chẳng hạn, trong hoạt

34 Trung tâm TT,TV, NCKH, “Báo cáo kết quả điều tra dư luận xã hội về quy trình xây dựng luật, pháp lệnh”, Hà Nội, 2008.

Page 34: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội34

động lập pháp, 100% số đại biểu tham gia khảo sát đều đánh giá nguồn thông tin từ các cơ quan phục vụ Quốc hội ở Trung ương là rất quan trọng hoặc quan trọng; trong hoạt động giám sát, tỷ lệ này cũng xấp xỉ 100%; còn trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, tỷ lệ này khoảng 92%. Trong ba mảng hoạt động, tỷ lệ ĐBQH đánh giá thông tin của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND ở mức độ rất quan trọng và quan trọng cũng rất cao, cụ thể vào khoảng 93%, 96% và 97%. Riêng trong quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, gần 50% đại biểu cho rằng thông tin từ Văn phòng Đoàn ĐBQH địa phương là rất quan trọng, đẩy vai trò của cơ quan phục vụ Quốc hội ở trung ương xuống vị trí thứ 2.

Nhóm thứ hai gồm các nguồn thông tin được cung cấp từ các cơ quan trực thuộc nhà nước khác gồm có các Bộ, ngành ở trung ương và các Sở, ngành ở địa phương, trong đó, thông tin của các Bộ, ngành ở trung ương được coi trọng hơn thông tin của các sở, ngành ở địa phương. Theo đó, tỷ lệ đại biểu coi các Bộ, ngành những nguồn thông tin “rất quan trọng” và “quan trọng” ở cả ba chức năng vào khoảng trên dưới 95%; trong khi đó tỷ lệ tương ứng đối với thông tin của các sở ngành vào khoảng 90%.

Trong nhóm thứ ba, thông tin từ truyền thông, báo chí, cơ quan nghiên cứu, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức dân sự vẫn được coi trọng, nhưng tỷ lệ đại biểu cho rằng đây là những nguồn thông tin rất quan trọng lại thấp. Chẳng hạn, trong hoạt động lập pháp, tỷ lệ này dao động từ 10 - 20% tổng số đại biểu được hỏi. Đặc biệt, có đến hơn 33% số đại biểu được hỏi cho rằng thông tin từ các tổ chức dân sự xã hội là ít quan trọng đối với hoạt động lập pháp. Tương tự, đối với hoạt động giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, cũng có khá nhiều đại biểu đánh giá các nguồn thông tin này ít quan trọng, cụ thể là hơn 25% và gần 30%.

Page 35: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 35

Bảng 7: Đánh giá của ĐBQH về mức độ quan trọng của các nguồn thông tin (tỷ lệ %)

Nguồn

thông tin

Lập pháp Giám sát Quyết định

Rất quan trọng

Quan trọng

Ít quan trọng

Rất quan trọng

Quan trọng

Ít quan trọng

Rất quan trọng

Quan trọng

Ít quan trọng

Cơ quan phục vụ Quốc hội ở TƯ

44,1 55,9 0,0 45,9 53,7 0,4 29,9 62,5 7,6

Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND

33,9 59,2 6,9 38,9 57 4,1 46,3 50,8 2,9

Các Bộ, ngành 32,2 63,8 4,0 31,4 65,9 2,7 25,1 68 6,8

Các Sở, ngành 22,8 67,4 9,8 27,2 67,5 5,3 21,6 65,8 12,6

Báo chí 16,2 68,9 14,9 17,4 73,2 9,4 21,6 65,8 12,6

Viện, trường 15,6 68,2 16,2 13 64,3 22,7 17,9 65,4 16,8

Tổ chức CT-XH 13,6 67,2 19,2 11,5 74 14,6 10,9 68,9 20,2

Tổ chức XHDS 8,9 57,7 33,3 13,4 61,4 25,2 10,5 59,7 29,8

Đánh giá của hai nhóm ĐBKN và ĐBCT đối với hầu hết các nguồn thông tin có sự khác biệt không lớn. Tuy nhiên, đối với một số nguồn thông tin, sự khác biệt này có lớn hơn một chút, ví dụ đối với thông tin từ Tổ chức XHDS trong hoạt động lập pháp, giám sát; đối với nguồn thông tin từ các cơ quan, đơn vị phục vụ Quốc hội ở trong giám sát.

Tỷ lệ CBPVQH đánh giá mức độ quan trọng của các nguồn thông tin có khác nhau. Trong đó, tỷ lệ cao (từ 39,2 đến 45,7%) cán bộ phục vụ đánh giá ở mức độ rất quan trọng đối với các nguồn tin từ nhóm một - các cơ quan nhà nước (cơ quan phục vụ Quốc hội và UBTVQH, Bộ, ngành, các cơ quan thuộc chính quyền địa phương). Nhóm hai (chuyên gia, cơ quan nghiên cứu, các trường đại học, tổ chức CTXH, tổ chức DSXH) cũng đều nhận được sự đánh giá cao (trên 50%) song tỷ lệ cán bộ phục vụ coi những nguồn tin này ít quan trọng cũng tương đối cao (từ 30 đến 40%).

Page 36: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội36

Biểu đồ 7: Ý kiến của CBPVQH về mức độ quan trọng của các nguồn thông tin

0.4 0.1 0.4 0.4 4.9 3.2 1.3 1.7 3.1 2.9 3.5 7.2 14.2 16.4

30 32.1 31.2 39.9

51 52.4 53.2

69.1 68.9

58.2 58.4 59.8 51.4

45.7 44 39.2

16.3 9.8 8.6 8.2 7.3 5.6

0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90%

100%

4. Rất quan trọng

3. Quan trọng

2. Ít Quan trọng

1. Không quan trọng

6.3. đánh giá về chất lượng của các nguồn thông tin

Để đánh giá chất lượng của các nguồn thông tin, nghiên cứu này khảo sát ý kiến của cả CBPVQH và ĐBQH.

Từ phía các cán bộ phục vụ, thông tin từ các cơ quan, đơn vị phục vụ Quốc hội và UBTVQH được đánh giá cao về tính kịp thời (50,8% đánh giá “Kịp thời”). Đối với thông tin từ Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan thuộc Chính phủ và thông tin từ các cơ quan, sở ban ngành địa phương, mức độ đánh giá có giảm, trên 50% cho rằng 2 nguồn thông tin này chỉ đáp ứng được tính kịp thời ở mức “Trung bình”, tỷ lệ đánh giá các thông tin này là “Chậm” tăng hơn rất nhiều (tương ứng 9,6% và 8,1%) so với thông tin từ các cơ quan, đơn vị phục vụ Quốc hội và UBTVQH (chỉ 0,7%).

Nhìn chung, các thông tin do các cơ quan thuộc hệ thống nhà nước cung cấp đều đáp ứng yêu cầu của các cán bộ phục vụ. Tuy nhiên, vẫn có thể thấy rõ sự vượt trội hơn của các cơ quan, đơn vị phục vụ Quốc hội và UBTVQH với 64,2% số cán bộ cho rằng các thông tin được đơn vị này cung cấp “Đáp ứng phần lớn” yêu cầu, cao hơn so với các nguồn thông tin còn lại (tương ứng 52,9% và 52,2%).

Page 37: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 37

Bảng 8. Đánh giá của CBPVQH về chất lượng cung cấp thông tin của nhóm cơ quan thuộc Nhà nước

CQ – đơn vị phục vụ Qh và UBTVQh

CP, Bộ, CQ ngang bộ và CQ thuộc

CP

CQđP, các CQ, cơ sở trực thuộc

CQđP

Tỷ lệ CB sử dụng TT 98,2% 94,4% 95,8%

Tính kịp thời của nguồn TT

Kịp thời

Trung bình

Chậm

Rất chậm

50,8%

48,2%

0,7%

0,3%

31,6%

58,6%

9,6%

0,2%

39,1%

51,3%

8,1%

1,5%

Mức độ đáp ứng yêu cầu của nguồn TT

Đáp ứng hoàn toàn

Đáp ứng phần lớn

Đáp ứng một phần

Không đáp ứng

8,5%

64,2%

27,3%

0%

8,3%

52,9%

38,6%

0,2%

9,6%

52,2%

38,2%

0%

Trong nhóm các nguồn thông tin còn lại (xem bảng dưới đây), chất lượng thông tin nhìn chung được phần lớn đánh giá tương đối khả quan. Các nhóm Thông tin đại chúng, Cơ quan nghiên cứu, trường đại học và chuyên gia, được đánh giá với thang đo “Khá” và “Tốt” đều trên 70%, cao hơn các nhóm còn lại. Chất lượng thông tin từ các tổ chức CTXH và tổ chức XHDS được đánh giá thang đo tương tự ở mức thấp hơn, tương ứng 65,5% và 59,6%, còn lại là chất lượng trung bình và kém.

Thông tin từ phương tiện truyền thông đại chúng vẫn được coi là nguồn tốt nhất đáp ứng yêu cầu thông tin của CBPVQH. Cụ thể, nguồn này dẫn đầu trong việc đáp ứng hoàn toàn và phần lớn (37,4%), một phần (62%) và không đáp ứng (0,6%). Các nguồn tiếp theo (cơ quan nghiên cứu, trường đại học và chuyên gia, tổ chức CTXH và tổ chức XHDS), đáp ứng ở mức độ thấp hơn theo thứ tự liệt kê trên.

Page 38: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội38

Bảng 9. Đánh giá của CBPVQH về thông tin của các chủ thể ngoài Nhà nước

TT đại chúng

Trường đh, viện

Chuyên gia

Tổ chức CTXh

Tổ chức XhDS Khác

Tỷ lệ cán bộ sử dụng TT

Thường xuyên

Thỉnh thoảng

Hiếm khi

Không

54%

40%

4,7%

1,3%

14,6%

59,4%

19,4%

6,6%

10,8%

54,7%

22,9%

11,6%

18,2%

53,9%

22,4%

5,5%

10,4%

50,4%

27%

12,2%

24,5%

58,5%

5,7%

11,3%

Chất lượng TT

Rất tốt

Tốt

Khá

Trung bình

Kém

6%

30,6%

40,1%

23,1%

0,2%

2,6%

33,3%

38,2%

25,1%

0,8%

2,7%

31%

41,3%

24,9%

0%

3,8%

20,2%

41,5%

33,7%

0,8%

1,1%

19,6%

38,9%

39,1%

1,3%

4,8%

27,4%

38,8%

29%

0%

Mức độ đáp ứng yêu cầu của nguồn TT

Hoàn toàn

Phần lớn

Một phần

Không đáp ứng

3,9%

33,5%

62%

0,6%

2,5%

28,4%

67%

2,1%

2%

25,9%

70,6%

1,5%

3,7%

19,4%

73,8%

3,1%

2%

17,8%

76,4%

3,8%

6,5%

29%

64,5%

0%

Page 39: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 39

Từ phía các ĐBQH, chất lượng thông tin của ‘Viện nghiên cứu lập pháp’ và ‘Hội đồng Dân tộc, Ủy ban và các Ban’ được đánh giá tốt với tổng tỷ lệ cán bộ đánh giá “Tốt” và “Khá” cao nhất, 82,3% và 79,1% tương ứng. Trong khi đó, tỷ lệ ĐBQH đánh giá ở hai mức độ này đối với ‘Văn phòng Đoàn ĐBQH tại địa phương’ có thấp hơn, vào khoảng 71%.

Biểu đồ 8. ĐBQH đánh giá chất lượng của thông tin từ các cơ quan, đơn vị trong Quốc hội

17.7 27.5 20.9 25.3

46.1 38.5 51.7 47.7

35.8 32.8 27.4 26.6

0

20

40

60

80

100

120

Tốt

Khá

Trung bình

Kém

Bên cạnh đó, các đại biểu tham dự các cuộc toạ đàm, cả đại biểu Quốc hội và cán bộ phục vụ đều cho rằng, các thông tin do các cơ quan có chức năng cung cấp thông tin của Quốc hội (Viện Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội) đều được sử dụng làm nguồn tin chính thống cho các đại biểu khi tham gia góp ý thảo luận về các vấn đề nêu ra tại diễn đàn Quốc hội.

Đối với các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương và địa phương, thông tin từ các cơ quan này về cơ bản đều đáp ứng các yêu cầu của Đại biểu, dù mức độ đáp ứng đối với các Đại biểu là khác nhau. Tuy nhiên, số lượng đại biểu cho biết các Sở, ban ngành địa phương đáp ứng hoàn toàn các yêu cầu của mình cao hơn đối với các bộ, cơ quan ngang bộ trực thuộc Chính phủ.

Đối với các phương tiện thông tin đại chúng, chất lượng thông tin từ đài PTTH và các ấn phẩm, tạp chí, báo trung ương được đánh giá cao. Khoảng 70% số Đại biểu đánh giá thông tin từ các nguồn này là “Khá” và “Tốt”. Các nguồn còn lại có chất lượng thấp hơn, mức đánh giá “Trung bình” đối với các ngành này chiếm khoảng 50% số ý kiến của đại biểu.

Đối với các nguồn thông tin khác, trên 70% đại biểu đánh giá khá tốt về chất lượng thông tin do cơ quan chủ quản cung cấp. Đặc biệt, mặc dù thông tin từ chuyên gia độc lập nhận được ít nhất số người sử dụng song lại được đánh giá cao về chất lượng, sau sự tín nhiệm thông tin từ cơ quan chủ quản. Hai cơ quan này có tỷ lệ Đại biểu đánh giá cao nhất ở cả 2 mức độ: “Khá” (50,8% và 54,8%), và “Tốt” (26,4% và 15,6%). Tiếp theo là thông tin từ cơ quan nghiên cứu, trường đại học, cử tri; và Các tổ chức chính trị - xã hội được đánh giá ở mức tương đương. Xấp xỉ 60% số các đại biểu đánh giá thông tin từ các nguồn này là “Khá”

%

%

%

%

%

%

%

Page 40: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội40

và “Tốt”. Xếp cuối cùng là nguồn thông tin từ Các tổ chức dân sự, chất lượng của những thông tin này nhìn chung không cao. 58,1% số Đại biểu đánh giá những nguồn này ở mức “Trung bình” và “Kém”.

Biểu đồ 9. Đánh giá về chất lượng thông tin từ các tổ chức, cá nhân

22.8 40.4

27.4 41.7 40.1

52.2

50.8

43.5 54.8

46.1 50 36

26.4 14.9 15.6 11 8.6 5.9

0

20

40

60

80

100

120

CQ chủ quản CQ NC/trường ĐH

Chuyên gia độc lập

Cử tri Tổ chức CT - XH

Tổ chức XHDS

Tốt

Khá

Trung bình

Kém

7. đáp ứng nhu cầu thông tin của đBQh theo các chức năng

Nghiên cứu này cũng tìm hiểu đánh giá của ĐBQH về thực trạng đáp ứng nhu cầu thông tin của đại biểu trong các hoạt động lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng và tiếp xúc cử tri.

7.1. Trong hoạt động lập pháp

Trong hoạt động lập pháp, đa số các đại biểu cho rằng thông tin hỗ trợ cho các hoạt động lập pháp ở mức trung bình. Tuy nhiên, các đại biểu đánh giá cao nhất về việc cung cấp các tài liệu hỗ trợ cho Công tác thảo luận và biểu quyết thông qua luật ở hội trường với 49,6% cho rằng lượng tài liệu này là “Nhiều”, tiếp theo là đối với hoạt động Thẩm tra dự án luật (37,6%), Lấy ý kiến ở địa phương về dự án luật (28,8%). Thấp nhất là tài liệu hỗ trợ cho hoạt động Đưa ra sáng kiến pháp luật với chỉ 4,7% số đại biểu cho là được cung cấp “Nhiều”. Đồng thời, thông tin cho tài liệu này cũng được tỷ lệ cao nhất (44%) Đại biểu cho rằng rất ít được cung cấp.

Tuy nhiên ý kiến của các nhóm đại biểu về thông tin hỗ trợ hoạt động này có sự khác biệt rõ rệt với 39,5% tỷ lệ ĐBKN cho rằng các thông tin hỗ trợ Đưa ra sáng kiến pháp luật còn ít trong khi 56,7% ĐBCT đánh giá như vậy. Tương tự, sự khác biệt cũng rõ rệt đối với các thông tin về Thẩm tra dự án luật. Chỉ 32,8% số Đại biểu kiêm nhiệm đánh giá thông tin là “Nhiều”, trong khi đó tỷ lệ này bên phía Đại biểu chuyên trách cao hơn hẳn (50%).

Tương ứng với lượng thông tin cung cấp nhiều là sự đáp ứng nhu cầu thông tin. Nhìn chung,

Page 41: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 41

các đại biểu đều thấy rằng các nhu cầu thông tin đều được đáp ứng phục vụ cho hoạt động lập pháp ở các mức độ khác nhau, ngoại trừ thông tin cho hoạt động Đưa ra sáng kiến luật có 24,4% đại biểu cho rằng “Không đáp ứng”, chiếm tỷ lệ cao nhất so với thông tin cung cấp cho các hoạt động lập pháp khác. Ngược lại, thông tin về Thảo luận và biểu quyết thông qua luật ở Hội trường được đáp ứng đầy đủ nhất với 11,4% đại biểu cho là đáp ứng ở mức độ “Hoàn toàn”, và 58% cho là đáp ứng ở mức độ “Phần lớn”. Còn sự khác biệt trong mức độ hài lòng của hai nhóm ĐBCT và ĐBKN về thông tin được cung cấp được mô tả chi tiết trong biểu đồ dưới đây.

Biểu đồ 10. Đánh giá của ĐBKN và ĐBCT về mức độ đáp ứng của thông tin được cung cấp phục vụ hoạt động lập pháp

22 31.1

5.6 4.5 4.5 1.4 1.7 0

51.8 49.2

49.7 48.5 37.4 48.6

25.7 39.4

24.4 16.4

40.2 42.4 51.4

42.9

61.5 48.5

1.8 3.3 4.5 4.5 6.7 7.1 11.2 12.1

0%

10%

20%

30%

40%

50%

60%

70%

80%

90%

100%

ĐBKN ĐBCT ĐBKN DBCT ĐBKN ĐBCT ĐBKN ĐBCT

Đưa ra sáng kiến luật

Góp ý, lấy ý kiến về dự án luật ở địa

phương

Thẩm tra dự án luật Thảo luận và biểu quyết thông qua luật

Đáp ứng hoàn toàn

Đáp ứng phần lớn

Đáp ứng 1 phần

Không đáp ứng

7.2. đối với hoạt động giám sát

Đáp ứng nhu cầu cung cấp thông tin cho các ĐBQH trong hoạt động giám sát, cán bộ phục vụ thường thực hiện các công việc như: tóm tắt quy định pháp luật, chính sách về nội dung/đối tượng giám sát; tổng hợp các vấn đề liên quan đến nội dung/đối tượng giám sát; tham gia viết báo cáo giám sát.

Có thể thấy rõ mức độ đánh giá đồng đều của các cán bộ phục vụ đối với những hoạt động này: xấp xỉ 40% số cán bộ được hỏi đều cho biết họ “Thường xuyên” thực hiện những công việc kể trên để hỗ trợ hoạt động giám sát. Tỷ lệ số cán bộ cho biết họ “Không bao giờ” thực hiện những công việc này cũng thấp hơn so với các hoạt động hỗ trợ lập pháp và đưa ra các quyết định quan trọng (chỉ từ 15 - 18%).

Lượng thông tin được cung cấp cho các hoạt động này được đa số các đại biểu cho là đủ, hầu hết đánh giá ở mức độ “Trung bình” - “Nhiều”, chỉ một phần nhỏ (dưới 20% ở tất cả các nội dung), cho rằng tài liệu là “Ít”. Trong đó, thông tin cung cấp cho hoạt động Xem xét báo cáo đánh giá của cơ quan nhà nước được tỷ lệ đại biểu cao nhất cho là “Nhiều”, và thấp nhất là thông tin cho hai hoạt động Chất vấn và Giám sát giải quyết khiếu nại, đều chỉ

Page 42: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội42

chiếm 22,6%. Sự khác biệt ý kiến giữa 2 nhóm Đại biểu tập trung chủ yếu ở thông tin để tham gia các ‘Đoàn giám sát của UBTVQH và Hội đồng dân tộc, 21,7% ĐBKN cho rằng thông tin hỗ trợ công tác này là “Ít”, trong khi tỷ lệ này ở phía ĐBCT là tương đối thấp, chiếm khoảng 8,8% ý kiến đánh giá.

Tuy nhiên, đánh giá về chất lượng thông tin phục vụ hoạt động giám sát lại chưa được khả quan. Đa số ý kiến cho rằng các tài liệu được cung cấp chỉ “Đáp ứng một phần”, hoặc “Đáp ứng phần lớn” yêu cầu đặt ra. Số đại biểu đánh giá các tài liệu này “Đáp ứng hoàn toàn” chiếm tỷ trọng rất ít (tối đa dưới 10%) cho tất cả các nhóm thông tin được khảo sát. Sự khác biệt ý kiến về chất lượng thông tin thể hiện rõ ở 2 hoạt động: “Tham gia các đoàn giám sát của UBTVQH, HĐDT và các UB” và “Tham gia các đoàn giám sát của Đoàn ĐBQH tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương”.

Biểu đồ 11. Đánh giá của ĐBKN và ĐBCT về mức độ đáp ứng của thông tin phục vụ hoạt động giám sát

8.9 1.5 1.7 1.5 8.9 1.5 4.7 7.4 11.2 7.6

50.6 45.5 42.9 47.8

50.6 45.5

54.1 54.4 51.9 47

33.3 42.4 48 40.3

33.3 42.4

35.5 32.4 31.9 40.9

7.1 10.6 7.3 10.4 7.1 10.6 5.8 5.9 5 4.5

0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90%

100%

ĐBKN ĐBCT ĐBKN DBCT ĐBKN ĐBCT ĐBKN ĐBCT ĐBKN ĐBCT

Đoàn GS của UBTVQH

Xem xét BCCQNN

Đoàn GS của ĐBQH Tỉnh/

Thành

Chất vấn Giám sát giải quyết khiếu nại

Đáp ứng hoàn toàn

Đáp ứng phần lớn

Đáp ứng 1 phần

Không đáp ứng

7.3. đối với quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước

Đối với việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, hơn 80% Đại biểu cho rằng họ đều được cung cấp tài liệu cho hoạt động ra quyết định bao gồm Quyết định dự toán, quyết toán ngân sách, Quyết định các công trình dự án và Quyết định các vấn đề quan trọng khác. Tuy nhiên, tỷ lệ cho là thông tin được cung cấp “Nhiều” cho các loại hình này không cao, chỉ chiếm xấp xỉ từ 22% cho đến 28%, trong khi tỷ lệ cho rằng mức độ cung cấp là “Trung bình” tương đối cao, chiếm khoảng 60% đến 66%, và tỷ lệ cho rằng các hoạt động này được cung cấp ít thông tin cũng chiếm gần tương đương nhau, từ 12% đến 17%. Sự khác biệt ý kiến giữa các nhóm Đại biểu về các nguồn thông tin hỗ trợ hoạt động này nhìn chung không đáng kể.

Mức độ đáp ứng thông tin của các tài liệu cho hoạt động ra quyết định cũng được đánh giá tương đối đồng đều nhau. Tỷ lệ cho là đáp ứng hoàn toàn cũng như không đáp ứng tương đối thấp, ở mức từ 6 - 8%, đáp ứng phần lớn chiếm 32 - 37% và đáp ứng một phần chiểm tỷ lệ từ 49% đến 57%.

Page 43: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 43

Biểu đồ 12. Đánh giá của ĐBKN và ĐBCT về mức độ đáp ứng của thông tin được cung cấp phục vụ quyết định các vấn đề quan trọng

7.5 4.3 6.9 4.4 7.3 8.6

45.4 56.5 54.3 58.8 55.6 51.4

38.5 31.9 32.4 30.9 30.3 35.7

8.6 7.2 6.4 5.9 6.7 4.3

0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90%

100%

ĐBKN ĐBCT ĐBKN ĐBCT ĐBKN ĐBCT

Quyết toán NSNN QĐ các vấn đề quan trọng

QĐ các công trình, DA

Đáp ứng hoàn toàn

Đáp ứng phần lớn

Đáp ứng 1 phần

Không đáp ứng

7.4. đối với hoạt động tiếp xúc cử tri

Tương tự như việc cung cấp thông tin cho các hoạt động đã được miêu tả ở trên, lượng thông tin được cung cấp cho công tác Tiếp xúc cử tri được hơn 90% số đại biểu đánh giá ở mức “Trung bình” và “Nhiều”. Đồng thời, chất lượng thông tin nói chung đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng với 10,7% cho rằng hoàn toàn đáp ứng, 46% cho rằng đáp ứng phần lớn và 41% cho rằng đáp ứng một phần. Ý kiến giữa các nhóm Đại biểu về thông tin trong hoạt động này nhìn chung khá tương đồng.

Để phục vụ cho ĐBQH trong Tiếp xúc cử tri, nhiệm vụ cơ bản của CBPVQH trong việc cung cấp thông tin bao gồm: Tóm tắt kết quả kỳ họp Quốc hội; Tổng hợp kiến nghị từ cử tri; và Tổng hợp tình hình giải quyết các kiến nghị (đã nêu trong những lần tiếp xúc cử tri trước). Trong số 3 nhiệm vụ trên, 2 nhiệm vụ được đông đảo các Cán bộ “Thường xuyên” thực hiện là Tổng hợp kiến nghị từ cử tri (41,4%) và Tổng hợp tình hình giải quyết các kiến nghị (44,1%). Chỉ khoảng 30% số Cán bộ “Hiếm khi” hay “Không” thực hiện những nhiệm vụ này. Tỷ lệ này tương đối khác biệt so với Tóm tắt kết quả kỳ họp Quốc hội, khi chỉ có 30% “Thường xuyên” thực hiện nhiệm vụ này, gần 50% “Hiếm khi” và “Không” làm, 21,5% “Thỉnh thoảng” thực hiện công việc theo phân công.

7.5. đánh giá từ phía CBPVQh

Kết quả khảo sát về đánh giá của CBPVQH về mức độ đáp ứng của các thông tin họ cung cấp đối với công việc của ĐBQH được mô tả trong biểu đồ dưới đây. Kết quả thu được từ khảo sát điều tra từ các CBPVQH có nét tương đồng với kết quả thu được từ phía ĐBQH. Ngoài một số cán bộ không có ý kiến về vấn đề này (từ 5,4% đến 12,4%), đa số các cán bộ cho ý kiến rằng những thông tin họ cung cấp “Đáp ứng một phần” - hoặc “Đáp ứng phần lớn” yêu cầu của Đại biểu. Số phần trăm cho rằng thông tin mình cung cấp “Đáp ứng hoàn toàn” yêu cầu của đại biểu là nhỏ (dao động từ 5 - 10%). Khoảng 5% cán bộ cho biết, các thông tin họ cung cấp “Không đáp ứng” yêu cầu.

Page 44: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội44

Biểu đồ 13. Đánh giá của cán bộ phục vụ về mức độ đáp ứng yêu cầu của thông tin cho ĐBQH

5.9 4.6 6.1 4.3 3 2.8 2.6 2.1 1.5

41.4 42.5 41.9 42.2 45.4 39.3 42.7 31.8 29.1

35.1 33.5 31.9 37.5 34.5 42.5 39.3 49.7 50

12.4 12.4 12.2 10.1 9.2 7.3 7.2 6.4 5.6

0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90%

100%

Không ý kiến

Đáp ứng hoàn toàn

Đáp ứng phần lớn

Đáp ứng 1 phần

Không đáp ứng

Kết quả này nhất quán với kết quả trả lời một câu hỏi khác của khảo sát này, theo đó 85% cán bộ cho là thông tin do do các cơ quan, đơn vị phục vụ Quốc hội cung cấp cho ĐBQH có chất lượng tốt. Tuy nhiên, cũng có gần 72% cho rằng thông tin cơ quan, đơn vị phục vụ Quốc hội thu thập được còn mang tính một chiều, chưa đa dạng; 54,7% cho rằng các cơ quan, đơn vị phục vụ Quốc hội cung cấp thông tin cho Đại biểu chưa kịp thời.

Đánh giá ở phạm vi tổng thể hơn, 78% cán bộ cho rằng năng lực của cán bộ hỗ trợ, phục vụ công tác chuyên môn cho ĐBQH còn hạn chế so với yêu cầu công việc. Bên cạnh đó, theo đánh giá của gần 90% số cán bộ trả lời phiếu hỏi, số lượng cán bộ hỗ trợ, phục vụ công tác chuyên môn cho ĐBQH ở trung ương còn ít so với khối lượng công việc; tương tự, 69% cán bộ đồng ý rằng số lượng cán bộ hỗ trợ, phục vụ công tác chuyên môn cho Đại biểu QH tại địa phương còn ít so với khối lượng công việc. Đa số người trả lời phiếu hỏi cũng nhận định, các cán bộ phục vụ, hỗ trợ chuyên môn chưa được trang bị đầy đủ máy móc, thiết bị phục vụ tìm kiếm, tiếp cận, xử lý thông tin. Đây là những yếu tố về năng lực có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng thông tin phục vụ ĐBQH.

Page 45: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 45

IV. Một số kiến nghị

Từ sự phân tích ở các mục trên về nhu cầu, khuôn khổ pháp luật, thực trạng cung cấp, tiếp nhận thông tin của ĐBQH, phần này đề xuất một số kiến nghị để đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin của ĐBQH.

1. Sửa đổi khuôn khổ pháp lý

Để có cơ sở hợp pháp cải tiến việc cung cấp thông tin cho ĐBQH, nâng cao chất lượng hoạt động cung cấp thông tin cho các ĐBQH, trước hết cần sửa đổi, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến vấn đề này. Đó là những văn bản quy phạm pháp luật như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nội quy kỳ họp, Quy chế hoạt động của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và của ĐBQH, các văn bản quy định về tổ chức, hoạt động của các cơ quan phục vụ Quốc hội. Cụ thể, cần tiến hành những công việc sau:

Thứ nhất, sửa đổi các quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong việc cung cấp thông tin và gửi các loại tài liệu cho ĐBQH. Một mặt, cần có quy định chặt chẽ hơn, ràng buộc trách nhiệm hơn, vì lâu nay mặc dù đã có quy định, nhưng như nhiều ĐBQH đã phản ánh, công việc này chưa được thực hiện nghiêm túc, nhất là việc gửi tài liệu cho ĐBQH còn rất chậm. Cần nghiên cứu quy định rõ trách nhiệm đối với những cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân không thực hiện đầy đủ, không kịp thời, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu.

Mặt khác, không phải lúc nào bản thân ĐBQH cũng có thời gian, điều kiện để yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin. Trong khi đó, lâu nay các đơn vị trong Văn phòng Quốc hội, Viện Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND chỉ có thể “lấy” được thông tin từ các chủ thể bên ngoài Quốc hội bằng các mối quan hệ cộng tác, tùy thuộc vào ý muốn của các chủ thể đó. Vì vậy, một ĐBQH đã đề xuất trao cho các cơ quan, đơn vị phục vụ nói trên thẩm quyền thay mặt ĐBQH yêu cầu các chủ thể cung cấp thông tin mà đại biểu cần35. Đề xuất này đã được đưa vào phiếu hỏi và nhận được sự đồng tình của 81% số ĐBQH trả lời, đặc biệt là của hơn 94% cán bộ phục vụ. Tỷ lệ cán bộ đồng ý với đề xuất này rất cao vì nếu được quy định và thực hiện, nó sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc để các cơ quan, đơn vị phục vụ thuộc Quốc hội thu thập thông tin có hiệu quả hơn.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa khung pháp luật về công tác bảo đảm phục vụ hoạt động của Quốc hội, trong đó đặc biệt quan trọng là việc cung cấp thông tin, dịch vụ nghiên cứu phục vụ Quốc hội. Nghị quyết về một số giải pháp đổi mới một số hoạt động của Quốc hội đã đề ra những phương hướng chung, làm cơ sở để xây dựng các giải pháp cụ thể hơn trên phương diện này.

Thứ ba, cần có một khuôn khổ pháp luật chi tiết tạo cơ sở để đổi mới bộ máy giúp việc của Quốc hội theo hướng chuyên trách, chuyên sâu và chuyên nghiệp hơn. Không phải ngẫu nhiên ngay bản thân cán bộ giúp việc, 99% số người trả lời cũng cho rằng cần tăng

35 Tọa đàm tại Hà Nội, ngày 5/9/2012.

Page 46: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội46

cường nhân lực cán bộ phục vụ Quốc hội, các ĐBQH. Điều này một phần vì khối lượng công việc hiện nay đang quá tải so với nguồn nhân lực36, nhưng một phần khác vì năng lực chưa đáp ứng hết yêu cầu.

Văn phòng giúp việc cho Đoàn đại biểu Quốc hội có vị trí, vai trò rất quan trọng, nhưng thời gian vừa qua thiếu ổn định, mô hình không giống nhau, đội ngũ cán bộ thiếu và yếu, không có cán bộ chuyên sâu37. Như nhiều ĐBQH đề nghị, cần sớm tổng kết Nghị quyết 545 và xác định mô hình Văn phòng đoàn đại biểu Quốc hội cho rõ, cụ thể hơn, nhất là địa vị pháp lý38. Khá nhiều đại biểu đề nghị tách văn phòng đoàn đại biểu Quốc hội như khóa XI để hoạt động của bộ phận giúp việc cho Đoàn ĐBQH chuyên nghiệp hơn. Mặt khác, cán bộ Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND phải là những người tinh thông nghiệp vụ; những chuyên gia tư vấn về những vấn đề, những nội dung người đại biểu cần nắm bắt được.

Ngoài ra, cần nghiên cứu khả năng tạo điều kiện để sớm mỗi đại biểu có thể có một người trợ lý giúp việc cho mình (do đại biểu chọn thuê). Việc có trợ lý giúp việc riêng cho đại biểu có thể khắc phục được tính hình thức trong hoạt động của không ít đại biểu. Trong quá trình thảo luận về Đề án đổi mới hoạt động của Quốc hội, nhiều ĐBQH cho rằng, cần bố trí thư ký riêng cho đại biểu Quốc hội không chỉ ở Trung ương mà ở các địa phương; hoặc ít nhất nên bố trí cán bộ giúp việc cho tất cả các đại biểu Quốc hội chuyên trách ở cả trung ương, địa phương39. Tương tự như vậy, trong khảo sát này, đề xuất ‘Có thư ký/trợ lý riêng cho từng ĐBQH’ nhận được tỷ lệ tán thành cao từ phía đại biểu (84,5% đại biểu trả lời phiếu hỏi. Có ý kiến đề nghị, mỗi ĐBQH cần được cấp một khoản kinh phí để có thể hợp đồng được ít nhất với một người giúp việc (do đại biểu lựa chọn theo yêu cầu công việc). Kinh phí này do cơ quan tài chính - kế toán của Văn phòng Quốc hội và Văn phòng Đoàn ĐBQH quản lý và chi theo lệnh của ĐBQH40. Tuy nhiên, đáng chú ý là số cán bộ đồng ý với đề xuất này không cao lắm (65,1%).

Thứ tư, đối với khoảng hơn 30% đại biểu làm nhiệm vụ chuyên trách, công tác thông tin, tham mưu, tư vấn nên xem đây như là một đối tượng đặc thù cần có hình thức, cung cách riêng cung cấp thông tin riêng. Như việc so sánh ý kiến của hai nhóm ĐBCT và ĐBKN cho thấy, mặc dù về tổng thể nhiệm vụ như nhau, nhu cầu tương tự nhau, nhưng ĐBCT có những nhu cầu riêng biệt về thông tin. Trong khi đó, họ chưa có bộ máy, chưa có người giúp việc, khi làm nhiệm vụ đại biểu chuyên trách “tự thân vận động” là chính. Tình hình đó đòi hỏi phải có một chế độ cung cấp, xử lý thông tin riêng để giúp đại biểu tận dụng tối đa hoàn cảnh chuyên trách về mặt thời gian và trách nhiệm. Hiện nay, theo quy định mới, các ủy viên chuyên trách của HĐDT và các Ủy ban của Quốc hội được cấp một khoản kinh phí để thuê chuyên gia hỗ trợ về những nội dung mà đại biểu thấy cần thiết. Biện pháp hỗ trợ đại biểu này cần được kiểm chứng qua thực tế để tiếp tục hoàn thiện về cách thức hỗ trợ, lượng kinh phí hỗ trợ… Ngoài ra, cũng cần nghiên cứu để áp dụng một số cơ chế hỗ trợ đặc thù khác.

36 Xem ý kiến của cán bộ phục vụ trong khảo sát này về khối lượng công việc hiện nay.37 Ý kiến của ĐBQH thảo luận về Đề án Đổi mới một số hoạt động của Quốc hội, 11/2012.38 Ý kiến của ĐBQH thảo luận về Đề án Đổi mới một số hoạt động của Quốc hội, 11/2012; ý kiến của ĐBQH và

cán bộ phục vụ tại các cuộc tọa đàm trong khuôn khổ nghiên cứu này năm 2012.39 Ý kiến của ĐBQH thảo luận về Đề án Đổi mới một số hoạt động của Quốc hội, 11/2012.40 Bùi Ngọc Thanh, Về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Quốc hội,

bài viết cho hội thảo Mô hình các cơ quan giúp việc của Quốc hội, Quảng Ninh, 9/2012.

Page 47: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 47

2. Thay đổi cách thức tổ chức việc cung cấp thông tin

Để hoạt động cung cấp thông tin phục vụ các đại biểu tốt hơn, việc tổ chức cung cấp thông tin cần được đổi mới. Đại đa số ĐBQH và cán bộ trả lời phiếu hỏi (khoảng 97 - 98%) đều cho rằng cần cải tiến quy trình tiếp nhận, xử lý thông tin cho ĐBQH hiện nay.

Thứ nhất, cần giải quyết mâu thuẫn giữa dung lượng thông tin quá lớn trong kỳ họp, không hấp thu hết, với tình trạng thiếu thông tin trong thời gian giữa hai kỳ họp. Để làm điều này, trước hết, có thể kéo dãn, rải đều việc cung cấp thông tin, tránh dồn vào một thời điểm. Cần chú ý cung cấp thông tin trong thời gian giữa hai kỳ họp vì đại biểu sẽ có nhiều thời gian đề nghiên cứu về những vấn đề mà họ quan tâm. Đồng thời, Quốc hội cần kiên quyết hơn trong việc yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan gửi sớm các tài liệu kỳ họp. Biên soạn các dạng tài liệu tóm tắt súc tích về các vấn đề thuộc chương trình kỳ họp cũng là một giải pháp để giúp đại biểu nhanh chóng nắm bắt, “hấp thu” tốt hơn các nội dung cốt lõi của kỳ họp.

Thứ hai, các đơn vị có chức năng cung cấp thông tin (Viện Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND) cần chủ động nắm bắt tình hình và nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội cả ở trung ương và địa phương. Ngoài những hình thức cung cấp thông tin theo yêu cầu của đại biểu, cần chủ động phân tích dự kiến các thông tin mà đa số các đại biểu có thể cần trong việc thảo luận và cho ý kiến tại diễn đàn Quốc hội sắp tới. Thông tin này cần bám sát chương trình hoạt động của Quốc hội, đồng thời gắn với các vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc đang được cử tri quan tâm, cập nhật liên tục để cung cấp kịp thời nguồn tài liệu tham khảo cho ĐBQH. Cần có một cơ chế phản hồi thích hợp từ phía đại biểu Quốc hội nhằm nâng cao chất lượng tin đáp ứng được các yêu cầu về nội dung tài liệu.

Thứ ba, như nhiều ĐBQH đề xuất, cần xây dựng Quy chế phối hợp về cung cấp, trao đổi thông tin giữa các cơ quan, đơn vị trong Quốc hội; đồng thời tiếp tục cải thiện Quy trình tiếp nhận yêu cầu thông tin của đại biểu và cung cấp thông tin đến đại biểu để có tính tổng thể, đúng nhu cầu, tránh trùng lặp41. Nên có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan phục vụ Quốc hội ở trung ương với các Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND và có hình thức phát huy vai trò phục vụ, tham mưu của các văn phòng đối với từng đại biểu.

Thứ tư, để phát huy được hiệu quả cung cấp thông tin tại địa phương, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND cần thực hiện được một số nhiệm vụ quan trọng. Một là, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND là cánh tay nối dài của VPQH và Viện Nghiên cứu lập pháp, giúp các đại biểu ở địa phương tiếp cận được các dịch vụ thông tin, nghiên cứu mà các cơ quan này hiện có. Hai là, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND giúp các đại biểu Quốc hội ở địa phương tiếp cận các vấn đề ở địa phương thông qua vai trò tham mưu, xây dựng chương trình làm việc, tổ chức các hoạt động, đầu mối tập hợp tri thức. Ba là, Văn phòng xây dựng và tổ chức tốt đội ngũ cộng tác viên về nghiên cứu, tư vấn các vấn đề liên quan tới các thông tin phục vụ Đoàn ĐBQH từ các cán bộ chuyên môn ở các Sở, ban, ngành, các chuyên gia.

41 Ý kiến của ĐBQH tại các cuộc tọa đàm ở Quảng Trị, 18/7/2012 và Hà Nội, 5/9/2012; Xem thêm: Tài liệu của hội thảo Mô hình cơ quan giúp việc của Quốc hội, Quảng Ninh, 9/2012; Phùng Hương, Cần phối hợp để đáp ứng nhu cầu thông tin cho đại biểu Quốc hội, báo Đại biểu nhân dân, ngày 16/12/2012, có tại: http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=81&NewsId=267085

Page 48: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội48

Vị trí, vai trò của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho các đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm công tác ở cơ sở, không giữ trọng trách cao ở địa phương và không tham gia là thành viên cơ quan nào của Quốc hội vì các đại biểu này rất ít thông tin. Nhất là với các đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số và mới tham gia Quốc hội lần đầu kỹ năng phân tích và xử lý thông tin còn nhiều khó khăn. Nhu cầu thông tin với các đại biểu chuyên trách ở địa phương cũng cần được chú ý nhiều hơn bởi vì trong thời gian giữa hai kỳ họp thì họ là người trực tiếp thu thập, xử lý các thông tin liên quan đến Quốc hội tại địa phương.

3. hoàn thiện tính chất, nội dung thông tin cần cung cấp

Một trong những đề xuất nổi bật có thể rút ra qua nghiên cứu này là tính chất, nội dung thông tin cần cung cấp cho ĐBQH. Các phần trước của báo cáo này đã chỉ ra khoảng cách giữa nhu cầu thông tin của đại biểu với thực trạng thông tin mà đại biểu hiện đang có. Như vậy, rất cần có những giải pháp bù đắp khoảng cách này, nhất là sự thiếu hụt các thông tin đã qua xử lý kỹ lưỡng, cô đọng, có tầm chính sách. Các khuyến nghị dưới đây hướng đến tất cả các cơ quan, đơn vị, cá nhân cung cấp thông tin cho ĐBQH, nhưng chú trọng hơn đến các chủ thể trong Quốc hội gồm có Văn phòng Quốc hội, Viện Nghiên cứu lập pháp, các Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND.

Trước hết, với các chức năng liên quan đến quyết định chính sách và giám sát thực thi chính sách, thông tin cần được cung cấp cho ĐBQH là các vấn đề ở tầm chính sách, không chỉ dừng ở những con số, sự kiện, ý kiến thô, mà nâng lên thành những phát hiện về chính sách, ví dụ dự báo tác động của chính sách đến các nhóm dân cư trên các mặt kinh tế, xã hội, môi trường..; phân tích chi phí trong mối tương quan với lợi ích của chính sách v.v... Cần biết cách chuyển những thông tin chuyên ngành, các con số thống kê, các quy định mang tính kỹ thuật chuyên sâu thành ngôn ngữ chính sách rõ ràng, hữu ích cho các ĐBQH có cơ sở thảo luận, quyết định, giám sát. Do những vấn đề cần xử lý vừa ở tầm chính sách, vừa có tính chất sự việc, vai trò của các cơ quan, đơn vị cung cấp thông tin là bảo đảm cung cấp cho ĐBQH thông tin tối ưu gồm những yếu tố sau: những khía cạnh cụ thể của chính sách (cần làm những gì?), những hệ quả của nó (ai sẽ được lợi, ai sẽ chịu thiệt?) và viễn cảnh thực hiện chính sách (những cơ hội nào?)”. Đặc biệt, đối với những lĩnh vực không chuyên, các đại biểu cần đến loại thông tin kết hợp được cả sự đánh giá tầm quan trọng của vấn đề, cả nội dung của nó, phạm vi phổ biến và mối quan hệ với những vấn đề khác.

Thứ hai, thông tin phải cung cấp được chứng và lý. Liên quan đến quá trình ra quyết sách nói chung và ra quyết sách của chính quyền, có khái niệm gọi là quá trình ban hành chính sách dựa trên chứng lý42. Đó là một quá trình mà những người có quyền quyết định về chính sách được cung cấp những chứng lý tốt nhất hiện có; chứng lý được coi là tâm điểm của quá trình ban hành chính sách. Trong quá trình này, các chứng lý được chuyển thành các phương án chính sách để các nhà quyết định chính sách lựa chọn. Đây là một tiêu chí then chốt để cung cấp thông tin về các vấn đề đang được đưa ra thảo luận, quyết định tại Quốc hội, hoặc về các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. (Xem thêm Hộp dưới đây).

42 Marco Segone & Nicolas Pron, The Role of Statistics in Evidenced – Based Policy Making, Geneva, May 2008.

Page 49: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 49

hộp 3: Chứng và lý trong thông tin phục vụ đBQh

y Bao gồm cả định tính (ý kiến, quan điểm, sự việc, câu chuyện…), định lượng (số liệu thô, tinh);

y Chứng lý phải chứng minh được luận điểm;

y Chứng lý phải đáng tin cậy: rõ nguồn, chính xác, cập nhật, toàn diện…

y Những điển hình tốt, xấu được dẫn chứng phải thực sự liên quan, tiêu biểu; liên hệ kinh nghiệm tương tự;

y Những vấn đề chuyên môn sâu nên trích dẫn ý kiến của chuyên gia, nhà nghiên cứu.

Thứ ba, thông tin cần đa dạng hơn, nhiều chiều hơn, như cung cấp về các thông tin mang tính chuyên đề như đánh giá các chỉ số, cung cấp thông tin chuyên đề của từng lĩnh vực cụ thể phục vụ cho việc thảo luận về tình hình kinh tế xã hội, các thông tin mang tính tham khảo kinh nghiệm của các nước, các thông tin về kinh tế xã hội của từng vùng, từng địa phương.v.v... Cần quan tâm hơn tới các thông tin mang tính chuyên đề, có đánh giá chuyên sâu về các lĩnh vực dự kiến được đưa ra tại kỳ họp gần nhất.

Thứ tư, đại biểu thiếu thời gian, đều là những người có ít thời gian đọc các văn bản dài, chi tiết. Cơ chế hỗ trợ thông tin cho ĐBQH cần giúp đại biểu xác định trọng tâm của thông tin. Dù truyền đạt thông tin trực tiếp bằng miệng hay gián tiếp bằng văn bản, cần rõ ràng, cụ thể, ngắn gọn, nêu bật các vấn đề chính sách nổi lên. Thông tin tiết kiệm thời gian, công sức cho đại biểu là loại thông tin trả lời trực tiếp vào câu hỏi “có” hay “không” khi biểu quyết.

Thứ năm, căn cứ trên mối quan tâm của ĐBQH thể hiện qua các ý kiến và trả lời phiếu hỏi, có thể xác định những ngành, lĩnh vực cần tập trung ưu tiên hơn trong cung cấp thông tin như: Kinh tế - Tài chính - Ngân sách; Nông nghiệp; Giáo dục - đào tạo; Đất đai - Xây dựng - Quy hoạch; Y tế - Chăm sóc sức khỏe và Lao động - Việc làm. Tuy nhiên, cũng không nên bỏ trống thông tin trong những lĩnh vực khác, mà vẫn cần phải luôn chủ động tìm kiếm, thu thập, phân tích thông tin về các lĩnh vực đó để cung cấp cho đại biểu khi cần thiết, trong đó chủ động tăng cường thông tin về khía cạnh văn hóa, môi trường trong chính sách. Bên cạnh đó, việc phân tích các con số thống kê về hoạt động của Quốc hội qua các năm cho thấy, thông tin phục vụ hoạt động lập pháp chiếm tỷ lệ nhiều hơn về dung lượng, thời gian, kinh phí so với thông tin phục vụ giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.

Page 50: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội50

4. hoàn thiện các hình thức cung cấp thông tin

Để chuyển tải các nội dung trên, các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin cho ĐBQH cần đa dạng hoá các hình thức cung cấp thông tin phù hợp đến các đại biểu. Các loại phương tiện sau thường được sử dụng để truyền đạt thông tin ở cơ quan lập pháp.

y Truyền đạt thông tin bằng văn bản viết - đây là kênh truyền đạt thông tin thông dụng nhất đang được sử dụng ở nhiều nơi, trong đó có Quốc hội Việt Nam. Qua ý kiến trực tiếp của đại biểu, cũng như phiếu hỏi, có thể thấy, các hình thức văn bản như: tóm tắt nội dung các đề án, nêu những vấn đề chính, cốt yếu của các dự án luật, giới thiệu những vấn đề và ý kiến khác nhau, lý lẽ của sự khác nhau; cung cấp những tài liệu tham khảo các nước dưới dạng tóm tắt… sẽ hỗ trợ đại biểu rất nhiều, nhất là các đại biểu kiêm nhiệm hoặc đại biểu không có chuyên môn sâu.

Phân tích chi tiết hơn nhu cầu của đại biểu và hiện trạng các hình thức cung cấp thông tin cho thấy, nói chung, cần chú ý biên soạn các báo cáo phân tích, đánh giá và dự báo chuyên sâu, có thể kèm phụ lục; đồng thời cần có những báo cáo tóm tắt đã qua xử lý cô đọng, súc tích, trực diện hơn, khoảng 5 - 6 trang. Đây là nhu cầu thực sự của đại biểu, nhưng lại chưa được đáp ứng đầy đủ trên thực tế, nhất là loại báo cáo ngắn.

Có thể biên soạn các ấn phẩm nghiên cứu hoặc theo yêu cầu của HĐDT, các Ủy ban, các Đoàn ĐBQH, cá nhân ĐBQH, hoặc chủ động có các ấn phẩm dưới dạng các báo cáo. Các báo cáo này lấy thông tin từ các nguồn tài liệu khác nhau để phân tích, điều tra hiện trạng, dự báo và đánh giá sát thực tiễn. Các báo cáo này không cần, thậm chí không nên đưa ra khuyến nghị mà chỉ tập trung vào phân tích, đánh giá sự kiện và hiện tượng, gợi mở hướng suy nghĩ hơn là đúc rút kết luận. Đồng thời dạng tài liệu này cần phải trực tiếp, sát thực, giúp các ĐBQH có được những thông tin chính xác và kịp thời, hình thành quan điểm đối với những vấn đề cụ thể, là căn cứ để đưa ra các quyết định đúng đắn.

Đặc biệt, đối chiếu với nhu cầu của ĐBQH, các cơ quan, đơn vị phục vụ Quốc hội có thể chủ động hoặc theo đặt hàng cụ thể của ĐBQH, các Ủy ban để biên soạn các báo cáo chính sách ngắn (policy brief). Theo kinh nghiệm của nghị viện các nước, báo cáo này có thể được lập theo một đề cương thông dụng như sau: các khái niệm và nguyên tắc cơ bản (1/2 trang); thông lệ tại Việt Nam và các quốc gia tương đương (1/2 trang); các vấn đề và các lựa chọn cho Việt Nam (1 trang); những kinh nghiệm tốt cần áp dụng (2 trang); các bài học cần tránh (1 trang). Ví dụ minh hoạ dưới đây giúp nắm được rõ hơn các nội dung trong báo cáo chính sách ngắn.

Page 51: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 51

hộp 4: Ví dụ về báo cáo chính sách ngắn43

Báo cáo chính sách ngắn về cải cách thuế thu nhập doanh nghiệp

y Các khái niệm và nguyên tắc cơ bản: Sự khách quan của hệ thống thuế đối với loại hình tổ chức doanh nghiệp, lựa chọn về tài chính - nợ hay vốn sở hữu, lựa chọn về tài sản và lĩnh vực đầu tư. Để khuyến khích đầu tư, đầu tư tăng thêm (đầu tư biên) phải được miễn phí. Công tác nghiên cứu và phát triển đòi hỏi phải có sự khuyến khích đặc biệt do ngoại ứng của hoạt động đầu tư trong lĩnh vực này, sự không cân xứng về thông tin giữa bên cấp vốn đầu tư và chủ đầu tư.

y So sánh: Hệ thống thuế TNDN của Việt Nam so với Ma-lai-xia, Xing-ga-po, Hồng Công, Trung Quốc, In-đô-nê-xia, và Thái Lan.

y Các kinh nghiệm tốt cần áp dụng: Thuế suất thấp nhưng cơ sở thuế rộng, khấu trừ thuế chuyển vốn về nước. Một số ưu đãi thuế có thể đem lại hiệu quả: xác định một phần hoặc toàn bộ khoản đầu tư là chi tiêu, hoặc cho phép khấu hao nhanh hoặc tín dụng thuế đầu tư hoặc các ưu đãi đầu tư khác. Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cơ chế thuế của cả quốc gia tiếp nhận và quốc gia đầu tư đều quan trọng.

y Những điều cần tránh: Thời kỳ miễn thuế, thuế suất cho doanh nghiệp nhỏ khác với lớn. Giảm thuế suất tạm thời.

Bên cạnh đó, theo kết quả khảo sát, trong hoạt động lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng, cần cung cấp các loại tài liệu khác được nhiều đại biểu đánh giá “rất cần thiết” và “cần thiết” gồm có: Số liệu thống kê; văn bản pháp luật liên quan; tổng hợp ý kiến ĐBQH về dự án luật đang được đưa ra thảo luận tại Quốc hội; báo cáo điều tra xã hội học; phân tích, so sánh với pháp luật các nước. Trong hoạt động giám sát, cũng cần chú ý hơn đến việc cung cấp các dạng tài liệu: tóm tắt quy định pháp luật, chính sách về nội dung giám sát; tổng hợp các vấn đề liên quan đến nội dung giám sát; tổng hợp ý kiến ĐBQH, số liệu thống kê. Trong tiếp xúc cử tri, loại tài liệu cần được ưu tiên biên soạn gồm có: Tóm tắt kết quả kỳ họp Quốc hội; tình hình giải quyết kiến nghị cử tri đã nêu trong lần tiếp xúc trước; tổng hợp các vấn đề cử tri quan tâm; cập nhật tình hình địa phương; chủ trương, chính sách mới.

y Truyền đạt thông tin trực tiếp - Nhiều quyết định được đưa ra dựa trên những thông tin thu được thông qua trao đổi cá nhân và báo cáo miệng. Chuyển tải thông tin trực tiếp sẽ truyền thông điệp nhanh hơn và linh hoạt hơn. Nếu thực hiện tốt, biện pháp này có thể đem lại hiểu biết tốt hơn và thảo luận thẳng thắn hơn về các phát hiện. Trong số các ĐBQH có nhiều người là lãnh đạo ở các cơ quan khác nhau, cả trong và ngoài Quốc hội, và nhiều cán bộ phục vụ đã có nhiều dịp phải báo cáo miệng với lãnh đạo về những nội dung khác nhau. Cần tận dụng các cơ hội này để cung cấp thông tin cho các

43 Theo tài liệu của Anwar Shah soạn cho “Dự án Tăng cường năng lực giám sát ngân sách của các cơ quan dân cử Việt Nam”, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội Việt Nam và Chương trình Phát triển Liên hợp quốc, Hà Nội, 2013.

Page 52: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội52

ĐBQH phục vụ hoạt động tại Quốc hội. Bên cạnh đó, có thể học hỏi kinh nghiệm của đơn vị phụ trách về thông tin, nghiên cứu của nghị viện nhiều nước, đó là mở dịch vụ tư vấn trực tiếp cho nghị sỹ về các vấn đề chính sách theo yêu cầu của nghị sỹ44.

y Truyền thông điện tử - ngày nay, xu hướng tiếp cận và sử dụng thư điện tử và Internet phát triển mạnh mẽ giúp cho thông tin các phát hiện tới các cơ quan liên quan ở các cấp nhanh chóng hơn. Thông tin có thể được gửi bằng thư điện tử hoặc các văn bản kèm theo thư điện tử, các bản tin điện tử được gửi qua thư điện tử hoặc đăng trên các trang web, trang web có các đường kết nối đến tất cả những thông tin theo dõi.

y Cần sử dụng công nghệ thông tin để cung cấp thông tin cho đại biểu, đảm bảo kịp thời về mặt thời gian và trực tiếp đến người cần thông tin như: gửi qua email của đại biểu, của Văn phòng các tỉnh; đưa các tài liệu dành cho đại biểu lên mạng nội bộ (khoảng 95% ĐBQH được hỏi cho rằng cần làm việc này), xây dựng ngân hàng dữ liệu thông tin Quốc hội trên cơ sở xây dựng kết cấu mạng thông tin Quốc hội nói chung. Có thể cung cấp địa chỉ tìm kiếm (thư viện, đường link; địa chỉ đơn vị cung cấp thông tin chuyên sâu…) giúp ĐBQH chủ động tìm kiếm thêm các kênh thông tin mà mình cần tiếp cận. Đồng thời, các thông tin đưa trên mạng của Quốc hội cần đa dạng và phong phú hơn, đáp ứng đúng yêu cầu của đại biểu hơn.

5. Cải tiến việc cung cấp thông tin theo các chức năng

Qua việc phân tích ở mục 7, Phần III, có thể nhận thấy những điểm cần cải tiến trong việc cung cấp thông tin theo các chức năng cho ĐBQH. Trước hết, bản thân trong cán bộ phục vụ, vẫn còn khoảng 30% đến gần 50% số người cho rằng những thông tin họ cung cấp mới “đáp ứng một phần” hoặc “không đáp ứng” yêu cầu về thông tin tùy thuộc vào loại thông tin cung cấp theo chức năng. Trong đó, tỷ lệ cán bộ có ý kiến như vậy đối với các tài liệu về ngân sách nhà nước, các dự án, công trình trọng điểm, các vấn đề quan trọng khác có tỷ lệ cao hơn so với các loại tài liệu khác. Do đó, từ đánh giá của chính cán bộ phục vụ, cần chú ý cải tiến chất lượng thông tin của tất cả các dạng tài liệu để đáp ứng tốt hơn yêu cầu công việc, nhất là các tài liệu liên quan đến chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.

Mặt khác, từ ý kiến của ĐBQH, trong cả ba chức năng đều cần phải cải tiến cả chất lượng và tăng dung lượng thông tin, vì vẫn còn tỷ lệ đại biểu khá cao cho rằng thông tin chưa đủ và mới đáp ứng một phần yêu cầu thông tin. Trong mỗi chức năng, những điểm sau đây cần chú ý:

Thứ nhất, trong việc cung cấp thông tin về lập pháp, cần đặc biệt tăng cường cả dung lượng và chất lượng thông tin phục vụ đại biểu đưa ra sáng kiến pháp luật, nhất là đối với đại biểu chuyên trách, vì tỷ lệ đại biểu đánh giá chưa tốt đối với dạng thông tin này nhiều nhất. Thông tin phục vụ việc góp ý, lấy ý kiến về các dự án luật của Đoàn ĐBQH cũng cần được chú ý cải tiến.

44 Xem: Jennifer Tanfield (Ed), Parliamentary Liberary, Research and Information Services of Western Europe, London, 2000.

Page 53: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 53

Thứ hai, trong việc cung cấp thông tin phục vụ giám sát, mặc dù đa số đại biểu cho là đủ về mặt dung lượng, nhưng đánh giá về chất lượng thông tin lại chưa được khả quan. Tỷ lệ đại biểu cho rằng thông tin mới “đáp ứng một phần” và “không đáp ứng” yêu cầu là khá cao, nhất là đối với thông tin phục vụ chất vấn và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, tỷ lệ này vào khoảng 60%. Đây là những điểm yếu cần chú ý cải tiến hơn trong thông tin phục vụ giám sát.

Thứ ba, theo ý kiến của đa số đại biểu, dung lượng thông tin phục vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước vẫn chưa nhiều. Đặc biệt, vẫn còn khá nhiều đại biểu cho rằng, thông tin phục vụ quyết định NSNN, các công trình, dự án trọng điểm, các vấn đề quan trọng khác đều mới chỉ “đáp ứng một phần” hoặc thậm chí “không đáp ứng”. Như vậy, tương tự như ý kiến của bản thân cán bộ văn phòng, từ đánh giá của ĐBQH, đây là các loại thông tin trong mảng này đều cần chú ý tăng cường cả về dung lượng và chất lượng.

6. Nâng cao hiệu quả của các nguồn thông tin

Qua nghiên cứu này, có thể rút ra một số kiến nghị sau đây liên quan đến tám nguồn thông tin phục vụ ĐBQH được khảo sát trong nghiên cứu này (xem lại Mục 6, phần III).

Thứ nhất, mặc dù mức độ đánh giá của ĐBQH đối với từng nguồn thông tin có khác nhau, nhưng tất cả các nguồn thông tin đó đều đóng vai trò nhất định đối với hoạt động ở Quốc hội. Vì vậy, một cách tổng quan, không nên bỏ qua một nguồn nào, và đối với từng nguồn cần có cách sử dụng phù hợp. Có thể là tùy những trường hợp cụ thể, cần ưu tiên nguồn này hơn nguồn khác. Chẳng hạn, các tài liệu từ các cơ quan trình dự án luật, cơ quan thẩm tra là không thể thiếu, vì đây là những nguồn chính thống, đã được quy định trong luật. Nhưng bên cạnh đó, ĐBQH cũng cần có thêm thông tin từ các cơ quan, đơn vị phục vụ, từ các chuyên gia, nhân dân để kiểm chứng thông tin từ cơ quan trình.

Thứ hai, các nguồn “nội bộ” gồm có Văn phòng Quốc hội, Viện Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND được ĐBQH sử dụng nhiều nhất, được coi trọng nhất, có nghĩa là được kỳ vọng nhiều nhất45. Các nguồn này cũng được đánh giá cao về mức độ đáp ứng yêu cầu so với các nguồn khác. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chất lượng thông tin của các nguồn “nội bộ” đã ở mức độ hoàn hảo. Vẫn còn một tỷ lệ khá cao (dao động xung quanh 70%) ĐBQH và bản thân cán bộ phục vụ đánh giá, chất lượng thông tin của các nguồn này ở mức khá hoặc trung bình, mới đáp ứng một phần yêu cầu công việc. Như vậy, ưu tiên ở đây là nâng cao năng lực các cơ quan, đơn vị cung cấp thông tin thuộc Quốc hội để đáp ứng kỳ vọng của ĐBQH, sau đó hướng đến nghiên cứu sử dụng các nguồn khác. Như đã trình bày, để được đánh giá tốt, đáp ứng yêu cầu, cần cải tiến cách thức tổ chức, nội dung, hình thức cung cấp thông tin.

Thứ ba, để đáp ứng nhu cầu của ĐBQH đối với thông tin từ các cơ quan nhà nước ngoài Quốc hội, các tài liệu của các cơ quan hữu quan cần được gửi đúng thời hạn, đầy đủ, đảm bảo yêu cầu của ĐBQH về chất lượng như đầy đủ, chính xác, cập nhật, khách quan. Các cơ quan này phải cung cấp Báo cáo đánh giá tác động chính sách với các mức độ khác nhau

45 Thực tế này cũng tương tự như ở nghị viện các nước, nơi nghị sỹ coi các nguồn thông tin do “người nhà” cung cấp là quan trọng nhất và sử dụng nhiều nhất. Xem thêm: Jennifer Tanfield, tlđd.

Page 54: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội54

theo qui định của pháp luật. Đây là nguồn thông tin được coi là chính thống, nhưng cũng cần đối chiếu với các nguồn thông tin khác để có tầm nhìn đa dạng, bao quát hơn trong hoạt động ở Quốc hội.

Thứ tư, nhằm đáp ứng nhu cầu của ĐBQH đối với thông tin đã qua phân tích chuyên sâu, bù đắp sự thiếu hụt dạng thông tin này, rất cần sử dụng nguồn thông tin từ các viện nghiên cứu, trường đại học, chuyên gia độc lập. Để làm việc này, trước hết cần tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa về quy trình, thủ tục, kinh phí, thu hút sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học vào hoạt động của Quốc hội. Tiếp đó, bản thân ĐBQH cũng cần nhận thức rõ hơn về vai trò của các chuyên gia, nhà khoa học và chủ động tìm kiếm, xây dựng các mối quan hệ với giới chuyên môn. Mặt khác, các cơ quan như Văn phòng Quốc hội, Viện Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND có thể làm đầu mối, tập hợp các chuyên gia uy tín trong các lĩnh vực, làm cầu nối chuyển tri thức đến các ĐBQH. Trong đó, Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND có thể làm nhiều việc hơn để thiết lập mạng lưới chuyên gia ở địa phương phục vụ yêu cầu thông tin của ĐBQH.

Thứ năm, thực tế cho thấy, ĐBQH sử dụng rất nhiều thông tin từ báo chí trong hoạt động ở Quốc hội. Tuy nhiên, thông tin từ báo chí lại cần phải được kiểm chứng, mà đại biểu nhiều khi không có điều kiện để làm việc này. Như vậy, để phát huy công dụng, có thể tổng hợp thông tin từ báo chí ở mức độ chuyên sâu về các vấn đề mà đại biểu quan tâm, chứ không chỉ dừng ở mức điểm báo. Nhất là cần tổng hợp ý kiến, các bài viết của các chuyên gia trên báo chí, hoặc sử dụng các ý kiến, bài viết đó trong các sản phẩm thông tin cung cấp cho ĐBQH. Cũng cần nhân rộng cách làm của một số ĐBQH là dùng thông tin của báo chí để làm xuất phát điểm, phát hiện vấn đề, từ đó tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn qua các nguồn thông tin khác để phục vụ cho việc thảo luận, chất vấn, giải trình v.v…

7. Tăng cường năng lực, nhân lực về thông tin

Nâng cao năng lực cho cả ĐBQH và cán bộ phục vụ, tăng cường nguồn nhân lực là một trong những giải pháp có thể tăng hiệu quả cung cấp, tiếp nhận thông tin của ĐBQH. Giải pháp này nhận được sự đồng ý cao từ cả hai nhóm đại biểu và cán bộ phục vụ (khoảng 95-97% số người trả lời phiếu hỏi).

Bên cạnh nâng cao năng lực cá nhân, cần tăng cường nguồn nhân lực phục vụ chuyên môn cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH. Bởi lẽ, như khảo sát này cho thấy, đa số cán bộ phục vụ cho rằng, khối lượng công việc hiện tại đang quá tải so với nguồn lực hiện có. Cần đảm bảo sự cân đối giữa tỷ lệ công chức làm nghiên cứu tham mưu và công chức, viên chức phục vụ về hành chính - hậu cần46. Đồng thời, để đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi của việc xây dựng một Quốc hội hiện đại, theo hướng chuyên nghiệp thì cần phải thu hút được nhiều người làm chuyên môn giỏi để tham mưu, giúp việc cho Quốc hội.

Cần nâng cao năng lực, đổi mới phương thức hoạt đông thu thập, sử dụng thông tin của ĐBQH và của cán bộ phục vụ. ĐBQH cần được trang bị các kỹ năng thông tin cần thiết để không bị sa vào “mê hồn trận” thông tin; biết cách chọn lọc thông tin cần thiết. Tương tự

46 Văn phòng Quốc hội, Tài liệu hội thảo Mô hình tổ chức cơ quan giúp việc của Quốc hội, Quảng Ninh, 20-21/9/2012.

Page 55: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 55

như vậy, cán bộ phục vụ cần có phương pháp làm việc tốt, phân công rành mạch, kỹ năng tổng hợp, tóm tắt tư liệu để vượt qua “sự quá tải” của chính mình và không làm “nặng tải” cho ĐBQH, tránh cung cấp nhiều thông tin thô, dài dòng, thiếu tầm chính sách.

Biểu đồ 14. Các kỹ năng ĐBQH cần nâng cao năng lực

0

20

40

60

80

100

Tổng hợp, phân tích đánh

giá

Tìm kiếm, khai thác TT

Phát biểu, điều hành thảo luận

Kỹ thuật XDVBPL

Sử dụng máy tính, mạng

90.2

68.4 54.1 53.6

27.1

Trong số các kỹ năng cần thiết đối với đại biểu, Biểu đồ trên đây cho thấy, ‘Kỹ năng tổng hợp, phân tích, đánh giá thông tin’ được 90,2% các đại biểu chú trọng, chiếm tỷ lệ cao nhất. Như vậy, kết quả này có mối tương quan với kết quả trả lời các câu hỏi khác, theo đó, đại biểu rất quan tâm, muốn nhận được thông tin đã “tinh chế”, qua xử lý. Các kỹ năng được các đại biểu mong muốn tiếp theo được thể hiện trong biểu đồ. Kết quả này gợi ý cho các cơ quan, đơn vị thuộc Quốc hội những nội dung cần bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực về thông tin cho đại biểu.

Về các kỹ năng cần thiết nâng cao đối với CBPVQH, nhìn chung, cán bộ phục vụ và ĐBQH có sự đánh giá tương đồng (xem biểu đồ dưới đây). Kết hợp ý kiến của cả hai nhóm, có thể thấy cần tập trung hơn vào việc nâng cao 5 kỹ năng sau liên quan đến việc cung cấp thông tin cho ĐBQH: phân tích đánh giá tính khả thi của các dự án luật; tìm kiếm, phân tích, tổng hợp thông tin; dự báo, đánh giá tác động của chính sách, pháp luật; tổng hợp/tóm tắt tài liệu; kỹ thuật xây dựng văn bản. Một lần nữa, có thể nhận thấy mối tương quan giữa các kỹ năng này và yêu cầu của ĐBQH về thông tin chuyên sâu, đã qua xử lý, mang tầm chính sách, phục vụ đại biểu hoạt động tại nghị trường. Đối với các kỹ năng khác, cần chọn lọc những cán bộ phục vụ có nhiệm vụ hay phải làm những công việc liên quan đến các kỹ năng đó để nâng cao năng lực.

%

%

%

%

%

%

Page 56: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội56

Biểu đồ 15. Ý kiến của ĐBQH và cán bộ phục vụ về các kĩ năng mà cán bộ phục vụ cần nâng cao năng lực

0 10 20 30 40 50 60 70 80 90

89.8 82.3 79.7 75.9

50.8 44.4

39.6

15.8 12.5

69.2 68.8 74.5

63.6 61.9

45.5 37.7 33.8 35.5

Ngoài ra, theo đánh giá của cán bộ phục vụ, trong khi điều kiện về phương tiện, máy móc dành cho ĐBQH để đáp ứng nhu cầu thông tin của đại biểu đã đầy đủ, thì điều kiện về mặt này đối với cán bộ phục vụ vẫn còn thiếu, nhất là đối với cán bộ phục vụ ở địa phương. Như vậy, bên cạnh việc nâng cao năng lực về chuyên môn, cần bổ sung các điều kiện làm việc cho cán bộ phục vụ để họ có thể đáp ứng yêu cầu công việc.

%%%%%%%%%%

Page 57: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội 57

Danh mục tài liệu tham khảo

A. Văn kiện

1. Luật Tổ chức Quốc hội 2001.

2. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008.

3. Luật hoạt động giám sát của Quốc hội 2003.

4. Nghị quyết số 27/2012/QH13 về một số cải tiến, đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.

5. Nội quy kỳ họp của Quốc hội.

6. Nghị quyết số 417/2003/NQ-UBTVQH11 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Quốc hội.

7. Nghị quyết số 618/2013/NQ-UBTVQH13 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 417/2003/NQ-UBTVQH11 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Quốc hội.

8. Nghị quyết số 614/2008/NQ-UBTVQH11 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc thành lập Viện Nghiên cứu lập pháp.

9. Nghị quyết số 545/2007/UBTVQH12 ngày 11/12/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thành lập và quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu, tổ chức của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

10. Nghị quyết số 773/2009/UBTVQH12 ngày 30/3/2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định một số chế độ chi tiêu tài chính phục vụ hoạt động của Quốc hội.

11. Các Quy chế hoạt động của UBTVQH, HĐDT và các Ủy ban, Đoàn ĐBQH và ĐBQH.

B. Sách, báo, tạp chí

1. Nguyễn Mạnh Cường, Thực trạng và những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của bộ máy giúp việc Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, http://ttbd.gov.vn/Home/Default.aspx?portalid=52&tabid=108&catid=515&distid=2465; Hà Nội, 2011.

2. Đoàn Thư ký kỳ họp, Báo cáo tổng hợp ý kiến của đại biểu Quốc hội thảo luận tại Tổ về kinh tế -xã hội và NSNN, kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII, 28/5/2013.

3. Phùng Hương, Cần phối hợp để đáp ứng nhu cầu thông tin cho đại biểu Quốc hội, báo Đại biểu nhân dân, ngày 16/12/2012.

4. IPU, Report from the Conference: Informing Democracy: Building capacity to meet parliamentarians’ information and knowledge needs, Geneva, 2009.

Page 58: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hội58

5. Nguyễn Đình Lộc, Nhu cầu và nội dung công tác thông tin, nghiên cứu phục vụ Quốc hội, bài viết cho hội thảo của Trung tâm Thông tin, thư viện và nghiên cứu khoa học, 2002.

6. Ngô Văn Minh, Thực trạng, cách thức tổ chức giúp việc của Văn phòng Đoàn ĐBQH ở Việt Nam và một số giải pháp, bài viết cho hội thảo Mô hình các cơ quan giúp việc của Quốc hội, Quảng Ninh, 9/2012.

7. Marco Segone & Nicolas Pron, The Role of Statistics in Evidenced - Based Policy Making, Geneva, May 2008.

8. Bùi Ngọc Thanh, Về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Quốc hội, bài viết cho hội thảo Mô hình các cơ quan giúp việc của Quốc hội, Quảng Ninh, 9/2012.

9. Jennifer Tanfield (Ed), Parliamentary Liberary, Research and Information Services of Western Europe, London, 2000.

10. Trung tâm TT,TV, NCKH, Báo cáo kết quả điều tra dư luận xã hội về quy trình xây dựng luật, pháp lệnh, Hà Nội, 2008.

11. Trung tâm TT, TV, NCKH, Hoạt động của Quốc hội trong năm 2012 qua các số liệu thống kê, Hà Nội, 2013.

12. Hoàng Văn Tú, Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện Nghiên cứu lập pháp, bài viết cho hội thảo Mô hình các cơ quan giúp việc của Quốc hội, Quảng Ninh, 20-21/9/2012.

13. Văn phòng Quốc hội, Tổ chức và hoạt động của Quốc hội một số nước, Phần V: Bộ máy giúp việc Quốc hội, Hà Nội, 2002.

14. Văn phòng Quốc hội & EU, Báo cáo Kết quả điều tra dư luận xã hội về quy trình xây dựng luật, pháp lệnh, Hà Nội, 2008.

15. Văn phòng Quốc hội & UNDP, Báo cáo nghiên cứu Đổi mới tổ chức và hoạt động của Văn phòng Quốc hội, Hà Nội, 2011.

16. Văn phòng Quốc hội, tài liệu hội thảo Mô hình các cơ quan giúp việc của Quốc hội, Quảng Ninh, 9/2012.

17. VUSTA, hội thảo “Vai trò của Liên hiệp Các Hội khoa học - kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) trong hoạt động giám sát của Quốc hội”, Hà Nội, 12/2011.

Page 59: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Responsible for pulishing: Nguyen Hoang CamPrint 200 units, dimension (cm): 20.5 at 30

Registration publishing plan number: 1386-2013/CXB/12-235/LĐXHPublishing permit number: 685/QĐ-NXBLĐXH. Printed and archived in the 4th Quarter of 2013

Printed: LUCK HOUSE GRAPHICS LTD. • Tel: (84-4) 6266 1523 • Email: [email protected]

27-09

Page 60: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

#10-03 Prime Centre • 53 Quang Trung Street • Ha Noi, Viet NamTel: + 84 (4) 3943-3263 • Fax: + 84 (4) 3943-3257 • Email: [email protected]

W W W.ASIAFOUNDATION.ORG

Page 61: Báo cáo nghiên cứu nhu cầu thông tin của đại biểu Quốc hộiasiafoundation.org/resources/pdfs/Improvingthe... · 2014-06-17 · Báo cáo nghiên cứu nhu cầu

Hà Nội, 2012 - 2013

Báo cáo nghiên cứunhu cầu thông tin của đại biểu

Quốc hội

University of Economics and Law