110
1 LỜI NÓI ĐẦU Kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua 11 kỳ Đạ i hội. Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận những thắng lợi, thành tựu và những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, để bảo đảm vai trò lãnh đạo của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó hoàn thiện phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Hướng đến mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân ch, công bằng, văn minh”. Thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kiện chính trị trọng đại trong năm 2011. Đây là Đại hội thứ sáu của thời kỳ đổi mới và là Đại hội đầu tiên vào thập niên thhai của thế kỷ XXI với chủ đề: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Thư viện Tỉnh biên soạn tập thông tin chuyên đề: “Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI”, với mong muốn phục vụ một cách tốt nhất theo nhu cầu đa dạng của bạn đọc từ nhiều hình thức cung cấp thông tin. Đồng thời cùng bạn đọc tìm hiểu thêm về nội dung Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng, Nhà nước ta trong xu thế hội nhập, đổi mới và phát triển. Tập thông tin được sưu tầm thu thập nhiều nguồn từ các bài viết được đăng trên báo - tạp chí, trên mạng Internet… và trình bày dưới dạng toàn văn, bà i trích, bài tóm tắt chi tiết được chia thành ba phần : Phần 1 : Tiến trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thXI Phần 2 : Một số kết quĐại hội Đảng toàn quốc lần thXI Phần 3 : Đưa Nghquyết của Đảng vào cuộc sống Trong quá trình sưu tầm, biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong bạn đọc và các bạn đồng nghiệp chia sẻ, đóng góp ý kiến. Chân thành cám ơn! THƯ VIỆN TỈNH NINH THUẬN

LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

  • Upload
    others

  • View
    12

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

1

LỜI NÓI ĐẦU

Kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua 11 kỳ Đại hội. Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận những thắng lợi, thành tựu và những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, để bảo đảm vai trò lãnh đạo của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó hoàn thiện phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Hướng đến mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kiện chính trị trọng đại trong năm 2011. Đây là Đại hội thứ sáu của thời kỳ đổi mới và là Đại hội đầu tiên vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI với chủ đề: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.

Thư viện Tỉnh biên soạn tập thông tin chuyên đề: “Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI”, với mong muốn phục vụ một cách tốt nhất theo nhu cầu đa dạng của bạn đọc từ nhiều hình thức cung cấp thông tin. Đồng thời cùng bạn đọc tìm hiểu thêm về nội dung Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng, Nhà nước ta trong xu thế hội nhập, đổi mới và phát triển. Tập thông tin được sưu tầm thu thập nhiều nguồn từ các bài viết được đăng trên báo - tạp chí, trên mạng Internet… và trình bày dưới dạng toàn văn, bài trích, bài tóm tắt chi tiết được chia thành ba phần :

Phần 1 : Tiến trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI Phần 2 : Một số kết quả Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI

Phần 3 : Đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Trong quá trình sưu tầm, biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót.

Rất mong bạn đọc và các bạn đồng nghiệp chia sẻ, đóng góp ý kiến. Chân thành cám ơn!

THƯ VIỆN TỈNH NINH THUẬN

Page 2: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

2

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

PHẦN 1 TIẾN TRÌNH ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ XI

“Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt

Nam diễn ra từ ngày 12 đến ngày 19 tháng 1 năm 2011 đã thông qua nhiều nội dung quan trọng như: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khoá X trình Đại hội XI….”

Page 3: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

3

Ảnh: Chinhphu.vn

Đại hội XI của Đảng họp phiên trù bị

Hôm nay 11-1, phiên trù bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã diễn ra, hoàn tất công tác chuẩn bị cần thiết cho phiên khai mạc sẽ diễn ra long trọng vào sáng mai 12-1.

Trước khi phiên họp bắt đầu, các đại biểu vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặt hoa tại Đài tưởng niệm các Anh hùng, liệt sỹ trên đường Bắc Sơn.

Đồng chí Nguyễn Minh Triết, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước đã điều khiển phiên họp.

Phiên họp đã nghe và thông qua Chương trình Đại hội với các nội dung làm việc quan trọng diễn ra từ ngày 12 đến ngày 19-1.

Các đại biểu cũng bỏ phiếu tán thành Quy chế làm việc trong kỳ Đại hội do đồng chí Hồ Đức Việt, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương trình bày.

Sau đó, toàn thể phiên họp đã bầu Đoàn Chủ tịch Đại hội XI của Đảng gồm 24 đồng chí.

Đoàn Thư ký Đại hội cũng được bầu gồm 5 đồng chí do đồng chí Ngô Văn Dụ, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh văn phòng Trung ương Đảng làm Trưởng đoàn.

Tiếp đó, danh sách Ban thẩm tra tư cách Đại biểu được Đại hội nhất trí thông qua. Trưởng Ban thẩm tra, Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Trung ương Nguyễn Văn Chi đã đọc báo cáo và kết luận về công tác thẩm tra tư cách đại biểu tham dự Đại hội Đảng.

Page 4: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

4

Phiên họp trù bị đã kết thúc tốt đẹp, hoàn tất công tác tổ chức, các bước chuẩn bị cần thiết để Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức khai mạc vào sáng mai, 12-1-2011.

(Nguồn: chinhphu.vn)

Khai mạc trọng thể Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng

Đúng 8 giờ sáng ngày 12-1-2011, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chính thức khai mạc. Chủ đề Đại hội là: "Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại".

Tới dự có các đồng chí nguyên Tổng Bí thư: Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu; nguyên Ủy viên Bộ Chính trị: nguyên Chủ tịch nước: Lê Đức Anh, Trần Đức Lương; nguyên Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải; nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An; các đồng chí nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa II, III, IV, V.

Về dự còn có các mẹ Việt Nam Anh hùng, các nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ tiêu biểu, đại biểu các tôn giáo và 1.377 đại biểu đại diện cho trên 3,6 triệu đảng viên toàn Đảng.

Đại hội đã nhận được 121 điện mừng từ 103 đảng và 14 tổ chức của 69 nước trên thế giới chúc mừng, trong đó, từ các Đảng cầm quyền có: Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Nhân dân Cam-pu-chia, Đảng Cộng sản Cu-ba, Đảng Lao động Triều Tiên; từ các nước châu Âu có: Đảng Cộng sản Ác-mê-ni-a, Đảng Cộng sản A-déc-bai-dan, Đảng Công nhân AI-len, Đảng Cộng sản Anh, Đảng Cộng sản Anh Mác-xít Lê-nin-nít…; từ các nước châu Mỹ có: Đảng Cộng sản Ác-hen-ti-na, Đảng Cộng sản Bra-xin…; từ các nước Trung Đông – châu Phi có: Đảng Mặt trận giải phóng dân tộc An-giê-ri, Đảng Phong trào giải phóng dân nhân Ăng-gô-la; từ các tổ chức có: Hội đồng Hoà bình thế giới, Ủy ban Thường trực Hội nghị quốc tế các chính đảng Châu Á (ICAPP), Ủy ban Thông tin về Dân chủ và Chủ nghĩa xã hội. …

Tham gia Đoàn Chủ tịch Đại hội có đông đủ các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X: Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết,

Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Page 5: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

5

Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Lê Hồng Anh, Phạm Gia Khiêm, Phùng Quang Thanh, Trương Vĩnh Trọng, Lê Thanh Hải, Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn Văn Chi, Hồ Đức Việt, Phạm Quang Nghị, Tô Huy Rứa.

Tham gia Đoàn Chủ tịch Đại hội còn có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Huỳnh Đảm, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Đặng Ngọc Tùng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Nguyễn Quốc Cường, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam; Nguyễn Thị Thanh Hòa, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; các đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Trần Hanh, Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh Việt Nam.

Trong Đoàn Chủ tịch Đại hội có các đồng chí Châu Văn Minh, Giáo sư, Tiến sĩ, Chủ tịch Viện khoa học và công nghệ Việt Nam; Y Mửi, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Kon Tum; Nguyễn Hoài Anh, Tỉnh ủy viên, Bí thư Tỉnh đoàn Bình Thuận.

Đoàn Thư ký Đại hội gồm 5 đồng chí do đồng chí Ngô Văn Dụ, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương làm Trưởng đoàn.

Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết thay mặt Đoàn chủ tịch đọc Diễn văn khai mạc. Trong giờ phút khai mạc trọng thể, Đại hội đã thành kính tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người chiến sỹ lỗi lạc của phong trào giải phóng của các dân tộc thuộc địa và bị áp bức trên toàn thế giới. Diễn văn nhấn mạnh: thực tiễn và thắng lợi của sự nghiệp cách mạng hơn 80 năm qua đã khẳng định tư tưởng vĩ đại của Người, cùng với chủ nghĩa Mác – Lê-nin mãi là nền tảng tư

tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là ngọn cờ tập hợp và đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Diễn văn cũng nhấn mạnh: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng lần này diễn ra trong thời điểm rất có ý nghĩa: những thành tựu đạt được trong 20 năm qua (sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đã trải qua 25 năm, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thực hiện được 20 năm) là rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân có nhiều thay đổi tích cực, sức mạnh quốc gia về mọi mặt được tăng cường, độc lập, tự chủ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Tuy nhiên tình hình trong nước và quốc tế đã, đang và sẽ diễn biến phức tạp, đặt ra những thách thức ngày càng gay gắt với nước ta. Trong bối cảnh đó, Đại hội XI có trách nhiệm lịch sử to lớn trước toàn dân tộc, do vậy, cần nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đề cao tinh thần tự phê bình nghiêm túc để kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện những thành tựu yếu kém, khuyết điểm,

Đồng chí Nguyễn Minh Triết, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước phát biểu

khai mạc Đại hội.

Page 6: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

6

rút ra bài học kinh nghiệm. Từ đó, có quyết định đúng đắn, kịp thời bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011-2020), kế hoạch thực hiện nhiêm vụ 5 năm (2011-2015).

Đại hội vui mừng được đón Đoàn đại biểu các giới nhân dân Thủ đô Hà Nội thay mặt nhân dân cả nước đem theo những tình cảm tốt đẹp nhất, những niềm tin tưởng lớn đến chào mừng Đại hội. Đọc lời chào mừng, đại diện Đoàn đại biểu nhân dân Thủ đô, đồng chí Đào Văn Bình, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hà Nội bày tỏ vui mừng, phấn khởi trước những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới đất nước do Đảng đề xướng và lãnh đạo.

Với tình cảm chân thành thiết tha, nhân dân Thủ đô cùng đồng bào, chiến sỹ cả nước hướng về Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và tin tưởng sâu sắc vào sự thành công của Đại hội, mở ra một thời kỳ phát triển mới, rạng rỡ cho đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu lớn mà Đại hội XI đề ra, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh, hoàn thiện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Thay mặt Đoàn Chủ tịch Đại hội, đồng chí Nguyễn Tấn Dũng chân thành cảm ơn Đoàn đại biểu nhân dân Thủ đô; gửi đến đồng bào, chiến sĩ, cán bộ, đảng viên cả nước và nhân dân Thủ đô lời cảm ơn chân thành và bày tỏ quyết tâm tổ chức Đại hội XI thành công tốt đẹp.

Tổng số đại biểu được triệu tập là: 1.377 đồng chí thuộc 67 đoàn đại biểu. - Trong đó, 158 đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng chính thức và 20 đồng

chí là Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, chiếm 12,93%, trong đó 1 đại biểu bị ốm, xin vắng mặt; 1.188 đại biểu được bầu tại các đại hội đảng bộ trực thuộc Trung ương, chiếm 86,27%; 11 đại biểu ở Đảng bộ Ngoài nước do Bộ Chính trị chỉ định, chiếm 0,80%; 150 đại biểu là nữ, chiếm 10,89%; 167 đại biểu là dân tộc thiểu số, chiếm 12,13%; 196 đại biểu là sĩ quan trong lực lượng vũ trang (quân đội, công an), chiếm 14,23%; 13 đại biểu là Anh hùng lực lượng vũ trang, chiếm 0,94% và 3 đại biểu là Anh hùng Lao động, chiếm 0,22%; 18 đại biểu là nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, chiếm 1,31%; 7 đại biểu là thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú, chiếm 0,51%.

- Về trình độ học vấn: 39 đại biểu là viện sĩ, giáo sư, phó giáo sư, chiếm 2,83%; 202 đại biểu là tiến sĩ, chiếm 14,6%; 227 đại biểu là thạc sĩ, chiếm 16,49%; 919 đại biểu có trình độ cao đẳng, đại học, chiếm 66,74%...

Đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ điều hành phiên khai

mạc Đại hội

Page 7: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

7

- Về trình độ lý luận chính trị: 762 đại biểu có trình độ lý luận cao cấp, chiếm 55,34%; 19 đại biểu có trình độ trung cấp, chiếm 1,38%; 595 đại biểu có trình độ cử nhân, chiếm 43,21%...

- Về độ tuổi: 3 đại biểu trên 70 tuổi, chiếm 0,22%; 1 đại biểu dưới 30 tuổi, chiếm 0,07%; 37 đại biểu từ 30-40 tuổi, chiếm 2,69%; 225 đại biểu từ 41-50 tuổi, chiếm 16,34%; 1.040 đại biểu từ 51-60 tuổi, chiếm 75,53%; 71 đại biểu từ 61-70 tuổi, chiếm 0.22%.

- Tuổi đời bình quân đại biểu là 53,6. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về các Văn kiện Đại hội XI của Đảng do Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X trình bày gồm: Đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng; nhìn lại 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2001 – 2010; 20 năm thực hiện cương lĩnh năm 1991; về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; Quan điểm, mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2010 và phương hướng nhiệm vụ phát triển đất nước năm 2011-2015; Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế; Phát triển văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển; Tăng cường quốc phòng, an ninh, mở rộng hoạt động đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; Đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng.

Đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Báo cáo nhấn mạnh: chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội đề ra.

Đánh giá 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2001 – 2010, báo cáo khẳng định đã đạt được những thành tựu to lớn, rất quan trọng, nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược 2001-2010 đã được thực hiện. Nổi bật là đã duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, bình quân 7,2%/năm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá thực tế gấp 3,4 lần so với năm 2000, GDP bình quân đầu

người năm 2010 đạt 1.168 USD, tiềm lực kinh tế đất nước tăng lên, công tác xây dựng Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực; cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đạt được những kết quả bước đầu.

Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đọc Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa

X về các Văn kiện Đại hội XI của Đảng.

Page 8: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

8

Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh, nước ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, tăng cường.

Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Báo cáo rút ra một số kinh nghiệm:

Một là, trong bất kỳ điều kiện, tình huống nào cũng phải kiên trì thực hiện đường lối, mục tiêu đổi mới. Trên cơ sở đổi mới toàn diện, đồng bộ, có bước đi thích hợp phải gắn với đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Hai là, phải coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững. Ba là, coi trọng kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công

bằng xã hội, gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa. Bốn là, đặc biệt củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức;

nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân .

Năm là, phải nhạy bén trong lãnh đạo, chỉ đạo, kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình mới, tạo sự đồng thuận cao, phát huy sức mạnh cả hệ thống chính trị, toàn xã hội. Trên cơ sở những quan điểm cơ bản và định hướng lớn của Cương lĩnh, xuất phát từ yêu cầu và dự báo tình hình thực tế của đất nước trong thời gian tới, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 được xác định là Chiến lược tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Mục tiêu tổng quát của Chiến lược là: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.

Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X do đồng chí Trương Tấn Sang - Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương khóa X trình bày đã kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; Kiểm điểm về đổi mới phương thức lãnh

Trong đó, nhấn mạnh những ưu điểm về lãnh đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X, về lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, về lãnh, chỉ đạo công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị. Đặc biệt, Bộ Chính trị đã tập trung chỉ đạo chuẩn bị nhiều Đề án trình Ban Chấp hành Trung ương; chủ động đề xuất với Ban Chấp hành Trung ương điều chỉnh, bổ sung kịp thời giải quyết những vấn đề lớn của đất nước. Bộ Chính trị cũng đã tập trung lãnh, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, xây dựng Đảng, chủ động kiến nghị Ban Chấp hành Trung ương có giải pháp kịp thời xử lý những diễn biến mới, phức tạp, cơ bản giữ vững ổn

Page 9: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

9

định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tốc độ tăng trưởng khá trong điều kiện kinh tế thế giới biến động khó lường. Tuy nhiên, Báo cáo cũng chỉ ra những hạn chế như trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, còn có thiếu sót, khuyết điểm trong quản lý kinh tế nên hiệu quả còn thấp.

Nhìn chung, nhiệm kỳ qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa đất nước vượt qua khó khăn, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện; an ninh, quốc phòng được giữ vững, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng được nâng cao, đối ngoại được tăng cường.

Chiều 12-1, các đại biểu làm việc tại Đoàn nghiên cứu, thảo luận các văn kiện Đại hội XI./.

Mai Anh http://www.tapchicongsan.org.vn

Diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam

Sáng 12/1/2011, thay mặt Đoàn Chủ tịch Đại hội, đồng chí Nguyễn Minh Triết, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước đã đọc Diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu toàn văn Diễn văn khai mạc.

Thưa Đoàn Chủ tịch Đại hội, Thưa các vị khách quý, Thưa toàn thể các đồng chí đại

biểu Đại hội, Hôm nay, trong những ngày đầu

tiên của năm 2011, khi đất nước, dân tộc và Đảng ta bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI với nhiều cơ hội lớn và thách thức mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam khai mạc trọng thể tại Hà Nội - Thủ đô văn hiến và Anh hùng vừa kỷ niệm 1000 năm tuổi. Thay mặt Đoàn Chủ tịch, với tình cảm trân trọng và tình đồng chí

thân thiết nhất, tôi xin nhiệt liệt chào mừng 1.377 đại biểu, những đại biểu tiêu biểu cho trí tuệ, sự thống nhất ý chí và sức mạnh đoàn kết của toàn Đảng, đại diện cho trên 3,6 triệu đảng viên về dự Đại hội trong thời điểm lịch sử rất quan trọng và nhiều ý nghĩa của đất nước và dân tộc.

Trong giờ phút trọng thể này, với lòng biết ơn vô hạn, Đại hội chúng ta thành kính tưởng nhớ Chủ tịch Hồ Chí

Page 10: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

10

Minh vĩ đại, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hoá thế giới, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào giải phóng của các dân tộc thuộc địa và bị áp bức trên toàn thế giới. Thực tiễn và thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta hơn 80 năm qua đã khẳng định, tư tưởng vĩ đại của Người, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, đã dẫn dắt chúng ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, là ngọn cờ tập hợp và đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thân yêu của chúng ta, hôm nay và mai sau.

Đại hội chúng ta bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với các thế hệ cách mạng tiền bối, với đồng bào, chiến sĩ, đồng chí đã cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp cao cả giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất nước, để hôm nay chúng ta có một đất nước thống nhất, hoà bình, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đại hội chúng ta nồng nhiệt chào mừng sự có mặt của các đồng chí nguyên là lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đại biểu lão thành cách mạng, các đồng chí nguyên Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II, III, IV và V, các Mẹ Việt Nam Anh hùng; các nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ, chức sắc tôn giáo và đại diện thế hệ trẻ là khách mời của Đại hội. Sự có mặt của các đồng chí, các vị khách quý là niềm vui, niềm tự hào của chúng ta. Đại hội kính chúc các đồng chí khoẻ mạnh, hạnh phúc.

Đại hội chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh và chào mừng các vị đại sứ, đại biện, trưởng đại diện các tổ chức quốc tế tại Việt Nam đã đến dự phiên khai mạc trọng thể này.

Đại hội nhiệt liệt hoan nghênh, đánh giá cao và trân trọng biểu dương các phong trào thi đua yêu nước của tất cả các tầng lớp nhân dân, các cấp, các ngành, các địa phương và các đơn vị đã lập nhiều thành tích xuất sắc không chỉ có ý nghĩa chào mừng Đại hội, mà đã góp phần thiết thực cho thành công của Đại hội, cho việc hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của năm 2010 và kế hoạch 5 năm (2006 - 2010).

Đại hội nhiệt liệt hoan nghênh và chân thành cảm ơn sự tham gia nhiệt tình, đầy trách nhiệm và những đóng góp quý báu của các tổ chức đảng, của toàn thể đảng viên, của các đoàn thể chính trị các cấp, của các vị lão thành cách mạng, trí thức, nhân sĩ, các nhà khoa học và đông đảo đồng bào ở trong nước và ngoài nước vào các dự thảo văn kiện và vào các công việc chuẩn bị Đại hội lần thứ XI của Đảng.

Thưa Đại hội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI của Đảng ta diễn ra trong một thời điểm có ý nghĩa rất quan trọng. Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đã trải qua 25 năm. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được thực hiện 20 năm. 5 năm qua (2006 - 2010), trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có nhiều khó khăn, thách thức gay gắt, đặc biệt là ảnh hưởng bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng, đáng tự hào. Kết quả trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010) và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Page 11: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

11

Những thành tựu đạt được trong 20 năm qua là to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Chúng ta đã thực hiện thành công chặng đường đầu của công cuộc đổi mới, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân có nhiều thay đổi tích cực, sức mạnh quốc gia về mọi mặt được tăng cường, độc lập, tự chủ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, nước ta vẫn đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau và diễn biến phức tạp, không thể xem thường.

Trong những năm tới, tình hình quốc tế sẽ tiếp tục có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp và khó lường với những tác động to lớn và sâu rộng vừa tạo ra thời cơ, vừa đặt ra những thách thức ngày càng gay gắt đối với tất cả các quốc gia, nhất là các nước chậm phát triển hoặc đang phát triển, trong đó có Việt Nam của chúng ta.

Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng có trách nhiệm lịch sử to lớn trước toàn dân tộc. Chúng ta cần nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đề cao tinh thần tự phê bình nghiêm túc, để kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện những thành tựu và yếu kém, khuyết điểm, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006 - 2010), tổng kết Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010) và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, Đại hội quyết định việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991; xác định Chiến lược phát triển kinh tế - xã

hội 10 năm (2011 - 2020); đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm (2011 - 2015).

Về xây dựng Đảng, Đại hội có trọng trách kiểm điểm sâu sắc, toàn diện công tác xây dựng Đảng và sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X; xác định phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng trong thời kỳ mới; bổ sung, sửa đổi một số điểm trong Điều lệ Đảng; bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI gồm những đồng chí thực sự tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực lãnh đạo, bản lĩnh và trí tuệ đủ sức đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, đủ sức lãnh đạo hoàn thành những nhiệm vụ to lớn, nặng nề trong những năm tới.

Thưa Đại hội, Với những nhiệm vụ nêu trên, Đại

hội lần thứ XI của Đảng có ý nghĩa trọng đại, định hướng và động viên, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Chúng ta nguyện làm hết sức mình, phát huy cao độ trí tuệ, ý thức trách nhiệm và sự đoàn kết, thống nhất cao để hoàn thành tốt nhất những nhiệm vụ của Đại hội, mở ra một thời kỳ phát triển mới của đất nước, thực hiện bằng được mục tiêu cao cả, xây dựng đất nước ta dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Với niềm tin sâu sắc đó, thay mặt Đoàn Chủ tịch Đại hội, tôi xin tuyên bố khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Kính chúc các đồng chí đại biểu và các vị khách quý sức khoẻ, hạnh phúc.

Chúc Đại hội thành công tốt đẹp./. http://www.cpv.vn

Page 12: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

12

Thảo luận tại đoàn về dự thảo văn kiện Đại hội XI của Đảng

hiều 12 và sáng 13-1, các đại biểu làm việc tại đoàn, thảo luận về các dự thảo

văn kiện trình Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Dự thảo gồm Dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020; Báo cáo Chính trị Đại hội XI của Đảng; Báo cáo một số vấn đề bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng và dự thảo Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi); Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương khóa X. Các đại biểu đã thảo luận về đánh giá tổng quát quá trình cách mạng Việt Nam; mục tiêu và những phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc XHCN; định hướng về phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục và đào tạo, quốc phòng, an ninh…; đánh giá những thành tựu và hạn chế, yếu kém, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm qua thực tiễn Chiến lược 2001-2010 và kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng; các giải pháp phát triển, đổi mới giáo dục đào tạo; phương hướng xây dựng Đảng về chính trị tư tưởng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, nâng cao chất lượng đảng viên, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, về quy hoạch cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý các cấp và công tác cán bộ, công tác phát triển đảng viên.

Góp ý kiến vào nội dung quốc phòng-an ninh, các đại biểu khẳng định tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân, Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Có đại biểu cho rằng, quan điểm về chính sách quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc đã được nêu đầy đủ

trong Báo cáo trình Đại hội. Trong đó đã thể hiện đầy đủ các nội dung với mục tiêu, nhiệm vụ, xác định tăng cường quốc phòng, bảo vệ an ninh là nhiệm vụ trọng yếu; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh vững chắc. Đại biểu đề nghị trong quan điểm xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại… cần bổ sung ý “một số lực lượng sớm hiện đại”. Cùng với tăng cường công tác giáo dục quốc phòng-an ninh cần có chính sách thu hút nguồn nhân lực cao cho lực lượng vũ trang.

Về phát triển văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển, các đại biểu cho rằng phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển là thể hiện rõ nhất tính ưu việt của chế độ ta. Các đại biểu khẳng định phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Một số đại biểu đề nghị cần quan tâm tới việc bảo đảm phát triển hài hoà các vùng, miền trong đó cần coi trọng tới phát triển

C

Page 13: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

13

kinh tế biển trong Cương lĩnh chính trị. Có đại biểu đề nghị về lâu dài, nền kinh tế Việt Nam cần quan tâm tới chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động, coi trọng chuyển dịch cơ cấu đầu tư cho phù hợp; tiếp tục đưa nhận thức, quan điểm lớn của Đảng: Con người - trung tâm của chiến lược phát triển vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển.

Về công tác xây dựng Đảng, một số đại biểu phân tích sâu hiện trạng một số lĩnh vực (trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân) chưa thành lập được các tổ chức đảng và đề cập tới vấn đề xây dựng Đảng trong nông thôn; những vấn đề để xây dựng chi bộ thực sự là gốc rễ, tạo sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.

Sáng 13-1, các đại biểu tiếp tục làm việc tại đoàn, thảo luận về các Dự thảo Văn kiện trình Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.

Liên quan đến những nội dung nêu trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), các đại biểu đã nhất trí với đánh giá tổng quát quá trình cách mạng Việt Nam với những thắng lợi vĩ đại, những khó khăn, thách thức, bài học lớn. Các đại biểu đã phân tích, làm rõ những đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng; mục tiêu và phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Bàn về những định hướng lớn về phát triển kinh tế, các đại biểu đã tập trung phân tích các khía cạnh về đẩy mạnh CNH, HĐH; phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; chính sách phát triển đối với các thành phần kinh tế, chế độ phân phối… Một số định hướng về phát triển văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường, chính sách xã hội; quốc phòng-an ninh, đối ngoại; xây dựng và hoàn thiện

nền dân chủ XHCN, nhà nước pháp quyền XHCN… cũng được các đại biểu quan tâm thảo luận.

Đề cập Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, các đại biểu đã đi sâu phân tích những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới, nhất trí với các quan điểm phát triển, các mục tiêu và chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội, môi trường; các định hướng phát triển ngành, vùng, lĩnh vực. Các đại biểu cơ bản đồng tình với 3 khâu đột phá được xác định trong Dự thảo Chiến lược, gồm: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính; Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; Gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học-công nghệ; Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.

Thảo luận Báo cáo chính trị Đại hội XI của Đảng, các đại biểu tập trung vào các nội dung: Những bài học kinh nghiệm qua thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng; phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và các chỉ tiêu chủ yếu phát triển đất nước trong 5 năm tới; phương hướng đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế. Trong đó, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, phát triển nhanh, bền vững của nền kinh tế nói chung, phát triển các lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, nông lâm ngư nghiệp, các dịch vụ, hệ thống kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội hài hòa giữa các vùng, đô thị và nông thôn; giữ vững định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường, chính sách phát

Page 14: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

14

triển các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế, phát triển các loại thị trường.

Một nội dung nổi bật trong buổi thảo luận tại các đoàn là về công tác xây dựng đảng, trong đó nhấn mạnh đến phương thức lãnh đạo của Đảng, phương hướng xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhiều ý kiến quan tâm, góp ý phương hướng xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, nâng cao chất lượng đảng viên, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng; công tác cán bộ, quy hoạch cán bộ

lãnh đạo, cán bộ quản lý các cấp; công tác vận động nhân dân xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bên cạnh đó, các đại biểu cũng đã có nhiều ý kiến về Báo cáo một số vấn đề bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng và Dự thảo Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi); Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo Ban chấp hành Trung ương khóa X...

Minh Tuấn (tổng hợp) http://www.xaydungdang.org.vn/Home/

Dai-hoi-dang/2011

Chiều 13/1, Đại hội thảo luận các văn kiện tại Hội trường

hiều 13/1, dưới sự điều hành của đồng chí Nguyễn Phú

Trọng - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội, Đại hội XI của Đảng thảo luận tại Hội trường, đóng góp ý kiến vào các văn kiện Đại hội.

Tại buổi thảo luận, đã có 8 đại biểu phát biểu tham luận: Đồng chí Tạ Ngọc Tấn, Uỷ viên Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản trình bày tham luận với chủ đề “Kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.

Đồng chí Võ Hồng Phúc, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư tham luận về “Nhìn lại 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010, những bài học rút ra để thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế 2011-2020”.

Đồng chí Vũ Hồng Khanh,Uỷ viênBan Thường vụ Thành uỷ, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội trình bày tham luận về “Đẩy mạnh phát triển kinh tế tri thức, đưa nước ta phát triển nhanh và bền vững”.

Đồng chí Huỳnh Đảm, Uỷ viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham luận về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng”.

C

Page 15: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

15

Đồng chí Nguyễn Văn Đua, Phó Bí thư Thường trực Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh tham luận về“Về kiến nghị một số giải pháp nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế”.

Đồng chí Phạm Khôi Nguyên, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường tham luận về “Công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”.

Đồng chí Ngô Xuân Lịch, Uỷ viên Trung ương Đảng, Trung tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam tham luận về“Tăng cường củng cố quốc phòng, xây dựng Quân đội nhân dân chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”.

Đồng chí Hoàng Bình Quân, Uỷ viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương tham luận về “Tiếp tục phát triển sâu rộng quan hệ với các chính Đảng trên thế giới”.

Phát huy tinh thần dân chủ và trách nhiệm, các đại biểu đã phát biểu ý kiến, bày tỏ sự quan tâm và nhấn mạnh những vấn đề trọng tâm, quan trọng của các văn kiện; tạo nên không khí sôi nổi, thẳng thắn, dân chủ trong phiên thảo luận đầu tiên tại hội trường của Đại hội.

Đại hội đã nghe đồng chí Hoàng Tuấn Anh, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Uỷ viên Đoàn Thư ký thông báo danh sách 28 điện mừng của các chính đảng, tổ chức và bạn bè quốc tế vừa gửi tới Đại hội trong ngày khai mạc 12/1/2011, trích đọc điện của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Nhân dân Cam-pu-chia và Đảng Cộng sản Cu Ba chúc mừng Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam.

Như vậy, cho đến ngày 13/1/2011, Đại hội Đẩng toàn quốc lần thứ XI đã nhận được 149 điện mừng của các chính đảng, tổ chức và bạn bè quốc tế từ khắp các châu lục.

Hôm nay, 14/1/2011, Đại hội làm việc tại Hội trường, tiếp tục thảo luận các văn kiện Đại hội XI.

(Theo ĐCSVN) http://www.xaydungdang.org.vn/Home/Dai-hoi-dang/2011

Page 16: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

16

Đóng góp nhiều giải pháp quan trọng vào văn kiện Đại hội XI của Đảng

(HNM) - Hôm qua 14-1, dưới sự điều hành của đồng chí Nguyễn Minh Triết, Ủy viên BCT, Chủ tịch nước và đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên BCT, Thủ tướng Chính phủ, các đại biểu tham dự ĐH tiếp tục tham luận, đóng góp vào các vấn đề quan trọng của văn kiện, thu hút sự quan tâm của toàn ĐH.

Với chủ đề Xây dựng giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam vững mạnh, xứng đáng là giai cấp tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH, mở đầu buổi làm việc, thay mặt cho toàn thể CBCNVCLĐ và đoàn viên công đoàn (CĐ) cả nước, phát biểu tham luận của đồng chí Đặng Ngọc Tùng (UVTƯ Đảng, Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam) đã đề cập đến những vấn đề nóng bỏng, còn tồn tại trong việc thực hiện Nghị quyết 20 về xây dựng GCCN Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Mặc dù Đảng đã có Nghị quyết về tiếp tục xây dựng GCCN thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, nhưng việc thể chế hóa Nghị quyết thành chính sách, pháp luật chưa được thực hiện. Tiền lương, thu nhập của người lao động chưa tương xứng với cường độ và thời gian lao động, có nơi lương công nhân không đủ để tái tạo sức lao động, nên đời sống vật chất và tinh thần của CNVCLĐ gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Tình trạng một bộ phận CNLĐ có việc làm không ổn định, thời gian làm việc kéo dài và cường độ lao động cao, điều kiện việc làm ít được cải thiện, gây bức xúc trong CNLĐ…

Đồng chí Đặng Ngọc Tùng đã kiến nghị 4 giải pháp với ĐH để xây dựng GCCN Việt Nam vững mạnh, xứng tầm là giai cấp tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Nổi lên là, Đảng cần kiên định lập trường GCCN, tăng cường giữ vững bản chất GCCN của Đảng; xây dựng và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả chiến lược về GCCN gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ CNH, HĐH. Sớm thể chế hóa những quan điểm, chủ trương lớn đã được thể hiện trong nghị quyết của Đảng thành cơ chế, chính sách cụ thể nhằm giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của GCCN.

Trong phần tham luận của mình, với tiêu đề Những đặc trưng thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng, GS Lê Hữu Nghĩa, UVTƯ Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã đi sâu vào phân tích, làm sáng rõ những đặc trưng thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng, thể hiện trong mục tiêu cần đạt tới là: Dân giàu,

Đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng

Chính phủ điều khiển phiên thảo luận tại Đại hội. Ảnh: TTXVN

Page 17: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

17

nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh thực sự. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Cương lĩnh năm 2011) có nhiều điểm mới so với Cương lĩnh năm 1991 đã thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội XHCN, định hướng, hiện thực hóa các mục tiêu đã đề ra. Tám đặc trưng của CNXH nêu trong dự thảo Cương lĩnh 2011 bao quát tất cả các lĩnh vực, có quan hệ biện chứng, hợp với quy luật. Đây chính là mục tiêu cao cả của CNXH, là giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công, bảo đảm ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.

Các tham luận của Đại tướng Lê Hồng Anh, UVBCT, Bộ trưởng Bộ Công an về xây dựng lực lượng CAND, bảo đảm thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, TTATXH trong tình hình mới và tham luận của đồng chí Võ Đức Huy, UVTƯ Đảng, Đoàn khối Doanh nghiệp TƯ cũng đóng góp vào các văn kiện nhiều ý kiến xác đáng. Trong đó đồng chí Võ Đức Huy kiến nghị bổ sung thêm từ “bảo vệ” vào tên Cương lĩnh 2011, thành “Cương lĩnh xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”. Theo đồng chí, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng đối với bất kỳ quốc gia, dân tộc nào trên thế giới và càng là nhiệm vụ quan trọng trong thời kỳ hiện nay.

Với kiến nghị: không bầu vào BCH TƯ những người có biểu hiện tham nhũng, lãng phí, tham luận Một số kiến nghị và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống tham nhũng của đồng chí Vũ Tiến Chiến, UVTƯ Đảng, Chánh Văn phòng BCĐ TƯ về phòng, chống tham nhũng đã thu hút được sự quan tâm, chú ý của ĐH.

Sau khi điểm lại những kết quả sau 5 năm thực hiện Nghị quyết ĐH X của Đảng về PCTN, lãng phí với 1.613 vụ án tham nhũng và 3.284 bị can bị khởi tố; 8 vụ án trọng điểm được chỉ đạo xử lý nghiêm, bảo đảm các quy định của pháp luật; với tinh thần đánh giá nghiêm túc và thẳng thắn, đồng chí Vũ Tiến Chiến thừa nhận, công tác PCTN nhiệm kỳ qua vẫn còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém; giữa quyết tâm chính trị và hành động thực tiễn trong công tác PCTN còn có khoảng cách đáng kể… Tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng và diễn biến phức tạp trong nhiều lĩnh vực, nhiều ngành, nhiều cấp; tệ tham nhũng vẫn còn là vấn đề bức xúc và là mối quan tâm lớn của Đảng và toàn xã hội. Đồng chí Vũ Tiến Chiến kiến nghị: Trong nhiệm kỳ tới, không còn con đường nào khác là Đảng cần tiếp tục thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh PCTN. Đây là nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp bách, vừa lâu dài của công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước. Kiên quyết phấn đấu mục tiêu: Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, loại bỏ dần các cơ hội và điều kiện phát sinh tham nhũng, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức liêm chính; củng cố lòng tin của nhân dân, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.

Đồng chí Vũ Tiến Chiến kiến nghị, trong tình hình tham nhũng hiện đang diễn ra nghiêm trọng và là một trong những vấn đề quan tâm bức xúc hàng đầu của toàn xã hội, đề nghị Đoàn

Đoàn đại biểu thành phố Hà Nội làm việc

tại hội trường. Ảnh: Bá Hoạt

Page 18: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

18

Chủ tịch ĐH bố trí thời gian để nhiều đại biểu phát biểu, trao đổi về công tác PCTN tại hội trường. Đề nghị ĐH trong việc lựa chọn các ủy viên TƯ kỳ này, ngoài những tiêu chuẩn chung cần coi trọng tiêu chuẩn: Không tham nhũng, lãng phí và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí. Cần nhìn thằng vào sự thật những biểu hiện “giàu nhanh”, “lên chức nhanh”; nếu là do tiêu cực, tham nhũng “chạy chức”, “chạy quyền” thì phải làm rõ, lên án và nghiêm trị. Đề nghị BCH TƯ khóa XI tiến hành tổng kết Nghị quyết TƯ 3 (khóa X) ngay từ năm đầu nhiệm kỳ (năm 2011) để kịp thời điều chỉnh các chủ trương, giải pháp nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh PCTN.

Với tham luận Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát - giải pháp quan trọng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đồng chí Trịnh Long Biên, UVTƯ Đảng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra (UBKT) TƯ lại kiến nghị ĐH không nên sửa đổi mà giữ nguyên thẩm quyền UBKT các cấp để tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng. “Đảng ta là đảng cầm quyền, có vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội, mọi lĩnh vực phải được kiểm tra, giám sát. Tổ chức đảng ở những vị trí càng quan trọng, lĩnh vực càng nhạy cảm thì càng phải được thường xuyên kiểm tra, giám sát, không có “vùng cấm” trong công tác này” - đồng chí Trịnh Long Biên khẳng định.

Một giải pháp quan trọng để rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng được PGS-TS Vũ Văn Phúc, Phó Trưởng ban Tuyên giáo TƯ trình bày tại ĐH. Đó là, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả thiết thực Cuộc vận động (CVĐ) “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đồng chí kiến nghị, cần tiếp tục đẩy mạnh CVĐ, tạo sự thống nhất trong toàn hệ thống chính trị về tính chất, mục đích của CVĐ. Gắn thực hiện CVĐ với việc thực

hiện Nghị quyết ĐH XI của Đảng, tạo sự chuyển biến trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta về ý thức đạo đức phụng sự cách mạng, phụng sự nhân dân, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.

Các tham luận về: Xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH (đại biểu Nguyễn Quốc Cường, UVTƯ Đảng, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam); Giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ (đại biểu Nguyễn Văn Thưởng, Bí thư thứ nhất TƯ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh); Thực hiện bình đẳng giới (đại biểu Nguyễn Thị Thanh Hòa, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam); Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam vững mạnh, từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức (đại biểu Châu Văn Minh, Chủ tịch Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam); Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh (đoàn Quảng Nam); Tăng cường đoàn kết các dân tộc, tập trung phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với bảo vệ tài nguyên môi truờng (đoàn Đắc Lắc); Phát huy dân chủ, nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí (đoàn Kiên Giang); Xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng (đoàn Cao Bằng); Thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng (đoàn Sóc Trăng)... cũng đóng góp nhiều giải pháp quan trọng cho ĐH trên nhiều lĩnh vực nhằm bổ sung, hoàn thiện các văn kiện trình ĐH XI của Đảng. Đặc biệt, đại biểu TP Hồ Chí Minh Trần Du Lịch đã phát biểu, mạnh dạn đưa ra nhiều suy nghĩ, băn khoăn về quyền sở hữu đất đai, đề nghị ĐH làm rõ, gọi đúng bản chất chủ thể trong sở hữu đất đai, ngăn chặn tình trạng thất thoát đất đai. Theo đại biểu Trần Du Lịch, việc thừa nhận sản xuất hàng hóa, thị trường, từ các kỳ ĐH trước, đã được kiểm nghiệm và là sáng tạo vĩ đại của Đảng ta. Tuy nhiên, mô hình XHCN trong tương lai còn có thị trường và sản xuất hàng hóa hay không, chưa được lý luận làm rõ. Những

Page 19: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

19

gì lý luận chưa rõ đề nghị không nên đưa vào văn kiện…

Như vậy, qua các phiên thảo luận, đã có 27 ý kiến tham luận, phát biểu thảo luận về các văn kiện của ĐH, được kết

thúc vào chiều 14-1. Hôm nay, 15-1, ĐH tiếp tục làm việc tại hội trường và tại đoàn.

Lệ Hằng - Thái Hà http://www.hanoimoi.com.vn

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng: Thảo luận, quyết định các nội dung quan trọng về nhân sự

* BCHT.Ư Đảng khóa XI có 175 ủy viên chính thức và 25 ủy viên dự khuyết.

(Cadn.com.vn) - Trong hai ngày (15 và 16-1), Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng tiếp tục làm việc tại Hội trường nhằm thảo luận, quyết định, biểu quyết về những nội dung quan trọng liên quan đến công tác nhân sự BCHT.Ư khóa XI, nhiệm kỳ 2011-2015.

Sáng 15-1, dưới sự điều hành của đồng chí Nông Đức Mạnh-Tổng Bí thư BCHT.Ư Đảng, Đại hội tiếp tục làm việc tại Hội trường thảo luận và quyết định các vấn đề quan trọng về công tác nhân sự Đại hội. Tại phiên họp, đồng chí Hồ Đức Việt - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư T.Ư Đảng, Trưởng ban Tổ chức T.Ư, thay mặt Đoàn Chủ tịch đọc Báo cáo của BCHT.Ư Đảng khóa X về công

tác nhân sự BCHT.Ư Đảng khóa XI. Theo Quy chế làm việc, Đại hội đã thảo luận tại hội trường về số lượng Ủy viên chính thức và Ủy viên dự khuyết BCHT.Ư Đảng khóa XI. Sau khi thảo luận, Đại hội đã biểu quyết với 100% ý kiến đồng ý BCHT.Ư Đảng khóa XI gồm 175 đồng chí Ủy viên chính thức và 25 đồng chí Ủy viên dự khuyết. Thay mặt Đoàn Chủ tịch, đồng chí Nông Đức Mạnh - Tổng Bí thư BCHT.Ư Đảng đã phát biểu ý kiến với Đại hội về một số điểm cần lưu ý trong công tác nhân sự BCHT.Ư Đảng khóa XI. Sau đó các đại biểu Đại hội về làm việc tại đoàn đại biểu để thảo luận về tiêu chuẩn, cơ cấu và nghiên cứu hồ sơ, tài liệu về công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.

Chiều 15-1, Đại hội tiếp tục làm việc theo tổ tại các Đoàn đại biểu, tiếp tục thảo luận về cơ cấu, tiêu chuẩn, điều kiện lựa chọn người để bầu vào BCHT.Ư khóa XI.

Ngày 16-1, Đại hội tiếp tục làm việc tại đoàn đại biểu thảo luận công tác nhân sự BCHT.Ư khóa XI, nhiệm kỳ 2011-2015. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh điều hành các phiên họp Đoàn Chủ tịch. Buổi sáng, các đại biểu trao đổi về tiêu chuẩn, cơ cấu, danh sách đề cử BCHT.Ư khóa XI và nghiên cứu các tài

Các đại biểu trao đổi tại Đại hội.

Page 20: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

20

liệu, hồ sơ về nhân sự; ghi phiếu đề cử, ứng cử (bổ sung ngoài danh sách đề cử của BCHT.Ư khóa X) vào BCH khóa mới. Sau đó, các đoàn báo cáo bằng văn bản với Đoàn Chủ tịch về danh sách đề cử, ứng cử vào BCHT.Ư khóa XI. Đoàn Chủ tịch cũng tiến hành họp với các Trưởng đoàn vào cuối buổi sáng để xem xét kết quả thảo luận tại đoàn về tiêu chuẩn, cơ cấu, danh sách đề cử BCHT.Ư khóa XI.

Chiều 16-1, Đoàn Chủ tịch tiếp tục họp với các trưởng đoàn để xem xét kết quả tổng hợp danh sách đề cử, ứng cử BCHT.Ư khóa XI và thông báo tổng hợp danh sách đề cử, ứng cử nói trên đến các đoàn đại biểu. Cuối buổi chiều, Đoàn Chủ tịch họp bàn, cho ý kiến về các vấn đề quan trọng gồm: Các trường hợp xin rút khỏi danh sách ứng cử, đề cử BCHT.Ư Đảng khóa XI; tiếp thu, giải trình ý kiến thảo luận của đại biểu về các văn kiện Đại hội và các vấn đề cần biểu quyết trong các văn kiện Đại hội.

Vấn đề được các đại biểu quan tâm nhiều nhất là lựa chọn những người xứng đáng, đủ đức, đủ tài, đủ điều kiện, tiêu chuẩn, đại diện xứng đáng cho trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn

dân để bầu vào BCHT.Ư khóa mới. Nhiều đại biểu cho rằng, để đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, Đảng và nhân dân đang cần những cán bộ lãnh đạo thực sự nhiệt huyết, biết lo cái lo của dân, đem hết tài năng trí tuệ cống hiến cho đất nước, có tư duy đổi mới, đấu tranh kiên quyết với trì trệ, bảo thủ và tham nhũng, trọn đời hy sinh cho sự nghiệp của Đảng và nhân dân.

Trao đổi bên lề Đại hội, đồng chí Nguyễn Đức Hà-Vụ trưởng Vụ Cơ sở Đảng, Ban Tổ chức T.Ư cho biết, công tác chuẩn bị nhân sự tại Đại hội XI có những điểm rất mới như: Quy trình giới thiệu tương đối rộng, cho nên nguồn giới

thiệu vào T.Ư cả chính thức và dự khuyết là rất lớn. Ngoài chuẩn bị nhân sự của BCHT.Ư khóa XI, còn chuẩn bị nhân sự Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các lãnh đạo chủ chốt của Đảng. Tập trung tăng cường tỷ lệ ủy viên T.Ư nữ, trẻ, trong đó tỷ lệ nữ hơn 10% và trẻ hơn 20%. Trước đó, trong cuộc họp báo về Đại hội XI của Đảng, đồng chí Trần Lưu Hải - UVT.Ư Đảng, Phó trưởng Ban Tổ chức T.Ư cũng khẳng định sẽ giới thiệu số dư ít nhất 15% để bầu BCHT.Ư khóa XI. Đảng CSVN đang trăn trở tìm cách đổi mới phương thức, nội dung hoạt động của Đảng, trong đó có việc đổi mới bầu cử trong Đảng. Đối với chức danh Tổng Bí thư, Điều lệ Đảng chưa có quy định bầu trực tiếp Tổng Bí thư tại Đại hội. Qua thí điểm bầu trực tiếp Bí thư cấp xã, phường, thị trấn, cấp huyện và cấp tỉnh (thí điểm 10 tỉnh, thành phố), kết quả bước đầu đánh giá là tốt, được dư luận đồng tình ủng hộ. Việc có bầu trực tiếp Tổng Bí thư tại Đại hội XI hay không là do Đại hội quyết định, nếu đa số đại biểu đồng ý thì sẽ tiến hành bầu trực tiếp Tổng Bí thư. Tuy nhiên, đồng chí Trần Lưu Hải cũng nhấn mạnh rằng Điều lệ

Trong ảnh: Đoàn Đại biểu TP Đà Nẵng trao

đổi bên lề Đại hội. Ảnh: Quang Sang

Page 21: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

21

Đảng đến nay vẫn chưa quy định việc này.

Đối với vấn đề quan trọng này, đại biểu Nguyễn Đức Kiên-Phó Chủ tịch tỉnh Sóc Trăng cho rằng: “Đây là vấn đề mà nhiều đại biểu rất quan tâm. Dù chưa có quy định trong Điều lệ Đảng, nhưng vừa qua, chúng ta đã từng bước thực hiện thí điểm ở 10 địa phương trong cả nước. Kết quả bước đầu cũng khá tốt được dư luận trong và ngoài Đảng đồng tình ủng hộ. Quan điểm của riêng tôi về việc bầu trực tiếp Tổng Bí thư tại Đại hội XI lần này trước hết cần phải tuân theo Điều lệ Đảng. Vấn đề này cần phải được thảo

luận kỹ, đánh giá mọi mặt, cái được và cái chưa được. Điển hình ở tỉnh Sóc Trăng, việc tiến hành bầu trực tiếp chúng tôi cũng đã phải trải qua một quá trình chuẩn bị gần 1 năm và phải tiến hành làm các quy hoạch từ cấp xã, cấp huyện và cấp tỉnh. Trong quá trình đó phải tiến hành trao đổi và lấy phiếu thăm dò thực hiện theo quy chế của Đảng. Sau đó chúng tôi mới bắt đầu bỏ phiếu ở ngay trong BCH Đảng bộ tỉnh. Việc bầu trực tiếp Tổng Bí thư hay không thì trước hết phải tuân theo Điều lệ Đảng” Theo Q.S - C.T

http://cadn.com.vn/News

Đại hội XI tiếp tục làm việc về công tác nhân sự

ả ngày 16/1, Đại hội tiếp tục làm việc tại đoàn đại biểu về công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.

Đồng chí Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, điều hành các phiên họp Đoàn Chủ tịch.

Buổi sáng, các đại biểu trao đổi về tiêu chuẩn, cơ cấu, danh sách đề cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI và nghiên cứu các tài liệu, hồ sơ về nhân sự; ghi phiếu đề cử, ứng cử (bổ sung ngoài danh sách đề cử của Ban Chấp hành Trung ương khóa X) vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.

Sau đó, các đoàn đại biểu báo cáo (bằng văn bản) với Đoàn Chủ tịch Đại hội về danh sách đề cử, ứng cử (bổ sung ngoài danh sách đề cử của Ban Chấp hành Trung ương khóa X) vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.

Cuối buổi sáng, Đoàn Chủ tịch Đại hội họp với các trưởng đoàn để xem xét kết quả thảo luận tại đoàn về tiêu chuẩn, cơ cấu, danh sách đề cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.

Đầu buổi chiều, Đoàn Chủ tịch họp với các trưởng đoàn để xem xét kết quả tổng hợp danh sách đề cử, ứng cử (bổ sung, ngoài danh sách đề cử của Ban Chấp hành Trung

C

Các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước với đoàn đại biểu Đảng bộ thành phố Đà

Nẵng. (Ảnh: TTXVN)

Page 22: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

22

ương khóa X) Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI; thông báo tổng hợp danh sách đề cử, ứng cử nói trên đến các đoàn đại biểu.

Sau đó, các đại biểu ghi phiếu xin rút khỏi danh sách ứng cử, đề cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (nếu có) tại đoàn.

Cuối buổi chiều, Đoàn Chủ tịch họp bàn, cho ý kiến về các trường hợp xin rút khỏi danh sách ứng cử, đề cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI; Tiếp thu, giải trình ý kiến thảo luận của đại biểu về các văn kiện Đại hội và các vấn đề cần biểu quyết trong các văn kiện Đại hội.

Theo chương trình làm việc, cả ngày 17/1, Đại hội tiếp tục làm việc về công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI./.

TTXVN http://www.hanoimoi.com.vn

Thông qua danh sách bầu Ban Chấp hành TW khóa XI

Sáng 17/1/2011, Đại hội làm việc tại Hội trường về công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.

Đồng chí Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thay mặt Đoàn Chủ tịch điều hành phiên họp.

Đồng chí Hồ Đức Việt, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, thay mặt Đoàn Chủ tịch đọc Báo cáo tổng hợp việc ứng cử, đề cử và xin rút ý kiến ứng cử, đề cử nhân sự tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.

Sau khi thảo luận tại Hội trường, Đại hội đã biểu quyết với 100% ý kiến đồng ý thông qua danh sách bầu cử Ban Chấp hành Trung ương khóa XI gồm:

- Danh sách bầu cử Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương khóa XI là 218 đồng chí, với số dư là 24,57% so với số lượng cần bầu 175 đồng chí.

- Danh sách bầu cử Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương khóa XI là 61 đồng chí, với số dư là 144 % so với số lượng cần bầu 25 đồng chí.

Đại hội đã bầu Ban Kiểm phiếu gồm 19 đồng chí. Buổi chiều các đại biểu nhận và ghi phiếu bầu cử Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khóa XI. Cuối buổi chiều, Đại hội tiến hành bỏ phiếu bầu cử Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa XI tại Hội trường./. Theo TTXVN/Vietnam

Các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước với đoàn đại

biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh. (Ảnh: TTXVN).

Page 23: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

23

Đại hội tiến hành bỏ phiếu bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI

(Web.ĐHXI)- Chiều ngày (17/1), Đại hội tiến hành bầu Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khoá XI. Dưới đây là một số hình ảnh được các phóng viên Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ghi tại phiên họp.

Đồng chí Trịnh Long Biên, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Trưởng ban Kiểm phiếu, điều hành phần bầu cử.

Page 24: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

24

Ban tổ chức đã bố trí 8 khu vực bỏ phiếu trong Hội trường. Mỗi khu vực gồm 2 hòm phiếu: Bầu Uỷ viên Trung ương chính thức;

Bầu Uỷ viên Trung ương dự khuyết

Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc

hội bỏ phiếu bầu Ban Chấp hành khoá XI

Đoàn đại biểu Đảng bộ Công an

Đoàn đại biểu Đảng bộ Quân đội

Lần lượt các đoàn đại biểu đã bỏ phiếu bầu Ban Chấp hành

Page 25: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

25

Thực hiện kiểm phiếu tại chỗ trước sự

chứng kiến của các đại biểu tại Hội trường

Nhóm PV

http://daihoi11.dangcongsan.vn/cpv/

Page 26: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

26

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thành công rực rỡ

"Đại hội đã thành công rực rỡ…" - đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI đã nhấn mạnh như vậy tại cuộc họp báo quốc tế ngay sau khi Đại hội bế mạc.

Quả vậy, đó là thành công rực rỡ bởi nhiều lý do, bởi đây là một kỳ Đại hội diễn ra trong thời điểm đất nước có nhiều biến chuyển quan trọng, Đảng Cộng sản Việt Nam quyết tâm đổi mới mạnh mẽ về mọi mặt để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới: Đất nước không chỉ hội nhập kinh tế quốc tế mà từ đây đẩy mạnh hội nhập quốc tế một cách toàn diện và trong bối cảnh nhiều khó khăn thách thức, vẫn quyết tâm đạt tăng trưởng cao và bền vững, đảm bảo an sinh xã hội…

Sáng 19/1, sau 9 ngày làm việc nghiêm túc, khẩn trương, dân chủ, với ý thức trách nhiệm cao trước Đảng và nhân dân, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã bế mạc và thành công tốt đẹp. Các đồng chí nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng: Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu; nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh, Trần Đức Lương; nguyên Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải; nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã tới dự.

Thay mặt Đoàn Chủ tịch Đại hội, đồng chí Nguyễn Minh Triết - Chủ tịch nước điều khiển phiên họp.

Thay mặt Đoàn Thư ký Đại hội, đồng chí Đinh Thế Huynh thông báo đến ngày 18-1, Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận được 176 điện mừng

của các đảng, các tổ chức và bạn bè quốc tế. Đồng chí Đinh Thế Huynh báo cáo kết quả biểu quyết một số vấn đề trong các văn kiện tại Đại hội, về Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển); về một số vấn đề bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng. Thay mặt Đoàn Thư ký Đại hội, đồng chí Tạ Ngọc Tấn đọc toàn văn Dự thảo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội đã biểu quyết thông qua toàn văn Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam với sự nhất trí cao.

Thay mặt Đoàn Chủ tịch Đại hội, đồng chí Trương Tấn Sang đọc Báo cáo kết quả bầu Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XI. Ban Chấp hành Trung ương khóa XI tại Hội nghị lần thứ nhất đã bầu 14 đồng chí vào Bộ Chính trị (danh sách đăng trong số báo này); bầu đồng chí Nguyễn Phú Trọng giữ trọng trách Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Ban Chấp hành Trung ương khóa XI giao Bộ Chính trị phân công một số đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị tham gia Ban Bí thư, bầu 4 đồng chí vào Ban Bí thư, bầu Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XI gồm 21

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ra mắt Đại hội.

Page 27: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

27

đồng chí do đồng chí Ngô Văn Dụ, Ủy viên Bộ Chính trị làm Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương.

Trong không khí tưng bừng, phấn khởi, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ra mắt Đại hội.

Đại hội nhiệt liệt chúc mừng đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu giữ trọng trách Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI và các đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng khóa XI.

Đồng chí Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương khóa X phát biểu bày tỏ xúc động và tin tưởng rằng thành công của Đại hội sẽ mở ra

một thời kỳ phát triển mới của đất nước ta trên con đường xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng chí Nông Đức Mạnh nhiệt liệt chúc mừng Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được Đại hội và Ban Chấp hành Trung ương bầu.

Nhân dịp này, đồng chí Nông Đức Mạnh bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồng chí lão thành cách mạng, các ngành, các cấp và cùng toàn thể đồng bào chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài đã giúp đỡ rất nhiều trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Đồng chí bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các đồng chí, bầu bạn và nhân dân các nước anh em yêu chuộng hòa bình công lý trên toàn thế giới trong thời gian qua đã hết lòng hợp tác giúp Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong công cuộc phát triển và bảo vệ Tổ quốc cũng như cá nhân đồng chí trong quá trình thực hiện trọng trách của mình.

Đồng chí tin tưởng Đại hội với tinh thần đoàn kết, dân chủ, với ý chí cách mạng tiến công, đề ra đường lối trong chặng đường mới và bầu Ban Chấp hành Trung ương do đồng chí Nguyễn Phú Trọng làm Tổng Bí thư sẽ đem lại sức sống mới cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam yêu quý của chúng ta. Với tình cảm chân thành và tin tưởng vào Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, đồng chí Nông Đức Mạnh trân trọng tặng hoa chúc mừng đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí

Đồng chí Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành TW Đảng khóa X; đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ; đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, chúc mừng đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Ảnh: TTXVN

Page 28: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

28

thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.

Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI trân trọng tặng hoa, cảm ơn đồng chí Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương khóa X.

Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI và với tình cảm cá nhân, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chân thành cảm ơn các đồng chí đại biểu Đại hội đã tín nhiệm bầu vào các cơ quan lãnh đạo quan trọng của Đảng khóa XI, giao trọng trách lớn lao trước Đảng và nhân dân. Đồng chí chân thành cảm ơn những tình cảm, những lời chúc mừng tốt đẹp và những gửi gắm sâu sắc mà đồng chí nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã dành cho. Đây là vinh dự, là nguồn động viên hết sức to lớn trên cương vị công tác mới, với nhiều thuận lợi cơ bản nhưng cũng có không ít khó khăn, thách thức đang ở phía trước.

Đồng chí nhấn mạnh những thành tựu đạt được của đất nước ta trong thời gian qua gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và sự nỗ lực phấn đấu vượt bậc của toàn thể nhân dân, trong đó có sự đóng góp quan trọng của Ban Chấp hành Trung ương khóa X, công lao to lớn của đồng chí Nông Đức Mạnh trên cương vị và trọng trách là Tổng Bí thư. Đồng chí đề nghị Đại hội bày tỏ tình cảm, lòng biết ơn sâu sắc đến toàn thể các đồng chí trong Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và đặc biệt là đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trong nhiệm kỳ X vừa qua.

Đồng chí khẳng định, Ban Chấp

hành Trung ương khóa XI ý thức được rằng những thành tựu và kinh nghiệm quý báu có được trong những nhiệm kỳ trước đây, đặc biệt là trong những năm đổi mới sẽ là nền tảng vững chắc trong bước phát triển tiếp theo của đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Tập thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI sẽ cùng với toàn Đảng tiếp tục phát huy những truyền thống vẻ vang và kinh nghiệm quý báu của Đảng ta, tăng cường sự đoàn kết nhất trí thống nhất tư tưởng, hành động, luôn luôn vững vàng về bản lĩnh chính trị, kiên định tinh thần độc lập, tự chủ, phát huy dân chủ, sáng tạo, không ngừng nỗ lực phấn đấu học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.

Tại phiên bế mạc, đồng chí Ngô Văn Dụ, Trưởng Đoàn Thư ký Đại hội đọc toàn văn dự thảo Nghị quyết Đại hội. Đại hội đã nhất trí thông qua Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong không khí phấn khởi trước thành công tốt đẹp của Đại hội, đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đọc diễn văn bế mạc Đại hội (xin xem toàn văn đăng trong số báo này)

Bá Tuấn - Đăng Trường http//ca.cand.com.vn

Quang cảnh lễ bế mạc Đại hội.

Page 29: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

29

Phát biểu của đồng chí Nông Đức Mạnh tại phiên bế mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng

gày 19-1, tại phiên bế mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của

Đảng, đồng chí Nông Đức Mạnh đã có bài phát biểu. Tạp chí Xây dựng Đảng trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu.

Thưa Đoàn Chủ tịch Đại hội, Thưa các đồng chí đại biểu,

Thưa các vị khách quý, Hôm nay, chúng ta rất vui mừng

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thành công tốt đẹp. Tôi thực sự xúc động và tin tưởng rằng thành công của Đại hội sẽ mở ra một thời kỳ phát triển mới của đất nước ta trên con đường xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tôi nhiệt liệt chúc mừng Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa được Đại hội và Ban Chấp hành Trung ương bầu ra. Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồng chí lão thành cách mạng, các ngành, các cấp cùng toàn thể đồng chí, đồng bào, chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình.

Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với đồng chí, bầu bạn và nhân dân các nước anh em yêu chuộng hoà bình, công lý trên thế giới trong thời gian qua đã hết lòng hợp tác và giúp đỡ Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong công cuộc phát triển và bảo vệ Tổ quốc

cũng như đối với cá nhân tôi trong việc thực hiện trọng trách của mình.

Thưa Đại hội, Kiên định con đường Đảng, Bác

Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, nêu cao ý thức kỷ luật, giữ nghiêm kỷ cương và nguyên tắc sinh hoạt đảng là cơ sở bảo đảm để trong Đảng có sự đoàn kết thực sự và dân chủ thực sự, để Đảng ta ngày càng vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Đại hội của chúng ta với tinh thần đoàn kết, dân chủ, với ý chí cách mạng tiến công, đề ra đường lối trong chặng đường mới và bầu Ban Chấp hành Trung ương do đồng chí Nguyễn Phú Trọng làm Tổng Bí thư sẽ đem lại sức sống mới cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam yêu quý của chúng ta. Tôi có một niềm tin mãnh liệt vào điều đó.

Thưa các đồng chí, Trong quá trình công tác, mặc dù

đã có nhiều cố gắng phấn đấu để hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân giao phó, bản thân tôi vẫn còn những việc thực hiện chưa được như mong

N

Page 30: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

30

muốn của Đảng và của nhân dân. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã có Báo cáo kiểm điểm trước Đại hội. Những hạn chế và khuyết điểm nêu trong Báo cáo có phần trách nhiệm của tôi. Tôi xin hứa sẽ tiếp tục phấn đấu giữ gìn phẩm chất cao đẹp của người đảng viên cộng sản, xứng đáng với sự tin cậy, đùm bọc, giúp đỡ của Đảng, Nhà nước, đồng chí, đồng bào đối với tôi trong suốt nửa

thế kỷ từ khi tham gia cách mạng đến ngày hôm nay.

Với tình cảm, lòng biết ơn và niềm tin vào tương lai tươi sáng của Đảng ta, dân tộc ta, xin chúc các đồng chí đại biểu, các vị khách quý sức khoẻ, hạnh phúc và thắng lợi.

Xin trân trọng cảm ơn. http://www.baomoi.com

Diễn văn bế mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Nguyễn Phú

Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đọc tại phiên bế mạc.

Ngày 19-1, tại phiên bế mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, đã đọc Diễn văn bế mạc. Tạp chí Xây dựng Đảng trân trọng giới thiệu toàn văn bài Diễn văn.

Thưa Đoàn Chủ tịch Đại hội, Thưa các vị khách quý,

Page 31: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

31

Thưa các đồng chí đại biểu Đại hội, Sau 9 ngày làm việc nghiêm túc, khẩn trương, dân chủ, với ý thức trách nhiệm

cao trước Đảng và nhân dân, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã hoàn thành toàn bộ chương trình đề ra và thành công tốt đẹp.

Đại hội đã thảo luận sôi nổi, dân chủ và nhất trí thông qua các văn kiện rất quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, lâu dài đối với sự phát triển của đất nước ta: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2011-2015 và Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi).

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm những đồng chí tiêu biểu cho trên 3,6 triệu đảng viên, có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực, trình độ và đạo đức để gánh vác những trọng trách nặng nề do Đảng và nhân dân giao phó.

Thưa Đại hội, Các văn kiện được thông qua tại Đại hội lần này là sự tổng kết sâu sắc lý luận và

thực tiễn 20 năm thực hiện Cương lĩnh, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001-2010) và 5 năm thực hiện phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội (2006-2010), là sự kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta; là sự tiếp tục khẳng định, hoàn thiện và phát triển quan điểm, đường lối của Đảng ta theo tư tưởng đổi mới; xác định mục tiêu, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân tộc ta trong giai đoạn phát triển mới đầy triển vọng và không ít thách thức của cách mạng nước ta từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo.

Sự thống nhất ý chí của Đại hội biểu thị quyết tâm sắt đá của Đảng ta, trong những năm tới, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phấn đấu thực hiện bằng được mục tiêu "Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại".

Để thực hiện mục tiêu cao cả đó, Đại hội đã thảo luận và thông qua những quvết sách trên tất cả các lĩnh vực cơ bản và trọng yếu của sự nghiệp phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc những năm tới. Những quyết sách trên giữ vai trò vô cùng quan trọng, có giá trị định hướng và chỉ đạo sâu sắc trong toàn bộ quá trình triển khai và tổ chức thực hiện trong thực tiễn phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước 5 năm, 10 năm và 20 năm tới.

Đại hội đã tập trung thảo luận và thông qua những nhiệm vụ to lớn nhằm tiếp tục chỉnh đốn, xây dựng và tự đổi mới Đảng với mục tiêu nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực trí tuệ, phẩm chất và đạo đức cách mạng, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Đại hội nhấn mạnh đến sự đoàn kết, thống nhất ý chí của toàn Đảng trên cơ sở Cương lĩnh và đường lối, quan điểm của Đảng, đến sự gắn bó mật thiết với giai cấp, với nhân dân lao động và dân tộc như là một phẩm chất cốt lõi nhất thể hiện bản chất và sức sống của Đảng. Để đảm bảo sự trong sạch và vững mạnh cũng như uy tín, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, Đại hội nhận thức sâu sắc và thể hiện quyết tâm đẩy mạnh và có những giải pháp nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng và chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên trong hệ

Page 32: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

32

thống chính trị. Đại hội đặc biệt coi trọng và nhấn mạnh trong các buổi thảo luận, trong các văn kiện nhiệm vụ to lớn cần kiên trì chỉ đạo việc thực thi và phát huy dân chủ trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong toàn xã hội, đảm bảo thực hiện bằng được tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Quyền hạn và lực lượng đều ở nơi dân". Đại hội khẳng định rằng, trong những năm tới, nhiệm vụ xây dựng Đảng là nhân tố quyết định để giữ vững vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng, để Đảng thực sự xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.

Với những kết quả trên, chúng ta vui mừng báo cáo với toàn Đảng, toàn dân: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thành công tốt đẹp.

Thưa Đại hội, Tại Đại hội XI của Đảng, nhiều đồng chí trong Ban Chấp hành Trung ương, Bộ

Chính trị, Ban Bí thư khoá X đã không ứng cử vào Ban Chấp hành Trung ương khoá XI, tạo điều kiện để trẻ hoá, bổ sung lực lượng mới vào cơ quan lãnh đạo của Đảng trong nhiệm kỳ mới. Đó là một nghĩa cử cao đẹp. Đại hội chân thành cảm ơn và đánh giá cao những cống hiến trong 5 năm qua của các đồng chí và xin chúc các đồng chí khoẻ mạnh, hạnh phúc, tiếp tục đóng góp tâm huyết, năng lực, kinh nghiệm của mình vào sự nghiệp vẻ vang của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Đại hội đã tiến hành nghiêm túc, đúng Điều lệ Đảng, sáng suốt lựa chọn và bầu các đồng chí đủ tiêu chuẩn, xứng đáng vào Ban Chấp hành Trung ương khoá XI:175 đồng chí Uỷ viên Trung ương chính thức và 25 đồng chí Uỷ viên Trung ương dự khuyết. Đại hội trao cho Ban Chấp hành Trung ương khoá mới trọng trách nặng nề trước Đảng, trước nhân dân, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI. Nhận rõ trách nhiệm to lớn đó trong giai đoạn mới với những thời cơ lớn và thách thức gay gắt, Ban Chấp hành Trung ương khoá XI nguyện đem hết sức mình, toàn tâm toàn ý phụng sự đất nước và dân tộc, phục vụ nhân dân, phấn đấu không ngừng nâng cao năng lực, trình độ, bản lĩnh, phẩm chất đạo đức, cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quyết tâm thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ to lớn đã được Đại hội xác định.

Thưa các đồng chí, Đại hội nhiệt liệt hoan nghênh và trân trọng cảm ơn các đồng chí lão thành cách

mạng, tổ chức đảng các cấp, các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội, các nhân sĩ, văn nghệ sĩ, trí thức, các vị chức sắc tôn giáo, đồng chí, đồng bào, chiến sĩ cả nước, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài..., với ý thức trách nhiệm cao và tình cảm sâu sắc trước đất nước và dân tộc, đã chân thành, thẳng thắn đóng góp trí tuệ, kinh nghiệm nhằm bổ sung, xây dựng các văn kiện Đại hội, góp phần vào thành công của Đại hội.

Đại hội xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc các đảng cộng sản và công nhân, các đảng cầm quyền của các nước, các tổ chức quốc tế... đã gửi điện chúc mừng Đại hội, biểu thị những tình cảm tốt đẹp, hữu nghị và đoàn kết đối với Đảng ta và nhân dân ta.

Page 33: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

33

Đại hội đã nhận được nhiều thư, điện, chúc mừng đến từ mọi miền đất nước và của kiều bào ta ở nước ngoài. Xin chân thành cảm ơn những tình cảm tốt đẹp của đồng bào cả nước.

Đại hội nhiệt liệt hoan nghênh và chân thành cảm ơn các cơ quan thông tấn, báo chí trong và ngoài nước đã đến dự và kịp thời đưa tin về Đại hội.

Đại hội biểu dương và cảm ơn Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội XI của Đảng, toàn thể cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức đã tận tuỵ làm tốt công tác phục vụ Đại hội, góp phần thiết thực vào thành công của Đại hội.

Thưa Đại hội, Thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tạo nên sức

mạnh cổ vũ to lớn toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vượt lên mọi khó khăn, thách thức, tranh thủ cơ hội mới, phấn đấu vì mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Ngay sau Đại hội, tất cả các tổ chức đảng cần tổ chức tốt việc nghiên cứu, quán triệt sâu sắc Nghị quyết, các văn kiện Đại hội, tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân về kết quả Đại hội; khẩn trương xây dựng, triển khai chương trình, kế hoạch hành động, đưa Nghị quyết vào cuộc sống, khơi dậy phong trào thi đua yêu nước sâu rộng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Đại hội nhiệt thành kêu gọi toàn Đảng, toàn quân, đồng bào ta ở trong nước cũng như ở ngoài nước, phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, ra sức thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Với niềm tin tưởng sâu sắc vào sức mạnh, ý chí của toàn Đảng, toàn dân tộc, vào tương lai của đất nước, tôi xin long trọng tuyên bố bế mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Vinh quang đời đời thuộc về dân tộc Việt Nam văn hiến, anh hùng! Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm! Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm! Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta! Xin trân trọng cảm ơn.

http://www.xaydungdang.org.vn

Page 34: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

34

CÁC THÔNG CÁO VỀ TIẾN TRÌNH LÀM VIỆC CỦA ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ XI

Thông cáo ngày làm việc thứ nhất Đại hội Đảng XI

au đây là Thông

cáo báo chí về ngày làm việc thứ nhất Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng:

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức khai mạc sáng ngày 12/1/2011 tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình, Thủ đô Hà Nội. Theo Chương trình, Đại hội được tổ chức từ ngày 12/1 đến ngày 19/1/2011.

Dự Đại hội XI có 1.377 đại biểu thay mặt cho gần 3,7 triệu đảng viên trong toàn Đảng. Trong đó có 178 đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X, 1.188 đại biểu được bầu từ đại hội đảng bộ các tỉnh, thành phố và đảng bộ trực thuộc Trung ương, 11 đại biểu của Đảng bộ Ngoài nước do Trung ương chỉ định theo quy định của Điều lệ Đảng; 149 đại biểu nữ, chiếm tỷ lệ 10,82%; 167 đại biểu các dân tộc thiểu số, chiếm tỷ lệ 12,13%.

Trong 1.377 đại biểu, có 199 đại biểu vào Đảng trước tháng 4/1975, chiếm 14,45%; số đại biểu vào Đảng từ tháng 5/1975 đến tháng 12/1986 là 818 đồng chí, chiếm 59,40%. Số đại biểu vào Đảng từ tháng 1/1987 đến nay có 360 đồng chí, chiếm 26,14% tổng số đại biểu tham dự Đại hội. Đại biểu cao tuổi nhất là đồng chí Trần Hanh, 79 tuổi, Anh hùng lực

lượng vũ trang, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh Việt Nam. Đại biểu trẻ tuổi nhất là đồng chí Vương Thị Mỵ, 29 tuổi, dân tộc Mông, Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang.

Dự Đại hội có các đại biểu khách mời:

- Đồng chí Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng; đồng chí Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng; đồng chí Lê Đức Anh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đồng chí Trần Đức Lương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đồng chí Phan Văn Khải, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đồng chí Nguyễn Văn An, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Quốc hội nước Cộng

Toàn cảnh phiên khai mạc Đại hội Đảng lần thứ XI. (Ảnh: TTXVN)

S

Page 35: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

35

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các đồng chí nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Trung ương Đảng các khóa; các đồng chí nguyên Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ các khóa; các đồng chí nguyên Ủy viên Trung ương Đảng các khóa II, III, IV, V; các đồng chí Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương khoá X; đại biểu Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng; các nhân sĩ, trí thức; đại biểu các tôn giáo; đại biểu thanh niên tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam.

Sáng 11/1/2011, trước khi khai mạc phiên họp trù bị của Đại hội, các đại biểu Đại hội đã vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh và đặt vòng hoa tại Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ.

Tại phiên khai mạc Đại hội, Đoàn đại biểu nhân dân Thủ đô Hà Nội thay mặt nhân dân cả nước đến chào mừng Đại hội.

Đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thay mặt Đoàn Chủ tịch điều hành phiên khai mạc của Đại hội.

Đồng chí Nguyễn Minh Triết, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thay mặt Đoàn Chủ tịch đọc Diễn văn khai mạc Đại hội. Đồng chí Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng trình bày Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về các văn kiện trình Đại hội XI.

Đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng trình bày Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X trình Đại hội XI.

Đại hội đã nghe đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ

nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội, Ủy viên Đoàn Thư ký Đại hội đọc danh sách 103 đảng từ 69 nước và 14 tổ chức quốc tế đã gửi điện chúc mừng Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thay mặt Đoàn Chủ tịch và toàn thể Đại hội phát biểu ý kiến bày tỏ sự trân trọng và cảm ơn nồng nhiệt đối với tình cảm hữu nghị và hợp tác của các chính đảng, tổ chức và bạn bè quốc tế dành cho Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đại hội coi đây là biểu hiện sinh động của mối quan hệ quốc tế của Đảng ta; là sự ủng hộ, cổ vũ, động viên to lớn đối với công cuộc đổi mới của nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.

Tại diễn dàn trọng thể này, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định sẵn sàng mở rộng quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, đảng cánh tả, đảng cầm quyền và các chính đảng khác, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới, vì tình hữu nghị và hợp tác cùng phát triển giữa các dân tộc.

Chiều 12/1/2011, Đại hội làm việc tại các đoàn đại biểu, thảo luận các văn kiện Đại hội XI, gồm:

- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).

- Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2011-2020.

- Báo cáo Chính trị. - Báo cáo một số vấn đề về bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng và Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi). - Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo,

chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X./.

Theo TTXVN http://laodong.com.vn

Page 36: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

36

Thông cáo về ngày làm việc thứ 2 của Đại hội XI

Sáng 13/1, Đại hội tiếp tục làm việc tại các đoàn đại biểu, thảo luận các văn kiện

Đại hội XI. Chiều 13/1, Đại hội làm việc tại Hội trường, thảo luận các văn kiện Đại hội XI. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thay mặt Đoàn Chủ tịch điều hành phiên họp. Trong chiều ngày 13/1, đã có các đại biểu sau đây phát biểu tham luận: - Đồng chí Tạ Ngọc Tấn, Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí

Cộng sản; - Đồng chí Võ Hồng Phúc, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch

và Đầu tư; - Đồng chí Vũ Hồng Khanh, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch

Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội; - Đồng chí Huỳnh Đảm , Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung

ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; - Đồng chí Nguyễn Văn Đua, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Thành phố Hồ

Chí Minh; - Đồng chí Phạm Khôi Nguyên , Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài

nguyên và Môi trường; - Đồng chí Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Trung ương Đảng, Trung tướng, Phó Chủ

nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; - Đồng chí Hoàng Bình Quân, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối

ngoại Trung ương. Phát huy tinh thần dân chủ và trách nhiệm, các đại biểu đã phát biểu ý kiến, bày

tỏ sự quan tâm và nhấn mạnh những vấn đề trọng tâm, quan trọng của các văn kiện, tạo nên không khí sôi nổi, thẳng thắn, dân chủ trong phiên thảo luận đầu tiên tại hội trường của Đại hội.

Đại hội đã nghe đồng chí Hoàng Tuấn Anh, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ủy viên Đoàn Thư ký thông báo danh sách 28 điện mừng của các chính đảng, tổ chức và bạn bè quốc tế vừa gửi tới Đại hội trong ngày khai mạc 12/1, trích đọc điện của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Nhân dân Campuchia và Đảng Cộng sản Cuba chúc mừng Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam.

Như vậy, cho đến ngày 13/1, Đại hội đã nhận được 149 điện mừng của các chính đảng, tổ chức và bạn bè quốc tế từ khắp các châu lục.

Page 37: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

37

Ngày mai, 14/1, Đại hội làm việc tại Hội trường, tiếp tục thảo luận các văn kiện Đại hội XI./.

http://vov.vn/Home

Thông cáo báo chí về ngày làm việc thứ ba Đại hội Đảng XI

Cả ngày 14/1/2011, Đại hội làm việc tại Hội trường, thảo luận các văn kiện

Đại hội XI. Buổi sáng, đồng chí Nguyễn Minh Triết, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước

CHXHCN Việt Nam thay mặt Đoàn Chủ tịch điều hành phiên họp. Buổi chiều, đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính

phủ nước CHXHCN Việt Nam thay mặt Đoàn Chủ tịch điều hành phiên họp. Trong ngày 14/1/2011, đã có các đại biểu sau đây phát biểu tham luận: - Đồng chí Đặng Ngọc Tùng, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam;

- Đồng chí Lê Hữu Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh;

- Đồng chí Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an; - Đồng chí Võ Đức Huy, Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương

- Đồng chí Vũ Tiến Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng;

- Đồng chí Lê Phước Thanh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam;

- Đồng chí Trịnh Long Biên, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương;

- Đồng chí Vũ Văn Phúc, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương; - Đồng chí Niê Thuật, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắc Lắc;

- Đồng chí Nguyễn Thị Thanh Hòa , Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;

- Đồng chí Nguyễn Quốc Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam;

- Đồng chí Đỗ Hoài Nam, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam;

Page 38: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

38

- Đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư thứ nhất Trung ươngĐoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;

- Đồng chí Nguyễn Đức Kiên, Phó Bí thư Tỉnh ủy Sóc Trăng; - Đồng chí Hoàng Tuấn Anh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch; - Đồng chí Phạm Bình Minh, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Thường

trực Bộ Ngoại giao; - Đồng chí Châu Văn Minh, Chủ tịch Viện Khoa học và công nghệ Việt Nam; - Đồng chí Hà Ngọc Chiến, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn đại biểu đảng bộ tỉnh Cao Bằng; - Đồng chí Trần Du Lịch, Phó Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hồ Chí Minh.

Đại hội đã nghe đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội, Ủy viên Đoàn Thư ký Đại hội đọc thông báo danh sách 9 điện mừng của các chính đảng, tổ chức và bạn bè quốc tế vừa gửi tới Đại hội trong ngày 13/1/2011.

Theo chương trình, ngày mai, 15/1/2011, Đại hội làm việc về công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XI.

Theo VGPNEWS http://www.hanoimoi.com.vn

THÔNG CÁO BÁO CHÍ về ngày làm việc thứ tư của Đại hội XI

áng ngày 15-1-2011, Đại hội làm việc tại Hội trường về công tác nhân

sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI.

Đồng chí Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thay mặt Đoàn Chủ tịch điều hành phiên họp.

Đồng chí Hồ Đức Việt, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, thay mặt Đoàn Chủ tịch đọc Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về công tác nhân

sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI.

Theo Quy chế làm việc, Đại hội đã thảo luận tại hội trường về số lượng Uỷ viên chính thức và Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI.

Sau khi thảo luận, Đại hội đã biểu quyết với 100% ý kiến đồng ý:

- Số lượng Uỷ viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khoá XI là 175 đồng chí;

S

Page 39: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

39

- Số lượng Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI là 25 đồng chí.

Đồng chí Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phát biểu ý kiến với Đại hội về một số điểm cần lưu ý trong công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI.

Sau đó các đại biểu Đại hội về làm việc tại đoàn đại biểu để thảo luận

về tiêu chuẩn, cơ cấu và nghiên cứu hồ sơ, tài liệu về công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI.

Chiều ngày 15-1-2011, Đại hội tiếp tục làm việc tại các đoàn đại biểu.

Theo chương trình làm việc, cả ngày 16-1-2011, Đại hội tiếp tục làm việc tại đoàn về công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI./.

http://www.cpv.org.vn

THÔNG CÁO BÁO CHÍ về ngày làm việc thứ năm của Đại hội XI

ả ngày 16-1-2011, Đại hội tiếp tục làm việc tại đoàn đại biểu về công tác nhân

sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI.

Đồng chí Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, điều hành các phiên họp Đoàn Chủ tịch.

Buổi sáng, các đại biểu trao đổi về tiêu chuẩn, cơ cấu, danh sách đề cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI và nghiên cứu các tài liệu, hồ sơ về nhân sự; ghi phiếu đề cử, ứng cử (bổ sung ngoài danh sách đề cử của Ban Chấp hành Trung ương khoá X) vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI. Sau đó, các đoàn đại biểu báo cáo (bằng văn bản) với Đoàn Chủ tịch Đại hội về danh sách đề cử, ứng cử (bổ sungngoài danh sách đề cử của Ban Chấp hành Trung ương khoá X) vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI.

Cuối buổi sáng, Đoàn Chủ tịch Đại hội họp với các trưởng đoàn để

xem xét kết quả thảo luận tại đoàn vềtiêu chuẩn, cơ cấu, danh sách đề cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI.

Đầu buổi chiều, Đoàn Chủ tịch họp với các trưởng đoàn để xem xét kết quả tổng hợp danh sách đề cử, ứng cử (bổ sung, ngoài danh sách đề cử của Ban Chấp hành Trung ương khoá X) Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI; thông báo tổng hợp danh sách đề cử, ứng cử nói trên đến các đoàn đại biểu.

Sau đó, các đại biểu ghi phiếu xin rút khỏi danh sách ứng cử, đề cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI(nếu có) tại đoàn.

Cuối buổi chiều, Đoàn Chủ tịch họp bàn, cho ý kiến về :

- Các trường hợp xin rút khỏi danh sách ứng cử, đề cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI.

- Tiếp thu, giải trình ý kiến thảo luận của đại biểu về các văn kiện Đại

C

Page 40: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

40

hội và các vấn đề cần biểu quyết trong các văn kiện Đại hội.

Theo chương trình làm việc, cả ngày 17-1-2011, Đại hội tiếp tục làm việc về công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI.

http://www.cpv.org.vn

Thông cáo báo chí về ngày làm việc thứ sáu của

Đại hội Đảng XI

Sáng ngày 17/1/2011, Đại hội làm việc tại Hội trường về công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI.

Đồng chí Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng,

thay mặt Đoàn Chủ tịch điều hành phiên họp.

Đồng chí Hồ Đức Việt, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, thay mặt Đoàn Chủ tịch đọc Báo cáo tổng hợp việc ứng cử, đề cử và xin rút ý kiến ứng cử, đề cử nhân sự tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI.

Sau khi thảo luận tại Hội trường, Đại hội đã biểu quyết với 100% ý kiến đồng ý thông qua danh sách bầu cử Ban Chấp hành Trung ương khoá XI gồm :

- Danh sách bầu cử Uỷ viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương khoá XI là 218 đồng chí, với số dư là 24,57% so với số lượng cần bầu 175 đồng chí.

- Danh sách bầu cử Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương khoá XI là 61 đồng chí, với số dư là 144 % so với số lượng cần bầu 25 đồng chí.

Đại hội đã bầu Ban Kiểm phiếu gồm 19 đồng chí.

Buổi chiều các đại biểu nhận và ghi phiếu bầu cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI.

Cuối buổi chiều, Đại hội tiến hành bỏ phiếu bầu cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tại Hội trường.

http://www.cpv.org.vn

Đại hội tiến hành bỏ phiếu bầu cử Ban

Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI. - Ảnh: Chinhphu.vn

Page 41: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

41

Thông cáo báo chí về ngày làm việc thứ bảy của Đại hội XI

áng ngày 18-1, Đại hội làm việc tại Hội trường về văn kiện Đại hội và nhân sự

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.

Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thay mặt Đoàn Chủ tịch điều hành phiên họp.

Đồng chí Trương Tấn Sang, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, thay mặt Đoàn Chủ tịch đọc Báo cáo giải trình tiếp thu ý kiến các đại biểu về các văn kiện Đại hội.

Sau khi thảo luận về Báo cáo tiếp thu giải trình của Đoàn Chủ tịch, Đại hội đã bỏ phiếu biểu quyết một số vấn đề thuộc nội dung các văn kiện Đại hội.

Đồng chí Trịnh Long Biên, Trưởng Ban Kiểm phiếu báo cáo kết quả bầu cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI và công bố danh sách các đồng chí trúng cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (chính thức và dự khuyết).

Đại hội đã biểu quyết với 100% ý kiến đồng ý thông qua kết quả bầu cử và danh sách các đồng chí trúng cử Ban

Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (chính thức và dự khuyết).

Đồng chí Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, thay mặt Đoàn Chủ tịch điều hành phần bỏ phiếu giới thiệu nhân sự ứng cử chức danh Tổng Bí thư trong số các đồng chí Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương mới được bầu.

Các đại biểu bỏ phiếu giới thiệu nhân sự ứng cử chức danh Tổng Bí thư. Buổi chiều, các đại biểu Đại hội nghỉ. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI họp phiên thứ nhất để bầu Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XI.

Nguồn: Web.ĐHXI http://www.xaydungdang.org.vn

Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam

S

Page 42: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

42

Thông cáo báo chí phiên bế mạc Đại hội XI của Đảng

áng 19/1/2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng

đã họp phiên bế mạc. Đồng chí Nguyễn Minh Triết -

Ủy viên Bộ Chính trị khóa X, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam điều khiển phiên bế mạc.

Dự Đại hội có các đại biểu khách mời:

Đồng chí Đỗ Mười - Nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng; đồng chí Lê Khả Phiêu, - Nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng; đồng chí Lê Đức Anh - Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đồng chí Trần Đức Lương - Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đồng chí Phan Văn Khải - Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đồng chí Nguyễn Văn An, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các đồng chí nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch nước, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ các khóa; các đồng chí nguyên Ủy viên Trung ương Đảng các khóa II, III, IV, V; các đồng chí Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XI; đại biểu Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng; các nhân sỹ, trí thức; đại biểu các tôn giáo; đại biểu

thanh niên tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam.

Đồng chí Đinh Thế Huynh - Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Biên tập báo Nhân dân, Ủy viên Đoàn Thư ký Đại hội đọc danh sách 18 đảng, tổ chức và bạn bè quốc tế vừa mới gửi thư, điện chúc mừng Đại hội. Như vậy, cho đến phiên bế mạc Đại hội đã nhận được 176 điện mừng của các chính đảng, tổ chức và bạn bè quốc tế.

Đồng chí Nguyễn Minh Triết đã thay mặt Đoàn Chủ tịch và toàn thể Đại hội một lần nữa bày tỏ sự trân trọng và cảm ơn đối với tình cảm hữu nghị và hợp tác của các chính đảng, tổ chức và bạn bè quốc tế dành cho Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đại hội coi đây là biểu hiện sinh động của mối quan hệ quốc tế của Đảng ta; là sự ủng hộ, cổ vũ, động viên to lớn đối với công cuộc đổi mới của nhân dân

Đồng chí Nông Đức Mạnh chúc mừng đồng chí

Nguyễn Phú Trọng nhậm chức Tổng Bí thư khóa XI. (Ảnh: TTXVN

S

Page 43: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

43

Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.

Tại diễn đàn trọng thể này, một lần nữa, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định sẵn sàng mở rộng quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, đảng cánh tả, đảng cầm quyền và các chính đảng khác, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng, tiến bộ và bạn bè trên thế giới, vì tình hữu nghị và hợp tác cùng phát triển giữa các dân tộc.

Đồng chí Đinh Thế Huynh đọc Báo cáo kết quả biểu quyết một số vấn đề trong các văn kiện Đại hội .

Đồng chí Tạ Ngọc Tấn - Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, Ủy viên Đoàn Thư ký Đại hội lên đọc toàn văn Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được sửa đổi, bổ sung tại Đại hội XI của Đảng để Đại hội thông qua.

Đại hội đã biểu quyết với 100% ý kiến đồng ý thông qua toàn văn Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đồng chí Trương Tấn Sang - Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, thay mặt Đoàn Chủ tịch Đại hội đọc Báo cáo kết quả bầu Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung

ương, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XI.

Sau đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ra mắt Đại hội.

Đồng chí Nông Đức Mạnh - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X phát biểu ý kiến và tặng hoa chúc mừng đồng chí Nguyễn Phú Trọng - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.

Đồng chí Nguyễn Phú Trọng - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tặng hoa chúc mừng đồng chí Nông Đức Mạnh - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X và phát biểu ý kiến.

Đồng chí Ngô Văn Dụ - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Trưởng Đoàn Thư ký Đại hội đọc dự thảo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.

Đại hội đã biểu quyết với 100% ý kiến đồng ý thông qua Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.

Đồng chí Nguyễn Phú Trọng phát biểu bế mạc Đại hội.

http://laodong.com.vn

Page 44: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

44

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC

LẦN THỨ XI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

PHẦN 2

MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC

LẦN THỨ XI

Page 45: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

45

KẾT QUẢ BẦU BỘ CHÍNH TRỊ, TỔNG BÍ THƯ BAN BÍ THƯ, ỦY BAN KIỂM TRA TRUNG ƯƠNG

VÀ CHỦ NHIỆM ỦY BAN KIỂM TRA TRUNG ƯƠNG

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI gồm 200 đồng chí, trong đó có 175 đồng chí Uỷ viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương và 25 đồng chí Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương.

Theo chương trình làm việc của Đại hội, chiều ngày 18-01-2011, Ban Chấp hành Trung ương khoá XI đã họp Hội nghị lần thứ nhất để bầu Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Ban Bí thư, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương.

Thay mặt Đoàn Chủ tịch Đại hội, xin báo cáo kết quả Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khoá XI như sau :

I- Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 đồng chí : 1- Đồng chí Trương Tấn Sang 2- Đồng chí Phùng Quang Thanh 3- Đồng chí Nguyễn Tấn Dũng 4- Đồng chí Nguyễn Sinh Hùng 5- Đồng chí Lê Hồng Anh 6- Đồng chí Lê Thanh Hải 7- Đồng chí Tô Huy Rứa 8- Đồng chí Nguyễn Phú Trọng 9- Đồng chí Phạm Quang Nghị 10- Đồng chí Trần Đại Quang 11- Đồng chí Tòng Thị Phóng 12- Đồng chí Ngô Văn Dụ 13- Đồng chí Đinh Thế Huynh 14- Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc II- Ban Chấp hành Trung ương đã bầu đồng chí Nguyễn Phú Trọng làm Tổng Bí

thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI. III- Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị phân công một số đồng chí

Uỷ viên Bộ Chính trị tham gia Ban Bí thư. Tại Hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương đã bầu 4 đồng chí vào Ban Bí thư gồm :

1- Đồng chí Ngô Xuân Lịch 2- Đồng chí Trương Hoà Bình

Page 46: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

46

3- Đồng chí Hà Thị Khiết 4- Đồng chí Nguyễn Thị Kim Ngân IV- Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Uỷ ban Kiểm tra Trung ương khoá XI

gồm 21 đồng chí, do đồng chí Ngô Văn Dụ, Uỷ viên Bộ Chính trị, làm Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương khoá XI.

http://www.cpv.org.vn

DANH SÁCH ỦY VIÊN BỘ CHÍNH TRỊ KHÓA XI

Bộ Chính trị khóa XI ra mắt Đại hội. Ảnh: TTXVN

Đồng chí Nguyễn Phú Trọng

Tổng Bí Thư

Đồng chí Nguyễn Tấn Dũng

Thủ tướng, Uỷ viên Bộ Chính trị khoá VIII, IX, X;

Page 47: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

47

Đồng chí Tô Huy Rứa

Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, Uỷ viên Bộ Chính trị khoá X;

Đồng chí Nguyễn Sinh Hùng

Phó Thủ tướng, Ủy viên Bộ Chính trị khóa X;

Đồng chí Trương Tấn Sang

Thường trực Ban Bí thư; Uỷ viên Bộ Chính trị khoá VIII, IX, X;

Đồng chí Ngô Văn Dụ

Chánh Văn phòng Trung ương Đảng;

Đồng chí Phạm Quang Nghị

Bí thư Thành ủy Hà Nội, Ủy viên Bộ Chính trị khóa X;

Đồng chí Lê Thanh Hải

Bí thư Thành ủy TP HCM, Uỷ viên Bộ Chính trị khoá X;

Page 48: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

48

Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ.

Đồng chí Tòng Thị Phóng

Phó Chủ tịch Quốc hội;

Đồng chí Lê Hồng Anh

Bộ trưởng Công an, Ủy viên Bộ Chính trị khóa IX, X;

Đồng chí Trần Đại Quang

Thứ trưởng Bộ Công an;

Đồng chí Phùng Quang Thanh

Bộ trưởng Quốc Phòng; Ủy viên Bộ Chính trị khóa X;

Đồng chí Đinh Thế Huynh

Tổng Biên tập báo Nhân Dân, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam;

http://www.cand.com.vn

Page 49: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

49

DANH SÁCH UỶ VIÊN CHÍNH THỨC BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHOÁ XI

1. Hoàng Tuấn Anh UVTWĐ, Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch

2. Lê Hồng Anh UVBCT, Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Công an

3. Lê Thị Thu Ba UVTWĐ, Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội

4. Hà Ban Bí thư Tỉnh uỷ Kon Tum

5. Bùi Quang Bền Bí thư Tỉnh uỷ Kiên Giang

6. Dương Thanh Bình Bí thư Tỉnh uỷ Cà Mau

7. Nguyễn Hoà Bình Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Ngãi

8. Nguyễn Thái Bình UVTWĐ, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ

9. Nguyễn Thanh Bình Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Hà Tĩnh

10. Nguyễn Văn Bình Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

11. Phan Thanh Bình UVTWDK, Thành uỷ viên, Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

12. Trương Hoà Bình UVTWĐ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao

13. Lương Ngọc Bính Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Quảng Bình

14. Huỳnh Minh Chắc Bí thư Tỉnh uỷ Hậu Giang

15. Lê Chiêm Thiếu tướng, Tư lệnh Quân khu 5 - Bộ Quốc phòng

16. Đỗ Văn Chiến UVTWDK, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Tuyên Quang

17. Hà Ngọc Chiến Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Cao Bằng

18. Võ Minh Chiến UVTWĐ, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Sóc Trăng

19. Mai Văn Chính UVTWDK, Bí thư Tỉnh uỷ Long An

Page 50: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

50

20. Phạm Minh Chính Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an

21. Phạm Thị Hải Chuyền UVTWĐ, Phó Chủ nhiệm Thường trực Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

22. Nguyễn Thành Cung UVTWĐ, Trung tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam

23. Đinh Văn Cương UVTWĐ, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Bắc

24. Hà Hùng Cường UVTWĐ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp

25. Lương Cường Trung tướng, Chính uỷ Quân khu 3 - Bộ Quốc phòng

26. Nguyễn Quốc Cường UVTWĐ, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam

27. Nguyễn Xuân Cường Bí thư Tỉnh uỷ Bắc Kạn

28. Nguyễn Thị Doan UVTWĐ, Phó Chủ tịch nước

29. Ngô Văn Dụ BTTWĐ, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng

30. Đào Ngọc Dung UVTWĐ, Bí thư Tỉnh uỷ Yên Bái

31. Đinh Tiến Dũng Bí thư Tỉnh uỷ Ninh Bình

32. Mai Tiến Dũng Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam

33. Nguyễn Chí Dũng Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Thuận

34. Nguyễn Tấn Dũng UVBCT, Thủ tướng Chính phủ

35. Phan Xuân Dũng UVTWDK, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học – Công nghệ và Môi trường của Quốc hội

36. Trần Trí Dũng Bí thư Tỉnh uỷ Trà Vinh

37. Trịnh Đình Dũng UVTWĐ, Thứ trưởng Bộ Xây dựng

38. Võ Văn Dũng UVTWDK, Bí thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu

39. Mai Thế Dương UVTWĐ, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

40. Vũ Đức Đam UVTWDK, Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Ninh

Page 51: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

51

41. Trần Đơn Thiếu tướng, Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 7 - Bộ Quốc phòng

42. Lê Hữu Đức Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng

43. Phạm Xuân Đương Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên

44. Lò Văn Giàng Bí thư Tỉnh uỷ Lai Châu

45. Nguyễn Văn Giàu UVTWĐ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

46. Nguyễn Thị Thu Hà Phó Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh

47. Phạm Hồng Hà Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Nam Định

48. Hoàng Trung Hải UVTWĐ, Phó Thủ tướng Chính phủ

49. Lê Thanh Hải UVBCT, Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh

50. Nguyễn Đức Hải Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam

51. Trần Lưu Hải UVTWĐ, Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương

52. Trần Văn Hằng UVTWĐ, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương

53. Phùng Quốc Hiển UVTWĐ, Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội

54. Nguyễn Văn Hiến UVTWĐ, Phó Đô đốc Hải quân, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Quân chủng Hải quân

55. Đặng Văn Hiếu UVTWĐ, Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an

56. Dương Đức Hoà Thiếu tướng, Tư lệnh Quân khu 2 - Bộ Quốc phòng

57. Nguyễn Thị Thanh Hoà UVTWĐ, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

58. Phương Minh Hoà UVTWĐ, Trung tướng, Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, Bộ Quốc phòng

Page 52: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

52

59. Bùi Thị Minh Hoài UVTWDK, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nông dân Việt Nam

60. Vũ Huy Hoàng UVTWĐ, Bộ trưởng Bộ Công thương

61. Vũ Ngọc Hoàng UVTWĐ, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương

62. Vương Đình Huệ UVTWĐ, Tổng Kiểm toán Nhà nước

63. Nguyễn Sinh Hùng UVBCT, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ

64. Phạm Xuân Hùng UVTWĐ, Trung tướng, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam

65. Trần Quốc Huy Bí thư Tỉnh uỷ Đắc Nông

66. Đinh Thế Huynh UVTWĐ, Tổng Biên tập Báo Nhân Dân

67. Nguyễn Tấn Hưng UVTWĐ, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Bình Phước

68. Thuận Hữu PhóTổng Biên tập Báo Nhân Dân

69. Nguyễn Tuấn Khanh UVTWĐ, Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương

70. Nguyễn Doãn Khánh Bí thư Tỉnh uỷ Phú Thọ

71. Trương Quang Khánh UVTWĐ, Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng

72. Hà Thị Khiết BTTWĐ, Trưởng Ban Dân vận Trung ương

73. Phùng Thanh Kiểm Bí thư Tỉnh uỷ Lạng Sơn

74. Vũ Trọng Kim UVTWĐ, Phó Chủ tịch - Tổng Thư ký Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

75. Tô Lâm Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an

76. Ngô Xuân Lịch UVTWĐ, Trung tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam

77. Đào Tấn Lộc UVTWĐ, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Phú Yên

78. Phạm Vũ Luận Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo

79. Uông Chu Lưu UVTWĐ, Phó Chủ tịch Quốc hội

Page 53: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

53

80. Trương Thị Mai UVTWĐ, Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Uỷ ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội

81. Trần Thanh Mẫn UVTWDK, Phó Bí thư Thành uỷ, Chủ tịch UBND Thành phố Cần Thơ

82. Châu Văn Minh Chủ tịch Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam

83. Nguyễn Tuấn Minh UVTWĐ, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

84. Phạm Bình Minh UVTWĐ, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao

85. Trần Bình Minh Phó Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam

86. Trần Văn Minh Phó Bí thư Thành uỷ, Chủ tịch UBND Thành phố Đà Nẵng

87. Bùi Văn Nam Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an

88. Nguyễn Phương Nam Thiếu tướng, Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng QK9 - Bộ Quốc phòng

89. Nguyễn Văn Nên Bí thư Tỉnh uỷ Tây Ninh

90. Nguyễn Thị Kim Ngân UVTWĐ, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội

91. Phạm Quang Nghị UVBCT, Bí thư Thành uỷ Hà Nội

92. Trương Quang Nghĩa Bí thư Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương

93. Phạm Quý Ngọ Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an, Thủ trưởng cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an

94. Hồ Mẫu Ngoạt Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng

95. Trần Thế Ngọc Bí thư Tỉnh uỷ Tiền Giang

96. Nguyễn Thiện Nhân UVTWĐ, Phó Thủ tướng Chính phủ

97. Hà Sơn Nhin UVTWĐ, Bí thư Tỉnh uỷ Gia Lai

98. Mai Văn Ninh Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Thanh Hoá

Page 54: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

54

99. Vũ Văn Ninh UVTWĐ, Bộ trưởng Bộ Tài chính

100. Nguyễn Thị Nương UVTWĐ, Phó Trưởng ban Dân vận Trung ương

101. Nguyễn Đình Phách UVTWĐ, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

102.Cao Đức Phát UVTWĐ, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

103.Mai Quang Phấn UVTWĐ, Trung tướng, Chính uỷ Quân khu 4 - Bộ Quốc phòng

104. Nguyễn Thành Phong Bí thư Tỉnh uỷ Bến Tre

105. Tòng Thị Phóng BTTWĐ, Phó Chủ tịch Quốc hội

106. Lê Hữu Phúc UVTWĐ, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Quảng Trị

107. Nguyễn Hạnh Phúc Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Thái Bình

108. Nguyễn Xuân Phúc UVTWĐ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ

109.Võ Văn Phuông UVTWDK, Phó Bí thư Tỉnh uỷ Tây Ninh

110. Giàng Seo Phử UVTWĐ, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc

111. Ksor Phước UVTWĐ, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội

112. Lê Thanh Quang Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Khánh Hoà

113. Nguyễn Minh Quang UVTWĐ, Bí thư Đảng uỷ Khối các cơ quan Trung ương

114. Trần Đại Quang UVTWĐ, Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an

115. Hoàng Bình Quân UVTWĐ, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương

116. Lê Hoàng Quân UVTWĐ, Phó Bí thư Thành uỷ, Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh

117. Nguyễn Quân Thứ trưởng Thường trực Bộ Khoa học và Công nghệ

Page 55: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

55

118. Nguyễn Tấn Quyên UVTWĐ, Bí thư Thành uỷ, Chủ tịch HĐND thành phố Cần Thơ

119. Bùi Thanh Quyến UVTWĐ, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Hải Dương

120.Nguyễn Văn Quynh UVTWĐ, Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương

121. Tô Huy Rứa UVBCT, BTTWĐ, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương

122.Trương Tấn Sang Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư

123.Phan Văn Sáu Bí thư Tỉnh uỷ An Giang

124. Nguyễn Bắc Son UVTWĐ, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương

125. Hồ Xuân Sơn Thứ trưởng Bộ Ngoại giao

126. Huỳnh Ngọc Sơn UVTWĐ, Phó Chủ tịch Quốc hội

127. Nguyễn Thanh Sơn UVTWDK, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang

128. Thào Xuân Sùng UVTWĐ, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Sơn La

129. Lê Vĩnh Tân Bí thư Tỉnh uỷ Đồng Tháp

130. Tạ Ngọc Tấn UVTWĐ, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

131. Ngô Thị Doãn Thanh Phó Bí thư Thành uỷ, Chủ tịch HĐND Thành phố Hà Nội

132. Nguyễn Bá Thanh UVTWĐ, Bí thư Thành uỷ, Chủ tịch HĐND thành phố Đà Nẵng

133. Phùng Quang Thanh UVBCT, Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng

134.Nguyễn Văn Thành Bí thư Thành uỷ Hải Phòng

135. Trần Đình Thành UVTWĐ, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Đồng Nai

136. Nguyễn Thế Thảo UVTWĐ, Phó Bí thư Thành uỷ, Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội

137. Đinh La Thăng UVTWĐ, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam

Page 56: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

56

138. Nguyễn Xuân Thắng Phó Chủ tịch Viện Khoa học Xã hội Việt Nam

139.Sơn Minh Thắng Tỉnh uỷ viên, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Trà Vinh

140. Đào Trọng Thi UVTWĐ, Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá Giáo dục – Thanh thiếu niên nhi đồng của Quốc hội

141. Nguyễn Ngọc Thiện Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế

142.Nguyễn Văn Thiện Bí thư Tỉnh uỷ Bình Định

143. Đặng Thị Ngọc Thịnh UVTWDK, Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Long

144.Nguyễn Văn Thông Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên

145. Niê Thuật UVTWĐ, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Đắk Lắk

146. Võ Văn Thưởng UVTWDK, Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

147.Huỳnh Văn Tí UVTWĐ, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Bình Thuận

148. Nguyễn Thị Kim Tiến UVTWDK, Thứ trưởng Bộ Y tế

149. Nguyễn Xuân Tiến Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Lâm Đồng

150.Bùi Văn Tỉnh Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Hoà Bình

151. Phan Đình Trạc Bí thư Tỉnh uỷ Nghệ An

152. Huỳnh Phong Tranh UVTWĐ, Bí thư Tỉnh uỷ Lâm Đồng

153. Lò Mai Trinh Bí thư Tỉnh uỷ Điện Biên

154. Nguyễn Phú Trọng UVBCT, Chủ tịch Quốc hội

155. Đào Việt Trung Thứ trưởng Bộ Ngoại giao

156.Mai Thế Trung UVTWĐ, Bí thư Tỉnh uỷ Bình Dương

157. Nguyễn Thế Trung UVTWĐ, Phó trưởng Ban Thường trực Ban Dân vận Trung ương

Page 57: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

57

158. Võ Tiến Trung Trung tướng, Giám đốc Học viện Quốc phòng – Bộ Quốc phòng

159.Mai Trực Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

160. Bế Xuân Trường Thiếu tướng, Tư lệnh Quân khu 1 - Bộ Quốc phòng

161. Trần Cẩm Tú UVTWDK, Uỷ viên Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

162. Nông Quốc Tuấn Bí thư Tỉnh uỷ Bắc Giang

163. Đặng Ngọc Tùng UVTWĐ, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam

164.Trần Văn Tuý Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh

165. Đỗ Bá Tỵ UVTWĐ, Trung tướng, Tổng Tham mưu trưởng QĐNDVN, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng

166. Nguyễn Hữu Vạn Bí thư Tỉnh uỷ Lào Cai

167. Nguyễn Sáng Vang Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Tuyên Quang

168. Nguyễn Hoàng Việt UVTWĐ, Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương

169. Võ Trọng Việt Trung tướng, Chính uỷ Bộ đội Biên phòng – Bộ Quốc phòng

170. Bùi Quang Vinh UVTWĐ, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư

171. Triệu Tài Vinh UVTWDK, Bí thư Tỉnh uỷ Hà Giang

172. Nguyễn Chí Vịnh Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng

173.Phạm Văn Vọng Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc

174. Lê Quý Vương Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an

175. Trần Quốc Vượng UVTWĐ, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

http://www.cpv.org.vn

Page 58: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

58

Danh sách Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương khóa XI

STT Họ và tên Chức vụ, đơn vị công tác

hiện nay

01 Chu Ngọc Anh Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ

02 Nguyễn Xuân Anh Ủy viên Ban Thường vụ Thành uỷ, Bí thư Quận uỷ Liên Chiểu, Đà Nẵng

03 Tất Thành Cang Thành uỷ viên, Bí thư Quận uỷ, Chủ tịch UBND quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh

04 Nguyễn Tân Cương Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân đoàn 1, Bộ Quốc phòng

05 Bùi Văn Cường Phó bí thư Tỉnh uỷ Gia Lai

06 Nguyễn Phú Cường Tỉnh uỷ viên, Phó bí thư Thành uỷ, Chủ tịch UBND Thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai

07 Nguyễn Công Định Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch HĐND huyện Mỏ Cày Nam, Bến Tre

08 Trần Hồng Hà Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường

09 Ngô Đông Hải Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ Hoài Ân, Bình Định

10 Điểu Kré UVTWDK, Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Bí thư Thị uỷ Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông

11 Hầu A Lềnh UVTWDK, Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Bí thư Huyện uỷ Sa Pa, Lào Cai

12 Bh'Riu Liếc Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ Tây Giang, tỉnh Quảng Nam

13 Nguyễn Hồng Lĩnh UVTWDK, Phó bí thư Tỉnh uỷ Bà Rịa – Vũng

Tàu

14 Lâm Văn Mẫn Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng

Page 59: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

59

15 Phạm Hoài Nam Phó chỉ huy trưởng kiêm Tham mưu trưởng vùng 4, Quân chủng Hải quân, Bộ Quốc phòng

16 Nguyễn Thanh Nghị Phó hiệu trưởng Trường Đại học Kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh

17 Phùng Xuân Nhạ Thành uỷ viên, Phó giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội

18 Trần Lưu Quang Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh

19 Nguyễn Thị Thanh Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh uỷ Ninh Bình

20 Trần Sỹ Thanh Phó bí thư Tỉnh uỷ Đắk Lắk

21 Nguyễn Văn Thể Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Bí thư Huyện uỷ Tân Hồng, Đồng Tháp

22 Nguyễn Khắc Toàn Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Bí thư Thành uỷ Cam Ranh, tỉnh Khánh Hoà

23 Nguyễn Thị Tuyến Thành uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội; Đại biểu QH khoá XII

24 Nguyễn Đắc Vinh Bí thư Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh

25 Võ Thị Ánh Xuân Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Bí thư Thị uỷ Tân Châu, tỉnh An Giang

http://www.xaydungdang.org.vn

Page 60: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

60

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

PHẦN 3 ĐƯA NGHỊ QUYẾT

CỦA ĐẢNG VÀO CUỘC SỐNG

Page 61: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

61

NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XI

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 12-

01-2011 đến ngày 19-01-2011, tại Thủ đô Hà Nội, sau khi thảo luận các văn kiện do Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X trình,

QUYẾT NGHỊ I- Thông qua dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI chỉ đạo Bộ Chính trị, căn cứ

Báo cáo giải trình của Đoàn Chủ tịch Đại hội, kết quả biểu quyết, để hoàn chỉnh và chính thức ban hành.

II- Thông qua dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020. Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI chỉ đạo Bộ Chính trị, căn cứ

Báo cáo giải trình của Đoàn Chủ tịch Đại hội, kết quả biểu quyết, để hoàn chỉnh và chính thức ban hành.

III- Tán thành những nội dung cơ bản về đánh giá tình hình 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X (2006-2010) và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2011-2015 nêu trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X trình Đại hội XI:

1- Về đánh giá tình hình 5 năm 2006-2010 Trong bối cảnh quốc tế và trong nước có rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là

do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Đại hội X; ứng phó có kết quả trước những diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước; cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, các ngành đều có bước phát triển, quy mô nền kinh tế tăng lên. Đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao; phát huy dân chủ có tiến bộ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được tăng cường; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt một số kết quả tích cực.

Kết quả đạt được trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Page 62: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

62

Tuy nhiên, cũng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm cần quyết tâm khắc phục. Một số chỉ tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra chưa đạt. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá chậm; chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý, phân hoá giàu nghèo tăng lên. Những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường chậm được khắc phục; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức, lối sống chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Thể chế kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm yếu cản trở sự phát triển. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm. Còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội.

Những hạn chế, yếu kém nói trên có nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh; sự chống phá của các thế lực thù địch; những yếu kém vốn có của nền kinh tế; nhưng trực tiếp và quyết định vẫn là nguyên nhân chủ quan : Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhận thức trên một số vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu thống nhất. Công tác dự báo trong nhiều lĩnh vực còn yếu. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực và một số vấn đề lớn chưa tập trung, kiên quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

2- Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, có thể rút ra một số kinh nghiệm :

Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đổi mới toàn diện, đồng bộ với những bước đi thích hợp. Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc. Mở rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và cả cộng đồng.

Hai là, phải thật sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững. Nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển lực lượng sản xuất phải đồng thời xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp; củng cố và tăng cường các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.

Ba là, phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa,

Page 63: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

63

đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thật sự phát huy dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng về chính trị, tư tưởng, trong sáng về đạo đức, lối sống, có sức chiến đấu cao, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ; phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

Năm là, trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước; chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội.

3- Dự báo tình hình thế giới và trong nước những năm sắp tới Trên thế giới : Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có

những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, tranh chấp lãnh thổ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe doạ an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường... còn tiếp tục gia tăng.

Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế. Toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn; chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức; cơ cấu lại thể chế, các ngành, lĩnh vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở các nước; tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn có nhiều thay đổi. Cạnh tranh về kinh tế - thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao... giữa các nước ngày càng gay gắt. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp vẫn diễn biến phức tạp.

Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông - Nam Á vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. ASEAN tiếp tục đẩy mạnh liên kết khu vực, xây dựng cộng đồng, có vai trò ngày càng quan trọng trong khu vực, song còn nhiều khó khăn, thách thức.

Page 64: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

64

Ở trong nước: Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986-2011) đã tạo ra cho đất nước lực và thế, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Năm năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta tiếp tục phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng sau thời kỳ suy giảm; sẽ thực hiện nhiều hơn các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Tuy nhiên, nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" có những diễn biến phức tạp.

Nhìn chung, những tình hình và xu hướng nêu trên sẽ tạo ra cả những thời cơ và thách thức đan xen đối với sự phát triển của đất nước trong 5 năm tới.

4- Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm 2011-2015 Mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới là: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và

sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Nhiệm vụ chủ yếu: - Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế

theo hướng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức. Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Tiếp tục xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Bảo vệ môi trường, chủ động phòng tránh thiên tai, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu.

- Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, trật tự an toàn xã hội; ngăn chặn,

Page 65: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

65

làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.

- Tiếp tục phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương; đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp; thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

- Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác cán bộ, kiểm tra, giám sát và tư tưởng; thường xuyên học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Phấn đấu đạt được các chỉ tiêu chủ yếu: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2011-2015: 7,0 - 7,5%/năm. Giá trị

gia tăng công nghiệp - xây dựng bình quân 5 năm tăng 7,8 - 8%; giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân 5 năm 2,6 - 3%/năm. Cơ cấu GDP : nông nghiệp 17 - 18%, công nghiệp và xây dựng 41 - 42%, dịch vụ 41 - 42%; sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 35% tổng GDP; tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 12%/năm, giảm nhập siêu, phấn đấu đến năm 2020 cân bằng được xuất nhập khẩu. Vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm đạt 40% GDP. Tỉ lệ huy động vào ngân sách nhà nước đạt 23 - 24% GDP; giảm mức bội chi ngân sách xuống 4,5% GDP vào năm 2015. Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động. Tỉ trọng lao động nông - lâm - thuỷ sản năm 2015 chiếm 40 - 41% lao động xã hội. Thu nhập của người dân nông thôn tăng 1,8 - 2 lần so với năm 2010. Tốc độ tăng dân số đến năm 2015 khoảng 1%. Năm 2015, GDP bình quân đầu người khoảng 2.000 USD. Tuổi thọ trung bình năm 2015 đạt 74 tuổi. Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm bình quân 2%/năm. Tỉ lệ che phủ rừng năm 2015 đạt 42 - 43%.

Trong nhiệm kỳ khoá XI, trên cơ sở quán triệt và lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện việc thực hiện các quan điểm, nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực đã nêu trong Báo cáo chính trị, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau :

- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; - Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính liên quan đến tổ

chức và hoạt động của doanh nghiệp, sinh hoạt của nhân dân; - Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước; - Xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, nhất là hệ thống giao

thông, yếu tố đang gây ách tắc, cản trở sự tăng trưởng kinh tế, gây bức xúc trong nhân dân;

Page 66: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

66

- Đổi mới quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; khắc phục tình trạng bất hợp lý và tác động tiêu cực của quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập hiện nay;

- Tập trung giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối sống, tệ nạn xã hội, trật tự, kỷ cương xã hội);

- Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí để thực sự ngăn chặn, đẩy lùi được tệ nạn này.

IV- Thông qua Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X trình Đại hội XI. Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI tiếp thu ý kiến của Đại hội, phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong nhiệm kỳ tới.

V- Thông qua toàn văn Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã được bổ sung, sửa đổi.

VI- Thông qua kết quả bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI gồm 200 đồng chí, trong đó 175 đồng chí Uỷ viên Trung ương chính thức, 25 đồng chí Uỷ viên Trung ương dự khuyết.

VII- Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI và các cấp uỷ, tổ chức đảng xây dựng chương trình hành động, các kế hoạch công tác để cụ thể hoá và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối và những chủ trương đã nêu trong các văn kiện Đại hội XI.

VIII- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và đồng bào ta ở nước ngoài, tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, của Đảng, nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, năng động và sáng tạo, ra sức thi đua quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

http://www.xaydungdang.org.vn

Page 67: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

67

BỘ CHÍNH TRỊ RA CHỈ THỊ VỀ HỌC TẬP, QUÁN TRIỆT, TRIỂN KHAI NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI CỦA ĐẢNG

gày 17-3-2011, Bộ Chính trị đã

ra Chỉ thị số 01-CT/TW về học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Toàn văn Chỉ thị:

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã thành công tốt đẹp. Đại hội đã thông qua Nghị quyết và các văn kiện quan trọng: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi).

Để triển khai việc học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Bộ Chính trị yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, các cấp, các ngành thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây:

1- Chủ động xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XI. Trên cơ sở nắm vững đường lối, quan điểm, chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ nêu trong Nghị quyết và các văn kiện Đại hội XI, Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ, Đảng đoàn Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đảng đoàn đoàn thể chính trị - xã hội, các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương, các cấp, các ngành chủ động xây dựng chương trình hành động triển khai thực hiện một cách tích cực, sáng tạo, phù hợp với điều kiện cụ thể của ngành, địa phương, đơn vị và tạo ra

phong trào thi đua trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội đã đề ra.

Trong xây dựng chương trình hành động, cần chú trọng đề ra các biện pháp thiết thực, có lộ trình hợp lý giải quyết có hiệu quả các vấn đề bức xúc, cấp bách nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đảm bảo đời sống nhân dân, thúc đẩy sản xuất phát triển, đồng thời làm tốt công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền tạo sự đồng thuận cao trong nhân dân.

2- Tập trung chuẩn bị và tổ chức tốt đợt học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XI, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của năm 2011.

Các văn kiện Đại hội XI cần tập trung học tập, quán triệt là : Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 201l), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi). Cần tổ chức thảo luận, phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn, nhận thức rõ các quan điểm cơ bản, những điểm mới của các

N

Page 68: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

68

văn kiện, làm rõ nội dung các quan điểm, chủ trương, mục tiêu, giải pháp, định hướng trong mỗi văn kiện.

Kết hợp học tập, quán triệt, phổ biến các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI với phổ biến, quán triệt nghị quyết đại hội và thảo luận chương trình hành động của Đảng bộ mình. Trên cơ sở học tập, thảo luận, nắm vững các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch; uốn nắn những nhận thức lệch lạc; tăng cường phê bình và tự phê bình, phê phán các biểu hiện "tự diễn biến" trong nội bộ Đảng.

Về phương pháp tổ chức học tập, phổ biến, cần tuỳ đối tượng mà có hình thức phù hợp. Cán bộ chủ chốt các cấp cần nghiên cứu sâu các nội dung cơ bản, các điểm mới, cơ sở lý luận và thực tiễn của các quan điểm, giải pháp; từ đó liên hệ thực tiễn và vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tế sau khi học tập.

Cán bộ, đảng viên cơ sở cần được tổ chức học tập, quán triệt một cách thiết thực, gắn với thực tiễn địa phương, cơ sở để người học nắm vững các luận điểm cơ bản và có khả năng vận dụng vào thực tiễn đời sống, công tác. Có các hình thức tuyên truyền, phổ biến phù hợp với đông đảo các tầng lớp nhân dân ở trong nước, đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế.

Tổ chức biên soạn các loại tài liệu học tập, quán triệt, phổ biến các văn kiện Đại hội XI phù hợp với từng đối tượng. Đề cao vai trò, trách nhiệm của đồng chí bí thư cấp uỷ và lựa chọn các báo cáo viên có quan điểm chính trị vững vàng để phổ biến, quán triệt Nghị quyết, các văn kiện Đại hội. Đội ngũ báo cáo viên cần được nghiên cứu, học tập và quán triệt trước.

Việc tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XI cần tiến hành

khẩn trương, nghiêm túc, không làm lướt. Làm tốt công tác chuẩn bị cho việc tổ chức học tập, quán triệt, kết hợp với thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị khác, đặc biệt là công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp.

Công tác tổ chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI ở các cấp phải được các cấp uỷ đảng quan tâm thực hiện theo sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp uỷ cấp trên. Phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp, các ngành, coi đây là đợt sinh hoạt chính trị quan trọng tạo sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, sự đồng thuận trong xã hội.

3- Trên cơ sở quán triệt tốt các tư tưởng chỉ đạo chung, giao các cấp uỷ, tổ chức đảng liên quan thực hiện tốt một số nhiệm vụ cụ thể sau:

3.1- Ban Tuyên giáo Trung ương - Tổ chức việc biên soạn, phát hành

các tài liệu phục vụ học tập, quán triệt, phổ biến các văn kiện Đại hội XI, tập trung làm rõ những nội dung cơ bản, những điểm mới.

- Ban hành Hướng dẫn việc học tập, quán triệt và triển khai thực hiện các văn kiện của Đại hội XI theo tinh thần đổi mới, khẩn trương, thiết thực và hiệu quả.

- Chủ trì phối hợp với Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, với các cơ quan, đơn vị có liên quan mở các lớp học tập, quán triệt nội dung các văn kiện Đại hội XI cho các đối tượng để triển khai việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, phổ biến nội dung các văn kiện Đại hội XI trong toàn xã hội : đại diện thường trực cấp uỷ, lãnh đạo các ban tuyên giáo, báo cáo viên nòng cốt của các tỉnh uỷ, thành uỷ và các đảng uỷ trực thuộc Trung ương; lãnh đạo các cơ quan báo chí, xuất bản; lãnh đạo các hội văn học, nghệ thuật, hội khoa học, kỹ

Page 69: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

69

thuật và các văn nghệ sĩ, trí thức tiêu biểu; đội ngũ giảng viên lý luận chính trị các học viện, các trường đại học, cao đẳng trong cả nước.

- Thành lập Tổ Báo cáo viên Trung ương hỗ trợ các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương báo cáo về nội dung của các văn kiện cho cán bộ chủ chốt của các đảng bộ tỉnh, thành phố, đảng bộ trực thuộc Trung ương.

- Chỉ đạo các cơ quan báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân và các hoạt động thông tin đối ngoại về các nội dung cơ bản của các văn kiện Đại hội XI.

3.2- Các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương

- Căn cứ vào nội dung các văn kiện Đại hội XI và hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Trung ương, chủ động xây dựng kế hoạch học tập, quán triệt phù hợp với điều kiện cụ thể của đảng bộ và tổ chức việc học tập, quán triệt, phổ biến nội dung các văn kiện Đại hội gắn với thảo luận, thông qua chương trình hành động.

Đồng chí bí thư cấp uỷ chịu trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo việc học tập, quán triệt nội dung các văn kiện Đại hội XI, xây dựng chương trình hành động của đảng bộ; truyền đạt nội dung của các văn kiện Đại hội XI; chủ trì thảo luận và thông qua chương trình hành động của đảng bộ; trong trường hợp cần thiết có thể đề nghị tổ báo cáo viên của cấp trên hoặc các đồng chí có khả năng trong cấp uỷ hỗ trợ việc truyền đạt; lựa chọn đội ngũ báo cáo viên nòng cốt đi dự các lớp do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức để sẵn sàng hỗ trợ truyền đạt nội dung các văn kiện Đại hội XI cho cấp uỷ cấp dưới.

- Căn cứ vào Chỉ thị của Bộ Chính trị, Hướng dẫn của Ban Tuyên giáo

Trung ương, chỉ đạo, hướng dẫn các đảng bộ trực thuộc tổ chức học tập, quán triệt các văn kiện Đại hội XI và tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong nhân dân.

3.3- Quân uỷ Trung ương, Đảng uỷ Công an Trung ương phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, xây dựng kế hoạch và hướng dẫn việc học tập, quán triệt các văn kiện Đại hội XI cho các đảng bộ trực thuộc, xây dựng chương trình hành động phù hợp với điều kiện cụ thể của lực lượng vũ trang, của đảng bộ.

3.4- Đảng đoàn Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đảng đoàn đoàn thể chính trị - xã hội, căn cứ vào Chỉ thị của Bộ Chính trị, Hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Trung ương, tổ chức học tập, phổ biến các văn kiện Đại hội XI đến các hội viên, đoàn viên bằng hình thức phù hợp; mở các lớp phổ biến sâu cho các đồng chí nguyên là cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ, công chức nhà nước, cán bộ hưu trí; mở các lớp học tập, quán triệt các văn kiện Đại hội XI cho các chức sắc, tôn giáo, kết hợp tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về tự do tôn giáo, tín ngưỡng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng.

3.5- Văn phòng Trung ương Đảng hướng dẫn về kinh phí phục vụ việc học tập, quán triệt phổ biến Nghị quyết, các văn kiện Đại hội XI.

Văn phòng Trung ương Đảng, các ban của Trung ương Đảng theo chức năng, nhiệm vụ, giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, theo dõi, kiểm tra, giám sát và thường xuyên báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng việc thực hiện Chỉ thị.

Chỉ thị này phổ biến đến chi bộ đảng.

http://www.xaydungdang.org.vn

Page 70: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

70

CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

(BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN NĂM 2011)

Thực hiện Chỉ thị 01-CT/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 17-3-2011, về học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Tạp chí Xây dựng Đảng trân trọng giới thiệu toàn văn các văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng để giúp bạn đọc trong nghiên cứu, quán triệt các văn kiện này.

I- QUÁ TRÌNH CÁCH MẠNG VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM 1. Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh

sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.

Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, khó khăn, thách thức còn nhiều.

Trong lãnh đạo, Đảng có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.

2. Từ thực tiễn phong phú của cách mạng, Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiệm lớn:

Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Page 71: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

71

Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.

Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.

Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.

Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.

II- QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA 1. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có những biến đổi

to lớn và sâu sắc. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu

hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á phát triển năng động, nhưng cũng tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định. Tình hình đó tạo thời cơ phát triển, đồng thời đặt ra những thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước đang và kém phát triển.

Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình và cách mạng thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thành tựu to lớn, tiếp tục phát

Page 72: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

72

triển; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những bước hồi phục. Tuy nhiên, các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và cánh tả còn gặp nhiều khó khăn, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xoá bỏ chủ nghĩa xã hội.

Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản.

Các nước đang phát triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp chống nghèo nàn, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc.

Nhân dân thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người. Đó là giữ gìn hoà bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo... Việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác và tinh thần trách nhiệm cao của tất cả các quốc gia, dân tộc.

Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.

2. Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.

Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt; nhân dân ta có

Page 73: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

73

lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển.

Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:

Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.

Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con

người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã

hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp

tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân

tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân

dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng

nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;... Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí.

III- NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG LỚN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI, QUỐC PHÒNG, AN NINH, ĐỐI NGOẠI

1. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức

Page 74: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

74

phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất.

Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm phát triển hài hoà giữa các vùng, miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

2. Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Phát triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống những biểu hiện phản văn hoá. Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi

Page 75: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

75

ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hoá, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường rèn luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người và nền văn hoá Việt Nam.

Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời.

Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học và công nghệ gắn với phát triển văn hoá và nâng cao dân trí. Tăng nhanh và sử dụng có hiệu quả tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước, nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới. Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ.

Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nghĩa vụ của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch và tiêu dùng sạch. Coi trọng nghiên cứu, dự báo và thực hiện các giải pháp ứng phó với quá trình biến đổi khí hậu và thảm họa thiên nhiên. Quản lý, bảo vệ, tái tạo và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên quốc gia.

Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hoà đời sống vật chất và đời sống tinh thần, không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất, gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và cộng đồng xã hội.

Page 76: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

76

Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách đối với người và gia đình có công với nước. Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Chăm lo đời sống những người cao tuổi, neo đơn, khuyết tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi. Hạn chế, tiến tới đẩy lùi tội phạm và giảm tác hại của tệ nạn xã hội. Bảo đảm quy mô hợp lý, cân bằng giới tính và chất lượng dân số.

Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng; là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng, phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đào tạo, bồi dưỡng, phát huy mọi tiềm năng và sức sáng tạo của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước. Xây dựng đội ngũ những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý giỏi, có trách nhiệm xã hội, tâm huyết với đất nước và dân tộc. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Thực hiện bình đẳng giới và hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ. Quan tâm thích đáng lợi ích và phát huy khả năng của các tầng lớp dân cư khác. Hỗ trợ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, giữ gìn bản sắc dân tộc, chấp hành tốt pháp luật nước sở tại, hướng về quê hương, tích cực góp phần xây dựng đất nước.

Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số.

Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.

3. Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.

Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Phát triển

Page 77: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

77

đường lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân và lý luận, khoa học an ninh nhân dân. Chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh.

Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn.

Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu. Xây dựng Quân đội nhân dân với số quân thường trực hợp lý, có sức chiến đấu cao; lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp. Xây dựng lực lượng Công an nhân dân vững mạnh toàn diện; kết hợp lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách, các cơ quan bảo vệ pháp luật với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Chăm lo nâng cao phẩm chất cách mạng, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong điều kiện mới. Xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị kỹ thuật từng bước hiện đại.

Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng - an ninh.

4. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

Trước sau như một ủng hộ các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào tiến bộ xã hội trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung của thời đại; mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Tăng cường hiểu biết, tình hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới.

Phấn đấu cùng các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh.

IV- HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG 1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là

động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp,

Page 78: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

78

trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.

Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.

Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.

2. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.

3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên.

Các đoàn thể nhân dân tuỳ theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã được xác định, vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách; chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội.

Page 79: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

79

4. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

Cương lĩnh của Đảng là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và nhân dân ta trong những thập kỷ tới. Thực hiện thắng lợi Cương lĩnh này, nước nhà nhất định trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc.

Đảng kêu gọi tất cả đảng viên của Đảng, toàn thể đồng bào Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài mang hết tinh thần và nghị lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Cương lĩnh, vững bước đi tới tương lai.

http://www.xaydungdang.org.vn

Page 80: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

80

Chủ đề Ðại hội XI của Ðảng

Chủ đề Ðại hội XI của Ðảng - cũng là tiêu đề của Báo cáo Chính trị - đã được Ðại hội thông qua như sau: "Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại".

Về chủ đề này, suốt quá trình tiến tới Ðại hội, trong các cuộc thảo luận ở đại hội đảng bộ các cấp và ngay tại Ðại hội toàn quốc, hầu hết ý kiến đều nhất trí nhưng còn có chỗ băn khoăn: Chủ đề của Ðại hội XI căn bản giống chủ đề Ðại hội X, chỉ khác nhau ở thành tố thứ tư. Lý do là so với chủ đề Ðại hội X, ba thành tố đầu tiên hầu như viết lại nguyên văn, chỉ thêm hai chữ 'tiếp tục' ở đầu ba thành tố đó. Còn thành tố thứ tư thì chuyển từ 'sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển' thành 'tạo nền tảng để đến 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại'.

Vậy cái mới ở chỗ nào? Giải trình tại Ðại hội XI, Ðoàn chủ

tịch Ðại hội có ý kiến như sau: 'Chủ đề Ðại hội là tư tưởng chỉ đạo định hướng hoạt động của Ðảng, xác định nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ nhất định. Chủ đề Ðại hội (cũng như tiêu đề của Báo cáo Chính trị) hiện nay gồm bốn thành tố, vừa kế thừa vừa phát triển chủ đề của Ðại hội X, vừa thể hiện tập trung cô đọng nhất mục tiêu, nhiệm vụ, động lực của cách mạng nước ta trong nhiều năm tới'.

Bản giải trình đã phân tích một cách thuyết phục cả bốn thành tố đó theo trình tự được ghi trong chủ đề. Ðể góp phần minh chứng, bài viết này xin bắt đầu từ thành tố thứ tư và kết thúc bằng

thành tố thứ nhất, tức là bắt đầu từ mục tiêu chiến lược và kết thúc bằng nhiệm vụ then chốt và quyết định nhất trong các nhiệm vụ cơ bản để đạt tới mục tiêu chiến lược ấy.

1. Tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại đúng là mục tiêu chiến lược của Ðại hội XI. Nói chính xác hơn, mục tiêu này đã được đề ra từ Ðại hội IX (năm 2001) với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010. Nhưng với chiến lược này, mục tiêu trực tiếp đến năm 2010 là phấn đấu đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Nước nghèo và kém phát triển, theo phân định của Liên hợp quốc, có nghĩa tương đương với nước đang phát triển có thu nhập thấp (GDP bình quân đầu người vào năm 2010 khoảng dưới 1.000 USD). Ðến nay, trải qua hai kỳ Ðại hội IX và X, với việc thực hiện thắng lợi hai kế hoạch 5 năm 2001-2005 và 2006-2010, nhân dân ta đã khép lại thập niên đầu thế kỷ XXI bằng thành công đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và bước vào nhóm các nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Ðây là cơ sở vững chắc để Ðại hội XI, quyết định lấy mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại làm mục tiêu trực tiếp của mười năm tới. Chiến lược 10 năm 2011-2020 và chủ đề của Ðại hội XI đánh dấu một bước tiến mới về chất và là nguồn cổ vũ, động viên toàn Ðảng và toàn dân ta xốc tới thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ.

Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một thành tố được nêu trong chủ đề của Ðại hội IX và X, nay khẳng định lại

Page 81: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

81

không chỉ để nhấn mạnh mà còn nhằm làm sáng tỏ hơn bản chất và nội dung của vấn đề thông qua thực tiễn đổi mới. Như Cương lĩnh của Ðảng ta chỉ rõ 'sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân'. Sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước tuyệt nhiên không phải là sự nghiệp riêng của một giai cấp, một tầng lớp xã hội nào mà là sự nghiệp chung của toàn dân tộc. Sức mạnh toàn dân tộc là sức mạnh của cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; sức mạnh của các thành phần kinh tế, các lực lượng chính trị, xã hội, các dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp nhân dân trong nước và cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài có cùng mục tiêu chung là giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mười năm qua, trong việc mở rộng khối đại đoàn kết và phát huy sức mạnh toàn dân tộc, chúng ta đã đạt được nhiều thành tích đáng kể song vẫn còn không ít yếu kém và khuyết điểm. Những năm sắp tới, chúng ta cần làm nhiều hơn nữa, tốt hơn nữa và với yêu cầu ngày càng cao hơn.

Ðẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới từ nhiều năm nay đã được hiểu là đổi mới một cách mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn; từ hoạt động lãnh đạo của Ðảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ thống chính trị; từ hoạt động của cấp trung ương đến hoạt động của địa phương và cơ sở. Chính nhờ sự đẩy mạnh toàn diện ấy mà công cuộc đổi mới trong 25 năm qua, trực tiếp là 10 năm kể từ Ðại hội IX đến nay, đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên cũng cần thấy rõ rằng, trong tư duy cũng như hành động, tính

toàn diện và đồng bộ của đổi mới vẫn chưa được thực hiện nhất quán, tư duy trên nhiều mặt còn lạc hậu so với thực tiễn, hành động trên nhiều lĩnh vực, nhiều khâu công việc còn không ăn khớp với nhau. Khẳng định lại yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới chính là để nói lên đòi hỏi bức thiết của việc khắc phục những mặt không nhất quán, không ăn khớp đó, cũng là để khẳng định rằng chỉ có tiến hành một cách toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm thì đổi mới mới đi đến thành công. 2. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng là thành tố đặc biệt quan trọng, gắn liền với nhiệm vụ then chốt xây dựng, chỉnh đốn Ðảng. Cương lĩnh của Ðảng ta khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Và: Ðể đảm đương được vai trò lãnh đạo, Ðảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo... Những năm qua, thực hiện Nghị quyết Ðại hội X, chúng ta đã đạt được một số kết quả tích cực trong việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; chú trọng hơn việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, không ít tổ chức đảng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu còn thấp; công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng thiếu nền nếp, nội dung nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu. Trong những năm tới cơ hội và thách thức đan xen nhau, công cuộc đổi mới đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết. Ðó là lý do để việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến

Page 82: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

82

đấu của Ðảng tiếp tục được đặt ra ở vị trí hàng đầu trong các thành tố của chủ đề Ðại hội.

Sẽ không thừa nếu nhắc lại rằng năng lực lãnh đạo của Ðảng cần được thể hiện một cách toàn diện, từ năng lực hoạch định đường lối, chủ trương và chính sách đến năng lực tổ chức và chỉ đạo thực hiện, năng lực kiểm tra và giám sát toàn bộ công việc của Ðảng... làm cho các chủ trương, chính sách của Ðảng luôn phản ánh được yêu cầu phát triển của thực tiễn và quy luật khách quan, thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa Ðảng với nhân dân. Sức chiến đấu của Ðảng cần được thể hiện qua hành động cụ thể từ các tổ chức cho đến đội ngũ cán bộ, đảng viên. Có nghĩa là toàn Ðảng, từng cấp ủy, từng tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên phải nỗ lực phấn đấu thực hiện lý tưởng và nhiệm vụ cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống các tư tưởng sai

trái và hành động thù địch; có đủ bản lĩnh và dũng khí chiến đấu với những hiện tượng tiêu cực trong Ðảng, trong xã hội và trong bản thân mỗi người; khắc phục tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, tê liệt sức chiến đấu.

Có thể kết luận: Chủ đề Ðại hội XI là một chỉnh thể, trong đó mỗi thành tố đều có vai trò và tầm quan trọng riêng của nó, và thành tố này có liên quan mật thiết với thành tố khác. Nếu hiểu trong thời kỳ 5, 10 năm tới 'tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại' là mục tiêu chiến lược trực tiếp cần đạt bằng được thì 'tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới' là ba nội dung quan trọng nhất, cũng là ba động lực, ba nhiệm vụ và giải pháp cơ bản để đạt tới mục tiêu ấy.

Hà Ðăng http//www.nhandan.org.vn

Điểm nổi bật trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI của Đảng ta về tiếp tục xây dựng và phát triển

dân chủ xã hội chủ nghĩa

ừ khi nước ta bước vào công cuộc đổi mới, tiến trình dân chủ hóa diễn ra liên tục. Mỗi

kỳ Đại hội Đảng – năm năm một lần – đánh dấu sự kết thúc một thời đoạn của tiến trình đó đồng thời đánh dấu sự bắt đầu một thời đoạn tiếp theo có thêm những nội dung mới hoặc những điểm nhấn mới.

Nếu Đại hội Đảng lần thứ X khi đề cập đến vấn đề dân chủ hóa đã nhấn mạnh sự song hành như nhau giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp: “Thực

hiện đồng bộ các chính sách và pháp luật của Nhà nước nhằm phát huy dân chủ (dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và chế độ tự quản của cộng đồng dân cư) và giữ vững kỷ cương trong xã hội” thì Đại hội lần thứ XI, trong báo cáo chính trị, nêu: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” và đã nhấn mạnh: “Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện thực tế quyền làm chủ trực tiếp”; tiếp đó, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, một lần nữa Đại hội khẳng định: “Nâng cao năng lực và tạo

T

Page 83: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

83

cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước”.

Vậy là, điểm nhấn mới của tiến trình dân chủ hóa ở nước ta trong nhiệm kỳ thứ XI của Đảng là xúc tiến mạnh mẽ việc hiện thực hóa quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân. Sự xác định điểm nhấn đó ở thời đoạn hiện nay phản ánh đúng nhu cầu thực tiễn và có căn cứ lý luận của nó.

Nhu cầu thực tiễn, đó là: - Thứ nhất, cho đến nay sự phát

triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về chiều rộng và chiều sâu ở mức độ đạt được, đã tạo nên dấu ấn đậm nét đổi mới nền tảng kinh tế - xã hội của nước ta, làm nẩy sinh những xung lực mới từ lực lượng sản xuất được giải phóng và từ quan hệ sản xuất được tháo gỡ khỏi những rào cản bắt nguồn từ những định kiến chủ quan, duy ý chí của thời kỳ ấu trĩ. Thành tựu kinh tế đạt được từ khi thực hiện đổi mới là to lớn, trong đó nằm ở đằng sau (hay ở bên trên) những thành tựu có thể biểu thị bằng những con số thống kế cụ thể là một thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử: bước đầu xác lập địa vị chủ thể trực tiếp của người lao động trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Sự biến đổi sâu sắc đó trong nền tảng kinh tế - xã hội tạo tiền đề kinh tế, điều kiện vật chất đồng thời đặt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta đứng trước áp lực cực kỳ to lớn, phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện để nền tảng kinh tế tiếp tục củng cố và quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội được thực thi ở mức độ đầy đủ hơn.

- Thứ hai, công cuộc dân chủ hóa ở nước ta được phát động từ khi bắt đầu đổi mới đến nay, đặc biệt là cuộc vận

động lớn nhằm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, sau đó được nâng cấp thành Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở đã có tác dụng làm cho sự hiểu biết về dân chủ và ý thức thực hiện dân chủ của đông đảo nhân dân – so với trước đây – được nâng lên rõ rệt; năng lực thực hành dân chủ của đông đảo nhân dân có bước trưởng thành mới biểu hiện trong tham gia và đóng góp ý kiến xây dựng các tổ chức Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở, đóng góp ý kiến xây dựng Cương lĩnh, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Hiến pháp, bầu cử Quốc hội, tham gia giám sát, quản lý, đấu tranh chống tham nhũng với những hình thức sinh động và có hiệu quả hơn; nhu cầu dân chủ của nhân dân ta ngày càng cao, phong phú, đa dạng hơn, và dân chủ ngày càng thấm sâu vào các quan hệ xã hội; bản lĩnh của nhân dân ta giữ gìn, bảo vệ các thành quả dân chủ đã giành được cũng biểu hiện rõ rệt hơn trước.

Đông đảo nhân dân tỏ ra đồng tình, công nhận, đánh giá tích cực những thành tựu mà công cuộc dân chủ hóa đã đạt được; nhưng chính trên mặt bằng của những thành tựu đó họ thể hiện tâm trạng bức xúc, đòi hỏi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thực hiện sự đổi mới có ý nghĩa bước ngoặt để quyền làm chủ trực tiếp của họ được thực hiện. Trong thời gian vừa qua, những ý kiến đóng góp của đông đảo nhân dân cho Đại hội XI của Đảng được phản ánh trên báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng khác đã thể hiện tâm trạng đó, hơn nữa – về khách quan – những ý kiến đóng góp đó thể hiện sự chín muồi về trình độ và khả năng của nhân dân để bước vào giai đoạn thực thi quyền dân chủ trực tiếp.

- Thứ ba, nhìn từ một góc độ khác, ở nước ta hiện nay việc phát huy hơn nữa những ưu điểm và nhất là việc khắc phục có hiệu quả những hạn chế, khuyết điểm

Page 84: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

84

mà cơ chế vận hành của nền dân chủ ở nước ta (Đảng lãnh đạo – Nhà nước quản lý – Nhân dân làm chủ) - đã bộc lộ và gây nên sự bức xúc trong dư luận xã hội – đòi hỏi phải hiện thực hóa quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân. Bởi vì nhân dân là người trực tiếp xây dựng và bảo vệ Đảng, làm cho Đảng thực sự là “đội tiền phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”, đảm bảo cho Đảng tránh được nguy cơ chuyên quyền, độc đoán theo kiểu đảng trị ... đã đưa một số Đảng cộng sản trên thế giới đến sự tan rã.

Qua trải nghiệm thực tiễn của công cuộc đổi mới ở nước ta, càng ngày càng trở nên phổ biến quan niệm cho rằng muốn Nhà nước trong sạch vững mạnh, thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tránh được nguy cơ thoái hóa bởi sự “gậm nhấm” của chủ nghĩa quan liêu và nạn tham nhũng, không có cách nào khác là đặt nhà nước đó dưới sự giám sát trực tiếp và sự bảo vệ của nhân dân – chủ thể đích thực của quyền lực xã hội.

Khác hẳn với một số người đặt tương lai của nền dân chủ phụ thuộc vào chế độ đa đảng, đại đa số nhân dân ta đặt tương lai của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vào quá trình hiện thực hóa quyền làm chủ toàn diện và trực tiếp của nhân dân.

Như vậy, hiện thực hóa quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân là đòi hỏi bức thiết của thực tiễn nước ta, là giải pháp đột phá hiện nay để làm trong sạch, vững mạnh và năng động hóa toàn bộ cơ chế dân chủ ở nước ta.

Căn cứ lý luận đó là: Lý luận về dân chủ và những bài học rút ra từ tổng kết

thực tiễn xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của C.Mác và VI.Lênin.

Từ năm 1871 trong tác phẩm “Nội chiến ở Pháp” tổng kết kinh nghiệm của Công xã Pari – cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới, đỉnh cao nhất của phong trào công nhân thế kỷ XIX C.Mác đã viết: “Công xã đã cung cấp cho nền cộng hòa cái cơ sở của những thiết chế dân chủ”, trong đó “xu hướng phát triển của sự cai quản nhân dân do chính nhân dân đảm nhiệm”.

Lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười năm 1917, VI.Lênin dành sự quan tâm hàng đầu cho việc “phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí điểm những hình thức ấy trong thực tiễn”.

Cuộc “thí điểm ấy” đã trải qua ba thời đoạn với sự kiểm nghiệm ba hình thức dân chủ để sau đó tìm ra hình thức dân chủ thích hợp nhất với nước Nga lúc đó.

a. Những năm đầu chính quyền Xô Viết, V.I Lênin đặc biệt chú ý đến ý kiến của C.Mác trong đó nhấn mạnh hình thức dân chủ trực tiếp, xem đó là hình thức quá độ để tiến lên giai đoạn toàn thể nhân dân thực hành chức năng lập pháp và hành pháp. Thực tế là, những năm đó Đảng Bôn sê vích là linh hồn của chính quyền Xô Viết, có vai trò lãnh đạo chính trị, nhưng mọi công việc đều theo nguyên tắc nhân dân tự quản, không chấp nhận việc Đảng trực tiếp ra mệnh lệnh, vượt qua Xô Viết.

- Nhưng thực tế đã cho thấy, hình thức dân chủ trực tiếp khó áp dụng ở nước Nga lúc đó, bởi vì trình độ kinh tế, văn hóa còn rất lạc hậu, trình độ dân trí chung của nhân dân còn thấp kém, đất

Page 85: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

85

nước kiệt quệ vì nội chiến và bị chia cắt bởi nhiều thế lực.

b.Tình hình trên làm cho V.I Lênin phải quyết định chuyển từ hình thức dân chủ trực tiếp sang hình thức dân chủ gián tiếp.

Từ Đại hội Đảng lần thứ VII (tháng 3/1919) lần đầu tiên V.I Lênin nêu rõ sự cần thiết phải thay thế chế độ nhân dân quản lý bằng chế độ đại biểu Đảng, tức là Đảng thay mặt nhân dân quản lý. Chuyển trung tâm quyền lực từ Xô Viết sang Đảng. Nếu Hiến pháp Xô Viết đầu tiên (7/1918) quy định Đại hội đại biểu Xô viết toàn Nga là cơ quan lập pháp cao nhất thì đến Đại hội Đảng lần thứ VIII, Đảng lại phải nêu nhiệm vụ “Giành được vai trò lãnh đạo tuyệt đối về chính trị trong Xô Viết và tiến hành việc giám sát thực tế đối với toàn bộ công tác của Xô viết”.

Trong tình hình nội chiến đặc biệt khó khăn, hình thức dân chủ Xô Viết đã thay đổi nhiều so với trước đó. Nó trở thành một thể chế chính trị tập trung quyền lực cao độ. Thể chế này lúc đó đã có tác dụng tích cực nhất định, có lợi cho sự tập trung lực lượng cả nước, thống nhất kỷ luật, thống nhất hành động để đập tan sự can thiệp vũ trang của chủ nghĩa đế quốc và hoạt động phiến loạn của bọn phản động trong nước. Nhưng đồng thời thể chế chính trị tập trung cao độ đó đã hạn chế rất nhiều quyền dân chủ của nhân dân, tạo điều kiện cho chủ nghĩa quan liêu, hiện tượng cực quyền phát triển trở thành nguy cơ và hiểm họa lớn đối với Đảng và đất nước.

c. Năm 1921, cuộc nội chiến về cơ bản kết thúc. Nước Nga bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện hòa bình, chính sách cộng sản thời chiến được thay thế bằng chính sách kinh tế mới. Trong tình hình đó, V.I Lênin đã

lãnh đạo Đảng Bôn sê vích thực hiện một loạt điều chỉnh và cải cách thể chế chính trị Xô Viết theo hướng dân chủ hóa.

Nhưng từ tháng 12 /1922 V.I Lênin bị bệnh nặng, liệt tay phải và chân trái. Nhận thấy mình không thể sống lâu nữa, với một tinh thần trách nhiệm rất cao và một nghị lực phi thường Người đã tập trung suy nghĩ về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, trong đó dành sự quan tâm đặc biệt cho vấn đề xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Người đọc cho thư ký chép năm tác phẩm – Những trang nhật ký, Bàn về chế độ hợp tác, Về cuộc cách mạng của chúng ta, Chúng ta phải cải tổ Bộ dân ủy thanh tra công nông như thế nào, Thà ít mà tốt, cùng nhiều lá thư quan trọng khác, trong đó đề cập đến những vấn đề chính yếu sau đây:

Một là, cải tiến chế độ sinh hoạt của Đảng theo hướng dân chủ hóa, coi đó là tiền đề và then chốt của việc xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Hai là, kết hợp Ban kiểm tra của Đảng với Bộ dân ủy thanh tra công nông, tăng cường mạnh mẽ quyền giám sát của nhân dân.

Ba là, cải tạo căn bản toàn bộ bộ máy nhà nước nhằm chống chủ nghĩa quan liêu.

Bốn là, ra sức phát triển giáo dục, nâng cao trình độ văn hóa của toàn dân, tiến hành cách mạng văn hóa, bởi vì: “tình trạng lạc hậu về văn hóa làm ô nhục chính quyền Xô Viết ... và khôi phục chế độ quan liêu” và “Một người không biết chữ là người đứng ngoài chính trị”.

Có thể nói một cách khái quát: những việc làm và những suy nghĩ cuối cùng của V.I Lênin về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tập trung vào hai phương diện gắn bó mật thiết với nhau.

Page 86: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

86

- Phương diện thứ nhất – cải cách về tổ chức, cơ chế hoạt động nhằm dân chủ hóa sinh hoạt của Đảng, cải cách nhà nước theo hướng tinh giản, đạt hiệu quả cao; thực hiện sự phân công rành mạch và hợp lý giữa Đảng và Nhà nước. Đó chính là những nhân tố thiết yếu để tăng cường hiệu quả của hình thức dân chủ đại diện (dân chủ gián tiếp).

- Phương diện thứ hai – tăng cường sự tham gia giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Đảng, Nhà nước trên cơ sở phát triển giáo dục, nâng cao trình độ văn hóa, dân trí của toàn dân. Đó là nhân tố thiết yếu nhằm tăng hiệu quả của hình thức dân chủ trực tiếp.

Ý nghĩa đột phá trong tư tưởng của V.I Lênin về xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là kết hợp dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp. Nhiều nhà lý luận Trung Quốc cho rằng: “Quan hệ giữa dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp là pham trù cơ bản trong học thuyết dân chủ”.

Tư tưởng kết hợp dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp mở ra “lộ trình” phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa: từ chỗ nhân dân tham gia giám sát dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước tiến dần tới chỗ nhân dân trực tiếp nắm toàn bộ công việc quản lý. Trong tương lai (tuy còn xa) Đảng không còn, nhà nước tiêu vong, xã hội sẽ bước vào giai đoạn văn minh tự quản, có nghĩa là nhân dân tự mình trực tiếp quản lý toàn bộ công việc xã hội.

Ở nước ta hiện nay và trong những bước tiếp theo của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa vẫn được hiện thực hóa bằng cách kết hợp hai hình thức là dân chủ đại diện (còn gọi là dân chủ gián tiếp) và dân chủ trực tiếp. Nhiều nhà nghiên cứu lý luận dân chủ xã hội chủ nghĩa đã có lý khi cho

rằng chính sự kết hợp hai hình thức dân chủ đã tạo ưu thế cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với ưu thế ấy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có thể kế thừa những tinh hoa của truyền thống dân chủ trực tiếp trong lịch sử loài người, khởi đầu từ chế độ dân chủ cổ đại Aten; vừa có thể tiếp thu những giá trị của dân chủ gián tiếp thời cận, hiện đại ở các nước tư bản ...

Ở nước ta hiện nay nhiệm vụ cực kỳ quan trọng là giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp sao cho đạt tới sự thống nhất để phát huy tác động cùng chiều, góp phần quyết định sự phát triển của xã hội ta theo hướng “Dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy thế, mối quan hệ đó không ở trạng thái tĩnh tại, đứng yên mà rất năng động, phát triển. Qua những bước tiệm tiến, khi đạt tới sự chín muồi về trình độ nhận thức và thực hành dân chủ của đông đảo nhân dân thì những chức năng dân chủ gián tiếp sẽ dần dần được chuyển giao cho dân chủ trực tiếp. Khách quan, sự nhấn mạnh “quyền dân chủ trực tiếp’ mà Đại hội XI nêu ra, có ý nghĩa xúc tiến thêm một bước sự chuyển giao ấy.

Việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ đó đòi hỏi huy động sự nỗ lực của toàn bộ cơ chế dân chủ - Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Trước hết, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục hoàn tất thêm một bước việc đổi mới tư duy về dân chủ trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; tham khảo nghiêm túc những bài học bổ ích và thiết thực rút ra từ những thành công và thất bại của công cuộc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở các nước XHCN (trước kia và hiện nay), kế thừa cho được tinh hoa truyền thống dân chủ của Tổ

Page 87: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

87

tiên trong trường kỳ dựng nước và giữ nước; tiếp thu có gạn lọc những tư tưởng, lý thuyết, tổ chức thực hành dân chủ của nước ngoài, nhất là các nước tiên tiến. Từ đó xây dựng lý thuyết và mô hình dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, dự kiến “lộ trình” phát triển của nó ghi dấu nổi bật thời đoạn hiện tại của nền dân chủ ở nước ta trên “lộ trình” đó và lấy đó làm mặt bằng xuất phát để đề ra các giải pháp. Đảng phải trở thành mẫu mực sáng chói, hấp dẫn đối với toàn xã hội về dân chủ, thực hành văn hóa dân chủ, từ đó phát huy ảnh hưởng trong việc giáo dục, tuyên truyền cán bộ và nhân dân kiên định con đường xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cần cụ thể hóa phương thức lãnh đạo dân chủ của Đảng đối với Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội, toàn thể nhân dân và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc phương thức đó.

Nhà nước cần đầy mạnh hơn quá trình xây dựng pháp luật theo tinh thần chuyển từ pháp luật xem nhân dân là đối tượng sang pháp luật lấy nhân dân là chủ thể. Tiếp tục thực hiện chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020, tập trung vào “thể chế, bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức và hiện đại nền hành chính quốc gia”. Đặc biệt là – xét từ nhu cầu của việc hiện thực hóa quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân – đẩy mạnh sự

nghiệp phát triển giáo dục, khoa học, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Nâng cao nhận thức và năng lực thực hành dân chủ cho đông đảo nhân dân trở nên bức thiết hơn bao giờ hết khi nhân dân là người trực tiếp thi hành quyền dân chủ của mình. Điều đó đòi hỏi mọi người nâng ý thức làm chủ vì cá nhân mình lên ý thức làm chủ vì tập thể, cộng đồng, quốc gia; biết giải quyết đúng đắn hàng loạt mối quan hệ: giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích cục bộ và lợi ích toàn thể, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.

Học dân chủ trở thành quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người và phải học thường xuyên trong suốt cuộc đời, học đi đôi với hành để tri thức dân chủ biến thành phẩm chất, kỹ năng vận dụng vào cuộc sống.

Mới đây thôi, chúng ta được chứng kiến một tấm gương làm chủ tuyệt vời của người Nhật. Trong tai họa mất còn họ vững vàng chịu đựng, sát cánh bên nhau, chia xẻ nhường nhịn, dám nhận về mình sự hy sinh cao nhất, bình tĩnh và khẩn trương tìm cách để giảm thiểu tai họa đến mức có thể và để hồi sinh đất nước từ đống đổ nát./.

http://daihoi11.dangcongsan.vn

THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XI TỪ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN

ừ thực tiễn kinh nghiệm thực hiện Nghị quyết Đại hội X, để đưa Nghị quyết Đại hội XI của Đảng vào cuộc sống, việc kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, vận dụng phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH vẫn mang tính chất quyết định. T

Page 88: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

88

Văn kiện Đại hội XI của Đảng khẳng định 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X đã đạt được những thành tựu quan trọng. Kết quả đó góp phần to lớn vào việc thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH).

Điều đó khẳng định đất nước ta thực hiện thành công công cuộc đổi mới, đã ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi; sức mạnh của đất nước về mọi mặt được tăng cường; độc lập, chủ quyền và chế độ XHCN được giữ vững; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo tiền đề cho nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn tới.

Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội XI cũng chỉ rõ những hạn chế do nguyên nhân khách quan và chủ quan. Đại hội nhấn mạnh nguyên nhân chủ quan là trực tiếp và quyết định.

Từ thực tiễn kinh nghiệm thực hiện Nghị quyết Đại hội X, những vấn đề rút ra để chúng ta tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XI, có thể khái quát ở những điểm chính sau.

Kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, vận dụng phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong bất kỳ tình huống nào

Đây là vấn đề mấu chốt định hướng cho việc đổi mới toàn diện, đồng bộ với những bước đi thích hợp. Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chủ động xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Trong xu thế toàn cầu hóa, tất yếu chúng ta phải hội nhập nhưng hội nhập để phát triển, để giữ vững độc lập, tự chủ, không bị phụ thuộc vào bên ngoài. Mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân một cách thực sự, đồng thời tăng cường kỷ luật, kỷ cương và ý thức trách nhiệm của mọi cấp lãnh đạo, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, mọi người dân và cả cộng đồng. Xây dựng nếp sống văn minh, văn hóa, pháp luật, trật tự, kỷ cương để bảo đảm quyền tự do, dân chủ cho mọi người.

Thật sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững Có biện pháp tích cực, cụ thể, thiết thực để nâng cao chất lượng và hiệu quả của

nền kinh tế, tăng cường cạnh tranh, đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Đây là cơ sở bảo đảm cho nền kinh tế nước nhà phát triển nhanh, mạnh, bền vững trước những biến động về kinh tế xã hội ở thế giới và trong nước. Đảng và Nhà nước có chính sách phù hợp để phát huy mọi nguồn lực trong và ngoài nước để sản xuất, tạo ta nhiều của cải cho xã hội. Phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế tri thức đồng thời xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp. Tăng cường củng cố, hoàn thiện các yếu tố bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế.

Bảo đảm kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội

Tăng trưởng kinh tế để xây dựng một xã hội ở đó mọi người dân đều bình đẳng, ấm no, hạnh phúc, dân chủ, công bằng, văn minh. Tăng trưởng kinh tế bảo đảm an

Page 89: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

89

sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đặc biệt với bộ phận người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng cao, vùng biên giới hải đảo. Có chính sách giúp đồng bào ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế bằng việc khai thác mọi tiềm năng thế mạnh của địa phương cùng với sự giúp đỡ tích cực, có hiệu quả từ bên ngoài. Bảo đảm tính ổn định xã hội; giảm thiểu tối đa những khó khăn về đời sống của các tầng lớp nhân dân trước những biến động của tình hình. Tiết kiệm và quản lý chặt các khoản chi tiêu, nhất là chi phí công, đẩy lùi các tệ tham nhũng lãng phí, quan liêu đang là một vấn nạn gây cản trở của sự phát triển và nhiều bức xúc trong nhân dân.

Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa nâng cao trình độ dân chí, xây dựng đời sống tinh thần văn minh, tiến bộ, lành mạnh. Đẩy lùi sự du nhập “văn hóa lai căng”, phản văn hóa làm ảnh hưởng đến đạo đức, lối sống, thuần phong mỹ tục của các tầng lớp nhân dân nhất là đối với tuổi trẻ.

Củng cố quốc phòng, an ninh vững chắc trong mọi tình huống. Mở rộng quan hệ đối ngoại thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện hiện nay.

Đặc biệt chăm lo củng cố xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức Bài học Đảng ta rút ra, áp dụng cho mọi thời kỳ là sự lãnh đạo đúng đắn của

Đảng bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là sự đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ cụ thể,

điều kiện cụ thể. Đảng vững mạnh cả trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là sự kiên định, sáng suốt về đường lối chính trị, lập trường tư tưởng. Sự chặt chẽ, nguyên tắc, kỷ luật của các tổ chức Đảng. Đảng thật sự trong sạch vững mạnh, phát huy cao độ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, gương mẫu nói đi đôi với làm, có uy tín với nhân dân. Đảng thật sự phát huy dân chủ cùng với giữ vững các nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương, đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đảng thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân, vì lợi ích đích thực của nhân dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng về chính trị, tư tưởng, trong sáng về đạo đức, lối sống, gương mẫu, có sức chiến đấu cao, thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tính chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

Chủ động, sáng tạo, nhạy bén, kiên quyết, bám sát thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết

Để đưa Nghị quyết Đại hội XI của Đảng vào cuộc sống, đòi hỏi cán bộ, đảng viên, nhất là người có trách nhiệm cao phải có trình độ, có bản lĩnh, dám chịu trách nhiệm và thật sự vì Đảng, vì dân.

Làm tốt công tác dự báo, đi sát thực tiễn, nắm chắc tình hình quốc tế, khu vực; tình hình đất nước, tình hình bộ, ngành, địa phương, đơn vị; tình hình sản xuất đời sống, tâm tư nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Kiên quyết chống mọi biểu hiện, lối làm việc quan liêu, hời hợt, xa thực tế, chủ quan duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục các tầng lớp nhân dân, phát huy vai trò các tổ chức trong hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận xã hội cao để mọi

Page 90: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

90

người cùng hướng tới mục tiêu dân giàu, nước manh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh./.

PGS.TS Trần Quang Nhiếp http://www.tuyengiao.vn

Năm 2011, được xem là năm của nhiều may mắn, mới mẻ, tốt lành. Sự kiện trọng đại mở đầu, thập niên thứ Hai của thế kỷ XXI và là sự kiện chính trị được trông đợi nhất là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản

Việt Nam, diễn ra từ ngày 11 đến ngày 19 tháng 01.

au khi Đại hội XI của Đảng thành công - một điều chắc chắn, xuất phát từ niềm tin khoa học, tình cảm sâu lắng, thiết tha của toàn dân với Đảng; chỉ mươi ngày sau, ngày mồng 1 Tết cổ truyền của dân tộc cũng chính là

ngày Đảng ta tròn 81 mùa xuân xây dựng, chiến đấu, trưởng thành. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên mà không làm ta bất ngờ, vì từ lâu, Xuân và Đảng, Đảng và Xuân đã gắn kết, hòa đồng bền chặt.

Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (ảnh: CPV)

S

Page 91: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

91

Trước đó, ngày 28 tháng 1, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta xúc động kỷ niệm 70 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau gần 30 năm bôn ba bốn biển năm châu tìm đường cứu nước, về tới Cao Bằng, mảnh đất thiêng đầu nguồn Việt Bắc. “Ôi sáng xuân nay Xuân 41. Trắng rừng biên giới nở hoa mơ. Bác về…im lặng, con chim hót. Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ” (Tố Hữu). Ở đó, Người đặt tên cho một ngọn núi, một dòng suối khởi nguồn sự nghiệp cách mạng của Người và các đồng chí của Người là núi Các Mác, suối Lê nin.

Vào giữa năm nay, ngày 5 tháng 6 năm 2011, cả nước nước ta lại tưng bừng kỷ niệm tròn 100 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh - trong tên gọi Văn Ba lúc đó, rời bến Nhà Rồng trên chiếc tàu buôn của Pháp tìm đường cứu nước. Sự ra đi, sự trở về của Bác; quãng thời gian 30 năm cả dân tộc rên xiết dưới ách đô hộ của chế độ thực dân, phong kiến…là bao nhiêu máu xương đổ xuống, bao nhiêu nung nấu, ngóng chờ, bao nhiêu âm thầm, phấn đấu và chiến đấu.

81 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đoàn kết phấn đấu của toàn dân, nước ta từ thân phận nô lệ đã “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Châu Á, đánh thắng các kẻ thù xâm lược hùng mạnh và hung hãn, thu giang sơn về một mối, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Trở lại với sự kiện lớn - Đại hội XI của Đảng, đây là sự kiện chính trị mang tầm vóc lịch sử và kỳ vọng to lớn. Tính chất “lịch sử” của Đại hội XI thể hiện trước hết trên nhiều mặt. Sau thời gian tiếp thu ý kiến của toàn Đảng, toàn dân xây dựng dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI, toàn thể 1378 đại biểu tham dự Đại hội sẽ thảo luận, quyết nghị về Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,

phát triển năm 2011); Báo cáo Chính trị trình Ðại hội XI; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020; Một số vấn đề cần nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi Ðiều lệ Ðảng cùng các nội dung quan trọng khác.

Dự thảo Cương lĩnh 2011 khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.

Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Mục tiêu tổng quát đến khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để Việt Nam trở thành nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, ấm no, hạnh phúc.

Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu quan trọng đó, chúng ta cần tập trung thực hiện các phương hướng, nhiệm vụ cơ bản:

Page 92: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

92

Thứ nhất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.

Thứ hai, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối sản phẩm. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thực tế phát triển kinh tế những năm qua, nhất là trong điều kiện khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, càng cho thấy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vai trò quan trọng, làm nòng cốt của doanh nghiệp nhà nước, gắn với vai trò quản lý và điều tiết nền kinh tế của Nhà nước. Bên cạnh đó, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển.

Thứ ba, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; chăm lo xây dựng con người, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Thứ tư, bảo đảm vững chắc quốc phòng, chủ quyền biên giới trên đất liền, trên biển đảo; tăng cường an ninh quốc gia; giữ vững trật tự, an toàn xã hội.

Thứ năm, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác

và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Thứ sáu, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.

Thứ bảy, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Thứ tám, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trình Đại hội XI, khi đánh giá tình hình kinh tế đất nước 5 năm qua, khẳng định: Trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, chúng ta đã ứng phó tương đối tốt, cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2001 - 2005, bằng mức 42,7% GDP; tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (FDI) thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, tổng vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, giải ngân ước đạt 13,8 tỷ USD.

Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá. Sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực, đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và có lượng lương thực khá lớn cho xuất khẩu. Kinh tế nông thôn và đời sống nông dân được cải thiện hơn trước. Việc tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đầu tư, phát triển giống mới có năng suất, chất lương cao, phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề, tiểu thủ công nghiệp... đã có tác dụng tích cực đến việc sản xuất, tạo việc làm và xoá đói giảm nghèo. Đã đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới công nghệ cao. Khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Cơ cấu kinh tế tiếp tục

Page 93: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

93

được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu lao động cũng chuyển dịch theo hướng tích cực.

Cũng dự thảo văn kiện này, khi đánh giá, kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X, đã khẳng định: đất nước ta đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, “đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra, nhưng cũng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm cần được khắc phục”; đánh giá 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010: “đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng”; 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội “đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử”.

Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển của nước ta trong 5 năm tới là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm (2011 - 2015) : 7 - 7,5%. Năm 2015, GDP bình quân đầu người khoảng 2.000 USD, gấp 1,7 lần so với năm 2010; cơ cấu GDP : nông nghiệp 17 - 18%, công nghiệp và xây dựng 41 - 42%, dịch vụ 41 - 42%; sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 35% tổng GDP; tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 55%. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 12% năm, giảm nhập siêu, phấn đấu đến năm 2020 cân bằng được xuất nhập khẩu. Vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm đạt 40% GDP. Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước đạt 23 - 24% GDP; giảm bội chi ngân sách xuống 4,5% GDP vào năm 2015. Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động. Tốc độ tăng dân số đến năm 2015 khoảng 1 %. Tuổi thọ trung bình năm 2015 đạt 74 tuổi. Tỉ lệ nghèo theo chuẩn mới giảm bình quân 2% năm. Tỷ lệ che phủ rừng năm 2015 đạt 42 – 43 %.

Về nhiệm vụ chủ yếu của nhiệm kỳ XI, dự thảo Báo cáo Chính trị xác định 5 nhiệm vụ chủ yếu là:

(1) Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

(2) Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức. Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Tiếp tục xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đâm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Bảo vệ môi trường, chủ động phòng tránh thiên tai, ứng phó có hiệu quả với tình trạng biến đổi khí hậu.

(3) Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, trật tự an toàn xã hội; ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.

(4) Tiếp tục phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương; đẩy

Page 94: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

94

mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp; thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

(5) Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Để đạt được mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên, nước ta đang phấn đấu đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế. Chuyển mạnh từ tăng trưởng chủ yếu nhờ khai thác, xuất khẩu tài nguyên, thâm dụng vốn công nghiệp gia công lắp ráp… sang tăng trưởng chủ yếu nhờ ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, lao động có trình độ cao, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, phát triển các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao. Khắc phục nhanh những tiềm ẩn gây mất ổn định kinh tế vĩ mô, như tình trạng thâm hụt ngân sách, nhập siêu lớn kéo dài, tình trạng nợ công, nợ quốc gia tăng cao. Đổi mới mô hình tổ chức quản lý, tái cấu trúc và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.

Tập trung xây dựng, tạo bước đột phá về hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế. Phát triển kinh tế - xã hội hài hòa giữa các vùng, miền, đô thị và nông thôn. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp. Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường. Phát triển và nâng cao hiệu quả các lĩnh vực khoa học, công nghệ; phát

triển kinh tế tri thức. Coi trọng bảo vệ môi trường, chủ động phòng chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu. Thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. Có các giải pháp mạnh mẽ, hợp lý để giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, như: việc làm, tiền lương, thu nhập, mất cân bằng giới tính, phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân, phát triển giáo dục, y tế gắn với việc thu học phí, viện phí, tiền thuốc chữa bệnh một cách hợp lý; ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông, bạo lực học đường. Mở rộng dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực; phát huy dân chủ trong Đảng, Nhà nước và trong toàn xã hội; đổi mới mạnh mẽ hệ thống chính trị, tháo gỡ các rào cản để giải phóng năng lực con người, thúc đẩy quá trình đổi mới, sáng tạo.

Đại hội XI của Đảng cũng sẽ thảo luận và thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước 10 năm tới 2011 - 2020. Quyết tâm chính trị là phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn tiếp theo.

Trong 10 năm tới, chúng ta phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010. GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3000 USD. Bảo đảm kinh tế vĩ mô. Xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại,

Page 95: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

95

hiệu quả. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt ít nhất 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 - 3%/năm. Tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm khoảng 30 - 35% tổng lao động xã hội. Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới ở mức 50%.

Tập trung vào 3 khâu đột phá chiến lược: (1) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. (2) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập

trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát trên nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng

khoa học công nghệ. (3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.

Đại hội XI của Đảng và Xuân Tân Mão 2011 đang được nhân dân trong nước và đồng bào ta ở nước ngoài chào đón với bao dự cảm, bao ước vọng về một bước phát triển mạnh mẽ, vững bền của Đảng, của đất nước, của dân tộc Việt Nam, không chỉ 365 ngày, 1.825 ngày (của 5 năm) mà cho cho 3.650 ngày (của 10 năm) và muôn mùa xuân sau nữa./.

TS. Nguyễn Thế Kỷ (Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương)

http://daihoi11.dangcongsan.vn

Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam với việc triển khai Nghị

quyết Đại hội Đảng lần thứ XI về vấn đề phụ nữ

ùng với toàn Đảng, toàn dân sáng tạo tổ chức

thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam các cấp với quyết tâm cao, kế hoạch cụ thể, thiết thực triển khai những vấn đề trực tiếp, cơ bản về bình đẳng giới và công tác phụ nữ.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng

C

Page 96: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

96

Cộng sản Việt Nam đã thành công tốt đẹp. Với chủ đề "Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại" , Đại hội đã Quyết nghị thông qua dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020; tán thành những nội dung cơ bản về đánh giá tình hình 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X (2006 - 2010) và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2011 - 2015 nêu trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X trình Đại hội XI. Nội dung các văn kiện trình tại Đại hội rất toàn diện, trong đó vấn đề phụ nữ và bình đẳng giới đã được đề cập khá cụ thể. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 175 ủy viên chính thức và 25 ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, tỷ lệ nữ đạt 9%.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta luôn quan tâm phát huy vai trò của phụ nữ và vấn đề bình đẳng giới. Ngay từ Chính cương vắn tắt năm 1930 đã khẳng định “Nam nữ bình quyền”(1). Trong án nghị quyết của Trung ương toàn thể hội nghị tháng 10 - 1930 nêu rõ: “Lực lượng cách mạng của phụ nữ là một cái lực lượng rất trọng yếu. Nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không tham gia vào những cuộc tranh đấu cách mạng thì cách mạng không thắng lợi được. Bởi vậy nên công tác trong quần chúng phụ nữ không phải là một cái nhiệm vụ phụ thuộc của Đảng; công tác ấy chánh là một cái nhiệm vụ lớn và rất trọng yếu”(2).

Tám mươi mốt năm qua với 11 kỳ Đại hội, quan điểm, chủ trương của Đảng

về vấn đề phụ nữ và bình đẳng giới là thống nhất và xuyên suốt. Chiếm hơn 50% dân số và trên 47% lực lượng lao động xã hội, với mong muốn được tiến bộ, phát triển; với sự động viên, chăm lo của Đảng, Nhà nước; sự ủng hộ của gia đình và xã hội, vị thế của phụ nữ Việt Nam ngày càng được nâng cao.

Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ phụ nữ tham gia hoạt động kinh tế cao (83%) gần tương đương với nam giới (85%). Lực lượng lao động nữ có mặt ở hầu hết các ngành, nghề, lĩnh vực trong đó có một số ngành nữ chiếm tỷ lệ cao như chế biến nông sản, giáo dục, y tế, dệt may... Tỷ lệ nữ biết đọc, biết viết tăng liên tục, đến nay là 91,4% của giới. Nữ sinh viên Đại học hơn 50% tổng số sinh viên. Nữ thạc sĩ gần 40%, nữ tiến sĩ chiếm hơn 10% trong tổng số mỗi đối tượng. Hơn 41% số chủ cơ sở sản xuất - kinh doanh, hơn 20% chủ doanh nghiệp là nữ, một số là tổng giám đốc, phó tổng giám đốc các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp lớn.

Tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý có chuyển biến tích cực: nữ tham gia cấp ủy các cấp và Ban Chấp hành Trung ương Đảng tăng hơn so với nhiệm kỳ trước; nữ đại biểu Quốc hội khóa XII chiếm 25,76%, trong đó có nữ Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội. Nhiệm kỳ khóa XI của Đảng có một đồng chí nữ ủy viên Bộ Chính trị, hai đồng chí nữ Bí thư Trung ương Đảng.

Đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, bên cạnh những thuận lợi, phụ nữ Việt Nam vẫn đang gặp một số cản trở, khó khăn, như nhận thức của xã hội về vai trò, vị trí của phụ nữ chưa đầy đủ, định kiến giới còn nặng nề; hệ thống chính sách chưa hoàn thiện, tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu; trình độ học vấn, tay nghề thấp, cơ hội có việc làm hạn chế; tổ

Page 97: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

97

chức Hội Liên hiệp phụ nữ (LHPN) Việt Nam các cấp chưa thực hiện tốt chức năng đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ; tính liên hiệp còn hạn chế...

Tại Đại hội XI của Đảng, quan điểm về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ được kế thừa và thể hiện ở tất cả các văn kiện của Đại hội, từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011): “...Thực hiện bình đẳng giới và hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ...”; tới Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020: “Phát huy truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình Việt Nam tiến bộ, hạnh phúc; thực hiện tốt bình đẳng giới, sự tiến bộ của phụ nữ...”; và Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các luật pháp, chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của mình; tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy và bộ máy quản lý nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”. Quan điểm, chủ trương của Đảng đã tạo cơ hội thuận lợi cho việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ; bảo đảm sự tham gia đầy đủ của phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; tạo điều kiện cho Hội LHPNVN thực hiện tốt chức năng đại diện quyền và lợi ích hợp pháp của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam.

Để góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, trong đó có các mục tiêu, nhiệm vụ về bình đẳng giới, về công tác phụ nữ, Hội LHPNVN sẽ tập trung chỉ đạo, triển khai các nội dung sau:

1 - Tập trung tuyên truyền quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI tới các cấp Hội, đông đảo cán bộ, hội viên, phụ nữ cả nước, bảo đảm để các cấp Hội, chị em phụ nữ nhận thức đầy đủ, sâu sắc về các nội dung của Nghị quyết, từ đó xác định trách nhiệm và các biện pháp, hành động cụ thể trong thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Đại hội Đảng các cấp.

2 - Năm 2011 là năm Đại hội Phụ nữ các cấp, hướng tới Đại hội Phụ nữ toàn quốc được tổ chức vào năm 2012. Hành động thiết thực nhất của các cấp Hội để thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI là xây dựng các báo cáo đại hội bảo đảm quán triệt và thực hiện được các nhiệm vụ đề ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Đó là: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên...”; “Các đoàn thể nhân dân tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã được xác định, vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách; chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội”; và tại Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X: “Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng hành chính hóa, phát huy vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; thực hiện dân chủ, giám

Page 98: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

98

sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại”.

Để thực hiện các nhiệm vụ nêu trên, đòi hỏi Hội LHPNVN phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, thực hiện Kết luận số 62 của Bộ Chính trị (khóa X) về việc tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, nhằm thực hiện tốt hơn chức năng đại diện, chăm lo thiết thực đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ, phát động các phong trào thi đua yêu nước, đoàn kết, tập hợp đông đảo các tầng lớp phụ nữ để vận động, giáo dục chị em chấp hành pháp luật, tích cực học tập, lao động, tham gia xây dựng khu dân cư văn hóa, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.

Hội cần bám sát các chủ trương, Nghị quyết của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước, tích cực, chủ động tham mưu đề xuất với Đảng những chủ trương, chính sách liên quan đến phụ nữ theo hướng phát huy vai trò và hỗ trợ phụ nữ với tư cách người lao động, người mẹ, người vợ. Tổ chức giám sát việc thực hiện chính sách hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm để nâng tỷ lệ phụ nữ được đào tạo nghề có chứng chỉ, chuyên môn kỹ thuật, tạo cơ hội cho phụ nữ có việc làm, thu nhập ổn định, cải thiện đời sống của gia đình; chính sách đào tạo lại cho phụ nữ trí thức, các chính sách phát triển nhà trẻ, mẫu giáo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; chính sách hỗ trợ phụ nữ nghèo sinh con, hỗ trợ phụ nữ có con nhỏ tham gia đào tạo, bồi dưỡng; chính sách hỗ trợ nhà ở cho phụ

nữ cao tuổi, đơn thân, khuyết tật; chính sách thuế với nữ chủ doanh nghiệp...

Cùng với việc tham gia xây dựng chính sách, Hội cần tổ chức các hoạt động chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho phụ nữ. Quan tâm tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của phụ nữ. Tiếp tục triển khai các hoạt động vay vốn, tiết kiệm, dạy nghề, giúp phụ nữ xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế. Với nhận thức phụ nữ có vai trò quan trọng trong xây dựng gia đình, Hội cần triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc như: phát triển các mô hình Câu lạc bộ gia đình hạnh phúc; vận động phụ nữ thực hiện xây dựng gia đình “5 không, 3 sạch” (không đói nghèo, không vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội, không có bạo lực gia đình, không sinh con thứ 3 trở lên, không có trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học; sạch nhà, sạch bếp, sạch ngõ).

3 - Tích cực tham gia xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Quán triệt quan điểm cán bộ nữ là một bộ phận cán bộ của Đảng, căn cứ Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hội cần chủ động tham mưu, giới thiệu, tạo nguồn cán bộ nữ và giới thiệu quần chúng là phụ nữ ưu tú cho Đảng. Đặc biệt năm nay cả nước tiến hành bầu cử Quốc hội khóa XIII và bầu cử hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016, tổ chức Hội cần phát huy vai trò tham mưu, giới thiệu nhân sự nữ đủ tiêu chuẩn tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân bảo đảm tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân đạt 30% trở lên.

4 - Chú trọng công tác phát triển tổ chức Hội, đa dạng các hình thức thu hút, tập hợp các đối tượng phụ nữ thông

Page 99: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

99

qua việc thành lập Hội nữ trí thức Việt Nam, Hội nữ Doanh nhân Việt Nam, thành lập tổ chức Hội trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có đông lao động nữ, thí điểm mô hình tập hợp phụ nữ Việt Nam ở nước ngoài. Các cấp Hội cần sâu sát cơ sở, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của phụ nữ, làm tốt vai trò cầu nối giữa phụ nữ với Đảng; phản ánh, kiến nghị với Đảng, Nhà nước những ý kiến, đề nghị của phụ nữ. Các tầng lớp phụ nữ Việt Nam tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của

Đảng và tiếp tục phát huy truyền thống “Anh hùng, Bất khuất, Trung hậu, Đảm đang”, đóng góp xứng đáng vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và thực hiện lời dạy của Bác Hồ kính yêu “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp rực rỡ”./.

Nguyễn Thị Thanh Hòa Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ

nữ Việt Nam/TCCS http://www.tuyengiao.vn

PHÁT HUY VAI TRÒ XUNG KÍCH CỦA TUỔI TRẺ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT

ĐẠI HỘI XI CỦA ĐẢNG

ội nghị Ban thường vụ Trung ương Đoàn lần thứ 14, khóa IX ngày 21/4 đã thảo luận Chương trình hành động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI của Đảng. Mục tiêu Chương trình hành động hướng tới là phát huy mạnh mẽ vai trò xung kích, tinh thần tình nguyện và sáng tạo của tuổi trẻ cụ thể hóa và thực hiện thắng lợi các mục tiêu Nghị quyết đề ra.

Chương trình đề ra các nội dung cụ thể, thiết thực, phù hợp với thanh niên. Một trong những nội dung quan trọng là đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống, nâng cao thể chất và đời sống văn hóa tinh thần của thanh thiếu nhi; vận động và tổ chức thanh niên xung kích tham gia phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Đối với Chương trình tham gia đào tạo nguồn nhân lực trẻ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đoàn thanh niên phấn đấu hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, nhà khoa học, người nông dân, doanh nhân trẻ giỏi… trong thanh niên.

Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Đoàn, tích cực tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị cũng là một nội dung quan trọng trong triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.

Các cấp bộ Đoàn tập trung xây dựng, củng cố tổ chức vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động; thường xuyên giới thiệu cho Đảng những đoàn viên ưu tú có chất lượng, những cán bộ Đoàn tâm huyết, có đạo

H

Page 100: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

100

đức gắn bó với quần chúng, có trí tuệ và năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn, dám nghĩ, dám làm, dám dấn thân vào khó khăn để bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.../.

http://daihoi11.dangcongsan.vn

TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM:

CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT XI CỦA ĐẢNG

ể tiếp tục đẩy mạnh phong trào hành động cách mạng trong các cấp CĐ và CB, CNVCLĐ, góp phần đưa NQ ĐH lần thứ XI của Đảng vào cuộc sống, Tổng LĐLĐVN đã xây dựng chương trình

hành động thực hiện NQ XI của Đảng. Theo văn bản số 363/Ctr-TLĐ ngày 15.3 của Tổng LĐLĐVN, Chương

trình hàng động gồm có 6 nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu. Một là, tổ chức triển khai học tập, quán triệt sâu sắc, có hiệu quả NQ XI của Đảng. Hai là, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề, kiến thức pháp luật cho NLĐ. Ba là, chăm lo đời sống, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ. Bốn là, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, góp phần phát triển KT-XH, đảm bảo quốc phòng, an ninh. Năm là, đẩy mạnh phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS, góp phần xây dựng GCCN và tổ chức CĐ vững mạnh, tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Sáu là, tăng cường hoạt động đối ngoại của tổ chức CĐ.

Trong mục tiêu tổng quát của chương trình có các chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2015 như: Hàng năm 100% CĐ các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp nhà nước tham gia tổ chức hội nghị CBCC, trên 90% số DNNN tổ chức ĐH CNVC. Đến 2015, nâng cao tỉ lệ NLĐ trong các DN có tổ chức CĐ được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghề nghiệp lên 60%; 80% trở lên số CĐCS DN đại diện CNLĐ ký TƯLĐTT...

http://laodong.com.vn/Tin-Tuc

Đ

Page 101: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

101

PHỤ LỤC ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN I ĐẾN LẦN THỨ XI

ĐHĐB toàn quốc

Thời gian Địa điểm Số đại biểu Số đảng viên

Lần thứ nhất 27- 31/3/1935 Ma Cao (Trung

Quốc) 13 600

Lần thứ hai 11-19/2/1951 Tuyên Quang 158 (53 dự khuyết) 766.349

Lần thứ ba 5 - 12/9/1960 Hà Nội 525 (51 dự khuyết) 500.000

Lần thứ tư 14- 20/12/1976 Hà Nội 1008 1.550.000

Lần thứ năm 27 – 31/3/1982 Hà Nội 1033 1.727.000

Lần thứ sáu 15- 18/12/1986 Hà Nội 1129 2.109.613

Lần thứ bảy 24 – 27/6/1991 Hà Nội 1176 2.155.022

Lần thứ tám 28/6 – 1/7/1996 Hà Nội 1198 2.130.000

Lần thứ chín 19/4- 22/4/2001 Hà Nội 1168

Lần thứ mười 18/4- 25/4/2006 Hà Nội 1176 3,1 triệu

Lần thứ mười một 12/1-19/1/2011 Hà Nội 1377 3,6 triệu

http://vi.wikipedia.org/wiki/Đảng_Cộng_sản_Việt_Nam

Page 102: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

102

GIỚI THIỆU TÁC PHẨM: “ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM –

CHẶNG ĐƯỜNG QUA HAI THẾ KỶ”

Trên chặng đường dài qua hai thế kỷ, với 10 kỳ Đại hội Đảng, có biết bao nhiêu biến cố, sự kiện phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế, đất nước ta phải đương đầu với đủ loại kẻ thù, với biết bao khó khăn, thử thách, có những lúc ở trong tình thế rất khắc nghiệt “ngàn cân treo sợi tóc”, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, con thuyền cách mạng Việt Nam vẫn cập bến vinh quang. Thực tiễn đã chứng minh hùng hồn một điều không thể phủ nhận, đó là sự lãnh đạo của Đảng – nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Nhân dịp chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thành công. Thư viện tỉnh Ninh Thuận xin trân trọng giới thiệu tác phẩm “Đảng Cộng sản Việt Nam – Chặng đường qua hai thế kỷ” nhằm giúp bạn đọc có được cách nhìn xác thực và cảm nhận sâu sắc về bề dày lịch sử quang vinh hào hùng của Đảng ta.

Sách do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia phối hợp với Trung tâm Thông tin và Tư vấn phát triển xuất bản năm 2006, có bìa cứng, trình bày đẹp, bố cục rõ ràng dễ đọc, dễ nghiên cứu và tìm hiểu. Nội dung tác phẩm là những nghiên cứu, tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng nước ta và 20 năm đổi mới.

Phần đầu tiên tác phẩm giới thiệu chân dung, thời gian đương chức của các Chủ tịch Đảng, Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương các khóa từ khóa I đến khóa X.

Tiếp theo là phần nội dung chính của tác phẩm gồm 3 phần: Phần I, giới thiệu Đảng Cộng sản Việt Nam – Chặng đường qua hai thế kỷ

(1930 – 2006). Phần này gồm 6 chương, trình bày một cách khái quát về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng qua các thời kỳ cách mạng: giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám năm 1945, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước và các cuộc kháng chiến chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc; công cuộc đổi mới trên đất nước ta. Ở mỗi giai đoạn cách mạng đều đề cập đến chủ trương, đường lối của Đảng, những thành tựu đã đạt được, những sự kiện chính, kinh nghiệm và bài học rút ra.

Phần II, tác phẩm giới thiệu Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ ngày thành lập Đảng đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Phần này có kèm ảnh, lý lịch trích ngang của từng ủy viên và được sắp xếp theo vần chữ cái A, B, C…Việc sắp xếp này tuy không theo từng khóa Đại hội nhưng rất thuận lợi cho việc tìm hiểu, tra cứu để phục vụ cho việc nghiên cứu; đồng thời tránh sự trùng lặp vì có nhiều ủy viên tham gia Ban Chấp hành Trung ương nhiều khóa.

Phần III, tác phẩm giới thiệu Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa. Phần này giới thiệu tổng thể Ban Chấp hành Trung ương và được sắp xếp theo

Page 103: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

103

thời gian tương ứng với từng khóa: Ban chấp hành Trung ương lâm thời thời kỳ đầu thành lập Đảng, Ủy viên Trung ương do Hội nghị tháng 10 năm 1930 bầu ra, các Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa. Thứ tự trước sau trong danh sách các Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Trung ương của từng khóa là căn cứ hoàn toàn vào danh sách đã được in trong Văn kiện Đảng toàn tập do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản và Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng cung cấp.

Tác phẩm “ Đảng Cộng sản Việt Nam – Chặng đường qua hai thế kỷ” là tác phẩm được biên soạn tương đối công phu và có hệ thống, có nhiều thông tin lần đầu tiên được công bố rộng rãi trong nhân dân. Hy vọng sách sẽ giúp bạn đọc nghiên cứu, tìm hiểu về sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và được gặp lại chân dung các vị lãnh tụ Đảng, các Ủy viên Ban chấp hành Trung ương cũng như Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa từ Đại hội lần thứ I đến Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Thư viện tỉnh Ninh Thuận xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Sách hiện có tại kho Đọc và kho Nghiên cứu. Kính mời bạn đọc đến tham khảo.

Phạm Thị Thơm

Page 104: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

104

THƯ MỤC GIỚI THIỆU SÁCH

1. Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, nhiệm kỳ 2010 - 2015. - NInh Thuận: Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận, 2010. - 103tr. ; 20cm.

Tóm tắt: Giới thiệu bài diễn văn khai mạc Đại hội; báo cáo chính trị; bài phát biểu; Nghị quyết Đại hội; diễn văn bế mạc Đại hội; danh sách các đồng chí ủy viên ban Chấp hành.

Ký hiệu kho: Kho Địa chí: DCS.001018, DCS.001031 Chỉ số phân loại: 324.2597070959758/ V115K 2. Kỷ yếu Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lần thứ XI. - Ninh Thuận : Ban

Tuyên giáo tỉnh Ninh Thuận, 2006. - 514tr. ; 21cm. Đầu trang nhan đề: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Ninh Thuận Tóm tắt: Nội dung tài liệu tập hợp những văn bản, bài viết, hình ảnh về Đại hội

Đảng bộ góp phần tích cực vào hoạt động công tác tư tưởng, nâng cao niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng bộ, dấy lên phong trào hành động cách mạng, với quyết tâm cao nhất hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu của Nghị quyết Đại hội lần thứ XI.

Ký hiệu kho: Kho Đọc: DVN.014069 Kho Mượn: M.022107-22109 Kho Luân chuyển: LC.012955-012956 Chỉ số phân loại: 324.25970959758/ K600Y 3. Đại hội X Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận. - Ninh Thuận : Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

Ninh Thuận, 2001. - 304tr.: tranh ảnh ; 21cm. Tóm tắt: Nội dung tài liệu tập hợp những văn bản, bài viết, hình ảnh về Đại hội

Đảng bộ góp phần tích cực vào hoạt động công tác tư tưởng, nâng cao niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng bộ, dấy lên phong trào hành động cách mạng, với quyết tâm cao nhất hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu của Nghị quyết Đại hội lần thứ X.

Ký hiệu kho: Kho Đọc: DVN.014068 Kho Mượn: M.022104-022105 Kho Địa chí: DCS.000885-000886 Chỉ số phân loại: 324.25970959758/ Đ103H 4. Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội IX của Đảng: Dùng cho cán bộ chủ chốt

và báo cáo viên. - Hà Nội: Chính trị Quốc gia, 2001. - 356tr. ; 19cm. Đầu trang nhan đề: Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương

Page 105: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

105

Tóm tắt: Các vấn đề chủ yếu trong văn kiện Đại hội IX của Đảng: tình hình đất nước 5 năm qua, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phát triển giáo dục, khoa học, quốc phòng an ninh...

Ký hiệu kho: Kho Đọc: DVN.007937 Chỉ số phân loại: 324.2597071/ T103L 5. PHẠM, VĂN TRÀ. Tăng cường sức mạnh quốc phòng dưới ánh sáng Nghị

quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng/ Phạm Văn Trà. - Hà Nội : Quân đội nhân dân, 2001. - 151tr.: ảnh chân dung; 19cm.

Tóm tắt: Phân tích làm sáng tỏ những nội dung cơ bản nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong các văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX và những vấn đề quốc phòng, an ninh, xây dựng quân đội, quốc phòng toàn dân.

Ký hiệu kho: Kho Đọc: DVN.008005 Chỉ số phân loại: 355.009597/ T116C 6. Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX của Đảng. - Hà Nội: Chính trị Quốc gia, 2001. - 285tr.; 19cm. Đầu trang nhan đề: Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương Tóm tắt: Thành tựu của cách mạng Việt Nam qua đánh giá của bạn bè quốc tế;

Một số đặc điểm nổi bật của thế kỷ 21; Tình hình kinh tế xã hội 10 năm (1991-2000); Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; Một số định hướng phát triển kinh tế xã hội; Về xây dựng Đảng.

Ký hiệu kho: Kho Đọc: DVN.007936 Chỉ số phân loại: 324.2597071/ T103L 7. Tham luận tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. - Hà Nội : Chính trị

Quốc gia, 2001. - 616tr. ; 19cm. Đầu trang nhan đề: Đảng Cộng Sản Việt Nam Tóm tắt: Gồm các bài trích tham luận của đại biểu các ban, ngành Trung ương

và địa phương trong cả nước tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ký hiệu kho: Kho Đọc: DVN.007933 Chỉ số phân loại: 324.2597071/ TH104L 8. NGUYỄN, PHÚ TRỌNG. Cương lĩnh chính trị ngọn cờ tư tưởng lý luận chỉ

đạo sự nghiệp cách mạng của chúng ta / Nguyễn Phú Trọng. - Hà Nội : Chính trị Quốc gia, 2010. - 95tr. ; 19cm.

Page 106: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

106

Tóm tắt: Đề cập một cách khái quát có hệ thống những quan điểm lí luận chính trị cơ bản của Đảng ta thể hiện trong các bản Cương lĩnh Chính trị của Đảng từ năm 1930 đến nay; sự phát triển nhận thức của Đảng qua các giai đoạn cách mạng; những vấn đề đặt ra cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết để không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn thiện quan điểm, đường lối của Đảng trên con đường xây dựng và phát triển đất nước.

Ký hiệu kho: Kho Đọc: DVN.015367 Kho Mượn: M. 025360 - 025361 Chỉ số phân loại: 324.2597071/C561L 9. Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ X.- Ninh Thuận: Ban Chấp

hành Đảng bộ huyện Ninh Hải, 2010. - 95tr. ; 19cm. Đầu trang nhan đề: Đảng Cộng sản Việt Nam. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện

Ninh Hải Tóm tắt: Giới thiệu toàn bộ nội dung của Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Ninh

Hải lần thứ X. Ký hiệu kho: Kho Địa chí: DCS.000996 Chỉ số phân loại: 324.2597070959758/ V115K 10. Đoàn kết, nhất trí, vượt qua khó khăn, thách thức đưa tỉnh nhà tiến nhanh

trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Kỷ yếu hội nghị giữa nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X. - Ninh Thuận: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Ninh thuận, 2003. - 235tr. ; 19cm.

Đầu trang nhan đề: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Ninh Thuận Tóm tắt: Tuyên truyền, quán triệt sâu rộng nội dung và Kết luận Hội nghị giữa

nhiệm kỳ Đại hội X - Đảng bộ tỉnh đến tất cả cán bộ, Đảng viên và nhân dân, ở các cấp, các ngành, các địa phương trong tỉnh, qua đó tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thống nhất tư tưởng và hành động trong Đảng, khơi dậy và huy động mạnh mẽ mọi nguồn lực, thực hành tiết kiệm chống tham ô, lãng phí.

Ký hiệu kho: Kho Đọc: DVN.008252 Chỉ số phân loại: 324.2597070959758/ Đ406K 11. Lời chào mừng Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam. - Hà Nội: Chính trị

Quốc gia, 2001. - 183tr. ; 19cm. Tóm tắt: Gồm các bài phát biểu chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX Đảng Cộng sản Việt Nam của các đoàn đại biểu của 34 Đảng anh em bạn bè và một số đảng cầm quyền từ các châu lục trên thế giới đến tham dự đại hội

Ký hiệu kho:

Page 107: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

107

Kho Đọc: DVN.007932 Chỉ số phân loại: 324.2597071/ L462C 12. Tài liệu học tập văn kiện Đại hội IX của Đảng: Dùng cho đảng viên và cán

bộ cơ sở. - Hà Nội: Chính trị Quốc gia, 2001. - 124tr.; 19cm. Đầu trang nhan đề: Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương Tóm tắt: Những nội dung cơ bản của các văn kiện Đại hội 9 phù hợp với trình độ

của cán bộ, đảng viên cơ sở về các vấn đề: Bối cảnh quốc tế và tình hình đất nước hiện nay; Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đường lối kinh tế, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010.

Ký hiệu kho: Kho Đọc: DVN.007935 Chỉ số phân loại: 324.2597071/ T103L 13. Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Ninh Sơn lần thứ X.- Ninh Sơn: Ban Chấp

hành Đảng bộ huyện Ninh Sơn, 2010. - 96tr. ; 19cm. Đầu trang nhan đề: Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện

Ninh Sơn. Tóm tắt: Giới thiệu toàn bộ nội dung của Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Ninh

Sơn lần thứ X. Ký hiệu kho: Kho Địa chí: DCS.000995 Chỉ số phân loại: 324.2597070959758/ V115K 14. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020. - Hà Nội: Chính trị Quốc

gia - Sự thật, 2011. - 67tr. ; 19cm. Đầu trang nhan đề: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XI Tóm tắt: Các quan điểm phát triển, xác định mục tiêu chiến lược và các khâu đột

phá, định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước,...

Ký hiệu kho: Kho Đọc: DVN.015361 Kho Mượn: M.025348 – 025349 Chỉ số phân loại: 330.9597/CH305L 15. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Bổ

sung, phát triển năm 2011. - Hà Nội : Chính trị quốc gia - Sự thật, 2011. - 35tr. ; 19cm.

Đầu trang nhan đề: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI

Page 108: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

108

Tóm tắt: Quá trình cách mạng và những bài học kinh nghiệm. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng.

Ký hiệu kho: Kho Đọc: DVN.015362 Kho Mượn: M.025350 - 025351 Chỉ số phân loại: 324.2597071/ C561L 16. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam : Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI

thông qua ngày 19 tháng 1 năm 2011. - Hà Nội: Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2011. - 72tr. ; 15cm.

Tóm tắt: Gồm 48 điều quy định về Đảng viên, nguyên tắc tổ chức và cơ cấu tổ chức của Đảng, cơ quan lãnh đạo của Đảng từ cơ sở đến Trung ương, tổ chức Đảng trong quân đội, công an, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng và uỷ ban kiểm tra các cấp, khen thưởng và kỷ luật,...

Ký hiệu kho: Kho Đọc: DVN.015360 Kho Mượn: M.025346 - 025347 Chỉ số phân loại: 324.259707/Đ309L 17. Những vấn đề kinh tế xã hội trong cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm

2011): Sách tham khảo/ Trương Giang Long, Trần Hoàng Ngân đồng chủ biên. - Hà Nội: Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2011. -283tr. ; 21cm.

Đầu trang nhan đề: Tạp chí Cộng sản. Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh

Tóm tắt: Những vấn đề về kinh tế, giáo dục - đào tạo mà cương lĩnh nêu ra như: mô hình kinh tế tổng quát thời kì quá độ ở nước ta; các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; vai trò của nhà nước và kinh tế nhà nước; vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế...

Ký hiệu kho: Kho Đọc: DVN.015368 Kho Mượn: M. 025362 - 025363 Chỉ số phân loại: 330.9597/NH 556 V 18. Hướng dẫn thi hành điều lệ Đảng sửa đổi bổ sung và văn kiện Đại hội lần

thứ XI của Đảng / Ngô Chiêu sưu tầm và hệ thống hóa. - Hà Nội: Văn hóa Thông tin, 2011. - 547tr.; 28cm.

Tóm tắt: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội lần thứ XI của Đảng. Quy chế phối hợp giữa các tổ chức Đảng với các ban ngành - đoàn thể. Chức năng nhiệm vụ tổ chức bộ máy của các cơ quan cấp ủy Đảng. Công tác quản lí Đảng viên và xây dựng hoàn thiện mô hình của một số loại hình tổ chức cơ sở Đảng...

Page 109: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

109

Ký hiệu kho: Kho Đọc: DVL.003010 Kho Mượn: M. 025382 -025383 Chỉ số phân loại: 324.259707/H561D 19. LÊ, QUỐC SỬ. Bảy vị cố Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam sống mãi

với chúng ta / Lê Quốc Sử; Lê Văn Vỵ hiệu đính. - Hà Nội : Thời đại, 2010. - 450tr. : ảnh ; 27cm.

Tóm tắt: Các bước thăng trầm của đất nước thông qua vai trò của các Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ký hiệu kho: Kho Đọc: DVL.003013 Kho Mượn: M.025388- 025389 Chỉ số phân loại: 324.25970709/ B112V 20. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ XI. - Hà Nội : Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2011. - 127tr. ; 19cm.

Đầu trang nhan đề: Đảng Cộng sản Việt Nam Tóm tắt: Kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X, nhìn lại 10 năm

thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010, 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 199; đề ra những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển đất nước 5 năm (2011-2015)...

Ký hiệu kho Kho Đọc: DVN.015365 Kho Mượn: M.025356 - 025357 Chỉ số phân loại: 324.25970755/B108C 21. LÊ, MẬU HÃN. Các cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam /

Lê Mậu Hãn biên soạn. - Tái bản có sửa chữa. - Hà Nội: Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2011. - 147tr.: ảnh; 19cm.

Tóm tắt: Khái quát các cương lĩnh cách mạng của Đảng và các cương lĩnh cách mạng của Đảng từ khi thành lập tới nay.

Ký hiệu kho: Kho Đọc: DVN.015365 Kho Đọc: DVN.015372 Kho Mượn: 025370 -025371 Chỉ số phân loại: 324.2957071/C101C

Page 110: LỜI NÓI ĐẦU - 117.2.25.105:84

Tìm hiểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI

110

22 . LÊ, VĂN YÊN. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trên đường sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam / Lê Văn Yên. - Hà Nội : Công an Nhân dân, 2009. - 151tr. ; 21cm.

Tóm tắt: Con đường hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh – từ người yêu nước trở thành chiến sĩ cộng sản, đóng góp cho phong trào cộng sản quốc tế, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và những sáng tạo trong việc thành lập Đảng ta.

Ký hiệu kho: Kho Đọc: DVN.015369 Kho Mượn: M.025364 - 025365 Chỉ số phân loại: 959.704092