23
1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THU HƯƠNG Nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngành: Luật học Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 01 07 Hà Nội, 2016

LKT_Lê Thị Thu Hương_ Nguyên tắc công bằng.PDF

Embed Size (px)

Citation preview

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

LÊ THU HƯƠNG

Nguyên tắc công bằng

trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngành: Luật học

Chuyên ngành: Luật kinh tế

Mã số: 60 38 01 07

Hà Nội, 2016

2

Công trình được hoàn thành

tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuyến

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa Luật - Đại học Quốc

gia Hà Nội.

Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2016

Có thể tìm hiểu luận văn tại

Trung tâm tư liệu Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội

Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội

3

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng thuế ra đời là sự cần thiết khách

quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Nhà nước là một tổ chức chính trị,

đại diện quyền lợi cho giai cấp thống trị, thi hành các chính sách do giai cấp thống trị đặt ra để cai

trị xã hội. Để có nguồn lực vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của

mình, Nhà nước phải dùng quyền lực chính trị vốn có để huy động một bộ phận của cải xã hội,

trong đó có biện pháp huy động, tập trung của cải có tính bắt buộc đối với mọi thành viên trong xã

hội được gọi là thuế.

Ra đời và tồn tại cùng Nhà nước, từ đó đó đến nay, thuế đã trải qua một quá trình phát triển

lâu dài và khái niệm về thuế cũng không ngừng được hoàn thiện. Xã hội ngày càng phát triển thì

vai trò của thuế ngày càng một nâng cao và đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng một hệ thống pháp

luật về thuế phù hợp với sự phát triển của đất nước. Pháp luật của nước ta ban hành rất nhiều sắc

thuế với chức năng nhiệm vụ khác nhau, tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu tôi chỉ xin đề cập đến

Thuế thu nhập cá nhân, một loại thuế chiếm vai trò quan trọng trong sự phát triển đất nước hiện

nay.

Trên thế giới, luật thuế thu nhập cá nhân đã có lịch sử hàng trăm năm và đã trở thành loại

thuế phổ biến trên Thế giới. Ở nước ta, thuế thu nhập cá nhân được ban hành lần đầu tiên vào ngày

27/12/1990, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/4/1991 với tên gọi “Thuế thu nhập đối với người có thu

nhập cao” dưới hình thức pháp lệnh. Từ đó đến nay đã qua có rất nhiều lần sửa đổi bổ sung, cụ thể

hóa Nghị quyết Đại hội Đảng IX và X của Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Chính trị đã thông qua

Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn II (2006-2010). Chính phủ đã ban hành Quyết định số

201/2004/QĐ-TTg ngày 06/12/2004 triển khai thực hiện Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai

đoạn II. Sau hơn ba năm chuẩn bị kỹ lưỡng, ngày 20/11/2007 tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội Nước

Cộng hoà XHCH Việt Nam khoá XII đã thông qua Luật thuế Thu nhập cá nhân (TNCN) và Luật có

hiệu lực thi hành từ 1/1/2009 với chức năng đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước, đảm bảo chi

tiêu của Nhà nước, đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư, góp phần

hạn chế khoảng cách về thu nhập trong xã hội và khuyến khích mọi cá nhân lao động, sản xuất kinh

doanh, gia tăng thu nhập để làm giàu chính đáng. Để phù hợp hơn với các biến đổi trong thời kì

đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước cũng như những yêu cầu, đòi hỏi của đất nước,

Luật thuế thu nhập cá nhân được sửa đổi, bổ sung vào năm 2012 và mới đây nhất Luật thuế thu

nhập cá nhân được sửa đổi thay thế cho luật sửa đổi bổ sung năm 2012 là luật sửa đổi các luật về

thuế năm 2014, chính thức có hiệu lực vào ngày 01/01/2015.

Từ sau đổi mới, không thể phủ nhận được những thành tựu phát triển đất nước theo định

hướng cơ chế thị trường mà Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ. Văn kiện của Đại hội IX đã khẳng định

4

rõ "Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh

tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể

ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. Tuy nhiên thẳng thắn trong

nhìn nhận các mặt của đời sống xã hội hiện nay, một trong những khuyết tật của nền kinh tế thị

trường là sự phân hoá giàu nghèo sâu sắc tạo ra hai cực đối lập rất cao trong xã hội. Tình hình trên

không những liên quan đến vấn đề đạo đức, công bằng xã hội mà còn tạo nên sự đối lập về quyền

lợi và của cải của các tầng lớp dân cư, làm mất đi ý nghĩa cao đẹp của sự phát triển kinh tế xã

hội.Vì những lý do trên, bất kỳ quốc gia nào cũng phải can thiệp vào quá trình phân phối thu nhập

của các tầng lớp dân cư thông qua hệ thống pháp luật thuế nhằm điều tiết bớt thu nhập của các chủ

thể này vào tay nhà nước để thực hiện các chính sách xã hội và thuế thu nhập cá nhân được coi là

thứ thuế công bằng nhất trong phân phối thu nhập.

Nhìn nhận vai trò của pháp luật thuế thu nhập trong đó đặc biệt là pháp luật thuế thu nhập

đối với người có thu nhập cao trong thời gian qua, chúng ta không thể phủ nhận sự đóng góp tích

cực của công cụ tài chính này trong việc tạo lập nguồn thu cho ngân sách nhà nước, thực hiện công

bằng xã hội và điều tiết có hiệu quả nền kinh tế, đưa kinh tế phát triển theo đúng mục tiêu, đúng

định hướng. Các đợt sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã

đáp ứng một phần yêu cầu trước mắt về giải quyết các vấn đề phát sinh trên thực tế như cấu trúc

bậc thuế, thuế suất, phân loại thu nhập thường xuyên và không thường xuyên. Nguyên tắc công

bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam đã được đặt ra và ở một tầm nào

đó đã được ưu tiên và bổ sung hoàn chỉnh hơn trong các quy định của phát luật về thuế thu nhập cá

nhân. Các lần sửa đổi bổ sung luật thuế thu nhập cá nhân, gần đây nhất là Luật thuế sửa đổi năm

2014 có hiệu lực thi hành chính thức vào 01/01/2015 đã thể hiện được nguyên tắc công bằng trong

việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thuế thu nhập cá nhân. Tuy nhiên vấn

đề đảm bảo tính công bằng, hiệu quả mặc dù đã được quan tâm nhưng vẫn chưa được giải quyết

một cách căn bản, thích đáng như một yêu cầu cơ bản, mang tính dài hạn xuyên suốt.

Nhận thức được nhu cầu cấp thiết đó, Tôi quyết định lựa chọn đề tài “Nguyên tắc công

bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam”. Dưới góc độ một đề tài

nghiên cứu khoa học rõ ràng đề tài có ý nghĩa cấp bách thể hiện trên năm phương diện chính sau

đây:

Một là, về phương diện chính trị, xã hội - việc nghiên cứu đề tài này để quán triệt các yêu

cầu của Đảng, Nhà nước ta về cải cách hệ thống thuế, đúng như Chiến lược cải cách hệ thống thuế

giai đoạn 2011-2020 được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt tại Quyết định 732/QĐ-TTg

ngày 17/5/2011 đã khẳng định phải: “Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, thống nhất,

công bằng, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mức

5

động viên hợp lý nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước và là một trong những công cụ

quản lý kinh tế vĩ mô có hiệu quả, hiệu lực của Đảng và Nhà nước. Xây dựng ngành thuế Việt Nam

hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn giản,

dễ hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ bản: thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình

thủ tục hành chính (TTHC) về thuế đơn giản, khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế; nguồn nhân

lực có chất lượng, liêm chính; ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự

động hoá cao.”

Hai là, về phương diện lập pháp - để cung cấp những luận cứ khoa học cần thiết cho việc

hoàn thiện hơn Luật thuế Việt Nam hiện hành. Thuế TNCN là một trong những lĩnh vực quan trọng

của ngành thuế, nhằm đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và đảm bảo cho các hoạt động

chi tiêu của Nhà nước. Luật thuế TNCN không ngừng được hoàn thiện để đáp ứng các yêu cầu, đòi

hỏi trong việc bảo vệ các quyền con người và sự phát triển bền vững của đất nước trong tình hình

mới. Việc nghiên cứu đề tài nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở

Việt Nam rõ ràng là rất cần thiết.

Ba là, về phương diện thực tiễn - để chủ động phòng, chống hiện tượng tiêu cực vẫn còn

xảy ra trong hoạt động thuế những năm vừa qua. Từ thực tiễn phòng ngừa và đấu tranh chống các

hành vi sai phạm trong lĩnh vực thuế, có thể thấy rằng thành tích của các cơ quan thuế Việt Nam là

rất lớn, không thể phủ nhận. Tuy nhiên, bên cạnh thành tích đó, những sai lầm, thiếu sót, thậm chí

nhũng nhiễu, tiêu cực vẫn còn tồn tại gây bức xúc trong dư luận xã hội và nhân dân.... Do đó, để

hạn chế, loại trừ hiện tượng này, việc nâng cao nhận thức về quyền con người, nguyên tắc công

bằng cho mọi người dân, đặc biệt là cho các cán bộ thuế giao dịch trực tiếp là cần thiết.

Bốn là, về phương diện khoa học - để góp phần phát triển lý luận về nguyên tắc công bằng

trong việc thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam nói chung và nguyên tắc công bằng

trong lĩnh vực thuế nói riêng nhằm đảm bảo hơn nữa các quyền của con người ở nước ta, việc

nghiên cứu đề tài đã nêu là có tính thời sự và cấp bách hiện nay.

Năm là, về phương diện quốc tế - việc triển khai đề tài này không những góp phần làm sáng

tỏ những tư tưởng tiến bộ và cao quý về đảm bảo nguyên tắc công bằng – một trong các nguyên tắc

quan trọng trong việc bảo đảm các quyền con người đã được thể hiện trong các Công ước quốc tế

của Liên Hợp quốc về quyền con người như: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR)

năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và Công ước quốc tế về các

quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) năm 1966; v.v..., mà còn góp phần tôn trọng, bảo vệ và

có cơ chế bảo đảm hơn nữa các quyền cơ bản của con người này. Việc nghiên cứu hoàn thiện pháp

luật thuế nói chung và pháp luật thuế thu nhập cá nhân nói riêng là thật sự cần thiết.

2. Tình hình nghiên cứu

6

Việc nghiên cứu các quy định về nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế

TNCN ở Việt Nam đã và được xem xét nghiên cứu trên nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau.

Có thể tạm chia thành các nhóm:

- Nhóm thứ nhất - những công trình có đề cập đến vấn đề nguyên tắc công bằng trong

thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân với các công trình nghiên cứu cấp Bộ, giáo trình viết về

thuế TNCN nói chung và nguyên tắc công bằng nói riêng như Tài liệu tuyên truyền về Dự Luật

thuế TNCN, Nxb. Tài chính, Hà Nội, 2007, tr. 10; Ths. La Thị Tuyết Anh (2011), Thực tiễn thi

hành pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam và định hướng hoàn thiện, Đại học Luật Hà Nội;

Ts. Lê Nguyệt Châu (2010), Giáo trình luật tài chính 2, NXB Tài Chính; Nguyễn Thanh Tuyền và

Nguyễn Ngọc Thanh (2001), Giáo trình Thuế, NXB Thống kê, Hà Nội; Nguyễn Thị Kim Tuyển,

Pts Phan Mỹ Hạnh (1998), Hệ thống chính sách thuế Việt Nam hiện hành, NXB Thành phố Hồ Chí

Minh;…..

- Nhóm thứ hai - các công trình nghiên cứu là các đề tài nghiên cứu khoa học, luận

văn, luận án liên quan đến nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân

như luận văn thạc sĩ “Nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân” của tác giả

Phan Phương Nam, Thành phố Hồ Chí Minh, 2006, Luận án tiến sĩ “Nguyên tắc công bằng trong

pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam năm 2012” của tác giả Trần Minh Đức, Viện Khoa

học xã hội Hà Nội, ….

- Nhóm thứ ba - các công trình nghiên cứu là các sách chuyên khảo, bài viết liên quan

đến nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam như TS. Lê

Thị Thu Thủy Tạp chí luật học số 4/2009 Những vấn đề đặt ra trong Luật thuế TNCN ở Việt Nam;

Trần Minh Đức (2008), “Một số vấn đề về nguyên tắc công bằng trong pháp luật về thuế thu nhập

cá nhân”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, (số 12), trang 56-60; Ths. Trần Vũ Hải (2007), “Thực

trạng pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam hiện nay và phương hướng hoàn thiện”, Tạp chí

Luật học, (Số 10), trang 27-35; Nguyễn Thị Lan Hương (2011), “Ưu tiên quyền lợi của người nộp

thuế khi sửa đổi luật thuế thu nhập cá nhân”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (Số 7), trang 50-56;

Nguyễn Thu Hằng, Đào Ngọc Tiến (2011), “Thuế thu nhập cá nhân của Anh và một số bài học đối

với Việt Nam”, Tạp chí kinh tế đối ngoại, (Số 15), trang 34-37; Nguyễn Thị Lan (2008), “Về giảm

trừ gia cảnh trong luật thuế thu nhập cá nhân nhìn từ góc độ bình đẳng giới”, Tạp chí Luật học, (Số

3), trang 31-35…

Như vậy, qua nghiên cứu các công trình khoa học đã công bố nói trên, có thể thấy rằng

đã có những nghiên cứu về thuế nói chung và nghiên cứu về các chế định cụ thể của pháp luật

thuế TNCN Việt Nam liên quan đến nguyên tắc công bằng nói riêng, tuy nhiên, chưa có việc

nghiên cứu trực tiếp và có hệ thống, toàn diện đến vấn đề nguyên tắc công bằng trong thực thi

pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam.

7

3. Mục tiêu nghiên cứu nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ “nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp

luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam”. Trên cơ sở đó, đề tài đề xuất những phương hướng, giải

pháp nâng cao hiệu quả đảm bảo nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá

nhân ở Việt Nam trên các phương diện xây dựng, áp dụng và nâng cao ý thức pháp luật, ý thức về

quyền, nghĩa vụ cho mọi người dân, các cơ quan chức năng đặc biệt là cơ quan quản lý thuế trong

việc đảm bảo công bằng xã hội và ổn định nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trên cơ sở mục tiêu, đề tài đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:

a) Làm rõ nội hàm của nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế TNCN

b) Xác định phạm vi giới hạn các quy định pháp luật thuế TNCN trực tiếp điều

chỉnh nguyên tắc công bằng và sự phát triển của các quy định này trong lịch sử lập pháp thuế

TNCN Việt Nam.

c) Làm rõ những ưu, nhược điểm của pháp luật thuế TNCN Việt Nam hiện hành

trong việc đảm bảo nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế TNCN.

d) Khảo sát thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật thuế TNCN Việt Nam liên

quan đến việc thể hiện nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế TNCN; làm rõ những

thành tích cũng như hạn chế của công tác thi hành pháp luật thuế trong lĩnh vực này.

e) Đề xuất hoàn thiện pháp luật và các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của

nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế TNCN.

3.3. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung, phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong vấn đề làm sáng tỏ tỏ

nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam.

Về thời gian, đề tài đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật thuế TNCN trong giai đoạn

những năm gần đây (2010-2016).

4. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện

chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và hệ thống lý luận hiện đại.

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng để giải quyết các vấn đề khoa học

đặt ra từ đề tài gồm có phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, chuyên gia,

thống kê số liệu thực tế để luận chứng các tri thức khoa học luật thuế và làm sáng tỏ những vấn

đề cần được nghiên cứu.

5. Những điểm mới về mặt khoa học của đề tài

8

Đề tài “nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt

Nam” có những điểm mới cơ bản sau đây:

a. Phân tích, làm rõ nội hàm của nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế

TNCN.

b. Phân tích, làm rõ được phạm vi giới hạn các quy định pháp luật thuế TNCN trực

tiếp điều chỉnh nguyên tắc công bằng và sự phát triển của các quy định này trong lịch sử lập pháp

thuế TNCN Việt Nam.

c. Phân tích được những ưu, nhược điểm của pháp luật thuế TNCN Việt Nam hiện

hành trong việc đảm bảo nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế TNCN.

d. Phân tích, làm rõ được những thành công và hạn chế của thực tiễn áp dụng

nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế TNCN ở Việt Nam trong thời gian vừa qua.

e. Đề xuất hoàn thiện pháp luật và các giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả

của nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế TNCN

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Đề tài là công trình khoa học trình bày một cách tương đối có hệ thống và toàn diện về

vấn đề nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam. Các kết

quả của đề tài nhằm cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho việc hoàn thiện các quy định

của pháp luật thuế TNCN và các quy định khác có liên quan thuộc ngành luật thuế.

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết cấu luận văn gồm hai chương:

CHƯƠNG I:

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG THỰC THI

PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN

1.1. Khái quát về nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế Thu nhập cá

nhân.

1.1.1. Khái niệm nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân và thực

thi pháp luật thuế Thu nhập cá nhân

1.1.1.1 Khái niệm công bằng và nguyên tắc công bằng.

Công bằng (công lý) là một khái niệm căn bản của đạo đức học, của triết học pháp quyền,

triết học xã hội cũng như của đời sống chính trị, xã hội, tôn giáo và pháp luật. Trong thần học công

bằng được xem là đức hạnh căn bản thứ hai của con người, bao gồm sự thông minh, công bằng,

dũng cảm và sự chừng mực. Trong đó các đức hạnh trước luôn là điều kiện của những đức hạnh

sau.

Theo Aristote, ông đã phân biệt hai loại công bằng, trong đó sự công bằng thể hiện ở hai

hình thức khác nhau, đó là công bằng bù trừ (iustitia commutativa) và công bằng phân chia

9

(iustitia distributiva). Công bằng bù trừ là công bằng giữa những cái khác nhau trong tự nhiên,

nhưng như nhau trước pháp luật. Công bằng bù trừ có nghĩa là sự bình đẳng tuyệt đối giữa đưa và

nhận, giữa những cái được pháp luật xem như nhau, chẳng hạn như hàng hóa và giá cả, thiệt hại và

bồi thường. Còn công bằng phân chia lại là sự bình đẳng tương quan trong sự đối xử với một nhóm

nguời, là sự phân bổ quyền và nghĩa vụ theo các chuẩn độ xứng đáng, khả năng, nhu cầu. Công

bằng phân chia là hình thức nguyên thủy của công bằng, còn công bằng bù trừ của tư luật phải

được tạo lập bởi một hành vi quyền lực (chẳng hạn của cơ quan lập pháp), ví dụ như việc quy định

những điều kiện để có năng lực pháp luật hay năng lực hành vi. Ở đây công thức “Suum cuique

tribuere” (chia cho mỗi người cái mà họ đáng được nhận) không được phép hiểu là một công cụ

để san bằng mọi thứ, không phải là mỗi người được nhận cái như nhau, mà mỗi người được nhận

cái thuộc về họ, nghĩa là trao cho họ cơ hội đạt được điều tiềm ẩn trong bản thân họ.

Theo từ điển Tiếng Việt: “Công bằng là theo đúng lẽ phải, không thiên vị”.

Dưới con mắt nhà nghiên cứu luật pháp, có thể nhìn nhận khái niệm “công bằng” theo chiều

ngang và chiều dọc hoặc theo nghĩa chủ quan và khách quan. Theo chiều ngang, công bằng nghĩa

là đối xử như nhau đối với những người có đóng góp như nhau, mặt khác, theo chiều dọc, công

bằng là đối xử khác nhau với những người có những khác biệt bẩm sinh, trình độ, năng lực hoặc có

các điều kiện sống khác nhau. Theo nghĩa khách quan, công bằng được hiểu là những giá trị đứng

đắn, những quy tắc chuẩn mực chung hoặc cách thức hành động phù hợp, được cộng đồng thừa

nhận. Theo nghĩa chủ quan, công bằng phụ thuộc vào sự cảm nhận, đánh giá, phán xét của mỗi cá

nhân. Mỗi người có những đánh giá cá nhân của mình thế nào là công bằng hay không công bằng.

Từ cách nhìn nhận kể trên, theo TS. Nguyễn Minh Tuấn, công bằng là trạng thái lý tưởng của xã

hội loài người, trong đó vấn đề tài sản, lợi ích, cơ hội giữa các thành viên trong xã hội được phân

chia một cách phù hợp, không thiên vị. Tác giả nhất trí với cách hiểu về công bằng được nêu ra ở

trên.

“Nguyên tắc” theo Từ điển Tiếng Việt là “Điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong

một loạt việc làm”. Như vậy, nguyên tắc được hiểu với nghĩa là tư tưởng chỉ đạo, qui tắc cơ bản của

một hoạt động nào đó. Bản thân lĩnh vực pháp lý cũng tồn tại một số nguyên tắc cơ bản cần phải tuân

thủ. Trong đó, nguyên tắc công bằng là một trong những nguyên tắc cơ bản bao trùm của pháp luật.

Trong pháp luật Việt Nam, nguyên tắc công bằng đã nhiều lần được khẳng định trong các

văn kiện quan trọng. Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1996 đã xác định việc đảm bảo công bằng

là động lực và nội dung của sự nghiệp đổi mới: “Dân giàu nước mạnh. Xã hội công bằng, dân chủ

văn minh”. Trong Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định: “Thực hiện tiến bộ

và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Thực hiện chế độ phân

phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời mức đóng góp vốn cùng các nguồn

lực khác và thông qua động lực xã hội khác”. Những quan điểm trên đều được hiện thực hóa trong

10

các văn bản quy phạm pháp luật mà điển hình là Hiến pháp. Trong Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung

2001 ghi nhận tại điều 3: “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt

của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân; xây dựng

đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,

có điều kiện phát triển toàn diện”. Quan điểm này được tiếp nối trong Hiến pháp 2013 và trong nhiều

văn bản quy phạm pháp luật khác. Nhìn vào thực tế phát triển hiện nay có thể thấy, trong những năm

qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều sự nỗ lực và bước tiến quan trọng trong việc đảm bảo thực

hiện nguyên tắc công bằng tại Việt Nam cụ thể thể chế hóa nguyên tắc này trong nhiều văn bản pháp

luật quan trọng trong đó có pháp luật thuế thu nhập cá nhân.

1.1.1.2. Nguyên tắc công bằng trong pháp luật Thuế thu nhập cá nhân.

Trước hết, thuế thu nhập cá nhân là khoản tiền mà người có thu nhập phải trích nộp một phần

từ tiền lương hoặc từ các nguồn thu nhập khác vào ngân sách nhà nước, nói cách khác, đây là loại

thuế trực thu đánh vào thu nhập chính đáng của từng cá nhân. Thuế thu nhập cá nhân đã được áp

dụng từ lâu ở các nước phát triển, đối tượng nộp thuế này là mọi dân cư trong nước và người nước

ngoài có thu nhập phát sinh ở nước sở tại không phân biệt nghề nghiệp và địa vị xã hội. Thời kỳ

mới ban hành, các Chính phủ thường đánh thuế vào đối tượng dễ đo lường được như đánh trên đất

đai, tài sản, hàng hoá hữu hình, các hàng hoá và tàu biển, hoặc số lượng cửa sổ hoặc lò sưởi trong

một toà nhà. Thuế thu nhập cá nhân có diện điều chỉnh rộng tất cả các cá nhân có thu nhập từ tiền

lương, tiền công; thu nhập từ kinh doanh; từ đầu tư gián tiếp như mua, bán cổ phần, trái phiếu, cổ

phiếu,.... Các khoản thu nhập chịu thuế cũng có diện rộng bao gồm tất cả các khoản thu nhập của

cá nhân. Tuy nhiên, thực hiện chính sách xã hội và mục tiêu công bằng của thuế thu nhập cá nhân,

luật thuế qui định cụ thể một số khoản thu nhập không chịu thuế, miễn thuế.

Để phân biệt với một số loại thuế khác, thuế thu nhập cá nhân có những đặc điểm chính như

sau:

Thứ nhất, thuế thu nhập cá nhân là loại thế trực thu có đối tượng đánh thuế là thu nhập. Khi

có thu nhập chịu thuế phát sinh, người nộp thuế có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân và không

thể chuyển giao nghĩa vụ này cho người khác.

Thứ hai, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế có diện thu rộng, phức tạp và có tính ổn định

không cao. Toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân thuộc diện đánh thuế không phân biệt thu nhập

đó có nguồn gốc phát sinh trong nước hay ở nước ngoài; đối tượng phải kê khai nộp thuế thu nhập

cá nhân là toàn bộ những người có thu nhập. Tính phức tạp xuất phát từ việc phải xác định khoản

thu nhập chịu thuế/thu nhập không chịu thuế, nguồn gốc khoản thu nhập, địa điểm phát sinh thu

nhập, thời hạn cư trú của chủ sở hữu thu nhập (người nước ngoài cư trú tại Việt Nam), tính ổn định

của thu nhập, sự phát triển của nền kinh tế,… các khoản khấu trừ khi tính thuế cũng là một bài toán

đối với nhà lập pháp và thực thi chính sách để đảm bảo công bằng xã hội.

11

Thứ ba, việc đánh thuế thu nhập cá nhân áp dụng theo nguyên tắc lũy tiến từng phần.

Với những đặc điểm kể trên, thuế thu nhập cá nhân đã thể hiện vai trò quan trọng của mình

trên những phương diện sau:

Một là, tạo lập nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước.

Hai là, điều tiết thu nhập tiến tới đảm bảo công bằng xã hội.

Ba là, minh bạch hóa thu nhập cá nhân góp phần phòng chống tội phạm..

Ở Việt Nam, pháp luật về thuế thu nhập cá nhân đã có sự phát triển nhất định trong những

năm gần đây. Trước 1975, chính quyền Sài Gòn đã áp dụng thuế thu nhập cá nhân nhưng với tên

gọi là thuế lợi tức lương bổng năm 1962 và sau đó được cải cách vào năm 1972.

Sau 1975, vào ngày 27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh Thuế thu nhập

đối với người có thu nhập cao và đã được ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Đây là cơ sở tiền

đề quan trọng cho việc thực thi thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam. Pháp lệnh này đã có 06 lần sửa

đổi, bổ sung cụ thể như sau: lần thứ nhất vào ngày 10/3/1992, lần thứ hai vào ngày 1/6/1994, lần

thứ ba vào ngày 6/2/1997, lần thứ 4 vào ngày 30/6/1999 và lần thứ năm vào ngày 13/6/2001 (có

hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2001) và lần thứ 6 là pháp lệnh sửa đổi, bổ sung số 14/2004/PL-

UBTVQH11 ban hàng năm 2004 (có hiệu lực từ ngày 01/07/2004).

Đến năm 2007, Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 được Quốc hội nước Cộng

hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 21 tháng 11 năm 2007, có

hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Luật thuế thu nhập tiếp tục được sửa đổi bổ sung

vào năm 2012 (Luật số 26/2012/QH13 ngày 22 tháng 11 năm 2012 của Quốc hội về sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân) và năm 2014 (Luật số 71/2014/QH13 ngày 26

tháng 11 năm 2014 của Quốc hội về sửa đổi bổ sung một số điều của các luật về thuế).

Trong quá trình thi hành, pháp luật thuế thu nhập cá nhân đã thể hiện vai trò của mình đối

với sự phát triển của đất nước .Việc thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân để thực hiện được mục

đích quản lý đồng thời đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân trong xã hội cần phải

có những định hướng trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật. Các nguyên tắc trong điều chỉnh

pháp luật là những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn quan trọng trong

quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật về điều chỉnh pháp luật thuế thu nhập cá nhân. Trong một xã

hội dân chủ, công bằng cần phải được thực hiện trước hết đối với việc phân chia gánh nặng của thuế

khóa. Do đó, nguyên tắc công bằng đã trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản bao trùm xuyên

suốt của pháp luật thuế thu nhập cá nhân nói chung và thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân nói

riêng.

Có thể nói, nguyên tắc công bằng là phương châm, định hướng quan trọng chi phối trong

toàn bộ quá trình thực thi, áp dụng pháp luật thuế thu nhập cá nhân. Việc áp dụng nguyên tắc công

12

bằng là chủ trương của Đảng và Nhà nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của nhân dân và vì nhân dân.

1.1.2. Đặc điểm của nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân và thực

thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân

Nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân và thực thi pháp luật thuế

thu nhập cá nhân được thể hiện qua một số điểm sau:

Thứ nhất, công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Yếu

tố công bằng được thể hiện dưới hai khía cạnh: công bằng giữa Nhà nước với người nộp thuế và

công bằng giữa những người nộp thuế.

Thứ hai, công bằng trong việc tính thuế dựa trên khả năng trả thuế của đối tượng nộp

thuế. Bài toán công bằng ở đây là việc Nhà nước phải tìm ra mức thuế thu nhập phù hợp một mặt

đáp ứng nhu cầu chi tiêu công và an sinh xã hội, một mặt đảm bảo khả năng trả thuế thu nhập của

đối tượng nộp thuế cũng như nguyện vọng của người nộp thuế - vấn đề vốn bị xem nhẹ. Một

trong những giải pháp đã được áp dụng biểu thuế lũy tiến, mức nộp thuế theo đó sẽ tăng tên theo

mức thu nhập, thu nhập càng lớn đóng thuế càng nhiều.

Thứ ba, công bằng trong quy định về miễn giảm thuế. Miễn giảm thuế về mặt bản chất là

việc Nhà nước đã không thu hoặc thu ít hơn mức phải thu đối với những đối tượng nhất định,

thường là những đối tượng không đủ khả năng.

Từ những nhận định trên có thể thấy rằng, nguyên tắc công bằng đã được thể hiện cụ thể và

trở thành thuộc tính, đặc điểm vốn có của pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế thu nhập cá

nhân nói riêng. Tuy nhiên, để pháp luật thực sự có sức sống đòi hỏi vai trò rất lớn của Nhà nước

trong việc hoạch định chính sách, khoanh vùng đối tượng đóng thuế/miễn giảm thuế phù hợp cũng

như đặt ra biểu thuế tương ứng đối với từng đối tượng và thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân

một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, song hành với Nhà nước là vai trò của người nộp thuế, bản thân

người nộp thuế cần ý thức tự giác và tự nguyện thực hiện theo pháp luật thuế thu nhập cá nhân của

Nhà nước, như vậy nguyên tắc công bằng mới thức sự đi vào thực tiễn.

1.1.3. Nội dung của nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân và thực

thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân

Để đảm bảo nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân và thực thi pháp

luật thuế thu nhập cá nhân cần nắm rõ nội dung của nguyên tắc này cũng như sự thể hiện trong

pháp luật. Những nội dung này bao gồm:

Thứ nhất, đảm bảo công bằng trong công tác ban hành quy phạm pháp luật thuế thu

nhập cá nhân.

Thứ hai, công bằng trong việc triển khai áp dụng các quy định của pháp luật thuế thu

nhập cá nhân.

13

Thứ ba, công bằng trong việc nâng cao ý thức của tổ chức cá nhân trong xã hội thực thi

pháp luật thuế thu nhập cá nhân.

Thứ tư, công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân trong xu thế hội nhập quốc tế.

1.1.4. Vai trò của nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân và thực thi

pháp luật thuế thu nhập cá nhân

Trong hệ thống pháp luật chung, công bằng là một nguyên tắc phân phối lợi ích, thước đo

của nó là sự bình đẳng trong quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, được thực hiện dựa trên sự tự

nguyện của các cá nhân. Nguyên tắc công bằng không chỉ có tác động mạnh mẽ, tích cực trong lĩnh

vực kinh tế, mà còn đóng vai trò điều chỉnh quan hệ giữa con người với con người trong các lĩnh

vực chính trị, pháp luật, xã hội, đạo đức…

Pháp luật thuế thu nhập cá nhân không chỉ có ảnh hưởng tới cá nhân người nộp thuế mà còn

tác động đến toàn xã hội. Do đó, đảm bảo nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá

nhân có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển đi lên của kinh tế xã hội đất nước. Nếu nguyên tắc

này được đảm bảo bằng việc thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân của nhà nước, điều này sẽ

kích khởi động lực phát triển từ tự thân người dân hay cụ thể chính những người nộp thuế. Ngược

lại, vô hình chung, thuế thu nhập cá nhân sẽ trở thành sức ì cho xã hội (nếu đánh ở mức thấp và

rộng rãi) hoặc trở thành gánh nặng cho người dân (nếu đánh ở mức quá cao và khắc nghiệt). Không

chỉ vậy, chính sự không công bằng sẽ làm nảy sinh tình trạng trốn thuế khiến Nhà nước bị thất thu

một khoản ngân sách không nhỏ.

Nguyên tắc công bằng trong thực thi thuế thu nhập cá nhân đóng vai trò rất lớn trong việc

thúc đẩy công bằng xã hội và sự đi lên của đất nước. Do đó, đảm bảo nguyên tắc này chính là

nhiệm vụ trọng tâm đặt ra đối với các cơ quan công quyền khi thực thi luật thuế thu nhập cá nhân.

1.2. Những vấn đề lý luận về thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân và việc thực hiện

nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân

1.2.1. Khái niệm về thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân

Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích mà các chủ thể pháp luật bằng hành

vi của mình thực hiện các quy định pháp luật trong thực tế đời sống. Cụ thể hơn, theo Vũ Văn

Thiệu, thực hiện pháp luật – xét trong quy trình "quản lý nhà nước bằng pháp luật", là sự tiếp nối

xây dựng pháp luật, gồm toàn bộ các hoạt động nhằm đưa các quy phạm pháp luật vào đời sống

nhà nước, xã hội và sinh hoạt của công dân. Về bản chất, thực hiện pháp luật là quá trình hiện thực

hoá pháp luật, làm bộc lộ và phát huy những giá trị tiềm năng của pháp luật trong thực tế.

Suy rộng ra, thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân là quá trình hoạt động có mục đích

mà các chủ thể pháp luật thuế thu nhập cá nhân bằng hành vi của mình thực hiện các quy định về

pháp luật thuế thu nhập cá nhân trong thực tiễn như: kê khai thuế, thu nộp thuế, đăng ký giảm trừ

gia cảnh… Hành vi thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân là những xử sự (hành động hoặc

14

không hành động) của các chủ thể pháp luật (các cá nhân, tổ chức) phù hợp với những yêu cầu của

các quy phạm pháp luật thuế thu nhập cá nhân, có ích cho xã hội, nhà nước và cá nhân.

Tương tự thực hiện pháp luật, thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân mang các đặc điểm

như sau:

Thứ nhất, thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định

của pháp luật thuế thu nhập cá nhân đi vào cuộc sống.

Thứ hai, thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân là hành vi hợp pháp của các chủ thể.

Thứ ba, thực hiện pháp luật do nhiều chủ thể khác nhau tiến hành với nhiều cách thức, trình

tự thủ tục khác nhau.

Theo đó, các hình thức thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân được phân loại như sau:

Tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện những qui phạm pháp luật thuế thu nhập cá nhân

mang tính chất ngăn cấm bằng hành vi thụ động, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không

làm những việc mà pháp luật cấm như trốn thuế, kê khai thu nhập không đầy đủ…

Thực thi pháp luật là hình thức thực hiện những qui định trao nghĩa vụ bắt buộc của pháp

luật một cách tích cực trong đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ của mình bằng những hành động

tích cực như chủ động đăng ký thuế, kê khai thu nhập, đăng ký giảm trừ gia cảnh,…

Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện những qui định về quyền chủ thể của pháp luật,

trong đó các chủ thể pháp luật chủ động, tự mình quyết định việc thực hiện hay không thực hiện

điều mà pháp luật cho phép. Như vậy hình thức này khác với 2 hình thức trên ở chỗ chủ thể không

bị buộc không được làm hoặc phải làm một việc nào đó mà được tự do lựa chọn theo ý chí của

mình.

Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua cơ quan có

thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những qui định pháp

luật hoặc chính hành vi của mình căn cứ vào những qui định của pháp luật để ra các quyết định làm

phát sinh, thay đổi, đình chỉ hay chấm dứt một quan hệ pháp luật. Áp dụng pháp luật thuế thu nhập

cá nhân được thực hiện bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong đó có cơ quan quản lý thuế như

Tổng cục thuế, chi cục thuế tỉnh, thành phố… và các cán bộ quản lý thuế.

Như vậy, thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân về mặt lý thuyết cơ tương đồng với việc

thực hiện pháp luật nói chung. Sự khác biệt chính xuất phát từ trong chính quá trình thực hiện pháp

luật trên thực tế của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội.

15

1.2.2. Vấn đề thực hiện nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân

Với việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế TNCN,

trước hết cần xem xét về việc thực hiện nguyên tắc công bằng trong xây dựng và ban hành quy

phạm pháp luật thuế thu nhập cá nhân.

Khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, nhà lập pháp dựa trên những yếu tố cấu thành

của quy phạm pháp luật để thiết kế các điều khoản phù hợp (giả định, quy định, chế tài). Ba bộ

phận cấu thành này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên tính thống nhất của quy phạm pháp

luật. Để đảm bảo nguyên tắc công bằng, nhà lập pháp đặt ra các điều kiện, hoàn cảnh giả thiết trong

phần giả định để có những quy định và chế tài của Nhà nước tương ứng. Việc thực hiện nguyên tắc

công bằng được thể hiện cụ thể thông qua các quy định về thuế thu nhập cá nhân, như xây dựng mô

hình đánh thuế thu nhập cá nhân, xác định đối tượng nộp thuế, quy định thu nhập chịu thuế thu

nhập cá nhân, quy định thu nhập không chịu thuế thu nhập cá nhân, các định khoản giảm trừ gia

cảnh, xác định thuế suất và biểu thuế,…

Thứ hai, việc thực hiện nguyên tắc công bằng cần được đảm bảo trong hoạt động của các chủ

thể quản lý thuế thu nhập cá nhân. Hiện nay, vấn đề quản lý thu nộp thuế thu nhập cá nhân được thực

hiện trên cơ sở Luật Quản lý thuế năm 2006 và Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 và một số văn

bản hướng dẫn thi hành. Nguyên tắc công bằng, công bằng có được đảm bảo hay không, vai trò của

các cán bộ thuế, của cơ quan thuế rất quan trọng.

Thứ ba, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập

cá nhân cần có cơ chế thông qua các hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm.

Nhìn chung, pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam đã có những quy định tương đối

đầy đủ, chặt chẽ về công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực quản lý thuế. Đây

là những công cụ quan trọng để thực hiện nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá

nhân hiện nay.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

1. Công bằng là một khái niệm căn bản của đời sống chính trị, xã hội, tôn giáo và

pháp luật. Về bản chất, công bằng là sự tương xứng mà theo đó tài sản, lợi ích, cơ hội giữa các

thành viên trong xã hội được phân chia một cách phù hợp, không thiên vị. Công bằng vừa là mục

tiêu vừa là chuẩn mực trong việc xây dựng và thực thi hệ thống pháp luật. Nguyên tắc công bằng tại

Việt Nam đã được thể hiện trong nhiều văn bản pháp luật quan trọng trong đó có pháp luật Thuế

TNCN.

2. Nội dung của nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế TNCN được đảm bảo

trong các giai đoạn xây dựng và thực thi pháp luật như trong công tác ban hành quy phạm pháp

luật thuế TNCN, triển khai áp dụng các quy định của pháp luật thuế TNCN, nâng cao ý thức của

tổ chức cá nhân trong xã hội thực thi pháp luật thuế TNCN và trong công cuộc hội nhập quốc tế.

16

CHƯƠNG 2:

THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG

TRONG THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ TNCN Ở VIỆT NAM

2.1. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc công bằng trong thực thi các quy định của pháp luật

thuế TNCN.

Nguyên tắc công bằng là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật thuế thu nhập cá nhân.

Phạm vi tác động và điều chỉnh của nguyên tắc công bằng rất đa dạng theo nhiều chiều. Trong phần

này, tác giả chỉ tập trung phân tích sự thể hiện của nguyên tắc công bằng thông qua một số các chế

định và quy định tiêu biểu thể hiện nguyên tắc công bằng và sự thực thi trên thực tế các quy định

đó trong vấn đề đảm bảo công bằng. Để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu tác giả có so sánh đối chiếu

với các quy định pháp luật thuế thu nhập cá nhân hiện hành của pháp luật thuế thu nhập đối với

người có thu nhập cao trước đây, và cũng có so sánh đối chiếu với các quy định của pháp luật nước

ngoài trong việc quy định và thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân dưới góc độ thể hiện nguyên

tắc công bằng.

2.1.1. Thực hiện nguyên tắc công bằng trong quy định về đối tượng nộp thuế thu

nhập cá nhân.

Xác định đối tượng nộp thuế là tiền đề cơ bản của thuế thu nhập cá nhân. Để đảm bảo

nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thế thu nhập cá nhân trước hết phải xác định đối

tượng nộp thuế đầy đủ và hợp lý qua đó đảm bảo sự phù hợp giữa tên gọi của sắc thuế với phạm vi

điều chỉnh, tạo sự công bằng cho các cá nhân trong xã hội.

Các văn bản pháp luật đầu tiên của Việt Nam khi mở cửa nền kinh tế quy định về chủ thể

(đối tượng) nộp thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã dựa vào tiêu chí “nơi cư trú” và

“quốc tịch” để xác định những cá nhân nào là công dân Việt Nam và người nước ngoài nhưng vẫn

chưa bảo đảm yêu cầu của nguyên tắc công bằng khi xác định đối tượng nộp thuế.

Qua các quá trình sửa đổi, bổ sung pháp lệnh, luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007 và các

văn bản sửa đổi, bổ sung luật, văn bản hướng dẫn đã từng bước chuyển biến, quy định cụ thể và

bao quát được về đối tượng chịu thuế. Theo đó, quy định đã dựa trên căn cứ nơi cư trú và nguồn

phát sinh thu nhập, không phân biệt nơi chi trả và nơi nhận thu nhập làm căn cứ xác định đối tượng

nộp thuế.

Tuy nhiên, việc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân không chỉ là sự

nhìn nhận trong hệ thống pháp luật rằng có quy định bao quát được hết các cá nhân có thu nhập hay

không. Việc quy định đầy đủ về số lượng các đối tượng nộp thuế, không có sự phân biệt đối xử

giữa người Việt Nam và người nước ngoài mới chỉ là một phần yêu cầu của nguyên tắc công bằng

theo chiều ngang. Nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân còn đòi hỏi

phải được xem xét theo cả chiều ngang, chiều dọc và công bằng chung của cả xã hội nữa. Việc xây

17

dựng và thực hiện các quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân phải nhằm bảo đảm việc thu

thuế hợp lý, thuận lợi dựa trên khả năng chi trả của người nộp thuế có xem xét đến các yếu tố hoàn

cảnh, điều kiện của từng người đó nhằm đảm bảo những người có thu nhập khác nhau sẽ có nghĩa

vụ nộp thuế khác nhau, người có thu nhập cao hơn sẽ phải nộp thuế cao hơn những người có thu

nhập thấp và những người có điều kiện, hoàn cảnh giống nhau mà thu nhập ngang nhau sẽ phải nộp

thuế như nhau.

2.1.2. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc công bằng trong thực thi các quy định về thu

nhập chịu thuế

Thu nhập chịu thuế của cá nhân là căn cứ để tính thuế thu nhập cá nhân trong kỳ tính thuế.

Đây là một trong những yếu tố then chốt trong việc đảm bảo công bằng trong thực thi thuế thu

nhập cá nhân.

Trước khi có sự xuất hiện của Luật thuế thu nhập các nhân năm 2007, việc quy định thu

nhập chịu thuế là sự phân loại và liệt kê theo các khoản thu nhập thường xuyên và thu nhập không

thường xuyên của các đối tượng nộp thuế. Việc liệt kê và thay đổi trong thời gian ngắn trong việc

phân định thế nào là thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên thể hiện sự chưa rõ

ràng, lung túng của các nhà làm luật và gây khó khăn trong việc thực thi trên thực tế.

Sự tiến bộ hơn so với các quy định trước đây về đối tượng nộp thuế được thể hiện trong luật

thuế thu nhập cá nhân năm 2007, và các luật sửa đổi bổ sung tới thời điểm hiện nay đó là không

phân loại đối tượng chịu thuế thành khoản thu nhập thường xuyên và không thường xuyên, mà chỉ

rõ các khoản Thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân.

Các thu nhập trên sẽ được trừ đi khoản thu nhập miễn thuế mới tính là thu nhập chịu thuế.

Có thể điểm qua một vài quy định thể hiện sự công bằng trong luật thuế thu nhập cá nhân hiện

hành và việc bảo đảm công bằng trong thực thi thuế thu nhập cá nhân trên thực tế. Như đối với thuế

thu nhập từ kinh doanh, thu nhập chịu thuế chỉ áp dụng với cá nhân kinh doanh có doanh thu trên

100 triệu đồng/năm; đối với thu nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối,

nuôi trồng, đánh bắt thủy sản chỉ áp dụng đối với trường hợp không đủ điều kiện được miễn thuế.

Hay như trong các quy định về thu nhập chịu thuế phát sinh từ tiền lương, tiền công, không phải tất

cả các khoản phụ cấp, trợ cấp, các khoản thưởng, hỗ trợ đều thuộc thu nhập tính thuế, các khoản

phụ cấp như về ưu đãi với người có công, phụ cấp làm việc trong môi trường làm việc có yếu tố

độc hại, nguy hiểm,.... không thuộc khoản thu nhập chịu thuế.

Quy định là vậy nhưng trên thực tế thi hành vẫn còn những tồn tại khó khăn như sự thiếu

kiểm soát chặt chẽ mức thu nhập của người dân, nhất là khoản thu nhập khó kiểm soát, như: thu

nhập của ca sỹ; thu nhập của các doanh nhân; thu nhập từ kinh doanh chứng khoán, từ kinh doanh

bất động sản... Đây là những khoản thu nhập nằm ngoài khoản tiền công, tiền lương không có trong

sổ sách kế toán. Còn đối với những khoản không có chứng từ kê khai, quyết toán thì việc quản lý

18

và kiểm soát được nguồn thu thực tế của người dân là rất khó. Hay việc xác định về các khoản thu

nhập thực tế của cá nhân qua việc mua bán, chuyển nhượng tài sản. Việc kê khai nhằm “ trốn thuế” ,

“giảm thuế” là một hiện tượng khá phổ biến hiện nay.

Ngoài ra, đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán, cần xem xét lại mức điều tiết bởi

lẽ tại thời điểm này, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa phát triển ổn định, số lượng nhà

đầu tư tham gia thị trường còn ít, việc đầu tư còn mang tâm lý “bầy đàn”, lướt sóng, lợi nhuận thu

được chỉ là may, rủi, không thường xuyên, vì vậy đánh thuế vào thu nhập từ chuyển nhượng chứng

khoán có thể coi là rào cản, không thúc đẩy sự phát triển thị trường này. Trong khi đó, thu nhập từ

lãi tiền vay ngân hàng mang tính chất thường xuyên, nhưng vẫn thuộc diện thu nhập miễn thuế.

2.1.3. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc công bằng trong thực thi các quy định về căn

cứ tính thuế

Trong phạm vi luận văn này, tác giả xin đề cập về khía cạnh thực thi pháp luật thuế thu nhập

cá nhân trong các quy định về căn cứ tính thuế đối với cá nhân cư trú có thu nhập từ kinh doanh.

Thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ kinh doanh là tổng số thuế tính theo từng bậc thu

nhập. Số thuế tính theo từng bậc thu nhập bằng thu nhập tính thuế của bậc thu nhập nhân (×) với

thuế suất tương ứng của bậc thu nhập đó. Theo đó, để tính số thuế phải nộp, trước hết, chúng ta cần

phải xác định 2 căn cứ tính thuế: Thu nhập tính thuế và Thuế suất.

Thứ nhất, thu nhập tính thuế là tổng thu nhập chịu thuế của cá nhân có thu nhập từ kinh

doanh trừ đi các khoản đóng bảo hiểm xã hội, y tế, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp bắt buộc và

các khoản giảm trừ theo quy định.

Mục đích của khoản giảm trừ nhằm tính đến hoàn cảnh cá nhân của đối tượng nộp thuế, điều

này làm cho việc xác định nghĩa vụ nộp thuế của mỗi đối tượng nộp thuế được công bằng hơn. Bởi

vì, cùng là đối tượng nộp thuế nhưng: có chủ thể là người độc thân, không có nghĩa vụ phải chăm

sóc phụng dưỡng ai; nhưng có chủ thể có trách nhiệm nuôi dưỡng con cái, bố mẹ,… thì cùng mức

khoản thu nhập nhưng việc chi tiêu lại khác nhau. Hay xét tới mục đích từ thiện, nhân đạo là giảm

gánh nặng cho xã hội, thể hiện tấm lòng nhân ái, tương thân tương ái, truyền thống của đồng bào,

dân tộc ta.

Về cơ bản quy định về đối tượng giảm trừ theo luật thuế thu nhập cá nhân thể hiện chính

sách thuế, định hướng của Nhà nước ta trong việc đảm bảo công bằng. Tuy nhiên, đối với vấn đề

giảm trừ gia cảnh cần phải bàn tới đó là mức chiết trừ gia cảnh. Mức triết trừ như nào là hợp lý, với

tình hình xã hội và sự phát triển kinh tế không đồng đều giữa các địa phương trên cả nước. Ngoài

ra, cơ chế tự kê khai – tự nộp, phụ thuộc hoàn toàn vào ý thức của người nộp thuế. Chính vì vậy,

việc chứng minh người phụ thuộc theo quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân vẫn đang là

một câu hỏi đặt ra đối với cơ quan quản lý thuế.

19

Thứ hai, thuế suất là mức thuế phải nộp trên một đơn vị khối lượng chịu thuế. Định mức thu

thuế (tỉ lệ %) tính trên khối lượng thu nhập chịu thuế. Thuế suất thuế thu nhập cá nhân: được thiết

kế theo biểu lũy tiến từng phần và cho từng đối tượng nộp thuế đối với thu nhập thường xuyên và

có sự phân biệt loại thu nhập đối với thu nhập không thường xuyên và ngoại trừ một số trường hợp

đặc biệt. Cụ thể, đối với người có thu nhập thường xuyên từ kinh doanh áp dụng biểu thuế lũy tiến

từng phần với 7 bậc thuế, khoảng cách giữa mỗi bậc thuế tương đối hẹp (5%).

Về cơ bản căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam đã phản ánh và đảm bảo được công

bằng. Tuy nhiên để đảm bảo việc thực thi thuế thu nhập các nhân được khách quan, công bằng,

minh bạch cần một cơ chế thực hiện thống nhất, rõ ràng.

Hiện nay, biểu thuế theo Luật thuế thu nhập cá nhân (bao gồm 7 bậc) còn nhiều bất cập, mức

thuế suất cao nhất là 35% thực sự chưa khuyến khích được những người có trình độ kỹ thuật cao,

năng lực điều hành tốt, các chuyên gia giỏi tham gia lao động, cống hiến cho xã hội và sự phát triển

của đất nước và thậm chí hạn chế khả năng thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

2.1.4. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc công bằng trong thực thi các quy định về miễn

giảm, hoàn thuế.

2.1.4.1. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc công bằng trong thực thi các quy định về miễn

giảm thuế

Nhìn chung các quy định về miễn, giảm thuế thể hiện được phần nào nguyên tắc công bằng,

và tính nhân văn của Nhà nước. Tuy nhiên thực tế thực thi các quy định về miễn thuế vẫn gặp phải

một số những vướng mắc. Ví dụ như đối với thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng nhà ở, quyền sử

dụng đất ở trong trường hợp người chuyển nhượng chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất thì không phải

nộp thuế, nhưng việc chứng minh thế nào là sở hữu nhà ở duy nhất thật sự rất khó khăn và vướng

mắc trên thực tế. Hiện nay Việt Nam chưa có hệ thống đăng ký quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng

đất hợp nhất trên cả nước nên việc kiểm soát hiện nay chủ yếu dựa vào sự tự giác của người dân.

Do vậy việc thất thoát nguồn thu từ các hoạt động này là khó tránh khỏi, nhưng một mặt khác việc

thực thi đối với miễn thuế trong trường hợp này cũng gây ra rất nhiều khó khăn đối với cá nhân thật

sự có một nhà, đất duy nhất.

2.1.4.2. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc công bằng trong thực thi các quy định về hoàn

thuế

Hoàn thuế thu nhập cá nhân là việc các cá nhân là đối tượng nộp thuế được trả lại số thuế đã

nộp trong trường hợp số tiền thuế đã nộp lớn hơn số thuế phải nộp hoặc cá nhân đã nộp thuế nhưng

có thu nhập tính thuế chưa đến mức phải nộp thuế và các trường hợp khác theo quyết định của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền.

Cá nhân sẽ được hoàn thuế theo hai phương pháp chính: Hoàn thuế trước, kiểm tra sau hoặc

kiểm tra trước, hoàn thuế sau.

20

Trên thực tế, có rất nhiều cá nhân, hộ kinh doanh cá thể gặp khó khăn về nguồn vốn hoạt

động kinh doanh vì việc xin hoàn thuế lại diễn ra quá chậm do cơ quan thuế “ngâm” hồ sơ hoàn

thuế quá lâu cũng như việc kiểm tra hồ sơ kéo dài thời gian khiến người nộp thuế ảnh hưởng quyền

lợi cũng như hoạt động kinh doanh của họ trong khi số thuế họ đã đóng lên đến con số rất lớn mà

lại đang “mắc kẹt” trong thủ tục giải quyết hoàn thuế của cơ quan quản lý thuế. Thực tế này không

chỉ gây khó khăn, bất lợi cho người nộp thuế mà còn gây khó khăn cho cơ quan quản lý thuế.

Tóm lại, việc pháp luật quy định là một chuyện, nhưng pháp luật có áp dụng được trong thực

tiễn hay không lại là một vấn đề khác. Đây là một bài toán luôn song hành trong việc quy dịnh và

thực thi. Do vậy, cần rà soát, cân nhắc lại các quy định của pháp luật cho phù hợp với thực tiễn

thực thi.

2.1.5. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc công bằng trong thực thi các quy định về

phương pháp tính thuế.

Pháp luật thuế thu nhập cá nhân hiện hành, cá nhân có thu nhập chịu thuế có thể thực hiện theo

phương pháp khoán hoặc nộp thuế theo từng lần phát sinh thu nhập theo kỳ tính thuế.

Vấn đề chính trong việc thực thi nguyên tắc công bằng trong thực thi các quy định về phương pháp

tính thuế đó việc quản lý của cơ quan thuế đối với các khoản thu theo từng phương pháp tính

thuế,công tác ủy nhiệm thu đối với nhóm đối tượng là cá nhân, hộ kinh doanh cá thể nhỏ lẻ, việc

ấn định mức thuế khoán “thỏa thuận” ngầm giữa hộ kinh doanh và cán bộ thuế cơ sở, cơ chế tự kê

khai nộp thuế của cá nhân còn nhiều kẽ hở, vấn đề phát sinh.

2.1.6. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc công bằng trong thực thi các quy định về giải

quyết tranh chấp trong lĩnh vực thuế Thu nhập cá nhân.

Tranh chấp trong lĩnh vực thuế là tranh chấp hành chính có liên quan tới quyết định thu thuế,

quyết định xử phạt đối với người nộp thuế. Tranh chấp phát sinh do bất đồng của người nộp thuế

đối với quyết định của cơ quan có thẩm quyền thu thuế và nộp phạt.

Giải quyết tranh chấp luôn phải tuân thủ theo trình tự, quy định của pháp luật. Hiện nay,

việc giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thuế thu nhập cá nhân được tiến hành theo hai thủ tục:

Một là thủ tục kiếu nại theo Luật Khiếu nại và hai là thủ tục tố tụng tại Tòa án theo Luật tố tụng

Hành chính.

Thực tế vẫn còn nhiều bất cập trong việc giải quyết tranh chấp thuế, như đối với việc giải

quyết tranh chấp thuế bằng thủ tục khiếu nại, cơ quan giải quyết khiếu nại lần đầu đồng thời là cơ

quan ra quyết định thu thuế hoặc xử phạt. Do vậy, kết quả giải quyết lần đầu thường là giữ

nguyên quyết định thu thuế hoặc quyết định xử phạt, trong khi đó người nộp thuế đang không

“tâm phục, khẩu phục” vẫn phải thực hiện nghĩa vụ nộp phạt, nộp thuế theo quy định. Ngoài ra,

do tình trạng “Luật khung” nên việc áp dụng đều phải có quy định chi tiết của Chính phủ, hướng

dẫn của bộ tài chính và Tổng cục thuế. Với tình trạng này nên có thể nói việc cơ quan có thẩm

21

quyền thi thuế cấp trên bác quyết định của cơ quan cấp dưới ít xảy ra hơn do có cùng quan điểm

đánh thuế. Trong khi đó, luật khiếu nại quy định” hết thời hạn giải quyết khiếu nại quy định tại

Điều 37 của luật Khiếu nại mà khiếu nại không được giải quyết hoặc người khiếu nại không đồng

ý với quyết định khiếu nại lần hai thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy

định của luật tố tụng hành chính. Như vậy, nếu người nộp thuế tuân thủ các thủ tục khiếu nại hai

cấp rồi mới khởi kiện ra Tòa sẽ gây nhiều tốn kém cho người nộp thuế.

Và thực trạng không ít vụ việc khiếu nại lần đầu và khiếu nại lần hai không làm thay đổi

quyết định thu thuế, xử phạt nên nhiều cá nhân phải kiện ra Tòa và kết quả cá nhân đã thắng. Có

thể kể tới vụ oan sai tiền nộp thuế 5,7 tỷ đồng của bà Đàm Thị Lích mới đây, đã tốn không biết

bao nhiêu giấy mực và rấy lên một hồi chuông về trách nhiệm của những cá nhân có liên quan tới

oan sai trong lĩnh vực thuế.

Vấn đề giải quyết tranh chấp cần phải được làm rõ nguyên nhân và cùng với đó là trách

nhiệm đằng sau các quyết định bị tuyên hủy, trách nhiệm của những tổ chức, cá nhân có sai phạm

liên quan.

2.2. Các giải pháp nhằm đảm bảo nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật

thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam

Trên cơ sở phân tích và làm rõ về thực trạng đảm bảo nguyên tắc công bằng trong thực thi

pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam. Tác giả xin đưa ra một số những định hướng, giải

pháp nhằm bảo đảm ngyên tắc công bằng trong thực thi thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam.

2.1. Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân

Định hướng cải cách của Đảng, Nhà nước ta hiện nay chính là hiện đại hóa toàn diện cả về

phương pháp quản lý, thủ tục hành chính theo định hướng chuẩn mực quốc tế; nâng cao hiệu quả,

hiệu lực bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ; kiện toàn, hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị; tăng

cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ và cung cấp dịch vụ cho người nộp thuế; nâng cao năng lực

hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát tuân thủ pháp luật của người nộp thuế; ứng dụng công nghệ

thông tin và áp dụng khai thuế điện tử để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác QLT, phấn đấu đưa

Việt Nam thuộc nhóm các nước hàng đầu khu vực Đông Nam Á trong xếp hạng mức độ thuận lợi

về thuế vào năm 2020.

2.2.2. Kiến nghị về tổ chức thực thi nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập

cá nhân

Trong khuôn khổ hạn chế của luận văn này, tác giả chỉ đề cập đến một số giải pháp cơ bản

sau đây:

Thứ nhất, cần áp dụng kết hợp các phương thức đánh thuế thu nhập cá nhân nhằm đảm bảo

tính hiệu quả cao hơn trong thực hiện nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân.

22

Thứ hai, cần phải rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ hoàn thuế hơn nữa, đặc biệt từ lúc

nhận hồ sơ đến khi phân cho nhân viên giải quyết trực tiếp. Bởi vì, với thời gian giải quyết như

hiện nay, cơ quan thuế nghiên cứu hồ sơ quá lâu, thời gian kiểm tra kéo dài, khiến cho tiền thuế của

người nộp thuế mãi không được hoàn thuế. Khi hồ sơ được giải quyết xong, dù người nộp thuế

nhận tiền bằng hình thức chuyển khoản hay tiền mặt thì cán bộ thuế cũng sẽ gọi điện thoại trực tiếp

thông báo cho người nộp thuế để họ không phải sốt ruột vì chờ đợi.

Thứ ba, pháp luật cần quy định cụ thể, chính xác các giấy tờ cần thiết cho việc giải quyết

hồ sơ hoàn thuế.

Thứ tư, giảm bớt các thủ tục hành chính, giảm nhẹ các công việc đang tạo áp lực nặng lên

cơ quan và cán bộ công chức ngành Thuế trong việc hoàn thuế.

Thứ năm, cần nâng cao sự tuân thủ tự nguyện của đối tượng nộp thuế.

Thứ sáu, cần chuyển đổi về cơ cấu tổ chức và áp dụng phương pháp “phân đoạn thị

trường” đối tượng nộp thuế và quản lý theo mức độ tuân thủ.

Thứ bảy, kiện toàn lại hệ thống quản lý thu thuế theo hướng cải cách hành chính thuế, nâng

cao quyền hạn, trách nhiệm và hiệu lực của bộ máy quản lý thuế.

Kết luận chương 2

1. Việc thực thi nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân được thể

hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, trong các quy định, việc thực thi các quy định về chủ thể nộp

thuế, đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế, miễn giảm, hoàn thuế, phương pháp tính thuế, giải

quyết tranh chấp trong lĩnh vực thuế TNCN.

2. Thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân là quá trình hoạt động có mục đích mà

các chủ thể pháp luật thuế thu nhập cá nhân bằng hành vi của mình thực hiện các quy định về pháp

luật thuế thu nhập cá nhân trong thực tiễn. Về cơ bản, việc thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân

đã thể hiện rõ nguyên tắc công bằng – nguyên tắc cơ bản, đặc điểm vốn có pháp luật thuế thu nhập

cá nhân. Tuy nhiên trên thực tế, việc thực thi nguyên tắc công bằng vẫn còn những bất cập và hạn

chế.

3. Nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân đặt ra cho

nhà lập pháp những nhiệm vụ cụ thể mà pháp luật thuế thu nhập cá nhân cần phải giải quyết, đồng

thời bản thân nguyên tắc cũng là định hướng giúp các nhà lập pháp lựa chọn những giải pháp phù

hợp. Dựa trên thực tiễn về việc thực thi nguyên tắc công bằng, tác giả đã đưa ra một số những kiến

nghị về giải pháp nhằm đảm bảo hơn nữa nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu

nhập cá nhân.

KẾT LUẬN

Như vậy, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân là tiền đề cần thiết để

nhà nước từng bước quản lý tốt các nguồn thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội, nâng cao hiệu quả

23

thu, quản lý thuế. Tuy nhiên hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế thu nhập cá nhân phải dựa trên

quan điểm kinh tế của đất nước, đồng thời có tính đến những yêu cầu có tính nguyên tắc của một

hệ thống thuế trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đồng thời với đó là sự nâng

tầm về ý thức nộp thuế của các cá nhân trong xã hội, ý thức được việc quan trong của trách nhiệm

nộp thuế, bản chất của việc nộp thuế.Xu hướng toàn cầu hóa thúc giục Nhà nước cần có, cơ quan

thuế đẩy mạnh hoàn thiện hơn nữa các hệ thống thông tin về thuế, đưa các quy định về thuế nói

chung và pháp luật về thuế thu nhập cá nhân được cụ thể hóa vào đời sống nhân dân. Để dân hiểu

và tự giác thực hiện chứ tránh mang tâm lý nặng nề về thủ tục liên quan tới lĩnh vực thuế như hiện

nay.

Nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân là nguyên tắc cơ bản,

việc đảm bảo thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân phải công bằng theo cả chiều ngang và

chiều dọc. Để thực hiện được mục đích đó, pháp luật thuế thu nhập cá nhân phải tôn trọng nghĩa vụ

của người nộp thuế, phải rõ ràng, minh bạch, ổn định và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Việc

bảo đảm thực thi thuế thu nhập cá nhân cần phải chú ý tới các yếu tố tác động tới việc đảm bảo

nguyên tắc công bằng đặc biệt là vấn đề về lợi ích của các chủ thể có liên quan tới thuế.