309
Mối quan hệ giữa vật chất vào ý thức Vật chất và ý thức là hai phạm trù cơ bản của triết học. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học. Trong khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng đồng thời đã vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất KN: vật chất, ý thức Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác ,được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Ý thức là 1 hiện tượng tâm lý – XH có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố như: tự ý thức, tri thức, ý chí, tình cảm, niềm tin, ... trong đó tri thức là quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức. ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất vào bộ óc người thông qua hoạt động thực tiễn. Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức - Vai trò của vật chất đối với ý thức: Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất QĐ ý thức. Vật chất QĐ ý thức thể hiện ở những mặt sau: + Trong lĩnh vực tự nhiên: Thứ 1, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức, vật chất là tiền đề, là nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức. Thứ 2, vật chất quyết định nội dung ý thức, đk vật chất ntn thì ý thức như thế đó. Thứ 3, vật chất QĐ sự phát triển của ý thức, vật chất phát triển đến đâu thì ý thức hình thành và phát triển đến đó, khi vật chất biến đổi thì ý thức cũng biến đổi theo. + Trong lĩnh vực XH: Thứ 1, để đạt được hiệu quả, trong hđ của mình con người bao giờ cũng phải dựa trên những cơ sở, phương tiện vật chất nhất định. Thứ 2, trong hđ của con người, những nhu cầu vật chất xét đến cùng bao giờ cũng giữ vai trò QĐ. Thứ 3, vai trò QĐ của vật chất đối với ý thức còn được thể hiện ở chỗ nó là đk để quy định khả năng tham gia của các yếu tố tinh thần, biến các yếu tố tinh thần thành hiện thực. [Vai trò của vật chất với ý thức trong đời sống XH được thể hiện ở mối quan hệ giữa kte và ctri, đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa tồn tại XH và ý thức XH. Trong XH, sự phát triển của kte quy định sự phát triển của văn hóa; đời sống vật chất thay đổi thì sớm hay muộn đời sống tinh thần cuảng thay đổi theo.] - Vai trò của ý thức đối với vật chất + Vì sao ý thức có thể tđ trở lại được đv vật chất ? Thứ 1, là bắt nguồn từ tính độc lập tương đối của nó, được thể hiện ở sự phản ánh sáng tạo, ở sự kế thừa và khái quát, ở sự phản ánh vượt trước; trong đó sự phản ánh vượt trước là đk tiên quyết làm cho ý thức có khả năng chỉ đạo hđ thực tiễn. Thứ 2, do vai trò chỉ đạo hđ của ý thức, được thể hiện ở việc vạch ra chủ trương biện pháp cho hđ thực tiễn và thông qua vai trò chỉ đạo này, nó trực tiếp ảnh hưởng đến kq hđ thực tiễn. + Ý thức tđ trở lại vật chất bằng cách nào? Thứ 1, trong hđ thực tiễn, sự vật bộc lộ nhiều khả năng, nhờ có ý thức mà con người biết lựa chọn khả năng đúng, phù hợp để qua đó thúc đẩy sự vật phát triển. Thứ 2, nhờ hiểu được 1

Mối quan hệ giữa vật chất vào ý thứcs39d4f768e7064897.jimcontent.com/download/version... · Web viewĐể khắc phục bệnh giáo điều, ta cần từ bỏ lối

  • Upload
    others

  • View
    4

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Mối quan hệ giữa vật chất vào ý thức

Mối quan hệ giữa vật chất vào ý thức

Vật chất và ý thức là hai phạm trù cơ bản của triết học. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học. Trong khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng đồng thời đã vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất

KN: vật chất, ý thức

Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác ,được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.

Ý thức là 1 hiện tượng tâm lý – XH có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố như: tự ý thức, tri thức, ý chí, tình cảm, niềm tin, ... trong đó tri thức là quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức. ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất vào bộ óc người thông qua hoạt động thực tiễn. Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

- Vai trò của vật chất đối với ý thức: Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất QĐ ý thức. Vật chất QĐ ý thức thể hiện ở những mặt sau:

+ Trong lĩnh vực tự nhiên: Thứ 1, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức, vật chất là tiền đề, là nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức. Thứ 2, vật chất quyết định nội dung ý thức, đk vật chất ntn thì ý thức như thế đó. Thứ 3, vật chất QĐ sự phát triển của ý thức, vật chất phát triển đến đâu thì ý thức hình thành và phát triển đến đó, khi vật chất biến đổi thì ý thức cũng biến đổi theo.

+ Trong lĩnh vực XH: Thứ 1, để đạt được hiệu quả, trong hđ của mình con người bao giờ cũng phải dựa trên những cơ sở, phương tiện vật chất nhất định. Thứ 2, trong hđ của con người, những nhu cầu vật chất xét đến cùng bao giờ cũng giữ vai trò QĐ. Thứ 3, vai trò QĐ của vật chất đối với ý thức còn được thể hiện ở chỗ nó là đk để quy định khả năng tham gia của các yếu tố tinh thần, biến các yếu tố tinh thần thành hiện thực.

[Vai trò của vật chất với ý thức trong đời sống XH được thể hiện ở mối quan hệ giữa kte và ctri, đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa tồn tại XH và ý thức XH. Trong XH, sự phát triển của kte quy định sự phát triển của văn hóa; đời sống vật chất thay đổi thì sớm hay muộn đời sống tinh thần cuảng thay đổi theo.]

- Vai trò của ý thức đối với vật chất

+ Vì sao ý thức có thể tđ trở lại được đv vật chất? Thứ 1, là bắt nguồn từ tính độc lập tương đối của nó, được thể hiện ở sự phản ánh sáng tạo, ở sự kế thừa và khái quát, ở sự phản ánh vượt trước; trong đó sự phản ánh vượt trước là đk tiên quyết làm cho ý thức có khả năng chỉ đạo hđ thực tiễn. Thứ 2, do vai trò chỉ đạo hđ của ý thức, được thể hiện ở việc vạch ra chủ trương biện pháp cho hđ thực tiễn và thông qua vai trò chỉ đạo này, nó trực tiếp ảnh hưởng đến kq hđ thực tiễn.

+ Ý thức tđ trở lại vật chất bằng cách nào? Thứ 1, trong hđ thực tiễn, sự vật bộc lộ nhiều khả năng, nhờ có ý thức mà con người biết lựa chọn khả năng đúng, phù hợp để qua đó thúc đẩy sự vật phát triển. Thứ 2, nhờ hiểu được quy luật của TG khách quan, mà con người biết đề ra cho mình những chủ trương, đường lối và biện pháp để thực hiện những chủ trương, đường lối đó. Thứ 3, trong ý thức của con người còn có tri thức, trí tuệ, ý chí, tình cảm và niềm tin, đây cũng là những yếu tố quan trọng giúp cho sự tđ trở lại của ý thức đối với vật chất đạt hiệu quả cao.

+ Ý thức tđ trở lại vật chất theo hướng nào? Nếu ý thức pá đúng hiện thực khách quan thì nó sẽ tđ thúc đẩy hđ thực tiễn của con người. Nếu ...ko đúng...sẽ kìm hãm. Song cũng cần thấy rõ rằng, xét đến cùng tđ trở lại của ý thức đv vật chất cũng chỉ là tương đối, có đk. Vai trò tích cực hay tiêu cực của ý thức trong sự tđ trở lại đv vật chất chỉ được trong 1 tg nhất định và đk cụ thể.

[XH càng phát triển thì vai trò của ý thức càng to lớn, nhất là trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kte tri thức, khoa học đã trở thành LLSX trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri thức khoa học, của tư tưởng ctri, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.

Ý thức ko chỉ có tđ tích cực mà còn có tđ tiêu cực; những tư tưởng phản động làm cản trở sự phát triển của lịch sử; những tư tưởng duy tâm tôn giáo làm hạn chế năng lực thực tiễn của con người; những tư tưởng bá quyền đế quốc đã gây ra những cuộc chiến tranh tàn khốc... Nhìn chung, có tđ tiêu cực khi ý thức pá sai lệch, xuyên tạc hiện thực.

Như vậy, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng, vật chất QĐ ý thức, nhưng ý thức cũng có vai trò hết sức to lớn đv vật chất thông qua hđ thực tiễn của con người.]

Ý nghĩa pp luận của mối quan hệ này. Rút ra quan điểm gì (quan điểm khách quan, tồn tại khách quan). Những quy luật này có td gì trong hoạt động thực tiễn.

Từ giải quyết đúng đắn, khoa học mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên qun điểm thực tiễn chúng ta rút ra quan điểm khách quan trong nhận thức và cải tạo TG.

- Nguyên tắc khách quan

+ Vì sao phải có nguyên tắc khách quan: Vì vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất QĐ ý thức nên trong nhận thức và hđ thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những đk vật chất hiện có và lấy đó làm căn cứ cho mọi hđ của mình.

+ Yêu cầu của nguyên tắc khách quan: Thứ 1, phải xem xét sự vật như chính nó đang tồn tại, phải xuất phát từ thực tế, từ đk, hoàn cảnh vật chất hiện có; chống thái độ xuyên tạc, bóp méo sự vật, chống tác phong qua loa, đại khái, xem xét sự vật 1 cách chung chung, trừu tượng. Thứ 2, phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, ko thể tùy tiện, bất chấp quy luật, chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, chủ quan nóng vội.

Cùng với việc khai thác những sức mạnh vật chất tiềm tàng của đất nước, Đảng CSVN luôn chú trọng bồi dưỡng tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc, tinh thần đoàn kết, tinh thần cách mạng cho mọi tầng lớp nd; cùng với việc chăm lo phát triển kte, Đảng còn chú trọng đến việc XD đời sống văn hóa tinh thần, phát triển giáo dục đào tạo, XD nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

- Nguyên tắc phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức

+ Vì sao phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức? Vì ý thức có tính độc lập tương đối, có tính pá sáng tạo; vì ý thức có tính kế thừa và khái quát những thành tựu tư tưởng; vì ý thức, lý luận là kim chỉ nam cho hđ của con người. Hơn nữa, việc phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức sẽ giúp con người khắc phục được thói trông chờ, ỷ lại, đổ lỗi cho hoàn cảnh và chịu bó tay trước hoàn cảnh khách quan.

+ Thực chất của việc phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức?

Nói tới vai trò của ý thức, về thực chất là nói tới vai trò của con người, vì ý thức là ý thức của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả. Cho nên, muốn thực hiện được tư tưởng phải sd lực lượng thực tiễn của con người. VD: NQ của phường A đề ra trong năm 2014 phải xây được 3 căn nhà đại đoàn kết với trị giá xxxxx. Muốn thực hiện được NQ này thì phường A phải căn cứ vào những điều kiện về tài chính, về đặc điểm của địa phương, các điều kiện khách quan hay chủ quan khác. Vì vậy, cần phải giáo dục và đào tạo ra những con người có tri thức, có năng lực; giáo dục và đào tạo ra những con người vừa có tài vừa có đức đủ sức gánh vác những trọng trách được giao.

Tuy nhiên, cơ sở cho việc phát huy tính năng động chủ quan là việc thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy luật tự nhiên và XH. Nếu như TG vật chất với những thuộc tính và quy luật vốn có của nó – tồn tại khách quan, ko phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, thì con người trong nhận thức và hđ thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hđ của mình. Nếu lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc bệnh chủ quan duy ý chí.

Liên hệ việc vận dụng nó trong việc đảng ta lãnh đạo và quản lý đất nước.

Quán triệt quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức của triết học Mác xit. Trong nhận thức và thực tiễn, chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. Đồng thời phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố của con người trong việc nhân thức ,tđ cải tạo thế giới.

Quan điểm khách quan trên giúp ta ngăn ngừa và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí và bảo thủ trì trệ. Bệnh chủ quan duy ý trí là xuất phát từ việc cường điệu tính sáng tạo của ý thức, tuyệt đối hoá vai trò nhân tố chủ quan của ý chí, bất chấp qui luật khách quan, xa rời hiện thực, phủ nhận xem nhẹ điều kiện vật chất. Bệnh bảo thủ trì trệ là tình trạng ỷ lại, dựa dẫm, chờ đợi, ngại đổi mới thẩm chí cản trở cái mới, bằng lòng thỏa mãn với cái đã có do khuynh hướng cường điệu vai trò quyết định của vật chất, sùng bái sức mạnh của quy luật, hạ thấp vai trò của nhân tố chủ quan.

Ở nước ta, trong thời kỳ trước đổi mới (trước ĐH VI), Đảng ta đã nhận định rằng chúng ta mắc bệnh chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan trong việc xđ mục tiêu và bước đi trong việc xd vật chất kỹ thuật và cải tạo xh chủ nghĩa; về bố trí cơ cấu kte; về việc sd các thành phần kte…. Những sai lầm đó là:

- Sai lầm về đánh giá tình hình, xác định mục tiêu và bước đi: Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quả độ lên CNXH là một quá trình lich sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường và do tư tưởng chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước cần thiết. Trong 5 năm (1976 - 1980), trên thực tế chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, đó là lực lượng sản xuất còn nhỏ bé, chưa phát triển; còn chủ yếu là sản xuất nhỏ, lạc hậu; kinh tế hàng hóa chưa phát triển…

- Sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế: Trong bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường chỉ xuất phát từ mong muốn đi nhanh mà mà không tính đến điều kiện và khả năng thực tế nên đã vi phạm 2 khuyết điểm lớn: Thứ nhất, coi nhẹ mặt trận nông nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, chưa sử dụng có hiệu quả những khả năng mở rộng kinh tế với nước ngoài; Thứ 2, khi đã thấy sai lầm, tuy đã đình hoãn một số công trình tương đối lớn, tập trung hơn cho các trọng điểm nhưng về cơ bản vẫn chưa điều chỉnh hợp lý, không kiên quyết bố trí lại cơ cấu đầu tư, kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.

- Sai lầm trong cải tạo XHCN, củng cố qhsx, sử dụng các thành phần kinh tế: đã có nhiều biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh; đối với kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, muốn tổ chức ngay các hợp tác xã quy mô lớn mà không tính đến khả năng thực tế của ta về trang thiết bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực cán bộ. Về nội dung cải tạo, thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về TLSX mà không coi trọng việc giải quyết các vấn đề về tổ chức quản lý và chế độ phân phối. Nguyên nhân là trong nhận thức cũng như hành động, đảng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn đang tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vứng và vận dụng đúng quy luật khách quan về sự phù hợp giữa QHSX với trình độ của LLSX.

- Sai lầm trong cơ chế quản lý kinh tế: cơ chế tập trung quan liêu bao cấp phù hợp với nền kinh tế đất nước thời chiến, nhờ đó mà huy động được sức mạnh tổng hợp của hậu phương lớn miền Bắc để phục vụ cho cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước. Nhưng trong giai đoạn mới, cả nước bước vào xây dựng CNXH, cơ chế bao cấp cũng với nền kinh tế kế hoạch hóa không còn phù hợp, lại duy trì quá lâu (10 năm), do đó chưa thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

- Sai lầm trong phân phối lưu thông: từ những sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo XHCN, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp … dẫn đế những sai lầm trong phân phối lưu thông. Chưa có chính sách đúng đắn về tài chính, giá cả, tiền tệ, tín dụng, tiền lương. Việc giải quyết vấn đề giá, lương, tiền phạm sai lầm rất nghiêm trọng do thiếu chuẩn bị chu đáo, không phù hợp với tình hình thực tế.

Nguyên nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên là do sự lạc hậu, yếu kém về lý luận, do tâm lý của người sx nhỏ và do chúng ta kéo dài chế độ quan liêu bao cấp.

Rút kinh nghiệm từ những sai lầm trên, ĐH Đảng lần VI (1986) đã chỉ rõ bài học kinh nghiệm trong thực tiễn CM ở nước ta là “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu của Đảng”.

Bài học mà Đảng ta đã nêu ra, trước hết đòi hỏi Đảng nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống qui luật khách quan, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đó là xd CNXH bỏ qua chế độ TBCN cho nên phải trải qua 1 TKQĐ lâu dài nhiều chặn đường, nhiều hình thức tổ chức kte xh có tính chất quá độ. Mỗi chủ trương chính sách của Đảng và NN phải xuất phát từ thực tế khách quan của đất nước và phù hợp qui luật. Chúng ta biết rằng ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan trong quá trình con người cải tạo thế giới. Do đó càng nắm bắt thông tin về thực tế khách quan chính xác, đầy đủ trung thực và xử lý các thông tin ấy một cách khoa học thì quá trình cải tạo thế giới càng hiệu quả. Đồng thời cần thấy rằng sức mạnh của ý thức là ở năng lực nhận thức và vận dụng tri thức cũng như các qui luật của thế giới khách quan.

Từ đó, trong cơ cấu sx và cơ cấu đầu tư, Đảng và NN đã điều chỉnh lại theo hướng "không bố trí xd công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực tế", tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sx lương thực- thực phẩm, sx hàng tiêu dùng và sx hàng xuất khẩu. Đây là những chương trình chẳng những đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà còn là điều kiện thúc đẩy sx và lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản phẩm hàng hóa.

Trong cải tạo XHCN, Đảng ta xđ: "Nền kte nhiều thành phần là một đặc trưng của TKQĐ". Về cơ chế quản lý kte, lần đầu tiên khái niệm về hàng hóa, thị trường được đưa vào NQ 1 cách rõ ràng "Phát triển nền kte hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của NN" (Cương lĩnh xd đất nước trong TKQĐ lên CNXH).

Đồng thời với các đổi mới trong lĩnh vực kte, việc đổi mới bắt đầu từ việc Đảng phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực, trình độ lý luận của Đảng để nhận thức đúng và hành động đúng phù hợp với hệ thống các quy luật khách quan. Song song đó, việc tăng cường phát huy dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ KHKT, đội ngũ cán bộ quản lý và tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, tổng kết cái mới, không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh lý luận về mô hình, mục tiêu, bước đi, đổi mới và kiện toàn tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống ctri … là những biện pháp nhằm từng bước sửa chữa sai lầm và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí.

Với những đường lối, chủ trương trên của Đảng, NN đã cụ thể hóa bằng nhiều nghị quyết và chính sách phù hợp và khi triển khai thực hiện đã có td rất lớn trong việc thúc đẩy sx, cải thiện đời sống của người dân: đó là NQ 168 về chuyển đổi cơ cấu SX, các chính sách đất đai cho người dân tộc, chính sách tái định cư, chính sách cứu đói giảm nghèo ... đồng thời với thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở và việc tôn vinh các cá nhân, tập thể có hiệu quả năng suất lđ cao, làm kte giỏi ... đã thực sự khuyến khích, tạo đk cho sự phát triển toàn diện của cá nhân, tập thể và nhân rộng những mô hình SX, kte tiên tiến. Trong quá trình thực hiện có lúc có nơi vẫn còn mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí và bảo thủ trì trệ, tuy nhiên về cơ bản, đời sống vật chất tinh thần của nd từng bước được ổn định và nâng cao, các ngành nghề truyền thống được khôi phục và phát triển mạnh, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm mạnh, tăng trưởng kte tăng và giữ mức ổn định, chế độ XHCN ngày càng củng cố, đất nước đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kte xh và đang có những bước chuyển biến tích cực trong tất cả các lĩnh vực đời sống xh.

Từ những phân tích trên cho thấy thắng lợi của công cuộc đổi mới có được là dựa trên 1 nền tảng tư tưởng đúng, đó là CN M-L và tư tưởng HCM, mà trong đó sự quán triệt và vận dụng đúng quy luật, nguyên tắc khách quan là điều kiện đảm bảo sự dẫn dắt đúng đắn của Đảng. Hiện nay, trong tình hình mới đòi hỏi đảng ta phải không ngừng phát huy hiệu quả vai trò lãnh đạo của mình thông qua việc nhận thức đúng, tranh thủ nắm bắt được thời cơ do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa đem lại, đồng thời xác định rõ những thách thức khó khăn mà cách mạng nước ta sẽ gặp phải để thực hiện bằng được mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.

Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX

Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là một trong những quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của XH loài người. Việc nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật này có ý nghĩa quan trọng trong việc xđ mục tiêu, đề ra đường lối và tìm các biện pháp thực hiện cho quá trình XD CNXH ở nước ta.

KN: Phương thức SX, LLSX, QHSX

- Phương thức SX là cách thức con người thực hiện quá trình SX vật chất ở những gđ lịch sử nhất định của XH loài người. Phương thức SX chính là yếu tố QĐ cho sự tồn tại và phát triển của XH. Điều này được thể hiện ở chỗ: phương thức SX QĐ tính chất của XH; QĐ tổ chức, kết cấu của XH; QĐ sự chuyển biến của XH loài người qua các gđ lịch sử khác nhau. Ở 1 gđ lịch sử nhất định, 1 hình thái kte - XH nhất định có 1 phương thức SX riêng. Phương thức SX bao gồm 2 mặt có quan hệ mật thiết với nhau: LLSX và QHSX.

- LLSX là hệ thống những phương thức kết hợp giữa người lđ với tư liệu SX để tạo ra 1 sức SX nhất định trong SX vật chất. LLSX gồm có tư liệu SX và người lđ. Tư liệu SX được cấu thành từ 2 bộ phận: đối tượng lđ và tư liệu lđ.

- QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình SX. QHSX được hình thành 1 cách khách quan, độc lập với ý thức của con người. QHSX là 1 chỉnh thể thống nhất bởi 3 quan hệ: các quan hệ sở hữu đối với tư liệu SX; các quan hệ trong tổ chức và QL SX; các quan hệ trong phân phối sản phẩm lđ.

Nội dung của quy luật

Trong mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX thì LLSX giữ vai trò QĐ đv QHSX. Điều đó có nghĩa là QHSX phải luôn luôn phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. VD: nếu LLSX ở trình độ thủ công thì nó chỉ đòi hỏi QHSX cá thể, tư hữu, tự cung tự cấp, tự QL theo SX nhỏ. Nhưng nếu LLSX ở trình độ cơ khí hóa, tính chất xh hóa cao (do dây chuyền công nghệ khép kín, có sự chuyên môn sâu) thì nó đòi hỏi tất nhiên phải có hình thức QHSX mang tính xhi hóa cao thì quá trình sx mới trôi chảy được.

Trong quá trình XD CNXH trước đây ở nhiều nước, trong đó có cả nước ta do nóng vội, chủ quan duy ý chí đã sớm thiết lập 1 nền kte thuần nhất dưới 2 hình thức sở hữu tư liệu SX (sở hữu tập thể và sở hữu NN) nên đã để lãng phí rất nhiều năng lực SX trong nước và trên TG (do ko có những QHSX tương ứng).

Trình độ của LLSX là trình độ phát triển của công cụ lđ, của KHCN-KHKT, phân phối lđ và người lđ, trong đó phân công lđ và trình độ chuyên môn hóa là sự biểu hiện rõ ràng nhất.

Trình độ của LLSX thể hiện ở: trình độ của công cụ lđ; trình độ tổ chức lđ XH; trình độ ứng dụng khoa học vào SX; kinh nghiệm và kỹ năng lđ của con người; trình độ phân công lđ.

Sự vận động, biến đổi và phát triển của LLSX QĐ và làm thay đổi QHSX cho phù hợp với nó. Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là trạng thái mà trong đó, QHSX là “hình thức phát triển” của LLSX. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của QHSX đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho LLSX phát triển.

Song sự phát triển của LLSX đến 1 trình độ nhất định lại làm cho QHSX từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của LLSX. Khi đó, QHSX trở thành “xiềng xích” của LLSX, kìm hãm LLSX phát triển.

Yêu cầu khách quan của sự phát triển LLSX tất yếu sẽ dẫn đến việc XH phải xóa bỏ bằng cách này hay cách khác QHSX cũ và thay thế nó bằng 1 kiểu QHSX mới, phù hợp với trình độ phát triển mới của LLSX để thúc đẩy LLSX tiếp tục phát triển.

- Sự QĐ của LLSX đv QHSX được biểu hiện cụ thể như sau: Thứ 1, trình độ của LLSX như thế nào thì QHSX phải như thế ấy để đảm bảo sự phù hợp. Thứ 2, khi LLSX đã thay đổi về trình độ thì QHSX cũng phải thay đổi theo để đảm bảo sự phù hợp. Thứ 3, khi LLSX cũ mất đi, LLSX mới ra đời thì QHSX cũ cũng phải mất đi và QHSX mới phải ra đời để đảm bảo sự phù hợp.

Ngày nay, nền SX TBCN đã tạo ra 1 LLSX đồ sộ, tính chất XH hóa ngày càng cao, dẫn đến mâu thuẫn ngày càng gay gắt với QHSX dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu SX. Biện pháp mà ở các nước tư bản đang cố giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX là cải cách, điều chỉnh QHSX tạo ra sự thích nghi nhất định. Biện pháp đó trước mắt vẫn tạo ra được tiềm năng để phát triển kte. Tuy nhiên, biện pháp đó ko giải quyết được triệt để mâu thuẫn, khủng hoảng chu kỳ vẫn đang tiếp tục diễn ra đang đòi hỏi phải có thay đổi căn bản QHSX, thiết lập QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.

Dưới XHCN sự phù hợp và ko phù hợp của QHSX với LLSX cũng tồn tại khách quan, bên trong của nền SX vật chất như là yếu tố nội sinh của sự phát triển. Chính vì thế, CNXH cũng phải thường xuyên phát hiện mâu thuẫn và giải quyết 1 cách có hiệu quả tạo ra sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển LLSX, thúc đẩy LLSX phát triển, kte phát triển.

- LLSX QĐ QHSX nhưng QHSX cũng có tính độc lập tương đối và tđ trở lại sự phát triển của LLSX. Nguyên tắc của sự tđ trở lại là

+ Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì nó sẽ thúc đẩy và là động lực để LLSX phát triển. Biểu hiện 3 trường hợp: Thứ 1, khi QHSX tạo ra những tiền đề, những đk cho các yếu tố của LLSX kết hợp với nhau 1 cách hài hòa để cho SX diễn ra bình thường và đưa lại năng suất lđ cao; Thứ 2, ...khi cả 3 mặt của QHSX thích ứng với trình độ phát triển của LLSX; Thứ 3, khi QHSX mở ra những đk thích hợp cho việc kích thích vật chất, tinh thần đv người lđ.

+ Ngược lại, ...nếu ko phù hợp...sẽ kìm hãm, làm giảm khả năng, quy mô, tốc độ, nhịp độ, khối lượng của LLSX, thậm chí phá vỡ LLSX. Biểu hiện 2 trường hợp: 1 là, QHSX lạc hậu lỗi thời so trình độ mới LLSX; 2 là, QHSX hình thành không đồng bộ, có những yếu tố vượt trước, tình trạng hiện có LLSX do chủ thể áp đặc một cách chủ quan.

QHSX quy định mục đích của SX, quy định tổ chức, QL SX và tđ trực tiếp vào lợi ích của các bên tham gia SX, lợi ích của người lđ, của chủ đầu tư, của XH, từ đó hình thành hệ thống những yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của LLSX.

Tóm lại, quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật phổ biến tđ trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát triển đi lên của lịch sử XH loài người từ chế độ công xã nguyên thủy qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ TBCN và đến XH cộng sản tương lai, là do sự tđ của hệ thống các quy luật XH, trong đó quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật cơ bản nhất.

Liên hệ sự vận dụng trong quá trình phát triển ở đất nước ta (cần tránh bệnh: nóng vội, chủ quan duy ý chí, giáo điều)

Trước thời kỳ đổi mới trong nhận thức và vận dụng quy luật này ở các nước XHCN nói chung và ở những nước mà xuất phát điểm đi lên CNXH thấp như ở nước ta nói riêng đã mắc phải những lệch lạc sai lầm chủ quan.

Chủ trương XD sớm 1 nền kte XHCN thuần nhất với 2 hình thức sở hữu tập thể và NN trong khi trình độ LLSX còn thấp kém và phát triển ko đồng đều là 1 chủ trương nóng vội, chủ quan duy ý chí, rập khuôn, giáo điều, phiến diện. Đó ko phải là sự vận dụng 1 cách sáng tạo quy luật – như có thời kỳ chúng ta đã lầm tưởng – mà là vi phạm quy luật, làm trái quy luật.

Từ những lệch lạc trong nhận thức đã dẫn tới những sai lầm trong thực tiễn. Cụ thể: 1 là, xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu SX 1 cách ồ ạt, trong khi chế độ đó đang tạo địa bàn cho sự phát triển LLSX. 2 là, XD chế độ công hữu về tư liệu SX 1 cách tràn lan, trong khi trình độ LLSX còn thấp kém và phát triển ko đồng đều. Có lúc ta bắt chước rập khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy NN (ở Liên Xô có bao nhiêu Bộ, Ngành ta cũng có bấy nhiêu Bộ ngành), hoặc về công nghiệp hóa cũng vậy, ta chỉ chú ý tập trung phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ …

[Để khắc phục bệnh phiến diện một chiều, chúng ta cần phải có quan điểm toàn diện khi xem xét nghiên cứu sự vật hiện tượng, phải biết kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách có dàn đều” và “chính sách có trọng điểm” (V.I Lênin) trong phát triển kte. Để khắc phục bệnh giáo điều, ta cần từ bỏ lối nghiên cứu một cách kinh viện, thuần túy chỉ biết giải thích bằng kinh nghiệm, chứng minh lý luận bằng lý luận cần chống đối lối tư duy bắt chước, sao chép rập khuôn, thoát ly thực tế, bất chấp những đặc điểm, truyền thống và điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước, của dân tộc tăng cường tổng kết thực tiễn bổ sung phát triển lý luận.]

Trên thực tế cho đến nay tất cả các nước đi theo con đường XHCN ko phải từ những nước tư bản phát triển cao, mà từ những nước tư bản ở trình độ phát triển trung bình và thấp hoặc chưa trải qua gđ TBCN và sự phát triển lịch sử. Trong tình trạng đó đã vội vàng xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu SX, thiết lập 1 cách tràn lan chế độ công hữu tức là áp đặt 1 QHSX cao hơn khi LLSX chưa đòi hỏi. Cảnh báo về sai lầm này, C. Mác viết “ko 1 hình thái XH nào diệt vong trước khi tất cả những LLSX mà hình thái XH đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, và những QHSX mới, cao hơn, cũng ko bao giờ xuất hiện trước khi những đk tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân XH cũ”

Trong XD QHSX mới, QHSX XHCN, về thực chất, chúng ta mới xác lập được chế độ sở hữu, còn tính chất QL và phân phối ntn cho phù hợp với chế độ sở hữu đó còn rất nhiều hạn chế. Sự tồn tại trong 1 tg khá dài QHSX thiếu đồng bộ đó cũng là 1 hạn chế, 1 lệch lạc cần phải khắc phục. Chính việc nóng vội XD QHSX không phù hợp với LLSX đã làm kìm hãm, phá hoại sự phát triển của LLSX, làm then chốt động lực thúc đẩy sự phát triển của LLSX. Cương lĩnh XD đất nước trong TKQĐ lên CNXH (Đại hội VII–1991) khẳng định ngoài những sai lầm trong cải tạo XHCN, chúng ta còn có những sai lầm khác như: có lúc đẩy mạnh quá mức việc XD công nghiệp nặng, duy trì quá lâu cơ chế QL kte quan liêu, bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá - lương - tiền.

Bên cạnh đó, do cách hiểu sai lầm về việc bỏ qua chế độ TBCN, Đảng và NN ta đã bỏ qua những thành tựu KHKT không kế thừa và vận dụng, bỏ qua những kinh nghiệm, hình thức, bước đi của CNTB nên không tận dụng được những tiến bộ, tiền đề vật chất, kinh nghiệm, QL điều hành nền kte SX lớn nào. Từ những lệch lạc sai lầm chủ quan đó đã dẫn đến khủng hoảng kte - XH trầm trọng, lạm phát đạt đến mức khủng khiếp 774%, SX bị đình trệ.

Qua thực tiễn cuộc sống, Đảng ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu là không thể nóng vội, làm trái với quy luật khách quan. Để khắc phục những sai lầm, khuyết điểm trên, tại Đại hội VI Đảng ta đã đưa ra quan điểm đổi mới toàn diện, trong đó đặc biệt chú ý đổi mới nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, trong đó có quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Ý thức được điều đó, trong đổi mới Đảng ta đã chủ trương: 1 là, đẩy mạnh CNH, HĐH và xem đây là trọng tâm suốt TKQĐ; 2 là, chuyển từ 1 nền kte thuần nhất XHCN sang nền kte nhiều thành phần theo định hướng XHCN.

Đại hội IX của Đảng tiếp tục các quan điểm của các đại hội VI, VII, VIII, đã chỉ rõ: “Chủ trương XD và phát triển nền KTTT định hướng XHCN, thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX”. “Phát triển LLSX hiện đại, gắn liền với QHSX mới phù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, QL và phân phối”. “Đẩy mạnh CNH-HĐH, ưu tiên phát triển LLSX, đồng thời XD QHSX phù hợp theo định hướng XHCN”. “Gắn chặt việc XD nền KT độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập kte quốc tế”.

Đến Đại hội X, Đảng ta đã chỉ rõ XD nền kte phát triển cao, dựa trên LLSX hiện đại và QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Quan điểm ấy đã được Đại hội XI tiếp tục khẳng định “Phát triển mạnh mẽ LLSX với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện QHSX trong nền KTTT định hướng XHCN”.

Chủ trương phát triển nền kte nhiều thành phần ở nước ta là sự vận dụng 1 cách đúng đắn và sáng tạo quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Chủ trương đó trước hết bắt nguồn từ thực trạng trình độ phát triển LLSX còn thấp kém và phát triển ko đồng đều. Trình độ LLSX ở các vùng khác nhau, những ngành khác nhau là khác nhau. Để khai thác phát huy được mọi năng lực LLSX đó phải tạo lập nhiều loại hình QHSX thì mới phù hợp.

Hiện nay nền kte ở nước ta – như ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ ra có các thành phần: kte NN, kte tập thể, kte tư nhân, kte có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kte hđ theo PL đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN, bình đẳng trước PL, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.Kte NN giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để NN định hướng và điều tiết nền kte, tạo mt và đk thúc đẩy các thành phần kte cùng phát triển.

Văn kiện Đại hội IX đã xđ việc XD chế độ công hữu về tư liệu SX chủ yếu không thể xác lập nhanh chóng ồ ạt như trước đây mà phải là một quá trình kte - XH lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao … Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả XD QHSX theo định hướng XHCN là thúc đẩy phát triển LLSX, cải thiện đời sống nd, thực hiện công bằng XH. Về QL văn kiện Đại hội VI và Đại hội IX cũng đã nêu chính sách phát triển nền KTTT theo định hướng XHCN có sự QL của NN là mô hình kte tổng quát trong TKQĐ. Việc QL nền kte của NN phải “bằng PL, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sd cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kte và phương pháp QL kte để kích thích SX, giải phóng sức SX, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nd lđ, của toàn thể nd. Về phân phối, Đại hội IX cũng đã nhấn mạnh “thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lđ và hiệu quả kte, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào SX kd và thông qua phúc lợi XH. Tăng trưởng kte gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng XH ngay trong từng bước phát triển”.

Sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát triển của LLSX trong thời kỳ đổi mới đã làm cho nền kte nước ta có những bước phát triển vượt bậc. Nền kte thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, tạo đà cho sự phát triển, tốc độ tăng trưởng kte cao.

Để XD và phát triển nền KTTT đẩy mạnh CNH, HĐH theo định hướng XHCN thì vấn đề có tính QĐ là phải tìm ra và ứng dụng cho được loại hình SX kd mang tính thích hợp từ thấp đến cao.

Song song đó, do toàn cầu hóa kte đang là xu thế tất yếu trong điều kiện của cuộc Cách mạng hiện đại ngày nay nên Đảng đã xđ phải kết hợp chặt chẽ việc XD nền kte độc lập tự chủ theo những phương hướng trên với việc chủ động hội nhập kte quốc tế,

Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật cơ bản của mọi nền kte. Việc nhận thức đúng và vận dụng 1 cách sáng tạo quy luật này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đv các nước đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN./.

Quan hệ giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận?

Vật chất và ý thức là hai phạm trù cơ bản của triết học. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học. Trong khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng đồng thời đã vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất.

1.Khái niệm VC: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.

*Phân tích nội dung:

- VC là một phạm trù triết học, với tính cách là một phạm trù triết học VC không tồn tại cảm tính (không cầm được, sờ được, nhìn thấy được).

VD: mqh giữa thầy và, quá trình vượn chuyển hóa thành người, khái niệm về trái cây, … ta không sờ được.

- Thuộc tính chung nhất của VC là tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức cảm giác của con người

VD: Trời mưa, trời nắng,… không phụ thuộc vào ý thức cảm giác của con người.

- VC là cái đem lại cho con người trong cảm giác được cảm giác chụp lại, chép lại phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Điều đó chứng tỏ rằng VC tồn tại khách quan nhưng không phải tồn tại một cách vô hình, trống rỗng mà VC luôn tồn tại dưới dạng các sự vật, hiện tượng, và thông qua các sự vật, hiện tượng cụ thể đó mà chúng ta có thể nhận thức và phản ánh chúng.

VD: thế giới khách quan phản ánh vào bộ óc của con người, sau đó con người sẽ nhận thức được.

* Ý nghĩa:

- ĐN VC của Lê nin đã giải quyết một cách triệt để vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường thế giới quan duy vật khoa học.

- ĐN này bác bỏ tất cả những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết.

- Đồng thời khắc phục được những khiếm khuyết của chủ nghĩa duy vật cũ trong quan niệm siêu hình, máy móc về VC.

- ĐN VC của Lênin đã góp phần định hướng và thúc đẩy sự phát triển của khoa học tự nhiên.

- ĐN VC của Lênin còn là cơ sở để chúng ta xác định cái gì là VC trong lĩnh vực xã hội.

- ĐN VC của Lênin còn giúp cho các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội.

2.Khái niệm YT: ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm nhiều yếu tố như tự ý thức, tri thức, ý chí, tình cảm, niềm tin,.. trong đó tri thức là quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức.

VD: ta chọn giống cây trồng phù hợp với từng vùng, miền là do ta có ý thức.

* Nguồn gốc của ý thức: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.

- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là một thuộc tín của VC nhưng không phải của mọi VC mà chỉ là thuộc tính của 1 dạng VC sống có tổ chức cao là bộ óc con người.

Tuy nhiên, nếu như chỉ có bộ óc con người không thôi mà không có sự tác động của thế giới khách quan bên ngoài lên bộ óc để bộ óc phản ánh lại những tác động đó thì cũng không thể có ý thức.

Do đó, bộ óc con người cùng với thế giới khách quan tác động lên bộ óc, đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

- Nguồn gốc xã hội của ý thức: để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ.

Điều kiện quy định cho sự ra đời và phát triển của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội, ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội.

VD: Ném miếng thịt vào con chó thì nó sẽ ăn, nhưng ném miếng thịt vào con người thì con người sẽ không ăn vì con người có ý thức.

* Bản chất của ý thức: chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người. Nhưng ý thức không phải là sự sao chép thụ động, giản đơn thế giới bên ngoài mà sự phản ánh của ý thức đối với hiện thực khách quan là sự phản ánh năng động và sáng tạo. Tính năng động sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ:

Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật.

VD: Từ gỗ con người có thể chế tạo ra cái bàn, cái ghế, tủ, giường,…

Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có khả năng dự báo được tương lai.

VD: dự báo được thời tiết.

3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:

Triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng: Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.

a.Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:

CNDV biện chứng cho rằng trong mqh giữa VC và YT, VC là cái có trước, YT có sau, VC quyết định YT

VD: Khi não bị tổn thương con người sẽ không có ý thức.

* +VC quyết định YT được thể hiện ở những mặt sau:

- Trong lĩnh vực tự nhiên:

+ Thứ nhất, VC quyết định nguồn gốc của YT, điều đó được thể hiện ở sự hoạt động của bộ não của con người. (VD: khi không có tiền mua gạo thì không thể có tiền mua ti vi).

+ thứ 2, VC quyết định nội dung của YT (VD:Người nghèo điều kiện VC kém nên suy nghĩ hay mơ ước của họ cũng đơn giản, kém.

+ Thứ 3, VC quyết định sự phát triển của YT, vì VC phát triển đến đâu thì YT hình thành và phát triển đến đó, khi VC biến đổi thì YT cũng biến đổi theo.(VD: vào dịp nghỉ hè thì giáo viên, học sinh và người bán hàng sẽ có suy nghĩ khác nhau gv và hs được nghỉ hè, còn người bán hàng không còn khách hàng để bán nên tìm cách mưu sinh khác)

- Trong lĩnh vực xã hội:

+ Thứ nhất, để đạt được hiệu quả trong hoạt động của mình, con người bao giờ cũng phải dựa trên cơ sở, phương tiện VC nhất định.

+ Thứ hai, trong hoạt động của con người, những nhu cầu VC xét đến cùng bao giờ cũng giữ vai trò quyết định.

+ Thứ 3, vai trò quyết định của VC đối với YT còn được thể hiện ở chỗ nó là điều kiện để quy định khả năng tham gia của các yếu tố tinh thần, biến các yếu tố tinh thần thành hiện thực

b. Tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của ý thức đối với VC.

- Vì sao YT có thể tác động trở lại đối với VC?

+ Thứ nhất, YT có thể tác động được trở lại đối với VC là bắt nguồn từ tính độc lập tương đối của nó, tính độc lập tương đối của YT được thể hiện ở sự phản ánh sáng tạo, ở sự kế thừa và khái quát, ở sự phản ánh vượt trước. Trong đó sự phản ánh vượt trước là điều kiện tiên quyết làm cho YT có khả năng chỉ đạo hoạt động thực tiễn.

VD: chiếc xe, cái bàn, cái ghế,.. được hình thành là VC và đó là sản phẩm của con người.

+ Thứ hai, YT có thể tác động được trở lại đối với VC còn do vai trò chỉ đạo hoạt động của YT. Vai trò chỉ đạo hoạt động của YT được thể hiện ở việc vạch ra chủ trương, biện pháp cho hoạt động thực tiễn và thông qua vai trò chỉ đạo này nó trực tiếp ảnh hưởng đến kết quả hoạt động thực tiễn.

- YT tác động trở lại VC bằng cách nào?

+ Thứ nhất, trong hoạt động thực tiễn, sự vật bộc lộ nhiều khả năng, nhờ có YT mà con người biết lựa chọn khả năng đúng, phù hợp để qua đó thúc đẩy sự phát triển.

VD: Trong chiến dịch Điện Biên Phủ đại tướng Võ Nguyên Giáp vạch ra 02 chiến thuật “đánh nhanh thắng nhanh” và “đánh chắc thắng chắc” có 02 sự lựa chọn phù hợp với tình hình hiện thực của đất nước.

+ Thứ 2, nhờ hiểu được quy luật của thế giới khách quan mà con người biết đề ra cho mình những chủ trương, đường lối và biện pháp để thực hiện những chủ trương đường lối đó.

+ Thứ 3, trong YT của con người còn có tri thức, trí tuệ, ý chí, tình cảm và niềm tin, đây cũng là những yếu tố quan trọng giúp cho sự tác động trở lại của YT đối với VC đạt được hiệu quả cao.

- YT tác động trở lại VC theo hướng nào?

+ Nếu YT phản ánh đúng hiện thực khách quan thì nó sẽ có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất.

+ Nếu YT phản ánh không đúng hiện thực khách quan thì nó sẽ kìm hãm hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội. Song, cũng cần thấy rõ rằng, xét đến cùng tác động trở lại của Yt đối với VC chỉ được trong một thời gian nhất định và điều kiện cụ thể.

* Ý nghĩa PP luận:

- Vì sao phải có nguyên tắc khách quan?

Vì VC có trước, YT có sau, VC quyết định YT nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện VC hiện có và lấy đó làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình.

Để thực hiện được nguyên tắc này, yêu cầu chúng ta phải tuân thủ 2 đk sau:

+ Thứ nhất, phải xem xét sự vật như chính nó đang tồn tại. Phải xuất phát từ thực tế, từ điều kiện, hoàn cảnh VC hiện có. Chống thái độ xuyên tạc, bóp méo sự thật, chống tác phong quan liêu, qua loa, đại khái, xem xét sự vật một cách chung chung trừu tượng.

Thứ 2, phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, không thể tùy tiện bất chấp quy luật, chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.

Đó là khi đề ra những chủ trương, đường lối chính sách… chúng ta không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của chúng ta mà cần phải xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của thực tiễn, của địa phương, của đơn vị.

- Nguyên tắc phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức.

Vì YT có tính độc lập tương đối, có tính phản ánh sáng tạo. Vì YT có tính kế thừa và khái quát những thành tựu tư tưởng. Vì YT, lý luận là kim chỉ nam cho hành động của con người.

Hơn nữa, việc phát huy tính năng động sáng tạo của YT sẽ giúp chúng ta khắc phục được thói trông chờ, ỷ lại, đổ lỗi cho hoàn cảnh và chịu bó tay trước hoàn cảnh khách quan.

Thực chất của việc phát huy tính năng động sáng tạo của YT:

+ Nói tới vai trò của YT, về thực chất là nói tới vai trò của con người, vì YT là YT của con người, bản thân Yt tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả. cho nên, muốn thực hiện được tư tưởng, phải sử dụng lực lượng thực tiễn của con người. VD: NQ của phường A đề ra trong năm 2014 phải xây được 3 căn nhà đại đoàn kết với trị giá xxxxx. Muốn thực hiện được NQ này thì phường A phải căn cứ vào những điều kiện về tài chính, về đặc điểm của địa phương, các điều kiện khách quan hay chủ quan khác.

Vì vậy cần phải giáo dụ và đào tạo ra những con người có tri thức, có năng lực, vừa có tài, vừa có đức, đủ sức gánh vác những trọng trách được giao.

Tuy nhiên, cơ sở cho việc phát huy tính năng động chủ quan là việc thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của VC, của các quy luật tự nhiên và xã hội.

Nếu như thế giới VC- với những thuộc tính và quy luật vốn có của nó- tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý muôn chủ quan của con người, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình.

Nếu như lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc bệnh chủ quan duy ý chí.

Sự vận dụng của Đảng ta đối với nguyên tắc khách quan:

Trước Đại hội VI, bên cạnh những thành tựu đạt được, “Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan trước thời kỳ đổi mới. Những sai lầm đó là:

- Sai lầm về đánh giá tình hình, xác định mục tiêu và bước đi: Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quả độ lên CNXH là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường và do tư tưởng chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước cần thiết. Vì vậy, về cơ bản trong 5 năm (1976 - 1980), trên thực tế chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, đó là lực lượng sản xuất còn nhỏ bé, chưa phát triển; còn chủ yếu là sản xuất nhỏ, lạc hậu; kinh tế hàng hóa chưa phát triển… (VD:…)

- Sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế: Trong bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường chỉ xuất phát từ mong muốn đi nhanh mà không tính đến điều kiện và khả năng thực tế nên đã vi phạm 2 khuyết điểm lớn là:

Thứ nhất, coi nhẹ mặt trận nông nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng, thiêng về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn. Chưa sử dụng có hiệu quả những khả năng mở rộng kinh tế với nước ngoài.

Thứ 2, khi đã thấy sai lầm, tuy đã đình hoãn một số công trình tương đối lớn, tập trung hơn cho các trọng điểm nhưng về cơ bản vẫn chưa điều chỉnh hợp lý, không kiên quyết bố trí lại cơ cấu đầu tư. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.

- Sai lầm trong cải tạo XHCN. Củng cố qhsx, sử dụng các thành phần kinh tế: đã có nhiều biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh. Đối với kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, muốn tổ chức ngay các hợp tác xã quy mô lớn mà không tính đến khả năng thực tế của ta về trang thiết bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực cán bộ.

Về nội dung cải tạo, thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về TLSX mà không coi trọng việc giải quyết các vấn đề về tổ chức quản lý và chế độ phân phối. Nguyên nhân là trong nhận thức cũng như hành động, đảng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn đang tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật khách quan về sự phù hợp giữa QHSX với trình độ của LLSX.

- Sai lầm trong cơ chế quản lý kinh tế: duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chỉ phù hợp với nền kinh tế đất nước thời chiến, nhờ đó mà huy động được sức mạnh tổng hợp của hậu phương lớn MB để phục vụ cho cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước. Nhưng trong giai đoạn mới, cả nước bước vào xây dựng CNXH, cơ chế bao cấp cùng với nền kinh tế kế hoạch hóa không còn phù hợp, lại duy trì quá lâu (10 năm), chưa được thiết lập đồng bộ nhiều chính sách, thể chế đã lỗi thời chưa được thay đổi, do đó chưa thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

- Sai lầm trong phân phối lưu thông: Chưa có chính sách đúng đắn về tài chính, giá cả, tiền tệ, tín dụng, tiền lương. Việc giải quyết vấn đề giá, lương, tiền phạm sai lầm rất nghiêm trọng do thiếu chuẩn bị chu đáo, không phù hợp với tình hình thực tế.

ĐH VI khẳng định: Khuynh hướng tư tưởng của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm trong lĩnh vực kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện của nước ta mới ở chặng đường đầu tiên. Thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan, do đó, không chú ý vận dụng vào việc chế định các chủ trương chính sách.

Từ thực tiễn cách mạng với những thành công, đặc biệt là từ những sai lầm khuyết điểm, ĐH VI đã rút ra 4 bài học kinh nghiệm, trong đó có bài học lớn là: phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.

Khi xem xét, nghiên cứu, tìm hiểu sự vật thì phải xuất phát từ chính sự vật, từ những điều kiện thực tế, từ hoàn cảnh VC với một thái độ khách quan trung thực. Phải chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, thái độ xuyên tạc sự thật cùng các hoạt động phiêu lưu, bất chấp quy luật. Vì thế, để vạch ra chiến lược, sách lược đúng đắn, để lãnh đạo cách mạng thắng lợi, đảng ta:

+ Phải nhận thức được những đặc điểm nổi bật của tình hình chính trị, kinh tế của thế giới và khu vực ở từng thời kỳ, từng giai đoạn. Như hiện nay, phải xuất phát từ thực tế là CNXH đang lúc tạm thời thoái trào nhưng vẫn còn sức sống, cuộc CM KH&CN trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ, khả năng quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống XH, hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại … là xu thế không thể đảo ngược.

+ Đảng ta cũng phải nắm bắt được những thuận lợi và khó khăn của đất nước ta, xác định rõ từng thời cơ và những nguy cơ trong từng thời gian của giai đoạn đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH để có thể tranh thủ thời cơ và khắc phục được nguy cơ.

+ Nắm vững quy luật khách quan và tuân theo quy luật phát triển, đảng phải kiên trì sự nghiệp “đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”. Trong cải tạo XHCN, Đảng phải tuân theo quy luật “tùy theo mức độ phát triển của LLSX mà thiết lập từng bước QHSX XHCN từ thấp đến cáo với sự đa dạng về hình thức sở hữu”. Phải tuân theo quy luật khách quan của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước. Chấp nhận các quy luật đặc thù của nền kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời thực hiện chính sách xã hội, chính sách văn hóa phù hợp.

+ Mặt khác, đảng phải phát huy tính năng động chủ quan của các tổ chức và đảng viên, của mọi tầng lớp nhân dân, tích cực, một long đoàn kết, ra sức suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo, khắc phục khó khăn trong nhận thức, xây dựng tình cảm, ý chí, nhiệt tình trong hành động. Đảng luôn chú trọng phát huy vai trò nhân tố conn gười, quan tâm, xử lý đúng đắn các lợi ích về kinh tế, chính trị, tinh thần … của mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là lợi ích của người lao động.

Như vậy, từ nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận của triết học mác – leenin về mối quan hệ biện chứng giữa VC và YT, về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức cũng như từ kinh nghiệm của những thànhcông và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta mà đảng ta đã rút ra bài học nêu trên. Bài học ấy vẫn còn ý nghĩa thời sự nóng hổi trong quá trình đổi mới và hội nhập ở nước ta. Hiện nay, trong tình hình mới đòi hỏi đảng ta phải không ngừng phát huy hiệu quả vai trò lãnh đạo của mình thông qua việc nhận thức đúng, tranh thủ nắm bắt được thời cơ do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa đem lại, đồng thời xá định rõ những thách thức khó khăn mà cách mạng nước ta sẽ gặp phải để thực hiện bằng được mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”/.

Sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất. Sự nhận thức và vận dụng quy luật này của Đảng.

Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là một trong những quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của XH loài người. Việc nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mục tiêu, đề ra đường lối và tìm các biện pháp thực hiện cho quá trình XD CNXH ở nước ta.

KN: Phương thức SX, LLSX, QHSX

PTSX: là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. PTSX là chỉnh thể thống nhất bởi 2 mặt của quá trình sản xuất vật chất: đó là LLSX và QHSX. PTSX chính là yếu tố quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã hội, điều này được thể hiện ở chỗ:

- Thứ nhất, PTSX quyết định tính chất của xã hội.

- Thứ hai, PTSX quyết định tổ chức kết cấu của xã hội.

- Thứ ba, PTSX quyết định sự chuyển biến của xã hội loài người qua các giai đoạn lịch sử khác nhau.

LLSX: là hệ thống những phương thức kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất để tạo ra một sức sản xuất nhất định trong sản xuất vật chất.

- LLSX gồm có: TLSX và NLĐ

+ TLSX được cấu thành từ hai bộ phận: đối tượng lao động và tư liệu lao động.

QHSX: là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội. Có 2 loại quan hệ: quan hệ bình đẳng và quan hệ bất bình đẳng.

QHSX được hình thành một cách khách quan, độc lập với ý thức của con người. QHSX là một chỉnh thể thống nhất bởi ba quan hệ:

- Các quan hệ sở hữu đối với tư liệu SX.

- Các quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất.

- Các quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.

1.Nội dung của quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX:

Trong mqh biện chứng giữa LLSX và QHSX thì LLSX giữ vai trò quyết định đối với QHSX. Điều đó nghĩa là QHSX phải luôn luôn phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. VD: nếu LLSX ở trình độ thủ công thì nó chỉ đòi hỏi QHSX cá thể, tư hữu, tự cung tự cấp, tự QL theo SX nhỏ. Nhưng nếu LLSX ở trình độ cơ khí hóa, tính chất xh hóa cao (do dây chuyền công nghệ khép kín, có sự chuyên môn sâu) thì nó đòi hỏi tất nhiên phải có hình thức QHSX mang tính xhi hóa cao thì quá trình sx mới trôi chảy được.

Trong quá trình XD CNXH trước đây ở nhiều nước, trong đó có cả nước ta do nóng vội, chủ quan duy ý chí đã sớm thiết lập 1 nền kte thuần nhất dưới 2 hình thức sở hữu tư liệu SX (sở hữu tập thể và sở hữu NN) nên đã để lãng phí rất nhiều năng lực SX trong nước và trên TG (do ko có những QHSX tương ứng).

Trình độ phát triển của LLSX là trình độ phát triển của công cụ LĐ, của KHCN, Khoa học kỹ thuật, phân công LĐ và người LĐ. Trong đó phân công LĐ và trình độ chuyên môn hóa là sự biểu hiện rõ ràng nhất.

Trình độ của LLSX thể hiện ở trình độ của công cụ LĐ, trình độ tổ chức LĐXH, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ phân công lao động.

Sự vận động, biến đổi và phát triển của LLSX quyết định và làm thay đổi QHSX cho phù hợp với nó. Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là trạng thái mà trong đó QHSX là “hình thức phát triển” của LLSX.

Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của QHSX đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho LLSX phát triển. Song, sự phát triển của LLSX đến một trình độ nhất định lại làm cho QHSX từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của LLSX, khi đó QHSX trở thành “xiềng xích” của LLSX, kiềm hãm LLSX phát triển.

Yêu cầu khách quan của sự phát triển LLSX tất yếu sẽ dẫn đến việc XH phải xóa bỏ bằng cách này hay cách khác QHSX cũ và thay thế nó bằng một kiểu QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển mới của LLSX để thúc đẩy LLSX tiếp tục phát triển.

Sự quyết định của LLSX đối với QHSX được biểu hiện cụ thể như sau:

- Thứ nhất, trình độ của LLSX ntn thì QHSX phải như thế ấy để đảm bảo sự phù hợp.

- Thứ hai, khi LLSX đã thay đổi về trình độ thì QHSX cũng phải thay đổi theo để đảm bảo sự phù hợp.

- Thứ ba, khi LLSX cũ mất đi, LLSX mới ra đời thì QHSX cũ cũng phải mất đi và QHSX mới phải ra đời để đảm bảo sự phù hơp.

LLSX quyết định QHSX, nhưng QHSX cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của LLSX.

Nguyên tắc của sự tác động trở lại là nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì nó sẽ thúc đẩy LLSX phát triển.

Ngược lại, nếu QHSX không phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì nó sẽ kiềm hãm, thậm chí phá vỡ LLSX.

Vây ntn được coi là QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX?

- Thứ nhất, một QHSX được gọi là phù hợp với trình độ phát triển của LLSX khi nó tạo ra những tiền đề, những điều kiện cho các yếu tố của LLSX kết hợp với nhau một cách hài hòa để cho sản xuất diễn ra bình thường và đưa lại năng suất LĐ cao.

- Thứ hai, một QHSX được gọi là phù hợp với trình độ phát triển của LLSX khi cả ba mặt của QHSX thích ứng với trình độ phát triển của LLSX.

- Thứ ba, một QHSX được gọi là phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, khi QHSX mở ra những điều kiện thích hợp cho việc kích thích vật chất, tinh thần đối với NLĐ.

Ngày nay, nền SX TBCN đã tạo ra 1 LLSX đồ sộ, tính chất XH hóa ngày càng cao, dẫn đến mâu thuẫn ngày càng gay gắt với QHSX dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu SX. Biện pháp mà ở các nước tư bản đang cố giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX là cải cách, điều chỉnh QHSX tạo ra sự thích nghi nhất định. Biện pháp đó trước mắt vẫn tạo ra được tiềm năng để phát triển kte. Tuy nhiên, biện pháp đó ko giải quyết được triệt để mâu thuẫn, khủng hoảng chu kỳ vẫn đang tiếp tục diễn ra đang đòi hỏi phải có thay đổi căn bản QHSX, thiết lập QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.

Dưới XHCN sự phù hợp và ko phù hợp của QHSX với LLSX cũng tồn tại khách quan, bên trong của nền SX vật chất như là yếu tố nội sinh của sự phát triển. Chính vì thế, CNXH cũng phải thường xuyên phát hiện mâu thuẫn và giải quyết 1 cách có hiệu quả tạo ra sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển LLSX, thúc đẩy LLSX phát triển, kte phát triển.

- LLSX QĐ QHSX nhưng QHSX cũng có tính độc lập tương đối và tđ trở lại sự phát triển của LLSX. Nguyên tắc của sự tđ trở lại là

+ Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì nó sẽ thúc đẩy và là động lực để LLSX phát triển. Biểu hiện 3 trường hợp: Thứ 1, khi QHSX tạo ra những tiền đề, những đk cho các yếu tố của LLSX kết hợp với nhau 1 cách hài hòa để cho SX diễn ra bình thường và đưa lại năng suất lđ cao; Thứ 2, ...khi cả 3 mặt của QHSX thích ứng với trình độ phát triển của LLSX; Thứ 3, khi QHSX mở ra những đk thích hợp cho việc kích thích vật chất, tinh thần đv người lđ.

+ Ngược lại, ...nếu ko phù hợp...sẽ kìm hãm, làm giảm khả năng, quy mô, tốc độ, nhịp độ, khối lượng của LLSX, thậm chí phá vỡ LLSX. Biểu hiện 2 trường hợp: 1 là, QHSX lạc hậu lỗi thời so trình độ mới LLSX; 2 là, QHSX hình thành không đồng bộ, có những yếu tố vượt trước, tình trạng hiện có LLSX do chủ thể áp đặc một cách chủ quan.

QHSX quy định mục đích của SX, quy định tổ chức, QL SX và tđ trực tiếp vào lợi ích của các bên tham gia SX, lợi ích của người lđ, của chủ đầu tư, của XH, từ đó hình thành hệ thống những yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của LLSX.

Tóm lại, quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại, sự thay thế phát triển đi lên của lịch sử xã hội loài người, từ chế độ công xã nguyên thủy qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ TBCN và đến XHCS tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật cơ bản nhất.

2. Cơ sở thực tiễn, sự vận dụng của Đảng.

* Trước Đại hội VI, Những sai lầm chủ quan duy ý chí trước thời kỳ đổi mới: do nóng vội chủ quan duy ý chí, nhận thức chưa đúng quy luật khách quan Đảng ta đã sai lầm cho rằng đối với một nước lạc hậu trình độ LLSX còn thấp như nước ta để tiến lên CNXH thì QHSX XHCN tiên tiến có thể đi trước mở đường cho LLSX phát triển nhanh lên hiện đại.

- Chủ trương xây dựng sớm một nền kinh tế XHCN thuần nhất với hai hình thức sở hữu: tập thể và nhà nước, trong khi trình độ LLSX còn thấp kém và phát triển không đồng đều là chủ trương nóng vội chủ quan duy ý chí.

- Sai lầm trong XD QHSX: Chúng ta cũng không thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ; không chấp nhận kinh tế thị trường, đa dạng hoá hình thức sở hữu, quản lý, phân phối. Không thấy được đòi hỏi của LLSX đang ở trong tình trạng đan xen nhiều trình độ, tính chất khác nhau để xác lập quan hệ sản xuất. Chúng ta cũng đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp vào QHSX vốn đã xác lập không phù hợp với LLSX, do đó cơ chế này đã làm ngưng động tính sáng tạo của người lao động, kìm hãm LLSX

Từ những lệch lạc trong nhận thức đã dẫn tới sai lầm trong thực tiễn cụ thể:

+ Một là, xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất một cách ồ ạt trong khi chế độ đó đang tạo địa bàn cho sự phát triển LLSX.

+ Hai là, xây dựng chế độ công hữu về TLSX một cách tràn lan trong khi trình độ LLSX còn thấp kém và phát triển không đồng đều. Từ nhận thức sai lầm này trong thực tế đường lối chính sách của Đảng và nhà nước ta trong giai đoạn này chỉ chú ý đến việc XD QHSX mới mà không quan tâm đến việc phát triển LLSX, do đó đã kéo dài quá lâu trình độ sản xuất thấp, thủ công, đầu tư công nghiệp nặng không đúng hướng, dàn đều, tràn lan, không chú ý đầu tư chiều sâu.

Trên thực tế cho đến nay tất cả các nước đi theo con đường XHCN ko phải từ những nước tư bản phát triển cao, mà từ những nước tư bản ở trình độ phát triển trung bình và thấp hoặc chưa trải qua gđ TBCN và sự phát triển lịch sử. Trong tình trạng đó đã vội vàng xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu SX, thiết lập 1 cách tràn lan chế độ công hữu tức là áp đặt 1 QHSX cao hơn khi LLSX chưa đòi hỏi. Cảnh báo về sai lầm này, C. Mác viết “ko 1 hình thái XH nào diệt vong trước khi tất cả những LLSX mà hình thái XH đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, và những QHSX mới, cao hơn, cũng ko bao giờ xuất hiện trước khi những đk tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân XH cũ”

Trong XD QHSX mới, QHSX XHCN, về thực chất, chúng ta mới xác lập được chế độ sở hữu, còn tính chất QL và phân phối ntn cho phù hợp với chế độ sở hữu đó còn rất nhiều hạn chế. Sự tồn tại trong 1 tg khá dài QHSX thiếu đồng bộ đó cũng là 1 hạn chế, 1 lệch lạc cần phải khắc phục. Chính việc nóng vội XD QHSX không phù hợp với LLSX đã làm kìm hãm, phá hoại sự phát triển của LLSX, làm then chốt động lực thúc đẩy sự phát triển của LLSX. Cương lĩnh XD đất nước trong TKQĐ lên CNXH (Đại hội VII–1991) khẳng định ngoài những sai lầm trong cải tạo XHCN, chúng ta còn có những sai lầm khác như: có lúc đẩy mạnh quá mức việc XD công nghiệp nặng, duy trì quá lâu cơ chế QL kte quan liêu, bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá - lương - tiền.

Bên cạnh đó, do cách hiểu sai lầm về việc bỏ qua chế độ TBCN, Đảng và NN ta đã bỏ qua những thành tựu KHKT không kế thừa và vận dụng, bỏ qua những kinh nghiệm, hình thức, bước đi của CNTB nên không tận dụng được những tiến bộ, tiền đề vật chất, kinh nghiệm, QL điều hành nền kte SX lớn nào. Từ những lệch lạc sai lầm chủ quan đó đã dẫn đến khủng hoảng kte - XH trầm trọng, lạm phát đạt đến mức khủng khiếp 774%, SX bị đình trệ.

* Phương hướng khắc phục từ sau Đại hội VI đến nay.

Để khắc phục những sai lầm, khuyết điểm trên, tại Đại hội VI Đảng ta đã đưa ra quan điểm đổi mới toàn diện, trong đó đặc biệt chú ý đổi mới nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, trong đó có quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.

Cái thiếu lớn nhất của chúng ta kể từ khi bước vào thời kỳ quá độ là thiếu một LLSX phát triển hiện đại để đảm bảo cho nền kinh tế tăng nhanh và bền vững. Việc phát triển LLSX chỉ có thể thực hiện được khi chúng ta tăng cường tính khoa học hiện đại vào trong LLSX vì vậy:

- Một là, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH và xem đây là trọng tâm của suốt thời kỳ quá độ. Như vậy, thực chất của việc phát triển LLSX ở nước ta hiện nay là phải phát triển khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ, cải tiến công cụ LĐ, mở rộng đối tượng lao động, chấn hưng nền giáo dục, phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao trong qua công cuộc CNH, HĐH đất nước.

- Hai là, Đảng ta chủ trương chuyển từ một nền kinh tế thuần nhất CNXH sang nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Hiện nay, nhìn chung trình độ của LLSX ở nước ta là khá đa dạng, không đồng đều nhiều trình độ, điều này được thể hiện ở chỗ về:

+ Công cụ lao động ở nước ta là rất đa dạng, công cụ lao động thủ công chiếm phần lớn trong nông nghiệp, còn trong công nghiệp lao động giản đơn chiếm đến 60%. Nhưng bên cạnh đó, ta cũng đã có công cụ lao động trình độ cơ khí hóa, hiện đại hóa, tự động hóa thích ứng với nhiều loại trình độ lao động.

+ Kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người VN cũng rất khác nhau. Trình độ tổ chức và phân công lao động, trình độ ứng dụng KHKT vào SX ở VN hiện nay trong những cơ sở SX khác nhau cũng rất khác nhau.

- Ba là, KHKT ở nước ta nhìn chung là thấp, chậm phát triển nhưng cũng có yếu tố hiện đại đi trước đón đầu.

LLSX ở nước ta hiện nay đa dạng không đồng đều nhiều trình độ. Do đó, một lôgic tất yếu đối với QHSX cũng phải đa dạng, điều đó có nghĩa là chúng ta phải XD nền kinh tế nhiều thành phần. Cụ thể theo văn kiện đại hội XI hiện nay nước ta có 4 thành phần kinh tế: KT nhà nước, KT tập thể, KT tư nhân, KT có vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình thức tổ chức quản lý và nhiều hình thức phân phối.

Đại hội IX của Đảng tiếp tục các quan điểm của các đại hội VI, VII, VIII, đã chỉ rõ:

“Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX”.

“phát triển LLSX hiện đại, gắn liền với QHSX mới phù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối”

“Đẩy mạnh CNH-HĐH, ưu tiên phát triển LLSX, đồng thời xây dựng QHSX phù hợp theo định hướng XHCN”.

“Gắn chặt việc xây dựng nền KT độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”.

Đến Đại hội X, Đảng ta đã chỉ rõ XD nền kinh tế phát triển cao, dựa trên LLSX hiện đại và QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX .

Quan điểm ấy đã được Đại hội XI tiếp tục khẳng định “Phát triển mạnh mẽ LLSX với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện QHSX trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”./.

Sản xuất giá trị thặng dư

KN: GTTD

Là 1 bộ phận của gtri mới dôi ra ngoài gtri sức lđ do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm ko, ký hiệu là m. GTTD là lđ ko công của công nhân làm thuê, thể hiện bản chất bóc lột của QHSX TBCN. Quá trình sx GTTD là quá trình sx giá trị nhưng kéo dài quá 1 điểm mà nếu dừng lại tại điểm đó thì lượng gtri mới do công nhân làm thuê tạo ra mới đạt mức ngang bằng giá trị sức lđ

2 pp sx GTTD: định nghĩa, đk của nó, trình bày bằng lời và tính toán (cho vd).

- SX GTTD tuyệt đối là GTTD thu được do kéo dài tg lđ vượt quá tg lđ tất yếu, trong khi năng suất lđ, giá trị sức lđ và tg lđ tất yếu ko thay đổi.

VD: ngày lđ là 8h, trong đó tg lđ tất yếu t là 4h, tg lđ thặng dư t’ là 4h và tỷ suất GTTD là m’=(t/t’)x100%=100%. Giả định bây giờ ngày lđ kéo dài thêm 2h nữa, trong khi các đk khác ko thay đổi thì tg lđ thặng dư tăng lên thành 6h và m’=(t/t’)x100%=150%. t t’

- SX GTTD tương đối là GTTD thu được do rút ngắn tg lđ tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lđ trong các ngành sx ra tư liệu sinh hoạt để hạ thấp gtri sức lđ nhờ đó tăng tg lđ thặng dư trong đk độ dài ngày lđ ko đổi.

VD: ngày lđ là 8h, trong đó tg lđ tất yếu t là 4h, tg lđ thặng dư t’ là 4h và tỷ suất GTTD là m’=(t/t’)x100%=100%. Giả sử tg lđ tất yếu rút ngắn lại còn 2h thì tg lđ thặng dư là 6h nên m’=(t/t’)x100%=300%. t và t’

- SX GTTD siêu ngạch là GTTD thu được ngoài mức trung bình của XH do nâng cao năng suất lđ cá biệt, hạ thấp chi phí cá biệt (là biến tướng của sx GTTD tương đối).

- So sánh GTTD tương đối và siêu ngạch:

GTTD tương đối

GTTD siêu ngạch

- Do tăng năng suất lđ XH

- Do tăng năng suất lđ cá biệt

- Toàn bộ các nhà tư bản thu

- 1 số nhà tư bản thu

- Biểu hiện quan hệ giữa công nhân và tư bản

- Biểu hiện quan hệ giữa công nhân và tư bản, tư bản với tư bản

So sánh 2 pp: (sgk)

- Giống nhau:

Các phạm trù tg lđ tất yếu, tg lđ thặng dư; gtri và gtri sd của hàng hóa sức lđ; tỷ suất GTTD và khối lượng GTTD, tư bản bất biến và tư bản khả biến ... hoàn toàn phù hợp với cả 2 pp ấy.

Cùng đòi hỏi 1 trình độ nhất định về năng suất lđ, cường độ lđ và độ dài ngày lđ.

Cả GTTD tuyệt đối và GTTD tương đối đều là 1 bộ phận gtri mới do lđ của công nhân tạo ra, dư ra ngoài gtri sức lđ.

Đều nhằm tìm kiếm GTTD nhiều hơn, tăng tỷ suất GTTD, nâng cao trình độ bốc lột GTTD, tg lđ thặng dư tăng lên.

Đòi hỏi độ dài ngày lđ nhất định, cường độ lđ và năng suất lđ nhất định.

- Khác nhau:

PP SX GTTD tuyệt đối

PP SX GTTD tương đối

- Kéo dài ngày lđ (hay tăng cường độ lđ) trong khi năng suất lđ, gtri sức lđ và tg lđ tất yếu ko thay đổi;

- Rút ngắn tg lđ tất yếu trên cơ sở hạ thấp gtri hàng hóa sức lđ nhờ giảm gtri các tư liệu sinh hoạt cần thiết, do đó kéo dài tg lđ thặng dư, trong khi độ dài ngày lđ ko đổi, thậm chí có thể rút ngắn (tăng năng suất lđ);

- Có giới hạn vì tg ngày lđ ko thể dài bằng độ dài của ngày tự nhiên do công nhân còn phải nghỉ ngơi, ngủ,...;

- Ko có giới hạn;

- Trong thời kỳ đầu của CNTB khi lđ thủ công còn phổ biến, năng suất lđ thấp thì pp sx GTTD tuyệt đối chiếm ưu thế.

- Trong gđ cao của CNTB, nhờ ứng dụng các thành tựu KHCN hiện đại, năng suất lđ tăng cao thì pp sx GTTD tương đối chiếm ưu thế.

Trong thực tế, các nhà tư bản thường áp dụng cả 2 pp ấy.

SX GTTD hay lợi nhuận là quy luật tuyệt đối của phương thức sx TBCN

- Nội dung củ