Upload
donhi
View
216
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Nghiên cứu đo liều bức xạ môi trường bằng
Detector nhiệt huỳnh quang LiF(Mg, Cu, P).
Nguyễn Thị Viển
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
Luận văn Thạc sĩ ngành: Vật lý nguyên tử, hạt nhân và năng lượng cao
Mã số: 60 44 05
Người hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Quang Miên
Năm bảo vệ: 2012
Abstract: Trình bày khái quát về: Phân bố các nguyên tố phong xạ trong môi trường;
Liều bức xạ môi trường; Hiện tượng nhiệt huỳnh quang; Liều kế nhiệt huỳnh quang
LiF (Mg, Cu, P). Tiến hành thực nghiệm đo liều bức xạ môi trường bằng liều kế nhiệt
huỳnh quang LiF (Mg, Cu, P) bao gồm: Gia công chế tạo mẫu đo; Xây dựng cấu hình
phép đo nhiệt huỳnh quang;Đo tín hiệu nhiệt huỳnh quang trên hệ đo RGD – 3A;
Dạng phổ của nhiệt huỳnh quang từ liều kế chuẩn; Phổ nhiệt huỳnh quang của các liều
kế đo bức xạ môi trường. Kết quả thực nghiệm: Xác định độ nhạy nhiệt huỳnh quang
của phép đo; Xác định tổng liều chiếu xạ lên mẫu môi trường; Xác định suất liều môi
trường
Keywords: Nhiệt huỳnh quang; Bức xạ môi trường; Vật lý nguyên tử
Content
MỞ ĐẦU
Tác hại của bức xạ môi trường đến sức khoẻ con người là hết sức nguy hiểm. Các bức
xạ có thể làm cho nhiều men sống quan trọng, nhiều tuyến trong cơ thể và các tế bào bị huỷ
hoại. Để biết được những tác động có hại của bức xạ lên cơ thể người ta căn cứ vào các yếu tố
như vị trí tác động, liều lượng tác động, trạng thái.
Các nhà khoa học cảnh báo điều cần thiết và cấp bách là phải điều tra, đánh giá phông
bức xạ tự nhiên môi trường nhằm xác định giá trị tổng liều tương đương trung bình năm của
bức xạ tự nhiên lên cộng đồng dân cư. Với ý nghĩa thiết thực đó, đề tài này tập trung vào việc
xác định liều bức xạ môi trường dựa vào Detector nhiệt huỳnh quang. Thông qua việc xác
định này, sẽ đưa ra các đánh giá cụ thể và một số nhận xét về kết quả với mục đích làm chính
xác hóa liều bức xạ môi trường hằng năm làm tiền đề cho các nghiên cứu chính xác hơn trong
tương lai.
Hiện tượng nhiệt huỳnh quang – TL (Thermoluminescence), hay còn gọi là quá trình
phát quang cưỡng bức nhiệt, là hiện tượng đã và đang thu được nhiều thành công trong các
2
lĩnh vực như (xác định tuổi, kiểm soát liều bức xạ môi trường, đo liều cá nhân, nghiên cứu
cấu trúc vật liệu ...)
Có nhiều vật liệu được sử dụng đo liều bức xạ như các hợp chất liti florua (LiF), liti
borat (Li2B2O7), canxi florua (CaF2)….Trong đề tài nghiên cứu về đo liều bức xạ môi trường
này tôi lựa chọn liều kế nhiệt huỳnh quang LiF(Mg,Cu,P) để đo. Việc nghiên cứu các đặc
tính của vật liệu này cũng sẽ mang lại nhiều điều bổ ích và thiết thực đóng góp vào việc
nghiên cứu thực nghiệm của các công trình sau này.
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA PHƢƠNG PHÁP
Phân bố các nguyên tố phóng xạ trong môi trƣờng
1.1.1. Phân bố phóng xạ trong tự nhiên
Sau sự kiện Big Bang là quá trình hình thành mặt trời và hệ thống hành tinh của chúng
ta. Trong đám tro bụi đó một lượng lớn các chất phóng xạ có mặt trên Trái Đất. Theo thời
gian, đa số các nguyên tố phóng xạ này phân rã và trở thành những nguyên tố bền vững là
thành phần vật liệu chính của hệ thống hành tinh chúng ta hiện nay. Tuy nhiên, trong vỏ Trái
Đất vẫn còn những nguyên tố Uranium, Thorium, con cháu của chúng và một số các nguyên
tố khác. Chuỗi các nguyên tố này tạo thành những họ phóng xạ tự nhiên, đó là họ Uranium,
họ Thorium và họ Actinium. Tất cả các thành viên của các họ phóng xạ này trừ nguyên tố
cuối cùng đều có tính phóng xạ.
Uranium gồm các đồng vị: Uranium-238 chiếm 99,3% Uranium thiên nhiên, khoảng
0,7% là Uranium-235 và khoảng 0.005% là Uranium-234. U-238 và U-234 là các đồng vị
phóng xạ thuộc họ Uranium, còn U-235 là đồng vị phóng xạ thuộc họ Actinium.
Các họ phóng xạ tự nhiên có các đặc điểm:
- Đồng vị đầu tiên của họ có chu kỳ bán rã lớn
- Các họ này đều có một đồng vị tồn tại dưới dạng khí, các chất khí phóng xạ này là
các đồng vị của radon.
- Sản phẩm cuối cùng trong các họ phóng xạ là Chì.
Nguyên tố phóng xạ có ở khắp mọi nơi trên Trái Đất, trong đất, trong nước và trong
không khí. Theo nguồn gốc, các nguyên tố phóng xạ có thể được chia thành 3 loại: loại được
hình thành từ trước khi trái đất hình thành; loại được tạo thành do tương tác của tia vũ trụ với
vật chất; loại được tạo thành do hoạt động của con người.
Các hạt nhân phóng xạ được tạo thành và tồn tại một cách tự nhiên trong đất, nước và
trong không khí, thậm chí trong chính cơ thể chúng ta.
3
Các đồng vị phóng xạ tự nhiên chủ yếu thuộc 3 chuỗi phóng xạ, đó là chuỗi 232
Th, chuỗi 238
U
và chuỗi 235
U.
Trong tự nhiên, ngoài ba dãy phóng xạ trên còn một số các nguyên tố phóng xạ tự nhiên khác
không tạo thành dãy phóng xạ như K40
. Ngoài ra còn có các đồng vị C14
, H3, Cs
137.... Đây là
loại đồng vị được hình thành do sự tương tác giữa tia vũ trụ với những nguyên tố trong khí
quyển.
1.1.2. Tƣơng tác của tia phóng xạ với vật chất
Tia phóng xạ theo nghĩa gốc là các dòng hạt chuyển động nhanh phóng ra từ các chất
phóng xạ (các chất chứa các hạt nhân nguyên tử không ở trạng thái cân bằng bền). Các hạt
phóng ra có thể chuyển động thành dòng định hướng. Các tia phóng xạ có bản chất giống như
ánh sáng thường nhưng không thể nhìn thấy và có mức năng lượng cao hơn mức năng lượng
của ánh sáng thường.
Các tia phóng xạ có khả năng đi xuyên qua vật chất và có khả năng giải phóng điện tử
ra khỏi nguyên tử vật chất để trở thành điện tử tự do làm thay đổi tính chất của vật trở thành
dẫn điện. Đó còn được gọi là khả năng ion hóa của các tia phóng xạ.
1.2. Liều bức xạ môi trƣờng.
1.2.1 Tác dụng của các tia bức xạ đối với sức khoẻ con ngƣời.
Tác dụng sinh học của bức xạ hạt nhân có nhiều hình thức khác nhau, đối với sức khỏe
con người thì quan trọng nhất là các dạng có thể xuyên qua cơ thể và gây ra hiệu ứng ion hoá .
Nếu bức xạ ion hoá thấm vào các mô sống, các iôn được tạo ra đôi khi ảnh hưởng đến quá
trình sinh học bình thường. Tiếp xúc với bất kỳ loại nào trong số các loại bức xạ ion hoá, bức
xạ alpha, beta, các tia gamma, tia X và nơtron, đều có thể ảnh hưởng tới sức khoẻ.
Bức xạ Alpha: Hạt alpha do những đồng vị phóng xạ nhất định phát ra khi chúng
phân huỷ thành một nguyên tố bền. Nó gồm hai proton và hai notron, nó mang điện dương .
Trong không gian, bức xạ alpha không có khả năng truyền xa và dễ dàng bị cản lại toàn bộ chỉ
bởi một tờ giấy hoặc bởi lớp màng ngoài của da. Tuy nhiên, nếu một chất phát tia Alpha được
đưa vào trong cơ thể, nó sẽ phát ra năng lượng tới các tế bào xung quanh.
Bức xạ Beta: Bao gồm các electron nhỏ hơn rất nhiều so với các hạt alpha và nó có
thể thấm sâu hơn. Bức xạ bêta có thể bị cản lại bởi tấm kim loại, tấm kính hay chỉ bởi lớp
quần áo bình thường. Nó cũng có thể xuyên qua được lớp ngoài của da và khi đó nó sẽ làm
tổn thương lớp da bảo vệ.
Bức xạ Gamma: Bức xạ gamma là năng lượng sóng điện từ. Nó đi được khoảng cách
lớn trong không khí và có độ xuyên mạnh. Khi tia gamma bắt đầu đi vào vật chất, cường độ
của nó cũng bắt đầu giảm.
4
Bức xạ tia X: Bức xạ tia X tương tự như bức xạ gamma, nhưng bức xạ gamma được
phát ra bởi hạt nhân nguyên tử, còn tia X do con người tạo ra trong một ống tia X mà bản thân
nó không có tính phóng xạ.
Bức xạ Nơtron: Bức xạ nơtron được tạo ra trong quá trình phát điện hạt nhân, bản
thân nó không phải là bức xạ ion hoá, nhưng nếu va chạm với các hạt nhân khác, nó có thể
kích hoạt các hạt nhân hoặc gây ra tia gamma hay các hạt điện tích thứ cấp gián tiếp gây ra
bức xạ ion hoá.
Các bức xạ ion hóa góp phần vào việc ion hóa các phần tử trong cơ thể sống, tùy theo
liều lượng nhận được và loại bức xạ, hiệu ứng của chúng có thể gây hại ít nhiều cho cơ thể.
Có hai cơ chế tác động bức xạ lên cơ thể con người:
Cơ chế trực tiếp: bức xạ trực tiếp gây iôn hóa các phân tử trong tế bào làm đứt gãy
liên kết trong các gen, các nhiễm sắc thể, làm sai lệch cấu trúc và tổn thương đến chức năng
của tế bào.
Cơ chế gián tiếp: Khi phân tử nước trong cơ thể bị ion hóa sẽ tạo ra các gốc tự do, các
gốc này có hoạt tính hóa học mạnh sẽ hủy hoại các thành phần hữu cơ trong tế bào, như các
enzyme, protein, lipid trong tế bào và phân tử ADN, làm tê liệt các chức năng của các tế bào
lành khác. Khi số tế bào bị hại, bị chết vượt quá khả năng phục hồi của mô hay cơ quan thì
chức năng của mô hay cơ quan sẽ bị rối loạn hoặc tê liệt, gây ảnh hưởng đến sức khỏe.
Hiệu ứng tức thời: Khi cơ thể nhận được một sự chiếu xạ mạnh bởi các bức xạ ion
hóa, và trong một thời gian ngắn sẽ gây ra hiệu ứng tức thời lên cơ thể sống. Làm ảnh hưởng
trực tiếp đến hệ mạch máu, hệ tiêu hóa, hệ thần kinh trung ương. Các ảnh hưởng trên đều có
chung một số triệu chứng như: buồn nôn, ói mửa, mệt mỏi, sốt, thay đổi về máu và những
thay đổi khác. Đối với da, liều cao của tia X gây ra ban đỏ, rụng tóc, bỏng, hoại tử, loét, đối
với tuyến sinh dục gây vô sinh tạm thời .
Hiệu ứng lâu dài: Chiếu xạ bằng các bức xạ ion hóa với liều lượng cao hay thấp đều
có thể gây nên các hiệu ứng lâu dài dưới dạng các bệnh ung thư, bệnh máu trắng, ung thư
xương, ung thư phổi, đục thủy tinh thể, giảm thọ, rối loạn di truyền... Bức xạ từ tia α khi đi
vào cơ thể mô sống, chúng sẽ bị hãm lại một cách nhanh chóng và truyền năng lượng của
chúng ngay tại chỗ. Vì vậy với cùng một liều lượng như nhau, nhưng tia α nguy hiểm hơn so
với các tia β, γ là các bức xạ đi sâu vào sâu bên trong cơ thể và truyền từng phần năng lượng
trên đường đi.
1.2.2. Một số kết quả đo liều môi trƣờng trên thế giới
Năm 1981, Mỹ đã công bố tài liệu đánh giá tổng liều chiếu hàng năm của phông bức
xạ tự nhiên lên cơ thể con người trên toàn quốc (Bảng 1.2)
5
Bảng 1.2. Tổng liều chiếu hàng năm của phông bức xạ tự nhiên ở Mỹ [13]
Nguồn bức xạ Suất liều chiếu (mSv/người)
- Bức xạ tia vũ trụ 0,45
- Bức xạ trên mặt đất
+ Chiếu ngoài 0,60
+ Chiếu trong 0,25
Tổng cộng 1,30
Từ năm 1993, các nước Bắc Âu gồm Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy, Ireland và Thụy
Điển đã công bố kết quả điều tra suất liều hiệu dụng của phông bức xạ tự nhiên trung bình
hàng năm lên cộng đồng (Bảng 1.3)
Bảng 1.3. Kết quả điều tra suất liều hiệu dụng của phông bức xạ tự nhiên trung bình
hàng năm lên cộng đồng ở một số nƣớc Bắc Âu .
Loại nguồn Phần
Lan
Thụy
Điển
Đan
Mạch Na Uy Ireland
- Bức xạ gamma từ đất, vật liệu
xây dựng (mSv)
0,5
0,5
0,3
0,5
0,2
- Hàm lượng radon trong nhà và
nơi làm việc (mSv)
2,0
1,9
1,0
1,7
0,2
- Các nguyên tố phóng xạ trong
cơ thể (mSv)
0,3
0,3
0,30
0,35
0,3
- Bức xạ vũ trụ (mSv) 0,3 0,3 0,3 0,3 0,3
Tổng cộng (mSv) 3,1 3,0 1,9 2,85 1,0
1.2.3. Các đơn vị đo liều bức xạ môi trƣờng
Trong quá trình phân rã nguyên tố phóng xạ sẽ phát ra các tia phóng xạ, dưới dạng
bức xạ anpha, bức xạ bêta, bức xạ gamma, bức xạ nơtron hay các mảnh phân chia… Khi tác
dụng với môi trường vật chất, các bức xạ này có những khả năng gây ra sự ion hóa khác nhau.
Và, để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các loại tia bức xạ này, các nhà khoa học hạt nhân đã
đưa ra khái niệm liều bức xạ hạt nhân. Bao gồm:
1.2.3.1. Liều chiếu và suất liều chiếu
6
+) Liều chiếu (tia X và tia gamma) là tổng số điện tích cùng dấu được sinh ra khi tất
cả các hạt mang điện (electron và ion dương) được giải phóng bởi photon trong một thể tích
không khí chia cho khối lượng của không khí trong thể tích đó.
ch
dQD
dm (1.1)
trong đó :
dQ là tổng điện tích cùng dấu sinh ra trong thể tích không khí.
dm là khối lượng của thể tích không khí đó.
+) Suất liều chiếu là liều chiếu tính cho một đơn vị thời gian.
Đơn vị thường dùng : liều chiếu (R), suất liều chiếu (R/s)
1.2.3.2. Liều hấp thụ và suất liều hấp thụ
+) Liều hấp thụ là năng lượng bức xạ bị hấp thụ trên đơn vị khối lượng của đối tượng
bị chiếu xạ.
ht
dED
dm (1.2)
Trong đó: dE là năng lượng truyền trung bình của bức xạ ion hóa cho vật chất có khối lượng
dm.
+) Suất liều hấp thụ là liều hấp thụ trong một đơn vị thời gian.
Đơn vị thường dùng: Gray, kí hiệu Gy
1Gy = 1J/kg = 100rad
1rad = 100 erg/g ( 1rad là một lượng bức xạ đi qua vật chất truyền năng lượng 100erg
cho 1 g vật chất)
1.2.3.3. Liều tƣơng đƣơng và hệ số phẩm chất
+) Liều tương đương bằng liều hấp thụ nhân với hệ số phẩm chất
+) Hệ số phẩm chất: mỗi loại bức xạ có khả năng ion hóa khác nhau và được đặc
trưng bởi một đại lượng gọi là hệ số phẩm chất, kí hiệu Q.
Đơn vị : rem (Roentgen Equivalent Man)
1rem = 1rad. Q
Trong hệ SI : liều tương đương sinh học có đơn vị là Sievert (Sv)
1Sv = 1Gy*Q = 100rem.
1.3. Hiện tƣợng nhiệt huỳnh quang.
1.3.1. Lịch sử phát triển :
Năm 1930 Urbanh đã trình bày những khám phá đầu tiên của mình về hiện tượng
nhiệt phát quang. Tuy nhiên, chỉ cho đến năm 1945, khi nhóm các nhà khoa học thuộc trường
7
đại học tổng hợp Birmingham (Anh) là Randall và Wilkins, Galick và Gibson (1948) trình
bày hệ thống về những kết quả nghiên cứu nhiệt phát quang thì đó mới thực sự có ý nghĩa và
đã trở thành lý thuyết chung mở đường cho lĩnh vực nghiên cứu nhiệt phát quang.
Bất kỳ vật nào có nhiệt độ cao hơn nhiệt độ của môi trường xung quanh thì đều có
khả năng phát ra bức xạ điện từ. Nhiệt độ của vật nhỏ, bức xạ do nó phát ra nằm trong vùng
hồng ngoại, có tần số thấp. Hiện tượng vật bức xạ ra sóng điện từ khi được nung nóng được
gọi là hiện tượng bức xạ nhiệt, phổ nhiệt độ phát ra chỉ phụ thuộc vào nhiệt độ của vật.
Cùng với mục đích ứng dụng đo liều bức xạ ion hóa, kiểm soát môi trường phóng xạ,
xác định tuổi của cổ vật…Phương pháp nhiệt phát quang hiện nay đã bắt đầu trở thành
phương pháp phổ biến thông dụng để nghiên cứu cấu trúc vật liệu hay sự phân bố của các bẫy
bắt điện tử trong vật liệu nhờ các kỹ thuật tương đối đơn giản.
1.3.2. Cơ chế hoạt động nhiệt huỳnh quang
Nhiệt huỳnh quang là hiện tượng các chất cách điện (điện môi) hoặc chất bán dẫn
điện phát ra ánh sáng khi bị nung nóng nếu như trước đó các vật liệu này đã được chiếu xạ
bởi các bức xạ ion hóa như: tia X, tia anpha, tia beta, tia gamma...
Như vậy, đối với vật liệu nhiệt phát quang ta cần lưu ý những điều sau:
- Vật liệu phải là chất điện môi hay bán dẫn.
- Vật liệu đã có khoảng thời gian hấp thụ năng lượng trong quá trình được phơi chiếu
bởi bức xạ ion hóa.
- Nhiệt chỉ đóng vai trò kích thích chứ không phải là nguyên nhân chính gây sự phát
quang.
- Các vật liệu này sau khi đã được kích thích nhiệt để phát quang thì khi nâng nhiệt
một lần nữa cũng sẽ không phát quang, do electron đã thoát ra khỏi bẫy. Nếu muốn phát
quang thì vật liệu cần chiếu xạ lần nữa.
Mô hình cấu trúc các vùng hoạt động năng lượng của hiện tượng nhiệt huỳnh quang.
: Điện tử E b d
: Lỗ trống De
a Ef
hv’
e Dh
Vùng dẫn
Vùng hoá trị
8
hv
Hình 1.1: Mô hình năng lƣợng thể hiện những vị trí của điện tử trong vật liệu
nhiệt phát quang (theo Aitken M.J.1985)
Quá trình phát huỳnh quang sẽ có thời gian trì hoãn bằng thời gian của các electron
trong bẫy với phương trình
P = τ-1
= se-E/kT
Ở đây:
p là xác suất giải phóng electron khỏi bẫy do tác động nhiệt
s là hệ số tần số thoát có thứ nguyên là giây-1
.
Hiện tượng phát quang xảy ra là do chúng ta đã cung cấp năng lượng cho các electron
dưới dạng nhiệt làm cho các điện tử này thoát khỏi hố bẫy và chuyển dịch về mức cơ bản
cùng với đó là phát ra những phôtôn ánh sáng trong miền khả kiến.
1.4. Liều kế nhiệt huỳnh quang LiF(Mg, Cu, P)
1.4.1. Đặc trƣng nhiệt huỳnh quang của LiF(Mg,Cu,P)
1.4.1.1. Nhóm vật liệu gốc lithium florua
Nhóm vật liệu gốc lithium florua (LiF) bao gồm có hai họ vật liệu phổ biến là
LiF:Mg,Ti (ký hiệu thương phẩm là TLD-100) và LiF:(Mg,Cu,P).
Tương tự như các loại vật liệu nhiệt huỳnh quang khác, dạng đường cong của
LiF:Mg,Cu,P thay đổi tùy theo nồng độ của chất tạo khuyết tật và phương pháp gia công xử lý
nhiệt độ mẫu.
Ngoài ra đường cong nhiệt huỳnh quang của LiF : (Mg,Cu,P) cũng có thể bị thay đổi
bởi cách xử lý nhiệt khác nhau.
Khi vật liệu được nung ở nhiệt độ cao hơn 2400C sẽ gây ra một vài thay đổi về hình
dạng của đường cong nhiệt huỳnh quang.
Ngoài ra khi được chiếu bởi nguồn nơ-tron nhiệt, dạng của đường cong
LiF:(Mg,Cu,P) không có sự thay đổi rõ ràng. Điều này khác với TLD-100 ở đó các đỉnh nhiệt
độ cao hơn tăng theo sự chiếu xạ nơ-tron nhiệt.
1.4.1.2. Phổ phát xạ nhiệt huỳnh quang
Bước sóng phát ra của LiF :Mg,Cu,P ngắn hơn so với bước sóng phát ra của vật liệu
TLD-100
Với nồng độ khác nhau, độ nhạy nhiệt huỳnh quang và dạng của đường cong thay đổi
nhiều trong khi đó phổ phát xạ thay đổi ít.
9
1.4.1.3. Đáp ứng liều
Một trong những đòi hỏi nghiêm ngặt đối với vật liệu nhiệt huỳnh quang dùng trong
đo liều phóng xạ là phải có độ tuyến tính tốt trong vùng liều đo. Khái niệm này còn được hiểu
là đáp ứng liều của vật liệu nhiệt huỳnh quang.
Sự tương ứng liều phụ thuộc mạnh vào các chất pha tạp (dopants).
Các kết quả thí nghiệm đã chỉ ra rằng đối với tinh thể LiF chỉ có chất pha tạp là Mg,
đáp ứng liều là tuyến tính, nhưng khi pha thêm chất pha tạp thứ hai chẳng hạn đồng (Cu) đáp
ứng liều trở nên ít tuyến tính hơn.
1.4.2 Xử lí nhiệt cho vật liệu nhiệt huỳnh quang
LiF(Mg,Cu,P) rất nhạy với xử lí nhiệt. Việc nung nóng cao hơn 2450C trước khi chiếu
xạ sẽ có thể làm thay đổi cấu trúc vật liệu và làm suy giảm độ nhạy nhiệt huỳnh quang của nó.
1.4.3. Một số đặc trƣng cơ bản của vật liệu nhiệt huỳnh quang
Lúc đầu, vật liệu LiF:Mg,Cu,P rất dễ bị ảnh hưởng bởi không khí ẩm. Tuy nhiên, hiện
nay sau nhiều cải tiến, liều kế loại này không còn bị ảnh hưởng bởi không khí ẩm nữa. Tốc độ
làm lạnh cũng cần phải được chú ý trong việc xử lí nhiệt. Nó ảnh hưởng đến dạng đường cong
nhiệt huỳnh quang cũng như độ nhạy nhiệt huỳnh quang của mẫu. Việc làm lạnh sau khi nung
nên tiến hành càng nhanh càng tốt để tránh làm giảm độ nhạy nhiệt huỳnh quang. Trong ứng
dụng thực tế, cần đặc biệt chú ý đối với vấn đề xử lí nhiệt, thường không quá 2400C và không
thực hiện trong thời gian dài.
Nói chung, trong các loại vật liệu nhiệt huỳnh quang đang được sử dụng phổ biến, có
thể phân chia thành 2 loại: một loại có sự tương đương mô tốt nhưng độ nhạy nhiệt huỳnh
quang tương đối thấp chẳng hạn LiF:Mg,Ti (TLD-100), BeO và loại còn lại là có độ nhạy
nhiệt huỳnh quang cao phụ thuộc năng lượng thấp như CaSO4 và CaF2. LiF:Mg,Cu,P là loại
vật liệu kết hợp được hai ưu điểm của hai loại vật liệu trên, nó có độ nhạy nhiệt huỳnh quang
cao và phụ thuộc năng lượng tốt.
1.4.4. Nguyên lí chung về đo tín hiệu nhiệt huỳnh quang
Sơ đồ nguyên lý chung bố trí các phần tử hợp thành trong một hệ thống đo nhiệt
huỳnh quang được chỉ trong Hình 1.2
10
Hình 1.2: Sơ đồ nguyên lý chung của một hệ thống đo nhiệt huỳnh
quang (theo Aitken M.J.1985)
Hình trên cho thấy, điều lưu ý là trong hệ đo nhiệt huỳnh quang, ngoài ống nhân
quang điện và các bộ phận xử lý tín hiệu như máy đo phóng xạ thông thường còn có bộ phận
nung và xử lý nhiệt độ
1.5 Tình hình nghiên cứu và vấn đề quan tâm của luận văn
1.5.1 Tình hình nghiên cứu ngoài nƣớc
Hiện nay, vật liệu nhiệt huỳnh quang LiF:Mg,Cu,P đã được sử dụng rộng rãi trong
lĩnh vực đo liều lượng bức xạ. Các nghiên cứu về vật liệu này đã đạt được nhiều sự tiến bộ ở
nhiều phòng thí nghiệm trên thế giới. Trong suốt 10 năm, từ năm 1978 đến năm 1988, đã có
một số bài báo đã đưa ra các đặc tính của vật liệu LiF:Mg,Cu,P. Tuy nhiên, chỉ sau khi Hội
nghị SSDC lần thứ 9, vật liệu này mới thu hút được sự chú ý nhiều hơn. Trong hội nghị lần
thứ 9 tổ chức tại Viena (Áo), có 5 bài báo nghiên cứu về vật liệu LiF:Mg,Cu,P trình bày tại
hội nghị. Trong hội nghị lần thứ 10 tại Washington DC, có 17 bài báo liên quan trình bày về
vấn đề này. Trong hội nghị lần thứ 11 tại Budapest, hơn 30 bài báo nghiên cứu về vật liệu
LiF:Mg,Cu,P.
Năm 1978, một nhóm các nhà khoa học Nhật Bản tại Viện Khoa học Bức xạ Quốc gia
của Nhật Bản dẫn đầu bởi giáo sư Toshiyuki Nakajima đã chế tạo thành công một loại vật liệu
nhiệt huỳnh quang mới, đó là LiF:Mg,Cu,P. Vào lúc đó, vật liệu này có dạng bột và độ nhạy
nhiệt huỳnh quang tăng lên đến 23 lần so với LiF:Mg,Ti (TLD-100). Để sử dụng lại bột nhiệt
11
huỳnh quang này, Nakajima đề nghị nhiệt độ là 2500C và thời gian nung là 10 phút. Việc
nung này có thể không phục hồi cấu trúc của đường cong nhiệt huỳnh quang một cách hiệu
quả và thực ra sau khi đạt nhiệt độ 2500C với thời gian là 10 phút thì đường cong đã thay đổi
đáng kể. Còn với nhiệt độ nung dưới 2400C, đường cong nhiệt huỳnh quang có thể giữ không
đổi nhưng lượng tín hiệu nhiệt huỳnh quang còn dư là cao.
Năm 1984, tại phòng thí nghiệm Phương pháp và Detector liều lượng vật rắn của Viện
nghiên cứu hạt nhân Bắc Kinh (Trung Quốc) đã chế tạo thành công vật liệu LiF(Mg,Cu,P)
dạng rắn. Với kỹ thuật đặc biệt, độ nhạy của tín hiệu nhiệt huỳnh quang của vật liệu
LiF(Mg,Cu,P) thậm chí còn cao hơn cả tín hiệu nhiệt huỳnh quang trong trường hợp dạng bột.
Chế độ nung thích hợp nhất để tái sử dụng loại vật liệu LiF(Mg,Cu,P) là nung ở 2400C trong
thời gian 10 phút.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ rõ giới hạn dò cực tiểu của chip LiF(Mg,Cu,P) cũng vào
khoảng 100nGy, thấp hơn nhiều so với TLD-100.
1.5.2 Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
Hiện nay, các phòng thí nghiệm hàng đầu trong nước về nghiên cứu nhiệt huỳnh
quang là Viện Khoa học Vật liệu và Viện nghiên cứu và Ứng dụng công nghệ Nha Trang đã
thực hiện rất nhiều công trình về nghiên cứu tính chất nhiệt huỳnh quang. Các thiết bị quan
sát bức xạ nhiệt huỳnh quang ở nước ta cũng rất phong phú, như hệ đo Harsaw 4500 ở Viện
Khoa học kỹ thuật hạt nhân, hệ đo Harsaw 3500 ở Viện Khoa học vật liệu, hệ đo RGD – 3A ở
Viện Khảo cổ học...Các hệ đo này nói chung có sự khác biệt về cấu tạo buồng đốt khay đo.
Để nâng cao hiệu quả của phương pháp, cần nghiên cứu chế độ nhiệt một cách cụ thể phù hợp
với từng đối tượng đo và thiết bị đo.
Một số công trinh nghiên cứu liên quan được công bố tại hội nghị Quang phổ - Quang
học hay Vật lý hạt nhân (Đặng Thanh Lương 1996 ; Nguyễn Quang Miên, Bùi Văn Loát 2004,
Vũ Xuân Quang, MarcoMartini 2006, Nguyễn Quang Miên, Bùi Văn Loát, Thái Khắc Định
2009...). Những công trình này đã cho thấy tiềm năng ứng dụng to lớn và hiệu quả của kỹ
thuật nhiệt huỳnh quang trong đo liều bức xạ môi trường, đo liều y tế...
Bên cạnh vấn đề này, các nhà khoa học trong nước còn đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu về
loại vật liệu nhiệt huỳnh quang sao cho có độ ổn định và độ lặp lại cao. Chúng ta đã biết rằng,
loại vật liệu nhiệt huỳnh quang mà Viện nghiên cứu hạt nhân Bắc Kinh (Trung Quốc) đã chế
tạo thành công là LiF:Mg,Cu,P có độ ổn định khá tốt và độ lặp lại cũng rất cao. Ở trong nước
tại Viện nghiên cứu và ứng dụng công nghệ Nha Trang cũng đã tiến hành chế tạo loại vật liệu
này và kết quả đạt được là cũng giúp chúng ta mở ra hướng ứng dụng vào trong đo liều xạ trị
cũng như trong đo liều cá nhân.
12
1.5.3 Những vấn đề quan tâm nghiên cứu của luận văn
Từ những nghiên cứu lý thuyết và tham khảo tình hình nghiên cứu trong nước và quốc
tế trên, luận văn đề xuất một số vấn đề quan tâm nghiên cứu của mình như sau :
- Nghiên cứu giải pháp gia công và chế tạo liều nhiệt huỳnh quang bằng vật liệu
LiF(Mg,Cu,P).
- Xây dựng cấu hình phép đo tín hiệu nhiệt huỳnh quang trên hệ đo RGD-3A tại
Phòng Thí nghiệm Viện Khảo cổ học
- Xử lý tín hiệu, tính toán liều bức môi trường và đề xuất giải pháp nghiên cứu trong
thời gian tới.
13
THỰC NGHIỆM ĐO LIỀU BỨC XẠ MÔI TRƢỜNG BẰNG LIỀU KẾ NHIỆT
HUỲNH QUANG LiF(Mg,Cu,P)
Gia công chế tạo mẫu đo
2.1.1. Chuẩn bị bột mẫu LiF(Mg,Cu,P)
Độ đồng đều về kích thước hạt của mẫu giữ vai trò quyết định đến quá trình hấp thụ
năng lượng khi chiếu xạ và cường độ nhiệt huỳnh quang đo được. Để giảm thiểu sai số thực
nghiệm, mẫu bột LiF(Mg,Cu,P)
Lượng bột mẫu LiF(Mg,Cu,P) cần thiết cho mỗi phép đo là 0,2mg, số lần đo lặp cần
thiết cho mỗi phép đo là 5 kết quả sẽ được lấy trung bình và sai số sẽ được tính qua sự thăng
giáng ở 5 lần đo lặp này.
2.1.2. Tạo capsule đựng bột LiF(Cu,Mg,P)
Liều kế nhiệt huỳnh quang để đo liều môi trường trong nghiên cứu của luận văn được
chế tạo dưới dạng các capsule chuyên dụng. Đó là một ống hình trụ tròn, bằng nhựa PVC, bên
trong rỗng để chứa bột mẫu nhiệt huỳnh quang. Capsule sau khi đã chứa bột LiF(Mg,Cu,P)
sẽ được làm kín tránh hơi ẩm và không khí (Hình 2.1).
Kích thước capsule gồm:
Đường kính ngoài 3,0mm
Đường kính trong 1,0mm
Dày thành ống: 1,0mm
Chiều dài: 20,0mm
Hình 2.1. Mô hình capsule đựng
bột mẫu LiF(Mg,Cu,P)
Với kích thước như trên, dung lượng chứa bột mẫu nhiệt huỳnh quang LiF(Mg,Cu,P)
trong mỗi capsule sẽ vào khoảng 16mm3. Chúng tôi cũng đã tiến hành cân kiểm tra lượng
mẫu bột LiF(Mg,Cu,P) được nạp đầy trong mỗi capsule bằng cân kỹ thuật SA-250. Kết quả
cho biết là khoảng 1,5mg, đủ để có thể thực hiện các phép đo lặp (ít nhất 5 lần) đối với mỗi
liều kế (capsule).
Ngoài ra, để đảm bảo sự đồng đều về lượng mẫu LiF(Mg,Cu,P) cho mỗi lần đo bức xạ
nhiệt huỳnh quang, bột mẫu sẽ được đong và đưa vào khay đốt bằng dụng cụ chuyên dụng.
2.1.3. Xử lý nhiệt độ và chuẩn liều chiếu xạ.
14
Trước khi sử dụng các bột mẫu nhiệt huỳnh quang này, chúng ta phải nung nóng
chúng nhằm loại bỏ các tín hiệu dư không mong muốn đã tích luỹ trước đó.
Theo khuyến cáo của nhà sản xuất cũng như tham khảo các kết quả nghiên cứu trước đây.
Chúng tôi đã lựa chọn chế độ xử lý nhiệt độ mẫu bột LiF(Mg,Cu,P) bằng lò nung TL-2000A
với nhiệt độ nung là 240O
C ± 20C, thời gian nung 2 phút. Sau chế độ nung này lượng tín hiệu
nhiệt huỳnh quang được tích lũy trước đó đã hầu như được loại bỏ hoàn toàn.
Mẫu bột nhiệt huỳnh quang LiF(Mg,Cu,P) sau khi đã được loại bỏ tín hiệu dư sẽ được
đóng đầy vào các capsule như đã nêu trên và hàn kín lại. Số lượng các capsule được chuẩn bị
cho thí nghiệm là 10 chiếc.
2.1.4 Xây dựng đƣờng chuẩn liều.
Xây dựng đường chuẩn liều là một nội dung quan trọng của công tác đo liều bức xạ
môi trường. Đó thực chất là sự xác định mối tương quan giữa các tín hiệu nhiệt huỳnh quang
và các mức liều chiếu khác nhau. Theo đó, 5 capsule nêu trên đã được sử dụng làm liều kế ghi
bức xạ ion hóa từ nguồn phóng xạ chuẩn Cs-137 với các mức liều khác nhau.
Tham khảo các công trình nghiên cứu trước đây (Nguyễn Quang Miên, Lê Hồng
Khiêm, Bùi Văn Loát 2004; Đặng Thanh Lương 1996, Hoàng Đức Tâm 2009) về mức liều bức
xạ môi trường khu vực Hà Nội cũng như đặc tính nhiệt huỳnh quang của vật liệu
LiF(Mg,Cu,P). Chúng tôi đã lựa chọn các mức liều chiếu chuẩn là : 0mGy (không chiếu,
dùng để hiệu chỉnh phông) ; 5mGy ; 10mGy ; 15mGy và 25mGy . Danh sách các liều kế
làm mẫu chuẩn được chỉ trong Bảng 2.1
Bảng 2.1: Danh sách các liều kế làm mẫu chuẩn với các mức liều chiếu
khác nhau
STT Tên mẫu Liêu chiếu (mGy)
1 M1 5
2 M2 10
3 M3 15
4 M4 25
5 M0 0
Sau khi chiếu xong, toàn bộ các capsule được để trong thời gian 72 giờ nhằm loại bỏ
tạp nhiễu (gây ra do quá trình chiếu xạ) và các tín hiệu nhiệt huỳnh quang không bền vũng.
Sau đó, sẽ tiến hành đo lượng bức xạ nhiệt huỳnh quang từng mẫu trên hệ đo RGD-3A
2.1.5 Đặt liều kế nhiệt huỳnh quang đo liều bức xạ môi trƣờng
15
Để thử nghiệm đo liều bức xạ môi trường, chúng tôi đã sử dụng 5 capsul có chứa bột
LiF(Mg,Cu,P) còn lại làm liều kế nhiệt huỳnh quang và bố trí đặt chúng ở một số vị trí khác
nhau như được chỉ trong Bảng 2.2 Thời gian đặt là khoảng 5 tháng (từ ngày 15/11/2011 đến
ngày 15/04/2012).
Bảng 2.2: Danh sách các liều kế nhiệt huỳnh quang đƣợc bố trí để đo
liều bức xạ môi trƣờng
STT Tên liều kế Vị trí đặt liều kế
1 MT.1 Mái hiên nhà để xe của Viện khảo cổ học. Mái hiên bằng
tôn cao thoáng cách mặt đất chừng 2,5m
2 MT.2 Phòng xử lý hoá học, nhà bê tông tầng 4 sáng, ẩm
3 MT.3 Phòng đặt máy đo C14, nhà bê tông tầng 4, hơi tối
4 MT.4 Nhà kho của Viện khảo cổ học, nhà bê tông tầng 1
5 MT.5 Phòng đọc của thư viện, nhà tầng 1 cao, sáng sủa
Các mẫu đều được cách xa tường nhà chừng 50cm và ở nơi khô ráo tránh ẩn sẽ là
hỏng bột mẫu đo.
2.2. Xây dựng cấu hình phép đo nhiệt huỳnh quang
2.2.1. Giới thiệu hệ đo nhiệt huỳnh quang RGD – 3A
Trong thí nghiệm này, chúng tôi sử dụng thiết bị đo tín hiệu nhiệt huỳnh quang RGD-
3Acủa Phòng thí nghiệm và Xác định niên đại, Viện khảo cổ học Việt Nam. Với thiết bị này,
chúng ta có thể sử dụng để đo liều cá nhân, đo liều bức xạ tích lũy trong môi trường với
những hình dạng khác nhau của detector nhiệt huỳnh quang. Bên cạnh đó, thiết bị này còn
được sử dụng để nghiên cứu các tính chất của vật liệu nhiệt huỳnh quang.
2.2.2. Các đặc trƣng kỹ thuật cơ bản của hệ đo RGD-3A
- Hiệu suất ghi của hệ đo RGD-3A được tuân theo tiêu chuẩn quốc gia GB10264-88 ;
- Hệ thống gồm nhiều bộ lọc quang học và khay nhiệt khác nhau phù hợp với nhiều
loại Detector nhiệt huỳnh quang khác nhau ;
- Hệ thống quang học được gắn cố định trong buồng đo và có tkhả năng làm việc tốt
trong dải rộng nhiệt độ môi trường ;
- Chế độ nhiệt, đã có hai chế độ đo tối ưu M1 và M2 được thiết kế mặc định bởi nhà
sản xuất, ngoài ra còn có hệ thống bàn phím giao diện để người đo có thể tự cài đặt theo yêu
cầu nghiên cứu của mình.
- Các tham số nhiệt và mã hiệu của liều kế nhiệt huỳnh quang có thể được đặt với 16
kí tự và được lưu trong bộ nhớ ;
16
- Khi đo, giá trị của phông được trừ tự động ;
Ngoài ra, để giảm nhiễu khi đo, thiết bị còn được thiết kế kết nối với một hệ thống
cung cấp khí ni tơ.
2.2.3. Phần mềm điều khiển và xử lý tín hiệu đo
Hệ đo sử dụng phần mềm RGD3.EXE để điều khiển hệ đo, thu nhận và xử lí phổ. Phần
mềm do nhà sản xuất cung cấp. Phần mềm này được chạy trên nền DOS
Thực tế thì hệ đo RGD – 3A có thể tính toán trực tiếp được giá trị liều dựa trên lượng tín
hiệu nhiệt huỳnh quang mà máy thu nhận được. Tuy nhiên, để đảm bảo độ chính xác cao, luận
văn đã sử dụng tập tin dữ liệu mà máy xuất ra để xử lí bằng phần mềm Excel. Chương trình
dùng để thực hiện việc chuyển đổi là GLOW.EXE. Đây là chương trình đi kèm với hệ đo
RGD–3A. Sau khi chuyển đổi định dạng có thể dùng chương trình Excel để xử lí bộ số liệu
này.
2.2.4. Xây dựng cấu hình phép đo trên hệ đo RGD-3A
Chế độ đo được thiết lập với các thông số như sau:
- Nhiệt độ nung đầu : 130oC.
- Thời gian nung đầu: 6 giây.
- Nhiệt độ nung cuối: 250oC.
- Thời gian nung cuối: 6 giây.
- Tốc độ gia nhiệt: Thay đổi theo từng lần đo.
Bốn thông số đầu tiên được giữ không thay đổi trong suốt quá trình đo. Nhưng đối với
thông số cuối cùng – tốc độ gia nhiệt – ảnh hưởng rất lớn đến độ nhạy của tín hiệu nhiệt
huỳnh quang. Do vậy, chúng tôi cũng sẽ tiến hành khảo sát tốc độ gia nhiệt để tìm ra được tốc
độ gia nhiệt tối ưu sao cho ở tốc độ gia nhiệt đó thì độ nhạy nhiệt huỳnh quang là lớn nhất.
2.3 Đo tín hiệu nhiệt huỳnh quang trên hệ đo RGD-3A
Trong quá trình đo, chúng tôi đã sử dụng thiết bị định lượng bột cho mỗi mẫu. Đối với
mẫu bột huỳnh quang sau khi đã được chiếu xạ, sẽ cho vào dụng cụ này, bột huỳnh quang từ
khay chứa ở trên sẽ đi vào hốc nhỏ bên dưới, sử dụng cần gạt để gạt mẫu sao cho bột huỳnh
quang đầy từ đáy hốc đến miệng. Với cách làm này sẽ luôn đảm bảo rằng lượng bột nhiệt
huỳnh quang LiF (Mg,Cu,P) cho vào khay đốt trong mỗi lần đo gần như giống nhau. Sau đó
cho lượng bột huỳnh quang này vào khay đốt của hệ đo RGD-3A với chế độ gia nhiệt được
thiết lập trước.
2.4. Dạng phổ của nhiệt huỳnh quang từ liều kế chuẩn
Như đã nêu trên, các capsule chứa bột mẫu nhiệt huỳnh quang LiF(Mg,Cu,P) sau
khi chiếu xạ ở các mức liều lựa chọn và đã được phơi 72 giờ nhằm hạn chế những can
nhiễu gây nên những sai lệch của phép đo, Sau đó hiệu nhiệt huỳnh quang trên hệ đo RGD-
3A với các chế độ đã lựa chọn. /s
17
Từ các phép đo trên, tại cửa sổ lấy tín hiệu của thiết bị đo chúng ta cũng thu được
lượng số đếm của tương ứng mỗi phép đo. Kết quả được chỉ trong Bảng 2.3.
Bảng 2.3 Số đếm ghi nhận đƣợc của chuẩn liều LiF(Mg, Cu, P)
STT Liều chiếu (mGy) Tín hiệu nhiệt huỳnh quang *
2 5 7509
3 10 13892
4 15 19084
5 25 32228
Từ những số liệu thực nghiệm thu nhận được ở Bảng 2.3 bằng phương pháp hồi quy
tuyến tính chúng ta sẽ thiết lập được đường chuẩn cho phép đo liều bức xạ ion hóa bằng
đềtectơ nhiệt huỳnh quang. Kết quả được chỉ trong Hình 2.12.
y = 1228x + 1294
0
10000
20000
30000
40000
0 5 10 15 20 25 30
Liều chiếu (mGy)
Số
đế
m
Hình 2.12 : Biểu diễn mối quan hệ giữa tín hiệu nhiệt huỳnh quang và liều chiếu cuả
mẫu chuẩn LiF(Mg, Cu, P) ở tốc độ quét nhiệt 60C/s
Kết quả xây dựng đường hồi quy tuyến tính cho thấy , đã có sự tương quan tốt giữa số đếm tín
hiệu nhiệt huỳnh quang và mức liều chiếu. Phương trình biểu diễn mối tương quan tuyến tính
giữa mức số đếm tín hiệu nhiệt huỳnh quang thu được và mức liều chiếu là :
y = 1228x +1294
trong đó: y là số đếm ;
x là liều chiếu (mGy)
2.5 Phổ nhiệt huỳnh quang của các liều kế đo bức xạ môi trƣờng
Các liều kế nhiệt huỳnh quang đo bức xạ môi trường sau thời gian đặt 3 tháng đã được
th hồi về để đo lượng tín hiệu nhiệt huỳnh quan đã tích lũy trong mẫu, trên máy đo Reader
18
RGD-3a với cùng chế độ đo như mẫu chuẩnMỗi phép đo được thực qua 5 lần đo lặp. Lượng
tín hiệu nhiệt huỳnh quang sẽ được lấy trung bình qua các lần đo đó. Kết quả thu được được
chỉ trong Bảng 2.4
19
Bảng 2.4. Tín hiệu nhiệt huỳnh quang của các liều kế môi trƣờng
STT Mẫu Lần 1 Lần 2 Lần 3 Lần 4 Lần 5
1 MT-1 2458 2352 2250 2321 2305
2 MT-2 2275 2459 2390 2415 2485
3 MT-3 2078 1986 2059 1941 2166
4 MT-4 2315 2142 2139 2159 2260
5 MT-5 2143 2074 2021 2042 2072
Từ những giá trị đo được trên tính được giá trị trung bình và sai số của phép đo. Kết
quả được chỉ trong Bảng 2.5
Bảng 2.5. Kết quả đo mẫu môi trƣờng
STT Mẫu Trung bình Sai số
1 MT-1 2337 77
2 MT-2 2405 81
3 MT-3 2046 87
4 MT-4 2203 80
5 MT-5 2070 46
CHƢƠNG 3 : KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Xác định độ nhạy nhiệt huỳnh quang của phép đo.
Độ nhạy nhiệt huỳnh quang ( μ ) của phép đo là đại lượng được xác định bằng :
D
NTL (3.1)
tỷ số của số xung nhiệt huỳnh quang đếm được với liều chiếu :
Trong đó : NTL là số đếm nhiệt huỳnh quang của mẫu ( số đếm).
D : là liều chiếu xạ trên mẫu (mGy)
Tuy nhiên, trong thí nghiệm của mình để tăng độ chính xác chúng ta đã sử dụng
phương pháp xây dựng đường hồi quy tuyến tính với tập hợp kết quả đo tín hiệu nhiệt huỳnh
quang ở 4 mức liều chiếu khác nhau là 5mGy, 10mGy, 15mGy và 25mGy.
Như vậy, với những kết quả nhận được trong Hình 2.12 chúng ta có giá trị độ nhạy
nhiệt huỳnh quang (µ) của LiF(Mg,CU,P) trong thí nghiệm này là:
µ =1228 (xung/mGy)
3.2. Xác định tổng liều chiếu xạ lên mẫu môi trƣờng
20
Theo đường chuẩn liều đã nhận, xác định được giá trị tổng liều bức xạ môi trường đã
chiếu lên các liều kế nhiệt huỳnh quang.
Bảng 3.1. Kết quả giá trị tổng liều môi trƣờng đã chiếu lên các liều kế nhiệt
huỳnh quang LiF(Mg,Cu,P)
TT Liều kế Giá trị liều chiếu (mGy)
1 MT-1 0,849 ± 0,063
2 MT-2 0,905 ± 0,066
3 MT-3 0,612 ± 0,071
4 MT-4 0,740 ± 0,065
5 MT-5 0,632 ± 0,037
3.3. Xác định giá trị suất liều môi trƣờng :
Giá trị suất liều chiếu môi trường được xác định qua lượng liều tích luỹ và thời gian
đặt liều kế đo, theo công thức :
t
PD
Trong đó : P là lượng liều bức xạ ion hóa tích luỹ trong đềtectơ (tính bằng mGy) và t
là khoảng thời gian đặt liều kế tính bằng giờ (h).
Khoảng thời gian đặt (phơi chiếu) các liều kế trên là khoảng 153 ngày.
Quy chuẩn về đơn vị tính bằng giờ (h) sẽ là :
t = 153 x 24 = 3672 giờ
Thay vào ta nhận được kết quả tính giá trị suất liều môi trường tại một số vị trí đặt liều
kế. Kết quả được chỉ trong Bảng 3.2 dưới đây.
Bảng 3.2. Giá trị suất liều môi trƣờng tại các vị trí đặt liều kế nhiệt huỳnh
quang LiF(Mg,Cu,P)
TT Liều kế Giá trị liều chiếu (µGy/h)
1 MT-1 0,231 ± 0,017
2 MT-2 0,246 ± 0,018
3 MT-3 0,167 ± 0,019
4 MT.4 0,202 ± 0,018
5 MT.5 0,172 ± 0,010
3.4 Một số nhận xét rút ra
21
3.4.1. Kết quả nghiên cứu đo liều môi trường bằng đề tec tơ nhiệt huỳnh quang
LiF(Mg,Cu,P) đặt tại 5 vị trí khác nhau đã cho thấy có sự phân biệt khá rõ ràng theo địa điểm
đặt mẫu.
3.4.2. Liều kế LiF(Mg,Cu,P) được chuẩn bị như theo nghiên cứu của luận văn không
chịu tác dụng của các tia anpha từ môi trường. Những liều kế này chủ yếu là để ghi nhận các
bức xạ gamma phát ra tự môi trường xung quanh.
3.4.3. So sánh các kết quả nhận được trên với một số kết quả đo trước đây của một số
tác giá*: Bùi Văn Loát, Đặng Phương Nam, Nguyễn Quang Miên, Đặng Đình Hùng (1998);
Nguyễn Quang Miên, Lê Khánh Phồn, Bùi Văn Loát (2004)... cũng như các công bố chung về
phông phóng xạ môi trường của các nước châu Âu (Bảng 1.3), thấy rằng có sự tương đương,
chứng tỏ các nghiên cứu của luận văn đã có những thành công nhất định.
KẾT LUẬN
Luận văn đã trình bày những vấn đề cơ bản về cơ chế nhiệt huỳnh quang và phương
pháp đo liều môi trường bằng vật liệu LiF(Mg,Cu,P). Những kết quả đạt được của công trình
nghiên cứu này thể hiện qua 3 điểm sau:
Cơ sở lý thuyết: Nghiên cứu tổng quan về những quá trình động học nhiệt huỳnh
quang và đềtectơ nhiệt huỳnh quang loại LiF(Mg, Cu, P).
Tiến hành thực nghiệm: Đưa ra qui trình các bước hướng dẫn cụ thể từ việc chế tạo
các mẫu chuẩn, lắp đặt các liều kế nhiệt huỳnh quang để đo liều môi trường tại một số địa
điểm trong khu vực Viện Khảo cổ học. Đã nghiên cứu cơ chế hoạt động và giới thiệu cách
vận hành hệ đo nhiệt huỳnh quang RGD-3A một cách chi tiết.
Tính toán kết quả: Các kết quả tính toán liều môi trường của 5 mẫu ở các vị trí trong
viện. Việc phân tích và tính toán được thực hiện bằng chương trình Microsoft Excel và công
thức tính sai số trong các lần đo đảm bảo các kết quả tính toán có độ tin cậy cao.
Kết quả nghiên cứu xây dựng đường chuẩn nhiệt huỳnh quang theo các mức liếu chiếu
5mGy; 10mGy, 15mGy và 25mGy đã cho thấy: Đây là các mức liều khá phù hợp, trong
khoảng liều chiếu này đường chuẩn có độ tuyến tính cao khá phù hợp cho mục tiêu đo liều
môi trường bằng đềtectơ nhiệt huỳnh quang. Giá trị độ nhạy nhiệt huỳnh quang () của mẫu
bột LiF(Mg,Cu,P) thu được là 1228xung/mGy giá trị này cũng phù hợp với công bố của nhà
sản xuất, cho thấy chất lượng của đềtéctơ đáp ứng yêu cầu thí nghiệm.
Kết quả đo liều môi trường bằng đềtéctơ LiF(Mg,Cu,P) tại 5 vị trí khác nhau ở khu
vực Viện Khảo cổ học đã cho các kết quả phân biệt rõ rệt, phản ánh tính khách quan của các
đối tượng đo và có giá trị trong khoảng từ 0,17μGy/h đến 0,25μGy/h, trung bình là 0,20
22
μGy/h. Kết quả này phù hợp với nghiên cưu của các tác giả khác, chứng tỏ luận văn đã đạt
được những thành công nhất định
Tất cả các thực nghiệm đã được tiến hành một cách cẩn thận bên cạnh việc nghiên cứu
đầy đủ lý thuyết về mô hình đo đạc suất liều bức xạ môi trường có thể xác định được liều tổng
bức xạ môi trường để góp phần kiểm tra mức độ an toàn bức xạ hạt nhân. Đây là ý nghĩa thực
tiễn mà công trình này đã đạt được.
Trong quá trình thực hiện công trình này, mặc dù đã rất cố gắng nhưng còn nhiều vấn
đề chúng tôi vấn chưa nghiên cứu đến. Chúng tôi hy vọng rằng đây sẽ là những hướng phát
triển của đề tài sẽ được thực hiện trong thời gian tới.
References
Tiếng Việt
[1] Lê Hồng Khiêm, Xử lí số liệu hạt nhân thực nghiệm, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008.
[2] Bùi Văn Loát, Đặng Phương Nam, Nguyễn Quang Miên, Đặng Đình Hùng (1998). "Mét sè
®Æc trng cña trêng gamma trªn mét sè ®« thÞ ViÖt Nam" Journal of Science: Natural
Sciences 49-52.
[3] Đặng Thanh Lương (1996), Một số kết quả nghiên cứu phương pháp đo liều bức xạ ion hóa
bằng liều kế nhiệt phát quang, Luận án phó tiến sĩ, trường Đại học Khoa học Tự nhiên.
[4] Nguyễn Quang Miên, Lê Hồng Khiêm, Bùi Văn Loát (2004), Đặc trưng tham số động học
nhiệt phát quang của LiF(Cu,Mg,P). Trong những vấn đề hiện đại của vật lý chất rắn, tập
IIIa: 81-85. NXB KHKT.
[5] NguyÔn Quang Miªn, Lê Khánh Phån, Bïi V¨n Lo t. “X¸c ®Þnh liÒu bøc x¹ ion hãa h»ng
n¨m lªn mÉu nhiÖt ph¸t quang b»ng m¸y ®o CP-68-01", TuyÓn tËp b¸o c¸o héi nghÞ khoa
häc lÇn thø 15 §¹i häc Má §Þa chÊt, Hµ néi 15/11/2002, QuyÓn 4, tr: 48-52.
[6] Hoàng Đức Tâm (2009), “Xac đinh liêu bưc xa bêta hăng năm trong mâu gôm băng vât
liêu LiF:Mg,Cu,P”. Luân văn thac si Vât ly , Trương ĐH Khoa hoc tư nhiên TP Hô Chi
Minh.
Tiếng Anh
[7] Aitken M.J (1985). Thermoluminescence Dating, Research Laboratory for Archaeology
and History of Art, Oxford University Press, England.
23
[8] Fleming S., Thermoluminescence Techniques in Archaeology, Oxford Science
Publications, England, 1979.
[9] Gangang CAI, Thermoluminescence of LiF:Mg,Cu,P, Solid Dosimetric Detector &
Method Laboratary (Beijing, China).
[10] Hoang Duc Tam, Thai Khac Dinh, Nguyen Quang Mien, Bui Van Loat, The
thermoluminescence characteristics of LiF (Mg,Cu,P) in measuring gamma ray by the
RGD-3A reader, Advances in optics photonics spectroscopy & Applications V, Nha
Trang, Viet Nam, 2008.
[11] Martini M., (2001). The Physical basis of thermoluminescence dating. In Proceeding of
International Workshop on Material Characterization by Solid State Spectroscopy:
Gems and Minerals of Vietnam: 145-162.
[12] McKeever S.W.S (2000). Thermoluminescence of Solids, Cambridge University Press.
[13] National Bureau of standards, 1981. Radon transport through and exhalation from
building materials. U.S. Dept of Commerce, New York.
[14] Radiation Protection Authorities in Denmark, Finland, Iceland, Norway and Sweden,
2000. Naturally occurring radioactivity in the nordic countries recommendations.