Upload
ban-nguyen-ngoc
View
5.521
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
•THÀNH VIÊN NHÓM:
• Lưu Thị Duyên (GM 10)
• Trần Thị Thanh (Nha 2)
• Ngô Thị Thảo (NX 11B)
• Trịnh Việt Trinh (XN 11B)
HIỆN TRẠNG:
• Phó Cục trưởng Cục Quản lý môi trường y tế (Bộ Y tế) Trần Đắc Phu cho biết XXhiện nay, cả nước có 13.640 cơ sở y tế các loại, với tổng lượng chất thải rắn phát sinhtừ các cơ sở y tế vào khoảng 450 tấn/ngày, trong đó có khoảng 47 tấn là chất thải rắny tế nguy hại.
• Hiện chất thải y tế ở Việt Nam được xử lý bằng hai phương án là đốt và chôn lấptrong đó vẫn còn 30,8% bệnh viện xử lý chất thải y tế bằng lò đốt 1 buồng, thiêu đốtthủ công hoặc tự chôn lấp trong khuôn viên của bệnh viện. Tỷ lệ bệnh viện chưa có hệthống xử lý nước thải y tế chiếm 45,6%.
• Ở Việt Nam, mỗi ngày có 120 nghìn m3 nước thải y tế được thải ra, 350 - 400 tấn chấtthải y tế, trong đó, 42 tấn chất thải y tế độc hại cần được xử lý. Nước thải từ các bệnhviện chưa qua xử lý xả ra môi trường đang là một vấn đề gây bức xúc trong nhân dâncác khu vực lân cận vì nó gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước mặt. Thậm chí,nhiều nơi ứ đọng, thẩm thấu còn ảnh hưởng đến cả mạch nước ngầm. Mỗi ngày, cácbệnh viện xả hàng triệu mét khối nước thải ra môi trường, một phần trong số đó mangtheo mầm bệnh hòa vào dòng chảy mương, máng, sông ngòi qua các khu dân cư.
• Nước thải của một số bệnh viện ô nhiễm nặng vượt quá
nhiều lần tiêu chuẩn cho phép: 82,54% tụ cầu vàng, 15%
trực khuẩn mủ xanh, 52% E.coli… Chúng có hàm lượng vi
sinh cao gấp 1.000 lần cho phép với nhiều loại vi khuẩn
nấm, ký sinh trùng, virut bại liệt… mà khi hòa vào nước thải
sinh hoạt, sẽ bị phát tán, có khả năng xâm nhập các loại thủy
sản, vật nuôi, nhất là rau thủy canh và trở lại với con người.
Việc tiếp xúc gần với nguồn ô nhiễm còn làm nảy sinh nguy
cơ ung thư và các bệnh hiểm nghèo khác cho con người.
• Trong khi đó, hầu hết các cơ sở y tế không quan tâm đúng
mức đến việc xử lý chất thải y tế. Trong số 1.263 bệnh
viện, có 53,4% bệnh viện có công trình xử lý nước thải,
46,6% hầu như không có hệ thống xử lý nước thải. Đối với
chất thải rắn, 90% bệnh viện thu gom hàng ngày, 67%
bệnh viện xử lý bằng lò đốt, than bùn hoặc công nghệ đốt
khác, 32,2% xử lý bằng lò thủ công hoặc chôn lấp trong
bệnh viện.
• Nguyên nhân của tình trạng trên là do chưa có sự quan tâm đúng mức của lãnh X
đạo từ cơ quan quản lý như Bộ Y tế đến cơ sở khám chữa bệnh. Một số quy định còn
chung chung, thiếu thực tế dẫn đến việc tổ chức, phân công trách nhiệm và quản lý
chất thải y tế nguy hại còn sai phạm, việc xử lý vi phạm lại chưa nghiêm túc. Nhận
thức của một số đơn vị và cá nhân còn yếu, thậm chí, lợi dụng công việc quản lý
chất thải y tế để mưu lợi cho tập thể và cá nhân. Một số cơ sở khám chữa bệnh vì lợi
nhuận đã cố tình lờ đi việc đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, việc
đầu tư kinh phí xây dựng hệ thống xử lý nước thải, lò đốt, thiết bị xử lý chất thải y tế
nguy hại chưa đồng bộ; văn bản pháp luật quy định xử lý hành vi vi phạm còn thiếu
chặt chẽ và thiếu tính khả thi.
• Theo ước tính, trong một ngày đêm, mỗi giường bệnh thải
ra môi trường khoảng 2,5 kg rác thải, chất thải, trong đó từ
10% đến 15% là loại chất thải độc hại, dễ gây lây nhiễm.
Thế nhưng, khâu quản lý rác thải, chất thải của các cơ sở y
tế lại hết sức lỏng lẻo. Hầu hết rác thải y tế bệnh phẩm chưa
được phân theo đúng chủng loại, chưa được khử khuẩn
trước khi thải bỏ, không có nhà lưu chứa hoặc có nhưng
không đúng tiêu chuẩn, không bảo đảm vệ sinh và có nguy
cơ lây nhiễm cho cộng đồng.
• Về việc xử lý rác thải:
• Đến đầu tháng 4-2003, đã có 61 bệnh viện (chiếm khoảng 7%) trong cả nước được trang bị lò
đốt rác. Các lò này hoạt động rất thất thường, hiệu quả thấp và giá thành cao do phải nhập, hầu
hết là lò Hoval nhập từ Thuỵ Sĩ, giá thành khoảng 200.000USD/chiếc; lò C-300 của Ixraen
(công nghệ Mỹ), khoảng 100.000 USD/chiếc. Giá thành xử lý 1 kg rác thải bệnh viện rất đắt,
khoảng 8.000 đồng. Tại TP. HCM mỗi ngày các bệnh viện thải ra koảng 7,4 tấn rác, chi phí đốt
tới hàng trăm triệu đồng. Hà Nội cũng đã đưa vào sử dụng một lò đốt rác y tế tại Tây Mỗ từ
năm 1999, công suất 4 tấn/ngày, một tuần chỉ hoạt động từ 1-2 lần do giá thành quá cao, các
bệnh viện không chịu nổi. Một số bệnh viện nhập lò đốt rác của Hàn Quốc (Viện Quân ly 108)
song hầu như rất ít sử dụng vì không có hệ thống xử lý nên khi đốt phát tán mùi rất hôi, khó
chịu, ảnh hưởng đến dân cư xung quanh. Một số đơn vị Việt Nam đã thử chế tạo lò đốt rác y tế
nhưng chưa áp dụng vào thực tế hoặc áp dụng không hiệu quả nên không sử dụng được.
• Việc sử dụng lò đốt thủ công để xử lý chất thải “nhả khói”, cũng gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng. Các trạm y tế xã hầu như chưa có hệ thống xử lý rác thải,
phải chôn lấp. Hầu hết các bệnh viện, phòng khám tư nhân ở vùng sâu, vùng xa
đều không xử lý, hoặc xử lý qua loa rồi xả thẳng ra môi trường. Nhiều tỉnh, 100%
bệnh viện không có hệ thống xử lý nước thải. Ở nhiều cơ sở y tế, nhà vệ sinh của
bệnh nhân không có bể phốt và được thải ra mà không qua xử lý. Chất thải này có
thể rò rỉ trực tiếp vào trong môi trường do hệ thống ống thoát nước bị hư hỏng.
Hầu hết các cơ sở y tế không có đủ ngân sách hoặc cơ sở vật chất để xử lý loại rác
thải này.
NGUYÊN NHÂN:
• Nguyên nhân của tình trạng trên là do chưa có sự quan tâm đúng mức của X
lãnh đạo từ cơ quan quản lý như Bộ Y tế đến cơ sở khám chữa bệnh. Một số quy
định còn chung chung, thiếu thực tế dẫn đến việc tổ chức, phân công trách nhiệm
và quản lý chất thải y tế nguy hại còn sai phạm, việc xử lý vi phạm lại chưa
nghiêm túc. Nhận thức của một số đơn vị và cá nhân còn yếu, thậm chí, lợi dụng
công việc quản lý chất thải y tế để mưu lợi cho tập thể và cá nhân. Một số cơ sở
khám chữa bệnh vì lợi nhuận đã cố tình lờ đi việc đầu tư cho công tác bảo vệ môi
trường. Bên cạnh đó, việc đầu tư kinh phí xây dựng hệ thống xử lý nước thải, lò
đốt, thiết bị xử lý chất thải y tế nguy hại chưa đồng bộ; văn bản pháp luật quy định
xử lý hành vi vi phạm còn thiếu chặt chẽ và thiếu tính khả thi.
• Một trong những nguyên nhân là do không phân chia cách loại rác thải để xử lý
đúng cách: ta chia chất thải y tế thanh 5 loại:
• Chất thải lây nhiễm:
Chất thải lây nhiễm
NHÓM A
Chất thải lây nhiễm
NHÓM B
Các vật thải sắc nhọn
NHÓM C
Các chất thải từ các phòng thí nghiệm
NHÓM D
Các dược phẩm
NHÓM E
Gồm chất thải bệnh
phẩm
• Chất thải hóa học nguy hại:
• Dược phẩm quá hạn, kém phẩm chất không còn khả năng sử dụng
• Cách chất hóa học nguy hại được sử dụng trong y tế:
formaldehyd, hydroquinon, kali hydroxid, bạc…
• Các dung môi: halogen…
• Các thuốc mê bố hơi: halothan, enfluran, isoflurance.
• Các hợp chất không có halogen: toluen, benzen…
• Các chất hóa học hỗn hợp: phenol, dầu mỡ, cồn, …
• Chất gây độc tế bào: vỏ các chai thuốc lọ thuốc, các dụng cụ dính
thuốc có thể gây độc cho tế bào
• Bình chứa áp suất: đựng oxi, cacbonic…
• Chất thải thông thường:
• Chất thải sinh hoạt
• Giấy tờ trong việc ghi bệnh án
• Chất ngoại cảnh như lá cây…
• Chất thải phóng xạ: gồm các chất phóng xạ dạng
rắn lỏng khí từ hoạt động nghiên cứu điều trị…
Nguồn gốc phát sinh rác thải y tế:
• Chất thải y tế nguy hại là chất thải y tế chứa yếu tố nguy hại cho sức khỏe con người và môi
trường như dễ lây nhiễm, gây ngộ độc, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn hoặc có đặc tính
nguy hại khác nếu những chất thải này không được tiêu hủy hoàn toàn.
• Các chất thải rắn y tế nguy hại bao gồm: chất thải lây nhiễm sắc nhọn (bơm kim tiêm, đầu sắc
nhọn của dây truyền dịch, lưỡi dao mổ, đinh mổ, cưa, các ống tiêm, mảnh thủy tinh vỡ và các
vật sắc nhọn khác), chất thải lây nhiễm không sắc nhọn (bông, băng, gạc); chất thải có nguy
cơ lây nhiễm (bệnh phẩm và dụng cụ đựng dính bệnh phẩm); chất thải giải phẫu (các mô, cơ
quan, bộ phân cơ thể người, rau thai, bào thai); chất thải hóa học nguy hại (dược phẩm quá
hạn, kém phẩm chất không còn khả năng sử dụng, chất hóa học ngy hại sử dụng trong y tế),
chất thải chứa kim loại nặng (thủy ngân từ nhiệt kế, huyết áp kế bị vỡ)...
• Chất thải lỏng y tế nguy hại được phát sinh từ các hoạt động
chuyên môn (từ các phòng phẫu thuật, xét nghiệm, thí nghiệm...)
và sinh hoạt của nhân viên bệnh viện, bệnh nhân và người chăm
nuôi (từ các nhà vệ sinh, giặt giũ, từ việc làm vệ sinh phòng bệnh.
Đối với nước thải bệnh viện ngoài những yếu tố ô nhiễm thông
thường như chất hữu cơ, dầu mỡ động thực vật, vi khuẩn thông
thường còn có những chất bẩn khoáng và hữu cơ đặc thù như các
vi khuẩn gây bệnh, chế phẩm thuốc, chất khử trùng, các dung môi
hóa học, dư lượng thuốc kháng sinh, các đồng vị phóng xạ được
sử dụng trong quá trình chẩn đoán và điều trị.
• Chất thải thông thường (hay chất thải không nguy hại) là chất
thải không chứa các yếu tố lây nhiễm, hóa học nguy hại,
phóng xạ, dễ cháy nổ, bao gồm: chất thải sinh hoạt phát sinh
từ các buồng bệnh (trừ các buồng bệnh cách ly); chất thải
phát sinh từ các hoạt động chuyên môn y tế (chai , lọ thủy
tinh, chai lọ huyết thanh, các vật liệu nhựa, các loại bột bó
trong gãy xương kín. Những chất thải này không dính máu,
dịch sinh học và các chất hóa học nguy hại); chất thải phát
sinh từ các công việc hành chính (giấy , báo, tài liệu, túi
nilon...); chất thải ngoại cảnh (lá cây, rác ở các khu vực ngoại
cảnh).
HẬU QUẢ:
• Ảnh hưởng của rác thải y tế đến sức khỏe con người:
• Việc tiếp xúc với các chất thải y tế có thể gây nên bệnh tật hoặc
tổn thương cho cơ thể do các vật sắc nhọn (như kim tiêm). Các
vật sắc nhọn này không chỉ gây nên những vết cắt, đâm mà còn
gây nhiễm trùng các vết thương nếu vật sắc nhọn đó bị nhiễm tác
nhân gây bệnh. Như vậy những vật sắc nhọn ở đây được coi là
loại chất thải rất nguy hiểm bởi nó gây tổn thưởng kép (vừa gây
tổn thường, vừa gây bệnh truyền nhiễm như viêm gan B, HIV...).
Hơn nữa, trong chất thải y tế lại chứa đựng các tác nhân gây
bệnh truyền nhiễm như tụ cầu, HIV, viêm gan B.
• Các tác nhân này có thể thâm nhập vào cơ thể qua các vết trầy xước,
vết đâm xuyên, qua niêm mạc, qua đường hô hấp (do hít phải), qua
đường tiêu hóa (do nuốt hoặc ăn phải). Nước thải bệnh viện còn là nơi
"cung cấp" các vi khuẩn gây bệnh, nhất là nước thải từ những bệnh
viện chuyên về các bệnh truyền nhiễm cũng như trong các khoa lây
nhiễm của các bệnh viện. Những nguồn nước thải này là một trong
những nhân tố cơ bản có khả năng làm lây lan các bệnh truyền nhiễm
thông qua đường tiêu hóa. Đặc biệt nguy hiểm khi nước thải bị nhiễm
các vi khuẩn gây bệnh có thể dẫn đến dịch bệnh cho người và động vật
qua nguồn nước khi sử dụng nguồn nước này vào mục đích tưới tiêu,
ăn uống...
• Ảnh hưởng của rác thải y tế với môi trường:
• Khi chất thải y tế không được xử lý đúng cách (chôn lấp,
thiêu đốt không đúng qui định, tiêu chuẩn) thì sẽ dẫn đến ô
nhiễm môi trường đất, nước và không khí và sự ô nhiễm
này sẽ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sức khỏe con
người, hệ sinh thái. Như vậy, để tránh được sự nguy hại của
chất thải y tế đối với sức khỏe và môi trường, và bảo vệ
những người thường xuyên tiếp xúc với chất thải y tế thì
ngành y tế phải quan tâm đầu tư hơn nữa cho công tác xử lý
chất thải y tế.
GIẢI PHÁP:
• Người đứng đầu các cơ sở y tế cần lập kế hoạch quản lý chất
thải y tế và xây dựng đề án đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng cho
quản lý chất thải y tế của đơn vị, mua và cung cấp đủ các
phương tiện chuyên dụng, phối hợp với các cơ quan môi trường,
các cơ sở xử lý chất thải địa phương để xử lý tiêu hủy chất thải y
tế đúng qui định. Các nhân viên y tế cần thực hiện tốt việc thu
gom, phân loại chất thải ngay tại nơi phát sinh chất thải và lưu
giữ đúng quy định. Người bệnh khi đến khám chữa bệnh tại các
cơ sở y tế cần có ý thức giữ gìn vệ sinh chung như không vứt
rác, khạc nhổ bừa bãi...
• Rác thải, chất thải y tế nếu không có sự quản
lý chặt chẽ sẽ rất nguy hại. Cần đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng
cao nhận thức của người dân, nhân viên y tế
về mức độ nguy hại của nó. Việc quản lý chất
thải, rác thải y tế phải được tổ chức tập huấn
cho nhân viên trong các bệnh viện về phương
pháp phân loại, thu gom, lưu trữ, vận chuyển
và xử lý theo đúng quy định.
• Hệ thống quản lý hành chính trong công tác quản lý chất thải đòi hỏi xx
nhiều bộ phận trong bệnh viện cùng phối hợp nhịp nhàng với nhau giúp cho
công tác quản lý tốt. Việc thực hiện tốt xử lý chất thải tại bệnh viện cần có
sự tham gia của tất cả mọi người, từ ban lãnh đạo bệnh viện, các trưởng phó
khoa và nhân viên y tế tại các khoa phòng, nhân viên thực hiện trực tiếp thu
gom, vận chuyển và xử lý rác. Do đó, cần lập kế hoạch quản lý chất thải y
tế, tổ chức huấn luyện cho cán bộ, công nhân viên hiểu rõ công tác quản lý
cũng như xử lý chất thải y tế và tổ chức kiểm tra đánh giá định kỳ hay đột
xuất và đề xuất khen thưởng hoặc kỷ luật.
• Mọi chất thải phát sinh trong môi trường bệnh viện cần được quản lý theo
đúng "Quy chế quản lý chất thải” do Bộ Y Tế ban hành nhằm làm giảm thiểu các
nguy cơ lây nhiễm sang người bệnh, nhân viên y tế và ra ngoài cộng đồng từ các
chất thải lây nhiễm trong bệnh viện. Người làm phát sinh chất thải phải tiến hành
phân loại ngay, thu gom và thải bỏ vào đúng nơi, vào đúng các phương tiện đã
quy định. Hệ thống quản lý hành chính trong công tác quản lý chất thải rắn tại
bệnh viện bao gồm sự phối hợp của các phòng ban trong bệnh viện, gồm ban lãnh
đạo bệnh viện, khoa Chống nhiễm khuẩn, phòng Quản trị, và tất cả các khoa
phòng trong bệnh viện.