38
1 BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ TRUNG TÂM THÔNG TIN VÀ DỰ BÁO KINH TẾ - XÃ HỘI QUỐC GIA TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO ĐẾN LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM (Chuyên đề phục vụ lãnh đạo số 32) Hà Nội – Tháng 6/2007 Mục lục Lời nói đầu Chương I : TỔNG QUAN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VÀ LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP CỦA NƯỚC TA I. Kinh tế nông nghiệp 1. Vài nét tổng quan 2. Một số thành tựu về kinh tế nông nghiệp 3. Một số hạn chế II. Lao động nông nghiệp 1. Lực lượng lao động 2. Cơ cấu lao động 3. Chất lượng lao động 4. Một số thành tựu 5. Một số hạn chế Chương II : CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỀ NÔNG NGHIỆP VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP I. Những cam kết 1. Tổng quan về quy định trợ cấp nông nghiệp của WTO 2. Một số cam kết của Việt Nam liên quan đến nông nghiệp II. Một số tác động tích cực Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software http://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

  • View
    2.545

  • Download
    4

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Tác động của việc gia nhập WTO đến lao động nông nghiệp Việt Nam

Citation preview

Page 1: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

1

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ

TRUNG TÂM THÔNG TIN VÀ DỰ BÁO KINH TẾ - XÃ HỘI QUỐC GIA

TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO

ĐẾN LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

(Chuyên đề phục vụ lãnh đạo số 32)

Hà Nội – Tháng 6/2007

Mục lục

• Lời nói đầu

Chương I : TỔNG QUAN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VÀ LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP CỦA NƯỚC TA

I. Kinh tế nông nghiệp

1. Vài nét tổng quan

2. Một số thành tựu về kinh tế nông nghiệp

3. Một số hạn chế

II. Lao động nông nghiệp

1. Lực lượng lao động

2. Cơ cấu lao động

3. Chất lượng lao động

4. Một số thành tựu

5. Một số hạn chế

Chương II : CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỀ NÔNG NGHIỆP VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NÔNG

NGHIỆP

I. Những cam kết

1. Tổng quan về quy định trợ cấp nông nghiệp của WTO

2. Một số cam kết của Việt Nam liên quan đến nông nghiệp

II. Một số tác động tích cực

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 2: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

2

1. Gia nhập WTO sẽ đẩy mạnh việc chuyển đổi lao động dư thừa ở khu vực nông thôn

2. Gia nhập WTO sẽ thúc đẩy nâng cao chất lượng đội ngũ lao động và cơ cấu lại lực lượng lao động

3. Gia nhập WTO tạo cơ hội để người lao động nâng cao thu nhập

4. Gia nhập WTO sẽ thúc đẩy phát triển thị trường lao động

Chương III : THÁCH THỨC CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP

I. Thách thức hiện tại

1. Việc bãi bỏ trợ cấp của Nhà nước đối với việc xuất khẩu và giảm thuế nhập khẩu các

mặt hàng nông sản ảnh hưởng đến đời sống của nông dân

2. Khó khăn của lao động nông nghiệp trong sản xuất hàng nông sản chất lượng cao và

quy mô lớn

3. Thiếu hụt lao động kỹ thuật trong nông nghiệp

II. Thách thức lâu dài

1. Sự gia tăng của lao động nông thôn di cư ra các đô thị

2. Khoảng cách giàu nghèo gia tăng giữa các nhóm lao động trong lĩnh vực nông nghiệp

• Kết luận và khuyến nghị

• Phụ lục: Số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê về kinh tế nông nghiệp và lao động

nông nghiệp của Việt Nam

- Giá trị sản xuất nông nghiệp theo giá thực tế phân theo ngành hoạt động

- Giá trị SX nông nghiệp theo giá so sánh 1994 phân theo ngành hoạt động

- Lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo thành phần kinh tế và phân theo ngành kinh tế

- Lao động bình quân trong khu vực Nhà nước phân theo ngành kinh tế

- Lao động bình quân trong khu vực Nhà nước do trung ương quản lý phân theo ngành

kinh tế

- Lao động bình quân trong khu vực Nhà nước do địa phương quản lý phân theo ngành

kinh tế

- Tỷ lệ thời gian làm việc được sử dụng của lao động trong độ tuổi ở khu vực nông thôn

phân theo vùng

• Tài liệu tham khảo

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 3: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

3

LỜI NÓI ĐẦU

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định "...Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối

ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song

phương và đa phương... tiến tới gia nhập WTO..."

Sau 11 năm đàm phán gia nhập WTO - một chặng đường đầy chông gai để đi đến thành

công, đến nay nước ta đã chính thức là thành viên của Tổ chức này. Giai đoạn đầu bước vào “ngôi nhà chung”, nước ta khẳng định tiếp tục tích cực, chủ động hội nhập kinh tế

quốc tế, tranh thủ tối đa các lợi ích mà quy chế thành viên của WTO mang lại, đồng thời xử lý hữu hiệu các thách thức của quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu. Qua nghiên cứu thực

tiễn một số nước gia nhập WTO, quá trình gia nhập WTO của nước ta, phân tích thực trạng lao động nông nghiệp trong nền kinh tế của nước ta. Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh

tế - Xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến hành nghiên cứu chuyên đề: “Tác động của việc gia nhập WTO đến lao động nông nghiệp Việt Nam” nhằm đánh giá và lý giải

những tác động đó với mục đích cung cấp những thông tin phục vụ cho lãnh đạo các cấp, các ngành kinh tế - xã hội. Hy vọng, đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho lãnh đạo và các

cơ quan, các ngành của nước ta.

Nội dung chính của chuyên đề được chia thành 3 chương như sau:

Chương 1. Tổng quan về thực trạng kinh tế và lao động nông nghiệp của nước ta.

Chương 2. Cam kết của Việt Nam về nông nghiệp và những tác động tích cực của

việc gia nhập WTO đối với lao động nông nghiệp

Chương 3. Thách thức của việc gia nhập WTO đối với lao động nông nghiệp của

nước ta

Xin trân trọng giới thiệu!

Trung tâm Thông tin và dự báo Kinh tế - xã hội Quốc gia

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 4: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

4

Chương I

TỔNG QUAN VỀ THỰC TRẠNG KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

VÀ LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP CỦA NƯỚC TA

I. KINH TẾ NÔNG NGHIỆP

1. Vài nét tổng quan

Là một quốc gia xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp đang hội nhập sâu vào nền kinh tế

thế giới với mục tiêu đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nhằm rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. Với nhiều tiềm năng về

kinh tế nông nghiệp và nguồn nhân lực cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã và đang tạo đà toàn diện cho kinh tế và lao động nông nghiệp phát triển.

Hiện nay, nền nông nghiệp nước ta đang trên đà phát triển và hoà nhập vào xu thế chung của nông nghiệp các nước trong khu vực và toàn cầu. Sự hoà nhập và phát triển này về mức

độ và hiệu quả không chỉ phụ thuộc vào bản thân sự cố gắng của riêng nước ta, mà còn phụ thuộc vào xu thế chung của thị trường hàng hoá nông sản thế giới. Trong định hướng phát

triển nông nghiệp của nước ta khi gia nhập WTO, một vấn đề quan trọng được đặt ra là khả năng thực sự về mức độ đáp ứng của sản xuất - xuất khẩu đối với nhu cầu thế giới đến đâu,

không chỉ về số lượng mà còn yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, đẹp về hình thức, phong phú và đa dạng về chủng loại với giá cả hợp lý nhằm tăng sức hấp dẫn đối với người tiêu

dùng. Do vậy, nâng cao khả năng sản xuất, phát huy các lợi thế cạnh tranh của nông sản hàng hoá Việt Nam trên thị trường là vấn đề cốt lõi trong quá trình hội nhập sâu vào thị

trường nông sản thế giới

Do điều kiện địa lý đặc thù và tài nguyên thiên nhiên ở nước ta, phát triển kinh tế nông

nghiệp không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với an ninh lương thực quốc gia, đối với môi trường sinh thái của nước ta..., mà còn quan trọng đối với việc phát triển dựa trên lợi thế so

sánh của các vùng miền trong cả nước. Chính vì vậy mà mục tiêu phát triển dài hạn của ngành nông nghiệp nước ta là xây dựng một nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá, đa dạng sản phẩm

và định hướng xuất khẩu, nền nông nghiệp ứng dụng kỹ thuật, công nghệ mới và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Trong quá trình chuyển đổi

nền kinh tế và hội nhập quốc tế, suốt trên 20 năm qua, đặc biệt là những năm gần đây sự phát triển kinh tế nông nghiệp của nước ta về cơ bản đã và đang có nhiều bước tiến triển, đời sống

của đại bộ phận dân cư nông nghiệp, nông thôn không ngừng được cải thiện. Nhưng đồng thời cũng còn không ít những hạn chế, thách thức đang đặt ra; đặc biệt trong điều kiện hiện

nay nước ta là thành viên chính thức của WTO.

2. Một số thành tựu về kinh tế nông nghiệp

- Trong 6 năm (2001-2006), tăng trưởng kinh tế cả nước ước tính đạt bình quân 7,6%/năm; trong đó khu vực kinh tế nông nghiệp tăng bình quân khoảng 3,5%/năm; đặc biệt, sản lượng

lương thực có hạt từ 34,27 triệu tấn (năm 2001) đã tăng lên 39,65 triệu tấn (năm 2006), bình quân mỗi năm tăng 1,32 triệu tấn. Đây là thành tựu lớn, chẳng những đảm bảo vững chắc an

ninh lương thực quốc gia, mà còn phục vụ tốt cho xuất khẩu.

- Mặc dù phải đối mặt với hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh..., nhưng cơ cấu sản xuất các mặt hàng

trong nông nghiệp đã và đang có sự đa dạng hoá. Tính riêng năm 2006, giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp (theo giá cố định) ước tính tăng khoảng 4,4% so với năm 2005, trong đó

nông nghiệp tăng 3,6%; lâm nghiệp tăng 1,2%; thuỷ sản tăng 7,7%.

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 5: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

5

- Từ năm 2001 đến năm 2006, giá trị sản xuất nông nghiệp hàng năm (giá thực tế) của

nước ta không ngừng tăng lên, thể hiện ở năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể năm 2001, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 130,2 nghìn tỷ đồng, năm 2002 đạt 145,0 nghìn tỷ đồng, năm

2003 đạt 154,0 nghìn tỷ đồng, năm 2004 đạt 172, 5 nghìn tỷ đồng, năm 2005 đạt 184,8 nghìn tỷ đồng và năm 2006 đạt 197 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, xét về từng ngành hoạt động trong

nông nghiệp thì hoạt động dịch vụ có giá trị sản xuất hàng năm tăng không ổn định do năm 2005 thấp hơn so với năm 2004. Bảng 1 (trang 12) cho thấy giá trị sản xuất nông nghiệp phân

theo các ngành hoạt động.

- Kinh tế trang trại phát triển nhanh về số lượng ở tất cả các vùng trong cả nước, đến thời

điểm 01/7/2006, cả nước có 113 730 trang trại, tăng 52 713 trang trại (+86,4%) so với năm 2001. Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên là những vùng tập trung số

lượng trang trại nhiều nhất với 80 077 trang trại, chiếm 70,4% số trang trại cả nước. Nét mới trong phát triển kinh tế trang trại là loại hình sản xuất ngày càng đa dạng và có sự chuyển dịch

về cơ cấu theo hướng giảm tỷ trọng các trang trại trồng cây hàng năm và cây lâu năm và tăng tỷ trọng các loại trang trại chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và sản xuất kinh doanh tổng hợp. Tỷ

trọng trang trại trồng cây hàng năm giảm từ 35,6% năm 2001, xuống còn 28,7% năm 2006; trang trại trồng cây lâu năm từ 27,2% giảm xuống còn 20,2%; trang trại chăn nuôi từ 2,9%

tăng lên 14,7%; trang trại nuôi trồng thuỷ sản từ 27,9% tăng lên 30,1% trong thời gian tương ứng.

Bảng 1. Giá trị sản xuất nông nghiệp

(giá thực tế - Nghìn tỷ đồng)

Năm Tổng Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ

2001 130,2 101,4 25,5 3,3

2002 145,0 111,2 30,5 3,3

2003 154,0 116,1 34,5 3,4

2004 172,5 131,6 37,3 3,6

2005 184,8 138,0 43,4 3,4

2006 197 144,8 48,6 3,6

Nguồn: Tổng cục Thống kê.

- Xuất khẩu nông sản

Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, hoạt động xuất khẩu của các nước là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội nhập quốc tế và phát triển trong mối quan hệ tuỳ thuộc vào nhau

giữa các quốc gia. Hoạt động xuất khẩu còn là yếu tố quan trọng nhằm phát huy mọi nguồn nội lực, tạo thêm vốn đầu tư để đổi mới công nghệ, tăng thêm việc làm, thúc đẩy nhanh quá

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Thành quả của những năm vừa qua của nước ta là hàng nông sản Việt Nam đã có mặt ngày càng nhiều trên thị trường nhiều

nước và đã góp phần thu về một lượng ngoại tệ đáng kể để phát triển đất nước. Do lợi thế phát triển hàng hoá nông sản xuất khẩu của nước ta có nhiều, nên cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu

cũng được cải thiện theo chiều hướng đa dạng hoá.

Nhìn lại 6 năm qua (2001 – 2006), tổng giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp của

nước ta liên tục tăng cao, năm 2001 đạt 4,4 tỷ USD, năm 2002 đạt 4,6 tỷ USD, năm 2003 đạt,

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 6: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

6

5,1 tỷ USD, năm 2004 đạt 7,1 tỷ USD, năm 2005 đạt 7,7 tỷ USD và năm 2006 ước đạt

khoảng 9,1 tỷ USD. Hầu hết các mặt hàng nông sản của nước ta đều có mặt ở các thị trường của các nền kinh tế phát triển như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Canada... Đặc biệt nước ta đứng

thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo và nằm trong 10 nước xuất khẩu thuỷ sản nhiều nhất trong năm 2006

- Về kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp

Công tác đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn trong

những năm qua ngày càng được Nhà nước chú trọng. Hiện nay, có nhiều công trình thuỷ lợi đã được hoàn thành và đưa vào sử dụng góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất, thâm canh,

tăng năng suất và sản phẩm nông nghiệp. Đến nay đã bảo đảm tưới tiêu cho khoảng trên 90% diện tích lúa, hàng vạn ha hoa màu, cây công nghiệp và cây ăn quả; hệ thống đê điều được

củng cố, nhiều diện tích đất nông nghiệp kém hiệu quả được chuyển sang sản xuất nuôi trồng thuỷ sản hoặc sử dụng vào các mục đích khác.

3. Một số hạn chế

- Sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất các mặt hàng nông sản và sự phát triển kinh tế nông

nghiệp ở nhiều địa phương còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu của thị trường. Trong nông nghiệp chủ yếu vẫn là trồng trọt, trong trồng trọt chủ yếu là cây lương

thực

- Năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của một số nông sản còn thấp. Việc nghiên

cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn chậm…

- Việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp và phát triển các thành phần kinh tế còn chậm. Hiệu

quả hoạt động doanh nghiệp Nhà nước còn thấp. Doanh nghiệp tư nhân là nhân tố quan trọng trong phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn, nhưng quy mô

nhỏ bé, chủ yếu là dịch vụ (chỉ có 5% liên quan đến sản xuất) và chỉ phát triển mạnh ở ven đô thị, hoặc nơi có kết cấu hạ tầng tương đối phát triển...

II. LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP

1. Lực lượng lao động

Một nền kinh tế có được tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm cao và ổn định là nền kinh tế đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động hiện có. Sự tăng trưởng kinh tế của nước ta trong

những năm gần đây đã chứng minh điều này. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, lao động nông nghiệp hàng năm của nước ta chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng lao động

làm việc trong nền kinh tế. (Xem Hình 1 dưới đây mô tả lực lượng lao động nông nghiệp hàng năm của nước ta). Tuy nhiên, cũng cần phân biệt sự khác nhau giữa lao động nông

nghiệp và lao động nông thôn. Bởi khái niệm thứ nhất hẹp hơn khái niệm thứ hai. Còn khái niệm thứ hai dùng để chỉ toàn bộ lao động sống và làm việc ở nông thôn (bao gồm cả lao

động nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ). Tuy nhiên, do nước ta là một quốc gia xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp đang trong quá trình công nghiệp hoá nên ở nông thôn chủ

yếu là lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Do vậy, giữa 2 khái niệm này có sự liên quan chặt chẽ với nhau trong điều kiện hiện nay của nước ta và đôi khi được nhiều nhà

nghiên cứu sử dụng thay thế nhau.

Theo tính toán, so với tổng dân số của cả nước, hiện nay cứ bình quân 4 người sẽ có 1 lao

động nông nghiệp; còn so với lao động đang làm việc trong nền kinh tế thì trong 10 lao động sẽ có khoảng 5,6 lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Do đó, ở bình diện toàn nền

kinh tế quốc dân, thì nền kinh tế của nước ta được đặc trưng bởi thực tế lực lượng lao động

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 7: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

7

chủ yếu là lao động nông nghiệp; xét về quy mô lao động so với các nền kinh tế là thành viên

của WTO thì nước ta có quy mô lao động nông nghiệp xếp hạng ở vị trí những nước đông nhất của tổ chức này.

Cũng từ Hình 1 dưới đây cho thấy, mặc dù lao động nông nghiệp hàng năm của nước ta có giảm theo hướng tích cực, nhưng hiện vẫn còn chiếm khoảng gần 28,2% trong tổng dân số

của cả nước.

Hình 1. Lao động nông nghiệp hàng năm

(nghìn người)

24468,4 24455,8 24443,4 24430,7

24342,4

24122,8

Naêm 2001 Naêm 2002 Naêm 2003 Naêm 2004 Naêm 2005 Öôùc 2006

Nguồn: Tổng cục Thống kê.

2. Cơ cấu lao động

Cơ cấu lao động nông nghiệp hiện tại của nước ta cho thấy lao động nông, lâm nghiệp

chiếm tỷ trọng đại đa số lao động nông nghiệp, lao động thuỷ sản chiếm tỷ trọng rất nhỏ, mặc dù nước ta cũng có nhiều tiềm năng về ngư nghiệp. Do vậy, có thể thấy rằng cơ cấu

lao động trong nội bộ khu vực nông nghiệp của nước ta còn mất cân đối và bất hợp lý so với tiềm năng về nông, lâm, ngư nghiệp của nước ta. Tuy nhiên, xét về sự chuyển dịch cơ

cấu lao động trong nội bộ khu vực nông nghiệp thì sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong khu vực này đang diễn ra theo hướng tích cực, phù hợp với chủ trương công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Biểu hiện tích cực của sự chuyển dịch đó là sự giảm dần tỷ trọng lao động nông, lâm nghiệp và tăng dần tỷ trọng lao động làm việc trong lĩnh

vực thuỷ sản (Hình 2).

Hình 2. Cơ cấu lao động nông nghiệp hàng năm (%)

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 8: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

8

93,193,593,994,394,595,4

6,96,56,15,75,54,6

Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Ước 2006

Nông, lâm nghiệp Thuỷ sản

Nguồn: Tổng cục Thống kê.

Xét về cơ cấu lao động trong nền kinh tế nước ta so với mục tiêu đề ra đến năm 2010 về việc giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp xuống còn 50% lao động trong nền kinh tế thì có thể khẳng

định rằng mục tiêu đó Việt Nam sẽ đạt được. Song, xét về chất lượng và năng suất lao động thì đó đang là thách thức không nhỏ đối với nước ta trong điều kiện mở cửa và hội nhập sâu vào nền

kinh tế thế giới, đặc biệt trong điều kiện nước ta đã là thành viên của WTO. Hình 3 dưới đây mô tả tỷ trọng lao động nông nghiệp trong cơ cấu lao động của nền kinh tế

Hình 3. Lao động nông nghiệp trong cơ cấu lao động của nền kinh tế (%)

100 100 100 100 100 100

63,4 61,9 60,3 58,8 56,8 55,6

Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Ước 2006

Lao động trong nền kinh tế Lao động nông nghiệp

Nguồn: Tổng cục Thống kê.

3. Chất lượng lao động

Sự phát triển kinh tế ở cả nông thôn và thành thị trong những năm gần đây đã nói lên phần nào chất lượng lao động trong các khu vực kinh tế của nước ta nói chung, chất lượng

lao động nông nghiệp nói riêng. Sự phát triển này có thể được xem là những tiêu chí cơ bản cho thấy chất lượng, năng suất lao động của nước ta đã có bước tiến đáng kể. Chất

lượng lao động nông nghiệp ngày được nâng cao không những đảm bảo cho an ninh lương thực quốc gia mà còn đảm bảo cho việc xuất khẩu ngày càng nhiều các mặt hàng nông sản

sang những thị trường khó tính như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU... Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều người thì nhìn chung chất lượng lao động trong khu vực kinh tế nông nghiệp

của nước ta còn rất thấp so với các nước trong khu vực như: Trung Quốc, Thái Lan và so với các nước thành viên khác của WTO. Điều đó được thể hiện:

- Thứ nhất, sức cạnh tranh, khả năng làm việc của lao động nông nghiệp nhìn chung bị hạn chế do tay nghề, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ hạn chế, kỹ năng làm việc còn thấp

và sức khoẻ còn yếu. Hiện có tới 75,21% lao động chưa qua đào tạo nghề, trong đó phần lớn là lao động nông nghiệp.

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 9: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

9

- Thứ hai, đại bộ phận lao động nông nghiệp, đặc biệt là nông dân chưa có tác phong lao

động công nghiệp, còn mang nặng thói quen và tập quán sản xuất nhỏ và manh mún, kỷ luật lao động lỏng lẻo, thiếu trách nhiệm đối với công việc.

Bảng 2. Lao động chia theo trình độ giáo dục phổ thông

Đơn vị: %

Vùng lãnh thổ

Từ chưa biết chữ đến chưa tốt

nghiệp tiểu học

Tốt nghiệp

tiểu học đến

THCS

Tốt nghiệp

THPT

Đồng Bằng Sông Hồng 4,7 67 28,3

Đông Bắc 15,5 63,6 20,9

Tây Bắc 36,7 52,2 11,1

Bắc Trung Bộ 9,3 69,8 20,9

Duyên Hải Nam Trung Bộ 18 62,4 19,6

Tây Nguyên 25,1 58,9 16

Đông Nam Bộ 16,3 56 27,7

Đồng Bằng Sông Cửu Long 31,4 57,3 11,3

Nguồn: Kết quả điều tra lao động việc làm ngày 1/7/2005 Bộ Lao động – Thương binh và Xã

hội.

Số liệu bảng 2 trên đây về trình độ văn hoá của lực lượng lao động cũng đã phần nào nói lên chất lượng lao động nông nghiệp nói riêng, lao động trong toàn nền kinh tế nói chung ở

nước ta. Phần lớn lao động ở khu vực nông, lâm, ngư nghiệp chưa qua đào tạo, hoặc đào tạo không cơ bản, trình độ văn hoá thấp. Minh chứng cho điều này là vùng có nhiều tiềm năng về

kinh tế nông nghiệp như Đồng bằng Sông Cửu Long lại có tỷ lệ lao động từ chưa biết chữ đến chưa tốt nghiệp tiểu học cao nhất so với các vùng khác trong cả nước. Hơn nữa, thực tế những

năm qua yêu cầu lao động ở khu vực kinh tế này cũng chủ yếu là lao động phổ thông, lao động cơ bắp, những ngành nghề đòi hỏi trình độ cao ở khu vực kinh tế đó một mặt chưa phát

triển, mặt khác chưa được đầu tư thoả đáng cho việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề của lao động.

4. Một số thành tựu

+ Tỷ trọng lao động đang làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tiếp tục

giảm từ 63,4% năm 2001 xuống 58,8% trong năm 2004 và từ 56,8% năm 2005 xuống 55,6% trong năm 2006. Như vậy, tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm 7,8% trong vòng 6 năm (2001–

2006), bình quân mỗi năm giảm 1,3% để chuyển dịch sang các khu vực có năng suất lao động cao hơn, phù hợp với chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đẩy mạnh

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

+ Giảm số lượng và tỷ trọng nhóm hộ làm việc trong nông, lâm nghiệp, thuỷ sản; tăng số

lượng và tỷ trọng nhóm hộ công nghiệp và dịch vụ. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến 1/7/2006, số hộ lao động trong nông, lâm nghiệp và thuỷ sản ở nông thôn là 9,78 triệu hộ,

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 10: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

10

giảm 0,79 triệu hộ (-7,5%) so với năm 2001. Sự chuyển dịch cơ cấu hộ nông nghiệp ở nông

thôn trên cả nước thời kỳ 2001 - 2006 diễn ra nhanh và rõ nét hơn so với các thời kỳ trước đây.

+ Cơ cấu hộ trong nội bộ nhóm ngành nông - lâm nghiệp - thuỷ sản: Ở khu vực nông thôn tiếp tục có sự thay đổi tích cực theo hướng tỷ trọng hộ thuỷ sản tăng lên và tỷ trọng hộ nông

nghiệp giảm đi tương ứng chủ yếu do nhiều địa phương thực hiện chuyển đổi những diện tích trồng cây kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản. Nếu như năm 1994 hộ thuỷ sản chỉ chiếm

2,3% trong nhóm hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, năm 2001 chiếm 4,2% thì đến năm 2006 loại hộ này đã chiếm 6,2%. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng có tỷ trọng hộ thuỷ sản tăng

nhanh nhất từ 9,8% năm 2001 đã lên tới 15,1% năm 2006. Tiếp đến là các vùng khác có tỷ trọng hộ thuỷ sản tăng khá là vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Hồng.

+ Kinh tế trang trại phát triển góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông nghiệp, nông thôn:

Theo Tổng cục Thống kê, đến năm 2006 các trang trại đã tạo việc làm thường xuyên cho gần 400 nghìn lao động nông nghiệp ở nông thôn, gấp 1,7 lần so với năm 2001. Do tính chất

thời vụ của sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản nên ngoài lao động thường xuyên, các trang trại còn sử dụng trên một trăm ngàn lao động thời vụ.

Thu nhập bình quân 1 lao động làm việc thường xuyên của trang trại là 17,5 triệu đồng/năm cao gấp trên 2 lần so với lao động khu vực nông thôn. Tuy nhiên, lao động làm việc

trong trang trại chủ yếu vẫn là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo chỉ có khả năng đảm nhiệm những công việc giản đơn như làm đất, trồng cây, chăn dắt gia súc, gia cầm, chế biến

thức ăn,…

+ Lao động kỹ thuật trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp đang trong xu hướng tăng lên,

năm 2005 số lao động này chiếm 4,2 % trong tổng số lao động nông nghiệp của cả nước. Đối với lao động kỹ thuật bậc cao trong nông nghiệp cũng đã tăng từ 2,3% năm 1999 lên 3,8%

trong năm 2005.

5. Một số hạn chế

+ Kết quả điều tra về nông nghiệp, nông thôn của Tổng cục Thống kê năm 2006 cho thấy, mặc dù cấu lao động nông nghiệp đã có những chuyển biến theo hướng tích cực trong trong

nội bộ ngành nông nghiệp. Song, xét về cơ cấu hộ trong thời gian qua thì tốc độ chuyển dịch ngành nghề từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp còn rất chênh lệch giữa các vùng. Tây

Nguyên và Tây Bắc là những vùng chuyển dịch rất chậm trong 6 năm qua.

+ Kinh tế nông thôn nước ta chủ yếu là thuần nông. Ngành nghề phi nông nghiệp phát

triển chậm, nên sức hút lao động nông nghiệp vào các ngành phi nông nghiệp còn thấp. Tình trạng thiếu việc làm ngày càng gay gắt, nhất là ở các vùng đất chật, người đông như ở

Đồng bằng sông Hồng, duyên hải miền Trung. Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, lao động nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp) từ đủ

15 tuổi trở lên chỉ có đủ việc làm cho khoảng 80% thời gian lao động trong năm 2005, trong đó lao động nông, lâm nghiệp thiếu việc làm chiếm tỷ trọng cao nhất trong nội bộ khu vực

nông, lâm, ngư nghiệp (chỉ có việc làm khoảng 76% thời gian lao động)

+ Chênh lệch khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, giữa lao động nông nghiệp

và lao động phi nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn ngày càng tăng,... Nếu áp dụng chuẩn nghèo mới thì tỷ lệ nghèo cả nước năm 2006 là khoảng 20%, riêng ở nông thôn lên

30%, miền núi cao hơn lên tới 50%, có nơi trên 60% (vùng Tây Bắc)…

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 11: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

11

+ Ở nông thôn, trong lĩnh vực nông nghiệp, tình hình mất an toàn vệ sinh lao động rất

nghiêm trọng: Khoảng 30% số người trực tiếp phun thuốc bảo vệ thực vật có dấu hiệu nhiễm độc. Năm 2004, cả nước có 4.009 vụ nhiễm độc thuốc bảo vệ thực vật, làm cho 10.355 người

bị nhiễm độc và 154 người bị tử vong; tần suất tai nạn trong sử dụng điện là 7,99%, trong sử dụng máy nông nghiệp là 8,56%. Theo điều tra của Vụ Y tế dự phòng (Bộ Y tế), ước tính

hàng năm có khoảng 20.000 lượt người bị tai nạn lao động trong nông nghiệp, trong đó có 1.500 trường hợp tử vong; trên 5.000 trường hợp bị nhiễm độc thuốc bảo vệ thực vật phải cấp

cứu tại bệnh viện, trong đó 300 trường hợp tử vong. Công tác chăm sóc sức khoẻ cho người lao động ở nông thôn còn gặp khó khăn và chưa được đầu tư, người lao động chưa tham gia

bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, không có chế độ bồi thường tai nạn lao động, mọi chi phí đều do người lao động phải tự trang trải. Hơn nữa, đến nay, Việt Nam vẫn chưa có bất kỳ cơ chế

bảo đảm an sinh nào cho lao động nông nghiệp nói riêng, nông dân nói chung. Một thực tế ở Việt Nam hiện nay là những người có thu nhập cao được hưởng chế độ an sinh xã hội, trong

khi cơ hội hưởng lợi từ hệ thống này của những người làm nghề nông nghiệp lại rất hạn chế.

Chương II

CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỀ NÔNG NGHIỆP

VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA VIỆC GIA NHẬP

WTO ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP

I. NHỮNG CAM KẾT

1. Tổng quan về quy định trợ cấp nông nghiệp của WTO

Theo quy định của WTO về nông nghiệp, nước xin gia nhập vào tổ chức thương mại này

phải thoả mãn 2 điều kiện sau: i) Giảm trợ cấp nông nghiệp, bao gồm cả trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp sản xuất; ii) Tăng mức độ mở cửa thị trường của mình hay nói cách khác là tăng sự

tiếp cận thị trường cho các quốc gia thành viên. Tuy nhiên, WTO cũng có những ngoại lệ dành cho các nước đang và kém phát triển đối với trợ cấp nông nghiệp và được chia thành các

loại hình trợ cấp khác nhau: Một là trợ cấp bị cấm hoàn toàn (hay có thể gọi là "trợ cấp đèn đỏ") bao gồm trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp khuyến khích sử dụng hàng nội so với hàng nhập

khẩu; hai là trợ cấp không bị cấm nhưng có thể là đối tượng của các biện pháp đối kháng (gọi là "trợ cấp đèn vàng"); ba là trợ cấp không bị cấm và cũng không là đối tượng của các biện

pháp đối kháng (gọi là "trợ cấp đèn xanh"). Tổ chức này đưa ra hệ thống các tiêu chuẩn về trợ cấp, được đề cập trong Hiệp định Nông nghiệp.

Mục tiêu của Hiệp định Nông nghiệp của WTO là tiến hành cải cách thương mại quốc tế đối với hàng nông sản theo hướng công bằng, bình đẳng, góp phần củng cố vai trò của thị

trường nhằm tạo ra điều kiện ngày càng thuận lợi đối với việc mua bán hàng hoá nông sản để ổn định và đảm bảo sự an toàn cho nền nông nghiệp của các nước xuất khẩu cũng như các

nước nhập khẩu hàng nông sản. Yêu cầu của Hiệp định Nông nghiệp của WTO là các quốc gia phải giảm các hình thức trợ cấp sao cho giá cả trên thị trường nông sản thế giới không

được biến động tuỳ ý và có thể dẫn đến tình trạng bán phá giá. Các quy định trong Hiệp định Nông nghiệp được xây dựng xoay quanh ba nhóm vấn đề chính được gọi là ba trụ cột. Đó là:

(1) Tiếp cận thị trường: giảm bớt các rào cản thương mại đối với hàng nông sản nhập khẩu

(2) Trợ cấp nội địa: đưa ra các quy định và cam kết quản lý trợ cấp cho sản xuất trong

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 12: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

12

nước cũng như các chương trình tương tự khác, bao gồm cả các chương trình kích thích tăng

giá nông sản do các trang trại bán ra hoặc các chương trình đảm bảo thu nhập cho người nông dân.

(3) Trợ cấp xuất khẩu: đưa ra các quy định và cam kết quản lý trợ cấp đối với hàng nông sản xuất khẩu hay những biện pháp tương tự khác để chống lại hàng nông sản xuất khẩu của

các nước thành viên có tính cạnh tranh giả tạo trên thị trường quốc tế.

Hiệp định cho phép các chính phủ khuyến khích khu vực kinh tế nông thôn, nhưng nên

thông qua các chính sách thương mại của WTO. Hiệp định cho phép có sự linh động trong việc thực thi các cam kết. Các nước đang phát triển không cần phải giảm bớt trợ cấp hay cắt

giảm thuế quan nhiều như các nước phát triển. Họ cũng có thời gian chuyển tiếp dài hơn để thực hiện các cam kết của mình…

2. Một số cam kết của Việt Nam liên quan đến nông nghiệp

Gia nhập WTO, Việt Nam cam kết bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hoá, các loại

trợ cấp “đèn vàng”, “đèn xanh” vẫn được duy trì và không ai cấm Nhà nước chuyển số tiền trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hoá trước đây sang phát triển thuỷ lợi, kiện toàn giao

thông nông thôn, nâng cao chất lượng giống, phát triển công nghệ sau thu hoạch, xây dựng các kho lạnh cho hàng thuỷ sản và kho đệm để dự trữ lúa, cà phê, ..., cho bà con nông dân,

tránh để họ phải bán ồ ạt khi vào vụ...

Về trợ cấp nông nghiệp, Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với

nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này như được phép trợ cấp

khuyến nông và phục vụ phát triển nông nghiệp. Đối với loại trợ cấp (đèn đỏ) mà WTO quy định phải cắt giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng hàng

nông sản. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm. Có thể nói, trong nhiều năm tới, ngân sách của nước ta cũng chưa đủ sức

để hỗ trợ cho nông nghiệp ở mức này. Các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nông hay trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp được WTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn

chế

II. MỘT SỐ TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC

Tác động tích cực của việc gia nhập WTO không chỉ liên quan đến lao động, việc làm nông nghiệp (nông, lâm, ngư nghiệp) mà nó còn tác động đến toàn bộ các hoạt động trong nền

kinh tế của nước ta. Bởi:

Thứ nhất là: khu vực đầu tư nước ngoài chịu sự tác động của các cam kết về các điều

khoản đầu tư, mở cửa thị trường và cắt giảm thuế quan đối với khu vực đầu tư nước ngoài;

Thứ hai là: các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, đặc biệt là khu vực kinh

tế nông nghiệp chiếm nhiều lao động chịu sự tác động của các điều khoản về thương mại;

Thứ ba là: trong các khu vực không giao thương quốc tế trực tiếp thì do việc gia tăng giao

thương quốc tế nên cũng chịu tác động nhất định bởi cầu nội địa về hàng hoá – dịch vụ tăng, do đó sẽ tăng nhu cầu về lao động và tạo thêm việc làm mới.

Thứ tư là: việc gia nhập WTO đã đặt ra những yêu cầu và điều kiện cho việc điều chỉnh cơ cấu lao động xã hội sao cho có hiệu quả nhất đối với nền kinh tế và qua đó cũng tạo

điều kiện để nước ta tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, hình thành một cơ cấu kinh tế - xã hội có hiệu quả hơn, đẩy nhanh, rút ngắn tiến trình hiện đại hoá đất nước.

Điều này có thể làm gia tăng việc làm mới trong những ngành nghề làm hàng xuất khẩu,

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 13: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

13

trong đó có những ngành có tổng kim ngạch xuất khẩu lớn và sử dụng nhiều lao động như

dệt may, giày dép, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ, trồng các loại cây nông nghiệp và công nghiệp như lúa, cà phê, hạt điều cao su, cây ăn quả…

Với việc gia nhập WTO, lao động nông nghiệp nước ta vừa có nhiều cơ hội, vừa đối mặt với nhiều thách thức. Các cơ hội sẽ không mang lại lợi ích thực tế nếu chúng ta không nắm

bắt được. Nếu biết phòng tránh và có giải pháp vượt qua thách thức một cách phù hợp thì sẽ hạn chế được các tác động tiêu cực của chúng. Nói cách khác có cơ hội mà không nắm bắt

được, cũng như gặp thách thức mà không vượt qua được thì sẽ tạo thành những tác động tiêu cực có tính hệ thống…, ngược lại nắm bắt được cơ hội, vượt qua được thách thức sẽ trở thành

những tác động tích cực có tính hệ thống lan toả từ khu vực kinh tế, khu vực lao động này đến khu vực kinh tế, khu vực lao động khác…

Việc nước ta trở thành thành viên chính thức của WTO sẽ có tác động tích cực đối với lao động nông nghiệp ở một số mặt chủ yếu sau đây:

1. Gia nhập WTO sẽ đẩy mạnh việc chuyển đổi lao động dư thừa ở khu vực nông thôn

Kinh nghiệm phát triển kinh tế ở nhiều nước khác nhau sau khi gia nhập WTO đã chỉ ra rằng việc chuyển đổi lao động dư thừa trong lĩnh vực nông nghiệp ở nông thôn cho những

ngành phi nông nghiệp không chỉ là một nội dung cơ bản của công nghiệp hoá nông nghiệp mà còn là cách tiếp cận cơ bản để nâng cao mức sống của người dân nông thôn. Để

giải quyết vấn đề lao động dư thừa trong nông nghiệp, các nền kinh tế đều rất chú trọng việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ để cung cấp nhiều cơ hội việc làm cho lao

động dôi dư sang làm việc trong các ngành phi nông nghiệp. Vì thực chất việc phát triển một lượng lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ là cơ sở để giải phóng lao động dư

thừa ở khu vực nông thôn mà cũng là một trong những yếu tố cơ bản để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nhằm rút ngắn tiến trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với các quốc gia, đặc biệt là đối với các nền kinh tế đang phát triển.

Là một quốc gia đang phát triển với việc gia nhập WTO cùng với việc tiếp tục tăng số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ta sẽ vừa làm cho đầu tư của nước ngoài vào Việt

Nam tăng lên vừa làm cho hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế của Việt Nam được mở rộng, vì vậy nhu cầu về lao động tất yếu cũng tăng lên, mở ra cơ hội việc làm và gia tăng thu

nhập cho người lao động. Những cơ hội việc làm rộng mở cùng với sự trả công hấp dẫn hơn đã tạo ra sự di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị, từ khu vực nông nghiệp đến khu

công nghiệp, từ nơi có thu nhập thấp đến nơi có thu nhập cao hơn,... Xét trên khía cạnh kinh tế, đây là những sự dịch chuyển lao động tuân theo quy luật thị trường, làm cho nguồn lực lao

động được sử dụng hợp lý và hiệu quả hơn.

Có thể kể ra đây một số yếu tố ít nhiều liên quan đến việc gia nhập WTO sẽ góp phần làm

tăng cầu lao động: (i) Hoạt động xuất nhập khẩu được mở rộng; (ii) Bùng nổ đầu tư nước ngoài; (iii) Phát triển mạnh doanh nghiệp vừa và nhỏ; (iv) Đô thị hoá và (v) Những chuyển

đổi trong bản thân sản xuất nông nghiệp.

(i) Hoạt động xuất nhập khẩu được mở rộng

Với tư cách là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới, Việt Nam có thể xuất khẩu vào thị trường 149 nước thành viên khác với mức thuế ưu đãi, thay vì chỉ có một số thị trường

xuất khẩu như trước đây. Thị trường rộng mở, hàng hoá của Việt Nam có nhiều cơ hội thâm nhập thị trường các nước hơn, làm tăng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu, đặc biệt với những

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 14: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

14

sản phẩm nước ta có ưu thế cạnh tranh (hàng nông sản, dệt may…).

Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu năm 2006

Mặt hàng Kim ngạch xuất khẩu năm 2006

(Triệu USD)

Tăng trưởng năm 2006 so

với 2005 (%)

Cà phê 1101 149,9

Rau quả 263 112,0

Cao su 1273 158,3

Hạt tiêu 190 126,4

Hạt điều 505 100,6

Chè 111 114,0

Sản phẩm gỗ 1904 121,9

Thuỷ sản 3364 123,1

Dệt may 5802 119,9

Nguồn: Tổng cục Thống kê.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2006 đạt 39,6 tỷ USD,

tăng 22,1% so với năm 2005. Trong đó, tốc độ tăng lớn nhất thuộc về cao su (58,3%), cà phê (49,9%), hạt tiêu (26,4%), thuỷ sản (23,1%). Đây đều là những mặt hàng xuất khẩu mà Việt

Nam có thế mạnh.

Tính đến hết tháng 4/2007, tức là 5 tháng sau khi nước ta chính thức trở thành thành viên

WTO, kim ngạch xuất khẩu ước tính đạt 14,5 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước 6,4 tỷ USD tăng 27,8% so với cùng kỳ năm 2006, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (không

kể dầu thô) 5,7 tỷ USD tăng 35,2%, và dầu thô 2,4 tỷ USD giảm 10,5%; về mặt hàng nông sản, xuất khẩu cà phê đạt 947 triệu USD, tăng 134%; thuỷ sản đạt 1036 triệu USD, tăng

20,4%, xuất khẩu rau quả tăng 20,3%, ....

Cơ hội xuất khẩu bình đẳng khiến hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất

khẩu, nhất là những hoạt động sản xuất những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh hoặc sử dụng nhiều lao động (dệt may, giày dép, thuỷ sản…) được phát triển mạnh và tạo ra được nhiều

việc làm mới.

(ii) Bùng nổ đầu tư nước ngoài

Chính trị ổn định, môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng hoàn thiện, tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng cùng nguồn lao động trẻ dồi dào với nhân công rẻ, tốc độ

tăng tiêu dùng nhanh… khiến Việt Nam thành lựa chọn đầu tư của nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Gia nhập WTO, thực hiện cam kết về các điều khoản đầu tư đã mở ra một kỷ nguyên

mới về thu hút đầu tư gián tiếp và trực tiếp nước ngoài, phát triển mạnh mẽ các khu công nghiệp và khu chế xuất. Nhiều doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài được thành lập mới

với số vốn đăng ký rất lớn hoặc tăng vốn mở rộng quy mô sản xuất đã tạo ra một lượng lớn việc làm cho người lao động.

Ngay từ năm 2005 đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có nhiều khởi sắc và với triển vọng Việt Nam sẽ gia nhập WTO vào cuối năm 2006 khiến đầu tư trực tiếp nước ngoài trong năm này

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 15: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

15

có sự phát triển vượt bậc. Năm 2006, đã đạt kỷ lục về lượng vốn đăng ký (10,2 tỷ USD) và

vốn thực hiện (4,1 tỷ USD), cao nhất từ trước đến năm đó. Năm 2007 thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài hứa hẹn thành công hơn năm 2006. Chỉ tính riêng 4 tháng đầu năm 2007, tổng số

vốn đăng ký mới và tăng thêm đã là 3,41 tỷ USD, tăng 48% so với cùng kỳ năm 2006.

Làn sóng đầu tư gián tiếp mới của nước ngoài đã xuất hiện ở nước ta vào khoảng tháng

7/2006 với sự bùng nổ của thị trường chứng khoán. Đến cuối năm 2006 chỉ số VN-Index tăng 144,8% so với cuối năm 2005 chính thức ghi dấu Việt Nam trở thành thị trường chứng khoán

tăng trưởng nhanh nhất thế giới trong năm 2006. Tỷ suất lợi nhuận cực cao của TTCK Việt Nam khiến nhiều quỹ đầu tư nước ngoài đã và đang gấp rút tìm kiếm cơ hội đầu tư tại thị

trường Việt Nam đầy tiềm năng.

Gia nhập WTO, đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng trong lĩnh vực kinh doanh nông nghiệp, sơ

chế hoặc chế biến nông sản, mở mang những vùng đất hoang hoá, sản xuất những sản phẩm nông nghiệp độc đáo mà họ đang có thị trường. Nhờ đó lao động Việt Nam, nhất là lao động

nông nghiệp sẽ có thêm công ăn việc làm; người tiêu dùng Việt Nam sẽ mua được những sản phẩm vừa rẻ, vừa tốt hơn. Nông dân nghèo canh tác ở các vùng khó khăn sẽ có cơ may phát

triển nhờ có những giống mới do các công ty quốc tế chuyên áp dụng công nghệ sinh học tạo ra

Dòng vốn đầu tư nước ngoài gia tăng chảy vào Việt Nam giúp cho nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập mới hoặc mở rộng quy mô; nhiều doanh nghiệp Việt

Nam có điều kiện cơ cấu lại doanh nghiệp, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức sản xuất kinh doanh, đào tạo nâng cao trình độ nghề nghiệp cho lao động, … Đây là cơ hội lớn về việc

làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, tạo môi trường thuận lợi cho việc chuyển dịch lao động từ khu vực sản xuất nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp.

Theo các chuyên gia quốc tế dự báo, sẽ có một lượng lớn việc làm được tạo ra do có làn sóng đầu tư mới nước ngoài vào nước ta và sẽ tạo nhiều công ăn việc làm trong khối các

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này cũng đã được chứng minh qua giai đoạn 2000 - 2005. Giai đoạn này, số việc làm mới mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

đã tạo việc làm tăng trung bình 24,4%/năm.

(iii) Phát triển mạnh doanh nghiệp vừa và nhỏ

Hoạt động kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình tăng nhanh. Theo Cục Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kể từ khi ban hành Nghị định 90/2001/CP về trợ

giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ năm 2001 đến nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tăng nhanh về số lượng. Theo thống kê đến tháng 12 năm 2006, cả nước đã có trên 252 nghìn

doanh nghiệp vừa và nhỏ với tổng số vốn đăng ký khoảng 440 nghìn tỷ đồng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới gần 96% tổng số doanh nghiệp trong cả nước, đóng góp khoảng

45% tổng GDP của cả nước và thu hút một lực lượng lao động đáng kể khoảng 13 triệu người, tạo nhiều công ăn việc làm và hàng năm thu hút hơn 90% lao động mới vào làm việc,

góp phần làm chuyến dịch cơ cấu kinh tế, hỗ trợ khai thác những tiềm năng trong dân chúng, đồng thời tạo động lực thúc đẩy sự gắn kết với các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn. Các

doanh nghiệp vừa và nhỏ đã từng bước tạo lập mối liên kết chặt chẽ với các tổng công ty Nhà nước, các tập đoàn xuyên quốc gia.

Theo định hướng của Chính phủ, đến năm 2010, cả nước sẽ có 500.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đi cùng với số lượng doanh nghiệp tăng là một lượng lớn công ăn việc làm được tạo ra,

thu hút nhiều lao động dư thừa của khu vực nông thôn.

(iv) Đô thị hóa

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 16: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

16

Do sự phát triển của một số ngành công nghiệp, sự hình thành các khu công nghiệp, khu

chế xuất; sự gia tăng mạnh mẽ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khiến cho tốc độ đô thị hoá đang gia tăng nhanh chóng. Tỷ lệ dân số thành

thị năm 1995 là 20,75%; năm 2000 đạt 24,18%, năm 2005 đạt 26,8% và tăng lên 27,1% năm 2006 (số thống kê sơ bộ năm 2006 của Tổng cục Thống kê). Đô thị hoá sẽ khiến một bộ phận

nông dân mất đất hoặc thiếu đất sản xuất, nhu cầu tìm việc làm mới vì thế ngày càng tăng cao ở khu vực nông thôn.

Trong khi đó, nhu cầu tuyển dụng lao động cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khá lớn. Nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng lớn cùng với

nhiều loại hình dịch vụ mới ra đời và sự phát triển nhanh chóng của các hình doanh nghiệp đang đòi hỏi rất nhiều lao động, đáp ứng nhiều ngành nghề khác nhau. Đây là cơ hội chuyển đổi lao

động dư thừa ở khu vực nông thôn sang những ngành sản xuất phi nông nghiệp, cơ hội việc làm cho lao động nông nghiệp nhàn rỗi khi hết mùa vụ sản xuất, thúc đẩy việc di dân từ nông thôn

ra thành phố tìm kiếm việc làm.

Trong những năm gần đây, các khu công nghiệp và khu chế xuất ở nước ta gia tăng ở hầu

hết các địa phương trong cả nước. Đã hình thành cơ chế quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất khá đầy đủ từ trung ương đến địa phương. Cơ chế quản lý hành chính “một cửa tại chỗ”

ở các khu công nghiệp đang phát huy tác dụng, làm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Mô hình các khu công nghiệp đặc biệt ra đời: Khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế,

khu kinh tế mở, khu công nghiệp chuyên ngành…

Khu công nghiệp, khu chế xuất thu hút nhiều dự án đầu tư trong nước và ngoài nước. Tính

đến nay nước ta có trên 130 khu công nghiệp, khu chế xuất ở 47 tỉnh, thành phố tạo việc làm cho hơn 870.000 động trực tiếp và 1,3 triệu lao động gián tiếp góp phần đáng kể giải quyết

các bức xúc về việc làm trong nước, đặc biệt với lao động nông nghiệp dư thừa sở tại và những người bị mất đất sản xuất.

(v) Chuyển đổi trong bản thân lĩnh vực nông nghiệp

Việt Nam là nước mà sản xuất nông nghiệp còn giữ vị trí rất quan trọng trong nền kinh

tế, giữ vai trò to lớn trong việc giải quyết những vấn đề cơ bản của đời sống đại đa số dân cư nên việc trở thành thành viên chính thức của WTO và tuân thủ “quy định chung” của tổ

chức này đã tác động mạnh mẽ đến lực lượng lao động nông nghiệp nhất là trong điều kiện nước ta đất chật người đông và hiện có nhiều mặt hàng nông nghiệp (bao gồm cả lâm

nghiệp và thuỷ sản) xuất khẩu được xếp hạng trên thế giới như gạo đứng thứ 2, hạt tiêu đứng thứ nhất, hạt điều đứng thứ 2, cà phê thứ 2, chè thứ 6….

Gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện thuận lợi để nước ta xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp vào thị trường nông sản thế giới (có kim ngạch khoảng 548 tỷ USD/năm), mở rộng

hơn cho thị trường nông sản nước ta. Các sản phẩm nông nghiệp có điều kiện được tiếp cận với nhiều thị trường và tiếp cận ngày càng sâu do được hưởng ưu đãi về thuế từ tất cả thành

viên của WTO, không bị hạn chế ở một số nước mà ta đã ký kết hiệp định song phương như trước đây, nhất là đối với các sản phẩm có lợi thế của ngành nông nghiệp nước ta như tôm

đông lạnh,cá da trơn và một số trái cây đặc sản…

Điều đó cũng cho thấy xuất khẩu các mặt hàng nông sản sẽ là yếu tố quan trọng nhằm phát

huy mọi nguồn nội lực, tạo thêm vốn đầu tư để đổi mới công nghệ, tăng thêm việc làm, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Theo dự báo

của Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO), hiện nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng nông sản trên thế giới ngày càng tăng do mức tăng trưởng kinh tế và dân số cao ở giai đoạn 2005-2010. Đó

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 17: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

17

là cơ hội cho nông sản Việt Nam.

Hiện các nước thành viên WTO chiếm 90% dân số và 95% GDP toàn thế giới. Gia nhập tổ chức này, đòi hỏi hàng hoá nông sản nước ta phải nâng cao về chất lượng, giá thành hạ, sản

lượng hàng hoá phải nhiều, mẫu mã phải đa dạng phong phú và luôn sẵn sàng để xuất, bán cho thị trường trong và ngoài nước theo hợp đồng, và đáp ứng được nhu cầu của thị trường

mới được kiến lập.

Thực hiện cam kết gia nhập WTO, việc bãi bỏ hoàn toàn các trợ cấp cho xuất khẩu các mặt

hàng nông sản và một số trợ cấp khác có liên quan đã đặt ra những yêu cầu đòi hỏi các doanh nghiệp nông nghiệp phải phát huy tính tự chủ, chủ động sáng tạo trong các hoạt động sản

xuất, kinh doanh mà trước hết các doanh nghiệp phải được cơ cấu lại, phải chuyển đổi phương thức sản xuất kinh doanh, phải ứng dụng công nghệ mới vào quá trình sản xuất, thu

hoạch, bảo quản và chế biến các sản phẩm; đòi hỏi người lao động nông nghiệp Việt Nam phải thay đổi cách nghĩ, cách làm, thay đổi cách thức sản xuất nông nghiệp thủ công, phân tán

sang cách thức sản xuất nông nghiệp hàng hoá, có tính chuyên môn hoá cao và muốn vậy việc huấn luyện đào tạo kỹ thuật cho lao động nông nghiệp phải được đẩy mạnh hơn với quy mô,

phạm vi rộng lớn hơn trước nhiều, đồng thời cơ chế điều hành ngành sản xuất nông nghiệp phải được chuyển nhanh, chuyển mạnh sang cơ chế thị trường.

Gia nhập WTO, việc Nhà nước bỏ chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng hoá nông sản và một số trợ cấp khác liên quan lại tạo ra điều kiện tập trung vốn để đẩy mạnh các hoạt động đầu tư

vào khuyến nông, vào cơ sở hạ tầng, thuỷ lợi phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; đẩy mạnh các hoạt động chuyển giao công nghệ và đào tạo nghề cho lực lượng lao động nông nghiệp,…

Sự phát triển của công nghiệp ở nông thôn trong những năm gần đây đã góp phần đa dạng hoá các loại hình sở hữu. Các công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn trong lĩnh vực

nông nghiệp không ngừng tăng về số lượng.

Công nghiệp hoá nông thôn phát triển đã góp phần thúc đẩy các hoạt động dịch vụ thương mại,

cung ứng nguyên phụ liệu, vận tải, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ và các dịch vụ kỹ thuật khác, góp phần quan trọng vào quá trình đô thị hoá và hiện đại hoá nông thôn; hình thành

nhiều thị tứ, điểm dân cư tập trung, trên cơ sở phát triển công nghiệp nông thôn. Tất cả những yếu tố trên đều tạo ra cơ hội cho lao động nông nghiệp chuyển sang lao động phi nông nghiệp

Gia nhập WTO còn tạo điều kiện để người lao động nước ta nói chung, lao động nông nghiệp nói riêng có cơ hội tiếp cận với thị trường lao động nước ngoài do sự dịch chuyển lao

động sẽ là xu hướng tất yếu khi mà rào cản hành nghề giữa các quốc gia bị xoá bỏ, toàn cầu hóa sự phân công lao động đã trở thành phổ biến trong nền kinh tế toàn cầu.

Gia nhập WTO cũng tạo ra động lực để các công ty trong nước nỗ lực vươn lên cạnh tranh với công ty nước ngoài, trong đó có cạnh tranh về nhân lực và dẫn đến làm cho người lao

động có cơ hội được hưởng mức lương cao hơn, tạo ra cơ hội chuyển lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp nhanh hơn, mạnh hơn.

Nói một cách tổng quát, gia nhập WTO, sự tăng lên của thương mại và đầu tư sẽ tác động

đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, do đó sẽ tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo

hướng lao động nông nghiệp sang làm việc trong khu vực phi nông nghiệp. Cơ cấu lao động

sẽ dịch chuyển theo hướng tăng ở các ngành công nghiệp và dịch vụ có khả năng cạnh tranh,

giảm ở các ngành nông nghiệp. Lao động được tập trung cao độ ở các đô thị và khu công

nghiệp và giảm ở khu vực nông thôn. Đây là sự dịch chuyển tự nhiên theo nguyên tắc thị

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 18: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

18

trường làm cho sự phân bổ nguồn lực lao động ngày càng được hợp lý hơn.

Sự phát triển của các ngành kinh tế, đặc biệt là những ngành định hướng xuất khẩu và

những ngành sử dụng nhiều lao động như ngành dệt may, giày da, công nghiệp chế biến nông,

lâm, thuỷ sản... sẽ gia tăng nhu cầu tuyển dụng lao động, đặc biệt là nhu cầu tuyển dụng lao

động được đào tạo nghề, có trình độ chuyên môn ngày càng tăng mạnh.

Những điều nêu trên cho thấy việc gia nhập WTO của nước ta sẽ là nhân tố góp phần thúc

đẩy giải quyết vấn đề lao động dư thừa ở khu vực nông thôn, chuyển lao động nông nghiệp

sang các ngành phi nông nghiệp.

2. Gia nhập WTO sẽ thúc đẩy nâng cao chất lượng đội ngũ lao động và cơ cấu lại lực

lượng lao động

Theo Tổng cục Thống kê, Việt Nam có nguồn cung lao động dồi dào, tính đến thời điểm

1/7 năm 2006, số lao động đang làm việc là 43,4 triệu người, trong đó lao động làm việc trong

khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản là hơn 24,1 triệu người, chiếm khoảng 55,6% .

Nhưng chất lượng lao động nước ta còn thấp. Theo đánh giá của Bộ Lao động - Thương

binh và Xã hội thì hiện nay mới chỉ có khoảng 24% lực lượng lao động nước ta là qua đào tạo

và cũng không hoàn toàn giỏi nghề, chính vì vậy, năng suất của lao động Việt Nam kém lao

động các nước trong khu vực ASEAN từ 2 đến 15 lần. Mặt khác kỹ năng nghề nghiệp, ý thức

kỷ luật, tác phong công nghiệp, sức khoẻ và ngoại ngữ của đội ngũ lao động còn nhiều hạn

chế.

Cơ cấu lao động còn đang rất bất hợp lý, lao động nông nghiệp vẫn là chủ yếu (55,2% trên

tổng số lao động đang làm việc), cơ cấu đào tạo theo tỷ lệ: 1 đại học, 0,8 trung học chuyên

nghiệp, 2,9 học nghề. Trong khi cơ cấu tối ưu của các nước trong khu vực là tỷ lệ: 1- 4-10...

Khi Việt Nam gia nhập WTO, chất lượng đội ngũ lao động nói chung và chất lượng đội

ngũ lao động nông nghiệp nói riêng đòi hỏi phải được nâng cao nhanh chóng bởi lực lượng

lao động chịu sức ép quyết liệt là phải đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của thị

trường. Lao động nông nghiệp là lực lượng lao động lớn ở nước ta, nhiều lao động đang thiếu

việc làm, mặt bằng kiến thức thấp, điều kiện kinh tế khó khăn thì việc học nghề, truyền nghề

lại càng quan trọng, trở thành mối quan tâm của toàn xã hội.

Đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp là một yêu cầu khách quan cấp thiết để công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn; để chuyển dịch nhanh cơ cấu sản xuất nông

nghiệp theo hướng hợp lý, hiện đại; để hình thành nên những làng nghề và những vùng

chuyên canh rộng lớn sản xuất ra những sản phẩm hàng hoá có giá trị kinh tế và sức cạnh

tranh cao hơn.

Bên cạnh đó, cùng với sự thay đổi chất lượng lao động, cơ cấu lao động sẽ được chuyển

dịch theo hướng lao động ở khu vực công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng, lao động khu vực nông

nghiệp, nông thôn sẽ giảm, cơ cấu lao động được đào tạo cũng sẽ dần dần tiệm cận đến tỷ lệ

tối ưu...

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 19: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

19

Trong ngành nông nghiệp, lao động trồng trọt sẽ giảm mạnh để tăng nhanh lao động chăn

nuôi và nuôi trồng thuỷ sản. Do yêu cầu phát triển, nhiều khu đô thị được mở rộng hoặc xây

dựng mới, nhiều khu công nghiệp được hình thành, cơ sở hạ tầng phát triển nhanh, lượng đất

sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, nhiều lao động nông thôn mất việc làm quen thuộc như trồng

trọt, chăn nuôi để chuyển sang nghề khác. Tất cả các lý do trên tạo ra một áp lực lớn đối với

công tác dạy nghề cho nông dân, giúp nông dân chủ động giải quyết tốt vấn đề việc làm và

thu nhập.

Có thể nói khi gia nhập WTO, chất lượng cũng như cơ cấu của đội ngũ lao động nói chung,

lao động nông nghiệp nói riêng sẽ được biến đổi theo hướng rất tích cực. Nguyên nhân của sự

biến đổi đó là:

- Khi gia nhập WTO, sẽ xuất hiện một làn sóng đầu tư vào Việt Nam với quy mô lớn và

trên diện rộng, sẽ có nhiều công ty, tập đoàn kinh tế đến Việt Nam triển khai hoạt động sản

xuất, kinh doanh quy mô ngày càng lớn ở nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác nhau, trong đó

bao gồm cả lĩnh vực công nghệ cao. Do vậy nhu cầu về lực lượng lao động có tay nghề, được

đào tạo tốt đang trở nên ngày càng cấp bách. Mặt khác, tuy không có cam kết riêng về mở cửa

thị trường lao động khi gia nhập WTO nhưng chắc chắn sẽ có một số lượng lao động từ nước

ngoài vào thị trường trong nước để thực hiện triển khai các hoạt động đầu tư của họ, trong đó

nhất là những đầu tư vào khu vực dịch vụ, khu vực công nghệ cao. Chất lượng lao động thấp

là nguyên nhân chính dẫn đến nhiều vị trí chủ chốt trong các doanh nghiệp phải sử dụng

người nước ngoài. Để tránh thua ngay trên “sân nhà”, cách tốt nhất là phải có chiến lược đào

tạo nâng cao chất lượng lao động tại chỗ để có thể đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư. Đây

không phải là chuyện của riêng doanh nghiệp hay của người lao động mà đòi hỏi một chiến

lược ở tầm quốc gia.

- Khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp bước vào một sân chơi mới với luật lệ mang tính

chất toàn cầu. Tính cạnh tranh khốc liệt trên thị trường trong và ngoài nước do các hàng rào

bảo hộ và chính sách ưu đãi đang dần bị loại bỏ, đòi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng đầu

tư vào tăng vốn, công nghệ mới và đặc biệt là chất lượng lao động để nâng cao sức cạnh tranh

và hiệu quả.

- Khi gia nhập WTO, sự tăng lên của thương mại và đầu tư sẽ tác động đến sự chuyển

dịch cơ cấu kinh tế, do đó sẽ tác động đến cơ cấu việc làm theo các ngành kinh tế, vùng

kinh tế mạnh mẽ hơn. Những ngành định hướng xuất khẩu và sử dụng nhiều lao động chẳng

hạn như ngành dệt may, ngành nuôi trồng thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ,... vẫn sẽ thu hút

được một số lượng lớn lao động. Số lượng lao động làm việc khu vực có vốn đầu tư nước

ngoài tăng nhanh, trong đó tỷ trọng lao động có chuyên môn tăng rất nhanh do mở cửa và

hội nhập thị trường lao động quốc tế. Người lao động làm việc trong các khu công nghiệp,

khu chế xuất, trong các ngành dịch vụ, được trả lương tương đối cao sẽ tạo ra một luồng di

chuyển lao động từ khu vực nông thôn ra thành thị, từ nông nghiệp sang công nghiệp, tạo đà

dịch chuyển cơ cấu lao động trong khu vực nông nghiệp và của toàn nền kinh tế.

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 20: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

20

- Nền kinh tế thị trường của nước ta sẽ phát triển ngày càng mạnh mẽ khi gia nhập WTO

và tạo lên sự bùng nổ của các ngành nghề sản xuất, nhiều ngành nghề mới xuất hiện. Sự bùng

nổ các ngành nghề mới sẽ tạo ra nhiều việc làm mới, tạo ra thu nhập cho nhiều đối tượng khác

nhau trong xã hội. Quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý và phát triển nền kinh tế hàng hoá

nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước không chỉ làm cho các sản phẩm, kết quả của

lao động trở thành hàng hoá mà bản thân sức lao động cũng trở thành hàng hoá.

- Cùng với sự chuyển đổi chung của cả nền kinh tế, khu vực nông nghiệp, nông thôn, nơi

tập trung một lực lượng lao động rất lớn và còn dư thừa tới 20% thời gian lao động cũng có

những bước thay đổi căn bản. Hộ nông dân được giao quyền sử dụng và quản lý ruộng đất lâu

dài, được chủ động tổ chức sản xuất, sắp đặt các công việc một cách hiệu quả nhất. Chính sự

tự chủ này cho phép người nông dân tự cân đối sức sản xuất trong gia đình và có thể huy động

sức sản xuất dư thừa trong hộ chuyển sang các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp khác để

tăng thu nhập. Bên cạnh việc phát triển các ngành nghề truyền thống của địa phương, xu

hướng di cư tự do đến các thành phố lớn để kiếm việc làm và tìm vận may mới đã trở thành

một phương thức tồn tại và phát triển của nhiều hộ gia đình ở nông thôn, nhất là đối với

những vùng lân cận các thành phố và các khu công nghiệp lớn, điều này có nghĩa là di cư ra

thành phố nhằm tìm kiếm cơ hội việc làm, nguồn thu nhập mới cho người lao động nông

nghiệp thoát ly khỏi nghề nông thuần tuý.

3. Gia nhập WTO tạo cơ hội để người lao động nâng cao thu nhập

Hình 4. GDP/người, GDP/lao động và GDP của khu vực I/lao động

(Nghìn đồng)

1157810080

87207583

67206117

17201

1511913561

12481

22419

19618

4572 5045 5657 63857216 8219

Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Ước 2006

GDP bình quân đầu người GDP bình quân lao động

GDP của khu vực I/lao động

Nguồn: Tổng cục Thống kê.

Trong những năm gần đây, sự ổn định kinh tế vĩ mô và sự tăng trưởng kinh tế của nước ta cho thấy GDP bình quân đầu người và GDP bình quân một lao động hàng năm liên tục tăng

(năm sau cao hơn năm trước). Cụ thể là năm 2006, GDP/người ước tính khoảng 11578 nghìn

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 21: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

21

đồng, tăng gần gấp hai lần so với năm 2001; GDP/lao động ước tính khoảng 22419 nghìn

đồng, cũng tăng gần gấp hai lần so với năm 2001(Hình 4). Việc GDP bình quân đầu người và GDP bình quân một lao động tăng là một trong những chỉ báo quan trọng phản ánh tiền đề để

nâng cao mức sống và thu nhập của người dân nói chung và giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ tỷ lệ thuận với nhau. Nghĩa là xu hướng tăng GDP/người cũng phản ánh xu hướng tăng

GDP/lao động và ngược lại xu hướng giảm GDP/lao động cũng phản ánh GDP/người giảm.

Ở nước ta trong những năm gần đây, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện,

thu nhập bình quân đầu người tăng từ mức 423 USD năm 2001 lên 722 USD năm 20061 là sự biểu hiện cho xu thế tăng trưởng của nền kinh tế nhưng việc gia nhập WTO lại càng có

vai trò thúc đẩy sự gia tăng này. Bởi là thành viên của tổ chức này, sự giao thương, đầu tư quốc tế vào nước ta sẽ ngày càng tăng lên cùng với việc nước ta ngày càng mở rộng thị

trường sẽ là quá trình cân đối cung - cầu đối với các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất (gồm vốn, lao động, công nghệ, quản lý và hàng hoá) nhằm tối ưu hoá việc phân bổ và sử

dụng những yếu tố này. WTO có tác dụng thúc đẩy và làm tăng lưu lượng giao dịch trên cả ba thị trường là thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường tài chính và thị trường lao động.

Với thị trường lao động, khi đầu tư và thương mại quốc tế gia tăng thì tổng cầu về lao động tăng hay cơ hội việc làm tăng. Trong ngắn hạn, khi cung lao động chưa thay đổi kịp với cầu

lao động thì để thu hút thêm một lượng lao động, nhà sản xuất phải tăng lương, như vậy thu nhập của người lao động sẽ tăng lên.

Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp, đầu ra của những ngành sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế như cao su, cà phê, hạt điều, hoa quả, thuỷ sản… gia tăng do thị trường được mở rộng.

Đối với đầu vào, thuế nhập khẩu các vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất nông nghiệp được cắt giảm theo lộ trình cam kết, người nông dân có cơ hội sử dụng nhiều hơn các biện pháp kỹ

thuật mới, các giống cây trồng năng suất cao, phân bón với giá rẻ, công nghệ chế biến hiện đại để nâng cao hiệu quả sản xuất. Doanh thu tăng, chi phí đầu vào giảm khiến thu nhập lao

động nông nghiệp tăng lên.

Thực tế ở nước ta, thu nhập của người lao động dù làm công việc đơn giản ở thành phố

vẫn cao hơn thu nhập tại quê nhà. Theo tính toán, bình quân tại nhiều tỉnh vùng Đồng bằng Bắc Bộ, mỗi nhân khẩu sử dụng 1 sào ruộng. Với điều kiện canh tác tốt, cho năng suất 2 tạ

thóc, giá bán bình quân 250.000/tạ, trừ chi phí sản xuất, nông dân còn lãi khoảng 90.000 đồng. Khoản tiền này phải chia đều cho nhu cầu sinh hoạt trong 90 ngày. Vậy là, thu nhập

bình quân của nông dân trồng lúa ở Đồng bằng Bắc Bộ chỉ là 1000 đồng/ngày. Vì vậy tất yếu sẽ dẫn đến sự dịch chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang phi nông nghiệp, từ

nông thôn ra thành thị. Việc dịch chuyển này sẽ để lại một phần đất đai nông nghiệp cho những người bám trụ ngành sản xuất nông nghiệp và bởi vậy lao động nông nghiệp có cơ

hội tăng thu nhập.

Gia nhập WTO, người nông dân có thêm những cơ hội mới trong phát triển kinh tế nông

nghiệp theo hướng thị trường. Hiện nay, dân số nông thôn của nước ta chiếm khoảng 73% dân số và chiếm gần 67% lực lượng lao động của cả nước, với 13,2 triệu hộ gia đình trong đó có

11 triệu hộ chuyên sản xuất nông nghiệp, nguồn lực tạo ra từ nông nghiệp dao động chiếm khoảng trên 21% GDP của nền kinh tế. Gia nhập WTO là cơ hội tốt cho nông sản nước ta

thâm nhập sâu vào thị trường nông sản thế giới, người nông dân sẽ được hưởng lợi và ngày càng được tiếp cận thị trường nhiều hơn do nắm bắt được nhu cầu của khách hàng trong nước

cũng như trên thế giới thông qua định hướng sản xuất của các doanh nghiệp xuất khẩu và các phương tiện thông tin đại chúng. Việc nắm bắt thông tin về lộ trình cắt giảm thuế các mặt

1 Báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2002-2007.

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 22: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

22

hàng xuất khẩu, biết được khi nào mặt hàng có thuế suất bằng 0%, …, giúp người nông dân

có điều kiện có kế hoạch phát triển sản xuất phù hợp theo tinh thần cạnh tranh về chất lượng và giá cả.

Gia nhập WTO, nước ta cũng phải mở cửa thị trường. Dưới sức ép của luồng hàng nông sản từ bên ngoài thâm nhập mạnh mẽ vào thị trường nước ta, các doanh nghiệp chế biến

nông sản buộc phải phấn đấu vươn lên để nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất để đứng vững và phát triển. Cũng như mọi thành phần kinh tế-xã hội khác, người nông dân một mặt

phải vươn lên đồng hành cùng với doanh nghiệp để sản xuất các sản phẩm có khả năng cạnh tranh với các hàng nhập khẩu ngay tại thị trường nội địa, mặt khác cùng với doanh nghiệp

để thâm nhập vào thị trường nông sản thế giới trên cơ sở năm bắt thông tin và nhu cầu của người tiêu dùng của từng thị trường cụ thể. Hơn nữa, việc ngày càng hội nhập sâu vào thị

trường nông sản thế giới giúp thúc đẩy việc biến nông thôn thành sân sau của sản xuất công nghiệp và thương mại trong tất cả các khu vực kinh tế. Do đó, trong tương lai gần không thể

tồn tại mãi trên 11 triệu hộ tiểu nông sản xuất nhỏ mà phải có những liên minh ba nhà, bốn nhà (nhà doanh nghiệp, nhà đầu tư, nhà khoa học…) để đẩy mạnh việc công nghiệp hoá,

hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn theo hướng đẩy mạnh sản xuất, chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp theo định hướng thị trường.

Hơn nữa, trước yêu cầu của thực tế đòi hỏi phải tự do hoá thị trường lao động nhằm khắc phục tình trạng cách biệt nông thôn - thành thị, các hạn chế về dịch chuyển trong thị trường

lao động sẽ bị gỡ bỏ. Mặt khác, sản phẩm công nghiệp sẽ bị cắt giảm thuế và các bảo hộ phi thuế quan lớn hơn sản phẩm nông nghiệp do trước đây hàng công nghiệp được bảo hộ nhiều

hơn hàng nông sản, làm giảm giá cả tương đối của các sản phẩm công nghiệp so với các sản phẩm nông nghiệp. Do đó, tiền lương thực tế của lao động nông nghiệp, nông thôn sẽ tăng

tương đối so với tiền lương trong khu vực công nghiệp (thành thị). Mặt tích cực của lao động nông thôn di cư ra thành thị tìm việc nhiều hơn sẽ làm tăng mạnh nguồn cung cho thị trường

lao động thành thị, thu hẹp nguồn cung trong thị trường lao động nông thôn, dẫn đến thu nhập tương đối cho lao động còn lại ở nông thôn tăng lên.

4. Gia nhập WTO sẽ thúc đẩy phát triển thị trường lao động

Những năm qua, thị trường lao động ở nước ta đã hình thành và đang trong giai đoạn phát

triển, tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương... có hàng ngàn trung tâm dịch vụ giới thiệu việc làm, giúp doanh nghiệp và các tổ chức có thêm kênh tuyển

chọn lao động. Tuy nhiên, nhìn lại hơn 20 năm đổi mới, thị trường lao động của nước ta vẫn chỉ mới trong giai đoạn hình thành và tốc độ phát triển còn chậm làm cho quy mô của thị

trường lao động còn hạn chế, chưa tương xứng với sự phát triển của một hệ thống thị trường mở. Trong đó, có những vấn đề nổi cộm như thị trường lao động chính thức chậm hình thành;

thị trường lao động phi chính thức chất lượng kém; thị trường lao động bị chia cắt, tình trạng việc làm, thu nhập chậm được cải thiện; sự phân bố lực lượng lao động còn gây bất lợi cho

khu vực nông nghiệp, nông thôn và các vùng kém phát triển... Xét về tổng thể thì hiện nay thị trường lao động ở nước ta cung lao động lớn hơn cầu lao động. Tuy nhiên, nhờ cơ cấu kinh tế

chuyển dịch mạnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập đầy đủ hơn vào nền kinh tế thế giới nên nền kinh tế thị trường nước ta đang được phát triển ở giai đoạn cao hơn,

tạo điều kiện cho thị trường lao động phát triển mạnh hơn.

Gia nhập WTO, nước ta sẽ phải tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế. Thông

qua những quy chế của tổ chức này, các quốc gia thành viên không bị giới hạn bởi biên giới quốc gia và dòng đầu tư nước ngoài sẽ ngày một tăng lên vì vậy nhu cầu tuyển dụng và khối

lượng việc làm cũng tăng lên. Đặc biệt là tăng nhanh ở các nước thành viên mới của WTO. Ở

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 23: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

23

nước ta, hiện nay thị trường lao động đang dần dần hoàn thiện và phát triển khá mạnh mẽ, sôi

động. Từ đó, các doanh nghiệp (phần lớn là doanh nghiệp nước ngoài) có thêm lựa chọn về nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, sự chuyển dịch về lao động giữa các khu vực kinh tế, các địa

phương và ngành nghề cũng đang diễn ra khá lành mạnh, tạo nên sự ổn định về mặt số lượng cho thị trường dẫn đến cầu và cung về lao động sẽ ngày càng gần nhau hơn và điều đó sẽ là

nhân tố cơ bản thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động nói chung, thị trường lao động chia theo các khu vực kinh tế, theo lát cắt lãnh thổ nói riêng ở nước ta.

Một yếu tố nữa cũng cần phải kể đến. Đó là, là thành viên của WTO, thị trường lao động nước ta cũng sẽ bị tác động của thị trường lao động thế giới ngày càng mạnh mẽ hơn. Gia

nhập WTO cũng làm nảy sinh những dòng di chuyển lao động ra nước ngoài theo quy luật tới những nơi có cơ hội việc làm nhiều hơn và được trả công cao hơn. Điều đó làm cho sự cạnh

tranh lao động ngày càng gay gắt hơn, kể cả thị trường lao động trong nước, khu vực và quốc tế và làm cho thị trường lao động sống động. Trong bối cảnh đó, việc nước ta có nguồn lực

lao động trẻ dồi dào, cần cù đang thiếu việc làm hoặc muốn tìm việc có thu nhập cao hơn sẽ trở thành một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy thị trường lao động trong nước phát

triển nhanh, mạnh hơn.

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 24: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

24

Chương III

THÁCH THỨC CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO

ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP

I. THÁCH THỨC HIỆN TẠI

1. Việc bãi bỏ trợ cấp của Nhà nước đối với việc xuất khẩu và giảm thuế nhập khẩu các mặt hàng nông sản ảnh hưởng đến đời sống của nông dân

Việc nước ta là thành viên chính thức của WTO cùng với việc thực hiện cắt bỏ trợ cấp xuất khẩu các mặt hàng nông sản đang tạo ra nhân tố tiềm ẩn có nhiều khả năng tác động tiêu cực

đến đời sống của người nông dân nước ta hiện nay. Việc cắt giảm trợ cấp xuất khẩu này chính là bước ngoặt đối với các hoạt động sản xuất của người nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu

vì khi chưa vào WTO Nhà nước có chính sách trợ cấp dưới hình thức thưởng xuất khẩu đối với thành tích xuất khẩu và thưởng vượt kim ngạch xuất khẩu cho các doanh nghiệp, điều này

cũng làm cho người nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu có được điều kiện để hạ giá thành sản xuất và chi phí cho việc xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, nhưng vào WTO nước ta

phải bãi bỏ hoàn toàn việc trợ cấp này. Điều đó ít nhiều cũng tác động tiêu cực đến đời sống của nông dân, nhất là nông nghiệp đang là nguồn sinh kế chính của khoảng trên 60% dân số

cả nước, có ảnh hưởng trực tiếp đến hơn 2/3 hộ gia đình ở nông thôn trong đó có 44% số hộ thuộc diện còn khó khăn.

Hơn nữa, việc các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản không được hưởng lợi từ việc trợ cấp của Nhà nước như trước đây cũng có thể dẫn đến tình trạng doanh nghiệp hạ giá thành thu

mua sản phẩm của người nông dân, trong khi chi phí sản xuất của người nông dân còn cao và có thể dẫn đến tình hình không bán thì không có đầu ra cho sản phẩm mà bán thì bị doanh

nghiệp ép giá. Vì vậy, hệ quả là người nông dân sẽ bị thiệt thòi. Minh chứng cho việc này được thể hiện ở việc ép giá thu mua sản phẩm của các doanh nghiệp trong các vụ kiện bán

phá giá cá tra, cá basa và các mặt hàng tôm (năm 2001 – 2003) do Hoa Kỳ tiến hành chống lại doanh nghiệp nước ta mà cuối cùng là không chỉ doanh nghiệp thuỷ sản bất lợi mà những

người trong ngành thuỷ sản ở Đồng bằng Sông Cửu Long cũng bị thua thiệt nhiều.

Việc miễn, giảm thuế nhập khẩu các mặt hàng nông sản từ các nước khác khi vào thị trường

nước ta cũng có tác động tiêu cực nhất định đến đời sống của người nông dân vì sản phẩm của người nông dân sản xuất ra phải cạnh tranh ngày càng khốc liệt đối với sản phẩm có xuất xứ từ

các nước khác tràn vào thị trường nội địa. Do đó, việc cắt giảm thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng nông sản, nhất là từ Trung Quốc cũng làm cho nông sản nước ta khó "địch" nổi ngay trên

sân nhà. Do vậy, để sản xuất các mặt hàng nông sản có sức cạnh tranh cao, trước hết phải bắt đầu từ sản xuất các sản phẩm theo nhu cầu của thị trường, phải có sản phẩm chất lượng cao.

Trong khi thực trạng hiện nay của nông nghiệp nước ta là sản xuất manh mún, chất lượng còn kém và một số mặt hàng nông sản như trái cây đã bị lấn sân bởi trái cây nhập khẩu.

Theo tính toán, việc cam kết giảm thuế nhập khẩu của nước ta tính bình quân toàn biểu cam kết được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% và thực hiện dần trong vòng 5

đến 7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9%, thực hiện trong khoảng 5 năm2... Bên cạnh đó, nguy cơ Việt Nam sẽ tiếp tục phải

đương đầu với các vụ kiện bán phá giá là hoàn toàn có thực, nhất là khi Việt Nam vẫn đang bị coi là nền kinh tế phi thị trường (kéo dài 12 năm đối với Mỹ). Đây là một điểm bất lợi đối với

Việt Nam, đặc biệt là đối với người nông dân khi phải đương đầu với các vụ kiện này. Do đó,

2 Vào WTO: Sức ép từ giảm thuế nhập khẩu (http://www.mof.gov.vn).

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 25: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

25

trong điều kiện là thành viên của WTO, nông nghiệp nước ta có thể có thêm nhiều cơ hội phát

triển, nhưng cũng có không ít những tác động tiềm ẩn ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của nông nghiệp, ảnh hưởng đến cuộc sống người nông dân, đặc biệt là người nông dân

nghèo.

2. Khó khăn của lao động nông nghiệp trong sản xuất hàng nông sản chất lượng cao

và quy mô lớn

Là thành viên của WTO, sức ép đối với lao động ở khu vực nông thôn nói chung và lao

động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nói riêng ở nước ta được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau và được coi là một trong những thách thức mang tính chiến lược hàng đầu.

Bởi lẽ, nông thôn là khu vực sinh sống của phần lớn dân cư nông nghiệp nước ta, và mặc dù khu vực kinh tế nông nghiệp này đóng góp vào GDP không lớn (khoảng 21%), nhưng lại giữ

vai trò ổn định xã hội và đảm bảo thu nhập của một bộ phận lớn dân cư trong nước. Mặt khác, cũng cần lưu ý thêm rằng, mặc dù nước ta chấp nhận những nhượng bộ lớn về mở cửa thị

trường trong nước cho hàng nông sản của các nước thành viên WTO, trong khi vẫn tồn tại thực tế là nhiều nước giàu vừa gây sức ép đòi hỏi các nước đang phát triển mở cửa thị trường

nông sản, vừa vẫn tiếp tục trợ cấp và duy trì nhiều rào cản xâm nhập thị trường hàng nông sản của họ.

Theo đánh giá chung, những thách thức trong vấn đề này được thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau:

- Trình độ sản xuất còn lạc hậu, chưa làm chủ được công nghệ làm cho các hàng nông sản hầu hết chỉ có hàm lượng công nghệ thấp(chất xám, tri thức), chủ yếu mới dừng ở sản phẩm

thô, sức cạnh tranh thấp dẫn đến giá trị kinh tế của các mặt hàng nông sản chưa cao

- Gia nhập WTO, mặc dù có lộ trình cắt giảm thuế quan, trong đó có thuế nhập khẩu hàng

nông sản, song trước mắt cũng như lâu dài, hàng nông sản nhập khẩu vào nước ta sẽ ngày càng gia tăng và cạnh tranh trực tiếp với hàng nông sản trong nước ngay trên thị trường nội

địa. Bên cạnh tác động tích cực là nhiều người tiêu dùng có thể được hưởng lợi từ sự cạnh tranh này, song lao động nông nghiệp gặp không ít khó khăn là điều khó tránh khỏi vì các sản

phẩm nông sản trong nước phải cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm nông sản của nước ngoài; cái khó này không chỉ là do thay đổi về chính sách trợ cấp hay là thay đổi về chính

sách thuế quan của Nhà nước, mà thể hiện ở trình độ sản xuất của người lao động còn lạc hậu, chưa làm chủ được công nghệ - không phù hợp với việc sản xuất hàng hoá với khối lượng lớn

có sức cạnh tranh, chất lượng cao,…Mặc dù lao động nông nghiệp của nước ta có mặt mạnh là trẻ, chăm chỉ, khéo léo sáng tạo..., nhưng trong sản xuất vẫn còn "nhỏ lẻ và lạc hậu" và có

thể nói là rất yếu nếu so với các nước trong vùng. Minh chứng cho điều này là Đồng bằng sông Cửu Long là vùng chủ lực của cả nước về hàng nông sản, nhưng ngay tại vựa nông sản

này, người nông dân vẫn không thể tự mình làm chủ sản phẩm làm ra, ngược lại họ luôn bị hàng ngoại nhập tấn công. Xảy ra nghịch lý này là hàng nông sản Việt Nam dù tổng sản phẩm

là rất cao nhưng việc qui hoạch, phát triển còn mang tính tự phát, mùa vụ, chưa mang tính sản xuất hàng hoá, công nghiệp.

- Một vấn đề nổi cộm trong sản xuất nông nghiệp của nước ta hiện nay là tư duy của người sản xuất một mặt còn mang nặng tâm lý sản xuất truyền thống, chủ yếu là khai thác tài

nguyên thiên nhiên và chưa thoát ra khỏi hướng sản xuất cổ hủ, mặt khác chưa có các biện pháp giữ gìn, bảo vệ thương hiệu các sản phẩm nông nghiệp hiện đã được xác lập của Việt

Nam như: gạo, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, cá da trơn… Tuy nhiên để người nông dân nói riêng, lao động nông nghiệp nói chung làm được điều này lại cả là một vấn đề lớn, bởi sản phẩm do

họ sản xuất ra phần lớn là để dùng và dự trữ cho gia đình, chỉ khi cần tiền mới mang đi bán.

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 26: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

26

Nói cách khác, thách thức đối với người nông dân nước ta hiện nay là phải chuyển từ chỗ có

đủ, có dư thừa lương thực sang nền sản xuất hàng hoá nông nghiệp có chất lượng, giá trị kinh tế cao và có sức cạnh tranh mạnh trong khu vực và trên thế giới.

- Để các nông hộ có thể sản xuất hàng hoá với số lượng lớn thì cần có chính sách sở hữu và sử dụng đất đai phù hợp, có chính sách kết hợp tốt giữa những hộ nông dân sản xuất nhỏ lẻ

với các doanh nghiệp trong ngành nông nghiệp nhất là những doanh nghiệp thu mua, tiêu thụ và xuất, nhập khẩu những mặt hàng nông sản. Đây cũng là một vấn đề lớn đối với nước ta

hiện nay.

Việc gia nhập WTO lại thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, độ thị hoá và như vậy

tiếp tục làm cho đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp để chuyển đổi sang mục đích sử dụng khác. Việc chuyển đổi đất nông nghiệp chẳng hạn như cho các doanh nghiệp tư nhân trong

nước hoặc cho các tập đoàn kinh tế nước ngoài làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh… đang là vấn đề lớn ảnh hưởng tới nhiều hộ nông dân nghèo ở vùng nông thôn và ven đô tại nước ta.

Quá trình chuyển đổi này có thể tác động tới vấn đề nghèo đói theo nhiều hướng khác nhau. Nhìn từ góc độ này thì việc thu hẹp đất nông nghiệp có tác động tiêu cực tới các hộ nông dân

do họ bị mất đất dẫn đến bị phá vỡ sinh kế và phải thay đổi môi trường văn hoá - xã hội. Ngoài ra, vấn đề an ninh lương thực cũng là vấn đề hiện đang được quan tâm khi mà có một

diện tích lớn đất trồng lúa chuyển đổi sang xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất, hay phục vụ quá trình đô thị hoá.

Có thể khẳng định rằng, gia nhập WTO, việc lấy đất canh tác nông nghiệp phục vụ cho mục đích sử dụng khác sẽ còn tiếp tục. Điều này có nghĩa là lấy đi nghề và nguồn sống của

người nông dân; nếu việc thu hồi đất chưa được các cấp chính quyền chuẩn bị kỹ càng về công tác đào tạo nghề cho người nông dân và bố trí việc làm mới cho họ sẽ làm cho không ít

các hộ nông dân tái nghèo vì họ sẽ không biết làm gì để sống.

3. Thiếu hụt lao động kỹ thuật trong nông nghiệp

Tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của nước ta khi là thành viên của WTO đang đặt ra nhiều vấn đề. Là một nước trên 85 triệu dân, trong đó khoảng 70%

dân số sống ở nông thôn và lao động nông nghiệp chiếm gần 56% trong cơ cấu lao động của nền kinh tế nên khi đã trở thành thành viên của tổ chức đó, Việt Nam rất cần lao động kỹ

thuật trong lĩnh vực nông nghiệp để phát huy tối đa lợi thế của mình. Song thực trạng hiện nay, kinh tế nông nghiệp của nước ta lại đang thiếu hụt nhiều lao động kỹ thuật, trong khi đó

lao động phổ thông, không có tay nghề lại đang dư thừa.

Theo đánh giá chung, trình độ sản xuất nông nghiệp nước ta còn thấp, kỹ thuật thủ công là chủ

yếu. Phần lớn lao động đang trực tiếp sản xuất nông nghiệp ở nông thôn chưa qua đào tạo về chuyên môn kỹ thuật và nghiệp vụ hoặc mới chỉ được đào tạo một cách chắp vá trong thời gian

rất ngắn. Bên cạnh đó, vốn đầu tư để trang bị các máy móc, thiết bị hiện đại cho sản xuất và chế biến nông sản còn rất hạn chế. Vì vậy, năng suất và chất lượng hàng nông sản Việt Nam còn kém

nhiều so với nhiều nước thành viên của WTO. Ở nước ta, 1 lao động nông nghiệp chỉ nuôi được 2 người, trong khi đó ở Mỹ nuôi được 80 người, Hà Lan 60 người, Anh 55 người và Nhật Bản 20

người. Tỷ lệ nông sản xuất khẩu tinh chế thấp, các loại nông sản xuất khẩu dưới dạng thô chiếm tới 70- 80%, trong khi đó một số nước ASEAN là dưới 50%. Tỷ lệ gạo có chất lượng cao để xuất

khẩu còn thấp hơn nhiều so với Thái Lan…

Sự thiếu hụt lao động kỹ thuật, có tay nghề trong nông nghiệp là một nhân tố kìm hãm tốc độ

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của nước ta. Là thành viên của WTO, thì sự thiếu hụt này lại trở thành một thách thức lớn đối với nước ta. Gia nhập WTO, nước ta mong

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 27: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

27

muốn có nhiều mặt hàng nông sản vừa có chất lượng vừa có sức cạnh tranh cao để thâm nhập

hiệu quả vào thị trường nông sản thế giới nhưng đa số người lao động nông nghiệp lại có tay nghề thấp, không được đào tạo nghề hoặc đào tạo không bài bản. Do vậy, để vượt qua bất cập

này thì một trong những yếu tố rất quan trọng được đặt ra là vấn đề nguồn nhân lực trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và chế biến các sản phẩm nông nghiệp. Trong nhiều

hội thảo về thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam thời gian qua, các chuyên gia kinh tế đều quan ngại tình trạng "vừa yếu vừa thiếu" của lực lượng lao động Việt

Nam, trong đó có lao động nông nghiệp - nhân tố trực tiếp tham gia vào tiến trình đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Nhiều chuyên gia cho rằng, hiện nay lợi

thế nhân công giá rẻ không còn hấp dẫn đối với các ngành sử dụng nhiều lao động nông nghiệp, thay vào đó là sự gia tăng cầu lao động kỹ thuật và tay nghề cao trong sản xuất và chế biến các

sản phẩm nông nghiệp theo hướng thị trường. Nhận định ấy được giải thích ở những khía cạnh sau:

Trước hết, việc đầu tư vào công nghệ sản xuất tiên tiến và nâng cao trình độ quản lý sản xuất nông nghiệp hiện đại đang và sẽ là yêu cầu cấp thiết đặt ra. Thực tế cho thấy, một số

nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan…, nhờ có sự đầu tư phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực có tay nghề trong nông nghiệp nói riêng mà chỉ trong

một thời gian ngắn, các quốc gia này đã nhanh chóng trở thành những "con rồng" châu Á.

Thứ hai, theo dự báo từ năm 2007 trở đi sẽ có thêm nhiều công ty, các tập đoàn kinh tế đến

đầu tư làm ăn tại nước ta với quy mô ngày càng lớn trên nhiều ngành nghề lĩnh vực khác nhau. Như vậy, để cung cấp nguồn lao động có tay nghề đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển

dụng chúng ta phải tập trung đào tạo nâng cao trình độ tay nghề của lực lượng lao động, trong đó có lao động nông nghiệp. Đây cũng là một trong những yếu tố cơ bản có tính quyết định

tới sự thành công của quá trình mở cửa thị trường của nước ta

Thứ ba, là thành viên của WTO nghĩa là nước ta tham gia vào quá trình phân công lao

động quốc tế theo hướng chuyên môn hoá. Đặc biệt khi còn là thành viên mới bao giờ thị trường lao động cũng có những biến động lớn, vận động theo cả hướng tích cực lẫn tiêu cực

và đứng trước sự cạnh tranh rất gay gắt. Với trên 85 triệu dân trong đó có trên 44 triệu người ở độ tuổi lao động (hơn 30 triệu trong độ tuổi thanh niên và hơn 24 triệu lao động nông

nghiệp), Việt Nam được đánh giá là nước có nguồn lao động dồi dào và rất trẻ. Song thực tế lao động nước ta lại có sức cạnh tranh thấp so với các nước trong khu vực bởi chất lượng của

đội ngũ lao động nước ta thấp; giá nhân công rẻ là yếu tố duy nhất được đánh giá cao (rẻ hơn Trung Quốc 20-30%).

Tóm lại, lao động nông nghiệp nước ta không chỉ yếu về tay nghề sản xuất, thiếu hiểu biết về pháp luật mà còn hạn chế về thể lực và trình độ ngoại ngữ. Một bộ phận lớn vẫn còn thói

quen và tập quán sản xuất nhỏ, chưa có ý thức và kỷ luật của lao động công nghiệp. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới sự tham gia của lao động Việt Nam trong phân công lao động quốc

tế ngay tại thị trường trong nước khi có sự tham gia của các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, hay các công ty đa quốc gia.

II. THÁCH THỨC LÂU DÀI

1. Sự gia tăng của lao động nông thôn di cư ra các đô thị

Di cư từ nông thôn ra đô thị là hiện tượng xã hội phổ biến ở các nước đang có nền kinh tế chuyển đổi mạnh mẽ như ở nước ta. Hiện tượng này diễn ra thường gắn với tình trạng thất

nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn. Tình trạng thiếu việc làm chủ yếu là do việc tăng năng suất của lao động nông nghiệp, dẫn đến ngày càng dư thừa lao động trong nông nghiệp, trong

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 28: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

28

khi vẫn tiếp diễn sự gia tăng dân số bước vào tuổi lao động ở khu vực nông thôn. Hơn nữa sự

khác biệt về kinh tế - xã hội và chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành thị tiếp tục làm trầm trọng thêm sức ép về việc làm dẫn đến những tác động bất lợi cho người nông dân ở

nông thôn và điều này đang thúc họ phải ra đi kiếm sống.

Việc nước ta trở thành thành viên của WTO, sự phát triển kinh tế ở các thành phố, các đô

thị tất yếu diễn ra ngày càng nhanh hơn, mạnh hơn bởi sẽ có nhiều doanh nghiệp mới được thành lập hoặc mở rộng quy mô sản xuất. Cạnh tranh nguồn nhân lực có tay nghề sẽ trở nên

gay gắt và do đó mức lương bình quân của người lao động trong các doanh nghiệp sẽ được tăng lên và cao hơn nhiều so với thu nhập của người nông dân. Điều đó sẽ tạo ra lực đẩy cho

luồng di dân từ khu vực nông thôn ra các thành thị, từ lao động nông nghiệp sang công nghiệp, từ vùng có thu nhập thấp sang vùng có thu nhập cao.

Sự phát triển kinh tế nước ta những năm gần đây không những đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế nông thôn mà còn đặt ra nhiều thách thức cho khu vực này. Đất dành cho sản xuất

nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp trong khi tăng trưởng dân số tự nhiên ở khu vực nông thôn lại cao hơn so với khu vực thành thị; vấn đề dư thừa lao động nông nghiệp ngày càng nổi cộm

vì khả năng tạo ra việc làm mới cho lao động nông nghiệp là rất hạn chế.

Theo nghiên cứu của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), hầu hết những người di cư đều

ra đi từ vùng nông thôn và chủ yếu họ di cư vì lý do kinh tế. Những nơi đến chủ yếu là các tỉnh, thành có tốc độ công nghiệp hoá cao như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương,

Quảng Ninh và Đà Nẵng. 5 tỉnh có nhiều người di cư đi nhất là Thanh Hoá, Nam Định, Thái Bình, Hà Tây và Quảng Nam. Hiện nay, ở nước ta tiến trình công nghiệp hoá và đô thị hoá

ngày càng được đẩy mạnh, di chuyển lao động nông thôn được dự đoán càng tăng trong thời gian tới.

Những người từ nông thôn di cư vào thành phố phần đông là những người trẻ và có sức khoẻ, là lao động chủ yếu của hộ gia đình nông thôn. Ở thành phố họ làm những công việc

giản đơn và chủ yếu do họ tự kiếm tìm. Đây là những công việc mà người thành thị, người có thu nhập cao không muốn làm. Do đó để có thể tồn tại, những người di cư phải làm các nghề

khác nhau với mức thu nhập thấp, không ổn định. Thêm nữa, điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn, không có chỗ ở ổn định, trong đó có những người di cư không kiếm được công ăn, việc

làm cùng với đội quân thất nghiệp vốn có ở hầu hết các đô thị, thành phố tạo thành đội quân thất nghiệp đông đảo, trở thành gánh nặng cho chính quyền sở tại. Trong tình hình đó có thể

phát sinh ra nhiều vấn đề gây khó khăn thêm cho việc giải quyết những vấn đề xã hội. Tình hình này kéo dài, làm giảm lực lượng lao động trẻ trong lĩnh vực nông nghiệp và lao động

nông nghiệp trở nên già nua, làm cho hoạt động kinh tế ở nông thôn kém hiệu quả. Đó là chưa kể những vấn đề xã hội khác có thể nảy sinh do khi lực lượng lao động trẻ di cư ra thành phố

sẽ làm gia tăng các tệ nạn xã hội ở các đô thị có đông lao động nhập cư, làm tăng dân số cơ học, tạo nên áp lực làm bùng nổ dân số ở các thành phố lớn, vốn đã chật hẹp do quá trình tăng

dân số tự nhiên.

2. Khoảng cách giàu nghèo gia tăng giữa các nhóm lao động trong lĩnh vực nông

nghiệp

Là thành viên mới của WTO cũng đang đặt ra thách thức về phân hoá giàu nghèo ở nước

ta, sự phân hoá này không chỉ giữa nông thôn và thành thị, giữa lao động nông nghiệp và phi nông nghiệp mà phân hoá ngay cả trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong lĩnh vực nông nghiệp

của nước ta do yêu cầu lao động, các nhóm lao động có trình độ và tay nghề cao trong sản xuất nông nghiệp cũng sẽ được trả công cao hơn, thậm chí cao hơn gấp nhiều lần và được

hưởng các đãi ngộ lớn hơn hẳn các nhóm lao động trong nông nghiệp khác có tay nghề thấp

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 29: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

29

hơn. Từ bất bình đẳng về thu nhập sẽ dẫn đến hàng loạt những bất bình đẳng khác như bất

bình đẳng về cơ hội, quyền lợi và địa vị xã hội giữa những người lao động...

Nhìn một cách tổng quát có thể thấy rằng, các yếu tố của quá trình hội nhập kinh tế quốc

tế không trực tiếp gây nên sự nghèo đói nhưng lại làm tăng khoảng cách giàu – nghèo, đẩy nhanh tốc độ phân cực giữa các nhóm lao động khác nhau. Việc phân hoá này có nhiều

nguyên nhân của kinh tế thị trường. Song, một trong những nguyên nhân cơ bản là do sự phát triển mất cân đối giữa khu vực thành thị với khu vực nông thôn, giữa các ngành nghề kinh tế

và giữa cung và cầu lao động.

Gia nhập WTO, nước ta có thể sẽ gặp phải một thách thức là sự xuất hiện của nhóm nghèo

mới. Nguyên nhân của vấn đề này chủ yếu nằm ở chỗ khoảng cách thu nhập giữa những người lao động có kỹ năng và có trình độ cao với những người lao động thủ công và lao động

nông nghiệp ngày càng tăng; ở chỗ đô thị hoá quá nhanh làm cho người nông dân không chuyển đổi kịp, hoặc thiếu hệ thống an sinh xã hội cho người nông dân trong quá trình đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn và đẩy mạnh quá trình hội nhập sâu vào kinh tế quốc tế, ...

Thực tiễn kinh nghiệm quốc tế đều chỉ ra rằng chênh lệch giàu nghèo, chênh lệch thu nhập giữa các nhóm dân cư, giữa các vùng miền có xu hướng tăng sau khi tham gia vào WTO. Mặc

dù gia nhập WTO tạo ra nhiều cơ hội tăng thu nhập hơn, nhưng cũng tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt hơn để tiếp cận các cơ hội đó. Nhiều nghiên cứu chỉ rõ WTO có rất ít vai trò trong

việc san lấp hố ngăn cách giàu nghèo, đây chính là mặt trái của toàn cầu hoá kinh tế.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Gia nhập WTO, nước ta có điều kiện thuận lợi để chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu

hoá kinh tế, vào hệ thống phân công lao động quốc tế, đẩy nhanh quá trình hoàn thiện thể chế và chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thu hút mạnh hơn đầu

tư trực tiếp nước ngoài và đẩy mạnh phát triển các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế ngoài khu vực Nhà nước. Gia nhập WTO không chỉ nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế mà

thực sự còn là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nước nhà trong bối cảnh hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế có cạnh tranh gay gắt. Trong điều kiện hiện nay, với tư cách là

thành viên chính thức của WTO, cơ hội và thách thức, tác động tích cực và tiêu cực tới các mặt của đời sống xã hội luôn đan xen với nhau. Để xác định rõ hơn những tác động tới đời sống,

việc làm của người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, cần xác định và đánh giá được những tác động tới khu vực kinh tế và lao động nông nghiệp của nước ta.

Trở thành thành viên chính thức của WTO là kết quả của nhiều nỗ lực của Đảng, của Nhà nước và của toàn dân ta. Tiến trình xin nhập gia nhập đã khép lại, biển lớn ta đang mở ra.

Việc ra biển lớn có mang lại hiệu quả tích cực hay không đều phụ thuộc vào hành động đúng đắn và nỗ lực của chúng ta bởi cơ hội lớn còn đang phía trước và có nhiều thách thức cần phải

vượt qua.Tính hai mặt khi là thành viên của Tổ chức này được khẳng định, đó là cơ hội đan xen lẫn cả thách thức.

Từ những phân tích ban đầu trong nghiên cứu này, có thể rút ra một số kết luận về tác động của việc gia nhập WTO của nước ta tới lao động nông nghiệp sau đây:

KẾT LUẬN

1. Tác động tích cực

Việc nước ta là thành viên chính thức của WTO có những tác động tích cực nhất định tới

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 30: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

30

sự phát triển kinh tế và lao động trong khu vực nông nghiệp. Điều này được thể hiện trên

những mặt sau:

- Nước ta có điều kiện tăng đầu tư vào công tác khuyến nông, tu bổ và xây dựng mới các

công trình thuỷ lợi, tăng xuất khẩu các sản phẩm nông sản và tăng đầu tư vốn, công nghệ vào sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Do đó tạo cơ hội thuận lợi cho sản xuất

nông nghiệp, kinh doanh các nông sản. Đây chính là những yếu tố có ảnh hưởng tích cực trong việc tạo ra việc làm gián tiếp cho một bộ phận lao động trong khu vực nông nghiệp, đặc

biệt là lao động nông thôn; tạo ra những cơ hội cho một bộ phận lao động có thể tìm được việc làm thông qua việc cung ứng nguyên vật liệu, sơ chế sản phẩm phục vụ cho hàng xuất

khẩu của nước ta. Ngoài ra, khi thực hiện cam kết WTO, các hoạt động ngoại thương của nước ta trong khu vực kinh tế nông nghiệp sẽ có một số thuận lợi trên cơ sở các nguyên tắc

của WTO, góp phần thúc đẩy tăng nhanh tỷ trọng thương mại của khu vực kinh tế nông nghiệp trong tổng cơ cấu xuất khẩu của tất cả các khu vực kinh tế.

- Tiến trình hội nhập vào WTO của nước ta ngày càng được đẩy mạnh, thúc đẩy kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn phát triển sang một giai đoạn mới. Lao động nông nghiệp Việt

Nam có điều kiện tiếp xúc với khoa học, công nghệ hiện đại, với các phương pháp quản lý và quảng bá sản phẩm nông nghiệp tiên tiến, đồng thời có điều kiện giao lưu, trao đổi hợp tác với

lao động nhiều nước trên thế giới, người lao động có cơ hội nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, kỷ luật và tác phong lao động công nghiệp.

- Bên cạnh đó, tự do hoá thương mại và đầu tư sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các loại hình doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đẩy mạnh hơn

quá trình đô thị hoá và những điều đó đã tạo thêm nhiều việc làm; giảm thất nghiệp và tăng mạnh nhu cầu lao động, nhất là lao động kỹ thuật, tay nghề cao. Nhiều lao động nông nghiệp

sẽ có cơ hội làm việc cho các loại hình doanh nghiệp, cho các khu công nghiệp và khu chế xuất; Vấn đề dư thừa lao động trong khu vực nông thôn có nhiều cơ hội để khắc phục và vấn

đề di dân ra thành phố có thể được hạn chế; thu nhập cho phần lớn lao động trong khu vực nông nghiệp có điều kiện được nâng cao.

- Mặt khác, mức linh hoạt của thị trường lao động sẽ tăng lên và việc phân bổ nguồn lực lao động sẽ tiệm cận theo hướng hiệu quả và hợp lý hơn. Hơn nữa, sức ép cạnh tranh giữa các

ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trong và ngoài nước cũng góp phần tạo điều kiện để thị trường lao động phát triển. Thông qua đó, góp phần tạo động lực thúc đẩy người lao động

nông nghiệp phải phấn đấu vươn lên nâng cao trình độ, kỹ năng và ý thức lao động nhằm đáp ứng yêu cầu thị trường lao động.

- Gia nhập WTO còn tạo đà cho việc đẩy nhanh quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành nông nghiệp và cơ cấu các ngành nghề theo hướng hiện đại, hiệu quả và hợp

lý. Các ngành dịch vụ, thương mại sẽ có cơ hội tăng nhanh hơn.

2. Thách thức

Ngoài những tác động tích cực đến lao động nông nghiệp nước ta như đã nêu ở trên, do nước ta còn mới ở giai đoạn đầu của kinh tế thị trường, trình độ phát triển của nền kinh tế nói

chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng còn thấp, khả năng cạnh tranh chưa cao; lao động nông nghiệp nước ta trẻ, dồi dào nhưng số đông là lao động phổ thông, chưa được đào tạo

nghề, ý thức tổ chức kỷ luật yếu, sức khoẻ hạn chế, tác phong sản xuất công nghiệp chưa thành thói quen, ... nên gia nhập WTO, lao động nông nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với

không ít những thách thức thể hiện trên một số khía cạnh cơ bản sau:

- Gia nhập WTO, sức ép đối với lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nước ta được coi là một

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 31: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

31

trong những thách thức mang tính chiến lược và có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống người

dân do, sản xuất nông nghiệp vẫn là nghề lao động chính, phổ biến của phần lớn dân cư nước ta. Mặc dù kinh tế nông nghiệp đóng góp vào GDP không lớn, nhưng nó lại giữ vai trò ổn

định xã hội và đảm bảo thu nhập của một bộ phận lớn dân cư nước ta. Do trình độ sản xuất nông nghiệp nước ta còn lạc hậu nhiều so với khu vực và thế giới, thu nhập của phần lớn lao

động nông nghiệp nước ta khá thấp nên theo dự báo, kinh tế và lao động nông nghiệp nước ta sẽ chịu nhiều tác động tiêu cực và thách thức trong điều kiện là thành viên WTO.

- Mặc dù có lộ trình cắt giảm thuế quan nhập khẩu hàng nông sản nhưng trước mắt cũng như lâu dài, một số mặt hàng nông sản nhập khẩu vào nước ta sẽ gia tăng đáng kể và cạnh

tranh trực tiếp với hàng nông sản Việt Nam ngay trên thị trường trong nước. Mặt khác Nhà nước bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu nên có thể làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung,

doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản nói riêng gặp những khó khăn nhất định và tác động đến sự phát triển của ngành nông nghiệp và thu nhập của lao động nông nghiệp.

- Việc nước ta là thành viên của WTO còn tăng thêm lực “đẩy” cho sự di chuyển lao động từ nông thôn ra các đô thị. Đối với bộ phận lao động nông nghiệp có trình độ thấp thì việc di

chuyển lao động sẽ làm tăng thu nhập cá nhân góp phần xoá đói giảm nghèo, tạo điều kiện tăng thu nhập cho lao động thuần nông nhưng di chuyển lao động rất có thể là nguyên nhân

dẫn đến các vấn đề xã hội khó lường trước và gây khó khăn cho các cấp chính quyền có người di cư chuyển đến. Đối với bộ phận lao động có trình độ chuyên môn cao cũng như lao động

có sức khoẻ di chuyển ra đô thị, chất xám sẽ chảy từ các vùng nghèo kém phát triển đến các vùng đô thị hoặc đến các vùng có trình độ phát triển kinh tế-xã hội cao hơn, đến các doanh

nghiệp liên doanh với nước ngoài, tạo nên sự khan hiếm lao động chất xám và có sức khoẻ gây cản trở cho tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn

KHUYẾN NGHỊ

- Cần đầu tư cho phát triển khoa học - công nghệ gắn với đào tạo nhân lực làm cơ sở đảm

bảo sản xuất nông nghiệp với năng suất - chất lượng - hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao để giúp nông dân vượt qua thách thức trong điều kiện ngày càng hội nhập sâu vào thị trường

nông sản thế giới. Trong đó, chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các vùng theo quy hoạch có nhiều diện tích đất nông nghiệp sẽ được chuyển sang mục đích

sử dụng khác. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỉ trọng lao động thuần nông, tăng tỉ trọng lao động làm các ngành nghề phi nông nghiệp. Tạo điều kiện

cho lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu vực nông thôn, kể cả ra nước ngoài. Tiếp tục đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xoá đói giảm nghèo, nhất là ở các vùng sâu,

vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu chọn tạo các giống cây trồng, giống vật nuôi có năng suất

và chất lượng cao phù hợp với các vùng sinh thái, trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học.

- Tăng cường năng lực của các cơ sở đào tạo và có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho nông dân nhất là thanh niên; hệ thống khuyến nông tăng cường đào tạo kỹ năng nông nghiệp.

Tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ công. Tăng vốn ngân sách đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, nhất là cho các vùng sâu, vùng xa, vùng cao, hạ

tầng thương mại phục vụ lưu thông hàng hoá nông lâm thuỷ sản.

- Nghiên cứu xây dựng hệ thống chính sách hỗ trợ nông nghiệp và nông dân, nhất là các

chính sách về quyền sử dụng đất; chính sách kết hợp giữa kinh tế nhỏ “hộ gia đình” với các doanh nghiệp trong vấn đề sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, cụ thể

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 32: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

32

hoá chính sách phối hợp 3 nhà, 4 nhà, ..; chính sách an sinh xã hội cho nông dân như chính sách

bảo hiểm y tế, chính sách hỗ trợ con nông dân nghèo trong giáo dục, chính sách hỗ trợ đào tạo nghề và tìm việc làm, chính sách bảo hiểm cho nông dân khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng

vào những mục đích khác,...

- Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp tạo hành lang pháp lý thông thoáng để khuyến khích mạnh

hơn nông dân và doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời đầu tư tăng cường năng lực thông tin và xúc tiến thương mại.

- Tăng cường biện pháp phòng chống dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi; về bảo vệ và phát triển rừng, xây dựng và quản lý hệ thống thuỷ lợi, an toàn vệ sinh thực phẩm,...

- Các hình thức trợ cấp là rất đa dạng và đại đa số là được phép theo quy định của WTO. Vấn đề là chọn loại nào, hỗ trợ cho “gốc” (mang tính bền vững) hay cho “ngọn” (mang tính

tình thế), áp dụng cho ai, mức độ là bao nhiêu, trong thời gian bao lâu để vừa thúc đẩy được sản xuất nhưng cũng nâng cao được hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế.

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 33: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

33

Phụ lục

SỐ LIỆU THỐNG KÊ CỦA TỔNG CỤC THỐNG KÊ VỀ KINH TẾ

NÔNG NGHIỆP VÀ LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM

Giá trị sản xuất nông nghiệp theo giá thực tế phân theo ngành hoạt động

Đơn vị tính: Tỷ đồng

Chia ra Năm Tổng số

Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ

2001 130177,6 101403,1 25501,4 3273,1

2002 145021,3 111171,8 30574,8 3274,7

2003 153955,0 116065,7 34456,6 3432,7

2004 172494,9 131551,9 37343,6 3599,4

2005 183342,4 134754,5 45225,6 3362,3

Ước 2006 196987,7 144773,1 48654,5 3560,1

Giá trị sản xuất nông nghiệp theo giá so sánh 1994 phân theo ngành hoạt động

Đơn vị tính: Tỷ đồng

Chia ra Năm Tổng số

Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ

2001 114989,5 92907,0 19282,5 2800,0

2002 122150,0 98060,7 21199,7 2889,6

2003 127651,1 101786,3 22907,3 2957,5

2004 132888,0 106422,5 23438,6 3026,9

2005 137112,0 107897,6 26107,6 3106,8

Ước 2006 142014,9 110821,9 28002,3 3190,7

Lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 34: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

34

phân theo thành phần kinh tế và phân theo ngành kinh tế(*)

Đơn vị tính: Nghìn người

2001 2002 2003 2004 2005

Ước

2006

Tổng số 38562,7 39507,7 40573.8 41586,3 42526,9 43347,2

Phân theo thành phần kinh tế

Kinh tế Nhà nước 3603,6 3750,5 4035,4 4108,2 4038,8 4007,8

Kinh tế ngoài Nhà nước 34597,0 35317,6 36018,5 36847,2 37814,7 38639,0

Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 362,1 439,6 519,9 630,9 673,4

700,4

Phân theo ngành kinh tế

Nông nghiệp và lâm

nghiệp 23385,5 23173,7 23117,1 23026,1 22860,0

22567,0

Thuỷ sản 1082,9 1282,1 1326,3 1404,6 1482,4 1555,8

Công nghiệp 4260,2 4558,4 4982,4 5293,6 5601,1 5841,1

Xây dựng 1291,7 1526,3 1688,1 1922,9 2181,3 2438,8

Thương nghiệp 4062,5 4281,0 4532,0 4767,0 4991,7 5251,1

Khách sạn, nhà hàng 700,0 715,4 739,8 755,3 767,5 783,4

Vận tải, kho bãi, thông tin

liên lạc 1179,7 1183,0 1194,4 1202,2 1204,5 1212,3

Văn hoá, y tế, giáo dục 1416,0 1497,3 1584,1 1657,4 1726,1 1806,0

Các ngành dịch vụ khác 1184,2 1290,5 1409,6 1557,2 1712,3 1891,7

(*) Không bao gồm lực lượng an ninh, quốc phòng.

Lao động bình quân trong khu vực Nhà nước phân theo ngành kinh tế

Đơn vị tính: nghìn người

2001 2002 2003 2004 2005

Tổng số 3603,6 3750,5 4035,4 4108,2 4038,7

Nông nghiệp và lâm nghiệp 218,2 217,2 221,4 216,0 207,9

Thuỷ sản 6,4 5,7 5,6 4,7 3,7

Công nghiệp khai thác mỏ 105,9 118,2 118,8 140,9 125,3

Công nghiệp chế biến 690,4 710,3 730,4 699,0 629,6

Sản xuất và phân phối điện, khí

đốt và nước 74,8 79,4 83,7 89,7 91,2

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 35: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

35

2001 2002 2003 2004 2005

Xây dựng 429,4 479,0 539,9 531,5 498,4

Thương nghiệp; sửa chữa xe có

động cơ, mô tô,xe máy và đồ dùng cá nhân và gia đình 189,6 193,6 160,5 151,0 123,0

Khách sạn và nhà hàng 32,5 35,2 36,9 36,1 34,8

Vận tải; kho bãi và thông tin liên

lạc 201,5 200,4 192,1 196,8 199,4

Tài chính, tín dụng 61,2 65,4 69,2 74,9 71,5

Hoạt động khoa học và công nghệ 33,4 33,9 29,0 29,3 36,0

Các HĐ liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn 45,7 45,6 51,7 56,3 46,2

QLNN và ANQP, đảm bảo xã hội bắt buộc 252,8 260,7 400,8 432,6 469,6

Giáo dục và đào tạo 935,9 970,6 1018,0 1050,1 1089,5

Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 189,7 197,0 206,3 218,4 224,2

Hoạt động văn hoá và thể thao 36,0 37,4 38,8 39,7 40,0

Các hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội 70,9 70,0 95,8 102,8 107,2

Hoạt động phục vụ cá nhân và

cộng đồng 29,3 30,9 36,5 38,4 41,3

Lao động bình quân trong khu vực Nhà nước

do trung ương quản lý phân theo ngành kinh tế

Đơn vị tính: Nghìn người

2001 2002 2003 2004 2005

Tổng số 1499,0 1569,1 1628,4 1678,2 1613,3

Nông nghiệp và lâm nghiệp 115,4 115,4 120,6 121,5 118,7

Thuỷ sản 0,6 0,5 0,4 0,5 0,4

Công nghiệp khai thác mỏ 90,5 100,4 102,0 123,0 109,3

Công nghiệp chế biến 364,1 380,8 395,6 396,6 367,0

Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước 58,5 62,0 65,0 68,7 69,0

Xây dựng 302,9 336,9 384,7 386,8 374,4

Thương nghiệp; sửa chữa xe có động 80,4 83,8 76,8 74,1 61,8

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 36: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

36

cơ, mô tô, xe máy và đồ dùng cá nhân

và gia đình

Khách sạn và nhà hàng 8,5 8,6 9,1 9,5 9,8

Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc 171,3 168,9 160,8 166,8 170,0

Tài chính, tín dụng 56,3 59,9 63,0 68,7 66,0

Hoạt động khoa học và công nghệ 28,6 28,8 24,2 24,0 30,6

Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn 28,2 28,0 32,6 36,3 26,0

QLNN và ANQP, đảm bảo xã hội bắt buộc 103,7 103,3 102,2 104,4 112,0

Giáo dục và đào tạo 51,5 50,4 51,7 54,1 58,1

Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 19,7 22,3 20,3 23,8 24,8

Hoạt động văn hoá và thể thao 4,8 5,0 5,3 5,3 4,0

Các hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội 13,8 13,9 13,9 13,9 11,2

Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng

đồng 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2

Lao động bình quân trong khu vực Nhà nước do địa phương quản lý

phân theo ngành kinh tế

Đơn vị tính: Nghìn người

2001 2002 2003 2004 2005

Tổng số 2104,6 2181,4 2407,0 2430,0 2425,5

Nông nghiệp và lâm nghiệp 102,8 101,8 100,8 94,5 89,1

Thuỷ sản 5,8 5,2 5,2 4,2 3,3

Công nghiệp khai thác mỏ 15,4 17,8 16,8 17,9 16,0

Công nghiệp chế biến 326,3 329,5 334,8 302,4 262,6

Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước 16,3 17,4 18,7 21,0 22,2

Xây dựng 126,5 142,1 155,2 144,7 124,0

Thương nghiệp; sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và đồ dùng

cá nhân và gia đình 109,2 109,8 83,7 76,9 61,2

Khách sạn và nhà hàng 24,0 26,6 27,8 26,6 25,0

Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc 30,2 31,5 31,3 30,0 29,4

Tài chính, tín dụng 4,9 5,5 6,2 6,2 5,5

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 37: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

37

2001 2002 2003 2004 2005

Hoạt động khoa học và công nghệ 4,8 5,1 4,8 5,3 5,5

Các hoạt động liên quan đến kinh

doanh tài sản và dịch vụ tư vấn 17,5 17,6 19,1 20,0 20,3

QLNN và ANQP, đảm bảo xã hội

bắt buộc 149,1 157,4 298,6 328,2 357,6

Giáo dục và đào tạo 884,4 920,2 966,3 996,0 1031,4

Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 170,0 174,7 186,0 194,6 199,4

Hoạt động văn hoá và thể thao 31,2 32,4 33,5 34,4 36,0

Các hoạt động Đảng, đoàn thể và

hiệp hội 57,1 56,1 81,9 88,9 96,0

Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng

đồng 29,1 30,7 36,3 38,2 41,0

Tỷ lệ thời gian làm việc được sử dụng của lao động

trong độ tuổi ở khu vực nông thôn phân theo vùng

Đơn vị tính: %

2001 2002 2003 2004 2005

Cả nước 74,26 75,42 77,65 79,10 80.65

Phân theo vùng

Đồng bằng sông Hồng 75,36 76,08 78,25 80,21 78,75

Đông Bắc Bộ 73,05 75,32 77,09 78,68 80,31

Tây Bắc Bộ 72,78 71,08 74,25 77,42 78,44

Bắc Trung Bộ 72,52 74,50 75,60 76,13 76,45

Duyên hải Nam Trung Bộ 74,60 74,85 77,31 79,11 77,81

Tây Nguyên 77,18 77,99 80,43 80,60 81,61

Đông Nam Bộ 76,42 75,43 78,45 81,34 82,90

Đồng bằng sông Cửu Long 73,38 76,53 78,27 78,37 80,00

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.

Page 38: Tac Dong Cua Tham Gia WTO Voi Lao Dong Viet Nam

38

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Tẫn Dũng, Thủ tướng Chính phủ: “WTO: cơ hội, thách thức và hành động của

chúng ta”

2. Nguyễn Lân Dũng: Vào WTO nông dân ta được gì và mất gì?

3. Đỗ Tiến Sâm: Trung Quốc gia nhập WTO, kinh nghiệm với Việt Nam - Nhà xuất bản Khoa học Xã hội

4. Nhiệm Quyền và Nhiệm Dĩnh: WTO những nguyên tắc cơ bản – NXB Khoa học Xã Hội

5. Nguyễn Đình Liêm: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn Đài Loan -

NXB Khoa học Xã hội

6. T.S. Phạm Thu Hương: Xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam - thời cơ và thách thức khi hội

nhập WTO - NXB Lý luận chính trị

7. GS, TS Mai Ngọc Cường: Chính sách xã hội nông thôn - kinh nghiệm của CHLB Đức và

thực tiễn ở Việt Nam; NXB Lý luận chính trị

8. TS. Nguyễn Vĩnh Thanh, TS. Lê Thị Hà : Các nước đang phát triển với cơ chế giải quyết

tranh chấp của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO -NXB Lao động Xã hội

9. Trương Cường : WTO kinh doanh và tự vệ - NXB Hà Nội)

10. TS. Chu Tiến Quang: Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển kinh tế nông thôn. Thực trạng và giải pháp - NXB Chính trị Quốc gia

11. Nguyễn Khương Bình: Với doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội và thách thức gia nhập WTO - Nhà xuất bản Lao động

12. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội hàng năm (từ năm 2001 đến 2006)

13. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội: Số liệu thống kê lao động - việc làm ở Việt Nam, năm 2005

14. Tổng cục Thống kê: Báo cáo sơ bộ kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản năm 2006

15. Tổng cục Thống kê: Niên giám Thống kế hàng năm (từ năm 2001 đến 2005)

16. Nhà xuất bản nông nghiệp: Nông nghiệp Việt Nam 61 Tỉnh và Thành phố, năm 2001

17. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia: Góp phần phát triển bền vững nông thôn Việt Nam, năm 2004

18. Nhà xuất bản Thống kê: Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, năm 2004

19. Bộ Thương mại: Toàn bộ các văn kiện cam kết của Việt Nam gia nhập WTO (NXB Lao động - xã hội 2006)

Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Softwarehttp://www.foxitsoftware.com For evaluation only.