37
câu22. Phân tíchđặc điểm, phương pháp luận của trường phái tân cđiển để làm rõ trường phái này va cđiể n chung l i vừa có đặc điể m khác bit so với các quan điể m của trường phái kinh tế CTTS cđiể n Anh. Trl i. *Đặc điểm, phương pháp luận ca trường phái tân cđiển: - Cu i th ế kXIX, đầu th ế kXX, ch nghĩa tự do cnh tranh có sđổi bi ến m nh m sang ch nghĩa tư bản đường, cùng v i sra đời ca khoa h c Marx, phái kinh tế chính trtư sản cđiển t ra y ếu th ế khi bo v ch ngĩa tư bản- Trước bi cảnh đó trường phái tân cđiển ra đời. - Trường phái tân cđiển da vào tâm lí ch quan để gi i thích các hi ện tượng và quá trình kinh t ế -xã h i, v n dụng đưa ra lí thuyết quan h sn xu t và giá chàng hoá trên th trường do c-c quy ết đị nh. - áp dụng phương pháp phân tích vi mô: đi vào nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng, ca các xí nghi ệp. Xem xét người tiêu dùng làm sao để v i só thu nh ập như vậy sthu được nhi u hàng hoá nh t, còn các xí nghi p kinh doanh làm th ế nào để thu được l i nhu n nhi u nh t . - Vn dụng phương pháp toán học như công thực, đồ th ị, mô hình để đưa ra các phạm trù kinh t ế . - Hđưa ra các kinh nghiệ m m ới như “ích lợi gi i h ạn, năng suất gi i h n, sn ph m gi i h ạn...” vì vậy trường phái tân cđiển còn g ọi là trường phái gi i h n. * Đăc điểm chung và khác so v ới trường phái kinh tế chính trtư sản cđiển Anh. +Đặc điểm chung: Các trường phái này đều ng h t do cnh tranh ch ng l i scan thi p của Nhà nước vào th trường. Htin tưởng rằng cơ chế th trường t phát sđảm bo cân bng c- c, đảm bo cho n n kinh tế tăng bình thường, tránh được kh ng hong kinh tế. ** Cđiển. - Dùng phương pháp nghiên cứu da vào khách. - Đi sâu vào nghiên cứu lĩnh vực sn xu t. - Chú ý nghiên cu m t ch t. - Nghiên cu các v ấn đề kinh t ế, thường đề cập đến v ấn đề kinh tế - xã h i(có liên h v ới điều ki n chính tr- xã h i). ** Tân cđiển. - Dùng tâm lí ch quan ca nhân dân. - Chuy n schú ý sang lĩnh vực trao đổi, lưu thông và nhu cầu. - Ch y ếu là m ặt lượng. - Nghiên cu v v án đề kinh t ế thu n tuý, ph nh n thu t ng kinh t ế chính trh c ca Montchretien. Mà ch là kinh tế h c. thuyết “Bàn tay vô hình”: Con người khi tham gia các hoạt động kinh tế ngoài bị chi phối bởi lợi ích cá nahan còn chịu tác động của các quy luật kinh tế khách quan thậm chí đáp ứng nhu cầu của xã hội tốt hơn lợi ích cá nhân. Điều kiện cần thiết để các quy luật kinh tế khách quan hoạt động: sự tồn tại và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa; nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do kinh tế (tự do sản xuất, tự do liên doanh liên kết, tự do mậu dịch). Nhà nước không cần thiết phải can thiệp vào nền kinh tế vì bản thân cơ chế thị trường có thể giải quyết hài hòa các mối quan hệ của nền kinh tế.

Cau hoi on tap lschtkt

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Cau hoi on tap lschtkt

câu22. Phân tíchđặc điểm, phương pháp luận của trường phái tân cổ điển để làm rõ

trường phái này vừa cổ điển chung lại vừa có đặc điểm khác biệt so với các quan điểm

của trường phái kinh tế CTTS cổ điển ở Anh. Trả lời.

*Đặc điểm, phương pháp luận của trường phái tân cổ điển: - Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tự do cạnh tranh có sự đổi biến mạnh mẽ sang chủ nghĩa tư bản đường, cùng với sự ra đời của khoa học Marx, phái kinh tế chính trị tư sản

cổ điển tỏ ra yếu thế khi bảo vệ chủ ngĩa tư bản- Trước bối cảnh đó trường phái tân cổ điển ra đời.

- Trường phái tân cổ điển dựa vào tâm lí chủ quan để giải thích các hiện tượng và quá trình kinh tế -xã hội, vận dụng đưa ra lí thuyết quan hệ sản xuất và giá cả hàng hoá trên thị trường do c-c quyết định.

- áp dụng phương pháp phân tích vi mô: đi vào nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng, của các xí nghiệp. Xem xét người tiêu dùng làm sao để với só thu nhập như vậy sẽ thu được

nhiều hàng hoá nhất, còn các xí nghiệp kinh doanh làm thế nào để thu được lợi nhuận nhiều nhất . - Vận dụng phương pháp toán học như công thực, đồ thị, mô hình để đưa ra các phạm trù

kinh tế . - Họ đưa ra các kinh nghiệm mới như “ích lợi giới hạn, năng suất giới hạn, sản phẩm giới

hạn...” vì vậy trường phái tân cổ điển còn gọi là trường phái giới hạn. * Đăc điểm chung và khác so với trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh. +Đặc điểm chung: Các trường phái này đều ủng hộ tự do cạnh tranh chống lại sự can thiệp

của Nhà nước vào thị trường. Họ tin tưởng rằng cơ chế thị trường tự phát sẽ đảm bảo cân bằng c-c, đảm bảo cho nền kinh tế tăng bình thường, tránh được khủng hoảng kinh tế.

** Cổ điển. - Dùng phương pháp nghiên cứu dựa vào khách. - Đi sâu vào nghiên cứu lĩnh vực sản xuất.

- Chú ý nghiên cứu mặt chất. - Nghiên cứu các vấn đề kinh tế, thường đề cập đến vấn đề kinh tế - xã hội(có liên hệ với điều

kiện chính trị - xã hội). ** Tân cổ điển. - Dùng tâm lí chủ quan của nhân dân.

- Chuyển sự chú ý sang lĩnh vực trao đổi, lưu thông và nhu cầu. - Chủ yếu là mặt lượng.

- Nghiên cứu về ván đề kinh tế thuần tuý, phủ nhận thuật ngữ kinh tế chính trị học của Montchretien. Mà chỉ là kinh tế học.

Lí thuyết “Bàn tay vô hình”: Con người khi tham gia các hoạt động kinh tế ngoài bị chi phối bởi lợi ích cá nahan còn chịu tác động của các quy luật kinh tế khách quan thậm chí đáp ứng nhu cầu của xã hội tốt hơn lợi

ích cá nhân.

Điều kiện cần thiết để các quy luật kinh tế khách quan hoạt động: sự tồn tại và phát triển của

sản xuất và trao đổi hàng hóa; nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do kinh tế (tự do sản xuất, tự do liên doanh liên kết, tự do mậu dịch).

Nhà nước không cần thiết phải can thiệp vào nền kinh tế vì bản thân cơ chế thị trường có thể

giải quyết hài hòa các mối quan hệ của nền kinh tế.

Page 2: Cau hoi on tap lschtkt

Câu 1: Trình bày lí luận ích lợi giới hạn và giá trị giới hạn của Áo, cho vài ví dụ để CMR tư tưởng giới hạn của trường phái đã đc kinh tế học hiện đại kế thừa và phát triển ( = tư tường

giới hạn đc những trường phái nào kế thừa và phát triển). Ø Lí luận ích lợi giới hạn:

Tác giả:Carl Menger(1840-1921)

Tiền đề: 2 định luật về nhu cầu của Herman Gossen(1810-1858) Định luật 1: bất cứ 1 nhu cầu nào của con ng cũng có thể đc t/m nếu như ng ta tiêu dùng 1

loại sp có tính năng đáp ứng đc nhu cầu. Cường độ của nhu cầu giảm dần khi số lượng sp đc đưa ra để thỏa mãn nhu cầu tăng lên. Nhu cầu sẽ ko còn nữa nếu như con ng đc t/m sp đến tột

độ (cường độ nhu cầu bằng 0)

Định luật 2: Cá nhân ý thức đc nhu cầu của mình và biết rõ cách thức để t/m nhu cầu vì vậy nếu như biết suy luận,tính t oán thì cá nhân sẽ sắp xếp nhu cầu theo 1 trật tự nhất định. Trật

tự này hoặc là căn cứ vào cường độ của nhu cầu hoặc là căn cứ vào ý muốn của cá nhân cho thấy đc nhu cầu nào là cấp thiết và mức độ cấp thiết của từng nhu cầu,để từ đó con ng có kế

hoạch chi tiêu thích hợp. Trong trường hợp thu nhập của con ng còn thấp thì việc tiêu dùng thường chỉ giới hạn ở những nhu cầu cấp thiết còn khi thu nhập tăng dần lên,con ng có xu hướng tiêu dùng những HH cao cấp, xa xỉ nhiều hơn.

Nội dung: Ích lợi là đặc tính cụ thể của vật mà nhờ đó những nhu cầu khác nhau của con ng đc t/m,

phân ra thành ích lợi chủ quan, khách quan, ích lợi cụ thể, trìu tượng.

Do nhu cầu của con ng có cường độ khác nhau nên nếu như đc tuần tự t/m thì nhu cầu sẽ có cường độ giảm và theo đà tăng của vật đc đưa ra để t/m nhu cầu thì vật sau sẽ đc đánh giá lợi

ích thấp hơn vật trước.Vì vậy vs 1 số lượng sp có giới hạn thì vật đc đưa ra sau cùng sẽ đc gọi là sp giới hạn và ích lợi của vật đó đc gọi là ích lợi giới hạn.

Ích lợi giới hạn là ích lợi của vật đc đưa ra sau cùng để t/m nhu cầu; vật đó có ích lợi nhỏ nhất và quy định lợi ích của tất cả các vật khác.

Thế giới quan giữa ích lợi giới hạn vs số lượng sp đc đưa ra để t/m nhu cầu là tương quan tỉ

lệ nghịch.

Ø Lí luận giá trị giới hạn:

Tiền đề: Lí luận giá trị ích lợi của J.B.Say.

Lí luận ích lợi giới hạn.

Nội dung: Phủ nhận lí thuyết giá trị lđ của trường phái ‘TS cổ điển’ và C.Mác.

Đưa ra lý thuyết giá trị – ích lợi (giá trị – chủ quan): Theo đó “ích lợi giới hạn” quyết định giá trị của sản phẩm kinh tế, đó là “giá trị giới hạn”, nó quyết định giá trị của tất cả các sản

Page 3: Cau hoi on tap lschtkt

phẩm khác (ích lợi của vật quyết định giá trị – ở đây là: “ích lợi giới hạn”). Muốn có nhiều giá trị phải tạo ra sự khan hiếm.

Về Giá trị trao đổi (GTTĐ): cho rằng GTTĐ là chủ quan, sở dĩ hai người trao đổi sản phẩm cho nhau là vì cả hai đều tin rằng sản phẩm mà mình bỏ ra đối với mình ít giá trị hơn sản

phẩm mà mình thu về (ở đây có sự so sánh các sản phẩm, nếu có lợi mới trao đổi, căn cứ vào nhu cầu bản thân).

Ø Kế thừa và phát triển:

Lí thuyết “Năng suất giới hạn”, “ng công nhân giới hạn” và “sp giới hạn” của J.B.Clark trong trường phái giới hạn ở Mĩ

A.Marshall nhà kinh tế thuộc trường phái Cambridge Anh cũng cho rằng nhu cầu về của cải là có giới hạn và khẳng định giá cầu của người mua được quyết định bởi ích lợi giới hạn.

J.M.Keynes và P.A.Samuelson đã ủng hộ lí thuyết này:

Keynes đã xây dựng lí thuyết “Khuynh hướng tiêu dùng giới hạn” và “Hiệu quả giới hạn của tư bản”.

Samuelson đưa ra lí thuyết “Giới hạn khả năng sản xuất” và “Sự lựa chọn”

Câu 5: Chứng minh rằng Lí thuyết giá cả của A.Marshall thể hiện rõ đặc điểm phương

pháp luận của trường phái tân cổ điển ( kế thừa và phát triển bàn tay vô hình của

A.Smith)

Ø Đặc trưng phương pháp luận của Trường phái tân cổ điển:

Marshall tập trung nghiên cứu nền kinh tế trong quan hệ trao đổi lưu thông, chứ không quan tâm đến quá trình sản xuất.

Ông đưa ra các phạm trù kinh tế mới: cung, cầu, giá cung, giá cầu, hệ số co dãn của cầu… là

sự phối hợp các phạm trù toán học và kinh tế học để giải thích quy luật kinh tế.

Ông đã biết sử dụng công cụ toán học trong phân tích kinh tế: đồ thị, công thức.

Để xây dựng mô hình cung – cầu thị trường Marshall đi sâu vào phân tích tâm lí, hành vi của người tiêu dùng và nhà sản xuất từ đó rút ra kết luận cho toàn nền kinh tế => áp dụng phương pháp vi mô trong nghiên cứu.

Theo ông giá trị là phạm trù siêu hình, vô nghĩa, chỉ có giá cả là phạm trù thiết thực và cụ thể vì thế nhà kinh tế không đề cập tới phạm trù giá trị.

Việc phân tích mối quan hệ cung cầu dưới góc độ hành vi của người mua và người bán đều mong muốn đạt được lợi ích tốt nhất cho mình (người mua chỉ quan tâm đến việc tốn ít tiền nhất mà thỏa mãn được tốt nhất nhu cầu của mình, người bán chỉ quan tâm đến lợi nhuận) mà

Page 4: Cau hoi on tap lschtkt

không quan tâm đến nền sản xuất, bối cảnh lịch sử xã hội nói chung => điều này thể hiện tâm lí chủ quan cá biệt, cá nhân trong phân tích kinh tế.

Việc phân tích cung- cầu thị trường một cách thuần túy cũng thể hiện việc Marshall muốn xây dựng một nền kinh tế học thuần túy không bị tác động bởi yếu tố giai cấp.

Kế thừa và phát triển Bàn tay vô hình của A.Smith. Lí thuyết “Bàn tay vô hình”: Con người khi tham gia các hoạt động kinh tế ngoài bị chi phối bởi lợi ích cá nhân còn chịu

tác động của các quy luật kinh tế khách quan thậm chí đáp ứng nhu cầu của xã hội tốt hơn lợi ích cá nhân.

Điều kiện cần thiết để các quy luật kinh tế khách quan hoạt động: sự tồn tại và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa; nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do kinh tế (tự do sản xuất, tự do liên doanh liên kết, tự do mậu dịch).

Nhà nước không cần thiết phải can thiệp vào nền kinh tế vì bản thân cơ chế thị trường có thể giải quyết hài hòa các mối quan hệ của nền kinh tế.

Lí thuyết giá cả của Marshall: Ông tập trung nghiên cứu nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh.

Ông cho rằng: Ở trên thị trường, giá cả đc hình thành một cách tự phát do tác động của mối

quan hệ cung cầu. Khi giá cung và giá cầu gặp nhau thì hình thành nên giá cả cân bằng hay giá cả thị trường: “Khi giá cung và giá cầu gặp nhau thì sẽ chấm dứt cả khuynh hướng tăng

dẫn khuynh hướng giảm, lượng hàng hóa sản xuất, thế cân bằng được thiết lập”.

=> Marshall đề cao sự tự phát của cơ chế thị trường, coi nhẹ sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế, tin tưởng cơ chế thị trường tự phát đảm bảo cân bằng kinh tế.

Câu 6: Trình bày nội dung lí thuyết giá cả của A.Marshall, rút ra ý nghĩa lí luận và thực

tiễn từ việc nghiên cứu lí thuyết này.

Lí thuyết giá cả của A.Marshall: Ở trên thị trường, giá cả đc hình thành một cách tự phát do tác động của mối quan hệ cung cầu:

Cầu và giá cầu: - Cầu là biểu hiện của nhu cầu có khả năng thanh toán, nó được biểu hiện bởi khối lượng

tiền tệ và giá cả nhất định.

- Nhân tố ảnh hưởng đến cầu: nhu cầu; thu nhập; giá cả của bản thân hàng hóa.

- Hệ số co dãn của cầu phản ánh mối sự thay đổi của cầu dưới sự thay đổi của giá.

Page 5: Cau hoi on tap lschtkt

: sự thay đổi của cầu.

: sự thay đổi của giá.

K: hệ số co dãn của cầu theo giá.

K = : =

Sự co dãn của cầu phụ thuộc vào các nhân tố sau: mức giá cả, giá cả của các hàng hóa có liên quan, sức mua của dân cư và nhu cầu mua sắm của dân cư.

Cung và giá cung:

- Cung là khối lượng hàng hóa sản xuất ra đem bán trên thị trường với một giá cả nhất định.

- Nhân tố ảnh hưởng đến cung: giá cả hàng hóa đó.

Cân bằng thị trường và giá cả thị trường

- Thị trường là tổng thể những người có quan hệ mua bán hay là nơi gặp gỡ của cung và cầu. Khi nghiên cứu cơ chế thị trường, Marshall cho rằng một mặt trong điều kiện cạnh tranh

hoàn toàn thì cung cầu phụ thuộc vào giá cả. Mặt khác, cơ chế thị trường tác động làm giá cả phù hợp với cung cầu, nghĩa là giá cả được quyết định bởi cung, cầu. Theo ông, giá cả là quan hệ số lượng mà trong đó hàng hóa và tiền tệ được trao đổi với nhau.

- Khi giá cung và giá cầu gặp nhau thì hình thành nên giá cả cân bằng hay giá cả thị trường: “Khi giá cung và giá cầu gặp nhau thì sẽ chấm dứt cả khuynh hướng tăng dẫn khuynh

hướng giảm, lượng hàng hóa sản xuất, thế cân bằng được thiết lập”.

- Marshall cho rằng, yếu tố thời gian có ảnh hưởng quan trọng đến cung, cầu và giá cả cân bằng. Trong thời gian ngắn thì cung cầu có tác động với giá cả.

- Ngoài ra, sự độc quyền cũng có tác động đến giá cả. Để có lợi nhuận cao, các nhà độc quyền thường giảm sản lượng để nâng bán. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là độc quyền

quyết định được tất cả, bởi vì trên thị trường còn chịu sự tác động của sự co dãn của cầu.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu: Ý nghĩa lí luận:

Tích cực: Lí thuyết giá cả của Marshall đi sâu phân tích cơ chế thị trường dưới góc độ vi mô, vì thế là

cơ sở quan trọng cho kinh tế học vi mô hiện đại

Là lí thuyết đầu tiên đặt nền móng cho việc phân tích thị trường theo mô hình cung – cầu, đây là nguyên lí cơ bản nhất của kinh tế học vi mô hiện đại, xuyên suốt gần như mọi vấn đề của

nền kinh tế thị trường.

Page 6: Cau hoi on tap lschtkt

Hạn chế: Phân tích lý thuyết giá cả: Với tính phê phán và đứng trên cơ sở lý luận giá trị – lao động của

chủ nghĩa Mác thì có thể nhận xét lý thuyết giá cả của Marshall như sau: Trong thời gian ngắn thì lợi ích cận biên quyết định giá trị, điều này lại mắc phải sai lầm mà thuyết ích lợi đã

gặp phải. Còn trong thời gian dài chi phí sản xuất quyết định giá cả thì không giải thích được trong giá cả đó bao gồm cả lợi nhuận của nhà tư bản chứ không chỉ có chi phí sản xuất. Nhà tư bản không thể bán hàng hóa với giá bằng với chi phí sản xuất được.

Nếu cho rằng quan hệ cung cầu quyết định giá cả thì cũng không có căn cứ vững chắc vì giá cả thay đổi cũng tác động làm cung cầu thay đổi. Điều này thể hiện sự luẩn quẩn trong lý

luận của Marshall: Cung, cầu quyết định giá cả, sau đó giá cả lại quyết định cung, cầu. Thực ra quan hệ cung, cầu về một hàng hóa nào đó trên thị trường chỉ làm cho giá cả dao động xung quanh giá trị chứ không tạo ra giá trị (giá trị chỉ được tạo ra trong quá trình sản xuất chứ

không phải trong trao đổi).

Ý nghĩa thực tiễn:

Giúp ta nhận thức đc trạng thái vận động của thị trường dưới tác động của các quy luật khách quan, sự cân bằng cung cầu trên thị trường ko phải là cân bằng tĩnh, mà là cân bằng động, luôn dao động qua điểm cân bằng.

Đâylà cơ sở để phân tích sự biến động giá cả HH trên thị trường, để nhà nước có chính sách điều chỉnh thích hợp.

Các doanh nghiệp chủ động trong chiến lược kinh doanh, tác động vào cung, cầu và đưa ra chính sách giá cả để thu lợi nhuận cao.

Việc xác định K giúp các xí nghiệp độc quyền đưa ra chính sách giá cả có lợi cho mình (giá

cả độc quyền để thu lợi nhuận độc quyền cao), có thể bán số lượng sản phẩm ít hơn mà giá cả cao hơn.

Sự co giãn của cầu phụ thuộc vào các nhân tố: mức giá cả, sức mua và nhu cầu mua sắm .

Thời gian là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến cung cầu và giá cả. Quy tắc chung là:

- Thời gian ngắn (thời kỳ nghiên cứu ngắn) phải chú ý tới ảnh hưởng của cầu lên giá trị .

- Thời gian dài (thời kỳ nghiên cứu càng dài) thì ảnh hưởng tác động của chi phí tới giá trị rất quan trọng.

Câu 7: CMR lí thuyết kinh tế của TP Tân cổ điển là cơ sở hình thành kinh tế học vi mô.

Có thể nói, lí thuyết kinh tế học của TP tân cổ điển là cơ sở hình thành kinh tế học vi mô hiện đại, bởi có thể tìm thấy sự kế thừa TP Tân cổ điển của kinh tế học vi mô hiện đại ở các nội

dung: đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, thuật ngữ cơ bản, lí thuyết cơ bản.

Đối tượng nghiên cứu: Lĩnh vực nghiên cứu là lĩnh vực trao đồi lưu thông, trao đổi, nhu

cầu…

Page 7: Cau hoi on tap lschtkt

Phương pháp nghiên cứu: phương pháp vi mô, nghiên cứu kinh tế trong các xí nghiệp cụ thể, các loại hàng hóa cụ thể từ đó rút ra kết luận cho toàn chung cho toàn nền kinh tế.

Sử dụng các mô hình, công thức, đồ thị toán học đề giải thích nền kinh tế.

Thuật ngữ cơ bản: sau này, kinh tế học vi mô hiện đại tiếp tục sử dụng các thuật ngữ cơ bản

mà Tp Tân cổ điển đã đưa ra: Ích lợi giới hạn của TP giới hạn thành Viene – Áo sau này là lợi ích cận biên trong kinh tế vi mô

Năng suất giới hạn của TP Mĩ sau này chính là năng suất cận biên của lao động trong kt vi mô.

Thuật ngữ cung cầu, hệ số co dãn của cầu trong lí luận của Marshall đc phát triển thành lí thuyết cung cầu, hệ số co dãn của cầu theo giá (công thức của Marshall là co dãn khoảng, ngoài ra còn có công thức co dãn điểm.) trong kinh tế học vi mô, ngoài ra còn đc phát triển

thêm các khái niệm khác như hệ số co dãn của cung theo giá, của cầu theo thu nhập…

Các lí thuyết cơ bản: Cùng với sự kế thừa các thuật ngữ cơ bản, kinh tế học vi mô hiện đại

cũng kế thừa và phát triển xa hơn các lí thuyết kinh tế cơ bản của TP Tân cổ điển.

TP Tân cổ điển Kinh tế học vi mô

Lí thuyết ích lợi giới hạn – Áo: Ích lợi là đặc tính cụ thể của vật mà nhờ đó những nhu cầu khác nhau của con ng

đc t/m, phân ra thành ích lợi chủ quan, khách quan, ích lợi cụ thể, trìu tượng.

Do nhu cầu của con ng có cường độ khác nhau nên nếu như đc tuần tự t/m thì nhu cầu sẽ có cường độ giảm và theo đà tăng

của vật đc đưa ra để t/m nhu cầu thì vật sau sẽ đc đánh giá lợi ích thấp hơn vật

trước.Vì vậy vs 1 số lượng sp có giới hạn thì vật đc đưa ra sau cùng sẽ đc gọi là sp giới hạn và ích lợi của vật đó đc gọi là ích

lợi giới hạn.

Ích lợi giới hạn là ích lợi của vật đc đưa

ra sau cùng để t/m nhu cầu; vật đó có ích lợi nhỏ nhất và quy định lợi ích của tất cả các vật khác.

Lí thuyết lợi ích của kt học vi mô:

Lợi ích đc hiểu là sự thỏa mãi hài lòng đạt đc khi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ.

Người tiêu dùng sẽ tối đa hóa các lợi ích đạt được khi tiêu dùng.

Lợi ích đc đo bằng đơn vị của trí tưởng

tượng mà ng tiêu dùng gán cho hàng hóa khi tiêu dùng đc biểu hiện bằng mức độ

sẵn sàng chi trả của họ cho 1 đơn vị hàng hóa tiêu dùng.

Lợi ích cận biên là lợi ích tăng thêm khi

tiêu dùng thêm 1 đơn vị hàng hóa dịch vụ.

MU =

Quy luật lợi ích cận biên giảm dần: lợi ích của hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thêm có xu hướng giảm dần và điều này chỉ

đúng trong thời gian ngắn.

Lí thuyết năng suất giới hạn:

J.B.Clark cho rằng ích lợi của lao động

Hàm sản xuất ngắn hạn của kinh tế học

vi mô.

Page 8: Cau hoi on tap lschtkt

thể hiện ở năng suất của nó tuy nhiên năng suất lao động giảm dần, ng công

nhân đc thuê sau cùng là người công nhân giới hạn. Năng suất của anh ta là năng

suất giới hạn. Đó là năng suất thấp nhất và nó quyết đinh năng suất chung của các CN khác.

Q = f (K, L).

K cố định, năng suất cận biên của lao

động MPL = là sản phẩm đầu ra tăng thêm khi sử dụng thêm 1 đơn vị lao động.

Với quy mô của nhà máy đc cho trc thì MPL có xu hướng tăng do khai thác đc thêm công suất của máy móc nhưng nếu

tiếp tục tăng L mà K vẫn cố định thì năng suất cận biên sẽ giảm dần.

Lí thuyết cung cầu – Marshall: Cầu là biểu hiện của nhu cầu có khả năng

thanh toán, nó được biểu hiện bởi khối lượng tiền tệ và giá cả nhất định.

Nhân tố ảnh hưởng đến cầu: nhu cầu; thu nhập; giá cả của bản thân hàng hóa.

Lí thuyết cung cầu – kinh tế học vi mô: Cầu là số lượng hàng hóa dịch vụ mà người tiêu dùng muốn mua và có khả

năng mua tại các mức giá khác nhau trong khoảng thời gian nhất định vs đk các yếu

tố khác k đổi.

Nhân tố ảnh hưởng đến cầu: thu nhập, giá hàng hóa thay thế hoặc bổ sung, quy mô

thị trường, sở thích, kì vọng.

Lượng cầu: số lượng hàng hóa ng tiêu

dùng muốn mua tại 1 mức giá nhất định.

Nhân tố ảnh hưởng đến lượng cầu: giá cả hàng hóa đó

Cung là khối lượng hàng hóa sản xuất ra đem bán trên thị trường với một giá cả

nhất định. Nhân tố ảnh hưởng đến cung: giá cả hàng hóa đó.

Cung: là số lượng hàng hóa dich vụ ng bán muốn bán tại các mức giá khác nhau

trong khoảng thời gian nhất định với đk các yếu tố khác k đổi. Nhân tố ảnh hưởng đến cung: công nghệ

và năng suất, giá cả đầu vào, thuế và trợ cấp, số lượng nhà sản xuất, kì vọng…

Lượng cung: lượng hàng hóa đc bán tại 1 mức giá nhất định.

Nhân tố ảnh hưởng đến lượng cung: giá

cả hàng hóa đó

Khi giá cung và giá cầu gặp nhau thì hình Cân bằng cung cầu là trạng thái mà lượng

Page 9: Cau hoi on tap lschtkt

thành nên giá cả cân bằng hay giá cả thị trường: “Khi giá cung và giá cầu gặp

nhau thì sẽ chấm dứt cả khuynh hướng tăng dẫn khuynh hướng giảm, lượng hàng

hóa sản xuất, thế cân bằng được thiết lập”.

cung bằng lượng cầu tại 1 mức giá.

Hệ số co dãn của cầu phản ánh mối sự thay đổi của cầu dưới sự thay đổi của giá.

: sự thay đổi của cầu.

: sự thay đổi của giá.

K: hệ số co dãn của cầu theo giá.

K = : =

Hệ số co dãn của cầu theo giá đo lường sự thay đổi tương đối của lượng cầu do 1%

tương đối của giá hàng hóa. Co dãn khoảng (đoạn):

EDP = ×

Co dãn điểm:

EDP = ×

Câu 8: So sánh đặc điểm phương pháp luận của trường phái cổ điển Anh với Tân cổ điển.

Bảng 1: So sánh chung.

Trường phái cổ điển Anh Trường phái Tân cổ điển

Ra đời và phát triển ở Châu Âu, từ giữa TK 18-19.

Ra đời và phát triển ở Tây Âu, Mỹ, vào cuối TK 19- đầu TK 20.

Đối tượng nghiên cứu là lĩnh vực sản

xuất.

Đối tượng nghiên cứu là lĩnh vực trao đổi,

lưu thông lợi ích, tiêu dùng.

Sử dụng phương pháp phân tích vĩ mô, cho rằng quy luật kinh tế khách quan chi

phối hoạt động kinh tế.

Sử dụng phương pháp phân tích vi mô, kết hợp phạm trù kinh tế với phạm trù toán

học.

Cho rằng cung quyết định cầu, cung tạo

ra cầu, sản xuất quyết định tiêu dùng.

Cho rằng cầu quyết định cung, tiêu dùng

quyết định sản xuất.

Ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế, chủ trương chống lại sự can thiệp của nhà

nước vào hoạt động kinh tế.

Ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế, chủ trương chống lại sự can thiệp của nhà nước vào

hoạt động kinh tế.

Lao động là yếu tố duy nhất tạo ra giá

trị, là nguồn gốc của giá trị, của của cải,

Giá trị không bắt nguồn, không phụ thuộc

vào lao động mà phụ thuộc hoàn toàn vào

Page 10: Cau hoi on tap lschtkt

của giàu có. Giá trị hàng hóa do lượng lao động hao

phí tương đối cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định.

tâm lý chủ quan của con người. Giá trị của hàng hóa là do sự tương tác giữa

tính quan trọng , cấp thiết của nhu cầu và số lượng vật phẩm hiện có quyết định.

Lao động là cái duy nhất, chính xác để

đo lường giá trị trao đổi của hàng hóa. Chưa giải thích được tại sao vật càng

khan hiếm thì giá trị trao đổi càng cao.

Giá trị trao đổi được hình thành do sự đánh giá chủ quan của người mua, người bán về công dụng của hàng hóa.

Giải thích được tại sao vật càng khan hiếm thì giá trị trao đổi càng cao.( dựa trên quy

luật ích lợi giới hạn giảm dần).

Giá thị trường chịu sự điều tiết của giá

cả tự nhiên.

Giá thị trường là kết quả sự va chạm giữa giá cung với giá cầu, va chạm giữa cung

với cầu.

Giá cả hàng hóa trong lưu thông quyết

định số lượng tiền cần thiết trong lưu thông.

Giá cả tỉ lệ thuận với khối lượng tiền đưa vào trong lưu thông.

Ricardo cho rằng tiền lương là giá cả thị

trường của lao động phụ thuộc vào giá cả tự nhiên (giá các tư liệu sinh hoạt…).

Phủ nhận cuộc đấu tranh đòi tăng lương của người công nhân:

+ Adam Smith cho rằng tiền lương chỉ

có thể tăng trong nền kinh tế tăng trưởng nhanh.

+ Ricardo cho rằng lương thấp là điều tự nhiên, lương cao là thảm họa.

Clark cho rằng người công nhân được tiền lương là sản phẩm biên tế của lao

động.(giải thích dựa trên lý luận năng suất giới hạn)

Phủ nhận cuộc đấu tranh đòi tăng lương, giảm thất nghiệp của người công nhân. Clark cho rằng công nhân phải chấp nhận

tiền lương thấp để có việc làm, muốn tiền lương cao thị có thể chính mình bị sa thải.

(lý luận năng suất biên giảm dần).

Lợi nhuận là kết quả của việc trả công thấp hơn giá trị. Phủ nhận sự bóc lột khi cho rằng lợi

nhuận là kết quả của toàn bộ tư bản đầu tư ban đầu.

Không giải thích được lợi nhuận trên cơ sở nguyên tắc trao đổi ngang giá.

Bohm Bawerk cho rằng lợi nhuận là

khoảng chênh lệch do sự đánh giá chủ quan khác nhau của con người về 2 loại của cải :

của cải hiện tại (TLTD) được đánh giá cao, của cải tương lai (TLSX) được đánh giá thấp.

Xã hội tư bản là công bằng, nhà tư bản có lợi nhuận phù hợp với năng suất giới hạn

của tư bản, khẳng định lợi nhuận là không bóc lột. (nguyên tắc hành vi hợp lý)

Đã giải thích được.

Page 11: Cau hoi on tap lschtkt

Địa chủ có địa tô là kết quả của độ màu mỡ tương đối của đất đai.

Địa chủ có địa tô phù hợp với năng suất biên tế của đất đai.

Phát triển lý thuyết Bàn tay vô hình, tôn

trọng các quy luật khách quan tự phát, chi phối hoạt động con người.

Tâm lí chủ quan (cá biệt các nhân) Phát triển lý thuyết ích lợi giới hạn và thuyết giá

trị giới hạn, quan tâm đến nhu cầu tâm lý chủ quan của con người.

Bảng 2: So sánh đặc điểm phương pháp luận:

Cổ điển Anh Tân cổ điển

Đối tượng nghiên cứu là lĩnh vực sản xuất. Chuyển sự chú ý phân tích sang lĩnh vưc lưu thông, trao đổi, nhu câu…

Họ nghiên cứu các vấn đề kinh tế của tư bản chủ nghĩa.

Họ muốn gạt bỏ các yếu tố chính trị,

giai cấp để xây dựng môn kinh tế học thuần túy.

Tiếp cận và tìm hiểu các quy luật kinh tế khách quan. (VD: Giá trị hàng hóa là

khách quan.Giá trị hàng hóa do lượng lao động hao phí tương đối cần thiết để sản

xuất ra hàng hóa đó quyết định)

Tâm lí chủ quan (cá nhân cá biệt) trong phân tích kinh tế. (Giá trị của hàng hóa là do sự tương tác

giữa tính quan trọng, cấp thiết của nhu cầu và số lượng vật phẩm hiện có quyết

định).

Phương pháp nghiên cứu thể hiên tính 2 mặt: mặt khoa học – trừu tượng hóa và mặt tầm thường – mô tả liệt kê hời hợt. (lấy ví

dụ lí luận giá trị lao động của A.Smith, 2 định nghĩa giá trị)

Phương pháp vi mô trong phân tích kinh

tế. Tích cực áp dụng các công cụ toán học như đồ thị, công thức, mô hình.

(Ví dụ: Trường phái giới hạn Áo, cung cầu Marshall)

Ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế, chống lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế. “Bàn tay vô hình” A.Smith

Giống nhau L.Walras Marshall.

Câu 1: Đặc điểm phương pháp luận của lí thuyết Keynes. Vì sao nói trường phái này

vừa kế thừa vừa đối lập trường phái Tân cổ điển.

Ø Đặc điểm phương pháp luận: Keynes đã đưa ra phương pháp phân tích vĩ mô (tức là phân tích kinh tế xuất phát từ những

tổng lượng lớn để nghiên cứu mối liên hệ và khuynh hướng của chúng nhằm tìm ra công cụ tác động vào khuynh hướng, làm thay đổi tổng lượng).

Ví dụ như:

Page 12: Cau hoi on tap lschtkt

Đưa ra mô hình kinh tế vĩ mô với 3 đại lượng:

- Một là, đại lượng xuất phát (bao gồm nguồn vật chất như tư liệu sản xuất, sức lao động,

mức độ trang bị kĩ thuật của sản xuất, trình độ chuyên môn hóa của người lao động, cơ cấu của chế độ xã hội). Là đại lượng không thay đổi hay thay đổi chậm chạp.

- Hai là, đại lượng khả biến độc lập (là những khuynh hướng tâm lý như tiêu dùng, đầu tư, ưa chuộng tiền mặt,…). Là cơ sở hoạt động của mô hình, là đòn bẩy bảo đảm sự hoạt động của tổ chức kinh tế tư bản chủ nghĩa.

- Ba là, đại lượng khả biến phụ thuộc (là các chỉ tiêu quan trọng cấu thành nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, cụ thể hóa tính trạng nền kinh tế như: khối lượng việc làm, thu nhập quốc dân,

đơn vị tiền công) có sự thay đổi theo sự tác động của các biến số độc lập.

- Mối liên hệ giữa đại lượng khả biến độc lập và đại lượng khả biến phụ thuộc:

Thu nhập (R) = giá trị sản lượng (Q) = Tiêu dùng (C) + Đầu tư (I)

Tiết kiệm (E) = Thu nhập (R) – Tiêu dùng (C) (E hoặc S)

(hay R = Q = C + I , E = R – C) ⇒ E = I.

- E, I là 2 đại lượng quan trọng, theo Keynes việc điều tiết vĩ mô nhằm giải quyết việc làm,tăng thu nhập đòi hỏi khuyến khích tăng đầu tư và giảm tiết kiệm, có như vậy mới giải

quyết được khủng hoảng và thất nghiệp.

Về cơ bản trong phương pháp Keynes vẫn dựa vào tâm lý chủ quan, nhưng khác với các nhà

cổ điển và cổ điển mới dựa vào tâm lý cá biệt, Keynes dựa vào tâm lý xã hội, tâm lý chung, tâm lý của số đông (đưa ra các phạm trù khuynh hướng tiêu dùng, tiết kiệm là các phạm trù tâm lý số đông, tâm lý xã hội).

Ông đánh giá cao vai trò của tiêu dùng, trao đổi, coi tiêu dùng và trao đổi là nhiệm vụ số một mà nhà kinh tế học phải giải quyết. Theo ông, nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế, thất

nghiệp và trì trệ trong nền kinh tế là do cầu tiêu dùng giảm do đó cầu có hiệu quả giảm (tiêu dùng tăng chậm hơn mức tăng thu nhập do khuynh hướng tiết kiệm, ưa chuộng tiền mặt,… vì thế cầu tiêu dùng và do đó cầu có hiệu quả giảm). Do đó, cần nâng cầu tiêu

dùng, kích thích cầu có hiệu quả.

=>Vì vậy lý thuyết của Keynes còn được gọi là lý thuyết trọng cầu.

Phương pháp có tính chất siêu hình: coi lý thuyết của mình đúng cho mọi chế độ xã hội.

Theo xu hướng chung: tách kinh tế khỏi chính trị, tích cực áp dụng toán học (công thức, mô hình, đại lượng, hàm số, đồ thị).

Ø Kế thừa và đối lập Tân cổ điển:

Page 13: Cau hoi on tap lschtkt

Kế thừa: Cũng giống như trường phái Tân cổ điển, Keynes hướng sự chú ý phân tích kinh tế vào lĩnh

vực trao đổi, lưu thông, cung cầu ( thu nhập, tiết kiệm, tiêu dùng, sản lượng nền kinh tế.

Ông cũng tích cực sử dụng công thức toán học trong phân tích kinh tế (công thức mô hình,

đại lượng, hàm số, đồ thị…)

Về cơ bản trong phương pháp Keynes vẫn dựa vào tâm lý chủ quan giống với các nhà kinh tế học cổ điển khi đưa ra các khuynh hướng.

Đối lập: Keynes đã đưa ra phương pháp phân tích vĩ mô (tức là phân tích kinh tế xuất phát từ những

tổng lượng lớn để nghiên cứu mối liên hệ và khuynh hướng của chúng nhằm tìm ra công cụ tác động vào khuynh hướng, làm thay đổi tổng lượng). Còn Tân cổ điển áp dụng phương pháp vi mô trong nghiên cứu, từ sự phân tích kinh tế trong các xí nghiệp rút ra kết luận chung

cho toàn xã hội.

Keynes dựa vào tâm lý xã hội, tâm lý chung, tâm lý của số đông (đưa ra các phạm trù khuynh

hướng tiêu dùng, tiết kiệm là các phạm trù tâm lý số đông, tâm lý xã hội). Còn các nhà kinh tế Tp Tân cổ điển sử dụng tâm lí chủ quan cá nhân cá biệt trong phân tích (ích lợi giới hạn, năng suất giới hạn…)

Keynes nhấn mạnh bàn tay của nhà nước trong điều tiết nền kinh tế. Trong khi Tân cổ điển tiếp tục kế thừa trường phái cổ điển Anh: đề cao cơ chế tự phát của thị trường, coi nhẹ sự can

thiệp của nhà nước vào kinh tế, tin tưởng cơ chế thị trường tự phát sẽ đảm bảo cân bằng nền kinh tế

Câu 8. Keynes là người sáng lập ra lí thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại. Dùng lí thuyết việc

làm để chứng minh. Trả lời.

- Theo Keyne, vấn đề quan trọng nhất, nguy hiểm nhất đối với chủ nghĩa tư bản là khối lượng thất nghiệp và việc làm. Vì vậy vị trí trung tâm trong lí thuyết kinh tế của ông là “ lí thuyết việc làm”. lý thuyết của ông đã mở ra cả một gia đình mới trong tiến trình phát triển lí luận

kinh tế tư bản ( cả về chức năng tư tưởng lẫn thực tiễn ). Trong đó phải kể đến lí thuyết kinh tế vĩ mô, về hệ thống điều tiết của đường Nhà nước, ông biểu hiện lợi ích và là công trình sư

của chủ nghĩa tư bản đường Nhà nước. - Đặc điểm nổi bật của học thuyết Keynes là đưa ra phương pháp phân tích vĩ mô. Theo ông việc phân tích kinh tế phải xuất phát từ những các mọi lượng lớn để tìm ra công cụ tác động

vào khuynh hướng, làm phát triển mọi lượng. - Keynes đưa ra mô hình kinh tế vĩ mô với mọi đại lượng

+ Đại lượng xuất phát: không phát triển hoặc phát triển chậm( như các nguồn v/c: TL sản xuất, số lượng slđ, trình độ chuyên môn hoá của chủ nghĩa, cơ cấu chế độ xã hội...) + Đại lượng khả biến độc lập: những khuynh hướng tâm lí ( tiết kiệm, tđ, đầu tư...) nhóm này

là cơ sở hoạt động của mô hình,là đòn bảy cho sự hoạt động của các tổ chức kinh tế. + Đại lượng khả biến phụ thuộc vào: cụ thể hoá tình trạng của nền kinh tế ( số lượng, quản

gia, thu nhập quân dân.) R= c+s Q= c+I

Page 14: Cau hoi on tap lschtkt

R= Q việc điều tiết vĩ mô nhằm giải quyết việc làm, tăng thu nhập đòi hỏi tăng I, giảm S. Có như

vậy mới giải quyết được khối lượng thất nghiệp. * Lí thuyết về việc làm của Keynes

Khi việc làm phát triển lên thì thu nhập thực tế phát triển -) phát triển tiêu dùng nhưng tốc độ phát triển tiêu dùng chậm hơn tốc độ phát triển thu nhâp nên có khuynh hướng tiết kiệm một phần thu nhập. Do đó các doanh nghiệp xẽ bị thua lỗ nếu sử dụng toàn bộ số lượng lao động

tăng thêm. Nếu muốn khắc phục tình trạng này cần phải kích thích quần chúng tiêu dùng thêm phần tiết kiệm của họ, và cần phải có một lượng tái bản đầu tư để kích thích các chủ

doanh nghiệp sử dụng số lượng lao động phát triển thêm. Khối lượng tái bản đầu tư phụ thuộc vào sở thích đầu tư của nhà kinh doanh mà sở thích đầu tư phụ thuộc vào hiệu quả giới hạn của TB (hiệu quả giới hạn của TB có xu hướng giảm đến khi bằng lãi suất ) do đó để

phân tích lí thuyết chung về việc làm phải sáng tỏ các lí thuyết về khuynh hướng tiêu dùng, hiệu quả giới hạn của TB.

- Khuynh hướng tiêu dùng giới hạn: * Khuynh hướng tiêu dùng phụ thuộc vào : thu nhập, nhân tố khách quan ảnh hưởng tới thu nhập sự hoạt động phát triển tiền cùng danh nghĩa, sự phát triển chênh lệch giữa thu nhập với

thu nhập vậy những nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến khuynh hướng như dự phòng dùng cho tương lai.

+ Khuynh hướng tiết kiệm phụ thuộc vào : động lực kinh doanh, động lực tiền mặt, động lực cải tiến và động lực thận trọng về tài chính.

-) Khuynh hướng sử dụng giới hạn là khuynh hướng phân chia thu nhập tăng thêm cho

tiêu dùng -ký hiêụ dc/ dR =) khuynh hướng này có su hướng giảm dần nghĩa là cùng với sự tăng lên của thu nhập thì tiêu

dùng tăng lên nhưng với tốc độ chậm hơn, vì phần thu nhập tăng thêm đem phân chia cho tiêu dùng ít hơn. Từ đó tạo khoảng cách giữa tiêu dùng và thu nhập đó là tiết kiệm. Khi đó khuynh hướng tiêu dùng giới hạn giảm dần còn khuynh hướng tiết kiệm giới hạn tăng dần -)

sự thiếu hụt cần tác động là xu hướng vĩnh viễn của mọi nền sản xuất =) gây ra khủng hoảng, thất nghiệp.

- Lãi suât và hiệu quả giới hạn của tư bản. + Lãi suất của sự trả công cho số tiền vay. Nó là phần thưởng cho “sở thích chi tiêu tư bản” trong nền kinh tế, lãi suất tỷ lệ nghịch với số lượng tiền cần thiết trong lưu thông ( i tăng, I

giảm). + Theo đã tăng lên của vốn đầu tư thì “ hiệu quả của tư bản “ sẽ giảm dần và nó được gọi là

“hiệu quả giới hạn của tư bản “ “ vậy hiệu quả giới hạn tư bản” là quan hệ giữa phần lời triển vọng được đảm bảo bằng đơn vị bổ sung của tư bản và cỏ phần để sản xuất ra đơn vị đó. - Số nhân đầu tư : số nhân là tỉ số giữa tốc độ tăng thu nhập và tăng đầu tư. Nó xử dụng sự

gia tăng đầu tư để làm cho gia tăng thu nhập lên bao nhiêu lần.

DI: gia tăng đầu tư K: số nhân =)K= dR/dI vì ds=dI

=) K= dR/dI = dR/dS= dR/dr dR/dR-dC/dR

1 = 1-dC/dR

-) Mô hình số nhân phản ánh quan hệ giữa gia tăng thu nhập với gia tăng đầu tư theo

Keynesmỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo sự gia tăng của cầu bổ sung cung, cầu về

Page 15: Cau hoi on tap lschtkt

TLSX. Do vậy làm tăng cầu tiêu dùng, tăng giá hàng, tăng việc làm cho công nhân. Tất cản điều đó làm cho thu nhập tăng lên. Đến lượt nó, tăng thu nhập lại là tiền đề cho tăng đầu tư

mới. * Các trường phái nhấn mạnh vai trò của Nhà nước.

- CNTT: Khi chủ nghĩa tư bản mới ra đời, tài sản đã dựa vào Nhà nước để tích luỹ vốn vì Nhà nước nắm đường về ngoại thương, đề ra luật lệ, c/s, kiểm soát buôn bán giúp ts thu được lợi nhuận từ hoạt động ngoại thương .

- Học thuyết của Keynes: trước cuộc khủng hoảng 29-33 -) đưa ra vai trò tất yếu của Nhà nước. Nhà nước trong các c/s vĩ mô sẽ khắc phục khủng hoảng, ổn định tăng kinh tế -) nhấn

mạnh vai trò của Nhà nước. - Chủ nghĩa tự do Kinh Tế : Nhà nước chỉ can thiệp vào kinh tế ở một mức độ nhất định VD: Nền kinh tế ở Đức, Nhà nước can thiệp theo hai nguyên tắc: hỗ trợ và tương hợp.

- Samuelson: coi trọng cả cơ chế tập thể và Nhà nước: Nhà nước phải có chức năng can thiệp điều tiết kinh tế nhưng tôn trọng quy luật kinh tế kết quả của kinh tế tập thể.

câu11. Monchetien “nội thương” một hệ thống ống dẫn, ngoại thương máy bơm. Muốn

tăng của cải phải có ngoại thương nhập dẫn của cải qua nội thương. trả lời.

- Tập thể của chủ nghĩa tập thể đó là họ coi trọng tiền tệ, họ coi tiền tệ như là thước đo tiêu chuẩn của sự giàu có và mọi sự hùng mạnh của một quốc gia. Do đó mục đich kinh tế của

mỗi nước đó là phải tăng kl tiền tệ. Nhà nước càng nhiều tiền thì càng giàu có; họ coi hàng hoá chỉ là phương tiện tăng kl tiền tệ. Họ coi tiền là đại b duy nhầt của của cải, tiêu chuẩn để đánh giá mọi hinh thức hành nghề hoạt động nghề nghiệp, những hoạt động nào mà không

dẫn đến tích luỹ tập thể là hoạt động không có lợi, hoạt động tiêu cực. Họ coi nghề nông là một nghề trung gian những hoạt động tích cực và tích cực vì nghề nông không làm tăng hay

giam của cải, hoạt động chủ nghĩa thì không thể là nguồn gốc của cải ( trừ chủ nghĩa khai thác vàng bạc ) do đó nội thương chỉ có tác dụng di chuyển của cải trong nước chức không thể làm tăng của cải trong nưóc.

- Khối lượng tiền tệ chỉ có thể gia tăng = con đường ngoại thương. Trong hoạt động ngoại thương phải thực hiện c/s xuất siêu( xuất nhiều, xuất ít) Học thuyết trọng thương cho rằng lợi

nhuận tạo ra cho lĩnh vực lưu thông nó là kết quả việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt mà có v. =) Ngoại thương là động lực tăng kinh tế chủ yếu của một nước, không có ngoại thương

không thể tăng được của cải . Ngoại thương được ví như máy bơm đưa lượng tiền nước ngoài vào trong nước

=) Quan điểm này đánh giá cao ngoại thương xem nhẹ nội thương vì ông chỉ chú ý đến lĩnh vực lưu thông (T-H-T) mà chưa hiểu được toàn bộ quá trình sản xuất và bước chuyển của việc tạo ra lợi nhuận đó là do gt sản xuất =) giải pháp số một là tăng cả nội thương và ngạoi

thương. - Tích luỹ tiền tệ chỉ thực hiện được dưới sự giúp đỡ của Nhà nước. Nhà nước nắm độc quyền

về ngoại thương, thông qua việc tạo điều kiện pháp lí cho công ty thương mại độc quyền buôn bán với nước ngoài. câu 13. “ Khối lượng tiền tệ chỉ có thể gia tăng bằng con đường ngoại thương, trong

họat động ngoại thương phải thực hiện cs xuất siêu” trả lời.

- Để có thể tích luỹ tiền tệ phải thông qua hoạt động thương mại, trước hết là ngoại thương. Trong ngoại thương phải thực hiện xuất siêu, tiền sinh ra trong lưu thông, qua trao đổi không ngang giá (quan điểm của chủ nghĩa tập thể).

- Bảng cân đối thương mại. Trong buôn bán thương mại phải đảm bảo xuất siêu để có chênh lệch tăng tích luỹ tiền, T.Mun viết: “Chúng ta phải thường xuyên giữ vững nguyên tắc là

hàng năm bán cho người nước ngoài số lượng hàng hoá lớn hơn số lượng hàng hoá chúng ta

Page 16: Cau hoi on tap lschtkt

phải mua của họ”. Nếu H1- T- H2=) H1>H2

T1- H - T2=) T1>T2 - Để có xuất siêu họ cho rằng chỉ xuất siêu thành phẩm chứ không xuất khẩu nguyên liệu,

thực hiện thương mại trung gian, mang tiền ra nước ngoài để mua rẻ ở nước này bán đất ở nước khác, thực hiện c/s thuế qun bảo hộ, nhằm kiểm soát hàng hoá nhập khẩu, khuyên khích tăng hàng hoá xuất khẩu.

- Quan điểm này cũng sai lầm vì chỉ tăng. - Chỉ dùng trong điều kiện tăng kinh tế

Câu 21. Lí thuyết của Keynes một mặt là sự kế tục những điểm của trường phái tân cổ

điển. Mặt khác lại thể hiện như sự đối lập với trường phái này. Dựa vào học thuyết của

trường phái này khác với trường phái Keynes để chứng minh.

Trả lời. * Học thuyết của trường phái tân cổ điển ra đời cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX, khi có sự

chuyển biến mạnh mẽ từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản đường. Học thuyết của Keyynesra đười sau vào khoảng những năm 30 của thế kỉ XX những đã có sự kế tục tăng học thuyết của trường phái tân cổ điển điều đó thể hiện:

- Trường phái tân cổ điển dựa vào tâm lí chủ quan để giải thích các hiện tượng và quá trình tâm lí. Xã hội còn phải nghiên cứu của Keynes cũng dựa vào tâm lí chủ quan của xã hội như

khuynh hướng tiêu dùng, khuynh hướng tiết kiệm, như đòn bảy của nền kinh tế. Sở dĩ có sự kế thừa như vậy là do trường phái tân cổ điển đẫ dựa vào tính chất khan hiếm của sản phẩm kinh tế, khi đó số lượng của nó có giới hạn, khi hàng hóa khan hiếm thì người tiêu

dùng hàng hoá đó càng cao. - Còn học thuyết Keynes cũng dựa vào các khuynh hướng kích cầu tăng lên cũng dựa trên sự

tăng tiêu dùng, giảm tiết kiệm của người dân, làm thu nhập giảm. - Trường phái tân cổ điển đưa ra lí luận”ích lợi của giới hạn” của trường phái áo cho rằng cùng với đã tăng lên của vật phẩm thoả mãn nhu cầu, mức độ bão hoà tăng lên, mức độ cấp

thiết của nhu cầu giảm xuống, ích lợi giới hạn là ích lợi của vật phẩm cuối cùng đưa ra thoả mãn nhu cầu.

Nó là ích lợi nhỏ nhất và quyết định ích lợi của tất cả các vật khác. Keynes đã đưa ra các phạm trù về khuynh hướng tiết kiệm giảm làm cho hiệu quả giới hạn của tư bản giảm, cầu về tiêu dùng giảm=) gây ra khủng hoảng thu nhập...

- Sản phẩm phương pháp phân tích toán học, mô hình, đồ thị ** Tân cổ điển

+ dựa vào tâm lí cá biệt + ủng hộ tự do cạnh tranh, chống lại sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế, cơ chế tập thể tự phát sẽ đảm bảo công bằng c-c

+ Kinh tế tăng bình thường, không thừa nhận khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp.

** Keynes. + Dựa vào tâm lí xã hội. + Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế, sự công bằng c-c được thực hiện nhờ các cơ sở tiền tệ,

đầu tư của Nhà nước. + Vấn đề trọng tâm là khủng hoảng kinh tế và việc làm

Câu 8: Dựa vào quan điểm kinh tế của Keynes, CMR ông là người sáng lập ra kinh tế

học vĩ mô hiện đại.

Page 17: Cau hoi on tap lschtkt

Có thể nói, lí thuyết kinh tế học của Keynes là cơ sở hình thành kinh tế học vĩ mô hiện đại, bởi có thể tìm thấy sự kế thừa TP Keynes của kinh tế học vĩ mô hiện đại ở các nội dung: đối

tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, thuật ngữ cơ bản, lí thuyết cơ bản.

Đối tượng nghiên cứu: lĩnh vực trao đổi tiêu dùng là trọng tâm nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu: Keynes đã mởi ra phương pháp vĩ mô hiện đại: phân tích nền kinh tế phải xuất phát từ tổng lượng lớn nền kinh tế, nghiên cứu mối quan hệ của các tổng lượng và sự vận động của chúng.

Thuật ngữ cơ bản: TP Keynes là trường phái đầu tiên đưa ra các thuật ngữ: Tổng cung, tổng cầu, tổng sản lượng nền kinh tế, số nhân đầu tư, khuynh hướng tiêu dùng giới hạn, khuynh

hướng tiết kiệm giới hạn…( sau này kinh tế học vĩ mô hiện đại phát triển thành số nhân chi tiêu, khuynh hướng tiêu dùng cận biên…) Lí thuyết cơ bản:

Lí thuyết kinh tế của Keynes Kinh tế học vĩ mô hiện đại

Khuynh hướng tiêu dùng giới hạn:

Khuynh hướng “tiêu dùng” phản ánh mối tương quan giữa thu nhập vs số dành cho tiêu dùng đc rút ra từ thu nhập

đó.

Khuynh hướng “tiết kiệm”: phản ánh

mối tương quan giữa thu nhập & tiết kiệm

Khuynh hướng tiêu dùng giới hạn

(dC/dR): cá nhân có xu hướng phân chia thu nhập tăng thêm cho tiêu dùng

theo tỷ lệ giảm dần. 0 < dC/dR < 1

Khuynh hướng tiết kiệm giới hạn (dS/dR) cá nhân có xu hướng phân chia

phần thu nhập tăng thêm cho tiết kiệm theo tỷ lệ tăng dần => xu hướng tiết

kiệm giới hạn ngày càng tăng.

Cùng vs sự gia tăng của thu nhập, tiêu dùng giới hạn ngày càng giảm, tiết kiệm

giới hạn ngày càng tăng.

Xu hướng tiêu dùng cận biên (MPC) là

lượng tiêu dùng tăng thêm khi thu nhập khả dụng tăng thêm 1 đơn vị. Hàm tiêu dùng có dạng:

C = a + MPC.Yd a: tiêu dùng tự định

Yd: thu nhập khả dụng.

0 < MPC < 1.

Xu hướng tiết kiệm cận biên (MPS)

MPC + MPS = 1

Số nhân đầu tư: là mối quan hệ giữa gia tăng thu nhập (dR) với gia tăng đầu tư

(dI). Nó xác định sự gia tăng đầu tư sẽ làm gia tăng thu nhập lên bao nhiêu lần (là hệ số bằng số nói lên mức độ tăng

của sản lượng do kết quả của mỗi đơn vị

Số nhân chi tiêu: Mối quan hệ giữa sự thay

đổi bất kì của tổng chi tiêu đầu tư và sự thay đổi cuối cùng của thu nhập quốc dân tạo ra.

m = 1/1 – MPC = 1/MPS.

Page 18: Cau hoi on tap lschtkt

đầu tư). K = 1/1 – dC/dR

MPC là khuynh hướng tiêu dùng cận biên

MPS là khuynh hướng tiết kiệm cận biên.

Keynes chủ trương đưa thêm tiền vào lưu thông, thực hiện lạm phát có kiểm

soát để giảm lãi suất nhờ đó kích thích đầu tư tư nhân và các hoạt động kinh tế khác. Theo Keynes, lạm phát có kiểm

soát k có j nguy hiểm, mà làm như vậy sẽ duy trì đc tình hình thị trường trong

thời kì sản xuất và việc làm giảm sút.

Đường Phillip: Mối tương quan tỉ lệ nghịch giữa tỉ lệ thất nghiệp và tỉ lệ lạm phát. Giải thích: Thất nghiệp thấp (gia tăng việc

làm) gắn với tổng cầu cao, tổng cầu cao đẩy tiền lương và giá cả tăng lên trong toàn bộ

nền kinh tế.

Câu 9: Tại sao nói lí thuyết của Keynes là trọng cầu. quan điểm này được thể hiện ntn trong lí thuyết việc làm của ông.

Lí thuyết kinh tế của Keynes được gọi là lí thuyết trọng cầu, bởi:

Ông đánh giá cao vai trò của tiêu dùng, trao đổi, coi tiêu dùng và trao đổi là nhiệm vụ số một mà nhà kinh tế học phải giải quyết.

Đồng thời, trong mối quan hệ cung cầu, ông đánh giá cao hơn vai trò của tổng cầu đối với sản lượng nền kinh tế. Tổng cầu quyết định tổng cung và thúc đẩy tăng trưởng sản lượng của nền

kinh tế.

Theo ông, nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp và trì trệ trong nền kinh tế là do cầu tiêu dùng giảm do đó cầu có hiệu quả giảm (tiêu dùng tăng chậm hơn mức tăng thu nhập

do khuynh hướng tiết kiệm, ưa chuộng tiền mặt,… vì thế cầu tiêu dùng giảm và do đó cầu có hiệu quả giảm). Do đó, cần nâng cầu tiêu dùng, kích thích cầu có hiệu quả.

Điều này thể hiện rõ nét trong lí thuyết về việc làm của Keynes.

Khối lượng việc làm phụ thuộc vào “cầu có hiệu quả”. Cầu có hiệu quả là giao điểm đg tổng cung vs tổng cầu (tổng thu nhập) khi tổng cung ngang bằng tổng cầu. Cầu có hiệu quả cao thì

lượng công nhân thu hút vào càng nhiều và ngc lại.

Khuynh hướng “tiêu dùng” và khuynh hướng “tiết kiệm”: Khuynh hướng “tiêu dùng” phản ánh mối tương quan giữa thu nhập vs số dành cho tiêu dùng

đc rút ra từ thu nhập đó. Những nhân tố ảnh hưởng: thu nhập của dân cư; những nhân tố khách quan ảnh hưởng tới thu nhập (thuế suất, giá cả, thay đổi của mức tiền công danh

nghĩa); nhân tố chủ quan ảnh hưởng tới tiêu dùng (hầu hết là nhân tố chi phối hành vi tiết kiệm)

Khuynh hướng “tiết kiệm”: phản ánh mối tương quan giữa thu nhập & tiết kiệm

- Tiết kiệm cá nhân (phụ thuộc 8 nhân tố): thận trọng, nhìn xa, tính toán, kinh doanh, tự lập, tham vọng, kiêu hãnh, hà tiện

Page 19: Cau hoi on tap lschtkt

- Tiết kiệm của DN & các tổ chức đoàn thể

Khuynh hướng “tiêu dùng giới hạn”: cá nhân có xu hướng phân chia thu nhập tăng thêm cho

tiêu dùng theo tỷ lệ giảm dần

Khuynh hướng “tiết kiệm giới hạn”: cá nhân có xu hướng phân chia phần thu nhập tăng thêm

cho tiết kiệm theo tỷ lệ tăng dần => xu hướng tiết kiệm giới hạn ngày càng tăng.

Cùng vs sự gia tăng của thu nhập, tiêu dùng giới hạn ngày càng giảm, tiết kiệm giới hạn ngày càng tăng.

Khi việc làm tăng thì tổng thu nhập thực tế tăng. Tâm lí chung của dân chúng là khi thu nhập tăng thì tiêu dùng tăng, nhưng mức tăng của tiêu dùng chậm hơn mức tăng của thu nhập vì

khuynh hướng gia tăng tiết kiệm 1 phần thu nhập.Vì vậy tiêu dùng giảm xuống 1 cách tương đối làm cho cầu có hiệu quả giảm, quy mô sản xuất bị thu hẹp lại, việc làm giảm dẫn đến thu nhập giảm.

Đầu tư là đại lượng giữ vai trò quan trọng trong việc giải quyết việc làm. Việc tăng đầu tư sẽ bù đắp cho sự thiếu hụt của cầu tiêu dùng. Mức độ cân bằng việc làm phụ thuộc vào khối

lượng đầu tư hiện tại. Mà khối lượng đầu tư hiện tại phụ thuộc vào sự kích thích đầu tư. Sự kích thích đầu tư phụ thuộc vào hiệu quả giới hạn của TB và lãi suất.

Để khắc phục tình trạng này, phải có Nhà nước can thiệp bằng các biện pháp kích thích cầu,

tăng cầu có hiệu quả thông qua việc Nhà nước duy trì cầu đầu tư.

Tăng đầu tư – tăng cầu bổ sung công nhân – tăng quỹ lương – tăng tiêu dùng – tăng giá –

tăng quy mô sản xuất – tăng việc làm – tăng thu nhập…Từ đó, thất nghiệp và khủng hoảng được ngăn chặn.

So sánh quan điểm kinh tế khác nhau giữa trường phái trọng thương và trọng nông:

Trọng thương:

- Lưu thông là nguồn gốc tạo ra của cải dẫn đến giàu có.

- Tiền là mục đích, hàng hóa là phương tiện.

- Tiền là biểu hiện của sự giàu có, nông sản phẩm chỉ là trung gian.

- Tiền vừa là phương tiện lưu thông, vừa là tư bản để sinh lời.

- Quốc gia giàu có là quốc gia có khói lượng tiền (vàng, bạc,..) khổng lồ.

- Tiền là của cải duy nhất -> tích trữ tiền.

- Sản xuất nông nghiệp là ngành trung gian, không làm tăng cũng không là giảm khối lượng tiền tệ quốc gia.

Page 20: Cau hoi on tap lschtkt

- Quy tắc trao đổi không ngang giá.

- Lợi nhuận là kết quả của lưu thông.

- Kết quả của thương mại: bên có lợi, bên bị thiệt hại.

- Không thấy vai trò của lao động trong việc làm tăng của cải.

- Ngoại thương là nguồn gốc mang lại giàu có cho quốc gia với chính sách xuất siêu.

- Coi trọng lưu thông vì tạo ra của cải, xem nhẹ sản xuất vì sản xuất không tạo ra của cải.

- Chỉ nghiên cứu hiện tượng kinh tế bên ngoài, không phân tích hiện tượng kinh tế bên trong.

- Chưa thấy được tính khách quan của các hoạt động kinh tế, theo ý chủ quan.

- Ủng hộ sự can thiệp của nhà nước.

- Bảo vệ lợi ích tư bản tư nhân.

- Thông qua trao đổi giữa các tầng lớp, thỏa mãn nhu cầu và làm lợi cho tư bản tư nhân.

- Quốc gia này làm giàu trên cơ sở bần cùng hóa quốc gia khác.

Trọng nông:

- Sản phẩm nông nghiệp là lĩnh vực duy nhất tạo ra của cải vật chất. Lưu thông không dẫn đến giàu có.

- Hàng hóa là mục đích, tiền là phương tiện.

- Khối lượng nông sản biểu hiện cho sự giàu có, làm cho của cải tăng thêm.

- Tiền chỉ là phương tiện kỹ thuật của lưu thông.

- Quốc gia giàu có là quốc gia có nhiều lương thực, thực phẩm.

- Tiền không là của cải duy nhất -> chống việc tích trữ tiền.

- Sản xuất nông nghiệp tạo ra của cải, sản phẩm thuần túy, còn lao động trong các ngành khác là lao động không có ích, không tạo ra sản phẩm thuần túy, không phải lao động sản xuất.

- Quy tắc trao đổi ngang giá.

- Lợi nhuận là kết quả của tự nhiên.

- Kết quả của thương mại: không lợi, không hại.

- Lao động sản xuất là lao động tạo ra của cải thặng dư.

Page 21: Cau hoi on tap lschtkt

- Không thấy vai trò của ngoại thương đối với phát triển kinh tế quốc gia.

- Coi trọng sản xuất, xem nhẹ lưu thông.

- Không chỉ nghiên cứu, phân tích hiện tượng bên ngoài mà còn cố gắng phát triển bên trong.

- Quy luật khách quan chi phối hoạt động kinh tế một cách tốt nhất.

- Ủng hộ tự do kinh tế, quy luật khách quan, chông can thiệp của nhà nước, kêu gọi nhà nước

tôn trọng nguyên tắc Laisser faire.

- Bảo vệ lợi ích địa chủ phong kiến.

- Chu chuyển kinh tế từ sản xuất, phân phối, trao đổi, và tiêu dung. Các g/c đều thỏa mãn nhu cầu một cách tốt nhất.

- Trên cơ sở phát triển nông nghiệp tư bản.

Nhận xét: Tóm lại, chủ nghĩa trọng nông đã phê phán chủ nghĩa trọng thương một cách sâu

sắc và khá toàn diện, " công lao quan trọng nhất của phái trọng nông là ở chỗ họ đã phân tích tư bản trong giới hạn của tầm mắt tư sản, chính công lao này mà họ đã trở thành người cha

thực sự của khoa kinh tế chính trị hiện đại". Phái trọng nông đã chuyển công tác nghiên cứu về nguồn gốc của giá trị thặng dư từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất trực tiếp, như vậy là họ đặt cơ sở cho việc phân tích nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Họ cho rằng nguồn gốc

của cải là lĩnh vực sản xuất, không phải là lưu thông và thu nhập thuần túy chỉ được tạo ra ở lĩnh vực sản xuất. Đây là cuộc cách mạng về tư tưởng kinh tế của nhân lại.

Chủ nghĩa trọng nông nghiên cứu không chỉ quá trình sản xuất cá biệt đơn lẻ mà quan trọng

hơn họ biết nghiên cứu quá trình tái sản xuất của toàn xã hội, đặt cơ sở cho nghiên cứu mối liên hệ bản chất nền sản xuất tư bản - một nội dung hết sức quan trọng của kinh tế chính trị.

Chủ nghĩa trọng nông còn lần đầu tiên nêu tư tưởng hệ thống quy luật khách quan chi phối hoạt động kinh tế mang lại tính khoa học cho tư tưởng kinh tế.

Ngoài ra họ đã nêu ra nhiều vấn đề có giá trị cho đến ngày nay: như tong trọng vai trò tự do

của con người, đề cao tự do cạnh tranh, tự do buôn bán,... Chủ nghĩa trọng nông thật sự đã có những bước tiến bộ vượt bật so với chủ nghĩa trọng thương còn quá nhiều hạn chế về lý luận

và quan điểm.

1. Vai trò của nhà nước - Trọng thương: Nhà nước có vai trò kinh tế, điều tiết hoạt động kinh tế của một quốc gia.

+ Nhà nước thông qua cơ chế thuế suất để điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu. + Nhà nước thông qua cơ chế pháp luật để ngăn chặn sự thất thoát vàng bạc ra nước ngoài.

+ Nhà nước khuyến khích những người thợ lành nghề từ nước ngoài nhập cư vào trong nước và tìm cách ngăn cấm những người thợ lành nghề trong nước xuất cư ra nước ngoài. + Nhà nước khuyến khích thành lập các công ty độc quyền xuất nhập khẩu hàng hóa.

+ Nhà nước khuyến khích cả độc quyền về lĩnh vực vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu. + Nhà nước khuyến khích tìm kiếm những vùng đất mới ở nước ngoài

- Trong nông:

Page 22: Cau hoi on tap lschtkt

+ Ủng hộ định chế Laisser Faire, nhà nước không can thiệp vào nền kinh tế mà để nền kinh tế tự hoạt động. Nhà nước chỉ có vai trò tối thiểu như: quản lí, quốc phòng..

+ Đưa ra ý niệm về trật tự tự nhiên ngụ ý chỉ dưới những điều kiện tự nhiên con người mới được thỏa mãn và tối đa hóa hạnh phúc của mình thì có thẻ giải quyết hết các vấn đề kinh tế.

- Cổ điển: + Tin tưởng vững chắc vào định chế Laisser Faire. Theo Adam Smith, con người luôn luôn

chịu sự chi phối của 2 trật tự đó là: Trật tự tự nhiên và trật tự kinh tế. Hai trật tự này được điều hành bởi bàn tay vô hình của đức chúa trời, vì thế nhà nước không cần can thiệp vào.

+ Cho rằng nền kinh tế luôn luôn đạt đến trạng thái toàn dụng, mọi yếu tố tài nguyên đều được sử dụng. Họ tin rằng nền kinh tế tự điều chỉnh đến trạng thái toàn dụng không cần sự can thiệp của nhà nước.

2. Vai trò của các ngành sản xuất.

- Trọng thương: + Coi trong hoạt động ngoại thương. Sự giàu có thịnh vượng của một quốc gia dựa vào hoạt động thương mại, đặc biệt là hoạt động ngoại thương.

- Trong nông:

+ Coi trọng nông nghiệp và nông nghiệp là ngành sản xuất duy nhất còn các ngành khác không phải là ngành sản xuất mà chỉ là chế biến vật phẩm từ dạng này sang dạng khác. Họ cho rằng nông nghiệp là ngành duy nhất sản xuất ra sản phẩm thuần vì họ quan niệm đất đai

là mẹ của của cải, gắn liền với trật tự tự nhiên, đó chính là ý đồ của đức chúa trời. ]

- Cổ điển: + Coi trọng tất cả các ngành sản sản xuất kinh doanh, đặc biệt là sản xuất công nghiệp. Cho rằng tất cả các ngành đều là ngành sản xuất.

3. Vài trò của tiền tệ.

- Trọng thương: Đặc biêt coi trọng vai trò của vàng bạc, họ cho rằng càng có nhiều vàng bạc thì càng giàu có. Đất nước nào nếu có vàng thì khai thác, còn không thì cách duy nhất để tích lũy vàng bạc là

hoạt động ngoại thương.

- Trọng nông: Cho rằng tiền không phải là của cải mà chỉ là vật trung gian làm phương tiện lưu thông, làm môi giới giữa người bán và người mua. Họ coi trọng đất đai và cho rằng chính đất đai đẻ ra

của cải, là mẹ của của cải.

- Cổ điển: Không coi trọng vai trò của tiền mà cho rằng tiền chỉ là phuơng tiện trao đổi. Sự giàu có của một quốc gia không chỉ phụ thuộc vào tiền mà con phụ thuộc vào đất đai, nhà xưởng, máy

móc... và các sản phẩm lâu bền khác.

4. Cán cân mậu dịch. - Trọng thương: Mỗi nước cần tạo cho mình một cán cân mậu dịch thuận lợi, xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu

và khi xuất chỉ xuất tư liệu tiêu dùng, không xuất tư liệu sản xuất. Theo họ trong quan hệ mậu dịch giữa 2 nước luôn luôn có một nước được hưởng lợi và nước

kia chịu thiệt hại.

Page 23: Cau hoi on tap lschtkt

- Trọng nông:

Chống lại quan điểm của trường phái trọng thương, họ cho rằng quan hệ mậu dịch phải tự do. Họ không có quan điểm cụ thể về mậu dịch quốc tế.

- Cổ điển: Theo Adam Smith: 2 nước quan hệ mậu dịch với nhau dựa trên lợi thế tuyệt đối về sản phẩm

nào đó. Theo David Ricardo: không nhất thiết phải có lợi thế tuyệt đối mà chỉ cần lợi thế so sánh.

5. Lãi suất. - Trọng thương:

Họ cho rằng để tạo điều kiện cho một quốc gia phát triển thì lãi suất phải thấp, cung tiền thích hợp mà theo họ là cung vô giới hạn tiền.

- Trọng nông: không đề cập vai trò của lãi suất.

- Cổ điển: Cho rằng lãi suất là sự đền bù của người đi vay trả cho người cho vay vì trong thời gian chờ

đợi tiền quay vòng thì người cho vay sợ rủi ro nên lo lắng và đền bù cho cơ hội kinh doanh bị mất từ số tiền cho vay. Lãi suất là một mặt nào đó của lợi nhuận.

*So sánh Tân cổ điển với trường phái Keyness.

-Giống: đều có tư tưởng giới hạn, đi theo nguyên lí giới hạn, đều có yếu tố tâm lí chủ quan

trong phân tích, đều sử dụng công cụ toán học trong phân tích, đều rất quan tâm đến vấn đề trao đổi, tiêu dùng & nhu cầu.

-Khác: Tân cổ điển - đề cao vai trò của tự do KT, của cơ chế thị trường, phản đối can thiệp của nhà nước. Keyness lại ngược lại Về phương pháp luận, Tân cổ điển - dùng phương pháp vi mô, nên yếu tố tâm lí chủ yếu khai thác yếu tố tâm lí cá nhân. Còn Keyness - dùng phương

pháp vĩ mô, nên yếu tố tâm lí của Keyness quan tâm đến những khuynh hướng tâm lí XH, tâm lí số đông, có thể khái quát thành qui luật tâm lí.Ý đồ của ông là muốn nhà nước tác động

vào các qui luật tâm lí để giải quyết những vấn đề KT. *Lí thuyết chung về việc làm của Keyness.

-Đây là lí thuyết qun trọng, chiếm vị trí rung tâm trong lí thuyết của Keyness. Việc làm trong

lí thuyết của ông có 1 phạm vi rộng. Không chỉ dùng để xác định trình trạng sử dụng, qui mô thất nghiệp mà còn bao gồm cả tình trạng của SX & qui mô thu nhập. Việc làm thuộc nhóm

những đại lượng khả biến phụ thuộc. -Lí thuyết việc làm: Xuất phát từ thực tế: việc làm tăng, thu nhập tăng, dẫn tới tăng tiêu dùng & tăng tiết kiệm. Tăng tiêu dùng chậm hơn so với tăng thu nhập, tiêu dùng giảm tương đối,

cầu có hiệu quả giảm, qui mô SX cũng giảm, giảm việc làm, giảm thu nhập. Muốn khắc phục phải có sự can thiệp của nhà nước thông qua việc duy trì cầu đầu tư.

-Mức độ cân bằng việc làm sẽ phụ thuộc vào khối lượng đầu tư hiện tại. Khối lượng đầu tư hiện tại sẽ phụ thuộc vào sự kích thích đầu tư. Mà sự kích thích đầu tư sẽ phụ thuộc vào hiệu

quả giới hạn của TB & lãi suất.

a) Khuynh hướng tiêu dùng & tiết kiệm. Khuynh hướng tiêu dùng phản ánh mối tương quan giữa thu nhập với số dành cho tiêu dùng

được rút ra từ thu nhập đó. Nó phản ánh mối tương quan giữa thu nhập & tiêu dùng. Phụ thuộc vào các nhân tố: Nhu cầu, thu nhập của dân cư. Những nhân tố khách quan có ảnh

hưởng tới thu nhập, qui định thu nhập thực tế của cá nhân (sự thay đổi về chính sách thuế,

thay đổi về lãi suất, giá cả..). Những nhân tố chủ quan có ảnh hưởng tới tiêu dùng. Những

Page 24: Cau hoi on tap lschtkt

nhân tố qui định hành vi tiết kiệm. -Khuynh hướng tiết kiệm: phản ánh mối tương quan giữa thu nhập & tiết kiêm. Chia là 2 loại:

tiết kiệm cá nhân & tiết kiệm của các DN, tổ chức nhà nước & đoàn thể. Tiết kiệm cá nhân do 8 nhân tố qui định: thận trọng, nhìn xa, tính toán, tham vọng, tự lập, kinh doanh, kiêu

hãnh, hà tiện. Tiết kiệm của DN, tổ chức nhà nước, đoàn thể do những nhân tố liên quan đến việc KD, hoặc xuất phát từ nguyên tắc tài chính là phải có lượng tiền mặt dự trữ nhất định.

-Keyness cho rằng ở những người có thu nhập thấp, thu nhập bao nhiêu, tiêu dùng bấy nhiêu.

Khi chuyển sang mức thu nhập cao, con người sẽ dành ra 1 phần cho tiết kiệm, gia tăng tiêu dùng sẽ chậm hơn so với gia tăng thu nhập. Trong khi gia tăng tiêu dùng ngày càng chậm thì

gia tăng tiết kiệm sẽ ngày càng nhanh. Ông đưa ra những khái niệm sau. -Khuynh hướng tiêu dùng giới hạn là khuynh hướng cá nhân có xu hướng muốn phân chia

phần thu nhập tăng thêm cho tiêu dùng theo tỉ lệ giảm dần.

-Khuynh hướng tiết kiệm giới hạn là khuynh hướng cá nhân muốn phân chia phần thu nhập tăng thêm cho tiết kiệm theo tỉ lệ tăng dần.

-Như vậy, cùng với sự gia tăng của thu nhập, tiêu dùng giới hạn sẽ ngày càng giảm, tiết kiệm giới hạn sẽ ngày càng tăng.

b) Lãi suất & hiệu quả giới hạn của tư bản.

-Phân biệt nhà tư bản & doanh nhân. Nhà TB là người có tư bản tiền tệ & đem cho vay để được hưởng thu nhập căn cứ vào lãi suất. Doanh nhân là 1 nhà đầu tư, dám chấp nhận rủi ro

mạo hiểm nên được hưởng thu nhập căn cứ vào hiệu quả giới hạn của tư bản. -Lãi suất chính là khoản tiền thưởng cho hành vi dám chấp nhận chia li với tài sản dưới hình thái tiền tệ của người có tiền. Lãi suất sẽ đo lường sự tự nguyện của người có tiền không sử

dụng tiền mặt của họ. Thực tế, người có tiền chỉ bỏ tiền ra cho vay khi có lãi suất cao, còn khi lãi suất thấp thì khuynh hướng ưa chuộng tiền mặt sẽ thắng. Khuynh hướng ưa chuộng tiền

mặt bị chi phối bởi 3 yếu tố: động cơ giao dịch, dự phòng, đầu cơ. M=L(r) Khối lượng tiền tệ M, Hàm số ưa chuộng tiền mặt L, lãi suất r. Như vậy, khối lượng tiền tệ là hàm số của lãi

suất.

-Hiệu quả giới hạn của tư bản: Phần lời triển vọng = Doanh thu BH - Chi phí SX. Như vậy, Hiệu quả giới hạn TB (%) = Phần lời triển vọng / Chi phí SX * 100%.

-Cùng với sự tăng lên của vốn đầu tư, thì hiệu quả giới hạn của TB sẽ ngày càng giảm. Bởi 2 lí do: Khi vốn đầu tư tăng lên, lượng cung về HH sẽ tăng lên, giá cả HH giảm đi, phần lời

triển vọng giảm, hiệu quả giới hạn TB giảm. Khi vốn đầu tư tăng lên cũng làm tăng chi phí,

phần lời triển vọng giảm, hiệu quả giới hạn của TB giảm. -Doanh nhân đi vay tư bản đề đầu tư. Giới hạn đầu tư TB = Hiệu quả giới hạn của TB - Lãi

suất. Khi hiệu số đó là dương (tức là hiệu quả giới hạn của TB > lãi suất), có tác dụng khuyến khích doanh nhân vay Tb để đầu tư. Theo Keyness, lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô quan

trọng. Nhà nước có thể điều tiết mức lãi suất chủ động thích hợp với từng giai đoạn SX, KD.

Khi khủng hoảng, cắt giảm lãi suất để tăng đầu tư. Khi phồn thịnh, KT tăng trưởng, để giảm bớt tình trạng quá nóng của nền KT, lại tăng lãi suất.

c) Đầu tư & mô hình số nhân. -Số nhân là hệ số khuếch đại thu thu nhập. K = dR/dI. Phản ánh mỗi 1 sự gia tăng của đầu tư

sẽ khuếch đại thu nhập lên bao nhiêu lần.

- Tăng đầu tư, tăng cầu bổ sung công nhân, tăng quĩ lương, tăng tiêu dùng, tăng giá cả, tăng việc làm, tăng thu nhập, tăng đầu tư.

*Vì sao nói vấn đề việc làm, thất nghiệp chiếm vị trí trung tâm toàn bộ lí thuyết KT của Keyness.

-Theo Keyness, nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp là do sự giảm sút của cầu có hiệu quả, thu

hẹp qui mô SX, giảm việc làm & dẫn đến thất nghiệp. -Những giải pháp đưa ra là tập trung vào kích cầu: kích cầu đầu tư & kích cầu tiêu dùng.

Kích cầu sẽ mở rộng qui mô SX, tăng việc làm, chống thất nghiệp.

Page 25: Cau hoi on tap lschtkt

*Chương trình KT của Keyness. (Lí thuyết về sự can thiệp của nhà nước vào KT)

- Được rút ra từ lí thuyết chung về việc làm, bao gồm 4 nội dung cơ bản sau:

- Nhà nước phải có chương trình KT đầu tư trên qui mô lớn & thông qua đó mà thực hiện sự can thiệp vào các quá trình KT. Ông cho rằng, để đảm bảo sự cân bằng của nền KT thì không

thể dựa vào cơ chế thị trường tự phát mà phải bằng sự can thiệp của nhà nước. Thông qua những hỗ trợ của nhà nước như là những biện pháp để duy trì cầu đầu tư, thông qua những hỗ

trợ tín dụng, hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, thông qua hệ thống các đơn đặt hàng của nhà

nước, hệ thống thu mua của nhà nước. Mục đích để tạo ra sự ổn định về môi trường KD, ổn định thị trường. Rồi từ đó ổn định về lợi nhuận cho các CTy.

- Sử dụng hệ thống tài chính tín dụng & lưu thông tiền tệ. Ở trong lí thuyết của Keyness, chúng cũng là những công cụ quan trọng. Mục đích để kích thích lòng tin, tính lạc quan & tích cực đầu tư của các doanh nhân. Để đạt được mục đích này, ông chủ trương tăng thêm

khối lượng tiền đưa vào lưu thông, tăng giá cả hàng hóa (nếu các yếu tố đầu vào chưa kịp điều chỉnh giá), sẽ làm tăng phần lời triển vọng, tăng hiệu quả giới hạn của TB, tăng giới hạn

đầu tư TB. Khi khối lượng tiền đưa vào lưu thông tăng lên, cũng sẽ dẫn tới lạm phát. Tuy nhiên, lạm phát không phải lúc nào cũng có hại, nhà nước có thể chủ động tạo ra lạm phát,

nếu kiểm soát được lạm phát sẽ làm giảm lãi suất, tăng giới hạn đầu tư TB.

+Để trang trải những khoản chi tiêu của nhà nước, bù đặp những khoản thâm hụt của ngân sách nhà nước & mở rộng đầu tư của nhà nước. Keyness chủ trương in thêm tiền giấy.

+Để thực hiện sự điều tiết KT, Keyness chủ trương tăng thuế đối với người lao động, đề làm giảm đi phần tiết kiệm của dân cư. Thực chất nhà nước đã giúp họ chuyển khoản tiết kiệm

sang đầu tư. Nhưng vấn đề là phải làm giảm sự phản ứng của dân chúng, ông chủ trương tăng

việc làm. - Để nâng cao tổng cầu & việc làm, Keyness chủ trương mở rộng nhiều hình thứ đầu tư. Theo

ông, đầu tư vào lĩnh vực nào cũng tốt, miễn tạo ra việc làm & tăng thu nhập. Kể cả những hoạt động đầu tư cho SX vũ khí, chạy đua vũ trang, quân sự hóa nền KT để tăng thu nhập. Vì

vậy, ông bị nhiều phê phán.

- Keyness chủ trương khuyến khích tiêu dùng cá nhân đối với mọi tầng lớp, kể cả người lao động, doanh nhân và nhà TB. Nhưng những biện pháp đó của ông không đạt được mục đích

vì tăng thuế, chính sách 'ướp lạn tiền lương', tăng giá cả. * Những hạn chế của Keyness: Hạn chế lớn nhất là xem nhẹ, bỏ qua vai trò của cơ chế thị

trường, của tự do KT. Quá say sưa với vai trò điều chỉnh can thiệp của nhà nước. Thổi phồng

vai trò của nhà nước. *Chủ nghĩa tự do KT.

- CN tự do Kt là các lí thuyết KT học tư sản coi nền KT TBCN như là 1 hệ thống hoạt động tự động, do các qui luật khách quan tự phát điều tiết. Tư tưởng cơ bản của nó là tự do KD, tự

do tham gia vào thị trường.

- Trong lịch sử, CN tự do KT giữ vai trò thống trị trong 1 khoảng thời gian dài: cuối tk 17 đến đầu những năm 30 tk 20. Sau đại khủng hoảng KT 1929-1933, CN tự do KT mất đi địa vị

thống trị & thay vào đó là sự thống trị của lí thuyết Keyness. Lí thuyết Keyness thống trị trong những năm 40 đến 60 tk 20. Sang đến đầu những năm 70, những hạn chế của nó ngày

càng bộ lộ 1 cáhc rõ ràng. Mà 1 trong những hạn chế đó là Keyness đã quá say sưa với vai trò

của nhà nước mà bỏ qua vai trò của tự do KT, của cơ chế thị trường. Vì vậy, những mục tiêu trong chính sách KT của Keyness đã không thực hiện được. Từ đó xuất hiện khuynh hướng

phải khôi phục lại CN tự do KT trên cơ sở là có kế thừa những đóng góp của lí thuyết Keyness. Vì vậy, CN tự do KT bây giờ mang màu sắc mới.

+CN tự do cũ: (Trọng nông, Cổ điển Anh (Smith), Tân cổ điển) phản đối nhà nước.

+Lí thuyết Keyness: đề cao vai trò của nhà nước. +CN tự do mới: chấp nhận sự can thiệp của nhà nước ở 1 mức độ nhất định.

- CN tự do mới là 1 trong những trào lưu tư tưởng hiện đại được hình thành trên cơ sở tổng

Page 26: Cau hoi on tap lschtkt

hợp tất cả các quan điểm cũng như phương pháp luận của trường phái trọng thương, tự do cũ, Keyness. Hình thành nên 1 hệ tư tưởng mới nhằm điều tiết sự vận động của nền KT TBCN.

Mà tư tưởng cơ bản của nó là tự do KD, tự do tham gia vào thị trường & có sự can thiệp của nhà nước ở 1 mức độ nhất định. Khẩu hiệu chung đưa ra là “thị trường nhiều hơn & nhà nước

ở mức độ ít hơn”. *Phân biệt CN tự do cũ với CN tự do mới.

-Giống: Tự do KT đều đề cao tư tưởng tự do KD, tự do tham gia vào thị trường. Nền KT vận

động hoàn toàn chịu sự chi phối của các qui luật khách quan, của cơ chế thị trường. Vì thế nền KT luôn ở trạng thái cân bằng động.

-Khác: Tự do cũ (Tân cổ điển, KTCT TS cổ điển) - phản đối sự can thiệp của nhà nước vào KT. Tự do mới - có điểm khác biệt là chấp nhận sự can thiệp của nhà nước vào nền KT ở 1 mức độ nhất định. Xét trong mối quan hệ giữa XH & nhà nước thì thị trưởng nhiều hơn, nhà

nước ở mức độ ít hơn. *CN tự do mới ở CHLB Đức.

1.Quan niệm về nền KT thị trường XH. - Nền KT thị trường XH sẽ vừa có điểm chung lại vừa có điểm khác biệt so với các nền KT

thị trường đã từng tồn tại. Nó không phải là sự kết hợp cơ học giữa yếu tộ thị trường của

CNTB với yếu tố XH của CNXH. Mà là nền KT thị trường được thể hiện ở 1 chế độ có mục tiêu, trong đó có sự kết hợp giữa 2 nguyên tắc: tự do & công bằng XH trên thị trường.

Nguyên tắc tự do là để nhằm phát huy những động lực, những dánh kiến của cá nhân. Nguyên tắc công bằng XH là để khắc phục những mặt tiêu cực của nền KT thị trường.

- Những tiêu chuẩn của nền KT thị trường tự do XH: Đảm bảo quyền tự do cá nhân. Đảm bảo

sự công bằng XH. Có chính sách tăng trưởng Kt để tạo ra khuôn khổ pháp lí & kết cấu hạ tầng cần thiết cho KT thị trường. Có những chính sách KT chống chu kì. Có chính sách cơ

cấu thích hợp. Đảm bảo tính tương hợp của thị trường đối với tất cả hành vi của chính sách KT đã nêu.

2.Các yếu tố của nền KT thị trường.

-Cạnh tranh: là yếu tố giữ vị trí trung tâm trong nền KT thị trường XH. Để duy trì cạnh tranh có hiệu quả, cần tôn trọng quyền tự chủ, tự do kinh doanh. Các chức năng của cạnh tranh

trong nền KT thị trường XH: Sử dụng các nguồn tài nguyên 1 cách tối ưu. Khuyến khích tiến bộ kĩ thuật. Phân phối thu nhập, thoả mãn nhu cầu NTD. Đảm bảo tính linh hoạt của sự điều chỉnh, kiểm soát sức mạnh KT & sức mạnh chính trị. Đảm bảo quyền tự do lựa chọn & hành

động của mỗi cá nhân. Những nguy cơ đe doạ cạnh tranh: từ phía các DN gây ra, cũng có khi từ nhà nước. Chính vì thế phải bảo vệ cạnh tranh, sử dụng 2 biện pháp: mang tính hành chính

& hình sự. Cơ quan để thực hiện nhiệm vụ này chính là Ủy ban chống Carten toàn liên bang. -Xã hội: Cạnh tranh chưa có chức năng đảm bảo công bằng XH. Mà yếu tố XH có 2 chức năng: Nâng cao thu nhập cho tầng lớp dân cư nghèo. Hỗ trợ cho các thành viền của XH có

thể vượt qua được những khó khăn về KT và cả những rủi ro về tinh thần trong cuộc sống. Những công cụ để thực hiện: Tăng trưởng KT (nền KT có tăng trưởng mới có những phương

tiện vật chất để thực hiện các chức năng của yếu tố XH). Phân phối thu nhập công bằng, thông qua các quĩ phúc lợi, quĩ bảo trợ, quĩ bảo hiểm. Các chích sách XH khác.

-Vai trò của chính phủ. Nền KT thị trường XH vẫn rất cần đến 1 chính phủ mạnh, nhưng chỉ

nên can thiệp ở 1 mức độ nhất định & trong những trường hợp cần thiết. Vai trò của chính phủ được xây dựng nhằm phát huy sáng kiến của cá nhân & duy trì cạnh tranh có hiệu quả.

Chính phủ sẽ chỉ can thiệp ở những nơi, những lúc cạnh tranh tỏ ra không có hiệu quả. Quan điểm của họ là thị trường ở mọi lúc, mọi nơi. Còn chính phủ ở những nơi, những lúc cần

thiết.

+Nguyên tắc hỗ trợ: Chính phủ giữ vai trò hỗ trợ nhằm duy trì cạnh tranh có hiệu quả. Ổn định tiền tệ. Tôn trọng & bảo vệ sở hữu tư nhân. Đảm bảo an ninh & công bằng XH.

+Nguyên tắc tương hợp với thị trường thể hiện thông qua việc ban hành các chính sách:

Page 27: Cau hoi on tap lschtkt

Chính sách sử dụng nhân công. Chính sách tăng trưởng (thể hiện thông qua các khoản hỗ trợ của nhà nước đối với các ngành, vùng có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển KT). Chính

sách chu kì (để giảm bớt biên độ dao động trong KD). Chính sách thương mại (nhằm đạt tới sự cân bằng trong cán cân thanh toán). Chính sách đối với các ngành, các vùng KT.

*Trường phái trọng tiền. M.Friedman. Lí thuyết về chu kì tiền tệ & thu nhập quốc dân. - Mức cung tiền tệ là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến các biên số của KT vĩ mô như giá cả, sản lượng, việc làm. Ông xuất phát từ công thức MS*V = P*Q của Fisher. MS là mức

cung tiền tệ, V là tốc độ chu chuyển của tiền tệ, P*Q là sản lượng quốc gia. - Friedman cho rằng mức cung tiền tệ không ổn định vì nó phụ thuộc vào các quyết định chủ

quan của các cơ quan tiền tệ. Vd hệ thống dự trữ liên bang Mĩ (FED). Mức cung tiển tệ có tác động đến sản lượng thường xảy ra ở 2 trường hợp:

+Sản lượng thực tế chưa đạt đến sản lượng tiềm năng: tăng mức cung tiền tệ sẽ làm sản lượng

tăng nhan, giá cả tăng chậm, không có nguy cơ dẫn đến lạm phát. +Sản lượng thực tế đã vượt mức sản lượng tiềm năng: việc tăng mức cung tiền tệ sẽ ít có tác

động đến tăng sản lượng, mà giá cả lại tăng nhanh, có nguy cơ lạm phát. - Mức cầu về tiền tệ theo Friedman có tính ổn định cao. Vì cầu tiền tệ có liên quan chặt chẽ đến sự vận động của các khoản chi tiêu mà trước tiên là thu nhập, mà thu nhập tương đối ổn

định.MD là cầu danh nghĩa về tiền tệ, yn là thu nhập quốc dân danh nghĩa. MD = f (yn) là hàm số của thu nhập quốc dân danh nghĩa.

- Mọi sự mất cân đối giữa mức cung về tiền tệ & mức cầu về tiền tệ chính là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng hoặc lạm phát. MS > MD thì lạm phát. MS < MD thì khủng hoảng. Từ đó ông đưa ra đề nghị thực tiễn về chu kì tiền tệ & thu nhập quốc dân. Theo đề nghị này thì mức

cung về tiền tệ nên được chủ động điều tiết thích ứng với từng giai đoạn, chu kì KD. Cị thể: thời kì khủng hoảng nên tăng mức cung về tiền tệ, thời kì phồn thinh nên giảm mức cung về

tiền tệ. Song dù tăng hay giảm thì mức cung về tiền tệ cũng chỉ nên được điều chỉnh trong 1tỉ lệ nhất định 3-5% trong 1 năm. Điều chỉnh quá mạnh sẽ gây ra nhiều cú sốc dẫn tới khủng

hoảng tài chính tiền tệ.

- Friedman cũng rất quan tâm đến vấn đề ổn định giá cả & chống lạm phát. Theo ông, lạm phát là vấn đề nan giải của nền KT thị trường. Cụ thể, trong nền KT luôn tiềm ẩn nguy cơ

dẫn đến lạm phát. MS = (P*Q) / V. Mà V: ổn định, Q: khó thay đổi nên MS tác động vào P. Do mức cung tiền tệ vốn không ổn định, nên P không ổn định, nguy cơ lạm phát cao. Vì vậy 1 trong những nội dung điều tiết KT của nhà nước phải đưa ra là chông lạm phát (điều này

khác với Keyness). - Lí thuyết tiền tệ của Friedman vẫn thể hiện đặc trưng về phương pháp luận của CN tự do

mới. Bởi ông cho rằng nền KT TBCN luôn ở trong trạng thái cân bằng động. Sự can thiệp của nhà nước chỉ nên ở mức độ tối thiểu. Vì theo ông, bản chất của nhà nước là độc đoán &

nham hiểm, chỉ nên can thiệp ở 1 mức độ nhất định. Mọi sự can thiệp thái quá sẽ không có lợi

cho nền KT. *So sánh trọng tiền với trọng cầu của Keyness: (Khác nhau cơ bản)

-Đặc điểm phương pháp luận. Friedman - tự do mới, Keyness - đề cao vai trò của nhà nước. -Friedman cho rằng mức cung của tiền tệ là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng tới các biến số của

KT vĩ mô. Keyness cho rằng chính sách tài chính ảnh hưởng đến KT vĩ mô.

-Friedman: mức cầu của tiền tệ là nhân tố ngoại sinh của nền KT, vì nó biến thiên theo thu nhập. Keyness: mức cầu của tiền tệ là nhân tố nội sinh của nền KT, vì nó biến thiên theo lãi

suất. -Nguyên nhân khủng hoảng. Friedman: mức cung của tiền tệ không đáp ứng đủ mức cầu của tiền tệ, dẫn đến khủng hoảng. Keyness: nguyên nhân trực tiếp lầ do sự giảm sút của cầu có

hiệu quả. Sâu xa là thiếu sự can thiệp của nhà nước. -Friedman: lạm phát là vấn đề nan giải của nền KT thị trường. Keyness: thất nghiệp mới là

vấn đề nan giải của nền KT thị trường.

Page 28: Cau hoi on tap lschtkt

Câu 1. Giá trị hàng hoá chính là sự phản ánh giá trị tiền tệ cũng như ánh sáng mặt

trăng là sự phản chiếu A/S mặt trời.

Trả lời. W.P( 1632 - 1687) là một trong những người sáng lập ra học thuyết kinh tế trường phái cổ

điển anh. Ông là người áp dụng phương pháp mới trong nghiên cứu khoa học được gọi là phương pháp khoa học tự nhiên . W.Petty có công lao to lớn trong việc nêu ra lí luận về giá trị lao động. Ông đã đưa ra các phạm trù về giá cả hàng hoá. Gồm giá cả tự nhiên và giá cả

chính trị. Tuy vậy lí thuyết giá trị lao động của ông còn nhiều hạn chế, chưa phân biệt được các phạm trù giá trị giá cả và giá trị ...

ông tập trung nghiên cứu về giá cả một bên là hàng hoá, một bên là tiền tức là ông mới chú ý nghiên cứu về mặt lượng. Ông chỉ giới hạn lao động tạo ra giá trị phụ thuộc lao động khai thác vàng và bạc. Ông so sánh giá lao động khai thác vàng và bạc với lao động khác, lao

động khác chỉ tạo nên của cải ở mức độ so sánh với lao động tạo ra tiền. Như vậy W.Petty cho rằng lao động tạo ra tiền mới là lao động tạo ra giá trị nên giá trị hàng

hoá phụ thuộc vào giá trị của tiền, giá trị hàng hoá là sự phản ánh giá trị của tiền tệ “ như ánh sáng mặt trăng là sự phản chiếu của ánh sáng mặt trời “ ông đã không thấy được rằng tiền đo làm thời gian tách làm hai, một bên là hàng hoá thông thường, một bên là tiễn giá cả là sự

biểu hiện bằng tiền của giá trị. * “ lao động là cha còn đất đai là mẹ của của cải” đây là luận điểm nổi tiếng trong lí thuyết

giá trị lao động của ông . - Xét về mặt của cải (giá trị sử dụng) thì ông đã nêu lên được nguồn gốc của cải. Đó là lao động của con người. Kết hợp với yếu tố tự nhiên. Điều này phản ánh TLSX để tạo ra của cải

- Xét về phương diện giá trị thì luận điểm trên là sai. Chính Petty cho rằng giá trị thời gian lao động hao phí quy định nhưng sau đó lại cho rằng 2 yếu tố xác định giá trị đó là lao động

và tự nhiên. Ông đã nhầm lẫn lao động với tư cách là nguồn gốc của giá trị với lao động tư cách là nguồn gốc của giá trị sử dụng. Ông chưa phát hiện được tính hai mặt của hoạt động sản xuất hàng

hoá đó là lao động cụ thể sản xuất lao động trừu tượng. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng còn lao động trìu tượng tạo ra giá trị.

Câu 10. Lao động là cha , đất đai là mẹ của mọi của cải. Làm rõ câu nói này.

W.P( 1632 - 1687) là một trong những người sáng lập ra học thuyết kinh tế trường phái cổ

điển anh. Ông là người áp dụng phương pháp mới trong nghiên cứu khoa học được gọi là phương pháp khoa học tự nhiên . W.Petty có công lao to lớn trong việc nêu ra lí luận về giá trị lao động. Ông đã đưa ra các phạm trù về giá cả hàng hoá. Gồm giá cả tự nhiên và giá cả

chính trị. Tuy vậy lí thuyết giá trị lao động của ông còn nhiều hạn chế, chưa phân biệt được các phạm trù giá trị giá cả và giá trị ...

ông tập trung nghiên cứu về giá cả một bên là hàng hoá, một bên là tiền tức là ông mới chú ý nghiên cứu về mặt lượng. Ông chỉ giới hạn lao động tạo ra giá trị phụ thuộc lao động khai

thác vàng và bạc. Ông so sánh giá lao động khai thác vàng và bạc với lao động khác, lao động khác chỉ tạo nên của cải ở mức độ so sánh với lao động tạo ra tiền.

Như vậy W.Petty cho rằng lao động tạo ra tiền mới là lao động tạo ra giá trị nên giá trị hàng hoá phụ thuộc vào giá trị của tiền, giá trị hàng hoá là sự phản ánh giá trị của tiền tệ " như ánh

sáng mặt trăng là sự phản chiếu của ánh sáng mặt trời " ông đã không thấy được rằng tiền đo làm thời gian tách làm hai, một bên là hàng hoá thông thường, một bên là tiễn giá cả là sự

biểu hiện bằng tiền của giá trị. " lao động là cha còn đất đai là mẹ của của cải" đây là luận điểm nổi tiếng trong lí thuyết giá

Page 29: Cau hoi on tap lschtkt

trị lao động của ông .

- Xét về mặt của cải (giá trị sử dụng) thì ông đã nêu lên được nguồn gốc của cải. Đó là lao động của con người. Kết hợp với yếu tố tự nhiên. Điều này phản ánh TLSX để tạo ra của cải

- Xét về phương diện giá trị thì luận điểm trên là sai. Chính Petty cho rằng giá trị thời gian lao động hao phí quy định nhưng sau đó lại cho rằng 2 yếu tố xác định giá trị đó là lao động

và tự nhiên.

Ông đã nhầm lẫn lao động với tư cách là nguồn gốc của giá trị với lao động tư cách là nguồn gốc của giá trị sử dụng. Ông chưa phát hiện được tính hai mặt của hoạt động sản xuất hàng hoá đó là lao động cụ thể sản xuất lao động trừu tượng. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng

còn lao động trìu tượng tạo ra giá trị.

Câu 7: Bình luận câu nói “ Tiền công – lợi nhuận – địa tô là 3 nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập và do đó là 3 nguồn gốc đầu tiên của mọi giá trị”.

Đây là câu nói nổi tiếng của A.Smith trong lí luận về giá trị lao động.

Để bình luận câu nói này, trước tiên chúng ta phải hiểu ý nghĩa của nó trước đã. Câu nói của A.Smith bao gồm 2 luận điểm chính:

Thứ nhất, ông cho rằng: Tiền công – lợi nhuận – địa tô là 3 nguồn gốc của mọi thu nhập.

Thứ hai, đồng thời ông khảng định Tiền công – lợi nhuận – địa tô là 3 nguồn gốc của mọi giá trị.

Tiền công: v

Lợi nhuận: p

Địa tô: r

Vậy, 2 luận điểm đó là đúng hay sai?

Vế thứ nhất, Tiền công – lợi nhuận – địa tô là 3 nguồn gốc của mọi thu nhập. Điều này là

hoàn toàn đúng đắn, thu nhập có 3 hình thức biểu hiện chính là Tiền công là thu nhập của người công nhân, của người trực tiếp sản xuất nhưng không sở hữu tư liệu sản xuất, Lợi nhuận là thu nhập của nhà tư bản do tước đoạt giá trị thặng dư do người nông dân tạo ra, Địa

tô là thu nhập của địa chủ do nông dân không có tư liệu sản xuất phải thuê đất đai của địa chủ và trả cho họ khoản thu nhập này.

Vế thứ hai là một sai lầm về chất của A.Smith, chính bản thân ông khi đưa ra định nghĩa về giá trị đã đưa ra 2 định nghĩa, trong đó định nghĩa thứ nhất là: Giá trị hàng hóa là do lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa quyết định. Lao động là thước đo thực tế của mọi giá trị. Như

vậy, chính lao động là nguồn gốc của giá trị chứ không phải thu nhập. Nguyên nhân của sự nhầm lẫn này có lẽ là do A.Smith lẫn lỗn quá trình hình thành và phân phối của giá trị. Giá trị

Page 30: Cau hoi on tap lschtkt

được hình thành rồi mới tạo ra thu nhập cho nhóm người có liên quan. Tiền công – lợi nhuận – địa tô là kết quả của phân phối giá trị.

Thêm nữa, việc cho rằng giá trị hàng hóa = v + p + r là thiếu về lượng khi đã bỏ quên mất sự đóng góp của tư bản bất biến (c).

Câu 10: Dựa vào lí luận giá trị – lao động của trường phái cổ điển Anh để CMR Trường phái cổ điển dù có nhiều đóng góp trong việc xây dựng và phát triển lí luận giá trị song vẫn không thể phát triển lí luận đến cùng.

Trường phái cổ điển Anh là trường phái đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho việc nghiên cứu lí luận giá trị vì vậy dù có nhiều đóng góp trong việc xây dựng và phát triển lí luận giá trị

song vẫn không thể phát triển lí luận đến cùng.

Những đóng góp của lí luận giá trị lao động trường phái cổ điển Anh đc thể hiện ở

chỗ:

- Khi bàn về nguồn gốc của giá trị hàng hóa, lần đầu tiên trong lịch sử họ đã biết đến nguồn gốc của giá trị chính là do lao động hao phí sản xuất ra hàng hóa đó quyết định. Lao

động là thước đo thực tế của mọi giá trị.

- Đến cuối cùng D.Ricardo đã phân biệt đc lao động cá biệt, lao động xã hội quyết định giá trị hàng hóa. Xem xét đến lượng giá trị hàng hóa, ông nói: “trừ một số hàng hóa quý và

hiếm còn đại bộ phận lượng giá trị hàng hóa đc đo lường bằng thời gian lao động và năng suất lao động ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian lao động”. Vậy lượng giá trị hàng hóa là do

thời gian lao động cần thiết quyết định

- Do đó đưa ra nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa chính là năng suất lao động và đặt vấn đề về tính chất lao động.

- Về cơ cấu giá trị hàng hóa, cuối cùng họ cũng mô tả đầy đủ cơ cấu lượng giá trị, bao gồm 3 bộ phận: c1 (máy móc thiết bị nhà xưởng), v, m, tuy nhiên chưa phân biệt được sự

chuyển dịch của c vào sản phẩm như thế nào, và không tính đến yếu tố c2. Lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá không phải chỉ có lao động trực tiếp, mà còn có cả lao động cần thiết trước đó để sản xuất ra các công cụ, dụng cụ, nhà xưởng dùng vào việc sản xuất ấy.

- Trường phái cổ điển Anh đã phân biệt được giá trị hàng hóa và giá cả hàng hóa. giá cả hàng hoá là giá trị trao đổi của nó, những biểu hiện bằng tiền, còn giá trị được đo bằng lượng

lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá, ông cũng đã tiếp cận với giá cả sản xuất thông qua việc giải thích về giá cả tự nhiên.

Tuy nhiên vẫn còn có nhiều hạn chế:

- Chưa biết đến tính chất 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa chưa phân biệt được lao động cụ thể lao động trừu tượng.

- Coi giá trị là phạm trù vĩnh viễn, là thuộc tính của mọi vật (theo Mác phạm trù này chỉ tồn tại trong nền sản xuất hàng hoá).

- Chưa chứng minh được đầy đủ các hình thái biểu hiện của giá trị

Page 31: Cau hoi on tap lschtkt

Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường.

Lịch sử đã chứng minh rằng, các nền kinh tế thị trường thành công nhất đều không thể phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước. Các nền kinh tế thị

trường nguyên thuỷ dựa trên cơ sở sản xuất và trao đổi giản đờn có thể hoạt động một cách có hiệu quả mà không cần sự can thiệp của Nhà nước. Tuy nhiên, vì nền kinh tế tăng trưởng dưới tác động bên ngoài ngày một phức tạp nên sự can thiệp của Nhà nước xuất hiện như một

tất yếu cho sự hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế thị trường. Trong các nền kinh tế thị trường đã Phát triển, Nhà nước có 3 chức năng kinh tế rõ rệt là: can thiệp, quản lý và điều hoà

phúc lợi. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định, song sự điều tiết của Nhà nước vẫn là một trong các hoạt động của nền kinh tế thị trường. Theo đó, thị trường tự do với đúng nghĩa của nó không thể tồn tại, ngoại trừ trong các lý thuyết kinh tế.

Tuy nhiên, khi khẳng định sự cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước thì cũng cần cân nhắc kỹ lưỡng tời cái được - cái mất của sự can thiệp ấy. Cách giải quyết không phải là bỏ

mặc thị trường, mà phải là nâng cao hiệu quả của sự can thiệp đó. Nhà nước có một vai trò chính đáng và thường xuyên trong các nền kinh tế hiện đại Vai trò đó của Nhà nước đặc biệt

thể hiện rõ rệt ở việc xác định "các quy tắc trò chơi" để can thiệp vào những khu vực cần có sự lựa chọn, thể hiện nhưng khuyết tật của thị trường, để đảm bảo tính chỉnh thể của nền kinh tế và để cung cấp những dịch vụ phúc lợi.

Quả thực, không thể phủ nhận vai trò của Nhà nước trong các lĩnh vực như: ổn định kinh tế vĩ mô thông qua chính sách tài chính và tiền tệ, củng cố an ninh quốc phòng, cung cấp hàng hoá

công cộng, chống ô nhiễm môi trường, phát triển giáo dục tăng thu nhập và nâng cao phúc lợi xã hội, tạo dựng một bộ khung xã hội được sự điều hành của luật pháp, định hướng cạnh tranh một cách có hiệu quả bằng cách giảm độc quyền…

1. Vai trò của Nhà nước trong quốc phòng và trong việc sản xuất, tiêu dùng các hàng hoá

công cộng.

Quốc phòng là một ví dụ chứng tỏ vai trò tối quan trọng của Nhà nước. Điều đó được quyết

định bởi quốc phòng là một kiểu hàng hoá hoàn toàn khác hẳn với các loại hàng hoá vật thể khác ở chỗ, người ta không trả tiền cho mỗi đơn vị sử dụng mà mua nó như một tổng thể

nhằm mục đích bảo vệ an ninh của cả một quốc gia. Ở đây, bảo vệ cho một cá nhân không có nghĩa là giảm bảo vệ cho người khác, bởi tất cả mọi người tiêu thụ các dịch vụ quốc phòng một cách đồng thời.

Các loại hàng hoá kiểu như vậy được gọi là hàng hoá công cộng, bởi không một doanh nghiệp tư nhân nào có thể bán quốc phòng của toàn dân cho các công dân riêng lẻ và coi đó

là nghề kinh doanh thu lãi. Đơn giản là không thể có chuyện dịch vụ quốc phòng lại được đem rao bán cho những người cần hoặc không thực hiện bảo vệ an ninh quốc gia, cho những

người từ chối chi trả kinh phí cho quốc phòng. Hơn nữa, hàng hoá công cộng là thứ hàng hoá không thể định giá chính xác được, cho nên tư nhân không thể cung cấp. Đấy là nguyên nhân chính giải thích vì sao quốc phòng phải do Nhà nước điều hành và chi phí cho quốc phòng

phải được lấy từ nguồn tài chính công, từ ngân sách Nhà nước có được thông qua thuế.

Hàng hoá công cộng có ba đặc tính: tính không kình địch trong tiêu dùng, tính không loại trừ (nonexcluđability) và tính không thể không tiêu dùng mà tựu trung lại, tất cả mọi người đều có nghĩa vụ và quyền lợi tiêu dùng hàng hoá công cộng như nhau. Có nhiều ví dụ về hàng

hoá công cộng, từ các biện pháp chống lũ lụt cho đến việc phòng chống vũ khí nguyên tử,

Page 32: Cau hoi on tap lschtkt

nhưng hai ví dụ có thể thấy rõ vai trò của Nhà nước một cách trực tiếp và thường xuyên nhất, đó là xây dựng cơ sở hạ tầng và ổn định kinh tế vĩ mô.

Thật vậy, một nền kinh tế không thể "cất cánh" được trừ phi nó có được một cơ sở hạ tầng

vững chắc. Nhưng cũng do tính không thể phân chia của hàng hoá công cộng mà các tư nhân thấy rằng đầu tư vào đây không có lợi. Vì thế, ở hầu hết các nước, Nhà nước bỏ vốn vào đầu tư cơ sở hạ tầng, ổn định kinh tế vĩ mô cũng có thể xem như là hàng hoá công cộng. Đặc

điểm của nền kinh tế thị trường là sự bất ổn định do các cuộc khủng hoảng chu kỳ. Sự ổn định kinh tế rõ ràng là điều mà mọi Nhà nước đều mong muốn và nó có lợi cho tất cả mọi

người. Do vậy, chính Nhà nước phải chịu trách nhiệm duy trì sự ổn định đó trên tầm vĩ mô.

2. Vai trò của Nhà nước đối với các yếu tố ngoại vi

Yếu tố ngoại vi là các ảnh hưởng tốt hay không tốt do các yếu tố bên ngoài gây nên cho hoạt động của công ty hay cho xã hội nói chung. Yếu tố ngoại vi xảy ra khi có sự khác biệt về phí

tổn hoặc lợi ích giữa cá nhân và xã hội. Tuy nhiên, các chi phí hoặc lợi ích này (chi phí ngoại vi hoặc lợi ích ngoại vi) lại không được tính đến trong hệ thống giá cả và thị trường. Những

chi phí ngoại vi cho sản xuất bao gồm: sự tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm môi trường mà nhà máy hoặc xí nghiệp sản xuất tạo ra... Những yếu tố này gây nên sự giảm sút về phúc lợi của những người dân sống xung quanh hoặc có thể buộc những nhà máy khác gần đó phải tốn

kém thêm chi phí để làm sạch nước sông đã bị ô nhiễm mà mình phải sử dụng trong sản xuất. Vì phía thứ ba không được đền bù cho những khoản chi phí ngoại vi, nên các phí tổn sản xuất

không được tính đến trong hệ thống giá. Trong nền kinh tế thị trường tự do, người ta chỉ mưu toan sử dụng tối đa những phương tiện hay lợi nhuận riêng của mình, và nhưng chi phí hay lợi ích ngoại vi sẽ không được phản ánh trong giá cả của các đồ vật. Ví dụ, trường hợp một

nhà máy có thể làm ra một loại sản phẩm rất rẻ nhưng lại làm ô nhiễm môi trường, gây ra sự giảm sút về phúc lợi cho nhưng người khác. Và do vậy, vai trò kinh tế của Nhà nước là điều

chỉnh lại sự bất hợp lý này. Bằng sự can thiệp, Nhà nước buộc tất cả những ai hưởng lợi từ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đều phải trả toàn bộ chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ấy.

Tuy nhiên, Nhà nước không dễ dàng quyết định chính xác chi phí ấy là bao nhiêu, vì không thể định lượng một cách chính xác tác hại mà sự ô nhiễm ấy có thể gây ra cho xã hội. Vì những khó khăn này, Nhà nước cần phải đảm bảo chi phí giảm ô nhiễm không được cao hơn

so với chi phí mà ô nhiễm gây ra cho xã hội. Nếu không các nguồn lực sẽ không được phân bố hiệu qua.

Nhà nước có thể sử đụng một hệ thống thuế, luật pháp, điều lệ, mức hình phạt, thậm chí cả mức truy tố để nhằm giảm ô nhiễm. Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng cả chính sách quyền sở

hữu công khai nguồn tài nguyên, người sử dụng nguồn tài nguyên này nếu gây ô nhiễm sẽ phải chịu chi phí theo giá thị trường. Các khoản thuế hay biện pháp trợ cấp tối ưu đều được

coi là phương thức để Nhà nước xứ lý những yếu tố ngoại vi. Do chỗ toàn bộ chi phí xã hội là cái quan trọng quyết định sự phân bố tài nguyên một cách có hiệu quả, còn những chi phí tư nhân quyết định giá hàng, cho nên vai trò của Nhà nước là tạo ra sự thăng bằng giữa cá nhân

và xã hội thông qua việc điều chỉnh sản xuất thừa hoặc tiêu dùng thừa vào chi phí ngoại vi.

Trong các lợi ích ngoại vi, cần chú ý tới giáo dục bởi đây là lĩnh vực cần phải có sự quan tâm và hỗ trợ của Nhà nước. Ngoài ra, trong chừng mực một sán phẩm nào đó có thể tạo ra được lợi ích ngoại vi, Nhà nước cần xem xét vấn đề trợ cấp tối ưu để khuyến khích sản xuất, tiêu

dùng loại sản phẩm này sao cho giá trị đích thực các lợi ích ngoại vi được tính đến trong hệ thống giá thị trường. Ở đây, sự can thiệp cửa Nhà nước là cần thiết, vì trong khi chi phí ngoại

vi có thể dẫn đến sản xuất thừa thì ngược lại, lợi ích ngoại vi lại có thể dẫn đến sản xuất thiếu.

Page 33: Cau hoi on tap lschtkt

3. Vai trò của Nhà nước trong việc tạo dựng bộ khung xã hội và luật pháp

Để thực hiện đúng đắn chức năng phân phối của mình, nền kinh tế thị trường đòi hỏi một loạt thể chế phát triển cao, trong đó có hệ thống pháp lý để chống lại bạo lực và gian lận bao gồm:

hệ thống có liên quan tới những quyền sở hữu, những điều luật về phá sản và khả năng thanh toán, hệ thống tài chính với ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại để giữ cho việc cung cấp tiền mặt được thực hiện một cách nghiêm ngặt…

Thật vậy, trong các nền kinh tế thị trường không có gì bảo đảm để không diễn ra bạo lực và gian lận. Đó là lý do tại sao Nhà nước cần phải có lưu trữ văn bản, hồ sơ, chứng từ về đất đai,

nhà ở, đảm bảo các hợp đồng mua bán tất cả các loại sản phẩm. Cả người mua lẫn người bán đều muốn là khi cả hai phía đã đồng ý trao đổi thì sự thoả thuận nhất định phải được thực

hiện. Tình hình đó cũng giống như đối với quan hệ giữa người chủ và người làm công. Người lao động đã với tư cách cá nhân hay tập thể trong các tổ chức hiệp hội cũng đều có sự thoả thuận nhất định về điều kiện làm việc, tiền lương với chủ sử dụng lao động. Nếu như không

có sự đảm bảo cho các thoả thuận ấy, nghĩa là không có sự thực thi của luật pháp thì các giao dịch trên thị trường trở nên khó mà có thể thực hiện.

Nhà nước trong các nền kinh tế thị trường cần phải thiết lập và bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, cung như quyền được hưởng các lợi ích kinh tế xuất phát từ việc sử dụng quyền sở hữu đó.

Nếu không có sự đảm bảo ấy, một số người sẽ gặp phải những rủi ro nếu đầu tư thời gian và tiền vốn của mình vào lĩnh vực kinh doanh mà rốt cuộc, tiền lãi thu về lại có thể rơi vào Nhà

nước hoặc các tập đoàn khác.

Sự bảo hộ của Nhà nước đối với sở hữu tư nhân thể hiện một cách rõ ràng đối với đất đai, nhà

máy, công xưởng, kho chứa và các sản phẩm hữu hình khác. Thế nhưng, sự bảo hộ đó còn được áp dụng cho cả các sở hữu liên quan tới trí tuệ, chẳng hạn như sách, bài viết, phim ảnh, hội họa, phát minh, sáng chế, thiết kế, bào chế thuốc hay chương trình phần mềm... Đây là

một sự can thiệp rất quan trọng của Nhà nước trong việc bảo vệ bản quyền tác giả và qua đó, khuyến khích những hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học, các nghệ sĩ, khuyến khích việc

phát huy khả năng trí tuệ của họ.

4. Vai trò của Nhà nước trong chính sách cạnh tranh

Vai trò này thể hiện ở tập hợp những biện pháp của Nhà nước nhằm cổ vũ cạnh tranh giữa

các nhà cung ứng với nhau, đồng thời bảo vệ người tiêu dùng chống lại tình trạng độc quyền. Phạm vi của một chính sách như vậy bao gồm: kiểm soát bằng các biện pháp điều tiết đối với những hãng có khả năng chi phối, kiểm soát các vụ việc sát nhập công ty nhằm ngăn ngừa

khả năng độc quyền hoá các ngành công nghiệp, kiểm soát các hành vi chống cạnh tranh.

Nói tới độc quyền là nói tới thị trường chỉ có một người cung cấp. Thông thường, trong các

nền kinh tế thị trường, tình hình sẽ trở nên nan giải khi một ngành công nghiệp bị chi phối bởi một số rất ít các Công ty lớn. Các công ty này có thể cấu kết với nhau thành một tập đoàn

hùng mạnh, áp đảo thị trường với mức giá cao, nhằm thu nhiều lợi nhuận, đồng thời khống chế việc thâm nhập vào thị trường của các Công ty nhỏ hơn đang cạnh tranh với họ. Để ngăn chặn tình trạng cấu kết, độc quyền và để duy trì cạnh tranh lành mạnh một cách có hiệu quả,

hầu hết các nền kinh tế thị trường, kể cả Mỹ, đều thông qua đạo luật chống độc quyền.

Song, thật đáng tiếc, nhiều khi sự kiểm soát của chính phủ và chính sách chống độc quyền trên thực tế lại dẫn đến giảm cạnh tranh chứ không phải là khuyến khích cạnh tranh. Các chính sách này bao gồm: giấy phép độc quyền sản xuất một loại hàng hoá và dịch vụ nào đó,

thuế, côta... Tất cả những cái đó đã hạn chế việc nhập khẩu hàng hoá và địch vụ từ nước

Page 34: Cau hoi on tap lschtkt

ngoài. Do vậy, chính sách của Nhà nước về vấn đề cạnh tranh không phải không có điều bất cập. Tuy nhiên, các nhà kinh tế đều thừa nhận rằng, cái giá tiềm tàng cho phép các Công ty

lớn (hoặc một nhóm các Công ty cấu kết với nhau) giành được vị trí độc quyền trong các ngành công nghiệp chủ chốt là rất cao. Giá đó đủ lớn đề thừa nhận vai trò nhất định của Nhà

nước trong việc điều tiết để duy trì cạnh tranh thông qua một hệ thống đạo luật không ngừng được củng cố.

5. Vai trò của Nhà nước đối với vấn đề thu nhập và phúc lợi

Trong nền kinh tế thị trường, khả năng kiếm sống ở một số người là rất hạn chế, trong khi đó,

số khác lại có nguồn thu nhập rất lớn. Nguồn thu nhập đó có thể do thừa hưởng gia tài, có thể do tài năng hoặc sự thành đạt trong kinh doanh hay trong các quan hệ chính trị, xã hội... Do

vậy, vai trò của Nhà nước là không thể thiếu được trong việc phân phối lại thu nhập để trong chừng mực cho phép, có thể thu hẹp lại khoảng cách giàu - nghèo trong xã hội. Trên thực tế, các chính phủ đều luôn thực hiện điều đó thông qua chính sách thuế, đặc biệt là thuế thu nhập

nhằm tạo ra sự công bằng hơn trong phân phối.

Ở đây có hai ý kiến trái ngược. Một là, ý kiến ủng hộ vai trò của Nhà nước trong việc hạn chế sự tập trung tài sản và duy trì sự lan toả các năng lực kinh tế giữa cá chủ sở hữu. Hai là, ý kiến ngược lại cho rằng, chương trình phân phối lại của Nhà nước thông qua thuế thu nhập sẽ

làm cho người lao động giảm động cơ làm việc để tăng thu nhập, giảm tiết kiệm, giảm đầu tư và do đó sẽ gây nên tổn hại lớn tới cả một nền kinh tế.

Tuy nhiên, ý kiến đầu tiên đã giành được nhiều sự ủng hộ hơn của xã hội. Trong hầu hết các nền kinh tế thị trường, Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao phúc lợi công

cộng, xoá đói, giảm nghèo. Các vấn đề như việc làm, sức khoẻ, bảo hiểm y tế, lương hưu, trợ cấp khó khăn… luôn là những vấn đề rất cần đến sự quan tâm của Nhà nước. Rõ ràng, điều bàn cãi không còn là ở chỗ Nhà nước có nên tạo ra quỹ phúc lợi hay không, có nên thực hiện

phân phối lại thông qua thuế thu nhập hay không... mà là mức độ thực hiện ra sao để vẫn có thể khích lệ được mọi thành phần lao động trong việc tạo ra của cải và tiết kiệm trong việc

chi dùng những của cải ấy.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động là một xu hướng tất yếu của quá trình phát triển nông thôn ở

nước ta trong giai đoạn hiện nay theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng giá trị sản sản xuất

các sản phẩm hàng hóa trên cơ sở phát huy thế mạnh của mỗi địa phương, vùng, miền. Đây là chủ

trương, định hướng chính sách của Đảng và Nhà nước trong quá trình đầy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nông thôn, nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng nông thôn mới.

Giai đoạn vừa qua, sự chuyển dịch này đã góp phần cải thiện bộ mặt đời sống nông thôn, nâng cao thu

nhập, mức sống, kèm theo đó là tăng khả năng tiếp cận với các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục,

thông tin, văn hóa.v.v. cho người dân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện bên cạnh những mặt tích

cực, vẫn còn nhiều bất cập cần những chính sách, giải pháp đồng bộ để khắc phục.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng

Theo kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2011 của Tổng cục Thống kê,

năm 2011, cả nước có 15,34 triệu hộ ở khu vực nông thôn, tăng 1,58 triệu hộ (+11,4%) so với năm

2006. Sự gia tăng số hộ ở nông thôn là do nhu cầu tách hộ và xu hướng sống theo mô hình gia đình

hạt nhân ngày một nhiều. Việt Nam đã và đang bước vào thời kỳ “dân số vàng” với tỷ lệ dân số trong

Page 35: Cau hoi on tap lschtkt

độ tuổi lao động cao. Năm 2011, số người trong độ tuổi có khả năng lao động ở khu vực nông thôn là

32 triệu người, tăng 1,4 triệu người (+4,5%) so với 2006). Đây là thời cơ cho phát triển kinh tế - xã

hội cả nước nói chung và ở khu vực nông thôn nói riêng vì có được nguồn lao động dồi dào.

Cùng với chuyển đổi về cơ cấu hộ, cơ cấu nguồn nhân lực nói trên, cơ cấu ngành nghề của hộ nông

thôn cũng đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Cụ thể, số lượng, tỷ trọng hộ hoạt động trong

lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản ngày càng giảm, lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ ngày càng

tăng. Số hộ hoạt động trong lĩnh vực nông lâm thuỷ sản là 9,53 triệu hộ, giảm 248 nghìn hộ so với

năm 2006. Số hộ hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và hộ dịch vụ đạt 5,13 triệu hộ, tăng

1,67 triệu hộ so với năm 2006. Nếu xét về cơ cấu, năm 2011 tỷ trọng hộ nông, lâm, thủy sản giảm

nhanh, chỉ còn 62,2% so với 71,1% so với năm 2006. Tính chung trong giai đoạn 2001-2011, số hộ

nông, lâm, thủy sản cứ qua 5 năm lại giảm đi khoảng từ 9% đến 10%. Đáng chú ý, đến năm 2011 đã

có 13/63 tỉnh, thành phố có tỷ trọng hộ hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ

chiếm trên 40% tổng số hộ nông thôn, trong khi năm 2006 con số này chỉ có ở 5/63 tỉnh, thành phố.

Xét theo vùng, tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành nghề hộ nông thôn từ nông, lâm, thuỷ sản sang công

nghiệp, xây dựng và dịch vụ rõ nét nhất xảy ra ở vùng Đông Nam bộ và tiếp đó là Đồng bằng sông

Hồng.

Trên phạm vi cả nước trong giai đoạn 2001-2011, số hộ nông, lâm, thủy sản cứ qua 5 năm lại giảm đi

khoảng từ 9% đến 10%, trong khi đó 2 khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ lại tăng lên: khu

vực công nghiệp, xây dựng tăng ở mức 4,5 - 5%, khu vực dịch vụ tăng chậm hơn ở mức từ và 3,5 -

4,5%. Đáng chú ý là đến năm 2011 đã có 13/63 tỉnh (20,6%) có tỷ trọng hộ công nghiệp, xây dựng và

dịch vụ chiếm trên 40% tổng số hộ nông thôn (năm 2006 chỉ có 5/63 tỉnh).

Cơ cấu lao động bước đầu chuyển biến tích cực

Do việc thực hiện đúng chủ trương, chính sách phát triển kinh tế nông thôn dẫn đến cơ cấu lao động

trong các lĩnh vực ngành nghề có sự thay đổi rõ rệt. Tính đến 2011, lao động trong lĩnh vực nông,

lâm, thủy sản chiếm 59,6%, giảm đáng kể so với mức 70,4% của năm 2006 và 79,6% của năm 2001;

Tỷ trọng lao động công nghiệp, xây dựng lần lượt ở các năm 2011, 2006 và 2001 là 18,4%, 12,5% và

7,4%; tỷ lệ lao động dịch vụ là 20,5%, 15,9% và 11,9% ở 3 năm tương ứng.

Kết quả đạt được về chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn năm 2011 tuy có tiến bộ so với các năm

2001 và 2006 nhưng vẫn còn chậm và có khoảng cách xa so với yêu cầu. Trong 10 năm từ 2001-2011,

tỷ trọng lao động nông, lâm, thủy sản mới giảm được 20% từ khoảng 80% năm 2001 xuống khoảng

60% vào năm 2011, bình quân mỗi năm giảm được 2%.

Tuy kết quả chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn những năm qua diễn ra còn chậm so với yêu cầu,

chưa đều giữa các vùng và các địa phương nhưng cũng có điểm mới là xu hướng hoạt động đa dạng

ngành nghề của lao động ở khu vực nông thôn ngày càng tăng. Trong tổng số người ở độ tuổi lao

động có tham gia hoạt động nông nghiệp trong 12 tháng qua thì lao động chuyên nông nghiệp (thuần

nông) chiếm 46%; lao động nông nghiệp kiêm ngành nghề khác chiếm 32,1% và lao động phi nông

nghiệp có hoạt động phụ nông nghiệp chiếm 21,9%.

Đáng lưu ý là các làng nghề nông thôn được khôi phục và phát triển, tạo nhiều việc làm, góp phần

thúc đẩy sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.

Cùng với sự ra đời của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, nhiều làng nghề được khôi phục và

phát triển đã thu hút được nhiều nguồn vốn trong dân cư, tạo được việc làm tại chỗ cho hàng chục vạn

lao động và đào tạo, bồi dưỡng những lao động phổ thông thành lao động có kỹ thuật. Đến năm 2011,

khu vực nông thôn có 961 xã có làng nghề, chiếm 11% tổng số xã (tỷ lệ tương ứng của các năm 2001

và 2006 lần lượt là 6% và 8%). Số lượng làng nghề cũng tăng: Năm 2011 có 1.322 làng nghề so với

1077 làng nghề của năm 2006 và 710 làng nghề của năm 2001.

Các làng nghề đã thu hút 327 nghìn hộ và 767 nghìn lao động thường xuyên. Bình quân 1 làng nghề

Page 36: Cau hoi on tap lschtkt

có 248 hộ và 580 lao động so với 238 hộ và 609 lao động năm 2006. Vùng có nhiều xã có làng nghề

và số lượng làng nghề nhiều nhất là Đồng bằng sông Hồng: 485 xã (chiếm 50,5% tổng số xã có làng

nghề cả nước), 706 làng nghề (chiếm 53% số làng nghề cả nước) và 222 nghìn hộ tham gia với 505

nghìn lao động.

Những vấn đề đặt ra

Rõ ràng có những dấu hiệu tích cực của quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ngành nghề nông thôn

nói trên, song vẫn chưa khắc phục được sự chênh lệch lớn giữa các vùng kinh tế - xã hội. Nếu không

có các định hướng, giải pháp để hạn chế sẽ dẫn đến sự chênh lệch trong các lĩnh vực khác như: thu

nhập, nghèo đói, đời sống, vấn đề an sinh xã hội, di cư ồ ạt giữa các vùng (để tìm việc làm) gây khó

khăn cho quản lý xã hội.v.v. giữa các vùng.

Bên cạnh đó, sự phát triển các khu công nghiệp, chế xuất, các ngành nghề phi nông nghiệp, đặc biệt là

làng nghề dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường: nước thải, chất thải do các làng nghề tạo ra tại các

vùng quê gây ô nhiễm nguồn nước, không khí, đất đai ảnh hưởng đến cây trồng, vật nuôi và sức khỏe

người dân còn rất phổ biến. Theo số liệu năm 2011 cho thấy, tỷ lệ làng nghề sử dụng thiết bị xử lý

nước, chất thải độc hại chỉ đạt 4,1% và thực trạng này đang cho thấy rõ nguy cơ gây ô nhiễm môi

trường rất cao của các làng nghề ở nông thôn nước ta.

Thiết nghĩ, những hạn chế, mặt trái của quá trình phát triển là không thể tránh khỏi, vấn đề đặt ra là

ngay từ khi bước vào quá trình chuyển đổi cần tính đến các giải pháp đồng bộ, lâu dài về cơ chế chính

sách như xây dựng và triển khai có hiệu quả các quy hoạch: tổng thể khu vực nông thôn, phát triển

các ngành nghề, lĩnh vực, nguồn nhân lực, đất đai, môi trường.v.v. Bên cạnh đó là các cơ chế, chính

sách an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, chăm lo đời sống, hỗ trợ sản xuất cho các bộ phận, tầng lớp

cư dân gặp nhiều khó khăn ở khu vực nông thôn. Có như vậy, các chính sách và quá trình phát triển

kinh tế - xã hội ở nông thôn mới đảm bảo tính bền vững.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH,HĐH) đã được Đảng

và Nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để Việt Nam nhanh thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm

phát triển trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại.

Nội dung và yêu cầu cơ bản của chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CCKT) ở nước ta theo hướng công

nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành công nghiệp, xây

dựng (gọi chung là công nghiệp) và thương mại - dịch vụ (gọi chung là dịch vụ), đồng thời giảm dần

tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp (gọi

chung là nông nghiệp). Cùng với quá trình chuyển dịch của cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến những

biến đổi kinh tế và xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cơ cấu các vùng kinh tế, các

thành phần kinh tế, các lực lượng lao động xã hội, cơ cấu kinh tế đối nội, cơ cấu kinh tế đối ngoại…

1. Cơ cấu kinh đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Thực hiện định hướng cơ bản trên đây của Đảng và Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sau hơn 20 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những kết quả

nổi bật sau đây.

Về cơ cấu ngành kinh tế, cùng với tốc độ tăng cao liên tục và khá ổn định của GDP, cơ cấu ngành

kinh tế đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực. Đó là tỷ trọng trong GDP của ngành nông

nghiệp đã giảm nhanh từ 38,1% năm 1990 xuống 27,2% năm 1995; 24,5% năm 2000; 20,9% năm

2005, và đến năm 2008 ước còn 20,6%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã tăng nhanh, năm 1990 là

22,7%; năm 1995 tăng lên 28,8%; năm 2000: 36,7%; năm 2005: 41% và đến năm 2008 ước tính sẽ

Page 37: Cau hoi on tap lschtkt

tăng đến 41,6%. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%; năm 1995:

44,0%; năm 2000: 38,7%; năm 2005: 38,1%; năm 2008 sẽ là khoảng 38,7%.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta theo xu hướng công nghiệp

hoá, hiện đại hoá. Số lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên, trong khi

số lao động ngành nông nghiệp ngày càng giảm đi.

Trong nội bộ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng đã có sự chuyển dịch ngày càng tích cực

hơn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp khu vực nông

thôn đã tăng từ 17,3% năm 2001 lên 19,3% năm 2007. Trên cơ sở đó, đã tác động tích cực đến chuyển

dịch cơ cấu lao động xã hội nông thôn mà biểu hiện rõ nhất là thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu hộ

nông thôn theo hướng ngày càng tăng thêm các hộ làm công nghiệp, thương mại và dịch vụ; trong khi

số hộ làm nông nghiệp thuần tuý giảm dần. Tỷ lệ hộ nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, ngư

nghiệp) đã giảm 9,87%; tỷ lệ hộ công nghiệp tăng lên 8,78%. Năm 2007, số hộ công nghiệp và dịch

vụ trên địa bàn nông thôn có 3,6 triệu hộ, tăng 62% so với năm 2000.

Trong cơ cấu các thành phần kinh tế kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và

địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Từ những định hướng đó, khung

pháp lý ngày càng được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập

trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nhằm giải phóng sức sản xuất, huy động và sử

dụng các nguồn lực có hiệu quả, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.

Về cơ cấu vùng kinh tế, trong những năm vừa qua cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng

góp vào quá trình phát triển kinh tế. Trên bình diện quốc gia, đã hình thành 6 vùng kinh tế: vùng trung

du miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung,

vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, có 3 vùng kinh

tế trọng điểm là vùng động lực cho tăng trưởng kinh tế cả nước.

Các địa phương cũng đẩy mạnh việc phát triển sản xuất trên cơ sở xây dựng các khu công nghiệp

tập trung, hình thành các vùng chuyên canh cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến, nuôi

trồng thuỷ sản, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội

của từng vùng. Điều này tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp chế biến, góp phần tạo nên xu

hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng sản xuất hàng hoá, hướng về xuất khẩu.

Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội nhập vào kinh tế toàn cầu, thể

hiện ở tỷ lệ xuất khẩu/GDP (XK/GDP) ngày càng tăng, nghĩa là hệ số mở cửa ngày càng lớn, từ

34,7% năm 1992 lên 47% năm 2001, và đến năm 2005 là trên 50%. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm

2001 - 2005 đã đạt 111 tỷ USD, tăng bình quân 17,5%/năm (kế hoạch là 16%/năm), khiến cho năm

2005, bình quân kim ngạch xuất khẩu/người đã đạt 390 USD/năm, gấp đôi năm 2000. Năm 2006, kim

ngạch xuất khẩu tiếp tục đạt mức cao - 40 tỷ USD, tăng 24% so với năm 2005; năm 2007 đạt gần 50

tỷ USD, tăng 21,5% so với năm 2006; năm 2008 tăng 29,5% so với năm 2007, đưa tỷ lệ XK/GDP đạt

khoảng 70%.