Upload
tung-lam
View
12
Download
1
Embed Size (px)
DESCRIPTION
XNK
Citation preview
BÀI THẢO LUẬN
MÔN HỌC: TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
Đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
1
MỤC LỤC
1. TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
1.1. Tổng quan về tỷ giá
1.1.1. Khái niệm
1.1.2. Các loại tỷ giá
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá
1.2. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động xuất nhập khẩu
1.2.1. Khái niệm
1.2.2. Đặc điểm
2. ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP
KHẨU
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Tác động của biến động tỷ giá lên hoạt động xuất khẩu
2.1.2. Tác động của tỷ giá hối đoái lên hoạt động nhập khẩu
2.1.3. Tuyến J trong ngắn hạn và dài hạn
2.2. Thực trạng tại Việt Nam từ năm 1989 đến nay
2.2.1. Giai đoạn 1989-1992
2.2.2. Giai đoạn 1993-1996
2.2.3. Giai đoạn 1997-1999
2.2.4. Giai đoạn 2000-2006
2.2.5. Giai đoạn 2007-nay
3. NHỮNG KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT NHẬP KHẨU TẠI
VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP
3.1. Những khó khăn hạn chế trong việc điều hành chính sách tỷ giá ảnh
hưởng đến xuất nhập khẩu tại Việt Nam
3.1.1. Khó khăn, hạn chế xuất phát từ bên trong
3.1.2. Khó khăn, hạn chế xuất phát từ bên ngoài
2
3.2. Giải pháp
3.2.1. Nhà nước
3.2.2. Doanh nghiệp
3
ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN HOẠT ĐỘNG
XUẤT NHẬP KHẨU TẠI VIỆT NAM
1. TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP
KHẨU
1.1. Tổng quan về tỷ giá
1.1.1. Khái niệm
Tỷ giá (tỷ giá hối đoái) là giá cả của một đồng tiền này được biểu thị
thông qua đồng tiền khác. Nói cách khác, tỷ giá là số đơn vị đồng tiền định giá
trên một đơn vị đồng tiền yết giá. Tại Việt Nam sử dụng phương pháp yết giá
trực tiếp, nghĩa là đồng ngoại tệ đóng vai trò là đồng tiền yết giá (số đơn vị = 1),
còn đồng nội tệ đóng vai trò là đồng tiền định giá.
1.1.2. Các loại tỷ giá
Có rất nhiều loại tỷ giá khác nhau tùy thuộc vào từng tiêu thức phân loại
khác nhau.
* Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái bao gồm:
- Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do ngân hàng trung ương của mỗi nước công
bố. Tỷ giá hối đoái này được công bố hàng ngày vào đầu giờ làm việc của ngân
hàng trung ương. Dựa vào tỷ giá này các ngân hàng thương mại và các tổ chức
tín dụng sẽ ấn định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay, có kỳ hạn, hoán đổi. Ở
một số nước như Pháp tỷ giá hối đoái chính thức được ấn định thông qua nhiều
giao dịch vào thời điểm xác định trong ngày.
- Tỷ giá kinh doanh (bao gồm tỷ giá mua, tỷ giá bán): là tỷ giá dùng để
kinh doanh mua bán ngoại tệ do các ngân hàng thương mại hay các tổ chức tín
dụng đưa ra. Cơ sở xác định tỷ giá này là tỷ giá chính thức do ngân hàng trung
ương công bố xem xét đến các yếu tố liên quan trực tiếp đến kinh doanh như:
4
quan hệ cung cầu ngoại tệ, tỷ suất lợi nhuận, tâm lý của người giao dịch đối với
ngoại tệ cần mua hoặc bán. Biên độ dao động hiện nay của tỷ giá kinh doanh so
với tỷ giá chính thức là 1%.
- Tỷ giá chợ đen: tỷ giá được hình thành bên ngoài thị trường ngoại tệ
chính thức.
* Căn cứ vào tiêu thức thời điểm thanh toán
- Tỷ giá giao ngay: là tỷ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận ngoại tệ
được thực hiện ngay trong ngày hôm đó hoặc một vài ngày sau. Loại tỷ giá này
do tổ chức tín dụng yết giá tại thời điểm giao dịch hoặc do hai bên thỏa thuận
nhưng phải đảm bảo trong biểu độ do Ngân hàng nhà nước quy định. Việc thanh
toán giữa các bên phải được thực hiện trong vòng hai ngày làm việc tiếp theo
sau ngày cam kết mua bán.
- Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá giao dịch do tổ chức tín dụng yết
giá hoặc do hai bên tham gia giao dịch tự tính toán và thỏa thuận với nhau
nhưng phải đảm bảo trong biên độ quy định về tỷ giá kỳ hạn hiện hành của ngân
hàng nhà nước tại thời điểm ký hợp đồng.
Thường là giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận ngoại tệ được thực
hiện theo hợp đồng (1,3,6 tháng…)
- Tỷ giá mở cửa: Tỷ giá mua bán ngoại tệ của chuyến giao dịch đầu tiên
trong ngày.
- Tỷ giá đóng cửa: Tỷ giá mua bán ngoại tệ của hợp đồng ký kết cuối
cùng trong ngày.
* Căn cứ vào tiêu thức giá trị của tỷ giá:
- Tỷ giá danh nghĩa là tỷ giá được yết và có thể trao đổi giữa hai đồng
tiền mà không đề cập đến tương quan sức mua giữa chúng.
- Tỷ giá thực là tỷ giá đã được điều chỉnh theo sự thay đổi trong tương
quan giá cả của nước có đồng tiền yết giá và giá cả hàng hóa của nước có đồng
tiền định giá.
Er = En* Pb/ Pf
5
En: Tỷ giá hối đoái danh nghĩa.
Er:Tỷ giá hối đoái thực.
Pb: Giá cả ở nước có đồng tiền yết giá
Pf: Giá cả ở nước có đồng tiền định giá.
* Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá được phân thành
hai loại:
- Tỷ giá điện hối: là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện. Đây là tỷ giá cơ
sở để xác định các loại tỷ giá khác.
- Tỷ giá thư hối là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư.
* Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế, tỷ giá được chia ra làm
5 loại:
- Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ
- Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu trả
tiền ngay bằng ngoại tệ.
- Tỷ giá hối phiếu có kỳ hạn là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu có kỳ
hạn bằng ngoại
tệ.
- Tỷ giá chuyển khoản là tỷ giá mua bán ngoại hối bằng cách chuyển
khoản qua ngân hàng.
- Tỷ giá tiền mặt là tỷ giá mua bán ngoại hối được thanh toán bằng tiền
mặt.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá
1.1.3.1. Tình hình cán cân thanh toán quốc tế
Cán cân thanh toán của một quốc gia có thể rơi vào một trong ba trạng
thái sau: Cân bằng, thâm hụt hay thặng dư, ảnh hưởng trực tiếp hay nhạy bén
đến tỷ giá. Do vậy, nếu cán cân thanh toán quốc tế dương thì tỷ giá hối đoái có
chiều hướng giảm hoặc giữ vững. Ngược lại nếu BOP âm thì tỷ giá hối đoái có
xu hướng tăng.
6
1.1.3.2. Mức độ tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế
Mức độ tăng, giảm GDP thực tế của một nước so với nước khác, trong
điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, sẽ làm tăng hay giảm nhu cầu về
hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, do đó sẽ làm cho nhu cầu ngoại hối để thanh toán
hàng nhập khẩu sẽ tăng lên hay giảm xuống từ đó tác động đến cung cầu về
ngoại tệ từ đó làm cho tỷ giá hối đoái của đồng tiền trong nước so đồng tiền
nước ngoài giảm đi hoặc tăng lên.
1.1.3.3. Sự chênh lệch lạm phát của đồng tiền quốc gia
Khi tỷ lệ lạm phát ở một quốc gia tăng lên hay giảm xuống sẽ làm giá trị
của đồng tiền nước đó thay đổi dẫn tới tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước đó so
với nước ngoài bị biến động.
Nếu mức lạm phát của một nước này cao hơn mức lạm phát của nước
khác thì sức mua của nội tệ sẽ giảm so với ngoại tệ. Lạm phát cao càng kéo dài,
đồng tiền càng mất giá, sức mua của nó càng giảm nhanh,sức mua của tiền
trong nước giảm thì sức mua đối ngoại của nó cũng giảm làm cho tỷ giá hối
đoái tăng lên.
1.1.3.4. Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước
Ở thị trường nào có mức lãi suất ngắn hạn cao hơn thì những luồng vốn
ngắn hạn có xu hướng đổ về thị trường đó làm cho cung về ngoại tệ tăng lên,
cầu về ngoại tệ giảm do đó tỷ giá hối đoái có xu hướng giảm.
1.1.3.5. Các nhân tố có khả năng tác động cung cầu ngoại tệ khác
Một số nhân tố khác cũng có tác động gián tiếp đến tỷ giá thông qua cung
cầu ngoại tệ như: yếu tố chính trị, kinh tế xã hội, thiên tai chiến tranh, hoạt
động đầu cơ…
Ví dụ:
7
- Nếu có sự đình công, biểu tình thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ rút vốn
làm cho ngoại tệ trở nên khan hiếm làm cho cung ngoại tệ giảm do vậy tỷ giá
giảm.
- Hoạt động của những người đầu cơ ngoại tệ tác động mạnh đến tỷ giá
hối đoái.
Khi nhà đầu cơ dự đoán giá của một loại ngoại tệ nào đó sẽ lên, họ sẽ
dùng nội tệ để mua một số lượng lớn ngoại tệ, làm cho ngoại tệ này ở trên thị
trường trở nên khan hiếm, cung sẽ nhỏ hơn cầu về ngoại tệ đó dẫn đến giá của
loại ngoại tệ đó tăng do đó tỷ giá hối đoái tăng lên.
1.2.Khái niệm, đặc điểm của hoạt động xuất nhập khẩu
1.2.1.Khái niệm
Hoạt động xuất nhập khẩu là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước
thông qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã
hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về nền kinh tế giữa những người sản
xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia khác nhau trên thế giới.
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có một vị trí và vai trò vô cùng to
lớn trong quá trình phát riển kinh tế của mỗi quốc gia. Xuất khẩu là hoạt động
kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn và là phương tiện về thức đẩy nền kinh tế phát
triển. Nhập khẩu cho phép bổ sung những sản phẩm hàng hoá trong nước chưa
sản xuất được hoặc sản xuất không hiệu quả và đem lại lợi ích cho các bên tham
gia.
1.2.2. Đặc điểm
Xuất khẩu thể hiện sự kết hợp chặt chẽ và tối ưu các ngành khoa học
quản lý với các nghệ thuật kinh doanh, giữa nghệ thuật kinh doanh với các yếu
tố khác của mỗi quốc gia như yếu tố về pháp luật và các yếu tố về kinh tế văn
hoá. Hoạt động xuất khẩu nhằm khai thác lợi thế so sánh cho từng nước, khai
thác các nguồn lực cho phát triển, góp phần cải thiện đời sống nhân dân gia tang
tiến bộ xã hội và góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế thế giới và
8
quốc tế hoá. Lợi thế so sánh đó là các lợi thế về vị trí địa lý, về lao động, về tài
nguyên và sở hữu phát minh sang chế. Hiện nay hoạt động xuất khẩu của nước
ta một trong những mục tiêu cấp bách hàng đầu được chú trọng. Bởi nó đem lại
lợi ích vô cùng to lớn cho sự phát triển của nước tao, tạo sự thuận lợi cho giao
lưu quốc tế, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế văn hoá của mỗi quốc gia.
Nhập khẩu cũng là một hoạt động diễn ra giữa hai hay nhiều quốc gia
khác nhau ở trong các điều kiện môi trường và bối cảnh khác nhau. Nhập khẩu
tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất kinh tế, đời sống của mỗi
người trong mỗi một quốc gia. Nhập khẩu là để tăng cơ sở vật chất kỹ thuật,
công nghệ tiên tiến hiện đại cho sản xuất và các hàng hoá tiêu dùng mà trong
nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất không hiệu quả.
Mỗi một nước đều có một thế mạnh khác nhau, có thể tự sản xuất ra
nhiều loại hàng hoá khác nhau nhưng không thể không có sự trao đổi hàng hoá
với các quốc gia khác. Một quốc gia muốn phát triển được thì phải có một nền
kinh tế mở, thực hiện giao lưu trao đổi hàng hoá với các nước jkhác mà cụ thể ở
đây là phải thực hiện các hoạt động xuất nhập khẩu.
9
2. ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP
KHẨU
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Tác động của biến động tỷ giá lên hoạt động xuất khẩu
*Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên kim ngạch xuất khẩu:
Khi tỷ giá hối đoái giảm, giá đồng nội tệ tăng lên, lượng ngoại tệ thu về
từ hoạt động xuất khẩu sẽ giảm xuống, doanh thu từ hoạt động xuất khẩu tính ra
đồng nội tệ bị thu hẹp, xuất khẩu không được khuyến khích hay xu thế chung
thường gặp là một sự sút giảm trong hoạt động xuất khẩu.
Bên cạnh đó, khi tỷ giá hối đoái tăng, giá đồng nội tệ giảm xuống thì một
tương lai tươi sáng lại mở ra cho các nhà xuất khẩu, do lượng ngoại tệ thu về
đổi ra được nhiều ngoại tệ hơn, kim ngạch xuất khẩu tăng lên, kích thích hoạt
động xuất khẩu tăng trưởng và phát triển với điều kiện các chi phí đầu vào của
sản xuất hàng xuất khẩu không tăng lên tương ứng.
*Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên cơ cấu hàng xuất khẩu:
Đối với cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, các mặt hàng nông sản, thô sơ chế
dường như nhạy cảm hơn đối với mọi biến động tăng, giảm của tỷ giá hối đoái
so với các mặt hàng như máy móc, thiết bị toàn bộ, xăng dầu…Lý do được đưa
ra nhằm giải thích cho vấn đề này đó là độ co giãn của các mặt hàng nông sản,
thô sơ chế đối với giá xuất khẩu hoặc tỷ giá hối đoái áp dụng là rất cao, do đây
là các mặt hàng có thể thay thế được trong khi độ co giãn của các mặt hàng máy
móc, thiết bị toàn bộ, các mặt hàng không thể thay thế được như xăng, dầu … là
rất thấp. Tỷ giá hối đoái giảm đi khiến giá hàng xuất khẩu bị đắt tương đối, các
mặt hàng dễ bị thay thế là danh mục đầu tiên bị loại ra khỏi danh sách sử dụng
của người tiêu dùng ngoại quốc và các mặt hàng này cũng sẽ mất dần trong cơ
cấu các mặt hàng xuất khẩu. Trái lại, khi tỷ giá hối đoái tăng, cơ cấu mặt hàng
xuất khẩu có thể sẽ trở nên phong phú hơn do tính cạnh tranh về giá, sự tăng
doanh thu xuất khẩu khiến các nhà xuất khẩu đa dạng hóa mặt hàng…Đối với
10
các mặt hàng không thể thay thế như xăng dầu thì tỷ giá có tăng hay giảm cũng
hầu như không ảnh hưởng gì mấy đến cơ cấu cũng như tỷ trọng các mặt hàng
này.
*Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên tính cạnh tranh của xuất khẩu:
Đối với cạnh tranh về giá hàng xuất khẩu, một sự tăng lên của tỷ giá hối
đoái sẽ khiến hàng hóa xuất khẩu nước này trở nên cạnh tranh do giá cả rẻ hơn,
ngược lại nếu giá đồng nội tệ tăng tức tỷ giá hối đoái giảm sẽ khiến giá hàng
xuất khẩu trở nên đắt tương đối, tính cạnh tranh về giá giảm đi. Trong cùng một
thị trường tiêu thụ nếu chất lượng hàng hóa như nhau thì xu hướng chung,
người tiêu dùng sẽ sử dụng sản phẩm nào rẻ hơn. Và giả sử chi phí sản xuất tại
các quốc gia quy về cùng một đồng tiền là ngang nhau thì nước nào có mức
giảm tỷ giá đồng tiền nước mình so với giá nội tệ của thị trường tiêu thụ lớn hơn
thì tính cạnh tranh về giá của nước đó cao hơn, nước đó có cơ hội phát triển
xuất khẩu nhiều hơn.
Tóm lại, giá đồng nội tệ giảm có lợi cho xuất khẩu, giá đồng nội tệ tăng
ngược lại sẽ gây bất lợi. Xu hướng này hầu như đúng đối với các quốc gia thực
thi chế độ tỷ giá thả nổi hoặc thả nổi có quản lý, nơi tỷ giá danh nghĩa sát hoặc
tiến sát giá trị thực, còn đối với các quốc gia theo chế độ tỷ giá cố định, việc
giảm, tăng tỷ giá chính là giảm, tăng tỷ giá danh nghĩa, không phải tỷ giá thực,
do đó nếu một sự tăng tỷ giá hối đoái mà vẫn khiến tỷ giá danh nghĩa thấp hơn
tỷ giá thực thì đồng nội tệ vẫn bị xem là định giá cao hơn giá trị thực, tác dụng
thúc đẩy xuất khẩu sẽ không nhiều.
2.1.2. Tác động của tỷ giá hối đoái lên hoạt động nhập khẩu
*Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên kim ngạch nhập khẩu:
Trên phương diện kim ngạch nhập khẩu, xu hướng chung thường thấy là
khi giá đồng nội tệ tăng hay tỷ giá hối đoái giảm, nhập khẩu sẽ được khuyến
khích do giá nhập khẩu trở nên rẻ tương đối, chi phí nhập khẩu giảm, lượng
11
nhập khẩu tăng lên dẫn đến sự tăng lên trong kim ngạch nhập khẩu. Bên cạnh
đó, khi tỷ giá hối đoái tăng (đồng nội tệ giảm giá) sẽ gây bất lợi cho nhập khẩu,
giá nhập khẩu trở nên đắt hơn, việc các nhà nhập khẩu phải bỏ nhiều tiền hơn để
mua một lượng ngoại tệ như cũ sẽ dẫn đến việc giảm lợi nhuận các nhà nhập
khẩu. Một khi lợi nhuận không đủ bù đắp chi phí, cầu nhập khẩu giảm xuống,
do đó kim ngạch nhập khẩu giảm.
*Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên cơ cấu nhập khẩu:
Trên phương diện cơ cấu nhập khẩu, một sự tăng tỷ giá hối đoái sẽ khiến
các nhà quản lý cân nhắc xem sẽ phải nhập khẩu những mặt hàng gì, những
mặt hàng như nông sản có thể sẽ bị hạn chế, các mặt hàng như xăng, dầu, máy
móc, thiết bị toàn bộ có thể sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục nhập khẩu
(điều này đặc biệt đúng với các nước đang phát triển hướng về xuất khẩu), còn
một sự tăng trong tỷ giá hối đoái sẽ cho chiều hướng ngược lại.
*Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên tính cạnh tranh của hàng nhập
khẩu:
Xét về tính cạnh tranh nhập khẩu, không một quốc gia nào muốn sản
phẩm nhập khẩu lại có tính cạnh tranh cao hơn sản phẩm trong nước, khi tỷ giá
tăng lên, sản phẩm nhập khẩu có lợi thế trong khi sản phẩm trong nước lại bất
lợi về giá, khi tỷ giá giảm, cạnh tranh về giá của sản phẩm nhập khẩu không
còn, việc tỷ giá giảm tương đương với việc đánh thuế lên hàng nhập khẩu do đó
hàng nhập khẩu trở nên đắt hơn, nếu tình trạng này kéo dài, hàng hóa nhập khẩu
từ thị trường này có thể được thay thế bằng hàng hóa thị trường khác hoặc sản
phẩm trong nước.
2.1.3.Tuyến J trong ngắn hạn và dài hạn
Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng, theo lý thuyết người tiêu dùng sẽ
chuyển sang dùng hàng hóa thay thế trong nước.Tuy nhiên việc điều chỉnh ưu
12
tiên hàng thay thế cần phải mất một thời gian nhất định. Do đó có thể nói rằng
cầu trong ngắn hạn có độ co giãn thấp hơn so với cầu trong dài hạn. Vì vậy sau
khi đồng nội tệ giảm giá, giá hàng hóa nhập khẩu sẽ tăng nhưng người tiêu dùng
trong nước vẫn tiếp tục mua hàng nhập khẩu với hai lý do sau:
- Người tiêu dùng vẫn chưa điều chỉnh ngay việc ưu tiên mua hàng nội
địa thay vì mua hàng nhập khẩu (cầu nhập khẩu không co giãn).
- Các nhà sản xuất trong nước cần phải có một thời gian nhất định đểsản
xuất được hàng có thể thay thế hàng nhập khẩu (cung không co giãn).
Như vậy chỉ sau khi những nhà sản xuất trong nước thực sự cung cấp
hàng thay thế nhập khẩu và người tiêu dùng ưu tiên dùng hàng nội thay vì dùng
hàng ngoại thì cầu về hàng hoá nhập khẩu mới giảm.
Tương tự như vậy, sau khi đồng nội tệ giảm giá, việc mở rộng xuất khẩu
chỉ trở thành hiện thực khi các nhà sản xuất đã sản xuất được nhiều hàng hóa
hơn để xuất khẩu và người tiêu dùng nước ngoài đã thực sự chuyển hướng ưu
tiên mua hàng hoá của nước này.
*Tuyến J
Hiệu ứng tuyến J trong trường hợp đồng tiền của 1 nước giảm giá đối
với cán cân thương mại của nước đó: Theo thời gian, cán cân thương mại có
hình dáng như chữ J nếu độ co giãn của cầu nhập khẩu và cung xuất khẩu nhỏ
hơn trong thời gian ngắn hạn so với thời gian dài hạn.
Vì cầu nhập khẩu và cung về xuất khẩu có độ giãn trong ngắn hạn thấp
hơn so với dài hạn, nên khi đồng nội tệ giảm giá thì cán cân thương mại trở nên
xấu đi trong ngắn hạn, nhưng sau đó sẽ được cải thiện. Theo thời gian, sự thay
đổi của cán cân thương mại được mô tả như hình a.
13
Hình này nói lên, đồng tiền giảm giá tại thời điểm 0, và sau do người
tiêu dùng tạm thời chi tiêu nhiều hơn cho hàng nhập khẩu, xuất khẩu cũng tăng
nhưng chỉ bù đắp phần chi tiêu phụ trội cho nhập khẩu, do đó cán cân thương
mại trở nên xấu hơn ngay sau khi đồng nội tệ giảm giá. Sau một thời gian, khi
nhập khẩu và xuất khẩu co giãn, thì cán cân thương mại dần dần được cải thiện
và cuối cùng là tăng lên. Điều này được mô tả bằng tuyến J trên hình a và còn
được gọi là hiệu ứng tuyến J.
Hình b diễn tả những gì xảy ra trong trường hợp khi động nội tệ lên giá
so với những ngoại tệ khác. Sau khi đồng nội tệ tăng giá tại thời điểm 0, giá
14
hàng hoá nhập khẩu giảm, nên chi tiêu để mua hàng nhập khẩu giảm. Nếu giá trị
xuất khẩu giảm ít hơn so với giá trị nhập khẩu, thì cán cân thương mại trở nên
tốt hơn, đây cũng là điều thường được dự tính trong thực tế sau khi đồng tiền
lên giá.Tuy nhiên, sau một thời gian nhất định, xuất khẩu và nhập khẩu trở nên
co giãn hơn, dẫn đến tốc độ tăng giá trị nhập khẩu nhanh hơn tốc độ giảm giá và
xuất khẩu giảm đủ để cho cán cân thương mại trở nên xấu đi. Chúng ta thấy
rằng tuyến J trong trường hợp đồng nội tệ lên giá, như hình b và ngược lại với
tuyến J trên hình a trong trường hợp đồng nội tệ giảm giá. Qua phân tích trên ta
thấy rằng tuyến J xuất hiện đồng thời: tỷ giá không bình ổn và cán cân thương
mại tạm thời trở nên xấu đi hay tốt lên hơn sau khi đồng tiền giảm giá hoặc lên
giá.
Tóm lại, tác động của tỷ giá với hoạt động xuất nhập khẩu thường có
những hiệu ứng tích cực nhanh chóng trong điều kiện nền kinh tế thị trường
phát triển tương đối cao, đồng bộ, nguyên tắc thị trường được đảm bảo, không
có sự can thiệp của nhà nước vào quá trình xuất nhập khẩu.
Trong điều kiện Việt Nam ảnh hưởng của việc tăng giảm tỷ giá
USD/VND chưa thể so sánh với ảnh hưởng của sự biến động của tỷ giá hối đoái
tới hoạt động xuất nhập khẩu của một số cặp tỷ giá như USD/JPY, USD/NDT
vì điều kiện thị trường chưa cao, vì chính sách can thiệp bảo hộ sản xuất, vì
năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, đặc biệt vì năng lực sản xuất hàng
hoá xuất khẩu của Việt Nam khác xa so với điều kiện của Mỹ, Nhật do đó chính
sách tỷ giá của Việt Nam thường bị động, không phát huy hết tác dụng như
mong muốn.
2.2. Thực trạng tại Việt Nam từ năm 1989 đến nay
2.2.1. Giai đoạn 1989-1992
15
Chỉ thị 271-CT ban hành tháng 10/1988 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
với nội dung xác lập một mức tỷ giá đồng Việt Nam đối với khu vực ngoại tệ
chuyển đổi phù hợp với mức tỷ giá thị trường trong biên độ dao động 10-20%
chính là biện pháp đầu tiên trong việc thực hiện chính sách đổi mới tỷ giá của
Chính phủ. Tháng 3/1989, Nhà nước bãi bỏ hệ thống tỷ giá kết toán nội bộ, tiến
tới thực hiện thống nhất một mức tỷ giá duy nhất cho toàn bộ hoạt động của nền
kinh tế - tỷ giá chính thức. Từ đó, động lực phát triển ngoại thương được khôi
phục, kinh tế Việt Nam cũng như hoạt động xuất nhập khẩu có cơ hội phát triển
mạnh.
Thật vậy, tỷ giá hối đoái cũng đã thể hiện vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy hoạt động ngoại thương trên tất cả các phương diện từ kim ngạch cho
đến cơ cấu, thị trường xuất nhập khẩu.
Bảng 1: Tỷ giá hối đoái và xuất nhập khẩu giai đoạn 1986-1992
Năm
Tỷ giá chính thức (USD/VND)
Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mạiTỷ giá thị trường
(USD/VND)
Mức tỷ giá
(đồng)
%Tăng, giảm
Kim ngạch (triệu USD)
% Tăng, giảm
Kim ngạch (triệu USD)
% Tăng, giảm
Giá trị (triệu USD)
% Tăng, giảm
Mức tỷ giá
(đồng)
% Tăng, giảm
1986 80 100 789,1 100 2155,1 100 -1366 100 425 369,56
1987 368 460 854,2 108,25 2455,1 113,92 -1600,9 117,20 1270 298,82
1988 3000 815,21 1038,4 121,56 2756,7 112,29 -1718,3 107,33 5000 393,70
1989 3900 130 1320 127,12 2565,8 93,08 -1245,8 72,50 4100 82
1990 6300 161,54 2404 182,12 2752,4 107,27 -348,4 27,96 6500 158,54
1991 9767 155,03 2087,1 86,82 2338.4 84,96 -251,3 72,13 11975 184,23
1992 10720 109,75 2580,7 123,65 2540,7 108,65 40 -15,92 10550 88,1
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu Tổng Cục Thống Kê
16
Bảng 1 cho thấy giá trị danh nghĩa đồng Việt Nam sụt giảm mạnh và liên
tiếp trong suốt giai đoạn 89-92. Từ mức tỷ giá 1USD = 3000VND năm 1989,
đồng VND đã giảm xuống 10720 đồng/đôla năm 1992. Trong vòng 3 năm, tỷ
giá đã sụt giảm gần 4 lần. Sự sụt giảm này đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động
ngoại thương Việt Nam, đặc biệt là trên phương diện kim ngạch xuất-nhập khẩu
trong quan hệ buôn bán với các quốc gia.
Ta có thể nhận thấy trước thời điểm 1989, khi Nhà nước càng cố gắng hạ
giá đồng nội tệ thì nhập siêu lại càng lớn. Nếu nhập siêu năm 1987 khoảng 1,6
tỷ thì sang năm 1988, khi tỷ giá bị hạ xuống thấp hơn so với năm trước đó 8 lần
thì nhập siêu lại lên đến hơn 1,7 tỷ. Điều này cho thấy việc hạ giá đồng Việt
Nam trong bối cảnh vẫn áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ không kích thích được
ngoại thương mà còn làm cho nhập siêu trầm trọng hơn.
Trong thời kỳ 86-89, tổng độ co giãn xuất nhập khẩu chỉ đạt 0,003 (giai
đoạn 89-92, chỉ số này đạt 0,46), điều đó thể hiện rằng nền kinh tế tăng trưởng
không bền vững. Trung bình giá đồng nội tệ giảm 1 đồng thì xuất khẩu chỉ tăng
có 0,195 đồng và nhập khẩu giảm 0,192 đồng. Nhưng do lượng hàng xuất khẩu
luôn nhỏ hơn lượng hàng nhập khẩu nên tình trạng kim ngạch nhập khẩu lớn
gấp hai, ba lần kim ngạch xuất khẩu diễn ra liên tục trong 3 năm 1986-1989.
Nguyên nhân chính là trong khi sản xuất hàng xuất khẩu sụt giảm, động lực
xuất khẩu bị thủ tiêu do tính cứng nhắc của tỷ giá, thì nhập khẩu lại tăng lên để
phục vụ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, nhu cầu mà sản xuất trong nước chưa thể
đáp ứng nổi.
Năm 1989, sau khi xóa bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, thực hiện thống nhất tỷ
giá, lĩnh vực ngoại thương nhanh chóng có chuyển biến rõ nét. Mặc dù mức giá
đồng ngoại tệ chỉ tăng 30% ( ít hơn so với giai đoạn trước đó) song nhập khẩu
đã giảm xuống chỉ bằng 93% so với năm trước, xuất khẩu được kích thích tăng
trưởng nên kim ngạch đã đạt được 1,3 tỷ đô la, thu hẹp khoảng cách nhập siêu
xuống còn 1,2 tỷ đô la (so với mức 1,7 tỷ đô la năm 1988).
17
Mặt khác, do tỷ giá chính thức được điều chỉnh sát với tỷ giá thị trường,
hình thành theo quy luật cung cầu nên tác động của tỷ giá đến hoạt động thương
mại- xuất nhập khẩu trở nên rõ ràng hơn. Giá đồng nội tệ giảm xuống thực sự
kích thích tăng trưởng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Năm 1989 nếu tỷ giá giảm
1 đồng, xuất khẩu lập tức tăng lên 0,97 đồng, thì bước sang năm 1990 sau khi
giảm tỷ giá xuống trên 60% thì 1 đồng giảm của tỷ giá lại khiến xuất khẩu tăng
những 1,13 đồng, một mức tăng khá lớn, ta thấy được xuất khẩu co giãn hoàn
toàn với tỷ giá do đó có tác động tích cực lên hoạt động xuất khẩu. Trong bốn
năm 1989-1992 tác động của tỷ giá đến hoạt động nhập khẩu thể hiện qua thực
trạng: mức giảm giá đồng nội tệ càng lớn thì mức tăng nhập khẩu càng giảm.
Như năm 1989, mức giảm giá 30%, trong đó 1 đồng giảm giá kéo theo mức
tăng 0,71 đồng thì bước sang năm 1990, tỷ giá giảm đến 60% đã lập tức giảm
mức tăng nhập khẩu xuống còn 0,66 đồng.
Đặc biệt, sự kiện tỷ giá danh nghĩa giảm thấp hơn 7,04% so với tỷ giá thị
trường cuối năm 1991 cùng với quyết định bãi bỏ “tỷ giá nhóm hàng” trong
thanh toán ngoại thương năm 1992 đã khiến ngoại thương Việt Nam xuất siêu
liên tục trong 6 tháng đầu năm 1992. Vào cuối năm 1992, cán cân thương mại
thặng dư 40 triệu đô la. Nguyên nhân xuất siêu chính là do tỷ giá năm 1992 bởi
tại thời điểm 92 giá thành sản xuất hàng Việt Nam còn cao, chất lượng còn thấp,
công tác xúc tiến thương mại cũng chưa được coi trọng và cạnh tranh về giá
được xem là yếu tố duy nhất đưa ngoại thương Việt Nam đạt thành tích trên.
Nếu đầu năm 1991, buôn lậu qua biên giới Việt Nam -Trung Quốc tăng mạnh
do hàng hóa của Trung Quốc được duy trì ở mức giá thấp hơn nhiều so với mức
giá hàng hóa của nước ta thì cuối năm 1991, khi đồng Việt Nam bị phá giá
mạnh so với đô la 50% từ khoảng 7000VND/đô la xuống 14500 VND/đô la thì
tỷ giá đồng Việt Nam so với nhân dân tệ của Trung Quốc cũng bị sụt giảm
mạnh. So với năm 1991, đồng nhân dân tệ đã tăng giá 50%, mức tăng giá này đã
kéo theo tình trạng hàng hóa Trung Quốc bị tăng cao, gặp khó khăn trong tiêu
18
thụ trên thị trường Việt Nam. Nhiều mặt hàng Việt Nam có cơ hội cạnh tranh
với giá thấp hơn các sản phẩm nội địa trên thị trường Trung Quốc.
Về tác động của tỷ giá lên cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu giai đoạn
1989-1992, cùng với sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trên cơ sở giảm giá
VND, nền kinh tế đã tích lũy được một số vốn sử dụng trong việc đầu tư, mở
rộng sản xuất. Sản xuất lương thực trong nước đối với một số mặt hàng nhờ có
vốn đã bắt đầu đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Số lượng gạo nhập
khẩu giảm, thay vào đó là các mặt hàng thuộc danh mục tư liệu sản xuất,
nguyên nhiên vật liệu. Cơ cấu xuất khẩu cũng có sự thay đổi, danh mục các mặt
hàng xuất khẩu được mở rộng. Năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô
với sản lượng 1,5 triệu tấn, đó là chưa kể đến hàng loạt các nhà máy cũ được
đổi mới, các nhà máy mới được xây dựng nhằm phục vụ công tác xuất khẩu.
Ngoại thương được đa dạng hóa ở mức cao, tạo ra được gần 10 mặt hàng chủ
lực có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD.
Đối với thị trường xuất nhập khẩu, do tỷ giá hối đoái neo với đồng đô la
được xem là chuẩn mực nên khu vực thị trường xuất nhập khẩu cũng có xu thế
chuyển hướng sang những khu vực sử dụng đồng đô la trong thanh toán. Tỷ
trọng xuất nhập khẩu từ khu vực đồng Rúp giảm hẳn, chỉ còn khoảng 15% năm
1989 so với 85% năm 1987. Thị trường Đông Âu không còn giữ vai trò chủ
đạo, mà thị trường Châu Á dần được coi trọng hơn trong hợp tác thương mại
với Việt Nam trên lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Chúng ta có thể nhận thấy rằng việc xóa bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, thống
nhất tỷ giá, đưa tỷ giá chính thức tiến gần tỷ giá thị trường nhằm đạt được mức
tỷ giá hợp lý những năm cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 thế kỷ trước là
một chủ trương đúng đắn. Chủ trương này đã có ảnh hưởng tích cực đến hoạt
động nhập khẩu, giúp cải thiện cán cân thương mại và đặc biệt tạo điều kiện cho
nền kinh tế Việt Nam trong phát triển kinh tế thông qua xuất khẩu.
2.2.2. Giai đoạn 1993-1996
19
Tình hình xuất siêu năm 1992 kéo dài không lâu. Ngay trong năm 1992,
trong khi 6 tháng đầu năm xuất siêu do tỷ giá diễn biến có lợi cho xuất khẩu thì
6 tháng cuối năm, nhập siêu liên tục diễn ra. Trong khi báo chí ra sức cảnh báo
việc tăng giá nội tệ sẽ hủy hoại xuất khẩu thì tỷ giá lại tiếp tục bị điều chỉnh
theo hướng lên giá và ngày càng lệch xa khỏi trục tỷ giá thực.
Bên cạnh đó, nguyên nhân chính của việc chỉ đạo lên giá nội tệ lại được
cho rằng là tình trạng lạm phát cao đang diễn ra, do đó cần nâng tỷ giá hối đoái
để tăng cường tiêu dùng, giảm tỷ lệ lạm phát. Sau đó mức lạm phát đã giảm từ
17,5% năm 1992 xuống còn 5,2% năm 1993. Thế nhưng khi lạm phát tăng đột
biến từ 5,2% năm 1993 lên 14,4% năm 1994 thì ảnh hưởng của việc nâng giá
tiền tệ lại không được coi trọng. Tuy nhiên động lực làm giảm lạm phát trong
thời kỳ này không phải là nâng giá tiền tệ mà do độ trễ trong xuất siêu 1992.
Chính việc sự kiện phá giá giai đoạn 89-91 đã thúc đẩy xuất khẩu, một lượng
ngoại tệ lớn được thu hút vào nước ta đã nâng sức mua thực tế của đồng Việt
Nam cao hơn, từ đó lạm phát giảm xuống. Quan điểm chỉ đạo nâng giá nội tệ
trong bối cảnh kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, khi chiến lược hướng về xuất
khẩu vừa được thực hiên thực sự là vấn đề đối với hoạt động ngoại thương Việt
Nam giai đoạn này.
Đồ thị 1: Diễn biến tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực (USD/VND) 1993-1999
0
5000
10000
15000
20000
1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
Năm
Đồng
Tỷ giá danh nghĩa Tỷ giá thực
Nguồn: Vụ ngoại hối, NHNN
20
Trong suốt thời kỳ 93-96, tỷ giá danh nghĩa (USD/VND) liên tục ở mức
cao tương đối so với tỷ giá thực. Trong khi tỷ giá thực giảm đáng kể thì tỷ giá
danh nghĩa hầu như không đổi. Có thể thấy rõ điều này trong biểu đồ 5, khoảng
cách giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa ngày càng lớn dần, năm có độ khoảng
cách lớn nhất chính là 1996, đây cũng là năm tổng kim ngạch nhập khẩu tăng
đột biến do nhập siêu đạt mức kỷ lục. Trên góc độ tài chính-tiền tệ, cách điều
hành tỷ giá trong giai đoạn đầu thập niên 90 còn mang nặng tính chủ quan, việc
ấn định tỷ giá còn quá đơn giản, không gần với thực tế bởi ngân hàng trung
ương đã coi việc giảm tỷ giá danh nghĩa là phá giá đồng tiền mà không tính đến
tương quan chỉ số giá tiêu dùng cũng như mức lạm phát giữa Việt Nam với các
quốc gia khác. Năm 1994, tỷ lệ lạm phát nội tệ 14,4% và USD 3% tức USD
tăng giá 11,4% so với VND song ngân hàng trung ương chỉ chỉ đạo tăng giá
1,8%. Việc giảm 1,8% được giải thích là đã phá giá nhẹ đồng nội tệ, làm sai
lệch cơ chế điều hành tỷ giá vốn dựa trên qui luật thị trường và tiếp tục ảnh
hưởng xấu đến hoạt động thương mại.
Những năm 90, có ý kiến cho rẳng tỷ giá không hề ảnh hưởng gì đến hoạt
động xuất-nhập khẩu nói riêng cũng như ngoại thương nói chung, rằng hoạt
động này chịu sự chi phối hoàn toàn của các chiến lược phát triển ngoại thương,
cách quản lý hạn ngạch, cách áp đặt thuế suất và nhất là chất lượng sản phẩm.
Nhưng thực tế cho thấy trong khi Bộ Thương Mại cùng các cơ quan chức năng
đang ra sức củng cố, mở rộng thị trường xuất khẩu, đầu tư mới dây chuyền-công
nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản xuất hàng xuất khẩu thì mức tăng kim
ngạch xuất khẩu lại sụt giảm. Cán cân thương mại thâm hụt nghiêm trọng, từ 1
tỷ năm 1994, rồi trên 2 tỷ năm 1995 và gần 4 tỷ năm 1996. Ngoại thương Việt
Nam phát triển chậm trong giai đoạn này với thâm hụt cán cân lên đến hàng tỷ
USD.
21
Bảng 3: Xuất-nhập khẩu Việt Nam trong tương quan với tỷ giá 1993-1999
Năm
Tỷ giá chính thức (USD/VND)
Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại Hệ số co giãn
Mức tỷ giá
%Tăng, giảm
Kim ngạch (triệu USD)
% Tăng, giảm
Kim ngạch (triệu USD)
% Tăng, giảm
Thâm hụt (triệu USD)
% Tăng, giảm
Xuất khẩu (ηx)
Nhập khẩu (ηn)
1993 10640 100 2985,2 100 3924 100 938,8 100
1994 10955 102,9 4054,3 135,8 5825,8 148,5 1771,5 143,7 1,32 -1,44
1995 10970 100,1 5448,9 134,4 8155,4 140 2706,5 149,7 1,34 -1,40
1996 11100 101,2 7255,9 133,2 11143,6 136,6 3887,7 153,6 1,32 -1,35
1997 11175 100,7 9185 126,6 11592,3 104 2407,3 126,2 1,26 -1,03
1998 12985 116,2 9360 101,9 11499,6 99,2 2139,6 122.9 0,88 -0,85
1999 14004 107.848 11541.4 123.306 11742.1 102.109 200.7 101,7 1,14 -0,94
Nguồn: Tính toán theo số liệu WB, Tổng Cục thống kê, Vụ ngoại hối-Ngân hàng nhà nước.
Với các số liệu tính toán từ bảng 3 trên đây, việc tỷ giá dao động với biên
độ +/- 0,5% trong giai đoạn 93-96 đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
nhập khẩu. Nhập siêu tăng gần gấp đôi trong năm 93, 94. Đặc biệt năm 1996,
khi tỷ giá danh nghĩa bị ấn định so với tỷ giá thực ở mức cao nhất 28% thì nhập
siêu cũng đạt mức kỷ lục: 3,8 tỷ đô la. Trung bình giai đoạn 94-96, cứ 1 đồng
tăng giá nội tệ kéo theo hàng nhập khẩu rẻ đi 1,4 đồng trong khi xuất khẩu sụt
giảm 1,3 đồng. Điều này cho thấy tác động của tỷ giá hối đoái lên ngoại thương
Việt Nam trong bối cảnh tỷ giá hối đoái nội tệ bị ấn định cao hơn so với giá trị
thực vận động theo xu thế lí luận chung. Tỷ giá tăng đã kéo lùi tốc độ tăng xuất
khẩu, đẩy nhanh tốc độ nhập siêu và gây thiệt hại đến sản xuất trong nước.
Đối với cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu, việc tỷ giá lên cao tạo điều kiện
thuận lợi cho các mặt hàng nhập khẩu hơn. Tỷ giá danh nghĩa được định cao
hơn tỷ giá thực bao nhiêu thì giá hàng nhập khẩu cũng được rẻ đi bấy nhiêu.
Trước tình trạng hàng trong nước cạnh tranh không nổi, năm 1994, nhà nước
phải có chính sách cấm nhập khẩu 17 mặt hàng nhằm bảo vệ sản xuất trong
22
nước. Ví như giá đường trong nước năm 1993 nếu qui đổi ra USD là 544
USD/tấn trong khi giá đường nhập khẩu chỉ có 400USD/tấn thì cấm nhập khẩu
đường là tất yếu. Thời điểm này,hàng hóa xuất khẩu lại gặp bất lợi . Trong 3
năm 1993-1995, nếu lấy năm 1992 làm mốc thì đồng Việt Nam đã lên giá 24%
và giá hàng xuất khẩu đã bị đẩy đắt lên 24% trên các thị trường ngoại quốc. Nếu
một đô la xuất khẩu gạo trả theo tỷ giá thực năm 1995 là 13.992 (hay chỉ 12.000
theo cách xóa dần tình trạng lên giá đồng nội tệ) thì nông dân sản xuất hàng
xuất khẩu cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ không bị lỗ đến hơn 1000
đồng/đôla. Giá tơ tằm xuất khẩu quy theo USD giai đoạn 93-96 tăng từ 18 USD
lên 26 USD/kg làm sao có thể địch nổi giá tơ 21 USD/kg của Trung Quốc.
Ngoài ra, việc đồng Việt Nam tăng giá so với đồng đô la cũng góp phần
khiến đồng Việt Nam tăng giá so với các đồng tiền khác như Nhân dân tệ, Yên
Nhật...Điều này cũng khiến việcmở rộng thị trường trở nên khó khăn. Tuy nhiên
do việc giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại thị trường nước ngoài bắt đầu được
thực hiện mạnh mẽ nên qui mô thị trường ngày càng được mở rộng. Ta nhận
thấy thời kỳ này tỷ giá không ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất-nhập khẩu
2.2.3. Giai đoạn 1997-1999
Giai đoạn 1997-1999 là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam chịu những tác
động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Đồng USD lên giá
mạnh so với tất cả các đồng tiền trong khu vực Đông Nam Á. Trong tình hình
đó, ngân hàng Trung Ương đã tiến hành điều chỉnh tỷ giá đồng Việt Nam: tăng
biên độ tỷ giá giao dịch lên +/-0,5% rồi +/-10%, đồng thời giảm giá đồng tiền
Việt Nam nhằm tạo một mức tỷ giá mới sát với mức tỷ giá thực tế.
Tác động từ chính sách tỷ giá:
Chính sách tỷ giá mới đã khiến cho đồng Việt Nam giảm giá 16% chỉ
trong vòng một năm, khoảng cách giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa cũng
được thu hẹp. Điều này đã đem lại những tác động tích cực cho cán cân thương
mại Việt Nam: kim ngạch nhập khẩu tăng chậm, mức nhập siêu giảm xuống còn
23
2,4 tỷ USD (giảm 36,8% so với năm trước). Đặc biệt trong năm 1999 mức nhập
siêu chỉ còn 200 triệu USD.
Mặc dù vậy, đồng Việt Nam vẫn còn bị định giá cao so với các nước
trong khu vực,khiến cho giá hàng hoá Việt Nam tăng cao. Hàng hoá Việt Nam
khó có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực nên hoạt động xuất khẩu
phần nào bị hạn chế (tốc độ tăng xuất khẩu ở mức tương đối thấp: 1,9% trong
năm 1998).
Bên cạnh đó, việc đồng Việt Nam bị định giá cao trong khu vực cũng
khiến cho cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam chuyển dịch từ khối
ASEAN sang thị trường châu Âu.Cuộc khủng hoảng kinh tế khiến cho các quốc
gia châu Á phải hạn chế nhập khẩu để dữ trữ ngoại tệ cũng là một phần nguyên
nhân của hiện tượng này.
Nói tóm lại, trong giai đoạn này, việc điều chỉnh tỷ giá ở Việt Nam đã
mang lại những kết quả hết sức tích cực: kiểm soát được nhập khẩu đồng thời
mở ra những cơ hội mới khi thay đổi thị trường xuất khẩu. Có thể nói đây là
một giai đoạn thành công trong điều hành tỷ giá ở Việt Nam.
2.2.4. Giai đoạn 2000-2006
Giai đoạn này được đánh dấu bằng việc đồng EUR được lưu hành thống
nhất trên tất cả các quốc gia EU và trờ thành đối thủ nặng ký của USD. Trong
bối cảnh này, Việt Nam đã áp dụng cơ chế neo tỷ giá có điều chỉnh, đồng thời tỷ
giá Việt Nam được gắn với một “rổ tiền tệ” trong đó tỷ trọng của EUR được
nâng lên.
Trong giai đoạn này, biên độ tỷ giá được nới rộng từ +/-0,1% lên +/-
0,25% đối với nghiệp vụ giao ngay và từ +/-0,4% lên +/0,5% đối với nghiệp vụ
kì hạn ngày 1/7/2002.Tỷ giá nội tệ bị ép cao hơn giá trị thực khiến đồng Việt
Nam bị định giá cao hơn USD từ 10-20%.
24
Tác động của chính sách tỷ giá:
Xuất khẩu Việt Nam thời kỳ này gặp nhiều khó khăn do không cạnh tranh
được với hàng hoá Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu tăng chậm (thấp nhất là
hơn 3% năm 2001), đồng thời tốc độ tăng xuất khẩu luôn nhỏ hơn tốc độ tăng
nhập khẩu, dẫn đến tình trạng nhập siêu ở mức cao: đến tháng 10/2003, mức
nhập siêu là 4,55 tỷ USD. Bên cạnh đó, việc định giá cao đồng Việt Nam cũng
dẫn đến tình trạng nhập khẩu hàng loạt, kể cả những mặt hàng trong nước có thể
sản xuất được do mức giá nhập khẩu rẻ hơn mức giá hàng hoá trong nước.
Việc đồng Việt Nam lên giá cùng với những biến động bất thường về tỷ
giá của USD, EUR… đã gây tổn hại lớn cho các dónh nghiệp xuất nhập
khẩu.Thời kỳ này có nhiều ngoại tệ mạnh khác nhau được khuyến khích trong
thanh toán, do đó rủi ro tỷ giá càng lớn hơn.Ví dụ như tháng 9/2002, đồng EUR
mất giá mạnh từ 0,94USD xuống còn 0,84USD để làm cho các doanh nghiệp
xuất khẩu chịu thiệt hại một khoản 0,1EUR/USD. Trong vòng 2 tháng từ tháng
1/2003 đến tháng 3/2003, đồng EUR đột ngột tăng giá so với USD khiến cho
chi phí nhập khẩu phát sinh cao, điển hình là công ty giày da thời trang T&T đã
phải trả thêm 700 triệu đồng để mua 700.000EUR thanh toán cho việc nhập
khẩu thiết bị sản xuất. Trong khi đó tại thị trường Mỹ, việc đồng Việt Nam bị
định giá cao hơn 20% giá trị thực so với giá USD cũng làm cho các doanh
nghiệp xuất khẩu phải chịu tổn thất lớn.
Nói tóm lại, trong thời gian này, mặc dù trên danh nghĩa Việt Nam áp đặt
cơ chế tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của nhà nước nhưng trên thực tế đồng Việt
Nam bị neo giữ một cách cứng nhắc gây ra những tổn thất trong kim ngạch xuất
nhập khẩu của Việt Nam.
2.2.5. Giai đoạn 2007-nay
Năm 2007, chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá theo hướng
khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Tuy nhiên, trong bối cảnh đồng
25
USD đang giảm giá so với các ngoại tệ mạnh và các dòng vốn lớn đang vào
Việt Nam làm phức tạp thêm nỗ lực ngăn cản VND lên giá.
So với cuối năm 2007, tỷ giá USD/VND năm 2008 đã tăng khoảng 9%,
vượt xa mức thay đổi quanh 1% những năm gần đây, trong khi đồng USD vẫn
chiếm tỷ trọng chi phối trong thanh toán quốc tế (khoảng 70%).Mức tăng vượt
trội này đẩy chi phí nhập khẩu, chi phí sản xuất kinh doanh của những ngành
hàng có đầu vào lớn từ nguyên liệu nhập khẩu, chi phí vay nợ ngoại tệ tăng cao.
Đây cũng là năm nổi bật khi trong báo cáo tài chính của nhiều doanh nghiệp chi
phí của tỷ giá tăng đột biến.
Biến động khó lường của tỷ giá còn thể hiện ở sự trái chiều trong nửa đầu
năm 2008 (giảm mạnh những tháng đầu năm, tăng đột biến ngay sau đó), gây
xáo trộn kế hoạch sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp.5 tháng đầu năm
2008, nhập siêu đạt mức quá cao (14,4 tỷ USD), cao hơn mức nhập siêu cả năm
2007 (14 tỷ USD).Nửa đầu năm 2008 lạm phát và nhập siêu gia tăng đã khiến
nhiều người dân và doanh nghiệp chuyển tài sản từ VND sang USD. Tỷ giá hối
đoái trên thị trường tự do có lúc đã lên đến mức 19.000 VND/USD, thậm chí
20.000VNĐ, trong khi đó giá USD trong các ngân hàng thương mại vẫn là trong
khoảng 16.000 – 17.000 VND.
Trên thực tế, có doanh nghiệp nhập khẩu đầu tháng vay USD của ngân
hàng để nhập nguyên liệu được tính tỷ giá 16.243 đồng/USD, cuối tháng, doanh
nghiệp mua USD để trả nợ vay chỉ với tỷ giá 16.015 đồng/USD, nhờ tỷ giá
giảm doanh nghiệp được lãi. Trong khi đó, có doanh nghiệp xuất khẩu thu về
100.000 USD, nếu doanh nghiệp thu tiền xuất khẩu trong tháng 8/2007 thì sẽ
được chuyển ra VND với tỷ giá 16.245 đồng/USD, nhưng xuất khẩu tại thời
điểm tháng 1/2008 thì chỉ còn 15.599 đồng/USD, doanh nghiệp sẽ thất thu 26
triệu đồng.
Với sự biến động mạnh mẽ của tỷ giá trong năm 2008 đã ảnh hưởng rất
lớn đối với nền kinh tế, trước nhất là hoạt động xuất nhập khẩu
26
Bảng 4: Tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam từ năm 2007-2009
(Nguồn: Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB)
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá trong năm 2008 đạt 143,4 tỷ
USD, tăng 28,9% so với năm 2007, trong đó xuất khẩu đạt 62,69 tỷ USD, tăng
29,1% so với năm trước, vượt 7% kế hoạch năm và nhập khẩu là 80,71 tỷ USD,
tăng 28,8%. Hết tháng 12 năm 2008, nhập siêu của Việt Nam là 18,03 tỷ USD
đạt con số kỷ lục từ trước đến nay, tăng 27,7% so với con số 14,12 tỷ USD của
năm 2007.
Hoạt động xuất nhập khẩu năm 2009 vẫn còn chịu những ảnh hưởng rất
lớn từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, làm cho nhu cầu nhập khẩu hàng hóa
của Việt Nam và giá cả quốc tế giảm sút mạnh. Đồng thời, các nước gia tăng
các biện pháp bảo hộ mới, đặt ra nhiều hơn các rào cản phi thuế. Do đó, hoạt
động xuất khẩu chịu nhiều tác động tiêu cực.Tuy nhà nướcđã chủ động tạo điều
kiện đẩy mạnh xuất khẩu, phần lớn mặt hàng đã có khối lượng xuất khẩu tăng
hơn năm 2008 (lượng XK tăng làm tăng kim ngạch khoảng 1,5 tỷ USD), nhưng
do tốc độ giảm giá lớn hơn (khoảng 11 tỷ USD, tương đương giảm 17 - 18%
kim ngạch xuất khẩu, trong đó: nhóm nông sản, thủy sản giảm 2,7 tỷ USD;
27
nhóm nhiên liệu khoáng sản giảm 4,6 tỷ USD; nhóm công nghiệp chế biến giảm
3 - 4 tỷ USD) nên tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm bị giảm 9,7% so với năm
2008.
Bước sang năm 2010,tỷ giá USD/VND tăng cao trong khi đó Việt Nam
vẫn trong tình trạng nhập siêu còn khá lớn.Mặc dù theo lý thuyết, tỷ giá
USD/VND tăng (USD lên giá còn VND giảm giá) sẽ thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu gia tăng, hạn chế nhập khẩu.
Khi tỷ giá USD/VND tăng không những xuất khẩu tăng mà nhập khẩu
cũng tăng, đáng chú ý mức tăng của nhập khẩu mạnh hơn mức tăng của xuất
khẩu (khoảng 0.83%), nghĩa là cán cân thương mại vẫn thâm hụt. Đó là do ở
Việt Nam có sự phụ thuộc quá cao giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Chính vì có sự
phụ thuộc quá nhiều của xuất khẩu vào nhập khẩu nên khi tỷ giá tăng xuất khẩu
tăng thì nhập khẩu cũng tăng theo và tăng nhiều hơn mức tăng của xuất khẩu,
điều này lý giải tại sao cán cân thương mại vẫn thâm hụt mặc dù xuất khẩu có
gia tăng khi VND giảm giá.
28
3. NHỮNG KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT NHẬP KHẨU TẠI
VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP
3.1. Những khó khăn hạn chế trong việc điều hành chính sách tỷ giá ảnh
hưởng đến xuất nhập khẩu tại Việt Nam
3.1.1. Khó khăn, hạn chế xuất phát từ bên trong
3.1.1.1. Cơ cấu các mặt hàng xuất nhập khẩu
Hiện nay, Việt Nam có quan hệ thương mại với rất nhiều quốc gia trên
thế giới, và Việt Nam cũng có tiếng là một nước xuất khẩu. Tuy nhiên, cán cân
thương mại của Việt Nam lại thường xuyên có xu hướng thâm hụt, và Việt Nam
là một nước nhập siêu. Một phần lý do có thể hiểu là xuất phát điểm của nền
kinh tế Việt Nam thấp nên tuy xuất khẩu nhiều, nhưng những mặt hàng chúng ta
xuất đi chủ yếu là nguyên liệu thô, chưa qua chế biến, gia công thuê: vàng thô,
dầu thô, bô-xít, hàng nông sản, da giầy, dệt may…Đó là những mặt hàng có
hàm lượng trí tuệ thấp, không hiếm, khả năng thay thế cao, lợi nhuận thu về trên
một đơn vị sản phẩm thường không cao, nên mặc dù xuất nhiều, nhưng lượng
ngoại tệ thu được lại không nhiều. Nói nôm na thì đây là hiện tượng “thu không
đủ bù chi”.
29
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu năm 2010
Trong khi đó, Việt Nam lại nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng như: dây
chuyền công nghệ, máy móc, xăng dầu, ô tô, xe máy, điện thoại, laptop, sắt
thép, mỹ phẩm…Đó là những mặt hàng thiết yếu không tự sản xuất được, có
hàm lượng trí tuệ cao, giá thành đắt. Cá biệt có một số mặt hàng không cần
thiết, không khuyến khích nhập vẫn được nhập khẩu gây lãng phí nguồn ngoại
tệ của đất nước như: tăm tre, rượu, thuốc lá…Việc chênh lệch về giá trị hàng
xuất khẩu - nhập khẩu gây nên thiếu hụt cán cân thương mại thường xuyên, tạo
áp lực điều chỉnh tỷ giá đảm bảo nhu cầu ngoại tệ.
Ngoài ra, theo số liệu thống kê, trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt
Nam, có đến 93% các mặt hàng xuất khẩu sử dụng các tư liệu sản xuất từ nhập
30
khẩu. Câu chuyện về ngành tôm là một ví dụ. Tôm sú là mặt hàng được ưa
chuộng trên thế giới, và hiện chỉ có Việt Nam và Ấn Độ còn cung cấp sản phẩm
này. Tuy nhiên, do quy trình nuôi trồng và đặc biệt là nguồn nguyên liệu nhập
khẩu đắt đỏ, nhiều người nuôi trồng thủy sản Việt Nam đã chuyển từ nuôi tôm
sú sang tôm thẻ, khiến tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 50-50, thay vì 80-20 như
trước kia. Một câu chuyện khác vềngành dệt may -ngành được coi là ngành xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam. Theo Hiệp hội dệt may, trong khi kim ngạch xuất
khẩu 6 tháng đầu năm 2011 đạt được con số khá ấn tượng là 6,16 tỷ USD nhưng
đã phải nhập tới 5,76 tỷ USD nguyên phụ liệu, do đó, giá trị gia tăng tạo ra chưa
đầy 500 triệu USD.
Quay trở lại vấn đề, để đáp ứng những quy định ngặt nghèo về các tiêu
chuẩn chất lượng của các thị trường khác nhau trên thế giới thì việc sử dụng
nguồn nguyên liệu nhập khẩu là điều cần thiết, nhất là khi nguồn nguyên liệu
trong nước chưa thể đáp ứng cả về mặt số lượng và chất lượng. Đó là một trong
những nguyên nhân mặc dù cán cân thương mại thường xuyên thâm hụt, nhưng
Ngân hàng Nhà nước không thể mạnh tay điều chỉnh tăng tỷ giá theo lý thuyết
vì việc điều chỉnh tỷ giá cũng sẽ làm tăng chi phí sản xuất, gây khó khăn cho cả
các doanh nghiệp xuất khẩu.
3.1.1.2. Xuất phát từ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương
Ngân hàng Trung ương ở mỗi nước có vai trò quản lý nhà nước về tiền tệ
và thực thi chính sách tiền tệ. Chính sách tỷ giá là một trong những công cụ của
chính sách tiền tệ. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã công bố Việt Nam theo
đuổi chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết. Tuy nhiên, những biểu hiện của Ngân
hàng Nhà nước lại cho thấy chúng ta dường như đang nghiêng về sử dụng chính
sách tỷ giá cố định: đặt ra một mức tỷ giá cố định trong một khoảng thời gian
khá dài với biên độ dao động hẹp (khoảng 1%). Theo quan hệ cung cầu ngoại
tệ, việc áp đặt một mức tỷ giá trần cố định sẽ gây ra sự thiếu hụt ngoại tệ, từ đó
31
tất yếu làm xuất hiện thị trường chợ đen về ngoại tệ. Điểm tích cực của thị
trường chợ đen là có thể đáp ứng cơn khát ngoại tệ của các đối tượng không thể
tiếp cận được nguồn ngoại tệ chính thức từ hệ thống ngân hàng, và tỷ giá trên
thị trường này thường phản ánh đúng quan hệ cung cầu về ngoại tệ trong nền
kinh tế. Tuy thế, mặt trái của thị trường chợ đen là nó tiếp tay cho các hoạt động
kinh tế bất hợp pháp như buôn lậu, tham nhũng, rửa tiền…Ngoài ra sự tồn tại
của thị trường chợ đen còn dẫn đến việc chảy máu ngoại tệ. Lấy ví dụ, theo con
số thống kê, lượng ngoại tệ bị thất thoát do nhập lậu vàng vào năm 2009 tương
đương 9 tỷ USD, vào năm 2010 con số này là 3 tỷ USD. Mặc dù đây là nguồn
cung cho các doanh nghiệp trong trường hợp không thể mua trong hệ thống
ngân hàng, nhưng việc thất thoát một lượng ngoại tệ lớn như vậy thật sự là lãng
phí trong bối cảnh cầu về ngoại tệ luôn nóng.
Việc siết chặt tín dụng ngoại tệ theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước
cũng đang gây khó khăn không nhỏ đối với các doanh nghiệp. Tính riêng 6
tháng đầu năm 2011, tăng trưởng tín dụng ngoại tệ đã đạt 22%, trong khi tăng
trưởng tín dụng của cả nền kinh tế chỉ đạt 7,05%. Hiện tượng bất thường này
xảy ra bởi lẽ trong một thời gian dài, Ngân hàng Nhà nước đã duy trì mức trần
lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ quá thấp, khiến cho nhiều doanh nghiệp vay ngoại
tệ, hoặc để giảm chi phí hoặc sau đó bán lại vào ngân hàng lấy VNĐ gửi tiết
kiệm, kiếm lời từ chênh lệch lãi suất (lãi suất cho vay USD chỉ là 5,5-8%, thấp
hơn nhiều so với lãi suất huy động VNĐ 14-18%, và càng thấp hơn lãi suất cho
vay VNĐ 22-25%). Thời điểm cuối năm đến cũng là lúc cầu về ngoại tệ tăng
mạnh do nhu cầu nhập khẩu, và nhu cầu trả nợ ngân hàng khi các hợp đồng cho
vay đáo hạn. Sức ép từ lực cầu khủng khiếp tạo áp lực buộc phải Ngân hàng
Nhà nước phải điều chỉnh tăng tỷ giá, bên cạnh siết chặt tín dụng. Biện pháp
này là điều cần thiết, tuy nhiên, nó lại gây trở ngại cho các doanh nghiệp có nhu
cầu thật sự.
32
Một chính sách khác của Ngân hàng Nhà nước đó là cho phép các ngân
hàng thương mại bán vàng để bình ổn giá vàng trong nước, tạo tiền đề ổn định
tỷ giá. Tuy nhiên cách bán của chúng ta có vấn đề.Điểm quan trọng nhất đó là
giá bán không phải do NHNN ấn định dựa trên giá quốc tế cộng thêm phí nhập
khẩu và chênh lệch 400.000 đồng/lượng như ý định ban đầu của cơ quan quản
lý. Thay vào đó giá bán do 5 ngân hàng và Công ty SJC (tạm gọi là 5+1) quyết
định. Sau này thêm hai ngân hàng là Phương Nam và Việt Á được tham gia bán
vàng, thì nhóm 5+1 chuyển thành 7+1. Các ngân hàng và SJC là những doanh
nghiệp, và mục tiêu của họ trước hết phải là lợi nhuận. Hơn nữa thì cách bán
vàng nhỏ giọt, dè chừng, khiến cho tâm lý chung luôn ở trạng thái chờ đợi, chỉ
có chiều mua vào và không bán ra. Thoạt đầu, giá vàng được giữ ở mức 43-44
triệu đồng/lượng trong 1-2 tuần của tháng 10, nhưng những ngày gần đây, giá
vàng đã tăng mạnh trở lại, lên mốc gần 47 triệu đồng/lượng. Một khi mục tiêu
bán vàng can thiệp không thực hiện được, thị trường chỉ có một chiều mua, các
ngân hàng muốn có thêm vàng chỉ còn cách nhập từ nước ngoài mà không thể
huy động trong dân. Nhập khẩu vàng sẽ làm tăng cầu ngoại tệ, thâm hụt thương
mại sẽ càng tăng, ngoại tệ càng khan khiếm. Lúc này, nền kinh tế Việt Nam sẽ
chịu áp lực lớn, cùng với mức lạm phát, thâm hụt ngân sách đều cao, trong khi
dự trữ ngoại hối thấp sẽ dẫn đến kỳ vọng phá giá nội tệ ngày càng lớn, gây ảnh
hưởng mạnh đến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
3.1.1.3. Lạm phát
Lạm phát ở Việt Nam luôn ở mức 2 con số trong những năm gần đây.
Năm 2010, tỷ lệ lạm phát (được công bố) là 11.75%, trong khi tỷ lệ tăng GDP
chỉ là 6%. Năm 2011, dự báo của IMF cho biết lạm phát của Việt Nam sẽ xấp xỉ
20%, nằm trong top 4 thế giới, trong khi tăng trưởng tương ứng chỉ đạt 5,5-6%.
Sự mất giá mạnh của VNĐ khiến cho Ngân hàng nhà nước buộc phải điều chỉnh
tăng tỷ giá mạnh, mặc dù USD cũng mất giá. Sự điều chỉnh tăng tỷ giá lại tạo áp
lực tăng tỷ giá do sự lo ngại về sự mất giá trong ngắn hạn của VNĐ. Vòng xoay
33
này lặp đi lặp lại khiến các doanh nghiệp phải gánh chịu rất nhiều chi phí tăng
thêm do giá cả nguyên liệu đầu vào tăng, các khoản nợ bằng ngoại tệ cũng
tăng…
3.1.2. Khó khăn, hạn chế xuất phát từ bên ngoài
Khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu bắt đầu từ năm 2007, nhưng đến
thời điểm hiện tại là năm 2011, nền kinh tế thế giới vẫn đang phải chiến đấu để
tránh lan rộng và khắc phục những hệ lụy khủng khiếp mà nó đem lại. Giá vàng,
giá dầu thô thế giới đều tăng do sự mất giá của USD và lo ngại về triển vọng
của nền kinh tế thế giới. Khủng hoảng nợ công của Mỹ và một số nước thuộc
khối Eurozone càng khiến cho những nền kinh tế này gặp khó khăn về tài chính,
người dân cũng phải cắt giảm chi tiêu cá nhân, dẫn đến cầu về sản phẩm sẽ sụt
giảm, đơn hàng ít. Lượng cầu từ thị trường quốc tế sụt giảm sẽ làm sự cạnh
tranh với các công ty nước ngoài ngày càng gay gắt. Khi đó giá bán và sự khác
biệt sản phẩm sẽ được đưa ra làm tiêu chuẩn lựa chọn của người tiêu dùng.
Trung Quốc, Ấn Độ…là những nước rất mạnh, gây rất nhiều khó khăn cho
chúng ta.
3.2. Giải pháp
3.2.1. Nhà nước
3.2.1.1. Định hướng lại cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu:
Về dài hạn, để tránh nhập siêu và phụ thuộc vào sự biến động tỷ giá,
chúng ta cần điều chỉnh cơ cấu hàng xuất khẩu định hướng giảm tỷ trọng sản
phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phầm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất
khẩu; nâng cao tỷ trọng phần giá trị gia tăng; chú trọng đầu tư vào các ngành có
hàm lượng chất xám cao có giá trị xuất khẩu như điện tử,, tin học, liên lạc viễn
thông chế tạo máy…
34
Theo ước tính gần đây của Bộ Công Thương nhiều ngành công nghiệp
hiện nay đã lệ thuộc 80% nguyên liệu phụ tùng nhập khẩu chẳng hạn ngành ô tô
mới nội địa hóa khoảng 5-10%, ngành xe máy khá hơn các ngành khác cũng chỉ
đạt 40-50%. Bởi lẽ tới nay những nhà cung cấp linh kiện phụ tùng chủ yếu vẫn
là những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và vẫn đang còn khoảng cách
tiêu chuấn chất lượng khá lớn giữa các nhà cung cấp linh kiện trong và ngoài
nước. Do đó, việc phát triển công nghiệp phụ trợ là cần thiết để tạo điều kiện
cung cấp linh kiện phụ tùng cho các doanh nghiệp lắp ráp trong nước.
Cùng với đó, cơ cấu quản lí nhập khẩu cần phải được hoàn thiện theo
hướng tăng cường quản lí nhà nước, nhất là đối với mặt hàng nhập khẩu công
nghệ và hàng tiêu dùng thông qua hệ thống các biện pháp thuế quan và phi thuế
quan, kết hợp chặt chẽ với các biện pháp về tổ chức và giám sát hoạt động nhập
khẩu để hạn chế những mặt hàng có thể sản xuất được hoặc mặt hàng xa xỉ độc
hại cho nền kinh tế như rượu, bia, thuốclá, .…
3.2.1.2. Điều chỉnh hoạt động của Ngân hàng Nhànước
Như đã phân tích ở trên, việc áp dụng một mức tỷ giá cố định trong điều
kiện các yếu tố khác không đổi sẽ dẫn tới sự thiếu hụt ngoại tệ trên thị trường.
Hiện tại Ngân hàng Nhà nước đang niêm yết tỉ giá liên ngân hàng ở mức 20.803
VND/USD sau 15 lần điều chỉnh liên tiếp trong tháng 10. Tuy nhiên mức tỉ giá
này vẫn được đánh giá là thấp hơn so với mức cân bằng thực của thị trường
(22.500-23.000 VND/USD) điều này làm cho thị trường chợ đen vẫn tồn tại và
ngày càng sôi động. Chúng ta nên linh hoạt hơn trong chính sách tỷ giá, nhưng
không có nghĩa là đồng nhất với việc thả nổi hoàn toàn mà cần quản lí thực hiện
tỷ giá một cách gián tiếp thông qua việc kiểm soát lượng vốn gián tiếp đổ vào
thị trường Việt Nam và đặt ra biên độ hợp lí, điều chỉnh tăng dần tỷ giá mà
không mang lại xáo trộn lớn. Về lâu về dài, nếu thị trường cho thấy sự ổn định
và minh bạch, Ngân hàng Nhà nước nên trả lại việc xác lập tỷ giá theo quan hệ
35
cung cầu trên thị trường, bởi chỉ có như thế, tình trạng hai tỷ giá mới có thể giải
quyết được.
Ngân hàng Nhà nướccũng nên điều chỉnh lãi suất huy động tiền gửi bằng
ngoại tệ hấp dẫn hơn, kéo gần hơn tới mức lãi suất của đồng nội tệ. Việc điều
chỉnh này sẽ đem lại rất nhiều hiệu quả. Thứ nhất, thu hút một lượng ngoại tệ
lớn ứ đọng trong dân chúng cung ứng cho nền kinh tế đặc biệt là các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu. Thứ hai, điều này sẽ làm giảm tình trạng đầu cơ găm
giữ ngoại tệ. Thứ ba, hạn chế tình trạng vay ngoại tệ gửi nội tệ hưởng chênh
lệch lãi suất.
Ngân hàng Nhà nước cũng cần chỉ đạo các ngân hàng thương mại sàng
lọc các đối tượng có nhu cầu vay ngoại tệ thực sự để có chính sách hỗ trợ các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu giảm thiểu rủi ro do biến động tỷ giá và lãi suất,
có thể bằng một số phương pháp như: mua ngoại tệ với giá ưu đãi, hưởng lãi
suất thấp hơn lãi suất niêm yết, tư vấn thực hiện các nghiệp vụ phái sinh…
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng nên thay đổi cơ cấu dự trữ ngoại hối
quốc gia theo hướng chuyển dần sang vàng hay các tài sản khác an toàn hơn .
Hiện tại, dự trữ ngoại hối của Việt Nam hầu hết bằng USD (khoảng 13tỷ
USD !?), và không ngoa khi nói chỉ “một cơn ho” của nền kinh tế Mỹ cũng
khiến Việt Nam lao đao. Cho đến nay, vàng được xem là thứ tài sản luôn giữ
được giá trị qua mọi thời đại của lịch sử. Vàng có thể thay thế ngoại tệ mạnh
trong thanh toán quốc tế. Hơn nữa, việc dự trữ vàng sẽ giúp chúng ta chủ động
hơn trước sự biến động đột ngột của giá vàng, giảm bớt sự phụ thuộc vào Mỹ.
3.2.2. Doanh nghiệp
Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng cần có những biện pháp tự bảo vệ
mình trước những biến động không lường trước được. Một số biện pháp khả thi
các doanh nghiệp có thể tham khảo như: thực hiện các nghiệp vụ phái sinh, yêu
cầu thanh toán bằng “rổ” ngoại tệ để phân tán rủi ro…Hơn hết, trong bối cảnh
36
hiện nay, các doanh nghiệp cần tự nâng cao khả năng cạnh tranh của mình để có
thể tự chủ động trong mọi tình huống .
37