77
Chương II.ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 – 1945) CHƯƠNG II ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 – 1945) I. Chủ trương đấu tranh từ năm 1930 đến năm 1939 1. Trong những năm 1930-1935 a. Luận cương chính trị tháng 10-1930 Hoàn cảnh: - Tháng 4-1930, Trần Phú về nước hoạt động, được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, cùng Ban Thượng vụ chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương. - Từ ngày 14 đến 31-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng, Trung Quốc do Trần Phú chủ trì. Hội nghị thống nhất: + Đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. + Thông qua Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú soạn thảo. + Cử Trần Phú làm Tổng Bí thư. Nội dung Luận cương chính trị: - Phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương: lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, có “tính chất thổ địa và phản đế”. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản mà đấu tranh thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa. - Nhiệm vụ cách mạng: Xoá bỏ tàn tích phong kiến và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ đó có quan hệ khăng khít với nhau. Trong đó “vấn đề thổ địa cách mạng là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”.

quyet dinh toan dan tong khoi nghia

Embed Size (px)

Citation preview

Chương II.ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 – 1945)

CHƯƠNG II

ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 – 1945)

I. Chủ trương đấu tranh từ năm 1930 đến năm 1939

1. Trong những năm 1930-1935

a. Luận cương chính trị tháng 10-1930

Hoàn cảnh:

- Tháng 4-1930, Trần Phú về nước hoạt động, được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương

lâm thời, cùng Ban Thượng vụ chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương.

- Từ ngày 14 đến 31-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương

Cảng, Trung Quốc do Trần Phú chủ trì. Hội nghị thống nhất:

+ Đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương.

+ Thông qua Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú soạn thảo.

+ Cử Trần Phú làm Tổng Bí thư.

Nội dung Luận cương chính trị:

- Phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương: lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản

dân quyền”, có “tính chất thổ địa và phản đế”. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ

tiếp tục phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản mà đấu tranh thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.

- Nhiệm vụ cách mạng:

Xoá bỏ tàn tích phong kiến và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn

độc lập. Hai nhiệm vụ đó có quan hệ khăng khít với nhau. Trong đó “vấn đề thổ địa cách mạng là

cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”.

- Lực lượng cách mạng: Vô sản và nông dân là lực lượng chính, trong đó vô sản lãnh đạo cách

mạng. Bỏ qua, phủ nhận vai trò của tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và phú nông.

- Vai trò của Đảng: “điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là

cần phải có một Đảng Cộng sản”. Đảng phải có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần

chúng và được vũ trang bởi chủ nghĩa Mác-Lênin.

- Phương pháp cách mạng: Võ trang bạo động, theo khuôn phép nhà binh.

- Quan hệ quốc tế: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới vì thế giai cấp

vô sản Đông Dương phải gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là vô sản Pháp. Liên hệ

với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa.

Ý nghĩa của Luận cương :

Luận cương đã vạch ra được nhiều vấn đề căn bản của cách mạng Việt Nam mà Chính cương

vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu ra, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế:

- Luận cương không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa dân

tộc Việt Nam và đế quốc Pháp.

- Không đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu.

- Chưa đánh giá đúng vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, tư sản dân tộc mà cường điệu

hoá những hạn chế của họ.

Từ đó phủ nhận quan điểm đúng đắn trong Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt và hạn chế

này tồn tại tới Hội nghị Trung ương 8 (5-1941) mới được khắc phục hoàn toàn.

Nguyên nhân của hạn chế:

- Do những người lãnh đạo nhận thức máy móc, giáo điều về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc

và giai cấp trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam.

- Không nắm được đầy đủ đặc điểm tình hình xã hội và giai cấp ở Việt Nam.

- Chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi khuynh hướng “tả” trong Quốc tế Cộng sản.

b) Chủ trương khôi phục tổ chức đảng và phong trào cách mạng

Vừa mới ra đời, Đảng trở thành đội tiên phong lãnh đạo cách mạng, phát động được một phong

trào cách mạng rộng lớn, mà đỉnh cao là Xôviết Nghệ Tĩnh. Đế quốc Pháp và tay sai thẳng tay

đàn áp, khủng bố. Lực lượng của ta đã bị tổn thất lớn: nhiều cơ sở Đảng tan vỡ, nhiều cán bộ

cách mạng, đảng viên ưu tú bị địch bắt, giết, tù đày. Phong trào đấu tranh lắng xuống.

Thành quả lớn nhất của phong trào cách mạng 1930-1931 mà quân thù không thể xoá bỏ được

là: Khẳng định trong thực tế vai trò và khả năng lãnh đạo cách mạng của giai cấp vô sản, của

Đảng; Hình thành một cách tự nhiên khối liên minh công-nông trong đấu tranh cách mạng; Đem

lại cho nhân dân niềm tin vững chắc vào Đảng, vào cách mạng.

Bị địch khủng bố nhưng một số nơi tổ chức cơ sở Đảng vẫn được duy trì: Hà Nội, Sơn Tây, Hải

Phòng, Nghệ Tĩnh…. Các đảng viên chưa bị bắt nỗ lực lần tìm lại cơ sở để lập lại tổ chức.

Công việc khôi phục Đảng phải kể đến vai trò to lớn của Quốc tế Cộng sản: Lựa chọn những

thanh niên tốt nghiệp tại Đại học Phương Đông, cử về Hồng Kông (Trung Quốc) thành lập Ban

chỉ huy hải ngoại-hoạt động với tư cách là Ban Chấp hành Lâm thời (thay cho Ban Chấp hành cũ

đã tan vỡ): Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên….Ban lãnh đạo hải ngoại do Lê Hồng

Phong đứng đầu đã công bố Chương trình hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 6-

1932).

Cuộc đấu tranh đòi ân xá chính trị phạm đã dẫn tới năm 1934 toàn quyền Đông Dương đã ký

lệnh ân xá tù chính trị ở Đông Dương. Đây là lần đầu tiên Pháp ký lệnh ân xá tù chính trị.

Như vậy, nhờ sự cố gắng phi thường của Đảng, được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, đến

cuối 1934 đầu 1935 hệ thống tổ chức của Đảng đã được khôi phục và phong trào quần chúng

dần được nhen nhóm lại.

Khi hệ thống tổ chức của Đảng được khôi phục từ cơ sở tới Trung ương, Ban chỉ huy ở ngoài

của Đảng quyết định triệu tập Đại hội Đảng. Tháng 3-1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp tại

Ma Cao (Trung Quốc). Đại hội đề ra các nhiệm vụ trước mắt: Củng cố và phát triển Đảng cả về

lượng và chất; Đẩy mạnh cuộc vận động và thu phục quần chúng; Tuyên truyền chống đế quốc,

chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc…

Hồ Chí Minh nói: “Chính sách Đại hội Ma Cao vạch ra không sát với phong trào cách mạng thế

giới và trong nước bấy giờ”.

2. Trong những năm 1936-1939

a) Hoàn cảnh lịch sử

Tình hình thế giới:

- Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã làm cho mâu thuẫn nội tại của

chủ nghĩa tư bản thêm gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao.

- Một số nước đi vào con đường phát xít hoá: dùng bạo lực để đàn áp phong trào đấu tranh trong

nước và ráo riết chạy đua vũ trang phát động chiến tranh thế giới mới. Chủ nghĩa phát xít thắng

thế ở Đức, Ý, Nhật, chúng liên kết với nhau lập ra phe “Trục”, tuyên bố chống Quốc tế Cộng sản

và phát động chiến tranh chia lại thế giới. Nguy cơ phát xít và chiến tranh thế giới đe doạ nghiêm

trọng nền hoà bình và an ninh quốc tế.

- Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp tại Matxcơva (7-1935) xác định:

+ Kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung

mà là chủ nghĩa phát xít.

+ Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới chưa phải là đấu

tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành chính quyền mà là chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do,

dân chủ, hoà bình và cải thiện đời sống.

+ Đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, vấn đề lập Mặt trận thống nhất chống đế quốc có

tầm quan trọng đặc biệt.

Tình hình trong nước:

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống của mọi

giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trong khi đó, bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương ra sức

vơ vét, bóc lột và khủng bố phong trào đấu tranh của nhân dân làm cho bầu không khí chính trị

trở nên ngột ngạt, yêu cầu có những cải cách dân chủ.

b) Chủ trương và nhận thức mới của Đảng

- Tháng 7-1936, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ hai tại Thượng Hải. Xuất phát

từ tình hình thực tế Hội nghị đã xác định:

+ Mục tiêu chiến lược: không thay đổi so với Hội nghị lần thứ nhất- “cách mạng tư sản dân quyền

- phản đế và điền địa - lập chính quyền công nông bằng hình thức Xô viết”, “để dự bị điều kiện đi

tới cách mạng xã hội chủ nghĩa”.

+ Kẻ thù trước mắt và nguy hại nhất là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.

+ Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn

phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Để thực hiện được

nhiệm vụ này, BCH TƯ quyết định lập Mặt trận nhân dân phản đế gồm các giai cấp, đảng phái

các đoàn thể chính trị và các tôn giáo khác nhau, các dân tộc xứ Đông Dương để cũng đấu tranh

đòi những quyền dân chủ đơn sơ.

+ Về đoàn kết quốc tế: Đoàn kết với giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Pháp, ủng hộ Mặt

trận Nhân dân Pháp, ủng hộ Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp để cùng chống kẻ thù chung là

phát xít và phản động thuộc địa ở Đông Dương.

+ Về hình thức tổ chức và biện pháp đấu tranh: Hội nghị chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí

mật không hợp pháp sang hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp

và nửa hợp pháp. Mục đích mở rộng quan hệ của Đảng với quần chúng.

- Tháng 10-1936, Trung ương Đảng được tổ chức lại do đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư,

trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới Ban Chấp hành Trung ương cũng đặt ra vấn

đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong

cách mạng Đông Dương: cách mạng giải phóng dân tộc không nhất thiết phải gắn kết chặt với

cuộc cách mạng điền địa. “Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc đấu tranh

phản đế thì phải chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước”. Đó là nhận thức mới phù

hợp với tinh thần Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng, bước đầu khắc phục hạn chế của

Luận cương chính trị tháng 10-1930.

- Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng từ giữa năm 1936 trở đi khẳng định sự

chuyển hướng chỉ đạo cách mạng đúng đắn của Đảng. Hội nghị lần thứ ba (3-1937), lần thứ tư

(9-1937), tiếp đó là Hội nghị lần thứ năm (3-1938) đã đi sâu về công tác tổ chức của Đảng, quyết

định chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt động để tập hợp được đông đảo

quần chúng trong mặt trận chống phản động thuộc địa, chống phát xít, đòi tự do, cơm áo, hòa

bình.

- Tại Hội nghị tháng 7-1939 Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm Tự chỉ trích,

nhằm rút kinh nghiệm về những sai lầm, thiếu sót của Đảng viên, hoạt động công khai trong cuộc

vận động tranh cử ở Hội đồng quản hạt Nam kỳ (4-1939). Tác phẩm đã phân tích những vấn đề

cơ bản về xây dựng Đảng, tổng kết kinh nghiệm cuộc vận động dân chủ của Đảng, nhất là về

đường lối xây dựng Mặt trận dân chủ Đông Dương. Tác phẩm không chỉ có tác dụng lớn trong

cuộc đấu tranh khắc phục những lệch lạc, sai lầm trong phong trào vận động dân chủ, tăng

cường đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, mà còn là một văn kiện lý luận quan trọng về

công tác xây dựng Đảng, vận động quần chúng.

Tóm lại, trong những năm 1936-1939, bám sát tình hình thực tiễn, Đảng đã phát động được một

cao trào cách mạng rộng lớn trên tất cả các mặt trận: chính trị, kinh tế, văn hóa tư tưởng với các

hình thức đấu tranh phong phú và linh hoạt. Qua cuộc vận động dân chủ rộng lớn, uy tín và ảnh

hưởng của Đảng được mở rộng và nâng cao trong quần chúng, chủ nghĩa Mác-Lênin và đường

lối của Đảng được tuyên truyền rộng rãi trong khắp mọi tầng lớp nhân dân, tổ chức Đảng được

củng cố và mở rộng.

II. Chủ trương đấu tranh từ năm 1939 đến năm 1945

1. Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng

a. Tình hình thế giới và trong nước

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ:

Ngày 1-9-1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, trong đó Pháp là nước tham chiến. Chính phủ

Pháp thi hành một loạt các biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào

cách mạng thuộc địa.

Tháng 6-1940, Đức tấn công Pháp và Chính phủ Pháp đã đầu hàng. Ngày 22-6-1941, quân phát

xít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi phát xít Đức tấn công Liên Xô, tính chất chiến tranh đế quốc

chuyển thành cuộc chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực

lượng phát xít do Đức cầm đầu.

Tình hình trong nước:

Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất phản động: thẳng tay đàn áp

phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông

Dương. Thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” tăng cường vơ vét sức người, sức của phục vụ

chiến tranh, bắt lính sang Pháp làm bia đỡ đạn.

Lợi dụng sự thất thủ của Pháp ở Đông Dương, tháng 9-1940 Nhật Bản cho quân xâm lược Đông

Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng và dâng Đông Dương cho Nhật. Chịu cảnh “một cổ hai

tròng” đời sống của nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế.

Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với Pháp, Nhật và tay sai phản động ngày càng trở nên gay

gắt hơn bao giờ hết.

b) Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược

Thể hiện qua:

+ Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11-1939)

+ Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (11-1940)

+ Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) - quan trọng nhất

Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và căn cứ vào tình

hình cụ thể ở trong nước, BCH Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như

sau:

Một là, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu

Tạm gác khẩu hiểu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiều “tịch thu

ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo” chia lại ruộng đất cho công bằng,

giảm tô, giảm tức.

Hai là, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương

Ở Việt Nam, Trung ương Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt

Minh) thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau

đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.

Ba là, quyết định phải xúc tiến ngay công tác khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm

của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Để khởi nghĩa vũ trang đi đến thắng lợi cần phải phát triển lực

lượng cách mạng, tiến hành xây dựng căn cứ địa cách mạng.

Hội nghị cũng chú trọng công tác đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của

Đảng, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.

c. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược

`Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo BCH Trung ương Đảng đã giải quyết mục tiêu số một của

cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện mục tiêu ấy.

Đường lối đúng đắn gương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc đã dẫn đường cho nhân dân ta tiến

lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho

nhân dân. Chủ trương đúng đắn của Hội nghị thực sự là kim chỉ nam đối với hoạt động của Đảng

cho tới thắng lợi cuối cùng năm 1945.

Ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh tuyên bố ra đời. Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm

44 điều cụ thể để thực hiện 2 điều cơ bản là làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dân Việt

Nam được sung sướng, tự do. Thông qua Mặt trận Việt Minh, Đảng mở rộng các tổ chức quần

chúng và lãnh đạo phong trào đấu tranh của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Phong trào Việt

Minh phát triển mạnh nhất ở Bắc Kỳ sau đó lan rộng tới Trung kỳ và Nam kỳ.

Chuẩn bị về lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng: Sau khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940),

đội du kích Bắc Sơn được duy trì và đổi tên thành Cứu Quốc quân. Ngày 22-12-1944 Đội Việt

Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập ở Nguyên Bình (Cao Bằng) do đồng chí Võ

Nguyên Giáp lãnh đạo. Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân phát triển mau chóng, đẩy mạnh

công tác tuyên truyền vũ trang, xây dựng cơ sở cách mạng, thúc đẩy và cổ vũ phong trào đấu

tranh cách mạng trong cả nước.

Đảng và Hồ Chí Minh chỉ đạo việc thành lập các chiến khu và căn cứ địa cách mạng, tiêu biểu là

căn cứ Bắc Sơn-Vũ Nhai và căn cứ Cao Bằng

Năm 1943, Đảng công bố Đề cương Văn hóa Việt Nam - khẳng định Văn hóa là một trong ba

mặt trận cách mạng do Đảng lãnh đạo, tiến tới xây dựng nền văn hóa mang 3 tính chất: dân tộc,

khoa học và đại chúng.

Song song với việc lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống Pháp - Nhật. Đảng đã dày công chuẩn

bị lực lượng trên cả ba phương diện lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách

mạng, văn hóa tư tưởng để tiến tới giải phóng dân tộc khi thời cơ đến.

2. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền

a) Phát động Cao trào kháng Nhật, cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần

Phát động Cao trào kháng Nhật cứu nước:

Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới II đã đi vào giai đoạn kết thúc. Quân đồng minh chuẩn bị tiến

vào Đông Nam Á. Phát xít Nhật lâm vào tình trạng nguy khốn. Ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng lật

đổ Pháp trên toàn cõi Đông Dương, Pháp chống cự rất yếu ớt và nhanh chóng đầu hàng.

Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của

chúng ta. Nội dung:

- Chỉ thị đã nhận định: Nhật đảo chính Pháp sẽ tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc,

nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi, tuy nhiên nó sẽ làm cho những điều kiện

tổng khởi nghĩa mau chóng chín muồi.

- Xác định kẻ thù là Nhật, khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”. Đồng thời chủ trương phát động

cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho khởi nghĩa.

- Phương châm đấu tranh: phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ

địa

- Dự báo thời cơ:

+ Quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng

minh để phía sau sơ hở.

+ Cách mạng Nhật bùng nổ, chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập hoặc

Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần.

Cao trào kháng Nhật cứu nước đã thu được những kết quả quan trọng, là tiền đề trực tiếp đưa

tới thắng lợi của tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8-1945.

Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận:

- Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, Cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôI nổi, mạnh mẽ và

phong phú về nội dung, hình thức.

- Tháng 3/1945 tù chính trị nhà giam Ba Tơ khởi nghĩa, đội du kích Ba Tơ ra đời. Đây là lực

lượng vũ trang cách mạng đầu tiên do Đảng tổ chức và lãnh đạo ở miền Trung.

- Để chỉ đạo phong trào, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ được triệu tập (5/1945) đã quy

định thống nhất các lực lượng vũ trang, phát triển lực lượng bán vũ trang. Đồng thời, đẩy mạnh

chiến tranh du kích, xây dựng 7 chiến khu trong cả nước: Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Hoàng Hoa

Thám, Quang Trung ở Bắc Kỳ; Trưng Trắc, Phan Đình Phùng ở Trung Kỳ; Nguyễn Tri Phương ở

Nam Kỳ.

- Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào, Tuyên Quang. Ngày 4/6/1945 theo chỉ thị của Người

“Khu giải phóng” được thành lập gồm Cao-Bắc-Lạng-Thái-Tuyên-Hà và một số vùng phụ cận.

Khu giải phóng trở thành căn cứ địa chính của cách mạng cả nước và là hình ảnh thu nhỏ của

nước Việt Nam mới.

- Ở Đồng Bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, phong trào “phá kho thóc giải quyết nạn đói” đã lôi cuốn

hàng triệu quần chúng tham gia biến thành cuộc khởi nghĩa từng phần diễn ra ở nhiều địa

phương. Trong thời gian ngắn, Đảng đã động viên được hàng triệu quần chúng tiến lên trận

tuyến cách mạng.

b) Đảng phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước

- Điều kiện phát động tổng khởi nghĩa (thời cơ tổng khởi nghĩa) :

Chiến tranh thế giới II kết thúc, thắng lợi thuộc về phe Đồng minh, phát xít Đức đầu hàng Đồng

minh không điều kiện (9-5-1945), phát xít Nhật đi gần đến chỗ thất bại hoàn toàn, chính phủ thân

Nhật Trần Trọng Kim hoang mang cực độ. Tình thế cách mạng trực tiếp xuất hiện.

Quân đội các nước đế quốc với danh nghĩa đồng minh chuẩn bị vào Đông Dương tước vũ khí

quân Nhật.

Vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh.

- Ngày 13-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tân Trào quyết

định tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước từ tay phát xít Nhật, trước khi quân Đồng

minh vào Đông Dương.

Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành

chính quyền.

- Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào, tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của

Đảng Cộng sản Đông Dương, lập Uỷ ban dân tộc giải phóng do Hồ chí Minh làm Chủ tịch. Ngay

sau Đại hội Quốc dân, Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước: “giờ quyết định vận mệnh

dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng lên đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vũng dậy khởi nghĩa giành

chính quyền. Từ ngày 14-8: Giải phóng quân tiến công các đồn Nhật ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái

Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái. Ngày 14 đến ngày 18: Giành chính quyền ở Bắc Giang, Hải

Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Phúc Yên, Thanh Hoá, Thái Bình.

Ngày 19-8: Giành chính quyền ở Thủ đô Hà Nội. Ngày 23-8: Khởi nghĩa giành chính quyền ở

Huế. Ngày 25-8: Quân Nhật ở Sài Gòn thất thủ. Ngày 28-8: Ta giành chính quyền trong cả nước.

Uỷ ban dân tộc giải phóng tuyên bố tự cải tổ thành Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ

cộng hoà. Chỉ trong vòng 15 ngày (14 đến 28-8) cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công trên cả

nước, chính quyền về tay nhân dân.

Ngày 30-8: vua Bảo Đại thoái vị và giao nộp ấn, kiếm, áo bào cho đại diện Chính phủ Lâm thời

nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Ngày 2-9: Tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc Tuyên ngôn

độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.

c) Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám

Kết quả và ý nghĩa:

- Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã đập tan xiền xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong

hơn 80 năm, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế suốt 1000 năm và ách thống

trị của phát xít Nhật.

- Ra đời nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành

người tự do, người làm chủ vận mệnh của mình.

- Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật không hợp pháp trở thành một đảng

cầm quyền và hoạt động công khai.

- Nâng cao lòng tự hào dân tộc, để lại những bài học kinh nghiệm quý cho phong trào đấu tranh

giành độc lập và chủ quyền.

- Cách mạng tháng Tám thắng lợi đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa

của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ sụp đổ và tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ.

- Chứng minh cho tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin và những sáng tạo của Hồ Chí Minh

về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự

hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này

là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng

mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.

Nguyên nhân thắng lợi:

- Kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị Liên Xô và quân Đồng minh đánh bại,

quân đội Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu, Chính phủ Trần Trọng Kim rệu rã.

Đảng Cộng sản Đông Dương đã chớp thời cơ phát động tổng khởi nghĩa giành thắng lợi mau

chóng, ít đổ máu.

- Có sự lãnh đạo sáng suốt và đúng đắn của Đảng ta, của Hồ Chí Minh với đường lối cách mạng

đúng đắn, dày kinh nghiệm, đoàn kết, thống nhất, nắm bắt đúng thời cơ, kiên quyết, khôn khéo.

- Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất, đoàn kết và thống nhất trong Mặt

trận Việt Minh.

- Quần chúng có quá trình chuẩn bị đấu tranh lâu dài (15 năm), được tập dượt qua ba cao trào

cách mạng rộng lớn, tạo thành lực lượng chính trị hùng hậu có lực lượng vũ trang làm nòng cốt.

Bài học kinh nghiệm:

Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và

chống phong kiến.

Hai là, toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công-nông.

Ba là, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.

Bốn là, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng để đập tan bộ máy Nhà nước cũ, lập ra bộ máy Nhà

nước của nhân dân.

Năm là, nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ

Sáu là, xây dựng một Đảng Mác-Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Chương II.ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 – 1945)

CHƯƠNG II

ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 – 1945)

I. Chủ trương đấu tranh từ năm 1930 đến năm 1939

1. Trong những năm 1930-1935

a. Luận cương chính trị tháng 10-1930

Hoàn cảnh:

- Tháng 4-1930, Trần Phú về nước hoạt động, được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương

lâm thời, cùng Ban Thượng vụ chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương.

- Từ ngày 14 đến 31-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương

Cảng, Trung Quốc do Trần Phú chủ trì. Hội nghị thống nhất:

+ Đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương.

+ Thông qua Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú soạn thảo.

+ Cử Trần Phú làm Tổng Bí thư.

Nội dung Luận cương chính trị:

- Phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương: lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản

dân quyền”, có “tính chất thổ địa và phản đế”. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ

tiếp tục phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản mà đấu tranh thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.

- Nhiệm vụ cách mạng:

Xoá bỏ tàn tích phong kiến và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn

độc lập. Hai nhiệm vụ đó có quan hệ khăng khít với nhau. Trong đó “vấn đề thổ địa cách mạng là

cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”.

- Lực lượng cách mạng: Vô sản và nông dân là lực lượng chính, trong đó vô sản lãnh đạo cách

mạng. Bỏ qua, phủ nhận vai trò của tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và phú nông.

- Vai trò của Đảng: “điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là

cần phải có một Đảng Cộng sản”. Đảng phải có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần

chúng và được vũ trang bởi chủ nghĩa Mác-Lênin.

- Phương pháp cách mạng: Võ trang bạo động, theo khuôn phép nhà binh.

- Quan hệ quốc tế: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới vì thế giai cấp

vô sản Đông Dương phải gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là vô sản Pháp. Liên hệ

với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa.

Ý nghĩa của Luận cương :

Luận cương đã vạch ra được nhiều vấn đề căn bản của cách mạng Việt Nam mà Chính cương

vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu ra, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế:

- Luận cương không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa dân

tộc Việt Nam và đế quốc Pháp.

- Không đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu.

- Chưa đánh giá đúng vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, tư sản dân tộc mà cường điệu

hoá những hạn chế của họ.

Từ đó phủ nhận quan điểm đúng đắn trong Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt và hạn chế

này tồn tại tới Hội nghị Trung ương 8 (5-1941) mới được khắc phục hoàn toàn.

Nguyên nhân của hạn chế:

- Do những người lãnh đạo nhận thức máy móc, giáo điều về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc

và giai cấp trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam.

- Không nắm được đầy đủ đặc điểm tình hình xã hội và giai cấp ở Việt Nam.

- Chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi khuynh hướng “tả” trong Quốc tế Cộng sản.

b) Chủ trương khôi phục tổ chức đảng và phong trào cách mạng

Vừa mới ra đời, Đảng trở thành đội tiên phong lãnh đạo cách mạng, phát động được một phong

trào cách mạng rộng lớn, mà đỉnh cao là Xôviết Nghệ Tĩnh. Đế quốc Pháp và tay sai thẳng tay

đàn áp, khủng bố. Lực lượng của ta đã bị tổn thất lớn: nhiều cơ sở Đảng tan vỡ, nhiều cán bộ

cách mạng, đảng viên ưu tú bị địch bắt, giết, tù đày. Phong trào đấu tranh lắng xuống.

Thành quả lớn nhất của phong trào cách mạng 1930-1931 mà quân thù không thể xoá bỏ được

là: Khẳng định trong thực tế vai trò và khả năng lãnh đạo cách mạng của giai cấp vô sản, của

Đảng; Hình thành một cách tự nhiên khối liên minh công-nông trong đấu tranh cách mạng; Đem

lại cho nhân dân niềm tin vững chắc vào Đảng, vào cách mạng.

Bị địch khủng bố nhưng một số nơi tổ chức cơ sở Đảng vẫn được duy trì: Hà Nội, Sơn Tây, Hải

Phòng, Nghệ Tĩnh…. Các đảng viên chưa bị bắt nỗ lực lần tìm lại cơ sở để lập lại tổ chức.

Công việc khôi phục Đảng phải kể đến vai trò to lớn của Quốc tế Cộng sản: Lựa chọn những

thanh niên tốt nghiệp tại Đại học Phương Đông, cử về Hồng Kông (Trung Quốc) thành lập Ban

chỉ huy hải ngoại-hoạt động với tư cách là Ban Chấp hành Lâm thời (thay cho Ban Chấp hành cũ

đã tan vỡ): Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên….Ban lãnh đạo hải ngoại do Lê Hồng

Phong đứng đầu đã công bố Chương trình hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 6-

1932).

Cuộc đấu tranh đòi ân xá chính trị phạm đã dẫn tới năm 1934 toàn quyền Đông Dương đã ký

lệnh ân xá tù chính trị ở Đông Dương. Đây là lần đầu tiên Pháp ký lệnh ân xá tù chính trị.

Như vậy, nhờ sự cố gắng phi thường của Đảng, được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, đến

cuối 1934 đầu 1935 hệ thống tổ chức của Đảng đã được khôi phục và phong trào quần chúng

dần được nhen nhóm lại.

Khi hệ thống tổ chức của Đảng được khôi phục từ cơ sở tới Trung ương, Ban chỉ huy ở ngoài

của Đảng quyết định triệu tập Đại hội Đảng. Tháng 3-1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp tại

Ma Cao (Trung Quốc). Đại hội đề ra các nhiệm vụ trước mắt: Củng cố và phát triển Đảng cả về

lượng và chất; Đẩy mạnh cuộc vận động và thu phục quần chúng; Tuyên truyền chống đế quốc,

chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc…

Hồ Chí Minh nói: “Chính sách Đại hội Ma Cao vạch ra không sát với phong trào cách mạng thế

giới và trong nước bấy giờ”.

2. Trong những năm 1936-1939

a) Hoàn cảnh lịch sử

Tình hình thế giới:

- Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã làm cho mâu thuẫn nội tại của

chủ nghĩa tư bản thêm gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao.

- Một số nước đi vào con đường phát xít hoá: dùng bạo lực để đàn áp phong trào đấu tranh trong

nước và ráo riết chạy đua vũ trang phát động chiến tranh thế giới mới. Chủ nghĩa phát xít thắng

thế ở Đức, Ý, Nhật, chúng liên kết với nhau lập ra phe “Trục”, tuyên bố chống Quốc tế Cộng sản

và phát động chiến tranh chia lại thế giới. Nguy cơ phát xít và chiến tranh thế giới đe doạ nghiêm

trọng nền hoà bình và an ninh quốc tế.

- Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp tại Matxcơva (7-1935) xác định:

+ Kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung

mà là chủ nghĩa phát xít.

+ Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới chưa phải là đấu

tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành chính quyền mà là chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do,

dân chủ, hoà bình và cải thiện đời sống.

+ Đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, vấn đề lập Mặt trận thống nhất chống đế quốc có

tầm quan trọng đặc biệt.

Tình hình trong nước:

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống của mọi

giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trong khi đó, bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương ra sức

vơ vét, bóc lột và khủng bố phong trào đấu tranh của nhân dân làm cho bầu không khí chính trị

trở nên ngột ngạt, yêu cầu có những cải cách dân chủ.

b) Chủ trương và nhận thức mới của Đảng

- Tháng 7-1936, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ hai tại Thượng Hải. Xuất phát

từ tình hình thực tế Hội nghị đã xác định:

+ Mục tiêu chiến lược: không thay đổi so với Hội nghị lần thứ nhất- “cách mạng tư sản dân quyền

- phản đế và điền địa - lập chính quyền công nông bằng hình thức Xô viết”, “để dự bị điều kiện đi

tới cách mạng xã hội chủ nghĩa”.

+ Kẻ thù trước mắt và nguy hại nhất là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.

+ Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn

phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Để thực hiện được

nhiệm vụ này, BCH TƯ quyết định lập Mặt trận nhân dân phản đế gồm các giai cấp, đảng phái

các đoàn thể chính trị và các tôn giáo khác nhau, các dân tộc xứ Đông Dương để cũng đấu tranh

đòi những quyền dân chủ đơn sơ.

+ Về đoàn kết quốc tế: Đoàn kết với giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Pháp, ủng hộ Mặt

trận Nhân dân Pháp, ủng hộ Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp để cùng chống kẻ thù chung là

phát xít và phản động thuộc địa ở Đông Dương.

+ Về hình thức tổ chức và biện pháp đấu tranh: Hội nghị chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí

mật không hợp pháp sang hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp

và nửa hợp pháp. Mục đích mở rộng quan hệ của Đảng với quần chúng.

- Tháng 10-1936, Trung ương Đảng được tổ chức lại do đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư,

trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới Ban Chấp hành Trung ương cũng đặt ra vấn

đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong

cách mạng Đông Dương: cách mạng giải phóng dân tộc không nhất thiết phải gắn kết chặt với

cuộc cách mạng điền địa. “Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc đấu tranh

phản đế thì phải chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước”. Đó là nhận thức mới phù

hợp với tinh thần Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng, bước đầu khắc phục hạn chế của

Luận cương chính trị tháng 10-1930.

- Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng từ giữa năm 1936 trở đi khẳng định sự

chuyển hướng chỉ đạo cách mạng đúng đắn của Đảng. Hội nghị lần thứ ba (3-1937), lần thứ tư

(9-1937), tiếp đó là Hội nghị lần thứ năm (3-1938) đã đi sâu về công tác tổ chức của Đảng, quyết

định chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt động để tập hợp được đông đảo

quần chúng trong mặt trận chống phản động thuộc địa, chống phát xít, đòi tự do, cơm áo, hòa

bình.

- Tại Hội nghị tháng 7-1939 Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm Tự chỉ trích,

nhằm rút kinh nghiệm về những sai lầm, thiếu sót của Đảng viên, hoạt động công khai trong cuộc

vận động tranh cử ở Hội đồng quản hạt Nam kỳ (4-1939). Tác phẩm đã phân tích những vấn đề

cơ bản về xây dựng Đảng, tổng kết kinh nghiệm cuộc vận động dân chủ của Đảng, nhất là về

đường lối xây dựng Mặt trận dân chủ Đông Dương. Tác phẩm không chỉ có tác dụng lớn trong

cuộc đấu tranh khắc phục những lệch lạc, sai lầm trong phong trào vận động dân chủ, tăng

cường đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, mà còn là một văn kiện lý luận quan trọng về

công tác xây dựng Đảng, vận động quần chúng.

Tóm lại, trong những năm 1936-1939, bám sát tình hình thực tiễn, Đảng đã phát động được một

cao trào cách mạng rộng lớn trên tất cả các mặt trận: chính trị, kinh tế, văn hóa tư tưởng với các

hình thức đấu tranh phong phú và linh hoạt. Qua cuộc vận động dân chủ rộng lớn, uy tín và ảnh

hưởng của Đảng được mở rộng và nâng cao trong quần chúng, chủ nghĩa Mác-Lênin và đường

lối của Đảng được tuyên truyền rộng rãi trong khắp mọi tầng lớp nhân dân, tổ chức Đảng được

củng cố và mở rộng.

II. Chủ trương đấu tranh từ năm 1939 đến năm 1945

1. Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng

a. Tình hình thế giới và trong nước

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ:

Ngày 1-9-1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, trong đó Pháp là nước tham chiến. Chính phủ

Pháp thi hành một loạt các biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào

cách mạng thuộc địa.

Tháng 6-1940, Đức tấn công Pháp và Chính phủ Pháp đã đầu hàng. Ngày 22-6-1941, quân phát

xít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi phát xít Đức tấn công Liên Xô, tính chất chiến tranh đế quốc

chuyển thành cuộc chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực

lượng phát xít do Đức cầm đầu.

Tình hình trong nước:

Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất phản động: thẳng tay đàn áp

phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông

Dương. Thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” tăng cường vơ vét sức người, sức của phục vụ

chiến tranh, bắt lính sang Pháp làm bia đỡ đạn.

Lợi dụng sự thất thủ của Pháp ở Đông Dương, tháng 9-1940 Nhật Bản cho quân xâm lược Đông

Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng và dâng Đông Dương cho Nhật. Chịu cảnh “một cổ hai

tròng” đời sống của nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế.

Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với Pháp, Nhật và tay sai phản động ngày càng trở nên gay

gắt hơn bao giờ hết.

b) Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược

Thể hiện qua:

+ Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11-1939)

+ Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (11-1940)

+ Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) - quan trọng nhất

Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và căn cứ vào tình

hình cụ thể ở trong nước, BCH Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như

sau:

Một là, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu

Tạm gác khẩu hiểu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiều “tịch thu

ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo” chia lại ruộng đất cho công bằng,

giảm tô, giảm tức.

Hai là, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương

Ở Việt Nam, Trung ương Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt

Minh) thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau

đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.

Ba là, quyết định phải xúc tiến ngay công tác khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm

của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Để khởi nghĩa vũ trang đi đến thắng lợi cần phải phát triển lực

lượng cách mạng, tiến hành xây dựng căn cứ địa cách mạng.

Hội nghị cũng chú trọng công tác đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của

Đảng, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.

c. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược

`Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo BCH Trung ương Đảng đã giải quyết mục tiêu số một của

cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện mục tiêu ấy.

Đường lối đúng đắn gương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc đã dẫn đường cho nhân dân ta tiến

lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho

nhân dân. Chủ trương đúng đắn của Hội nghị thực sự là kim chỉ nam đối với hoạt động của Đảng

cho tới thắng lợi cuối cùng năm 1945.

Ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh tuyên bố ra đời. Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm

44 điều cụ thể để thực hiện 2 điều cơ bản là làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dân Việt

Nam được sung sướng, tự do. Thông qua Mặt trận Việt Minh, Đảng mở rộng các tổ chức quần

chúng và lãnh đạo phong trào đấu tranh của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Phong trào Việt

Minh phát triển mạnh nhất ở Bắc Kỳ sau đó lan rộng tới Trung kỳ và Nam kỳ.

Chuẩn bị về lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng: Sau khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940),

đội du kích Bắc Sơn được duy trì và đổi tên thành Cứu Quốc quân. Ngày 22-12-1944 Đội Việt

Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập ở Nguyên Bình (Cao Bằng) do đồng chí Võ

Nguyên Giáp lãnh đạo. Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân phát triển mau chóng, đẩy mạnh

công tác tuyên truyền vũ trang, xây dựng cơ sở cách mạng, thúc đẩy và cổ vũ phong trào đấu

tranh cách mạng trong cả nước.

Đảng và Hồ Chí Minh chỉ đạo việc thành lập các chiến khu và căn cứ địa cách mạng, tiêu biểu là

căn cứ Bắc Sơn-Vũ Nhai và căn cứ Cao Bằng

Năm 1943, Đảng công bố Đề cương Văn hóa Việt Nam - khẳng định Văn hóa là một trong ba

mặt trận cách mạng do Đảng lãnh đạo, tiến tới xây dựng nền văn hóa mang 3 tính chất: dân tộc,

khoa học và đại chúng.

Song song với việc lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống Pháp - Nhật. Đảng đã dày công chuẩn

bị lực lượng trên cả ba phương diện lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách

mạng, văn hóa tư tưởng để tiến tới giải phóng dân tộc khi thời cơ đến.

2. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền

a) Phát động Cao trào kháng Nhật, cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần

Phát động Cao trào kháng Nhật cứu nước:

Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới II đã đi vào giai đoạn kết thúc. Quân đồng minh chuẩn bị tiến

vào Đông Nam Á. Phát xít Nhật lâm vào tình trạng nguy khốn. Ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng lật

đổ Pháp trên toàn cõi Đông Dương, Pháp chống cự rất yếu ớt và nhanh chóng đầu hàng.

Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của

chúng ta. Nội dung:

- Chỉ thị đã nhận định: Nhật đảo chính Pháp sẽ tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc,

nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi, tuy nhiên nó sẽ làm cho những điều kiện

tổng khởi nghĩa mau chóng chín muồi.

- Xác định kẻ thù là Nhật, khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”. Đồng thời chủ trương phát động

cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho khởi nghĩa.

- Phương châm đấu tranh: phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ

địa

- Dự báo thời cơ:

+ Quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng

minh để phía sau sơ hở.

+ Cách mạng Nhật bùng nổ, chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập hoặc

Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần.

Cao trào kháng Nhật cứu nước đã thu được những kết quả quan trọng, là tiền đề trực tiếp đưa

tới thắng lợi của tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8-1945.

Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận:

- Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, Cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôI nổi, mạnh mẽ và

phong phú về nội dung, hình thức.

- Tháng 3/1945 tù chính trị nhà giam Ba Tơ khởi nghĩa, đội du kích Ba Tơ ra đời. Đây là lực

lượng vũ trang cách mạng đầu tiên do Đảng tổ chức và lãnh đạo ở miền Trung.

- Để chỉ đạo phong trào, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ được triệu tập (5/1945) đã quy

định thống nhất các lực lượng vũ trang, phát triển lực lượng bán vũ trang. Đồng thời, đẩy mạnh

chiến tranh du kích, xây dựng 7 chiến khu trong cả nước: Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Hoàng Hoa

Thám, Quang Trung ở Bắc Kỳ; Trưng Trắc, Phan Đình Phùng ở Trung Kỳ; Nguyễn Tri Phương ở

Nam Kỳ.

- Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào, Tuyên Quang. Ngày 4/6/1945 theo chỉ thị của Người

“Khu giải phóng” được thành lập gồm Cao-Bắc-Lạng-Thái-Tuyên-Hà và một số vùng phụ cận.

Khu giải phóng trở thành căn cứ địa chính của cách mạng cả nước và là hình ảnh thu nhỏ của

nước Việt Nam mới.

- Ở Đồng Bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, phong trào “phá kho thóc giải quyết nạn đói” đã lôi cuốn

hàng triệu quần chúng tham gia biến thành cuộc khởi nghĩa từng phần diễn ra ở nhiều địa

phương. Trong thời gian ngắn, Đảng đã động viên được hàng triệu quần chúng tiến lên trận

tuyến cách mạng.

b) Đảng phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước

- Điều kiện phát động tổng khởi nghĩa (thời cơ tổng khởi nghĩa) :

Chiến tranh thế giới II kết thúc, thắng lợi thuộc về phe Đồng minh, phát xít Đức đầu hàng Đồng

minh không điều kiện (9-5-1945), phát xít Nhật đi gần đến chỗ thất bại hoàn toàn, chính phủ thân

Nhật Trần Trọng Kim hoang mang cực độ. Tình thế cách mạng trực tiếp xuất hiện.

Quân đội các nước đế quốc với danh nghĩa đồng minh chuẩn bị vào Đông Dương tước vũ khí

quân Nhật.

Vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh.

- Ngày 13-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tân Trào quyết

định tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước từ tay phát xít Nhật, trước khi quân Đồng

minh vào Đông Dương.

Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành

chính quyền.

- Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào, tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của

Đảng Cộng sản Đông Dương, lập Uỷ ban dân tộc giải phóng do Hồ chí Minh làm Chủ tịch. Ngay

sau Đại hội Quốc dân, Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước: “giờ quyết định vận mệnh

dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng lên đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vũng dậy khởi nghĩa giành

chính quyền. Từ ngày 14-8: Giải phóng quân tiến công các đồn Nhật ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái

Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái. Ngày 14 đến ngày 18: Giành chính quyền ở Bắc Giang, Hải

Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Phúc Yên, Thanh Hoá, Thái Bình.

Ngày 19-8: Giành chính quyền ở Thủ đô Hà Nội. Ngày 23-8: Khởi nghĩa giành chính quyền ở

Huế. Ngày 25-8: Quân Nhật ở Sài Gòn thất thủ. Ngày 28-8: Ta giành chính quyền trong cả nước.

Uỷ ban dân tộc giải phóng tuyên bố tự cải tổ thành Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ

cộng hoà. Chỉ trong vòng 15 ngày (14 đến 28-8) cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công trên cả

nước, chính quyền về tay nhân dân.

Ngày 30-8: vua Bảo Đại thoái vị và giao nộp ấn, kiếm, áo bào cho đại diện Chính phủ Lâm thời

nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Ngày 2-9: Tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc Tuyên ngôn

độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.

c) Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám

Kết quả và ý nghĩa:

- Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã đập tan xiền xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong

hơn 80 năm, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế suốt 1000 năm và ách thống

trị của phát xít Nhật.

- Ra đời nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành

người tự do, người làm chủ vận mệnh của mình.

- Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật không hợp pháp trở thành một đảng

cầm quyền và hoạt động công khai.

- Nâng cao lòng tự hào dân tộc, để lại những bài học kinh nghiệm quý cho phong trào đấu tranh

giành độc lập và chủ quyền.

- Cách mạng tháng Tám thắng lợi đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa

của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ sụp đổ và tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ.

- Chứng minh cho tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin và những sáng tạo của Hồ Chí Minh

về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự

hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này

là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng

mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.

Nguyên nhân thắng lợi:

- Kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị Liên Xô và quân Đồng minh đánh bại,

quân đội Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu, Chính phủ Trần Trọng Kim rệu rã.

Đảng Cộng sản Đông Dương đã chớp thời cơ phát động tổng khởi nghĩa giành thắng lợi mau

chóng, ít đổ máu.

- Có sự lãnh đạo sáng suốt và đúng đắn của Đảng ta, của Hồ Chí Minh với đường lối cách mạng

đúng đắn, dày kinh nghiệm, đoàn kết, thống nhất, nắm bắt đúng thời cơ, kiên quyết, khôn khéo.

- Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất, đoàn kết và thống nhất trong Mặt

trận Việt Minh.

- Quần chúng có quá trình chuẩn bị đấu tranh lâu dài (15 năm), được tập dượt qua ba cao trào

cách mạng rộng lớn, tạo thành lực lượng chính trị hùng hậu có lực lượng vũ trang làm nòng cốt.

Bài học kinh nghiệm:

Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và

chống phong kiến.

Hai là, toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công-nông.

Ba là, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.

Bốn là, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng để đập tan bộ máy Nhà nước cũ, lập ra bộ máy Nhà

nước của nhân dân.

Năm là, nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ

Sáu là, xây dựng một Đảng Mác-Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

ổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (2-9-1945)

1. Nhật đầu hàng Đồng minh, thời cơ tổng khởi nghĩa Từ cuối tháng 4 đầu tháng 5-1945, từng

tháng, từng ngày, lịch sử chứng kiến sự diệt vong của chủ nghĩa phát xít, sự thắng lợi của

loài người tiến bộ và các lực lượng dân chủ chống phát xít.

1. Nhật đầu hàng Đồng minh, thời cơ tổng khởi nghĩa

Từ cuối tháng 4 đầu tháng 5-1945, từng tháng, từng ngày, lịch sử chứng kiến sự diệt vong của chủ

nghĩa phát xít, sự thắng lợi của loài người tiến bộ và các lực lượng dân chủ chống phát xít.

Ngày 9-8-1945, sau khi chiến thắng hoàn toàn quân Đức, Hồng quân Liên Xô bắt đầu tiến công quân

Nhật. Trong vòng không đầy một tuần lễ, quân đội Liên Xô đánh tan gần một triệu quân Nhật tại Mãn

Châu (Trung Quốc), buộc Nhật đầu hàng Liên Xô và Đồng minh không điều kiện. Chiến tranh Thái

Bình Dương, Chiến tranh thế giới lần thứ hai chấm dứt.

Việc gần một triệu quân Quan Đông thiện chiến nhất của Nhật bị tiêu diệt đã tác động mạnh đến tinh

thần quân Nhật ở Đông Dương. Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim cùng với các hạng tay sai khác

của Nhật đều hoang mang tan rã.

Điều kiện khách quan cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền đã hoàn toàn chín muồi, "thời

cơ ngàn năm có một" đã đến, trong lúc điều kiện chủ quan của ta hết sức thuận lợi.

Ngày 13-8-1945 Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập, liền ra "Quân lệnh số 1" hạ lệnh tổng

khởi nghĩa.

Từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945, tại Tân Trào diễn ra Hội nghị toàn quốc của Đảng. Hội nghị nhận

định: "Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi... Quân lính Nhật tan rã, mất tinh

thần, hàng ngũ chỉ huy Nhật ở Đông Dương chia rẽ đến cực điểm, bọn Việt gian thân Nhật hoảng sợ.

Toàn dân tộc đang sôi nổi đợi giờ khởi nghĩa giành chính quyền độc lập. Từ nhận định đó, Hội nghị đi

đến quyết định phát động toàn dân nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Anh, quân

Tưởng Giới Thạch vào Đông Dương tước khí giới quân Nhật và thực dân Pháp chưa kịp tập hợp lực

lượng, điều quân vào xâm lược nước ta lần nữa. Hội nghị 496 còn quyết định những vấn đề quan

trọng về chính sách đối nội, đối ngoại trong thời kỳ đầu sau khi giành được chính quyền.

Hội nghị toàn quốc của Đảng bế mạc thì Đại hội quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp ngay ở

Tân Trào (Tuyên Quang) trong hai ngày 16 và 17-8-1945. Tham dự Đại hội có hơn 60 đại biểu của

các giới, các đảng phái chính trị, các đoàn thể quần chúng, các dân tộc, các tôn giáo trong nước và

đại biểu kiều bào ở nước ngoài. Đại hội tán thành hoàn toàn chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng,

nhất trí thông qua 10 chính sách của Việt Minh, coi đó là chính sách cơ bản của cách mạng, cử ra ủy

ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đại hội còn quyết định lấy lá cờ đỏ sao vàng

làm Quốc kỳ, lấy bài Tiến quân ca làm Quốc ca.

Đại hội quốc dân vừa bế mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên khởi

nghĩa giành chính quyền:

Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà

tự giải phóng cho ta... chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh đồng bào

hãy dũng cảm tiến lên?.

2. Tổng khởi nghĩa tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời

Hưởng ứng lệnh tổng khởi nghĩa của Đảng, lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng bào cả nước,

triệu người như một, nhất tề đứng lên với tinh thần "Dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy

Trường Sơn, cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập".

Chiều 16-8-1945, theo lệnh của Uỷ ban khởi nghĩa, một đơn vị quân giải phóng do Võ Nguyên Giáp

chỉ huy, xuất phát từ Tân Trào, nơi Đại hội quốc dân đang họp, tiến về thị xã Thái Nguyên, mở đầu

cuộc tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong cả nước.

Ở nhiều tỉnh xa, lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương đến chậm, nhưng nhờ thấm nhuần các chỉ thị,

nghị quyết của Đảng trước đó, nhất là tinh thần chỉ thị "Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng

ta", đồng thời căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương, khi được tin Nhật đầu hàng Đồng minh,

lãnh đạo Đảng, Mặt trận dã kịp thời, chủ động phát động quần chúng nổi dậy.

Từ ngày 14 đến ngày 18-8-1945, Ở hầu hết các tỉnh miền Bắc, quần chúng cách mạng đã nổi dậy

giành chính quyền ở cấp xã và cấp huyện, rồi tiến lên giành chính quyền ở tỉnh.

Ngày 18-8-1945, nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh,Quảng Nam giành được chính quyền ở

tỉnh lỵ sớm nhất trong cả nước.

Ngày 19-8-1945, cả Hà Nội đỏ rực màu cờ. Hàng chục vạn quần chúng cách mạng ở nội và ngoại

thành mang theo gậy dao, súng, mã tấu... tiến về quảng trường Nhà hát thành phố dự cuộc mít tinh

do Việt Minh tổ chức. Cuộc mít tinh bắt đầu lúc 11 giờ. Sau loạt súng chào cờ và bài Tiến quân ca

vang lên, đại biểu Uỷ ban quân sự cách mạng đọc lời hiệu triệu khởi nghĩa của Việt Minh. Cuộc mít

tinh phát triển nhanh chóng chuyển thành cuộc biểu tình tuần hành vũ trang. Quần chúng biểu tình

chia thành nhiều đoàn, có các đơn vị tự vệ chiến đấu, tiến về các ngả đường, chiếm các cơ quan của

chính quyền bù nhìn: Phủ Khâm sai, Toà Thị chính, Sở cảnh sát, Trại bảo an binh... Trước khí thế

sục sôi của quần chúng khởi nghĩa, Nhật dù có hơn một vạn quân cũng không thể làm gì được. Binh

lính và cảnh sát ngụy cũng bất lực và cuối cùng ngả theo cách mạng. Chính quyền hoàn toàn về tay

nhân dân.

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội (ngày 19 tháng 8) đã có tiếng vang nhanh trong cả nước, có

tác dụng cổ vũ mạnh mẽ các tỉnh và các thành phố khác, làm tăng thêm cuộc khủng hoảng trong

hàng ngũ kẻ thù, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc tổng khởi nghĩa.

Ở Huế, ngày 23-8-1945, quần chúng các huyện ngoại thành đã giành được chính quyền cùng phối

hợp với công nhân, thanh niên, sinh viên, học sinh và các tầng lớp lao động khác trong nội thành,

tiến hành cuộc biểu dương lực lượng. Bộ máy chính quyền bù nhìn hoàn toàn tê liệt. Quân đội Nhật

nằm im. Quần chúng khởi nghĩa lần lượt chiếm các công sở của địch mà không có sự kháng cự nào

đáng kể.

Được tin cách mạng thắng lợi ở Hà Nội, Đảng bộ miền Nam và Sài Gòn quyết định phát động quần

chúng khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn và các tỉnh. Đêm 24-8-1945, từng đoàn quân khởi

nghĩa của công nhân, nông dân,thanh niên, sinh viên, học sinh và các tầng lớp lao động khác, trong

tay gậy tầm vông vót nhọn và giáo mác, từ các tỉnh xung quanh rầm rập kéo về Sài Gòn. Sáng 25-8-

1945, hơn một triệu người biểu tình tuần hành thị uy. Quân khởi nghĩa lần lượt chiếm các công sở

quan trọng của địch. Quân đội Nhật "án binh bất động". Cuộc khởi nghĩa giành được thắng nhanh

chóng.

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Sài Gòn có ý nghĩa quyết định đến cuộc khởi nghĩa của các tỉnh còn

lại ở miền Nam.

Trừ mất thị xã do Tưởng Giới Thạch và tay sai chiếm đóng từ trước (Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai,

Lai Châu, Vĩnh Yên), cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi trên cả nước trong vòng nửa tháng, từ

ngày 14 đến ngày 28-8-1945.

Ngày 25-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và Uỷ ban dân tộc giải phóng từ

Tân Trào về đến Hà Nội. Theo đề nghị của Người, Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Đại hội

quốc dân Tân Trào cử ra được cải tổ thành chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng

hoà.Chính phủ lâm thời thể hiện chính sách đại đoàn kết của Đảng, đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp

nhân dân, các đảng phái yêu nước, các nhân sĩ tiến bộ.

Ngày 28-8-1945, một phái đoàn của Chính phủ lâm thời từ Hà Nội vào Huế dự lễ thoái vị của vua

Bảo Đại. Chiều 30 tháng 8,ở Ngọ Môn, dưới rừng cờ đỏ sao vàng, diễn ra cuộc mít tinh của hàng vạn

nhân dân cố đô Huế, chứng kiến Bảo Đại - ông vua cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam, đọc

lời thoái vị và trao ấn, kiếm cho cách mạng. Đại diện Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà

tuyên bố xoá bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam.

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh lớn của hàng chục vạn nhân

dân đủ các tầng lớp ở thủ đô và các vùng lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời

trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố với toàn thể quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam dân

chủ cộng hoà ra đời.

Bản Tuyên ngôn Độc lập khẳng định quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của nhân dân Việt Nam

được hưởng tự do độc lập mà tự mình giành lại từ tay Nhật: "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ

của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía Đồng minh chống phát xít mấy năm

nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập?... Và sự thật đã thành một nước tự

do độc lập".

Bản Tuyên ngôn đồng thời khẳng định ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi của nhân dân Việt Nam

quyết giữ vững quyền thiêng liêng ấy: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực

lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".

Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử trọng đại, và ngày 2-9-1945 mãi mãi ghi vào lịch sử Việt Nam

là ngày hội lớn của dân tộc Việt Nam - ngày tuyên bố thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Nguồn:Lương Ninh 2000, Chương XV – Cuộc vận động giành độc lập, tự do (Việt Nam 1930-1945),

Lịch sử Việt Nam giản yếu, Hà Nội, Chính trị Quốc gia, Tr.495-501.

Kết hợp chặt chẽ chính trị với quân sự trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám

Thứ hai 26/08/2013 14:00

Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc những năm 1939-1945, đỉnh cao là cuộc Tổng khởi

nghĩa Tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã giải quyết thành công một loạt các vấn đề then chốt về tư

tưởng lý luận, nhạy bén, sáng suốt trong chỉ đạo thực tiễn, trong đó có nghệ thuật chỉ đạo tài tình

và tổ chức lực lượng rộng khắp, kịp thời tiến hành tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi.

Thành công lớn nhất, đặc sắc nhất của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là kịp thời nắm bắt và chủ động tận

dụng triệt để thời cơ để lãnh đạo toàn dân tiến hành tổng khởi nghĩa. Đến tháng 8-1945, tình hình thế giới

và trong nước có sự chuyển biến rất mau lẹ, tạo thời cơ thuận lợi cho cách mạng nước ta. Đó là phát xít

Nhật đầu hàng Đồng minh, quân Nhật ở Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia hoang mang, tinh thần chiến đấu

rệu rã. Chính quyền tay sai và bọn Việt gian thân Nhật hoảng sợ, dao động. Trong khi đó, cao trào kháng

Nhật, cứu nước của nhân dân và LLVT cách mạng dâng lên tột đỉnh; một số tầng lớp trung gian do dự, lừng

khừng đã ngả theo cách mạng. Đảng Cộng sản Đông Dương, đội tiên phong lãnh đạo cách mạng đã được

chuẩn bị đầy đủ và quyết tâm đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử dân tộc.

Quán triệt và nắm vững thời cơ của cách mạng, Trung ương Đảng cấp tốc họp Hội nghị Đại biểu toàn quốc (từ ngày 13-8 đến 15-8-1945) quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Như vậy, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định chính xác thời cơ đến với cách mạng Việt Nam chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn, đó là lúc quân Đồng minh chưa vào Đông Dương để giải giáp quân Nhật, không thể chậm trễ. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định phải giành được chính quyền để lấy danh nghĩa là người chủ của nước Việt Nam độc lập đón tiếp khi quân Đồng minh đến.

Nhân dân và LLVT thủ đô Hà Nội mít tinh tại Quảng trường Nhà hát Lớn ngày 19-8-1945. Ảnh tư liệu

Một trong những thành công nổi bật về nghệ thuật chỉ đạo khởi nghĩa là Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

phát động và huy động được sức mạnh của toàn dân ở từng địa phương và trên quy mô cả nước. Thực

hiện Lệnh tổng khởi nghĩa, từ ngày 14-8-1945, các lực lượng tham gia khởi nghĩa được huy động và tổ

chức thành những đội quân chính trị rất rộng lớn và đội quân vũ trang, trong đó có Việt Nam Giải phóng

quân và LLVT các địa phương làm nòng cốt, xung kích, từ các vùng nông thôn đồng bằng, thành thị đến

trung du, miền núi, nhất là lực lượng ở các chiến khu (Việt Bắc, Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Ba Tơ…),

các thành phố lớn (Hà Nội, Sài Gòn, Huế…) do Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc và các đảng bộ địa phương

lãnh đạo tiến hành khởi nghĩa. Tất cả các lực lượng tham gia cuộc tổng khởi nghĩa trên cả nước quán triệt

sâu sắc 3 nguyên tắc: Tập trung lực lượng vào những mục tiêu chính; thống nhất các mặt chính trị, quân

sự, hành động và chỉ huy; kịp thời tổ chức hành động đồng loạt, không bỏ lỡ cơ hội. Nhờ tổ chức được

những đạo quân chính trị đông đảo và đội quân vũ trang, vận dụng đúng 3 nguyên tắc và tiến hành tổng

khởi nghĩa đúng thời cơ, Đảng ta đã phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân.

Thành công nổi bật về nghệ thuật chỉ đạo từ khởi nghĩa từng phần, tiến lên tổng khởi nghĩa trên quy mô cả

nước là sự sáng tạo về tổ chức lực lượng và kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng quân

sự của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nắm bắt thời cơ thuận lợi, đông đảo quần chúng nhân dân có đội

quân vũ trang (tổ, đội) hỗ trợ ở nhiều địa phương đã đồng loạt nổi dậy. Một số địa phương chưa nhận được

Lệnh tổng khởi nghĩa, nhưng dựa theo Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, các tổ

chức đảng đã lãnh đạo lực lượng quần chúng, có các đội tự vệ xung kích nổi dậy, giành chính quyền ở địa

phương. Cuộc tổng khởi nghĩa trên cả nước diễn ra rất đa dạng, phong phú. Trong số 65 tỉnh, thành phố,

đặc khu tiến hành khởi nghĩa, có 36 tỉnh, thành phố về cơ bản lực lượng khởi nghĩa bắt đầu từ xã, huyện

tiến lên tỉnh lỵ, từ ngoại thành vào nội thành, rồi kết thúc ở một số huyện, xã còn lại; 15 tỉnh tổ chức lực

lượng tiến hành khởi nghĩa ở tỉnh lỵ trước rồi lan về các huyện và 11 tỉnh, đặc khu tổ chức lực lượng cùng

khởi nghĩa cả ở tỉnh lỵ và nông thôn trong một ngày. Trong quá trình tổng khởi nghĩa, hầu hết các tỉnh,

thành phố đều kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và LLVT, giữa đấu tranh chính trị với đòn tiến công

quân sự, trong đó lực lượng chính trị, đấu tranh chính trị đóng vai trò quyết định, LLVT, đấu tranh vũ trang

đóng vai trò chế áp lực lượng địch, kết hợp với sách lược mềm dẻo, cô lập và vô hiệu hóa phát xít Nhật và

bọn tay sai nên giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu.

Bằng các đòn đấu tranh chính trị, nổi dậy của quần chúng có tự vệ vũ trang xung kích hỗ trợ và đòn tiến công quân sự của LLVT, chỉ trong vòng nửa tháng (từ ngày 14-8 đến 28-8-1945), cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước đã cơ bản kết thúc. Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là kết quả của quá trình chuẩn bị chu đáo về lực lượng, nắm bắt thời cơ, huy động và phát huy sức mạnh của toàn dân, kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và LLVT cả ở nông thôn và thành thị, đồng bằng, trung du và miền núi trên khắp các miền của đất nước, trong đó lực lượng chính trị đóng vai trò quyết định,  LLVT cách mạng giữ vai trò xung kích, hỗ trợ tích cực, giành chính quyền nhanh gọn khiến quân thù và các thế lực phản động không kịp đối phó, nhanh chóng tan rã.

19/8/1945 ngày tổng khởi nghĩa

Tháng 8 năm 1945, cuốc chiến tranh thế giới đi vào giai đoạn kết thúc. Sau khi tiêu diệt phát xít Đức tại sào huyệt của chúng, Liên Xô quay sang tấn công tên phát xít phương Đông là Nhật Bản. Phong trào đấu tranh chống Nhật bùng lên mạnh mẽ ở các nước phía đông và Đông Nam Châu Á. Con thú dữ ở Á đông đó lâm vào tình trạng tột cùng nguy khốn. Thời cơ cách mạng đang mở ra trước con đường giải phóng của các dân tộc, Đảng ta đứng trước một cơ hội lịch sử ngàn năm có một, giờ phút có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh của đất nước. Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) trong 2 ngày 14 và 15 tháng 8 năm 1945 đã giải quyết vấn đề trọng đại: quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đại biểu các đảng bộ từ Bắc, Trung, Nam, từ các chiến khu và khu giải phóng về dự đông đủ. Hội nghị họp vào lúc phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng. Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh liền thành lập “ủy ban khởi nghĩa toàn quốc” để lãnh đạo khởi nghĩa trong cả nước. Trong tình hình hết sức khẩn trương, Đảng quyết định phát động và lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền

từ tay phát xít Nhật và bọn bù nhìn tay sai của chúng trước khi quân đồng minh Anh, Pháp vào nước ta. 23 giờ đêm 13 tháng 8, ủy ban khởi nghĩa ra “Quân lệnh số I” hạ lệnh tổng khởi nghĩa: ... “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh!Quyết chiến! Quyết chiến! Quyết chiến!Thắng lợi nhất định về ta” Mệnh lệnh khởi nghĩa và lời hiệu triệu cứu nước là tiếng gọi của non sông thức tỉnh con tim mỗi người Việt Nam yêu nước hãy nhất tề đứng dậy tranh đấu giành quyền Độc lập- Tự do. Lòng yêu nước thiết tha và sự đoàn kết nhất trí được biểu lộ rõ nét trong Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào ngày 15-8. Hơn 60 đại biểu của các thành phần dân tộc, tôn giáo và các đoàn thể, đảng phái tề tựu trước mái đình Hồng Thái để bàn việc cứu nước. Ý chí quyết chiến của hội nghị Diên Hồng thuở trước giờ đây đang sống lại và bội phần mãnh liệt tại Đại hội Tân Trào. Các đại biểu đều tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng. Đại hội quy định quốc kỳ, quốc ca, 10 chính sách lớn và cử ra ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, tức là Chính phủ lâm thời sau này. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc, sau bao năm đấu tranh kiên cường vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc, đã được đại hội nhất trí bầu làm chủ tịch - Chủ tịch Hồ Chí Minh. Không khí cách mạng sôi sục trong cả nước. Nắm được thời cơ thuận lợi, nhiều địa phương ở Quảng Ngãi, Hà Tĩnh đã nổi dậy giành chính quyền từ ngày 14-8. Ngày 18, chính quyền các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Quảng Nam đã về tay nhân dân. Ngày 15, xứ ủy Bắc Kỳ trực tiếp chỉ thị cho Hà Nội khởi nghĩa. Hà Nội sống trong những ngày rạo rực chuẩn bị nổi dậy, các tầng lớp nhân dân nhất là thanh niên, hăng hái gia nhập các đoàn thể cứu quốc, tuyên truyền cho Việt Minh, thành lập các đội tự vệ chiến đấu. Chiều 17, cuộc biểu tình của Tổng hội công chức bị biến thành cuộc mít tinh lớn của Việt Minh. Cờ đỏ sao vàng xuất hiện trên tầng hai Nhà hát Thành phố, đại biểu Việt Minh kêu gọi nhân dân đứng dậy giành chính quyền, lật đổ chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim. Như một tia lửa nhen lên từ cánh đồng cỏ khô, ngọn lửa cách mạng bùng cháy, cả Hà Nội bừng bừng khí thế đấu tranh theo lời kêu gọi của Đảng. Cuộc biểu tình chiều 17 làm cho kẻ thù càng thêm hoảng hốt. Trái lại, quần chúng cách mạng phấn chấn, ráo riết chuẩn bị khởi nghĩa. Sáng ngày 18, ủy ban khởi nghĩa của thành uỷ đã chuyển từ ngoại thành vào nhà số 101 Trần Hưng Đạo để trực tiếp chỉ đạo cuộc đấu tranh. Từ sáng ngày 19, hàng chục vạn nhân dân thành phố rầm rập tiến về Quảng trường Nhà hát lớn. Đúng 11 giờ trưa, cuộc mít tinh bắt đầu. Lời kêu gọi khởi nghĩa của Đảng được quần chúng đón mừng bằng những tiếng reo hò và những khẩu hiệu hô vang khắp quảng trường: * Thành lập chính phủ Cộng hòa Dân chủ Việt Nam* Việt Nam hoàn toàn độc lập* Đả đảo chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim. Cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu tình tuần hành vĩ đại. Dòng người chia thành nhiều ngả, có các đội tự vệ chiến đấu dẫn đầu đi chiếm các công sở và chiếm lĩnh các vị trí xung yếu. Hai cánh

cổng phủ khâm sai (nay là nhà khách chính phủ) đóng im ỉm. Đoàn biểu tình dừng lại, nhiều người vượt qua hàng rào sắt nhảy vào bên trong chiếm lấy trụ sở cơ quan đầu não của địch. Cờ đỏ sao vàng được kéo lên cao, phần phật tung bay trước gió. Ở trại Bảo an ninh, bọn Nhật cho xe tăng và quân lính chặn các ngã đường. Nhưng chúng không thể ngăn cản được làn sóng người đang cuồn cuộn tiến bước, sẵn sàng đạp bằng mọi trở ngại. Tuy còn hàng vạn tên lính với vũ khí đầy đủ, quân Nhật cũng phải lùi bước. Nhân dân Hà Nội đã hoàn toàn làm chủ thành phố của mình. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội đã cổ vũ tinh thần đấu tranh của toàn dân, thúc đẩy các nơi nổi dậy giành chính quyền. Cuốc khởi nghĩa ở Hà Nội có tác dụng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng của cả nước. Cùng ngày 19, nhân dân các tỉnh Yên Bái, Thái Bình, Phú Yên, Thanh Hóa, Khánh Hòa nổi dậy giành chính quyền. Ngày 20, khởi nghĩa bùng nổ ở Bắc Ninh, Thái Nguyên, Ninh Bình. Ngày 21, các tỉnh Cao Bằng, Tuyên Quang, Sơn Tây, Nam Định, Kiến An, Nghệ An, Ninh Thuận lật đổ chính quyền phản động ở các địa phương. Ngày 22, khởi nghĩa thắng lợi ở Hưng Yên, Quảng Yên. Ngày 23 tháng 8, thành phố Huế nổi dậy khởi nghĩa. Trên 15 vạn người xuống đường biểu tình, cùng các đơn vị tự vệ đi chiếm các công sở. Trước sức mạnh như nước vỡ bờ của cách mạng, tên vua phong kiến cuối cùng của triều Nguyễn là Bảo Đại phải xin thoái vị. Nền quân chủ chuyên chế hoàn toàn sụp đổ. Cùng với thắng lợi của Huế, ngày 23, các tỉnh Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Gia lai, Tân An, Bạc Liêu... nổi dậy giành chính quyền. Ngày hôm sau, nhân dân Hà Nam, Phú Thọ, Đắc Lắc, Phú Yên, Bình Thuận, Gò Công, Mỹ Tho khởi nghĩa thắng lợi. Ngày 25 tháng 8, cả thành phố Sài Gòn sục sôi không khí khởi nghĩa. Từ đêm trước, hàng vạn công dân, nông dân và thanh niên các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Biên Hòa, Thủ Dầu Một... đều đổ dồn về Sài Gòn. Sáng 25, quần chúng cách mạng chiếm các sở công an, cảnh sát, nhà ga, bưu điện cùng nhiều vị trí xung yếu khác trong thành phố. Quân Nhật hầu như không dám chống cự. Cuộc biểu tình của hơn một triệu người hoan nghênh ủy ban nhân dân Nam Bộ, hô vang khẩu hiệu “ Việt Nam hoàn toàn độc lập”, “ Tất cả chính quyền về tay Việt Minh” đã đánh dấu thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn. Cùng lúc với cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn, các tỉnh Lạng Sơn, Kon Tum, Đồng Nai, Chợ Lớn, Gia Định, Sóc Trăng, Long Xuyên, Vĩnh Long, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Châu Đốc, Trà Vinh, Tây Ninh, Biên Hòa, Bến Tre, Sa Đéc nổi dậy khởi nghĩa. Ngày 26, khởi nghĩa thắng lợi ở Hòn Gai, Sơn La, Cần Thơ. Ngày 27, nhân dân nổi dậy giành chính quyền ở Rạch Giá, hôm sau ở Hà Tiên. Trong vòng 10 ngày từ 19 đến 28 tháng 8 hầu hết các tỉnh và thành phố đều nổi dậy khởi nghĩa. Bọn phát xít Nhật thua trận không dám hành động. Chế độ quân chủ bị lật đổ. Chính quyền trong cả nước hoàn toàn về tay nhân dân.

 Từ đó, ngày 19-8 đi vào lịch sử của dân tộc, là ngày khởi nghĩa của Hà Nội, ngày đánh dấu cao trào Tổng khởi nghĩa trong cả nước, ngày cách mạng Tháng tám thành công.Kỷ niệm 67 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9Chớp thời cơ tổng khởi nghĩa giành chính quyềnQĐND - Thứ Bẩy, 18/08/2012, 17:40 (GMT+7)

QĐND - Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành chính quyền về tay nhân dân

đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý, trong đó nổi bật là nghệ thuật chỉ đạo khởi nghĩa từng

phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước.

Đầu năm 1945, tình hình thế giới và Đông Dương đã có những điều kiện mới, nhân tố mới cho phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam phát triển thành cao trào rộng lớn. Chiến tranh thế giới thứ II bước vào giai đoạn kết thúc, phát-xít Đức bị Hồng quân Liên Xô đánh tan, buộc phải ký đầu hàng vô điều kiện quân Đồng minh (ngày 9-5-1945). Ở Đông Dương, phát-xít Nhật mặc dù đã liên tiếp thất bại ở nhiều nơi, nhưng biết được âm mưu của Pháp, đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương. Ngay trong đêm 9-3-1945, Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng chí Trường Chinh chủ trì, ra Bản chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Ngày 12-3-1945 Ban thường vụ Trung ương Đảng họp, đã chỉ ra những khủng hoảng sâu sắc về chính trị mà cuộc đảo chính này gây ra. Trung ương Đảng nhận định: Thời kỳ phát triển hòa bình cách mạng đã qua, nhưng toàn dân tổng khởi nghĩa chưa tới, thời cơ cục bộ xuất hiện, nhưng tình thế trực tiếp cách mạng trên phạm vi cả nước chưa chín muồi. Trước tình hình đó, Thường vụ Trung ương Đảng chỉ đạo khởi nghĩa từng phần ở những địa phương có đủ điều kiện và giành thắng lợi ở một số địa phương, sau đó lan nhanh khắp các vùng nông thôn 6 tỉnh Việt Bắc và từ căn cứ địa Việt Bắc lan đến hàng loạt chiến khu ở nhiều vùng rừng núi và nông thôn thuộc Bắc Bộ, Trung Bộ. Các hoạt động bức hàng đồn bốt, xóa bỏ chính quyền địch ở thôn xã, lập các Ủy ban Việt Minh, tổ chức nhân dân phá kho thóc cứu đói... Nhiều đội tự vệ cứu quốc chặn đánh các cuộc càn quét của quân Nhật vào khu căn cứ, bảo vệ vùng giải phóng, thu hẹp phạm vi kiểm soát của quân Nhật, tạo điều kiện thuận lợi cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước thắng lợi.

LLVT bảo vệ quần chúng Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm1945 tại Hà Nội. Ảnh tư liệu.

Đảng ta đã thành công trong xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và chỉ đạo khởi

nghĩa từng phần. Từ đó, chuẩn bị mọi mặt, khi có thời cơ, Đảng ta phát động tổng khởi nghĩa.

Để khởi nghĩa thắng lợi, Đảng ta xây dựng, phát triển căn cứ địa và chiến khu cách mạng trên

phạm vi cả nước, lấy đó làm chỗ đứng chân và bàn đạp cho lực lượng vũ trang hoạt động;

chuẩn bị lực lượng, vũ khí trang bị, tạo thế và lực, phát động cao trào kháng Nhật, tập dượt cho

quần chúng sẵn sàng bước vào hành động cách mạng của tổng khởi nghĩa vũ trang giành

chính quyền trên phạm vi cả nước.

Khi thời cơ đến, ngày 13-8-1945, Đảng triệu tập hội nghị Trung ương ra Nghị quyết: “Phát động

Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc”. Thực hiện chỉ đạo của Trung ương Đảng,

từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945, tất cả các địa phương trong cả nước đã đứng lên tổng khởi

nghĩa giành chính quyền. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập,

khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công khẳng định sự vận dụng tài tình nghệ thuật chớp

thời cơ của Đảng ta. Thời điểm này, phong trào cách mạng nước ta đã lên tới cao trào, quần

chúng cách mạng, mặt trận Việt Minh đã sẵn sàng hành động với một khí thế chưa từng có.

Lực lượng cách mạng đã lôi kéo được các tầng lớp trung gian, trước đó còn lừng chừng ngả hẳn

về phía cách mạng. Đảng Cộng sản Đông Dương có kế hoạch, cử cán bộ chủ chốt về các địa

phương lãnh đạo tổng khởi nghĩa. Đó là lúc quân Anh chưa vào miền Nam và quân Tưởng chưa

vào miền Bắc để giải giáp quân Nhật, cũng là lúc quân Nhật bại trận, mất tinh thần, ngồi chờ

quân Đồng minh đến tước vũ khí, ngụy quyền tay sai bỏ trốn hoặc đầu hàng chính quyền cách

mạng. Nhờ vậy sức mạnh của toàn dân ta được nhân lên gấp bội, tiến tới tổng khởi nghĩa giành

chính quyền trên cả nước một cách nhanh, gọn, ít đổ máu và thành công triệt để.

Đảng ta đã sử dụng phương thức quân sự, chính trị phối hợp, đồng thời với đòn tiến công của

LLVT cách mạng và sự nổi dậy của lực lượng chính trị quần chúng, trong đó lực lượng chính trị

đóng vai trò quyết định, tiến hành mít tinh, biểu tình, thị uy, bao vây các công sở, gây sức ép,

kêu gọi địch đầu hàng, tuyên truyền thanh thế của cách mạng, thị uy biểu dương lực lượng.

LLVT làm hậu thuẫn cho lực lượng chính trị nổi dậy và giải quyết các tình thế đột xuất: Diệt ác

ôn trừ gian, bảo vệ các cuộc mít tinh, biểu tình của nhân dân.

Việc chọn địa bàn tổng khởi nghĩa ở cả nông thôn và thành thị với tinh thần đồng loạt nổi dậy.

Khi nhận được “Quân lệnh số 1”, cả nước đều nhất loạt khởi nghĩa, làm cho quân Nhật không

kịp trở tay, không còn khả năng giải tỏa, ứng cứu chi viện cho nhau. Mục tiêu khởi nghĩa được

chọn là các cơ quan đầu não, các công sở chính quyền địch, như ở Hà Nội là Tòa Khâm sai, Phủ

Toàn quyền và các cơ quan đầu não ở các tỉnh, thành phố... Việc lựa chọn mục tiêu chính xác,

góp phần thúc đẩy tổng khởi nghĩa giành thắng lợi nhanh chóng trên cả nước.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý, là tài sản

vô giá trong kho tàng nghệ thuật quân sự Việt Nam. Vận dụng bài học của Cách mạng Tháng

Tám, chúng ta cần tranh thủ những điều kiện và thời cơ thuận lợi trong nước và quốc tế, phát

huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, truyền thống yêu nước và cách mạng, ý chí

tự lực, tự cường, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội…, thực hiện thắng lợi hai nhiệm

vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Đại tá Đào Văn Đệ

19-08-1945: Cách mạng tháng tám, tổng khởi nghĩa giành chính quyền.8/19/2013 8:38:00 AM Print:   Email:   Share: 

Đầu năm 1945, quân đội Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi trên chiến trường Châu Âu, giải phóng

hàng loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt của phát xít Đức ở Béclin. Ngày 8/5/1945, phát xít

Đức đầu hàng vô điều kiện. Ngày 8/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật, đẩy quân phiệt

Nhật vào tình thế thất bại. Ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, nhận

định thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền đã tới, những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã

chín muồi. Uỷ ban khởi nghĩa gửi quân lệnh số 1 cho đồng bào và cho chiến sĩ cả nước ngay

trong đêm ấy.

Ngày 16/8/1945, đại hội họp ở Tân Trào đã thông qua “10 Chính sách lớn của Việt Minh”, thông

qua “lệnh tổng khởi nghĩa” quyết định Quốc Kỳ nền đỏ, sao vàng, chọn bài tiến quân ca làm

Quốc ca và bầu ra uỷ ban dân tộc giải phóng Trung Ương, tức chính phủ lâm thời do đồng chí

Hồ Chí Minh làm chủ tịch.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến.

Toàn thể đồng bào ta hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta” . Dưới sự lãnh đạo

của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta từ Bắc đến Nam đã tiến hành cuốc tổng khởi nghĩa cách

mạng tháng tám thành công.

Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ 14/8, một ngày sau khi Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc. Từ

ngày 14 đến 18, tổng khởi nghĩa giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng miền Bắc, đại bộ

phận miền Trung, một phần miền Nam và các thị xã Bắc Giang, Hải Phòng, Hà Tĩnh, Hội An.

Ngày 17/8, ở Hà Nội, tổng hội viên chức chính quyền bù nhìn tổ chức một cuộc mittinh lớn tại

Quảng trường nhà hát thành phố, có hàng vạn người tham gia để ủng hộ chính phủ bù nhìn Trần

Trọng Kim. Trong mittinh này, dưới sự lãnh đạo của xứ Uỷ Bắc Kỳ và thành Uỷ Hà Nội, quần

chúng cách mạng đã giương cao lá cờ đỏ sao vàng, chiếm lấy diễn đàn cuộc mittinh, cán bộ Việt

Minh đã diễn thuyết báo tin cho đồng bào biết quân phiệt Nhật đã đầu hàng và giới thiệu chủ

trương đường lối cứu nước của Việt Minh, kêu gọi nhân dân đánh đổ chính quyền bù nhìn thân

Nhật. Cuộc mittinh đã tiến thành cuộc biểu tình, tuần hành thị uy, bắt đầu từ quảng trường nhà

hát thành phố và lan khắp nơi trên phố phường Hà Nội. Cả Hà Nội tưng bừng khí thế sục sôi

khởi nghĩa.

Ngụy quyền cực kỳ bối rối hoang mang, chúng dựng lên cái gọi là “Uỷ ban chính trị” đề nghị với

Việt Minh: “Đằng nào các ông cũng thắng, nhưng để điều đình với Đồng Minh sẽ vào Đông

Dương giải giáp quân Nhật, đề nghị vùng nông thôn cách thành phố 15km là thuộc quyền

các ông, còn thành phố cần có nhân sĩ, trí thức đứng ra giao dịch với Đồng Minh”.

Đại biểu Việt Minh đã trả lời dứt khoát, “giao dịch với Đồng Minh lúc này, ngoài Việt Minh không

ai có thể có lực lượng và danh nghĩa cả”.

Sáng ngày 19/8, theo lời kêu gọi của Việt Minh, cả Hà Nội vùng dậy dưới rừng cờ đỏ sao vàng

xuống đường tiến thẳng về trung tâm Nhà hát thành phố để dự mittinh. Họ vừa đi vừa hô khẩu

hiệu:

* Đả đảo chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.

* Thành lập chính phủ dân chủ cộng hòa Việt Nam.

* Anh em binh lính hãy mang súng gia nhập hàng ngũ chiến đấu bên cạnh Việt Minh.

* Việt Nam hoàn toàn độc lập.

Cuộc mittinh diễn ra vào ngày 19/8/1945. Sau loạt súng chào cờ và bài Tiến Quân Ca, đại biểu

uỷ ban quân sự cách mạng đọc lời hiệu triệu của Việt Minh. Cuộc mittinh trở thành cuộc biểu tình

vũ trang tiến vào chiếm phủ khâm sứ, trại lính bảo an và các cơ sở của chính phủ bù nhìn.

Từ Hà Nội, làn sóng cách mạng toả đi khắp nơi, cả nước vùng dậy đấu tranh giành chính quyền

và liên tiếp giành thắng lợi.

Cách mạng tháng tám là sự kiện vĩ đại trong lich sự dân tộc, đánh dấu bước tiến nhảy vọt của

cách mạng Việt Nam. Đây là lần đầu tiên giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được

chính quyền trong cả nước, lần đầu tiên chế độ dân chủ nhân dân ở Việt Nam ra đời.

Chủ trương đấu tranh từ năm 1939 đến năm 1945 

1. Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảnga. Tình hình thế giới và trong nước

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ:

Ngày 1-9-1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, trong đó Pháp là nước tham chiến. Chính phủ Pháp thi hành một loạt các biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng thuộc địa.

Tháng 6-1940, Đức tấn công Pháp và Chính phủ Pháp đã đầu hàng. Ngày 22-6-1941, quân phát xít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi phát xít Đức tấn công Liên Xô, tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành cuộc chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phát xít do Đức cầm đầu.

Tình hình trong nước:

Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất phản động: thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” tăng cường vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh, bắt lính sang Pháp làm bia đỡ đạn.

Lợi dụng sự thất thủ của Pháp ở Đông Dương, tháng 9-1940 Nhật Bản cho quân xâm lược Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng và dâng Đông Dương cho Nhật. Chịu cảnh “một cổ hai tròng” đời sống của nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với Pháp, Nhật và tay sai phản động ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.

b) Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược

Thể hiện qua:

+ Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11-1939)

+ Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (11-1940)

+ Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) - quan trọng nhất

Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ thể ở trong nước, BCH Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau:

Một là, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu

Tạm gác khẩu hiểu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiều “tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo” chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm tô, giảm tức.

Hai là, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương

Ở Việt Nam, Trung ương Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa

tuổi, đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.

Ba là, quyết định phải xúc tiến ngay công tác khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Để khởi nghĩa vũ trang đi đến thắng lợi cần phải phát triển lực lượng cách mạng, tiến hành xây dựng căn cứ địa cách mạng.

Hội nghị cũng chú trọng công tác đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.

c. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược

`Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo BCH Trung ương Đảng đã giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện mục tiêu ấy.

Đường lối đúng đắn gương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc đã dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân. Chủ trương đúng đắn của Hội nghị thực sự là kim chỉ nam đối với hoạt động của Đảng cho tới thắng lợi cuối cùng năm 1945.

Ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh tuyên bố ra đời. Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm 44 điều cụ thể để thực hiện 2 điều cơ bản là làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dân Việt Nam được sung sướng, tự do. Thông qua Mặt trận Việt Minh, Đảng mở rộng các tổ chức quần chúng và lãnh đạo phong trào đấu tranh của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Phong trào Việt Minh phát triển mạnh nhất ở Bắc Kỳ sau đó lan rộng tới Trung kỳ và Nam kỳ.

Chuẩn bị về lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng: Sau khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), đội du kích Bắc Sơn được duy trì và đổi tên thành Cứu Quốc quân. Ngày 22-12-1944 Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập ở Nguyên Bình (Cao Bằng) do đồng chí Võ Nguyên Giáp lãnh đạo. Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân phát triển mau chóng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền vũ trang, xây dựng cơ sở cách mạng, thúc đẩy và cổ vũ phong trào đấu tranh cách mạng trong cả nước.

Đảng và Hồ Chí Minh chỉ đạo việc thành lập các chiến khu và căn cứ địa cách mạng, tiêu biểu là căn cứ Bắc Sơn-Vũ Nhai và căn cứ Cao Bằng

Năm 1943, Đảng công bố Đề cương Văn hóa Việt Nam - khẳng định Văn hóa là một trong ba mặt trận cách mạng do Đảng lãnh đạo, tiến tới xây dựng nền văn hóa mang 3 tính chất: dân tộc, khoa học và đại chúng.

Song song với việc lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống Pháp - Nhật. Đảng đã dày công chuẩn bị lực lượng trên cả ba phương diện lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng, văn hóa tư tưởng để tiến tới giải phóng dân tộc khi thời cơ đến.

2. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền

a) Phát động Cao trào kháng Nhật, cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần

Phát động Cao trào kháng Nhật cứu nước:

Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới II đã đi vào giai đoạn kết thúc. Quân đồng minh chuẩn bị tiến vào Đông Nam Á. Phát xít Nhật lâm vào tình trạng nguy khốn. Ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng lật đổ Pháp trên toàn cõi Đông Dương, Pháp chống cự rất yếu ớt và nhanh chóng đầu hàng.

Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Nội dung:

- Chỉ thị đã nhận định: Nhật đảo chính Pháp sẽ tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi, tuy nhiên nó sẽ làm cho những điều kiện tổng khởi nghĩa mau chóng chín muồi.

- Xác định kẻ thù là Nhật, khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”. Đồng thời chủ trương phát động cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho khởi nghĩa.

- Phương châm đấu tranh: phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa

- Dự báo thời cơ:

+ Quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau sơ hở.

+ Cách mạng Nhật bùng nổ, chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần.

Cao trào kháng Nhật cứu nước đã thu được những kết quả quan trọng, là tiền đề trực tiếp đưa tới thắng lợi của tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8-1945.

Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận:

- Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, Cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôI nổi, mạnh mẽ và phong phú về nội dung, hình thức.

- Tháng 3/1945 tù chính trị nhà giam Ba Tơ khởi nghĩa, đội du kích Ba Tơ ra đời. Đây là lực lượng vũ trang cách mạng đầu tiên do Đảng tổ chức và lãnh đạo ở miền Trung.

- Để chỉ đạo phong trào, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ được triệu tập (5/1945) đã quy định thống nhất các lực lượng vũ trang, phát triển lực lượng bán vũ trang. Đồng thời, đẩy mạnh chiến tranh du kích, xây dựng 7 chiến khu trong cả

nước: Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung ở Bắc Kỳ; Trưng Trắc, Phan Đình Phùng ở Trung Kỳ; Nguyễn Tri Phương ở Nam Kỳ.

- Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào, Tuyên Quang. Ngày 4/6/1945 theo chỉ thị của Người “Khu giải phóng” được thành lập gồm Cao-Bắc-Lạng-Thái-Tuyên-Hà và một số vùng phụ cận. Khu giải phóng trở thành căn cứ địa chính của cách mạng cả nước và là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.

- Ở Đồng Bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, phong trào “phá kho thóc giải quyết nạn đói” đã lôi cuốn hàng triệu quần chúng tham gia biến thành cuộc khởi nghĩa từng phần diễn ra ở nhiều địa phương. Trong thời gian ngắn, Đảng đã động viên được hàng triệu quần chúng tiến lên trận tuyến cách mạng.

b) Đảng phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước

- Điều kiện phát động tổng khởi nghĩa (thời cơ tổng khởi nghĩa) :

Chiến tranh thế giới II kết thúc, thắng lợi thuộc về phe Đồng minh, phát xít Đức đầu hàng Đồng minh không điều kiện (9-5-1945), phát xít Nhật đi gần đến chỗ thất bại hoàn toàn, chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim hoang mang cực độ. Tình thế cách mạng trực tiếp xuất hiện.

Quân đội các nước đế quốc với danh nghĩa đồng minh chuẩn bị vào Đông Dương tước vũ khí quân Nhật.

Vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh.

- Ngày 13-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tân Trào quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước từ tay phát xít Nhật, trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương.

Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành chính quyền.

- Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào, tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, lập Uỷ ban dân tộc giải phóng do Hồ chí Minh làm Chủ tịch. Ngay sau Đại hội Quốc dân, Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước: “giờ quyết định vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng lên đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vũng dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Từ ngày 14-8: Giải phóng quân tiến công các đồn Nhật ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái. Ngày 14 đến ngày 18: Giành chính quyền ở Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Phúc Yên, Thanh Hoá, Thái Bình.

Ngày 19-8: Giành chính quyền ở Thủ đô Hà Nội. Ngày 23-8: Khởi nghĩa giành chính

quyền ở Huế. Ngày 25-8: Quân Nhật ở Sài Gòn thất thủ. Ngày 28-8: Ta giành chính quyền trong cả nước. Uỷ ban dân tộc giải phóng tuyên bố tự cải tổ thành Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chỉ trong vòng 15 ngày (14 đến 28-8) cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công trên cả nước, chính quyền về tay nhân dân.

Ngày 30-8: vua Bảo Đại thoái vị và giao nộp ấn, kiếm, áo bào cho đại diện Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Ngày 2-9: Tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.

c) Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám

Kết quả và ý nghĩa:

- Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã đập tan xiền xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong hơn 80 năm, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế suốt 1000 năm và ách thống trị của phát xít Nhật.

- Ra đời nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người tự do, người làm chủ vận mệnh của mình.

- Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật không hợp pháp trở thành một đảng cầm quyền và hoạt động công khai.

- Nâng cao lòng tự hào dân tộc, để lại những bài học kinh nghiệm quý cho phong trào đấu tranh giành độc lập và chủ quyền.

- Cách mạng tháng Tám thắng lợi đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ sụp đổ và tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ.

- Chứng minh cho tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin và những sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.

Nguyên nhân thắng lợi:

- Kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị Liên Xô và quân Đồng minh đánh bại, quân đội Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu, Chính phủ Trần Trọng Kim rệu rã. Đảng Cộng sản Đông Dương đã chớp thời cơ phát động tổng

khởi nghĩa giành thắng lợi mau chóng, ít đổ máu.

- Có sự lãnh đạo sáng suốt và đúng đắn của Đảng ta, của Hồ Chí Minh với đường lối cách mạng đúng đắn, dày kinh nghiệm, đoàn kết, thống nhất, nắm bắt đúng thời cơ, kiên quyết, khôn khéo.

- Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất, đoàn kết và thống nhất trong Mặt trận Việt Minh.

- Quần chúng có quá trình chuẩn bị đấu tranh lâu dài (15 năm), được tập dượt qua ba cao trào cách mạng rộng lớn, tạo thành lực lượng chính trị hùng hậu có lực lượng vũ trang làm nòng cốt.

Bài học kinh nghiệm:

Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.

Hai là, toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công-nông.

Ba là, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.

Bốn là, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng để đập tan bộ máy Nhà nước cũ, lập ra bộ máy Nhà nước của nhân dân.

Năm là, nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ

Sáu là, xây dựng một Đảng Mác-Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945 và Cách mạng tháng Tám 1945 - Nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa thành lập 

I.Phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945 

1. Sự chuyển hướng đấu tranh của Đảng Cộng sản Đông Dương: 

- Tháng 11 - 1939, hội nghị trung ương 6 họp tại Gia Định do Nguyễn Văn Cừ chủ trì. 

- Nội dung: 

+ Mục tiêu trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, làm cho Đông Dương và

Việt Nam hoàn toàn độc lập. 

+ Tạm gác khẩu hiệu Cách mạng ruộng đất và đề ra khẩu hiệu Tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ

phản động, chống địa tô cao và cho vay nặng lãi. Khẩu hiệu Thành lập chính quyền Xô viết công - nông -

binh được đổi thành Thành lập chính phủ cộng hòa dân chủ Đông Dương. 

+ Phương pháp đấu tranh: từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ sang đánh đổ chính quyền đế quốc tay

sai. Chuyển từ đấu tranh công khai, hợp pháp sáng đấu tranh bí mật, bất hợp pháp. 

+ Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thay Mặt trận dân chủ Đông Dương bao

gồm các tầng lớp, giai cấp,... gặp nhau ở lòng yêu nước và chống đế quốc. 

- Ý nghĩa: đánh dấu sự mở đầu cho việc thay đổi chủ trương đấu tranh cách mạng của Đảng. 

2. Công cuộc chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền: 

- Xây dựng lực lượng chính trị: 

+ Lấy Cao Bằng, nơi thí điểm xây dựng các hội cứu quốc. Năm 1942, 9 châu ở Cao Bằng đều có hội cứu

quốc trong đó 3 châu là hoàn toàn. Ủy ban Việt minh Cao Bằng và Ủy ban Việt minh Cao - Bắc - Lạng được

thành lập. 

+ Ở các thành phố, thị xã, hội phản đế được thành lập ( 11 - 1939 đến 5 - 1941 ) chuyển thành hội cứu

quốc. 

+ Đảng tập hợp các lực lượng học sinh, sinh viên, trí thức, tư sản dân tộc,... vào Mặt trận cứu nước. Năm

1943, đưa ra Đề cương văn hóa Việt Nam và vận động thành lập Hội văn hóa cứu quốc. Tháng 6 - 1944,

Đảng dân chủ Việt Nam tham gia Việt minh. 

+ Vận động binh lính ngoại Kiều chống phát xít. Báo chí của Đảng và Mặt trận Việt minh được phát hành:

Giải phóng, Cờ giải phóng, Việt Nam độc lập,... nhằm tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, đấu

tranh chống thủ đoạn chính trị, văn hóa của địch. 

- Xây dựng lực lượng vũ trang: 

+ Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, lực lượng vũ trang chuyển thành các đội du kích hoạt động ở Bắc Sơn - Võ

Nhai. Ngày 1 - 5 - 1941, trung đội cứu quốc quân 1 ra đời, thực hiện chiến tranh du kích trong 8 tháng ( từ 7

- 1941 đến 2 - 1942 ). Ngày 15 - 9 - 1941, trung đội cứu quốc quân 2 thành lập. 

+ Cuối 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định xây dựng các đội tự về vũ trang, tổ chức các lớp huấn luyện về

quân sự, chính trị. 

- Xây dựng căn cứ địa cách mạng: 

+ Bắc Sơn, Võ Nhai và Cao Bằng được xây dựng thành căn cứ địa cách mạng, hàng ngày diễn ra các hoạt

động sản xuất và chiến đấu của các đội cứu quốc và lực lượng vũ trang. 

+ Ngày 28 - 2 - 1943, hội nghị trung ương Đảng họp tại Võng La ( Đông Anh ) đã vạch ra kế hoạch cụ thể,

chuẩn bị toàn diện cho khởi nghĩa vũ trang. 

- Sau hội nghị: 

+ Ở thành phố, thị xã: các đoàn thể Việt Minh, hội cứu quốc được xây dựng và củng cố ở các trường học. 

+ Ở miền Trung: tổ chức Việt Minh phat triển mạnh trong công nhân, nông dân và dân nghèo thành thị. 

+ Ở miền Nam: tổ chức Việt Minh được xây dựng ở Sài Gòn, Tây Ninh. 

+ Ở Bắc Sơn, Vũ Nhai: cứu quốc quân hoạt động mạnh nhằm tuyên truyền vũ trang, gây dựng cơ sở chính

trị và mở rộng căn cứ. 

+ Tại Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn: năm 1943, lập ra 19 ban xung phong Nam tiến. 

+ Ngày 7 - 5 - 1944, Việt Minh ra chỉ thị sửa soạn khởi nghĩa, sắm vũ khí, đuổi thù chung. 

+ Tháng 10 - 1944, trung ương Đảng và tổng bộ Việt Minh đã chuyển khởi nghĩa Bắc Sơn - Võ Nhai thành

chiến tranh du kích và trì hoãn kháng chiến Cao - Bắc - Lạng. 

+ Ngày 22 - 2 - 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành lập. Ngày 24 và 25 - 12, ta chiến

thắng lẫy lừng ở Phay Khắt, Nà Ngần. 

II. Cách mạng tháng Tám 1945 - Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập 

1. Khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng bộ phận trong Cao trào kháng Nhật cứu nước: 

a. Thời cơ trong cách mạng tháng Tám: 

- Điều kiện khách quan vô cùng thuận lợi: 

+ Liên Xô và Đồng minh đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt Nhật đã tạo điều kiện

khách quan thuận lợi cho các dân tộc đứng lên giải phóng. 

+ Quân Nhật ở Đông Dương và bọn tay sai thân Nhật hoang mang rệu rã đến cực điểm. Kẻ thù của cách

mạng nước ta suy yếu đến cực độ. 

- Điều kiện chủ quan cho cuộc cách mạng nổ ra và giành được thắng lợi rất đầy đủ: 

+ Đảng cộng sản Đông Dương đã có quá trình chuẩn bị chu đáo cho thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng

Tám trong suốt 15 năm với ba cao trào cách mạng: 1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945. Trong cao trào

giải phóng dân tộc 1939 - 1945, Đảng cộng sản Đông Dương đã lãnh đạo nhân dân ta chuẩn bị đầy đủ và

chu đáo về mặt đường lối, lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng và bước đầu

taaph hợp được cho quần chúng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. 

+ Khi phát xít Nhật đầu hàng không điều kiện quân Đồng Minh, Đảng ta kịp thời chớp thời cơ, chuẩn bị chu

đáo hơn nữa và dũng cảm phát động toàn dân nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị toàn

quốc của Đảng họp ở Tân Trào từ 13 đến 15 - 8 - 1945 đã quyết định phát động Tổng khởi nghĩa và Đại hội

quốc dân Tân Trào ngày 16 và 17 - 8 - 1945 hưởng ứng mệnh lệnh Tổng khởi nghĩa của Đảng quyết định

thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, chuẩn

bị những công việc cuối cùng cho Tổng khởi nghĩa. 

b. Chủ trương của Đảng: 

- Ngày 12 - 3 - 1945, ban thường vụ trung ương Đảng ra chỉ thị Nhật - Pháp đánh nhau và hành động của

chúng ta. Chỉ thị đã nêu rõ là điều kiện khởi nghĩa vũ trang đã chín muồi, phát xít Nhật là kẻ thù chính và cụ

thể của cách mạng Đông Dương, thay khẩu hiệu Đánh đổ Nhật, Pháp bằng Đánh đuổi phát xít Nhật. 

- Đấu tranh từ bất hợp tác, bãi công, biểu tình, thị uy, vũ trang du kích chuyển sang hình thức tổng khởi

nghĩa. 

- Phát động phong trào chống Nhật cứu nước, làm tiền đề cho cuộc khởi nghĩa. 

Ý nghĩa: thể hiện sự sáng suốt, kịp thời của Đảng là kim chỉ nam cho hành động của Đảng. 

c. Khởi nghĩa từng phần: 

- Ở khu căn cứ Cao - Bắc - Lạng: 

Đội Việt Nam tuyên truyền cứu quân và lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, huyện,

thành lập chính quyền, các hội cứu quốc được củng cố và phát triển. 

- Ở Bắc Kì: 

Diễn ra phong trào phá kho thóc Nhật, giải quyết nạn đói ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Ninh Bình,

Quảng Yên,... 

- Ở Quảng Ngãi: 

Tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ nổi dậy, thành lập chính quyền cách mạng, tổ chức đội du kích Ba Tơ. 

- Ở nhà tù đế quốc: 

Hỏa Lò ( Hà Nội ), Nghĩa Lộ, Sơn La,... tù chính trị nổi dậy đấu tranh, đòi tự do, phá nhà lao. Đây là nguồn

cán bộ bổ sung rất lớn cho cách mạng. 

- Hội nghị quân sự Bắc Kì ( họp từ 15 đến 20 - 4 -1945 ): 

Hội nghị quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang, phát triển lực lượng vũ trang và nửa vũ trang, mở

trường đào tạo cấp tốc cho cán bộ quân sự và chính trị, phát triển du kích, xây dựng căn cứ địa phá Nhật.

Ủy ban quân sự Bắc Kì được thành lập. 

- Sau hội nghị: 

+ Ngày 16 - 4 - 1945, Việt Minh ra chỉ thị thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng trung ương và các cấp. 

+ Ngày 15 - 5 - 1945, đội Việt Nam tuyên truyền phối hợp với cứu quân thành Việt Nam giải phóng quân và

có bảy chiến khu trung ương ra đời. 

+ Tháng 5 - 1945, Hồ Chí Minh chuyển từ Pắc Pó ( Cao Bằng ) về Tân Trào ( Tuyên Quang ), lấy đây là

trung tâm chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước. 

+ Tháng 6 - 1945, khu giải phóng Việt Bắc được thành lập. 

Công việc chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám vẫn đang diễn ra và cả dân tộc ở trong tư thế chờ thời cơ để

giành chính quyền. 

2. Tổng khởi nghĩa tháng Tám giành chính quyền trong cả nước: 

- Ngay từ những ngày đầu tháng 8 - 1945, một không khí gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa đã sục sôi trong cả

nước. Khi nghe tin Nhật đầu hàng Đồng minh, đồng thời thực hiện quyết định Tổng khởi nghĩa giành chính

quyền của Hội nghị toàn quốc của Đảng và Quốc dân đại hội họp ở Tân Trào thì cuộc khởi nghĩ vũ trang

của quần chúng đã chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang tổng khởi nghĩa. 

- Chiều 16 - 8 - 1945, theo lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, một đội quân giải phóng do Võ Nguyên Giáp chỉ

huy, xuất phát từ Tân Trào về thị xã Thái Nguyên bao vậy và tiến công quân Nhật ở thị xã, mở đầu cho

cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. 

- Ngày 18 - 8 - 1945, bốn tỉnh giành chính quyền ở tỉnh lị sớm nhất là Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh,

Quảng Nam. 

- Sáng 19 - 8 - 1945, cả thủ đô Hà Nội tràn ngập khí thế cách mạng. Đồng bào kéo tới quảng trường Nhà

hát lớn dự cuộc mít tinh do Mặt trận Việt Minh tổ chức. Cuộc mít tinh nhanh chóng chuyển thành biểu tình,

chia ra nhiều đoàn đi chiếm phủ khâm sai, tòa thị chính, trại lính bảo an, sở cảnh sát, các công sở của

chính quyền bù nhìn. Trước khí thế quần chúng khởi nghĩa, hơn 1 vạn quân Nhật ở Hà Nội không dám

chống lại. Ngày 19 - 8 - 1945, cuộc khởi nghĩa thắng lợi hoàn toàn ở Thủ đô Hà Nội. Sự kiện này có tác

dụng cổ vũ to lớn đối với phong trào của cả nước. 

- Ngày 23 - 8 - 1945, Huế - thành lũy hàng trăm năm của phong kiến triều Nguyễn và thủ phủ chính quyền

bù nhìn trung ương cũng lọt vào tay nhân dân cách mạng. 

- Ngày 25 - 8 - 1945, Sài Gòn - thành lũy cuối cùng của chế độ thực dân sụp đổ. Thắng lợi của các cuộc

khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã có tác dụng vô cùng quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với

thắng lợi của Cách mạng tháng Tám trong phạm vi cả nước. 

- Ngày 28 - 8 - 1945, hai tỉnh cuối cùng là Hà Tiên và Đồng Nai Thượng giành chính quyền. Như vậy, chỉ

trong vòng 15 ngày ( 14 - 8 đến 28 - 8 ), cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công hoàn toàn. Lần đầu tiên trong

lịch sử dân tộc, chính quyền cả nước thực sự thuộc về tay nhân dân ta. 

- Ngày 30 - 8 - 1945, Bảo Đại - ông vua cuối cùng của triều đại phong kiến nhà Nguyễn tuyên bố thoái vị,

chấm dứt chế độ phong kiến hàng nghìn năm ở nước ta. 

- Ngày 2 - 9 - 1945, tại Quảng trường Ba Đình, trước hàng chục vạn đồng bào thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh

thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân và thế giới rằng

nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra đời. 

3. Ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học lịch sử của Cách mạng tháng Tám 1945: 

* Ý nghĩa: 

- Đây là một chiến thắng lớn của ta, nó đã phá tan xiếng xích nô lệ của Nhật - Pháp và lật nhào ngai vàng

phong kiến. Nước ta trở thành một nước độc lập, nhân dân ta từ nô lệ lên địa vị làm chủ nước nhà. 

- Đánh dấu bước nhảy vọt của cách mạng Việt Nam, mở đầu kỉ nguyên độc lập, tự do của dân tộc; kỉ

nguyên nhân dân lao động làm chủ vận mệnh đất nước. 

- Góp phần vào chiến thắng phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chọc thủng khâu yếu nhất trong hệ

thống thuộc địa của đế quốc và góp phần làm suy yếu chúng, cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa đấu

tranh tự giải phóng như hai nước Lào và Campuchia. 

* Nguyên nhân thắng lợi: 

- Nguyên nhân khách quan: 

Chiến thắng của Đồng minh trong cuộc chiến chống bọn phát xít, đặc biệt là chiến thắng phát xít Đức và

bọn quân phiệt Nhật Bản của Hồng quân Liên Xô đã cổ vũ tinh thần, củng cố niềm tin cho nhân dân ta trong

sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, tạo thời cơ để nhân dân ta đứng lên tổng khởi nghĩa. 

- Nguyên nhân chủ quan: 

+ Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước nên khi Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh phát

động là nhất tề đứng lên cứu nước, cứu nhà. 

+ Cách mạng do Đảng Cộng sản Đông Dương và Hồ Chí Minh lãnh đạo đã có những chiến lược, chủ

trương và sách lược đúng đắn dựa trên lí luận Mác - Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt

Nam. 

+ Để giành thắng lợi, Đảng ta đã chuẩn bị trong suốt 15 năm và đã rút được nhiều kinh nghiệm. 

+ Toàn Đảng, toàn dân nhất trí, đồng lòng, không sợ hi sinh, gian khổ quyết tâm giành độc lập, tự do. Các

cấp lãnh đạo linh hoạt, sáng tạo chỉ đạo khởi nghĩa, chớp thời cơ phát động quần chúng nổi dậy giành

chính quyền. 

* Bài học kinh nghiệm: 

- Đảng đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam một cách phù hợp, giải quyết đúng đắn

mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, đề cao vấn đề dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên

hàng đầu. 

- Đảng đã tập hợp, tổ chức đoàn kết lực lượng cách mạng nên đã tạo nên sức mạnh toàn dân và phân hóa,

cô lập kẻ thù rồi tiến tới đánh bại chúng. 

- Trong chỉ đạo khởi nghĩa, Đảng linh hoạt kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, kết hợp chiến

tranh du kích, đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần, khởi nghĩa ở nông thôn và thành thị tiến tới tổng

khởi nghĩa. 

- Đảng luôn kết hợp giữa đấu tranh và xây dựng để ngày càng vững mạnh về tổ chức, tư tưởng và chính trị,

đủ năng lực và uy tín lãnh đạo phong trào cách mạng thành công. 

(Sưu tầm)

Thích (1)     (0)

Ngày gửi: 16/03/2010 - 16:06

Lời cảm ơn  3 điểm

Cảm ơn câu trả lời của lovelife.

kimlongk...

- Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ ( 9-1939 ), phát xít Đức chiếm nước Pháp; ở Viễn Đông, phát xít Nhật

đẩy mạnh xâm lược toàn Trung Quốc và tiến sát biên giới Việt - Trung. 

- Trong nước, bọn thực dân Pháp ở Đông Dương thỏa hiệp với phát xít Nhật, tăng cường đàn áp cách

mạng. 

- Đứng trước tình hình mới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp Hội nghị lần thứ

6 ( 11-1939 ). Hội nghị đã xác định kẻ thù trước mắt là chủ nghĩa đế quốc phát xít và nhiệm vụ trung tâm

trước mắt của cách mạng là đánh đổ đế quốc phát xít Pháp - Nhật và tay sai, làm cho Việt nam hoàn toàn

độc lập. Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và cấp bách nhất. Các nhiệm vụ khác ( cả nhiệm vụ

chống phong kiến ) phải nhằm giải quyết nhiệm vụ chống đế quốc phát xít. 

- Chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng

lớp, các giai cấp, các dân tộc. 

Hình thức và phương pháp đấu tranh phù hợp là dùng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ

trang và khởi nghĩa vũ trang. 

Hội nghị Trung ương lần thứ 6 đã đề ra chủ trương chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng Việt Nam

trong thời kì 1939-1945, đã thể hiện sự đúng đắn, sáng tạo, làm bùng lên phong trào đấu tranh giải phóng

dân tộc. 

- Năm 1941, Phát xít Đức chuẩn bị tấn công Liên Xô. Trong nước, đời sống nhân dân dưới hai tầng áp bức

Nhật - Pháp mâu thuẫn dân tộc lên cao hơn bao giờ hết. 

- Ngày 28-1-1941 Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Trước tình hình thế giới và trong

nước ngày càng khẩn trương, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội ngghị Trung ương Đảng lần thứ 8 ( từ 10

đến 19-5-1941 ) tại Pác Bó - Hà Quảng - Cao Bằng. 

- Nội dung là đề cao hơn nữa nhiệm vụ giải phóng dân tộc và đưa nhiệm vụ này lên hàng đầu. 

- Giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, ở mỗi nước thành lập một mặt trận

đoàn kết dân tộc. Ở Việt Nam là Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh ( gọi tắt là Mặt trận Việt Minh ).

Môn Sử: Việt Nam từ 1930 đến 1945Tác giả: Vũ Quang Hiển — 22:46, 27/03/2013

PGS.TS Vũ Quang Hiển – Giảng viên Khoa Lịch sử.Trong bài này, PGS.TS Vũ Quang Hiển sẽ giúp các bạn ôn thi phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 kèm một số câu hỏi và bài tập.

A. Mục tiêu

- Trình bày được tình hình kinh tế – xã hội Việt Nam do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933.

- Trình bày được hoàn cảnh lịch sử, chủ trương của Đảng, ý  nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của các phong trào cách mạng 1930 – 1931 và 1936 – 1939.

- Trình bày và nhận xét được nội dung các phong trào cách mạng 1930-1931 và 1936-1939.

- So sánh được các giai đoạn cách mạng trong thời kì 1930 – 1945 (về kẻ thù, mục tiêu, lực lượng và phương pháp đấu tranh).

- Phân tích được ảnh hưởng của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai đối với Việt Nam trong giai đoạn 1939 – 1945.

- Trình bày và nhận xét được chủ trương của Đảng trong giai đoạn 1939 – 1945.

- Trình bày và nhận xét được những chủ trương của Đảng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Luận cương chính trị tháng 10-1930 và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941).

- Trình bày và nhận xét được những chủ trương của Đảng về tập hợp lực lượng cách mạng qua  Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Luận cương chính trị tháng 10-1930 và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941).

- Giải thích được nguyên nhân dẫn đến cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp ở Đông Dương (9-3-1945).

- Tóm tắt được quá trình chuẩn bị lực lượng, đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.

- Trình bày được nội dung cơ bản và ý nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập (2 – 9 – 1945).

- Phân tích được ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của cách mạng tháng Tám.

B. Nội dung

I. Phong trào cách mạng 1930 – 1935

1. Phong trào cách mạng 1930 – 1931

a.  Nguyên nhân dẫn đến sự bùng nổ của phong trào

- Tác động của phong trào cách mạng thế giới:

+ Những năm 1929 – 1933, thế giới tư bản lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng trên quy mô lớn, để lại hậu quả hết sức nặng nề, làm cho những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản phát triển gay gắt. Phong trào đấu tranh của công nhân và quần chúng lao động dâng cao.

+ Trong khi đó, Liên Xô đang xây dựng thành công chủ  nghĩa xã hội, hoàn thành công nghiệp hóa và đang tiến hành tập thể hóa nông nghiệp. Quảng Châu công xã (Trung Quốc) thắng lợi.

+ Sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới có ảnh hưởng tích cực đến cách mạng Việt Nam. Đây là nguyên nhân quan trọng thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam.

- Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và sai phát triển gay gắt

+ Hậu quả lớn nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 đối với Việt Nam là làm trầm trọng thêm tình trạng đói khổ của các tầng lớp nhân dân lao động.

+ Đầu năm 1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân đảng lãnh đạo đã bị thất bại. Chính quyền thực dân tiến hành một chiến dịch khủng bố dã man những người yêu nước.

+ Tình hình kinh tế  và chính trị trên đây làm cho mâu thuẫn giữa cả dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và tay sai phát triển vô cùng gay gắt. Đây là nguyên nhân sâu xa và trực tiếp dẫn đến phong trào đấu tranh của quần chúng.

- Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

+ Đầu năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với tổ chức chặt chẽ  và cương lĩnh chính trị đúng đắn, nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam, quy tụ lực lượng và sức mạnh toàn dân tộc Việt Nam, kịp thời lãnh đạo nhân dân bước vào một thời kì đấu tranh mới.

+ Đây là nguyên nhân chủ yếu và có  ý nghĩa quyết định, bởi vì nếu không có  sự lãnh đạo của Đảng thì tự bản thân những mâu thuẫn giai cấp xã hội chỉ có  thể dẫn tới những cuộc đấu tranh lẻ tẻ, tự phát, mà không thể trở thành một phong trào tự giác trên quy mô rộng lớn được.

b. Diễn biến

- Từ tháng 2 đến tháng 4/1930 là bước khởi đầu của phong trào với ba cuộc bãi công tiêu biểu của 3000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng, 4.000 công nhân nhà máy sợi Nam Định và 400 công nhân nhà máy Cưa và nhà máy Diêm  Bến Thuỷ.

- Tháng 5/1930, phong trào phát triển thành cao trào. Ngày 1 – 5 – 1930 lần đầu tiên nhân dân Việt Nam kỉ niệm ngày Quốc tế Lao động. Khắp nơi diễn ra các hình thức đấu tranh để kỉ niệm như mít tinh, biểu tình, bãi công, bãi khoá, bãi thị, treo cờ đỏ búa liềm, rải truyền đơn, căng khẩu hiệu… Tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh của 5000 công nhân và nông dân khu vực thành phố Vinh, đòi tăng tiền lương, bớt giờ làm, chống sưu thuế…

- Trong nửa sau năm 1930, phong trào tiếp tục nổ ra ở nhiều nơ:

+ Bãi công của công nhân nổ ra ở hầu khắp các cơ sở kinh tế của tư bản Pháp.

+ Phong trào nông dân bùng nổ dữ dội chưa từng thấy. Ở Bắc Kì có các cuộc biểu tình của nông dân Tiền Hải (Thái Bình), Duy Tiên (Hà Nam). Ở Trung Kì, có các cuộc đấu tranh của nông dân Đức Phổ, Sơn Tịnh (Quảng Ngãi). Ở Nam Kì, có cuộc đấu tranh ở Bà Chiểu (Sài Gòn – Chợ Lớn)….

+ Ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, phong trào nông dân tiép tục lên cao với những cuộc biểu tình lớn có vũ trang tự vệ,  kéo đến huyện lị, tỉnh lị đòi giảm sưu thuế, như nông dân các huyện Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng nguyên, Quỳnh Lưu, Thanh Chương, Đô Lương, Anh Sơn, Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kì Anh…

+ Tiêu biểu nhất là cuộc biểu tình ngày 12/9/1930 của nông dân Hưng Nguyên (Nghệ An) kéo đến huyện lị, phá nhà lao, đốt huyện đường, vậy lính khố xanh, ủng hộ cuộc bãi công của công nhân Bến Thuỷ.

+ Chính quyền thực dân bị tê liệt, tan rã  ở nhiều nơi. Chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều vùng nông thôn thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.

- Từ cuối năm 1930, khi chính quyền Xô viết ra đời, thực dân Pháp tập trung lực lượng đàn áp, kết hợp sử dụng bạo lực với những thủ doạn lừa bịp về chính trị. Phong trào cách mạng bị tổn thất nặng nề. Một số cuộc đấu tranh lẻ tẻ còn kéo dài sang năm 1931 thì kết thúc.

c. Xô viết Nghệ – Tĩnh

- Trong các tháng 9 và 10 – 1930, trước khí thế cách mạng của quần chúng, bộ máy chính quyền địch ở nhiều nơi tan rã. Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ đảng, Ban Chấp hành Nông hội ở thôn, xã đứng ra quản lý mọi mặt đời sống xã hội ở nông thôn, thực hiện chuyên chính với kẻ thù, dân chủ với quần chúng lao động, làm chức năng, nhiệm vụ của một chính quyền nhà nước dưới hình thức các uỷ ban tự quản theo kiểu Xô viết.

- Tại Nghệ An, Xô viết ra đời tháng 9/1930. Ở  Hà Tĩnh, Xô viết hình thành cuối năm 1930 đầu năm 1931, thực hiện nhiều chính sách tiến bộ:

+ Về chính trị, thực hiện rộng rãi các quyền tự do, dân chủ  cho nhân dân. Quần chúng được tham gia các đoàn thể, tự do hội họp. Các đội tự vệ đỏ, tòa án nhân dân được thành lập.

+ Về kinh tế, chia ruộng đất công, tiền, lúa công cho dân cày nghèo, bãi bỏ các thứ thuế vô  lý; chú trọng đắp đê phòng lụt, tư sửa cầu cống, đường giao thông; tổ chức giúp đỡ nhau sản xuất.

+ Về văn hóa- xã  hội: mở các lớp dạy chữ quốc ngữ, xóa bỏ các tệ nạn xã hội, xây dựng nếp sống mới…

- Xô viết Nghệ - Tĩnh là mẫu hình chính quyền cách mạng đầu tiên ở Việt Nam, một chính quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân. Các Xô viết được thành lập và thực thi những chính sách tiến bộ chứng tỏ rằng Xô viết Nghệ – Tĩnh là đỉnh cao của phong trào cách mạng 1930 – 1931.

c. Nhận xét, ý  nghĩa và kinh nghiệm

- Phong trào cách mạng 1930 – 1931 là một phong trào cách mạng đầu tiên do Đảng Cộng sản tổ chức và lãnh đạo. Đó là một phong trào cách mạng triệt để, diễn ra trên qui mô rộng lớn, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu tranh phong phú và quyết liệt. Đây là một bước phát triển nhảy vọt về chất so với những phong trào yêu nước trước kia.

- Mặc dù cuối cùng bị kẻ thù dìm trong biển máu nhưng phong trào vẫn có ý nghĩa to lớn:

+ Khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng và quyền lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân. Qua thực tiễn đấu tranh, quần chúng nhân dân tin vào sự lãnh đạo của Đảng.

+ Khẳng định vai trò của khối liên minh công nông. Công nhân, nông dân đã đoàn kết đấu tranh và tin vào sức mạnh của chính mình.

+ Đội ngũ cán bộ và đảng viên và quần chúng yêu nước được tôi luyện và trưởng thành. Phong trào đã rèn luyện lực lượng cho cách mạng về sau.

+ Được đánh giá cao trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Quốc tế cộng sản đã công nhận Đảng Cộng sản  Đông Dương là bộ phận độc lập, trực thuộc quốc tế cộng sản.

+ Đây là bước thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến tiến trình phát triển về sau của cách mạng Việt Nam. Nếu không có phong trào cách mạng 1930 – 1931, trong đó quần chúng công, nông đã vung ra một nghị lực cách mạng phi thường thì không thể có thắng lợi của phong trào dân chủ 1936 – 1939 và Cách mạng Tháng Tám.

- Phong trào để lại cho Đảng nhiều bài học kinh nghiệm quý giá về công tác tư tưởng, về chỉ đạo chiến lược, về xây dựng khối liên minh công nông và mặt trận dân tộc thống nhất, về tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.

3. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 10/1930)

- Nội dung Hội nghị

+ Quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương.

+ Cử Ban Chấp hành Trung ương chính thức, do Trần Phú làm Tổng Bí thư.

+ Thông qua Luận cương chính trị của Đảng.

-  Nội dung Luận cương chính trị tháng 10 – 1930

- Xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương: lúc đầu là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, sau đó tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kì tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.

- Hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng đánh đổ đế quốc và phong kiến có quan hệ  khăng khít với nhau.

- Động lực cách mạng là giai cấp vô sản và  giai cấp nông dân.

- Lãnh đạo cách mạng là giai cấp vô sản với  đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản.

- Xác định hình thức, phương pháp đấu tranh và mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và  cách mạng thế giới.

Nhận xét

- Tích cực: khẳng dịnh được những vấn đề chiến lược của cách mạng.

- Hạn chế:

+ Chưa nêu được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Đông Dương, không đưa ngọn cờ dân tộc lên hàng đầu, nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất.

+ Đánh giá không đúng khả năng cách mạng của tiểu tư sản, khả năng chống đế quốc và phong kiến của tư sản dân tộc, khả năng lôi kéo bộ phận trung, tiểu địa chủ tham gia mặt trận dân tộc chống đế quốc và tay sai.

II. Phong trào dân chủ 1936 – 1939

1. Hoàn cảnh lịch sử

- Đầu những năm 30 (thế kỉ XX), chủ nghĩa phát xít xuất hiện và tạm thời thắng thế ở  một số nơi, như Tây Ban Nha, Đức, Italia, Nhật Bản. Nguy cơ chiến tranh thế giới xuất hiện.

- Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản (7 – 1935) xác định nhiệm vụ  trước mắt của phong trào cách mạng thế giới là  chống phát xít và nguy cơ chiến tranh, bảo vệ  hoà bình, thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi.

- Tháng 6/1936, Mặt trận nhân dân lên cầm quyền ở Pháp, thi hành những cải cách tiến bộ ở thuộc địa. Chính phủ của mặt trận nhân dân Pháp còn cử phái viên sang điều tra và nới rộng một số quyền tự do, dân chủ tối thiểu ở các nước thuộc địa.

- Ở Việt Nam, ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng kinh tế (1929 – 1933) vẫn tiếp diễn. Trong khi đó, thực dân Pháp lại tiến hành một chiến dịch khủng bố để đàn áp phong trào cách mạng 1930 – 1931. Đời sống chính trị và kinh tế rất căng thẳng. Yêu cầu của của mọi tầng lớp xã hội là các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống.

2. Chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương

Tháng 7/1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) để định ra đường lối và phương pháp đấu tranh. Hội nghị xác  định:

- Nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình.

- Kẻ thù trước mắt là thực dân phản động Pháp và tay sai.

- Phương pháp đấu tranh là kết hợp các hình thức công khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp.

- Thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương, đến tháng 3/1938 đổi thành Mặt trận Dân chủ Đông Dương.

- Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp năm 1937 và 1938 đã bổ sung và phát triển nội dung Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 7/1936.

3. Những phong trào  đấu tranh tiêu biểu

- Phong trào đấu tranh tự do, đòi dân sinh, dân chủ

+ Từ giữa những năm 1936 được tin Quốc hội Pháp cử phái đoàn  điều tra tình hình Đông Dương, Đảng chủ trương vận động các tầng lớp nhân dân hội họp, thảo ra bản “dân nguyện” để gửi tới phái đoàn, tiến tới triệu tập Đông Dương đại hội vào tháng 8/1936.

+ Lợi dụng sự kiện Gô-đa sang điều tra tình hình và Brêviê nhận chức toàn quyền Đông Dương, Đảng tổ chức quần chúng mít-tinh, đón rước, biểu dương lực lượng, đưa yêu sách đòi quyền dân sinh, dân chủ.

+ Trong những năm 1937 –  1939, các cuộc mít tinh, biểu tình của nhân dân diễn ra sôi nổi. Nhiều hình thức tổ chức quần chúng ra đời như Hội cứu tế bình dân, Hội truyền bá Quốc ngữ. Đặc biệt là ngày 1/5/1938, lần đầu tiên trong ngày quốc tế lao động nhiều cuộc mít tinh được tổ chức ở Hà Nội, Sài Gòn và nhiều nơi khác, thu hút đông đảo quần chúng tham gia.

- Phong trào đấu tranh nghị trường1:+ Đảng Cộng sản  Đông Dương vận động đưa người của Mặt trận Dân chủ Đông Dương ra ứng cử vào các cơ quan: Viện Dân biểu Trung Kì (1937), Viện Dân biểu Bắc Kì, Hội đồng Kinh tế lí tài Đông Dương (1938) và Hội đồng Quản hạt Nam Kì (1939).

+ Mục đích: mở  rộng lực lượng của Mặt trận Dân chủ và vạch trần chính sách phản động của thực dân và tay sai, bênh vực quyền lợi của đa số quần chúng nhân dân.

- Đấu tranh trên lĩnh vực báo chí2:+ Đảng Cộng sản  Đông Dương đã xuất bản nhiều tờ báo công khai: Tiền phong, Dân chúng, Lao động, Tin tức…, tuyên truyền, vận động quần chúng đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ.

+ Nhiều tác phẩm văn học hiện thực phê phán được xuất bản: Tắt đèn, Bước đường cùng…

+ Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực báo chí giúp cho quần chúng nhân dân được giác ngộ về  đường lối cách mạng.

4. Nhận xét, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm

- Là một phong trào cách mạng do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo, diễn ra trên qui mô rộng lớn, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia, với những hình thức tổ chức và đấu tranh phong phú; buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ.

- Mặc dù khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9-1939), thế  lực phản động thuộc địa đàn áp cách mạng. Cuộc vận động dân chủ kết thúc, nhưng vẫn có ý nghĩa lịch sử to lớn:

+ Quần chúng được tổ chức, giác ngộ và rèn luyện qua thực tiễn đấu tranh, trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng.

+ Đội ngũ cán bộ, đảng viên có sự phát triển về số lượng và trưởng thành.

+ Đảng thêm trưởng thành một bước về chỉ đạo chiến lược và tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm quay báu.

- Bài học kinh nghiệm: Phong trào dân chủ 1936 – 1939 để lại nhiều bài học về xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất; về kết hợp mục tiêu chiến lược với mục tiêu trước mắt, về sử dụng các hình thức đấu tranh…

- Phong trào dân chủ 1936- 1939 là một bước chuẩn bị lực lượng cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.

III. Phong trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945

1. Hoàn cảnh lịch sử

- Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ  và ngày càng lan rộng: ngày 1 – 9 – 1939, phát xít Đức tiến công Ba Lan. Hai ngày sau, Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Tháng 6/1940, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng, chính phủ phản động Pê tanh lên cầm quyền. Tháng 6/1941, Đức tấn công Liên Xô, tính chất chiến tranh thay đổi. Ở Châu Á – Thái Bình Dương, Nhật mở rộng xâm lược Trung Quốc, tién sát biên giới Việt – Trung. Tháng 9/1940, Nhật vào Đông Dương.

- Ở Đông Dương, thế lực phản động thuộc địa ngóc đầu dậy, thủ tiêu các quyền tự do, dân chủ; thi hành chính sách “Kinh tế chỉ huy”. Khi Nhật vào Đông Dương, Pháp đầu hàng Nhật và cấu kết với Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân Đông Dương, làm cho nhân dân Đông Dương phải chịu hai tầng áp bức.

Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với  đế quốc xâm lược và tay sai phát triển vô cùng gay gắt. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt ra cấp thiết.

2. Chủ trương của Đảng

- Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11/1939:

+ Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc len hang đầu; tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, lãi nặng; thay khẩu hiệu lập chính quyền Xô viết công – nông – binh bằng khẩu hiệu lập chính quyền dân chủ cộng hòa.

+ Phương pháp đấu tranh: chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ  sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật, bất hợp pháp.

+ Thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương, nhằm tập hợp mọi lực lượng dân tộc chống đế quốc.

+ Ý nghĩa: Đánh dấu sự chuyển hướng quan trọng, dương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đưa nhân dân bước vào giai đoạn trực tiếp vận động cứu nước.

- Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5/1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì:

+ Giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và nhấn mạnh là nhiệm vụ “bức thiết nhất”; tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”, chỉ thực hiện khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công.

+ Quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt trận riêng. Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) là mặt trận đoàn kết dân tộc Việt Nam, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng.

+ Đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang, coi chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng toàn dân; chỉ rõ một cuộc tổng khởi nghĩa bùng nổ và thắng lợi phải có đủ điều kiện chủ quan, khách quan và phải nổ ra đũng thời cơ; đi từ khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa.

- Ý nghĩa:

+ Hoàn chỉnh chủ trương chiến lược giải phóng dân tộc được đề ra tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939.

+ Khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đứng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đồng thời khắc phục triệt để những hạn chế của Luận cương Chính trị tháng 10 – 1930.

+ Là sự chuẩn bị về đường lối và phương pháp cách mạng cho thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.

3. Chuẩn bị lực lượng tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền

Trên cơ sở lực lượng cách mạng được nuôi dưỡng từ trước, bước vào giai đoạn trực tiếp vận động cứu nước 1939 – 1945, việc chuẩn bị lực lượng mọi mặt được đẩy mạnh.

* Chuẩn bị lực lượng chính trị

+ Gắn liền với quá trình xây dựng và phát triển của Việt Minh (bao gồm các đoàn thể quần chúng mang tên “cứu quốc”). Chương trình của Việt Minh đáp ứng nguyện vọng cứu nước của mọi giới đồng bào, nên phong trào Việt Minh ngày càng phát triển mạnh.

+ Cao Bằng là nơi thí  điểm cuộc vận động xây dựng các hội “Cứu quốc” trong mặt trận Việt Minh. Đến năm 1942 khắp các châu ở Cao Bằng đều có Hội cứu quốc trong đó có 3 châu “hoàn toàn” (Hoà An, Hà Quảng và Nguyên Bình). Trên cơ sở đó, Uỷ ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và Uỷ ban Việt Minh lâm thời Liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng được thành lập.

+ Bắc Sơn – Võ Nhai cũng là một trung tâm chuẩn bị khởi nghĩa. Sự ra đời và hoạt động của lực lượng vũ trang Bắc Sơn làm cho các tổ chức cứu quốc được xây dựng rộng khắp.

+ Tháng 2 – 1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên), vạch ra kế hoạch cụ thể về công việc chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang. Ở hầu khắp các vùng nông thôn và thành thị, các đoàn thể Việt Minh, hội Cứu quốc được xây dựng và củng cố.

+ Năm 1943 bản Đề cương văn hoá Việt Nam ra đời. Năm 1944, Đảng dân chủ Việt Nam và Hội văn hoá cứu quốc Việt Nam được thành lập, đứng trong hàng ngũ Việt Minh.

+ Ngoài ra, Đảng cũng chú trọng công tác vận động binh lính người Việt trong quân đội Pháp, những ngoại kiều ở Đông Dương chống phát xít.

+ Báo chí của Đảng và của mặt trận Việt Minh đã góp phần vào việc tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, hướng dẫn quần chúng đấu tranh.

Lực lượng chính trị quần chúng là lực lượng đông đảo nhất, một lực lượng cơ bản, giữ vai trò quyết định trong tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Việt Minh là nơi tổ chức, giác ngộ và rèn luyện lực lượng chính trị, đồng thời tạo điều kiện để xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.

- Chuẩn bị  lực lượng vũ  trang

+ Cùng với quá trình chuẩn bị lực lượng chính trị, Đảng từng bước chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang.

+ Sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (11 – 1940), lực lượng vũ trang Bắc Sơn được duy trì để làm vốn quân sự cho cách mạng. Bước sang năm 1941 những đội du kích ở khu căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai lớn mạnh lên và thống nhất thành Trung đội cứu quốc quân I (14/2/1941). Cứu quốc quân phát động chiến

tranh du kích trong 8 tháng (từ tháng 7/1941 đến tháng 2/1942). Ngày 15/9/1941, Trung đội cứu quốc quân II ra đời.

+ Ở Cao Bằng, trên cơ sở lực lượng chính trị phát triển mạnh, các đội tự vệ cứu quốc ra đời. Cuối năm 1941, Nguyễn Ái Quốc chỉ thị thành lập đội tự vệ gồm 12 chiến sĩ, làm các nhiệm vụ: bảo vệ cơ quan đầu não, giao thông liên lạc và huấn luyện tự vệ cứu quốc. Người biên soạn nhiều tài liệu để huấn luyện cán bộ quân sự như Cách đánh du kích, Kinh nghiệm du kích Nga, Kinh nghiệm du kích Tàu…

+ Ngày 22 – 12 – 1944,  thực hiện chỉ  thị của Nguyễn Ái Quốc, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, lúc đầu có 34 chiến sĩ, do Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Ba ngày sau, đội đánh thắng hai trận liên tiếp ở Phai Khắt và Nà Ngần.

+ Tháng 4 – 1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kì quyết định thống nhất lực lượng vũ trang, phát triển lực lượng bán vũ trang và xây dựng 7 chiến khu trong cả nước.

+ Ngày 15 – 5 – 1945, Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân.

+ Lực lượng bán vũ trang cũng được xây dựng rộng khắp, ở cả nông thôn và thành thị, gồm các đội du kích, tự vệ và tự vệ chiến đấu.

Lực lượng vũ trang tuy còn ít về số lượng, thiếu thốn về trang bị, non yếu về trình độ tác chiến, nhưng có vai trò rất quan trọng trong hoạt động vũ trang tuyên truyền, góp phần phát triển lực lượng chính trị; tiến công quân sự ở một số nơi gây thanh thế cho cách mạng, đồng thời là lực lượng xung kích, lực lượng nòng cốt, hỗ trợ quần chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến.

Cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đều là cơ sở của bạo lực cách mạng, là điều kiện để kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang trong tổng khởi nghĩa toàn dân, đập tan chính quyền của đế quốc và tay sai, thiết lập chính quyền cách mạng.

- Xây dựng căn cứ địa

+ Để tiến hành khởi nghĩa phải xây dựng căn cứ địa. Đó là nơi giải quyết vấn đề tiềm lực của cách mạng.

+ Năm 1940, sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Vùng Bắc Sơn – Võ Nhai được xây dựng thành một trung tâm căn cứ địa, gắn liền với sự ra đơì và hoạt động của lực lượng vũ trang Bắc Sơn.

+ Năm 1941 Nguyển Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người chọn Cao Bằng làm nơi đầu tiên để xây dựng căn cứ địa. Từ đó, căn cứ địa cách mạng ngày càng mở rộng, phát triển thành căn cứ Cao – Bắc – Lạng.

+ Năm 1943, Uỷ ban Việt Minh Liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng lập ra 19 ban “xung phong Nam tiến” để phát triển lực lượng xuống các tỉnh miền xuôi.

+ Trong những vùng căn cứ cách mạng diễn ra các hoạt  động sản xuất, xây dựng, chiến đấu, hoạt  động của các đoàn thể cứu quốc và lực lượng vũ trang. Ngày 16 – 4 – 1945, Tổng bộ  Việt Minh ra chỉ thị thành lập Uỷ ban Dân tộc giải phóng các cấp.

+ Tháng 5 – 1945, Hồ Chí Minh rời Cao Bằng về Tuyên Quang. Người chọn Tân Trào làm trung tâm chỉ  đạo cách mạng.

+ Tháng 6 – 1945, Khu giải phóng Việt Bắc chính thức  được thành lập, thực hiện 10 chính sách lớn của Việt Minh. Đó là căn cứ địa chung của cách mạng cả nước, là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới trong tương lai. Tân Trào là thủ đô Khu giải phóng. Uỷ ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng được thành lập.

+ Công cuộc chuẩn bị lực lượng được tiến hành chu đáo. Toàn Đảng, toàn dân sẵn sàng đón chờ thời cơ vùng dậy Tổng khởi nghĩa.

3. Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền

a. Khởi nghĩa từng phần (tháng 3/1945 đến giữa tháng 8/1945)

- Hoàn cảnh lịch sử

+ Từ khi Nhật vào Đông Dương (9 – 1940), Nhật và Pháp hoà hoãn với nhau, nhưng đó chỉ là sự hoà hoãn tạm thời, vì hai tên đế quốc không thể chung một xứ thuộc địa.

+ Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, Hồng quân Liên Xô giải phóng các nước Đông Âu và tiến vào nước Đức. Quân Anh – Mĩ giải phóng nước Pháp, rồi tiếp tục tiến công vào Đức từ phía Tây. Ở mặt trận châu Á – Thái Bình Dương, quân Đồng minh phản công, giáng cho phát xít Nhật những đòn nặng nề. Sau khi Mĩ chiếm lại Philipin, đường biển của Nhật đi xuống các căn cứ ở phía Nam bị cắt đứt, chỉ còn đường bộ duy nhất qua Đông Dương. Vì thế Nhật cần độc chiếm Đông Dương bằng mọi giá.

+ Sau khi nước Pháp được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của Đức, lực lượng Pháp ở Đông Dương ráo riết chuẩn bị, chờ quân Đồng minh vào đánh Nhật, thì sẽ khôi phục lại quyền thống trị của mình như trước tháng 9 – 1940.

+ Để trừ hậu hoạ bị đánh sau lưng và giữ Đông Dương làm cầu nối đi từ Trung Quốc xuống các căn cứ phía Nam, ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính lật đổ Pháp, độc chiếm Đông Dương. Sự kiện đó tạo nên một cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Dương.

+ Sau khi đảo chính thành công, Nhật thi hành một loạt biện pháp nhằm củng cố quyền thống trị của chúng ở Đông Dương.

+ Ngày 9/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp  ở Từ Sơn (Bắc Ninh) để đánh giá tình hình và đề ra chủ trương mới. Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị  Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, xác định phát xít Nhật là kẻ thù chính; thay khẩu hiệu “Đánh đuổi Pháp – Nhật” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”; chủ trương “phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa”, đồng thời sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện.

- Diễn biến

+ Ở vùng rừng núi và trung du Bắc Kì, chiến tranh du kích phát triển mạnh. Tại Cao – Bắc – Lạng, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị giải phóng hàng loạt châu, huyện, xã.

+ Ở Bắc Kì, Trung Kì, trước thực tế nạn  đói diễn ra trầm trọng do chính sách cướp bóc của Pháp – Nhật, Đảng đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc giải quyết nạn đói”. Phong trào thu hút hàng triệu người tham gia. Có nơi quần chúng đã giành được chính quyền.

+ Làn sóng khởi nghĩa từng phần dâng lên ở  nhiều nơi. Việt Minh lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở Tiên Du (Bắc Ninh), Bần Yên Nhân (Hưng Yên)…

+ Ở các thành phố, nhất là Hà Nội, Huế, Sài Gòn, hoạt động vũ trang truyên truyền, diệt ác trừ gian được đẩy mạnh, tạo điều kiện phát triển các đoàn thẻ cứu quốc và xây dựng lực lượng tự vệ cứu quốc.

+ Ở Quảng Ngãi, tù chính trị ở nhà  lao Ba Tơ nổi dậy, lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa (3-1945), thành lập chính quyền cách mạng, tổ chức  đội du kích Ba Tơ và xây dựng căn cứ Ba Tơ.

+ Tù chính trị trong các nhà tù  đế quốc đã đấu tranh đòi tự do hoặc nổi dậy phá trại giam, vượt ngục ra ngoài hoạt động.

+ Ở Nam Kì, phong trào Việt Minh hoạt động mạnh nhất ở Mĩ Tho và Hậu Giang.

+ Báo chí cách mạng đều ra công khai và gây ảnh hưởng chính trị vang dội.

* Ý nghĩa

- Cao trào kháng Nhật cứu nước thể hiện tinh thần  nỗ lực đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam; đồng thời góp sức cùng Đồng minh tiêu diệt chủ nghĩa phát xít.

- Làm cho kẻ thù ngày càng suy yếu, thúc đẩy thời cơ tổng khởi nghĩa mau đến.

- Qua cao trào kháng Nhật, lực lượng cách mạng được tăng cường, trận địa cách mạng được mở rộng, tạo ra đầy đủ những điều kiện chủ quan cho một cuộc tổng khởi nghĩa.

- Là một cuộc tập dượt vĩ đại, làm cho toàn đảng, toàn dân sẵn sàng, chủ động tiến lên chớp thời cơ tổng khởi nghĩa.

b. Tổng khởi tháng Tám năm 1945

* Điều kiện bùng nổ

Một cuộc tổng khởi nghĩa chỉ có thể thắng lợi khi có đủ những điều kiện chủ quan, khách quan và nổ ra đúng thời cơ.

- Về chủ quan:

+ Đảng đã có sự chuẩn bị đầy đủ về đường lối và phương pháp cách mạng, thể hiện tập trung ở Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5 – 1941)…

+ Lực lượng cách mạng cũng được chuẩn bị chu đáo trong 15 năm kể từ khi Đảng ra đời, được rèn luyện qua nhiều phong trào cách mạng.

Đến tháng 8 – 1945, toàn Đảng, toàn dân đã sẵn sàng, chủ động, kiên quyết hi sinh phấn đấu giành độc lập tự do.

+ Tầng lớp trung gian, khi Nhật đảo chính Pháp mới chỉ hoang mang, dao động, nhưng đến lúc này đã thấy rõ bản chất xâm lược của Nhật, chán ngán những chính sách của Nhật, nên đã ngả hẳn về phía cách mạng.

- Về khách quan:

+ Sau khi phát xít Đức bị tiêu diệt, Liên Xô  tuyên chiến với Nhật, đánh tan đạo quân Quan Đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc. Mĩ ném 2 quả bom nguyên tử xuống các thành phố Hirôsima và Nagaxaki của Nhật Bản. Ngày 9 – 8 – 1945, Hội đồng tối coa chiến tranh của Nhật họp bàn về các điều kiện đầu hàng theo Tuyên bố Pốtxđam. Ngày 14 – 8 – 1945, Hội đồng tối cao chiến tranh và Nội các Nhật Bản thông qua quyết định đầu hàng. Ngày 15/8/1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã, chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang, lo sợ đến cực điểm. Điều kiện khách quan thuận lợi cho Tổng khởi nghĩa đã đến. Thời cơ cách mạng xuất hiện.

+ Tuy nhiên, một nguy cơ mới đang dần đến. Quân đội các nước đế quốc với danh nghĩa đồng minh chuẩn bị vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Những thế lực phản động trong nước cũng đang tìm cách thay thầy đổi chủ. Chính vì thế, vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh mà nhân dân Việt Nam không thể chậm trễ.

- Đảng kịp thời phát động khởi nghĩa:

+ Ngày 13/8/1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ  Việt Minh thành lập Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ban bố Quân lệnh số 1, chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước.

+ Từ ngày 14 đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, thông qua kế  hoạch lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa.

+ Tiếp đó, từ ngày 16 đến ngày 17/8/1945, Đại hội quốc dân ở Tân Trào tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt minh, cử ra Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.

* Diễn biến

- Từ ngày 14 – 8 – 1945, tuy chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa, nhưng căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương và vận dụng chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, một số cấp bộ Đảng và Việt Minh đã phát động tổng khởi nghĩa và giành được thắng lợi.

- Chiều 16/8/1945, theo lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, một đơn vị của Đội Việt Nam Giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên.

- Ngày 18/8/1945, nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà  Tĩnh, Quảng Nam giành chính quyền ở tỉnh lị  sớm nhất trong cả nước.

- Tại Hà Nội, ngày 19/8/1945, hàng vạn nhân dân  đánh chiếm cơ quan đầu não của địch  như  Phủ Khâm sai, trại Bảo an binh, Tòa Thị chính. Tối 19/8, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội thắng lợi.

- Ngày 23/8, hàng vạn nhân dân Huế biểu tình thị  uy, chiếm công sở. Chính quyền về tay nhân dân.

- Ngày 25/8, tổng khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn.

- Khởi nghĩa thắng lợi ở 3 thành phố lớn: Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã tác động đến các địa phương trong nước, quần chúng các tỉnh còn lại nối tiếp nhau khởi nghĩa. Hà Tiên và Đồng Nai Thượng là những nơi giành chính quyền muộn nhất (28/8).

- Chiều 30/8 vua Bảo Địa thoái vị, triều đình phong kiến nhà Nguyễn hoàn toàn sụp đổ.

4. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập (2/9/1945)

- Ngày 25/8/1945, Chủ tich Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam từ Tân Trào về đến Hà Nội.

- Ngày 28/8/1945, Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa.

- Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời  đọc “Tuyên ngôn độc lập”, trịnh trọng tuyên bố với toàn thể quốc dân và cả thế giới: Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thành lập. Bản Tuyên ngôn đã:

+ Khẳng định quyền độc lập tự do là  quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm mà mọi dân tộc phải được hưởng trong đó có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

+ Nêu rõ: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo  đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà”

+ Khẳng định ý chí sắt đá của nhân dân Việt nam quyết giữ nền độc lập tự do vừa giành được: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể

dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”3.5. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học knh nghiệm của Cách mạng tháng Tám năm 1945

a. Nguyên nhân thắng lợi

- Nguyên nhân khách quan:

Chiến thắng của quân  Đồng minh trong cuộc chiến tranh chống phát xít tạo cơ hội thuận lợi cho nhân dân Việt Nam đứng lên Tổng khởi nghĩa.

- Nguyên nhân chủ quan:

+ Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước nồng nàn, từng trải qua những cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất cho độc lập, tự do. Vì vậy, khi Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh phất cao cờ cứu nước thì toàn dân nhất tề đứng lên cứu nước, cứu nhà.

+ Có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Hồ Chí Minh, đã đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo. Đảng đã có quá trình chuẩn bị lâu dài, chu đáo, rút kinh nghiệm qua thực tiễn đấu tranh, đặc biệt là lãnh đạo chuẩn bị lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng trong giai đoạn vận động giải phóng dân tộc 1939 – 1945. Các cấp bộ Đảng và Việt Minh từ Trung ương đến địa phương linh hoạt, sáng tạo chỉ đạo khởi nghĩa, chớp thời cơ phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền.

b. Ý nghĩa lịch sử

+ Đối với trong nước:

Mở ra bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, phá tan xiềng xích nô lệ của Pháp hơn 80 năm và Nhật gần 5 năm, chấm dứt chế độ phong kiến, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Mở đầu kỉ nguyên mới của dân tộc: kỉ nguyên độc lập, tự do, kỉ nguyên nhân dân nắm chính quyền, làm chủ đất nước.

Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật, bất hợp pháp, trở thành một Đảng cầm quyền và hoạt động công khai. Nhân dân Việt Nam từ địa vị nô lệ, bước lên địa vị người làm chủ đất nước.

+ Đối với thế giới:

Góp phần vào thắng lợi của cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít; chọc thủng hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.

Cổ vũ các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh tự giải phóng; có ảnh hưởng trực tiếp đến cách mạng Lào và Campuchia.

c. Bài học kinh nghiệm

- Về chỉ đạo chiến lược: Đảng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam, nắm bắt diễn biến tình hình thế giới và trong nước để thay đổi chủ trương cho phù hợp; giải quyết đúng mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.

- Về xây dựng lực lượng: Tập hợp, tổ chức đoàn kết lực lượng cách mạng trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, tạo nên sức mạnh toàn dân, phân hoá và cô lập cao độ kẻ đế quốc và tay sai để đánh đổ chúng.

- Về phương pháp cách mạng: Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng, kết hợp lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đi từ khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích cục bộ ở nông thôn, tiến lên chớp đúng thời cơ tổng khởi nghĩa ở cả nông

thôn và thành thị, đập tan bộ máy chính quyền của đế quốc và tay sai, thiết lập chính quyền cách mạng.

- Về xây dựng Đảng: Luôn kết hợp giữa tổ chức và đấu tranh, làm cho đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ năng lực và uy tín lãnh đạo cách mạng thành công.

C. Câu hỏi ôn tập

Câu 1. Trình bày điều kiện bùng nổ và ý nghĩa của phong trào cách mạng1930 – 1931.

Câu 2. Có thể khẳng định phong trào cách mạng 1930 – 1931 là một phong trào mang nội dung mới so với các phong trào yêu nước trước đó hay không? Vì sao?.

Câu 3. Trình bày và nhận xét chủ trương tập hợp lực lượng cách mạng trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Luận cương chính trị tháng 10/1930 và nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 5 – 1941.

Câu 4. Trình bày và nhận xét chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Luận cương chính trị tháng 10/1930 và nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 5 – 1941.

Câu 5. Trình bày bối cảnh lịch sử, chủ trương của Đảng và ý nghĩa của phong trào dân chủ 1936 – 1939.

Câu 6. Hãy so sánh chủ trương, sách lược cách mạng của Đảng trong hai giai đoạn 1936 – 1939 và 1939 – 1945. Vì sao có sự khác nhau?

Câu 7. Phân tích chủ trương chiến lược của Đảng trong giai đoạn 1939 – 1945.

Câu 8. Tóm tắt nội dung các Hội nghị của Đảng trong giai đoạn 1939 – 1945.

Câu 9. Trình bày tóm tắt quá trình chuẩn bị lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Câu 10. Trình bày quá trình xây dựng và hoạt động của lực lượng vũ trang trong giai đoạn 1939 – 1945.

Câu 11. Phân tích nguyên nhân dẫn đến cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp ở Đông Dương (9 – 3 – 1945).

Câu 12. Nêu hoàn cảnh lịch sử, diễn biến và ý nghĩa của khởi nghĩa từng phần từ tháng 3 đến giữa tháng 8/1945.

Câu 13. Bằng sự kiện chọn lọc, hãy làm sáng tỏ vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Câu 14. Mặt trận Việt Minh ra đời và phát triển như thế nào? Phân tích vai trò của Việt Minh đối với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Câu 15. Phân tích điều kiện bùng nổ của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.

Câu 16. Phân tích nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm của cách mạng tháng Tám năm 1945.

Câu 17. Chứng minh Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi là kết quả của 15 năm chuẩn bị lực lượng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Bài tập:

Bài 1. Hãy lập bảng tóm tắt các phong trào cách mạng 1930 – 1931; 1936 – 1939; 1939 – 1945 theo mẫu sau:

Nội dung 1930 – 1931 1936 – 1939 1939 – 1945

Kẻ thù trước mắt

Nhiệm vụ cách mạng

Lực lượng cách mạng

Phương pháp đấu tranh

Bài 2. Hãy lập bảng tóm tắt các hình thức mặt trận dân tộc thống nhất do Đảng tổ chức và lãnh đạo trong thời kỳ 1930 – 1945 theo mẫu sau:

Hình thức mặt trận

Thời gian Bối cảnh ra đời Vai trò

Bài 3. Hãy lập bảng tóm tắt các Hội nghị của Đảng trong giai đoạn 1939 – 1945 theo mẫu sau:

Thời gian(tháng, năm)

Tên hội nghị Hoàn cảnh lịch sử Nội dung cơ bản

____1 Phần này thuộc Chương trình nâng cao2 Phần này thuộc Chương trình nâng cao3 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4 (1945 – 1946), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 3.