13
HỘI NHẬP LAO ĐỘNG TRONG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội) I. Tổng quan hợp tác lao động trong ASEAN 1. Cơ sở pháp lý Trong bối cảnh ASEAN đang thúc đẩy hình thành 3 trụ cột của mình hướng tới một Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, các nước ASEAN cũng ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của lĩnh vực hợp tác về lao động trong đó có việc dịch chuyển của lao động di cư trong khu vực và gia đình của họ. Những vấn đề phát sinh trong quá trình lao động di, việc bảo vệ cho quyền lợi hợp pháp của họ đã được ASEAN ngày càng chú trong. Tháng 10/2003, Lãnh đạo các nước ASEAN đã ký Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II (hay còn gọi là Tuyên bố Ba-li II), nhất trí đề ra mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 với ba trụ cột chính: Cộng đồng An ninh (ASC), Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội (ASCC); đồng thời khẳng định ASEAN sẽ tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với các đối tác bên ngoài, vì mục tiêu chung là hòa bình, ổn định và hợp tác cùng có lợi ở khu vực. Theo đó, Mục tiêu tổng quát của Cộng đồng ASEAN là xây dựng Hiệp hội thành một tổ chức hợp tác liên Chính phủ liên kết sâu rộng hơn và ràng buộc hơn trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN, nhưng không phải là một tổ chức siêu quốc gia và không khép kín mà vẫn mở rộng hợp tác với bên ngoài. Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC) nhằm mục tiêu tạo dựng một môi trường hòa bình và an ninh cho phát triển ở khu vực Đông Nam Á thông qua việc nâng hợp tác chính trị - an ninh ASEAN lên tầm cao mới, với sự tham gia và đóng góp xây dựng của các đối tác bên ngoài; không nhằm tạo ra một khối phòng thủ chung. Các nội dung chính liên quan tới lĩnh vực lao động được đề cập trong APSC bao gồm: (i) tăng cường các ứng phó của tư pháp hình sự đối với buôn bán người; (ii) bảo vệ nạn nhân bị buôn bán người. Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) nhằm mục tiêu tạo ra một thị trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề; từ đó nâng cao tính cạnh tranh và thúc đẩy sự thịnh vượng chung cho cả khu vực; tạo sự hấp dẫn với đầu tư – kinh doanh từ bên ngoài. ASEAN đã nhất trí thông qua Kế hoạch tổng thể về AEC với những đặc điểm và nội dung sau: đến năm 2015, ASEAN sẽ trở thành : (i) một thị trường duy nhất và một cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề ; (ii) Một khu vực kinh tế có sức cạnh tranh cao; (iii) Một khu vực phát triển kinh tế đồng đều, nhất là thực hiện có hiệu quả Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI); (iv) Một khu vực ASEAN hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu. Các nội dung chính liên quan tới lĩnh vực lao động được đề cập trong APSC bao gồm: (i) hỗ trợ dịch chuyển thông quan cấp visa và thẻ lao động cho doanh nhân và người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật; (ii) hướng tới công nhận trình độ nghề; (iii) hoàn thiện các đàm phán, xây dựng mới và tiến hành việc công nhận 1

Tham luận của bộ lđ tb & xh

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Tham luận của bộ lđ tb & xh

HỘI NHẬP LAO ĐỘNG TRONG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN

(Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội)

I. Tổng quan hợp tác lao động trong ASEAN

1. Cơ sở pháp lý

Trong bối cảnh ASEAN đang thúc đẩy hình thành 3 trụ cột của mình hướng tới một Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, các nước ASEAN cũng ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của lĩnh vực hợp tác về lao động trong đó có việc dịch chuyển của lao động di cư trong khu vực và gia đình của họ. Những vấn đề phát sinh trong quá trình lao động di, việc bảo vệ cho quyền lợi hợp pháp của họ đã được ASEAN ngày càng chú trong.

Tháng 10/2003, Lãnh đạo các nước ASEAN đã ký Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II (hay còn gọi là Tuyên bố Ba-li II), nhất trí đề ra mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 với ba trụ cột chính: Cộng đồng An ninh (ASC), Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội (ASCC); đồng thời khẳng định ASEAN sẽ tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với các đối tác bên ngoài, vì mục tiêu chung là hòa bình, ổn định và hợp tác cùng có lợi ở khu vực. Theo đó, Mục tiêu tổng quát của Cộng đồng ASEAN là xây dựng Hiệp hội thành một tổ chức hợp tác liên Chính phủ liên kết sâu rộng hơn và ràng buộc hơn trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN, nhưng không phải là một tổ chức siêu quốc gia và không khép kín mà vẫn mở rộng hợp tác với bên ngoài.

Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC) nhằm mục tiêu tạo dựng một môi trường hòa bình và an ninh cho phát triển ở khu vực Đông Nam Á thông qua việc nâng hợp tác chính trị - an ninh ASEAN lên tầm cao mới, với sự tham gia và đóng góp xây dựng của các đối tác bên ngoài; không nhằm tạo ra một khối phòng thủ chung. Các nội dung chính liên quan tới lĩnh vực lao động được đề cập trong APSC bao gồm: (i) tăng cường các ứng phó của tư pháp hình sự đối với buôn bán người; (ii) bảo vệ nạn nhân bị buôn bán người.

Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) nhằm mục tiêu tạo ra một thị trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề; từ đó nâng cao tính cạnh tranh và thúc đẩy sự thịnh vượng chung cho cả khu vực; tạo sự hấp dẫn với đầu tư – kinh doanh từ bên ngoài. ASEAN đã nhất trí thông qua Kế hoạch tổng thể về AEC với những đặc điểm và nội dung sau: đến năm 2015, ASEAN sẽ trở thành : (i) một thị trường duy nhất và một cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề ; (ii) Một khu vực kinh tế có sức cạnh tranh cao; (iii) Một khu vực phát triển kinh tế đồng đều, nhất là thực hiện có hiệu quả Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI); (iv) Một khu vực ASEAN hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu. Các nội dung chính liên quan tới lĩnh vực lao động được đề cập trong APSC bao gồm: (i) hỗ trợ dịch chuyển thông quan cấp visa và thẻ lao động cho doanh nhân và người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật; (ii) hướng tới công nhận trình độ nghề; (iii) hoàn thiện các đàm phán, xây dựng mới và tiến hành việc công nhận

1

Page 2: Tham luận của bộ lđ tb & xh

lẫn nhau; (iv) thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực và nâng cao năng lực trong lĩnh vực dịch vụ; (v) phát triển khả năng và trình độ cơ bản trong các ngành dịch vụ ưu tiên; (vi) tăng cường khả năng thực hiện các chương trình thị trường lao động chủ động ở các nước thành viên.

Cộng đồng Văn hóa-Xã hội (ASCC) với mục tiêu phục vụ và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân ASEAN, tập trung xử lý các vấn đề liên quan đến bình đẳng và công bằng xã hội, bản sắc văn hóa, môi trường, tác động của toàn cầu hóa và cách mạng khoa học công nghệ. Tương tự như các trụ cột Cộng đồng Chính trị-An ninh và Kinh tế, Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng ASCC, một bộ phận của Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, đang được ASEAN đẩy mạnh triển khai, tập trung vào một số lĩnh vực ưu tiên, đặc biệt liên quan tới lĩnh vực lao động như: (i) đầu tư phát triển nguồn nhân lực; (ii) thúc đẩy việc làm bền vững; (iii) tăng cường các kỹ năng kinh doanh; (iv) phúc lợi xã hội và bảo trợ để đối phó vơi các tác động của toàn cầu hoa; (v) bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động di cư.

Với các ưu tiên trên, chúng ta có thể thấy rằng mục tiêu tổng thể của lĩnh vực hợp tác lao động trong ASEAN hướng tới cải thiện tốt hơn đời sống người dân, lao động hiệu quả cao, bảo vệ xã hội cho người dân ASEAN thông qua việc nâng cao tính cạnh tranh của lực lượng lao động, tạo dựng một môi trường làm việc hài hòa và tiến bộ, và thúc đẩy việc làm bền vững.

2. Cơ chế hợp tác lao động trong ASEAN

Hợp tác lao động trong ASEAN được thực hiện thông qua Diễn đàn chuyên ngành cấp cao nhất là Hội nghị Bộ trưởng ASEAN phụ trách về lao động (ALMM). Diễn đàn này được họp 2 năm/lần nhằm trao đổi về các chính sách phát triển nhân lực, lao động – việc làm, bảo hiểm xã hội, quan hệ lao động, lao động di cư và các vấn đề khác liên quan đến lao động trong khu vực. Cơ quan giúp việc của Hội nghị Bộ trưởng Lao động ASEAN là Hội nghị Quan chức cao cấp về Lao động (SLOM) mỗi năm họp 1 lần. Trước đây, Hội nghị SLOM gồm 4 nhóm công tác. Tuy nhiên, từ tháng 5/2014, với mục tiêu cơ cấu lại các nhóm công tác nhằm đảm bảo sự vận hành một cách có hiệu quả, được sự phê chuẩn của Hội nghị ALMM lần thứ 23 vào tháng 5/2014 tại My-an-mar, công tác về phòng, chống và kiểm soát HIV /AIDS tại nơi làm việc đã được lồng ghép vào lĩnh vực An toàn vệ sinh lao động. Do vậy, hiện hợp tác lao động trong ASEAN được thực hiện thông qua 3 nhóm công tác, bao gồm: Nhóm công tác về các điển hình lao động tiên tiến nhằm tăng cường tính cạnh tranh trong ASEAN (SLOM-WG); Nhóm công tác về Uỷ ban ASEAN về xây dựng văn kiện nhằm thực hiện Tuyên bố ASEAN về Bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động di cư (ACMW); Nhóm công tác về mạng An toàn vệ sinh lao động (SLOM-OSHNET).

2.1. Nhóm công tác về các điển hình lao động tiên tiến nhằm tăng cường tính cạnh tranh trong ASEAN (SLOM-WG)

Cuộc họp SLOM-WG là sự kiện được tổ chức thường niên với sự tham dự của đầu mối về Lao động các nước ASEAN. Mục tiêu chung của cuộc họp

2

Page 3: Tham luận của bộ lđ tb & xh

này nhằm để các nước chủ trì các hoạt động liên quan báo cáo về các hoạt động đã được tiến hành và các hoạt động dự kiến sẽ được tiến hành trong 1 năm tới chia theo các lĩnh vực chính: Phát triển nguồn nhân lực; An sinh xã hội; Quan hệ lao động; Phát triển kỹ năng và xây dựng mạng lưới phát triển kỹ năng; Việc làm bền vững cho tất cả mọi người; Luật lao động; Thông tin thị trường lao động; Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; Công nhận kỹ năng thuộc khuôn khổ Kế hoạch hành động của Nhóm công tác giai đoạn 2011-2015. Trong khuôn khổ hoạt động của Nhóm công tác, năm 2013-2014, Việt Nam đã tích cực tham gia các hoạt động của Nhóm, đã triển khai một số hoạt động cấp khu vực và được đánh giá cao. Các sự kiện có thể kể đến bao gồm: (i) chủ trì tổ chức Hội nghị khu vực lần thứ 5 về Quan hệ lao động trong ASEAN với chủ đề “Đối thoại lao động và sửa đổi Luật lao động về khuôn khổ pháp lý và quy tắc liên quan tới quan hệ việc làm” ngày 27-28/2/2013. Hội nghị đã tạo cơ hội cho các đối tác ba bên (chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động) tại các nước thành viên ASEAN thảo luận và chia sẻ pháp luật và thực tiễn; khuyến khích phương pháp tiếp cận đối thoại xã hội để giải quyết các thách thức và tìm ra những lựa chọn phù hợp để xem xét đối với khuôn khổ pháp lý và quy định trong quan hệ lao động. Ngoài ra, thời điểm diễn ra Hội nghị cũng phù hợp với bối cảnh chung của một số nước ASEAN đang trong quá trình sửa đổi Luật lao động để phù hợp với tình hình mới; (ii) Hội thảo về An sinh xã hội và chế độ thai sản cho lao động nữ: Luật và các bài học trong ASEAN (ngày 6-7/5/2013). Hội thảo đã đưa ra các khuyến nghị ở cấp quốc gia và khu vực liên quan tới việc tăng cường chiến lược nhằm bảo vệ và thúc đẩy an sinh xã hội và chế độ thai sản cho lao động nữ trong ASEAN. Các khuyến nghị trên sẽ góp phần giúp các quốc gia trong khu vực xây dựng các chương trình, kế hoạch để giải quyết các vấn đề có liên quan; (iii) đề xuất tiến hành nghiên cứu so sánh pháp luật và thực tiễn lao động trong ASEAN đã được hoàn thành vào đầu năm 2014. Cùng tham gia với Việt Nam còn có 3 quốc gia điều phối bao gồm Lào, Myanamar và Campuchia. Hoạt động này đã tiến hành được hai pha. Với sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính của Văn phòng FES tại Singapore, Pha II được tiến hành nghiên cứu với bốn nội dung bao gồm: Việc làm cho phụ nữ (Myanmar); Việc làm cho người khuyết tật (Việt Nam); Việc làm thanh niên (Campuchia) và Quan hệ lao động (Lào). Với tư cách là quốc gia đưa ra sáng kiến, Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các quốc gia điều phối và các nghiên cứu viên theo từng chủ đề triển khai hoạt động nghiên cứu và hiện toàn bộ báo cáo đã được hoàn tất sau khi nhận được sự thống nhất của 10 nước ASEAN về mặt nội dung. Nội dung này không chỉ đưa ra một cái nhìn tổng quan về Luật lao động trong các nước ASEAN, so sánh sự khác nhau giữa Luật các nước mà còn đưa ra các bài học kinh nghiệm tốt theo từng chủ đề; (iv) Hội thảo đánh giá Chương trình làm việc của các Bộ trưởng Lao động giai đoạn 2010-2015 (tháng 5/2014 tại Thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng). Các khuyến nghị và ưu tiên được đưa ra tại Hội nghị này đã góp phần hiện thực hoá sáng kiến khu vực hướng tới tăng cường tác động của Chương trình Công tác tại các quốc gia thành viên; đề xuất những lĩnh vực ưu tiên mà khu vực cần hướng tới trong thời gian tới và đặc biệt khi ASEAN đang tiến tới xây dựng ALM-WP giai đoạn tiếp theo.

3

Page 4: Tham luận của bộ lđ tb & xh

Trong khuôn khổ hợp tác ASEAN về lĩnh vực lao động liên quan tới phát triển thông tin thị trường lao động, mỗi quốc gia thành viên đều có một một hệ thống phát triển thông tin thị trường riêng. Tuy nhiên, với mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN thống nhất vào năm 2015, các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng hiện đang nỗ lực phát triển một hệ thống thông tin thị trường lao động đồng bộ nhằm góp phần đáp ứng nhu cầu cung cấp các dữ liệu về thông tin lao động cho các nhà quản lý, người sử dụng lao động và người lao động trong ASEAN.

2.2. Nhóm công tác về an toàn vệ sinh lao động

Các hoạt động hợp tác trong ASEAN về nội dung này chủ yếu thông qua Hội nghị, Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm nhằm bảo đảm an toàn lao động cho người lao động tại nơi làm việc. Tại Hội nghị Ban điều phối mạng ASEAN về An toàn vệ sinh lao động vào tháng 5/2007, Việt Nam đã được các quốc gia thành viên Mạng An toàn vệ sinh lao động ASEAN (ASEAN –OSHNET) lựa chọn là Điều phối viên cho việc xây dựng Hồ sơ quốc gia, Chương trình quốc gia về An toàn vệ sinh lao động trong ASEAN. Ngoài ra, Việt Nam cũng kết nối hoạt động của mạng với các hoạt động hợp tác quốc tế khác, đặc biệt trong lĩnh vực ngành, nghề có nguy cơ cao.

Theo kết quả Hội nghị đánh giá giữa kỳ Chương trình làm việc của các Bộ trưởng Lao động ASEAN giai đoạn 2010-2015 vào tháng 5/2014 tại Thành phố Đà Lạt, Việt Nam, các đại biểu ASEAN đã thống nhất việc lồng ghép hoạt động của Nhóm công tác về HIV vào Nhóm công tác an toàn vệ sinh lao động vì vấn đề phòng chống va kiêm soat HIV tại nơi làm việc thuộc phạm vi cua an toàn vệ sinh lao động, phù hợp với mục tiêu giảm thiểu sự trùng lặp và đảm bảo sư hiệu quả các nguồn lưc trong bối cảnh rộng hơn của ASEAN.

2.3. Nhóm công tác về đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài và bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động di cư

Đây được coi là một trong những hoạt động quan trọng song cũng phát sinh nhiều vấn đề liên quan đến quản lý lao động nước ngoài tại các nước. Với việc Hiệp định ASEAN về di chuyển thể nhân đã được Bộ trưởng Bộ Công Thương thừa ủy quyền các Chính phủ các nước ASEAN ký kết nhân Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 21 tổ chức từ ngày 17-20/12/2012 tại Campuchia, hợp tác ASEAN trong lĩnh vực di chuyển thể nhân và lao động di cư sẽ được tăng cường hơn nữa. Trong các nước ASEAN, Việt Nam hiện đang có lao động làm việc tại Malaysia, Brunei, Singapore và Lào.

Bên cạnh việc xúc tiến hợp tác lao động trong lĩnh vực đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, Việt Nam đã tham gia tích cực hoạt động của Nhóm công tác của Uỷ ban ASEAN về việc thực hiện Tuyên bố ASEAN về Bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động di cư (ACMW-DT). Việc xây dựng văn kiện trên được khởi xướng năm 2008 với 4 nước tham gia và theo sáng kiến của Việt Nam, kể từ năm 2010, tất cả 10 nước thành viên ASEAN đã cùng tham gia xây dựng văn kiện này. Hiện đã có 13 cuộc họp Nhóm công tác (cuộc họp gần đây nhất vào ngày 1-3/9/2014 tại Naw Pyi Taw, Myanmar). Nhóm soạn thảo đã

4

Page 5: Tham luận của bộ lđ tb & xh

thống nhất được 2/3 trong tổng số các điều khoản của Văn kiện liên quan tới các định nghĩa về người lao động di cư, các quyền của người lao động di cư, trách nhiệm của nước phái cử, nước tiếp nhận. Riêng về tính pháp lý của Văn kiện, hiện các quốc gia thành viên ASEAN đều nhất trí Văn kiện không mang tính ràng buộc nhưng đa số các quốc gia thành viên cho rằng vẫn cần xem xét việc gắn với các đề xuất của phía Phi-líp-pin liên quan tới việc xây dựng kế hoạch thực hiện văn kiện gồm 4 nội dung sau: (a) xây dựng kế hoạch hành động kèm theo khung thời gian để thực hiện văn kiên, (b) thảo luận về các Thỏa thuận song phương giữa các nước thành viên ASEAN để thực hiện văn kiên, (c) chia sẻ và đưa ra nhưng tai liêu vê cac điên hinh tốt nhất; và (d) chỉ định đầu mối thực hiện văn kiên tại mỗi nước thành viên ASEAN.

Quá trình soạn thảo văn kiện đang ở giai đoạn nước rút để sớm hoàn thiện vào năm 2014 do vậy Việt Nam luôn tham gia Nhóm công tác với tinh thần chủ động, tích cực và sẵn sàng đóng góp có trách nhiệm cho hoạt động của Nhóm, phát huy hiệu quả tinh thần đoàn kết ASEAN cũng như trong tiến trình xây dựng văn kiện; giữ vững các nguyên tắc của ASEAN, linh hoạt, khéo léo bảo vệ hiệu quả lợi ích của ta; đặc biệt là hết sức nỗ lực để đạt được sự đồng thuận cao nhất ở tất cả các nội dung còn lại của Văn kiện nhằm sớm thông qua văn kiện để có thêm một cơ sở bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động di cư.

Ngoài ra, liên quan tới lĩnh vực này, Diễn đàn ASEAN về di cư lao động là một sự kiện thường niên cũng đáng được chú ý vì hoạt động này mở ra cơ hội tốt cho các đại diện Chính phủ, tổ chức người sử dụng lao động và tổ chức người lao động cùng các tổ chức xã hội có quan tâm cùng nhau thảo luận và trao đổi thực hành tốt nhất về các vấn đề quan trọng mà người lao động nhập cư trong khu vực phải đối mặt. Các khuyến nghị được đưa ra tại Diễn đàn góp phần không nhỏ vào việc xây dựng các sáng kiến, các hoạt động cấp quốc gia nhằm bảo vệ tốt hơn người lao động di cư trong khu vực.

Ngoài ra, ASEAN cũng có nhiều hoạt động hợp tác với các Đối tác đối thoại trong nhiều lĩnh vực như quan hệ lao động, bảo vệ xã hội, phát triển nguồn nhân lực. Các hoạt động hợp tác lao động ASEAN+3 được thiết lập từ năm 2001 với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc với việc tổ chức Hội nghị Bộ trưởng Lao động ASEAN+3 (ALMM+3) định kỳ 2 năm/lần. ASEAN cũng hợp tác với các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO).

II. Thực trạng thị trường lao động Việt Nam

Quá trình hợp tác lao động trong ASEAN mang đến nhiều cơ hội và thách thức đối với tiến trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam và sự thay đổi thị trường lao động. Trong quá trình hợp tác đó, thực trạng lao động của Việt Nam hiện đang còn một số bất cập có thể kể tới đó là:

- Về quy mô lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ở Việt Nam là 53,8 triệu người, trong đó, lực lượng trong độ tuổi lao động là 47,52 triệu người. Tỷ lệ lao động tham gia vào thị trường lao động chính thức còn thấp, đạt khoảng 30%.

5

Page 6: Tham luận của bộ lđ tb & xh

- Về chất lượng lao động, vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển và hội nhập. Khoảng 45% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp hầu hết chưa qua đào tạo. Hiện nay chỉ có 18,38% lao động có bằng cấp, chứng chỉ qua đào tạo. Tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ đại học trở lên chủ yếu tập trung tại TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Thêm vào đó, trình độ ngoại ngữ của lao động trình độ đại học và lao động có tay nghề ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Đối với lực lượng lao động Việt Nam đi làm việc tại các quốc gia trong khu vực, hầu hết lao động của ta thuộc nhóm lao động phổ thông, hạn chế về trình độ tay nghề, hưởng lương thấp hơn so với người lao động làm cùng ngành nghề của một số quốc gia trong khu vực.

- Về giá cả sức lao động, tiền lương trong các doanh nghiệp: hầu hết lao động ở khu vực phi chính thức thường có có mức lương thấp và làm việc trong điều kiện không an toàn và công việc không được đảm bảo. Hiện nay chưa là kết quả của quá trình thương lượng, thỏa thuận giữa người lao động và chủ sử dụng lao động. Tốc độ tăng lương thực tế còn thấp cho thấy kết quả tăng trưởng kinh tế chưa được chia xứng đáng cho người lao động. Nhiều doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI thực hiện chính sách tiền lương thấp, chậm trả lương và không thực hiện trách nhiệm bảo hiểm xã hội cho người lao động. Mức tiền lương tối thiểu thấp chưa được tính đúng, tính đủ cho mức sống tối thiểu có cả nuôi con, thấp hơn nhiều so với mức tiền lương tối thiểu trung bình của khu vực ASEAN.

- Bên cạnh đó, hệ thống thông tin của thị trường lao động còn nhiều yếu kém và hạn chế. Trong đó, hệ thống bị chia cắt giữa các vùng, miền; khả năng bao quát, thu thập và cung ứng thông tin chưa đáp ứng được nhu cầu các đối tác trên thị trường lao động, đặc biệt là người chủ sử dụng lao động và người lao động. Hệ thống chỉ tiêu về thị trường lao động tuy đã ban hành nhưng chưa hoàn thiện, đầy đủ, thiếu thống nhất và khó so sánh quốc tế. Do vậy, chưa đánh giá được hiện trạng của cung – cầu lao động, các “nút thắt” về nhu cầu nguồn nhân lực trong nước. Mặt khác, thiếu mô hình dự báo thị trường lao động tin cậy và nhất quán, thiếu đội ngũ cán bộ, chuyên gia làm công tác thống kê, phân tích, dự báo. Ngoài ra, các hoạt động giao dịch việc làm mới chỉ đáp ứng 10-15% nhu cầu thực tế. Hoạt động dịch vụ việc làm chưa thành mạng lưới; quy mô tổ chức nhỏ bé; hoạt động còn mang tính tự phát; năng lực cán bộ hạn chế; cơ chế tổ chức, chính sách tài chính cho hoạt động của các trung tâm giới thiệu việc làm chưa hợp lý; thiếu sự phối hợp, chia sẻ thông tin và hợp tác trong nội bộ dịch vụ việc làm, dịch vụ việc làm – doanh nghiệp, cơ sở dạy nghề.

Do đó, Việt Nam cũng như các quốc gia trong khu vực cần tăng cường hợp tác thúc đẩy hơn nữa các nội dung liên quan tới thông tin thị trường lao động, phát triển nghề, công nhận nghề và chứng chỉ quốc gia, thúc đẩy quan hệ lao động hài hòa….; đồng thời cần có các chiến lược và nỗ lực nhằm xây dựng lực lượng lao động năng động, sáng tạo và hiệu quả, hỗ trợ các doanh nghiệp và các ngành tạo ra việc làm tốt và môi trường làm việc hài hòa.

6

Page 7: Tham luận của bộ lđ tb & xh

III.Tác động của các yếu tố hội nhập

Theo Báo cáo chung giữa ILO/ADB với tiêu đề “ Cộng đồng ASEAN 2015: Quản lý hội nhập hướng tới việc làm tốt hơn và sự thịnh vượng chung” vừa được công bố vào tháng 5/2014, báo cáo đã đưa ra bức tranh tổng thể về các xu hướng thị trường lao động và kinh tế của ASEAN trong giai đoạn gần đây, đánh giá tác động của Cộng đồng Kinh tế ASEAN đối với các thị trường lao động thông qua các mô phỏng từ mô hình và phân tích chính sách, thực nghiệm, nhằm mục đích cung cấp khuyến nghị chính sách dựa trên cơ sở bằng chứng hướng tới tạo ra việc làm tốt hơn và tăng trưởng cân bằng, đảm bảo quyền lợi của mọi người. Báo cáo nhấn mạnh các ưu tiên chính nhằm giải quyết các thách thức và cơ hội của Cộng đồng Kinh tế ASEAN trong việc tăng cường các cơ chế hợp tác khu vực, thúc đẩy thay đổi cơ cấu và cải thiện chất lượng việc làm, tăng cường phát triển kỹ năng, tăng năng suất lao động và tiền lương, và quản lý hiệu quả di cư lao động.

Các tác động của hội nhập liên quan tới việc làm có thể kể tới đó là:

Tác động tới vấn đề việc làm

Dưới tác động của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), Việt Nam có thể sẽ chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ của thị trường việc làm và tăng trưởng. Tuy nhiên, việc hội nhập và kết nối trong khu vực sẽ tác động như thế nào đến cuộc sống của người Việt Nam, cũng như toàn thể công dân ASEAN? Sự kiện này sẽ giúp cải thiện mức sống của những người dân bình thường như thế nào? Những biện pháp ấy có giúp họ tìm được một công việc tốt, ổn định đi kèm thu nhập tốt và điều kiện làm việc tốt hay không? Liệu con cái của họ sau này có đạt được điều tương tự hay không? Báo cáo chỉ ra rằng, trên quy mô tổng thể, hội nhập kinh tế sẽ giúp tạo thêm 14 triệu việc làm ở khu vực ASEAN và cải thiện đời sống của 600 triệu người dân hiện sinh sống trong khu vực. Nhưng điều này chỉ có thể đạt được nếu có được sự quản lý hợp lý và quyết liệt để thực thi một cách hiệu quả.

Báo cáo cho thấy đến năm 2025, AEC có thể thúc đẩy tăng trưởng GDP của Việt Nam thêm 14,5%, đồng thời tạo ra hàng triệu việc làm mới. Sự kiện này sẽ đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đồng thời làm tăng hơn gấp đôi năng suất lao động trong thập niên tới. Thế nhưng, những lợi ích chung ấy sẽ không được chia đều cho tất cả. Trong khi một số ngành sẽ trở nên phát đạt thì một số ngành khác lại có thể phải cắt giảm việc làm. Dự báo ở Việt Nam, sự gia tăng cơ hội việc làm mạnh mẽ ở những ngành như sản xuất gạo, xây dựng, vận tải, dệt may và chế biến lương thực.

Trong giai đoạn 2010 - 2025, nhu cầu đối với việc làm cần tay nghề trung bình nói chung sẽ tăng nhanh nhất, ở mức 28% và sẽ có thêm nhiều cơ hội cải thiện cuộc sống của hàng triệu người. Tuy nhiên, những người tìm việc mà thiếu những kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết sẽ không thể nắm bắt được những cơ hội mới ấy. Hiện nay, gần một nửa số lao động Việt Nam đang làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, có năng suất lao động, thu nhập và điều kiện lao động còn ở mức thấp điển hình so với một vài nền kinh tế ASEAN khác.

7

Page 8: Tham luận của bộ lđ tb & xh

Việt Nam sẽ là một trong một số nước hưởng lợi nhiều hơn từ việc hội nhập kinh tế khu vực sâu rộng so với các nước khác do nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào ngoại thương. Với quyết tâm và nỗ lực, năng suất lao động của Việt Nam có thể tăng hơn gấp đôi vào năm 2025 so với mức năm 2010. Cùng với sự gia tăng của các dòng đầu tư và thương mại gia tăng, tốc độ thay đổi cơ cấu kinh tế hướng tới các ngành có giá trị cao hơn sẽ được đẩy nhanh. Điều này có thể giúp Việt Nam cạnh tranh trên thị trường toàn cầu dựa trên năng suất lao động và kỹ năng nghề nghiệp tốt hơn

Tác động của FDI và thuế suất đến lao động và tăng trưởng:

Một yếu tố nữa cũng thể hiện mức độ hội nhập, mở cửa kinh tế khu vực và thế giới là dòng vốn FDI vào Việt Nam và mức thuế suất nhập khẩu của các ngành.

Đầu tư FDI vào Việt Nam càng tăng thì lao động và giá trị gia tăng càng tăng. Khi lượng vốn đầu tư của khu vực ASEAN vào Việt Nam tăng thêm 1% thì lao động tăng thêm 0.24% và giá trị gia tăng tăng thêm 0.06%. Khi thuế suất nhập khẩu giảm, lượng hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam sẽ tăng và làm lao động trong các ngành giảm xuống.

Theo ngành, dường như những doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào ngành chế biến lương thực thực phẩm làm tăng số lao động nhiều hơn các ngành khác.Với cùng một mức tăng FDI vào Việt Nam thì lao động ngành chế biến thực phẩm tăng nhiều hơn so với ngành khai khoáng là 0.11%, trong khi 2 ngành còn lại có xu hướng lao động tăng chậm hơn ngành khai khoáng. Tuy nhiên, đầu tư từ các nước ASEAN vào ngành khai khoáng có tác động làm tăng lao động nhiều hơn so với các ngành khác

Thuế suất có xu hướng ngược lại hoàn toàn với các yếu tố hội nhập ở trên, khi thuế suất nhập khẩu hàng hóa ở khu vực ASEAN tăng lên cùng một mức thì lao động ngành khai khoáng lại có mức tăng chậm nhất và mức tăng nhanh nhất là ngành chế biến thực phẩm với mức tăng lao động nhiều hơn ngành khai khoáng là 0.33%. Rõ ràng là thuế suất không có nhiều tác động trực tiếp đến các lao động của các ngành kinh tế như kỳ vọng.

Tác động của hội nhập ASEAN tới lao động kỹ năng và phi kỹ năng:

Mục tiêu của AEC là hướng tới một khu vực ASEAN ổn định, thịnh vượng, cạnh tranh cao, sự di chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, di chuyển tự do các luồng vốn, các chuyên gia và lao động được di chuyển tự do hơn. Khi AEC hình thành sẽ tác động trực tiếp tới thị trường lao động của các nước nói riêng và của khu vực nói chung. Theo đó, việc lưu chuyển lao động trong khu vực là một yêu cầu tất yếu để tạo điều kiện thúc đẩy cho quá trình hợp tác và lưu thông thương mại giữa các nước. Do đó, vấn đề di chuyển lao động có tay nghề không chỉ là lĩnh vực thuộc phạm vi của Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN (ASCC) mà còn thuộc phạm vi của AEC. AEC cũng đã có những bước tiến đáng kể trong việc thúc đẩy dòng chảy tự do của lao động có tay nghề trong những năm qua. Trước thực tế việc tự do lưu chuyển lao động có tay nghề của các nước ASEAN được ký kết vào năm 2015, các quốc gia của ASEAN nên

8

Page 9: Tham luận của bộ lđ tb & xh

nắm vững và vận dụng các Thỏa thuận công nhận lẫn nhau (MRAs) để tạo thuận lợi cho việc di chuyển, xuất khẩu lao động trong thời điểm hiện tại. Hiện trong khu vực đã thông qua Thỏa thuận MRA cho 8 ngành bao gồm: du lịch, kiểm toán, kiến trúc, kĩ sư, nha sĩ, bác sĩ, y tá, điều tra viên được quyền tự do di chuyển tìm việc làm sẽ giúp thị trường lao động rộng mở hơn. Lúc này, lao động Việt Nam có cơ hội tìm kiếm việc làm tại các thị trường phát triển như Singapore, Thái Lan, Malaysia… nhưng đồng thời, đất nước chúng ta cũng sẽ tiếp nhận nhiều lao động chất lượng cao từ các nước bạn tới làm việc. Tuy nhiên, thực tế này sẽ có thể tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Thứ nhất, chúng ta phải cạnh tranh với lao động các nước Đông Nam Á ngay trên sân nhà. Thứ hai, thị trường mở cửa thì nhiều người mong muốn được sang nước ngoài làm việc với mức thu nhập cao, lúc đó chúng ta lại phải cạnh tranh với chính lao động trong nước, sinh viên phải cạnh tranh với chính sinh viên. Ai thiếu kinh nghiệm, thiếu kỹ năng, thiếu trình độ tay nghề tất yếu bị đào thải. Ngoài ra, nằm trong xu hướng chung đó, Việt Nam hiện đang gấp rút tiến trình xây dựng Khung trình độ quốc gia tham chiếu khung tham chiếu trình độ khu vực AQRF, tiến tới công nhận lẫn nhau về trình độ và kỹ năng giữa các nước trong Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015.

Thêm vào đó, khi AEC hình thành chắc chắn giúp thị trường lao động ASEAN sôi động hơn, nhưng hiện nay chủ yếu di chuyển vào thị trường Singapore, Malaysia và Thái Lan. Kết quả khảo sát các chủ sử dụng lao động tại 10 quốc gia ASEAN của ILO, công bố tháng 5/2014, cho thấy các doanh nghiệp đang rất lo ngại về tình trạng thiếu hụt lực lượng lao động có kỹ năng, tay nghề. Các kỹ năng cần nhất là quản lý và lãnh đạo, tiếp đến là kỹ năng chuyên môn, tay nghề và dịch vụ khách hàng. Nhưng gần 50% chủ lao động tham gia khảo sát cho biết người lao động tốt nghiệp phổ thông không có được kỹ năng họ cần. Trong khi đó, hơn 50% nói rằng cử nhân tốt nghiệp đại học có được những kỹ năng cần. Với thực trạng lao động của Việt Nam và các điều kiện, yêu cầu của thị trường di chuyển lao động có tay nghề và đào tạo trong khu vực ASEAN, Việt Nam cần tích cực hơn trong phát triển thị trường lao động trong nước, tập trung vào hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động khu vực cả về quy mô, chất lượng và cơ cấu ngành nghề.

Tác động của hội nhập tới năng suất lao động và tiền lương:

Năng suất và kỹ năng của lao động Việt Nam đang ở mức trung bình của khối ASEAN. Năng suất lao động Việt Nam chỉ cao hơn lao động tại Lào và Campuchia; tiệm cận các nước Indonexia và Philipin; thấp hơn Thái Lan, Singapore và Malaysia. Phát triển kỹ năng và cải thiện việc đào tạo nghề sẽ là một trong những nhân tố giúp nâng cao năng suất lao động, giúp lao động chuẩn bị sẵn sàng cho việc hội nhập AEC. Nhưng tăng năng suất lao động không chỉ là việc của riêng người lao động. Năng suất lao động chỉ có thể được cải thiện khi Chính phủ đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng. Đồng thời, các doanh nghiệp đầu tư hiện đại hóa trang thiết bị.

Chính phủ cần nắm bắt xem khu vực tư nhân có nhu cầu cần gì và tạo sự đổi mới cũng như xây dựng môi trường thông thoáng trong sự hợp tác. Nếu gây

9

Page 10: Tham luận của bộ lđ tb & xh

dựng được những nền tảng ấy, năng suất lao động có thể sẽ tăng gấp đôi vào năm 2025 so với mốc năm 2010.

Liên quan đến thị trường lao động, không thể không nhắc đến yếu tố tiền lương, giá cả sức lao động. Tiền lương trong các doanh nghiệp hiện nay chưa phải là kết quả của quá trình thương lượng, thỏa thuận giữa người lao động và chủ sử dụng lao động, chưa dựa trên năng suất, chất lượng, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Tốc độ tăng lương thấp cho thấy kết quả tăng trưởng kinh tế chưa được chia xứng đáng cho người lao động, trong khi một số nhà kinh tế cho rằng, tốc độ tăng tiền lương thực tế và GDP đạt mức hợp lý khoảng 70%. Tranh chấp lao động chủ yếu là về tiền lương (hơn 80% các cuộc đình công là đòi tăng lương hoặc trả đúng lương, nhất là lương làm ngoài giờ, tiền thưởng, ăn giữa ca...) xảy ra tại các doanh nghiệp FDI. Nhiều doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI ngoài thực hiện chính sách tiền lương thấp, chậm trả lương còn không thực hiện trách nhiệm bảo hiểm xã hội đối với người lao động.

IV. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ

Việc hình thành cộng đồng ASEAN 2015 đã mở ra những cơ hội lớn nhưng cũng đặt ra những thách thức không hề nhỏ đối với Việt Nam trong đó có vấn đề lao động việc làm. Để theo kịp tiến trình của hội nhập, Việt Nam cần tiếp tục tích cực thực hiện các giải pháp sau:

Tiếp tục phát triển thị trường lao động trong nước:

- Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, chính sách phát triển thị trường lao động cần phải được lồng ghép trong các chiến lược và chính sách phát triển kinh tế-xã hội;

- Các chính sách thị trường lao động chủ động cần được thiết kế nhằm hỗ trợ sự dịch chuyển của lao động: Cộng đồng ASEAN 2015 được thành lập sẽ hình thành thị trường chung trong khu vực trong đó có việc tự do dịch chuyển lao động có trình độ trong khu vực ASEAN, dịch chuyển cơ cấu lao động theo sự dịch chuyển cơ cấu ngành nghề kinh tế đòi hỏi sự phát triển của lực lượng lao động có kỹ năng nghề. Do đó, Việt Nam cần phải tập trung nguồn lực phát triển dạy nghề, đặc biệt là dạy nghề cho lao động nông thôn;

- Có chính sách hỗ trợ đào tạo đối với lao động bị thiếu hụt kỹ năng theo kịp với sự thay đổi của cầu lao động có kỹ năng trong quá trình hội nhập: Xác định khoảng cách kỹ năng nghề để có các chính sách điều chỉnh phù hợp; hoặc hỗ trợ đào tạo đối với lao động bi thất nghiệp dài hạn, hoặc công nhân bị mất việc hàng loạt do điều chỉnh cơ cấu kinh tế, hoặc lao động mới bước vào thị trường lao động. Bên cạnh đó, cần mở rộng độ bao phủ phúc lợi xã hội, trong đó có cơ chế bảo hiểm thất nghiệp trên toàn quốc. Biện pháp này sẽ góp phần giảm bớt những tác động của chuyển dịch cơ cấu và hỗ trợ người lao động chuyển sang làm việc ở các ngành với năng suất cao hơn;

- Tăng cường vai trò của Nhà nước trong quản lý điều chỉnh trong thị trường lao động: Đổi mới cơ chế tiền lương trong khu vực doanh nghiệp gắn với năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh; dẫn dắt quan hệ lao động, các cơ chế

10

Page 11: Tham luận của bộ lđ tb & xh

hòa giải trong tranh chấp lao động và đình công để bảo vệ thị trường lao động trong nước trước bối cảnh hội nhập;

- Tăng cường thông tin thị trường lao động: Tăng cường hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, đa dạng hóa các hoạt động giao dịch việc làm, kết nối cung-cầu lao động;

- Cần có các chính sách tạo việc làm hiệu quả đối với các ngành chịu tác động mạnh của quả trình hội nhập ASEAN như ngành dệt may, khai khoáng, chế biến thực phẩm; linh kiện điện tử;

- Khi xây dựng các chính sách phát triển thị trường lao động cần phải rà soát và tích hợp với các chính sách về Luật lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và xuất khẩu lao động, bảo trợ xã hội;

- Xây dựng hệ thống quản lý lao động nhập cư và di cư khi hội nhập ASEAN, cải thiện công tác bảo vệ nhóm lao động di cư và các hệ thống phục vụ việc công nhận kỹ năng của họ, đặc biệt là ở những ngành nghề mà trong đó các lao động với kỹ năng thấp và trung bình chiếm tỷ lệ cao;

- Việt Nam cần phải hoàn tất việc xây dựng khung trình độ quốc gia hướng tới cộng đồng ASEAN;

- Phát triển các kỹ năng nghề gắn với nhu cầu hội nhập khu vực, ưu tiên phát triển các kỹ năng mới trong lao động đáp ứng đòi hỏi của phát triển bao gồm kỹ năng lao đông trong các việc làm xanh, việc làm bền vững, việc làm trong các ngành mới, ngành công nghệ cao để bắt nhịp được sự phát triển trong khu vực;

Các giải pháp đào tạo nghề cần phải gắn với các kỹ năng mềm như ngoại ngữ, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng quản lý hiệu quả công việc, các tác phong lao động công nghiệp, kỷ luật lao động giúp người lao động có thể làm việc ở môi trường đa quốc gia. Bên cạnh đó, trong quá trình đào tạo nghề cần phải lồng ghép giáo dục phổ biến các kiến thức pháp luật của các quốc gia trong khu vực, các cam kết pháp lý trong cộng đồng ASEAN;

- Phát triển cầu lao động thông qua việc phát triển các doanh nghiệp, loại hình kinh doanh có tiềm năng phát triển trong khu vực. Bên cạnh đó chính phủ cũng cần phải có các biện pháp nhằm duy trì ổn định và phát triển hoạt động sản xuất trong nước trước sức ép của việc hội nhập kinh tế, tăng cường xuất khẩu các mặt hàng có ưu thế, kiểm soát chất lượng sản phẩm, giữ uy tín trong thị trường khu vực, áp dụng các tiêu chuẩn sản xuất trong khu vực;

Hoàn thiện hành lang pháp lý nhằm thu hút và quản lý dòng chảy đầu tư từ khu vực ASEAN vào Việt Nam.

Thúc đẩy hội nhập giáo dục đại học của Việt Nam với hệ thống giáo dục đại học khu vực: Để lao động của Việt Nam phát triển đáp ứng được yêu cầu của hội nhập khu vực, Việt Nam cũng cần phát triển được lực lượng lao động có tay nghề và trình độ chuyên môn cao, giỏi về ngoại ngữ, thông thạo về môi trường khu vực. Để làm được điều này, Việt Nam cần tích cực trong giao lưu giáo dục, đàm phán xây dựng tiêu chuẩn giáo dục đại học chung trong khu vực ASEAN,

11

Page 12: Tham luận của bộ lđ tb & xh

là cơ sở cho việc áp dụng đào tạo Đại học ở các quốc gia trong khu vực. Tất nhiên, những lao động được đào tạo trong hệ thống giáo dục đại học chung của khu vực ASEAN sẽ đáp ứng được tất cả các yêu cầu của thị trường lao động tại các quốc gia trong khu vực;

Tăng cường công tác dự báo về cầu lao động trong quá trình hội nhập và sau hội nhập:

Việt Nam cần phải làm tốt hơn nữa công tác dự báo nhu cầu lao động và kỹ năng trong tương lai; dự báo đánh giá tác động của hội nhập tới nền kinh tế nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực tới quá trình phát triển. Các kết quả dự báo sẽ giúp Chính phủ hoàn thiện thể chế chính sách về lao động, việc làm, an sinh nhằm phát triển nguồn nhân lực tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu rộng hơn nữa, đạt mục tiêu phát triển kinh tế cao và giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội;

Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền các nội dung hội nhập trong khu vực ASEAN:

Sau khi hình thành cộng đồng ASEAN 2015, Việt Nam sẽ phải thực hiện rất nhiều các cam kết về kinh tế, an ninh chính trị, xã hội trong khu vực. Do đó, cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các cam kết này trong khuôn khổ của các Hiệp định đã ký kết cũng như chủ trương của Nhà nước về vấn đề lao động, an sinh xã hội trong thời kỳ hội nhập. Việc làm này có tác động nâng cao nhận thức của người dân về quyền và trách nhiệm của mình khi Việt Nam gia nhập ASEAN, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước và kiều bào nước ngoài đóng góp nguồn lực cho an sinh xã hội nói riêng và phát triển kinh tế đất nước nói chung;

Tiếp tục xây dựng hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội: Hội nhập ASEAN 2015 mang đến nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với Việt Nam: Mở cửa đồng nghĩa với việc không những gia tăng cạnh tranh trong sản xuất mà còn gia tăng cạnh tranh về việc làm. Đối tượng chịu ảnh hưởng nhiều nhất của sự cạnh tranh này là lao động yếu thế như lao động nữ, lao động có trình độ chuyên môn thấp, lao động đang làm việc trong khu vực phi chính thức,… Vì vậy, chính phủ cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội có khả năng làm giảm cú sốc kinh tế cho người lao động đặc biệt là nhóm lao động yếu thế:

- Tiếp tục hoàn thành việc xây dựng chính sách “sàn an sinh” nhằm đảm bảo an sinh cho toàn bộ cộng đồng, giảm các chi phí điều chỉnh chính sách khi thay đổi kinh tế; và nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn bộ nền kinh tế;

- Tăng cương khả năng tiếp cần của nhóm người nghèo, lao đông yếu thế đối với các chính sách an sinh xã hội;

- Nghiên cứu mở rộng đối tượng hưởng chính sách bảo trợ xã hội như: lao động có thu nhập thấp, lao động nhập cư, người già, người tàn tật, những người đã cố gắng tạo thu nhập nhưng mức thu nhập không đủ khả năng đảm bảo cho cuộc sống gia đình ở mức tối thiểu;

12

Page 13: Tham luận của bộ lđ tb & xh

- Thúc đẩy giảm nghèo, tăng cường kinh phí cho công tác giảm nghèo và rà soát hộ nghèo tại các huyện nghèo, dân tộc thiểu số; khuyến khích người dân có ý chí vương lên thoát nghèo.

Tài liệu tham khảo:

- Chương trình làm việc của các Bộ trưởng Lao động ASEAN giai đoạn 2010-2015;

- Báo cáo chung giữa ILO/ADB với tiêu đề “ Cộng đồng ASEAN 2015: Quản lý hội nhập hướng tới việc làm tốt hơn và sự thịnh vượng chung”;

- Báo cáo nghiên cứu về tình hình hội nhập lao động của Việt Nam (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, năm 2013);

- Tài liệu về Phát triển thị trường lao động Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN – Báo điện tử, Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 29/8/2014);

- Một số tài liệu tham khảo khác.

13